Thứ Sáu, 7 tháng 7, 2017

Richard Dawkins - Huyễn Tưởng Gót 07


                        Huyễn Tưởng Gót
                                          Richard Dawkins
                                          

                                      (The God Delusion)




Chương 3

Những luận chứng cho hiện hữu của Gót

(tiếp theo)

Luận chứng từ kinh Thánh

Vẫn còn có một số người là những người bị bằng chứng đưa ra từ kinh Thánh làm họ tin vào Gót. Một luận chứng phổ thông, được những người khác gán cho C. S. Lewis (người đáng lẽ phải biết hơn thế), phát biểu rằng, vì Jesus tuyên bố mình là Con Gót, ông phải đã là: hoặc đúng, hoặc không thì là kẻ điên, hay một kẻ nói dối: “Điên, Điêu-ngoa, hoặc Cứu thế”. Hay, mộc mạc với điệp âm đầu (trong tiếng Anh - Lunatic, Liar or Lord), “Điên dại, Láo Khoét hay Chúa” [1]. Chứng cớ lịch sử để nói rằng Jesus đã tuyên xưng mình có bất kỳ một loại nào của trạng thái thần linh thì rất ít ỏi, đến tối thiểu. Nhưng ngay cả nếu bằng chứng đã là tốt, ba-chọn-một đem cho như trên sẽ là thiếu sót lố bịch. Một khả năng thứ tư, gần như quá hiển nhiên để cần nhắc đến, đó là Jesus đã bị nhận lầm một cách chân thực. Khối người bị nhận lầm. Trong trường hợp nào đi nữa, như tôi đã nói, không có bằng chứng lịch sử tốt đẹp nào rằng ông từng bao giờ đã nghĩ chính mình là thần linh.

Sự kiện rằng dăm ba điều gì đó nếu được viết xuống thì là thuyết phục để người ta thôi quen đặt những câu hỏi như: “Ai đã viết nó, và khi nào?” “Làm thế nào họ đã biết những gì để viết?” “Có phải họ, trong thời của họ, thực sự nói chúng với nghĩa như những gì chúng ta, trong thời của chúng ta, hiểu chúng là nói thế có nghĩa thế?” “Họ có phải đã là những người quan sát ghi chép không thiên kiến, hay họ đã xắp xếp bàn luận việc này hay điều kia tất cả với chủ đích theo lớp lang, khiến những văn bản của họ bị nhuốm màu?”. Kể từ thế kỷ XIX, những học giả trong giới chuyên học gót đã thực hiện một trường hợp bào chữa đông đảo lấn át, là những tập sách trong Tân Ước kể chuyện đời Jesus thì trong không là những ghi chép thuật kể đáng tin cậy về những gì đã xảy ra trong lịch sử của thế giới thực tại. Tất cả đã được viết lâu sau cái chết của Jesus, và cũng sau những thư từ của Paul, trong đó hầu như không đề cập gì đến những sự kiện vẫn gán buộc vào đời Jesus. Tất cả sau đó đã được chép đi và sao lại, qua nhiều thế hệ của “những người thì thầm tiếng Tàu” [2] khác nhau (xem Chương 5) bởi những người chuyên nghề ghi chép thư tịch có thể sai lầm, là những người, trong mọi trường hợp, đã có những kế hoạch ngấm ngầm cho chính tôn giáo họ.

Một thí dụ tốt về màu sắc của chương trình bàn luận tôn giáo là toàn bộ truyền thuyết gây cảm động của chuyện Jesus ra đời ở Bethlehem, sau chuyện vua Herod thảm sát những trẻ vô tội. Khi những sách phúc âm đã được ghi chép, nhiều năm sau cái chết của Jesus, không ai biết nơi ông đã được sinh ra. Nhưng một lời tiên tri trong Cựu Ước (Micah 5:2) đã dẫn người Dothái đến hy vọng rằng Đấng Cứu Thế chờ đợi đã lâu, sẽ được sinh ra tại Bethlehem. Dưới ánh sáng của lời tiên tri này, phúc âm của John đặc biệt có nhận xét cụ thể rằng những người theo Jesus đã rất ngạc nhiên rằng ông đã không sinh ra tại Bethlehem: “Những người khác nói, Đây là Christ. Nhưng một vài người nói, có phải Christ sẽ sinh ra từ xứ Galilee? Không phải là sách thánh đã nói, rằng Christ sinh ra từ hạt giống của David, và trong thị trấn Bethlehem, nơi David đã ở?” [3]

Matthew và Luke giải quyết vấn đề này lối khác, bằng cách quyết định rằng sau cùng Jesus phải đã được sinh ra tại Bethlehem. Nhưng họ đã mang ông tới đó bằng những con đường khác nhau. Matthew đã cho cả Mary và Joseph cứ ở trong thành Bethlehem dài theo chuyện kể, chỉ di chuyển đến Nazareth lâu sau khi đã sinh Jesus, trên đường của họ trốn từ Egypt về, là nơi họ chạy thoát khỏi vua Hê-rốt và vụ tàn sát những trẻ vô tội. Luke, ngược lại, ghi nhận rằng Mary và Joseph đã vẫn sống ở Nazareth từ trước khi Jesus được sinh ra. Vậy làm thế nào để có thể đem gia đình này tới Bethlehem vào thời điểm quan trọng, để nó diễn ra đúng theo những lời đã tiên tri? Luke nói rằng, trong thời khi Cyrenius (Quirinius) đã là thống đốc Syria, Hoàng đế LaMã Augustus đã ban nghị định quy định một cuộc điều tra dân số cho những mục đích của việc đánh thuế, và tất cả mọi người đã phải đi về “thành riêng của mình”. Joseph là “thuộc gia tộc và dòng dõi của David”, và do đó ông đã phải đi về “thành phố của David, vốn được gọi là Bethlehem”. Điều đó xem có vẻ giống như một giải pháp tốt. Ngoại trừ về mặt lịch sử thì đó là hoàn toàn vô lý, như A. N. Wilson trong Jesus, và Robin Lane Fox trongThe Unauthorized Version (trong số những phiên bản khác) đã chỉ ra[4]. David, nếu ông này thực sự hiện hữu, sống gần một nghìn năm trước khi có Mary và Joseph. Làm gì có lý do trời ơi đất hỡi nào khiến những người Lamã lại yêu cầu Joseph trở về thành phố nơi tổ tiên ông đã sống từ một nghìn năm trước đó? Nó giống như là yêu cầu tôi để trở về, nói cho cụ thể, Ashby-de-la-Zouch vì là bản quán của tôi trên một bảng điều tra dân số, nếu như đã xảy ra rằng tôi có thể truy dõi dấu tích tổ tiên của tôi, quay trở lại tận thời của Seigneur de Dakeyne, người đã vượt eo biển sang (nước Anh) với William the Conqueror và đã định cư ở đó.

Hơn nữa, Luke làm hỏng năm tháng của ông vì đã thiếu cẩn thận, hớ hênh đề cập đến những sự kiện mà những sử gia có khả năng kiểm tra một cách độc lập. Thực sự đã có một điều tra dân số dưới thời Thống đốc Quirinius – một điều tra dân số địa phương, không phải một sắc lệnh của hoàng đế Augustus cho toàn đế quốc như một tổng thể – nhưng nó đã xảy ra quá trễ: trong năm 6 CN, rất lâu sau cái chết của vua Herod. Lane Fox kết luận rằng “Câu chuyện của Luke là không thể nào có được trong lịch sử, và nội bộ câu chuyện cũng không mạch lạc”, nhưng ông đồng cảm với tình cảnh khó khăn của Luke và khao khát của Luke muốn ghi chép sao cho đúng với những lời tiên tri của Micah.

Trong tờ Free Inquiry, số báo tháng 12/2004, Tom Flynn, chủ bút của tạp chí xuất sắc đó, đã kết tập một bộ sưu tầm gồm những bài báo tài liệu về những mâu thuẫn và những lỗ hổng trong câu chuyện Giáng sinh vẫn được yêu thích. Flynn tự liệt kê nhiều mâu thuẫn giữa Matthew và Luke, chỉ có hai nhà truyền giáo này trong số tất cả, là những người có nói về chuyện ra đời của Jesus. [5] Robert Gillooly cho thấy như thế nào – tất cả những đặc điểm yếu tính nổi bật của truyền thuyết Jesus, bao gồm ngôi sao ở phía đông, trinh nữ sinh đẻ, sự sùng kính của những vị vua với một hài nhi, những phép lạ, vụ hành quyết, sự sống lại và sự bay lên trời, đều đã được vay mượn – tất cả mỗi chuyện, đầu đến cuối của chúng – là từ những tôn giáo khác đã có mặt trong vùng Cận Đông, và Địa Trung Hải. Flynn cho rằng mong muốn của Matthew để viết cho đúng với lời tiên tri của về một vị cứu thế (dòng dõi từ David, sinh tại Bethlehem) vì lợi ích của những độc giả Dothái, đã đi ngược lại đến đâm thẳng va vào đầu mong muốn kia của Luke là thích ứng đạo Kitô cho những dân ngoài Dothái, và vì thế đã nhấn những nút sôi động nóng bỏng quen thuộc ngoài Kitô-Juda, của những tín ngưỡng cổ Hylạp (sinh nở đồng trinh, sùng mộ của những nhà vua, vv.) Những mâu thuẫn hệ quả là sáng lòa rõ ràng, nhưng trước sau đều bị những người Kitô làm ngơ, bỏ qua.

Người Kitô hiểu biết tinh tế không cần George Gershwin để thuyết phục họ rằng “Những điều mà bạn có trách nhiệm / Để đọc trong kinh Thánh / Nó không nhất thiết phải như vậy”. Nhưng có nhiều người Kitô thiếu hiểu biết kém tinh tế ngoài kia là những người nghĩ rằng nó hoàn toàn nhất thiết phải như vậy – là người quả thực đón nhận kinh Thánh rất nghiêm trọng, thực sự nhìn nó là một ghi chép phân minh rõ ràng và chính xác của lịch sử, và do đó như bằng chứng chống đỡ những tin tưởng tôn giáo của họ. Có phải những người này không bao giờ mở ra đọc chính quyển sách mà họ tin là sự thật ghi trên chữ viết? Tại sao họ không nhận thấy những mâu thuẫn sáng đến lòa mắt? Nếu một người chỉ bằng vào lời ghi chữ chép sẽ không lo lắng hay sao về sự kiện là Matthew truy tầm gốc tích của Joseph ngươc đến vua David qua 28 thế hệ ở giữa, trong khi Luke có đến những 41 thế hệ? Tệ hơn nữa, hầu như không có sự chồng khớp trong những tên trên hai danh sách! Trong trường hợp nào đi nữa, nếu Jesus thực sự sinh ra từ một trinh nữ, tổ tiên của Joseph thành chuyện không còn liên quan gì nữa, và không thể đem dùng để bảo là làm theo, thay mặt Jesus, những lời tiên tri trong Cựu Ước rằng Mesiah phải là hậu duệ của David. [6]

Học giả chuyên nghiên cứu kinh thánh người Mỹ Bart Ehrman, trong một quyển sách có phụ đề là Câu chuyện đằng sau người đã thay đổi Tân Ước và Tại sao, mở rộng sự không chắc chắn khổng lồ như sương mù phủ trên văn bản Tân Ước[7]. Trong phần giới thiệu quyển sách, Giáo sư Ehrman cảm động vẽ đồ biểu của hành trình giáo dục cá nhân của ông, đi từ nhiệt thành tin-kinh thánh lối chính thống đến hoài nghi suy tưởng, một hành trình từ buổi bình minh của ông khi nhận ra những sai lầm lớn lao của những thánh thư. Đáng kể, như ông đã lên cao dần trong hệ thống phân cấp của những trường đại học Mỹ, từ “Viện kinh Thánh Moody” tít dưới đáy, qua Wheaton College (cao hơn một chút về quy mô, nhưng vẫn còn trường của Billy Graham) đến Princeton đứng hàng đầu thế giới, ông đã trong mỗi bước bị báo trước rằng ông sẽ gặp khó khăn nếu muốn duy trì đạo Kitô lối chính thống của mình khi đối mặt với lý thuyết tiến bộ nguy hiểm. Điều đó đã được chứng minh như thế, và chúng ta, độc giả của ông, là những người được hưởng lợi. Khác tập sách phá đổ thần tượng mới mẻ khác của phê bình kinh thánh là The Unauthorised Version: Truth and Fiction in the Bible của Robin Lane Fox, đã nhắc tới, và The Secular Bible: Why Nonbelievers Must Take Religion Seriously của Jacques Berlinerblau. [8]

Cả bốn tập sách phúc âm đã làm vào thành kinh điển chính thức là đã được chọn lựa tùy tiện nhiều hay ít, trên một mẫu danh sách lớn hơn gồm ít nhất một tá, gồm những sách phúc âm của Thomas, Peter, Nicodemus, Philip, Bartholomew và Mary Magdalen [9]. Đó là những sách phúc âm bổ sung đã được Thomas Jefferson đề cập đến trong thư gửi cho cháu trai của ông:

Tôi quên không ghi nhận, khi nói đến Tân Ước, rằng anh nên đọc tất cả những lịch sử của Christ, và cũng như của những tập sách mà một hội đồng những nhà chăn chiên đã quyết định cho chúng ta, là những sách của những nhà truyền giáo giả mạo, cũng như những tập mà họ gọi là những sách cảu những nhà truyền giáo. Vì những sách giả-truyền giáo này bên ngoài cũng ra vẻ là đã từ linh cảm tôn giáo, cũng nhiều như những tập sách khác, và anh là người sẽ phán đoán những tuyên xưng của chúng với lý luận của riêng anh, chứ không bởi những lý luận của những hội đồng những nhà chăn chiên này.

Những sách phúc âm đã không thành, đã bị bỏ qua bởi những những nhà chăn chiên đó, có lẽ vì chúng gồm những câu chuyện mà thậm chí còn gây đáng ngờ lúng túng xấu hổ hơn so với những câu chuyện trong bốn phúc âm kinh điển. Sách phúc âm của Thomas, thí dụ, có rất nhiều giai thoại về đứa bé Jesus đã lạm dụng sức mạnh kỳ diệu của mình theo cách của một cô tiên tí hon tinh nghịch, ranh mãnh quỉ quái biến những bạn cùng chơi của mình vào thành con dê, hoặc biến bùn thành những con chim sẻ, hoặc giúp cha mình một tay trong nghề thợ mộc bằng cách kỳ diệu kéo dài một miếng gỗ. [10] Điều được nói là không ai sẽ tin những chuyện phép lạ thô lỗ như kể trong phúc âm của Thomas dẫu thế nào đi nữa. Nhưng cũng không có hơn và cũng không có kém lý do để tin bốn sách phúc âm kinh điển. Tất cả đều có tư cách của những truyền thuyết, vì thực tế đáng ngờ không rõ ràng như những chuyện kể về vua Arthur và những những Hiệp sĩ trong hội Bàn tròn. [11]

Hầu hết những gì trong bốn tập sách phúc âm kinh điển chia xẻ đều xuất phát từ một nguồn phổ biến chung, hoặc là phúc âm của Mark, hoặc tác phẩm đã bị mất nhưng từ đó Mark là hậu duệ sớm nhất còn hiện hữu. Không người nào biết bốn nhà viết phúc âm đã là ai, nhưng cá nhân những tác giả này hầu như chắc chắn không bao giờ đã tận mặt gặp gỡ Jesus. Phần lớn những gì họ viết đã không trong ý hướng của một cố gắng trung thực với lịch sử, nhưng đã chỉ là chuyển rượu cũ sang bình mới, hâm nóng hay xào nấu lại Cựu Ước, vì những những nhà sản xuất sách phúc âm đã sẵn sùng mộ, sốt sắng tin rằng cuộc đời Jesus phải là một thực hiện những lời tiên tri trong Cựu Ước. Thậm chí có thể đắp dựng một một nghiên cứu lịch sử, nghiêm chỉnh và quan trọng, mặc dù không được ủng hộ rộng rãi, là Jesus tất cả tuyệt đã không bao giờ từng sống thực, như đã được giáo sư G. A. Wells của Đại học London thực hiện, kể trong số những người khác, trong một vài tập sách, gồm Có phải Jesus đã hiện hữu? [12]

Mặc dù Jesus có lẽ đã hiện hữu, những học giả nghiên cứu kinh thánh có uy tín nói chung không nhìn Tân Ước (và rõ ràng không phải là Cựu Ước) như là một ghi chép đáng tin cậy về những gì thực sự xảy ra trong lịch sử, và tôi sẽ không xem kinh Thánh như bằng chứng thêm nữa cho bất kỳ loại gót nào cả. Trong những lời nhìn xa trông rộng của Thomas Jefferson, viết với người tiền nhiệm của ông, John Adams, “Rồi sẽ đến ngày s khi những bí ẩn dòng dõi của Jesus, có Đấng Tối Cao như là cha của ông, trong tử cung của một trinh nữ, sẽ được xếp loại cùng với những truyền thuyết nói rằng dòng dõi của Minerva là trong bộ óc của Jupiter.”

Tiểu thuyết The Da Vinci Code của Dan Brown, và bộ phim dựng từ nó, là kích động gây tranh cãi lớn trong giới nhà thờ. Người Kitô được khuyến khích tẩy chay phim này và dàn hàng làm rảo cản trước những rạp cinema chiếu nó. Nó quả thực được dựng lập nên từ đầu đến cuối: đặt để, làm thành tiểu thuyết. Theo chiều hướng đó, nó thì đích xác giống hệt như những sách phúc âm. Sự khác biệt duy nhất giữa The Da Vinci Code và những sách phúc âm là những sách phúc âm là những tiểu thuyết cổ xưa, trong khi The Da Vinci Codelà tiểu thuyết hiện đại.

Luận chứng từ những nhà khoa học sùng đạo Kitô được ngưỡng mộ

Số đông bao la của những người trí thức nổi tiếng không tin vào đạo Kitô, nhưng họ giấu đi sự kiện đó trước công chúng, vì họ sợ mất đi những thu nhập của họ.

Bertrand Russell

“Newton đã là một người sùng đạo. Bạn là ai mà tự đặt mình vượt cao hơn cả Newton, Galileo, Kepler, vv. vv và vv? Nếu Gót đã là đủ hay đủ tốt với những người giống như họ, vậy hãy chỉ thử hỏi bạn nghĩ mình là ai đây?” Chẳng những không làm được nhiều khác biệt vào một luận chứng thuộc loại đã sẵn tệ hại như vậy, một vài người trong phe bào chữa chống trả cho đạo Kitô thậm chí cộng tên của Darwin, vào những người, theo tin đồn dai dẳng cố chấp, nhưng đã được chứng minh sai lầm, về một sự “cải hối” trên giường hấp hối, cứ thỉnh thoảng lại nghe nhắc đến như ngửi phải một mùi khẳm thối[13], mãi từ khi chúng bắt đầu vì một “Phu nhân Hope” [14] cố tình nào đó, là người người đã dở dói xoắn thành một sợi tơ cảm động rằng Darwin nằm dựa trên gối dưới ánh đèn đêm, lần giở trang Tân Ước, và thú tội rằng thuyết tiến hóa là sai lầm tất cả. Trong phần này, tôi sẽ tập trung hầu hết vào những nhà khoa học, – từ những lý do mà có lẽ không quá khó để tưởng tượng, – vì những người nhanh chóng lôi ra những tên của những cá nhân được xã hội ngưỡng mộ như những gương mẫu cho sùng mộ tôn giáo, rất thường chọn những nhà khoa học.

Newton quả thực đã tuyên bố là một người sùng đạo. Cũng đã như thế với hầu hết mọi người, cho đến – tôi nghĩ là có ý nghĩa quan trọng đáng kể – thế kỷ XIX, khi áp lực xã hội và hình pháp đã ít hơn, so với trong những thế kỷ trước, để tự nhận theo tôn giáo nào, và có nhiều hỗ trợ khoa học hơn để từ bỏ nó. Đã từng có những trường hợp ngoại lệ, dĩ nhiên, cả hai chiều. Ngay cả trước Darwin, không phải tất cả ai ai cũng là một người có lòng tin tôn giáo, như James Haught cho thấy trong 2000 Years of Disbelief: Famous People with the Courage to Doubt [15]. Và một vài nhà khoa học lỗi lạc đã vẫn tiếp tục giữ tin tưởng tôn giáo sau Darwin. Chúng ta không có lý do để nghi ngờ sự chân thực của Michael Faraday như là một người Kitô, ngay cả trong thời gian sau khi ông đã phải biết đến công trình của Darwin. Ông là người thuộc giáo phái Sandemanian, là những người đã tin (quá khứ, vì họ bây giờ hầu như đã không còn) vào một giải thích theo nghĩa đen của kinh Thánh, tuân theo nghi lễ rửa chân cho những thành viên mới được giới thiệu, và rút thăm để xác định ý định của Gót. Faraday đã trở thành một “Ông Cả” năm 1860, một năm sau The Origin of Speciesđược phát hành, và ông đã chết như một tín đồ Sandemanian năm 1867 [16]. Nhà khoa học thực nghiệm có lý thuyết tương ứng với Faraday, James Clerk Maxwell, cũng là một người Kitô mộ đạo. Cũng giống thế, là một trụ cột khác của vật lý nước Anh thế kỷ XIX, William Thomson, Lord Kelvin, người đã cố gắng để chứng minh rằng sự tiến hóa sinh vật đã bị loại trừ vì thiếu thời gian. Đó là sự định niên đại đã sai lầm của nhà động lực nhiệt học lớn, khi thừa nhận mặt trời là thuộc một vài loại dầu đốt, nhiên liệu sẽ phải cháy cạn trong hàng chục triệu năm, chứ không phải hàng nghìn triệu năm. Rõ ràng là không thể mong đợi Kelvin biết về năng lượng của nhân atom được. Thật hài lòng, tại cuộc họp năm 1903 của Hiệp hội Khoa học Anh, đã rơi vào “hiệp sĩ” George Darwin, con trai thứ của Charles Darwin, để binh vực chính đáng cho người cha không có tước hiệp sĩ của mình bằng cách gọi đến khám phá radium của hai ông bà Curies, và thách thức làm bẽ mặt những ước tính trước đó của huân tước Kelvin vẫn còn sống.

Những nhà khoa học lớn là người tự xưng có tín ngưỡng tôn giáo trở nên khó tìm hơn suốt thế kỷ hai mươi, nhưng họ không phải là đặc biệt hiếm hoi.Tôi ngờ rằng hầu hết những người gần đây hơn có tín ngưỡng tôn giáo chỉ trong ý nghĩa theo lối Einstein, vốn tôi đã biện luận trong Chương 1, là một sự dùng sai của từ này. Tuy nhiên, có một vài mẫu thí dụ đích thực của những nhà khoa học giỏi là những người có lòng tin tôn giáo chân thành theo ý nghĩa trọn vẹn truyền thống. Trong số những nhà khoa học hiện nay ở Anh, vẫn cũng ba tên tuổi thường đột ngột nổi lên đó đây với sự quen thuộc dễ mến của những thành viên cao cấp, làm chủ-chung một công ty gồm những luật sư thấy trong tiểu thuyết Dickens: Peacocke, Stannard và Polkinghorne. Cả ba người, đều hoặc đoạt giải Templeton, hoặc trong ban ủy viên quản trị của tổ chức Templeton[17]. Sau những cuộc thảo luận thân thiện với tất cả ba người, trước công chúng lẫn riêng tư cá nhân, tôi vẫn còn bối rối, tin tưởng của họ vào một nhà làm luật vũ trụ thuộc dăm loại nào đó thì cũng không nhiều khó hiểu cho lắm, nhưng tin tưởng của họ vào những chi tiết của đạo Kitô: sự sống lại, sự tha thứ tội lỗi và tất cả mớ bòng bong đó, thì thực khó hiểu hơn nhiều.

Có một vài thí dụ tương ứng ở nước Mỹ, lấy Francis Collins làm thí dụ, đứng đầu quản lý hành chính chi nhánh ở Mỹ của Dự án chính thức bộ-Gene Con-người[18]. Nhưng, như ở Anh, họ nổi bật vì sự hiếm có của họ và là một đề tài của sự khó hiểu đến buồn cười với đồng nghiệp của họ trong cộng đồng học giới. Năm 1996, trong khuôn viên Clare tại trường đại học cũ của ông ở Cambridge, tôi phỏng vấn bạn tôi Jim Watson, người sáng lập thiên tài của Dự án bộ gene con người, cho một phim tài liệu truyền hình đài BBC mà tôi đương làm về Gregor Mendel, nhà sáng lập thiên tài của chính khoa di truyền học. Mendel, dĩ nhiên, là một người có tôn giáo, một thày dòng Augustine, nhưng đó đã là thế kỷ 19, khi trở thành một thày dòng là cách dễ nhất cho Mendel trẻ tuổi theo đuổi khoa học của mình. Đối với ông, đó đã là tương đương với một khoản tiền trợ cấp nghiên cứu (ngày nay). Tôi hỏi Watson không biết ông có biết nhiều nhà khoa học sùng mộ tôn giáo ngày nay hay không. Ông trả lời: “Hầu như không có ai cả. Thỉnh thoảng tôi gặp họ, và tôi bị một chút lúng túng ngượng ngùng [cười] vì, ông biết đấy, tôi không thể tin lại có bất cứ một ai đi chấp nhận sự thật qua sự vén-lên-cho-thấy” [19].

Francis Crick, người đồng sáng lập của Watson trong toàn bộ cuộc cách mạng di truyền phân tử, đã từ chức tước vị nghiên cứu danh dự[20] của ông tại Churchill College, Cambridge, vì quyết định xây một nhà nguyện trong khuôn viên nhà trường (theo lệnh đòi của một người cho nhà trường tiền). Trong phỏng vấn của tôi với Watson tại Clare, Tôi giãi bày lương tâm với ông để xin ý kiến rằng, không giống như ông và Crick, một vài người thấy không có xung đột giữa khoa học và tôn giáo, vì họ tuyên bố khoa học là về sự vật làm việc ra sao và tôn giáo là về tất cả là để làm gì. Watson đã vặn lại: “Vâng, tôi không nghĩ rằng chúng ta là để cho bất cứ gì. Chúng ta chỉ là những sản phẩm của sự tiến hóa. Bạn có thể nói, ‘Lạ chửa, đời sống của bạn phải là khá thảm đạm nếu bạn không nghĩ rằng có một mục đích’. Nhưng tôi đoán trước sắp có một bữa ăn trưa ngon.” Quả thực thế, chúng tôi đã có một bữa ăn trưa ngon.

Những cố gắng của những người chống trả biện bác cho đạo Kitô để tìm những nhà khoa học hiện đại thực sự lỗi lạc là người sùng mộ tôn giáo, có một không khí của tuyệt vọng, tạo ra âm thanh không thể nhầm lẫn được khi vét cạo đến những đáy thùng cạn rỗng. Trang web duy nhất tôi có thể tìm thấy, khai một danh sách “Những người Kitô trúng giải Nobel khoa học”, đã đưa ra được sáu, trong tổng số vài trăm những nhà khoa học đoạt giải Nobel. Trong số sáu này, lại đâm ra có bốn hoàn toàn không là những người trúng giải Nobel gì hết tất cả; và ít nhất có một người, với hiểu biết chắc chắn của tôi, là một người không tin tưởng, người này chỉ đi nhà thờ hoàn toàn vì những lý do xã giao. Một nghiên cứu có hệ thống hơn của Benjamin Beit-Hallahmi “thấy rằng trong số những người đoạt giải Nobel khoa học, cũng như trong văn học, đã có một mức độ đáng kể về phi-tín-ngưỡng, không-mộ-đạo, so với những cộng đồng dân số họ đã đến từ đó”. [21]

Một nghiên cứu của Larson và Witham, trên tạp chí hàng đầuNature trong năm 1998, đã cho thấy những nhà khoa học Mỹ được đồng nghiệp của họ xem là đủ xuất chúng để bầu họ vào Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học [22] (tương đương với tư cách Hội viên của Hội Hoàng gia nước Anh) chỉ có khoảng 7 phần trăm tin vào một Gót có tính người [23]. Đa số ưu thắng áp đảo này của những người không-tin-có-gót là gần như đối ngược chính xác với hình ảnh về diện mạo bên ngoài của dân chúng Mỹ nói chung, trong đó có hơn 90 phần trăm là những người tin tưởng vào một vài loại hữu thể siêu nhiên. Con số đếm những nhà khoa học kém nổi tiếng hơn, không được chọn vào viện Hàn lâm Quốc gia, là vào khoảng ở giữa. Cũng như với thống kê của mẫu dân số lỗi lạc hơn, số những tín đồ tôn giáo là thiểu số, nhưng là một thiểu số ít sâu đậm hơn, chỉ có vào khoảng 40 phần trăm. Đó là hoàn toàn như tôi đã mong đợi, rằng những nhà khoa học người Mỹ thì nói chung ít tín mộ tôn giáo hơn công chúng Mỹ, và rằng những nhà khoa học lỗi lạc nhất là ít tôn giáo nhất so với tất cả. Những gì đáng chú ý là sự đối cực giữa sùng mộ tôn giáo của rộng rãi dân chúng Mỹ và lập trường không-tin-có-gót của giới trí thức.[24] Điều hơi buồn cười là trạm-web [25] hàng đầu của những người tin theo thuyết sáng tạo, “Những trả lời trong sách Sáng thế”, dẫn nghiên cứu Larson và Witham, không phải để lấy bằng chứng rằng có thể có một gì đó sai trái với tôn giáo, nhưng như một vũ khí trong chiến tranh nội bộ của họ, chống những đối thủ ngang ngửa thuộc cùng giới những nhà biện hộ cho đạo Kitô, là những người cho rằng thuyết tiến hóa thì tương hợp với đạo Kitô. Dưới đầu đề “Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học là không-tin-Gót từ gốc” [26]. “Những trả lời trong sách Sáng thế” đã hài lòng trích dẫn đoạn kết luận trong thư của Larson và Witham gửi ban biên tập tạp chí Nature:

Khi chúng tôi đang biên soạn những tìm tòi của chúng tôi, NAS [Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học] đã cho ra một tập sách nhỏ khuyến khích giảng dạy sự tiến hóa sinh vật trong những trường công lập, một nguồn của những va chạm đương tiếp diễn giữa cộng đồng khoa học và một vài cộng đồng Kitô bảo thủ ở nước Mỹ. Tập sách nhỏ này đảm bảo với người đọc, “Không biết liệu Gót có hiện hữu hay không là một câu hỏi mà khoa học đứng trung lập”. Chủ tịch Bruce Alberts của NAS nói: “Có nhiều những thành viên lỗi lạc của học viện này, là những người rất sùng đạo, những người tin vào tiến hóa sinh vật, nhiều người trong số họ là những nhà sinh vật học”. Nhưng khảo sát của chúng tôi lại đưa đến ý kiến khác.

Alberts, người ta cảm thấy, đã ôm lấy “NOMA” vì những lý do tôi đã thảo luận trong “Trường phái Neville Chamberlain của những nhà theo thuyết tiến hóa” (xem Chương 2). “Những trả lời trong sách Sáng thế” có một chương trình tiến hành rất khác biệt.

Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học Mỹ có tương đương của nó ở nước Anh (và những quốc gia trong khối thịnh vượng chung, gồm Canada, Úc, New Zealand, India, Pakistan, châu Phi tiếng Anh, v.v...) là Hội Hoàng gia [27]. Khi quyển sách này lên khuôn in, hai đồng nghiệp của tôi, R. Elisabeth Cornwell và Michael Stirrat, đang viết tường trình so sánh của họ, nhưng kỹ hơn, nghiên cứu về những quan điểm tôn giáo của những hội viên của hội Hoàng gia (FRS). Kết luận của hai tác giả, sau này sẽ được công bố đầy đủ, nhưng họ vui lòng cho phép tôi trích dẫn kết quả sơ bộ ở đây. Họ dùng một kỹ thuật tiêu chuẩn cho việc cân lượng quan điểm, Loại Likert bảy điểm cân lượng. Tất cả 1.074 hội viên của Hiệp hội Hoàng gia, những người có địa chỉ email (phần lớn đa số) đã đều được được hỏi ý kiến, và khoảng 23 phần trăm đã trả lời (một con số lớn trong loại nghiên cứu này). Họ nhận được những mệnh đề khác nhau, thí dụ: “Tôi tin vào một Gót có tính người, đó là một ai có quan tâm với những cá nhân, nghe và đáp ứng những cầu nguyện, bận tâm với tội lỗi và phạm tội, và đưa ra phán quyết”. Đối với mỗi mệnh đề như vậy, họ được mời chọn một con số, từ 1 (bất đồng mạnh mẽ) đến 7 (đồng ý mạnh mẽ). Có một chút khó khăn hơn để so sánh trực tiếp những kết quả này với nghiên cứu của Larson và Witham (nói trên, ở Mỹ), vì Larson và Witham đem cho những hội viên hàn lâm của họ chỉ có ba điểm cân lượng, không phải bảy điểm cân lượng, nhưng khuynh hướng chung là như nhau. Đa số ưu thắng áp đảo của những FRS, giống như Đa số ưu thắng áp đảo của những hội viên hàn lâm Mỹ, là những người không-tin-có-gót. Chỉ có 3,3 phần trăm những hội viên Viện Hoàng gia đồng ý mạnh mẽ với tuyên bố rằng một vị Gót có tính người hiện hữu (nghĩa là đã chọn 7 về cân lượng), trong khi 78,8 phần trăm mạnh mẽ không đồng ý (tức là chọn 1 về cân lượng). Nếu bạn định nghĩa “những người tin tưởng” là những người đã chọn 6 hoặc 7, và nếu bạn định nghĩa “người không tin” là những người đã chọn 1 hoặc 2, có một con số khổng lồ 213 người không tin và chỉ có 12 người có lòng tin. Giống như Larson và Witham, và cũng như Beit-Hallahmi và Argyle đã ghi nhận, Cornwell và Stirrat đã thấy có một khuynh hướng nhỏ nhưng có ý nghĩa quan trọng là những nhà sinh học lại thậm chí là những nhà khoa học không-tin-có-gót còn nhiều hơn những nhà vật lý học. Về chi tiết, và tất cả phần còn lại của những kết luận của họ rất thú vị đáng chú ý, hãy tìm đọc thêm khảo luận của họ khi nó được xuất bản.[28]

Tiếp tục từ những nhà khoa học ưu tú của viện Hàn lâm Quốc gia (Mỹ) và Hiệp Hội Hoàng gia (Anh), phải chăng có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy, trong dân số rộng rãi nói chung, cơ hội thường xảy ra là những người không-tin-có-gót sẽ tìm được giữa những người có học thức hơn và thông minh trí thức hơn? Có nhiều nghiên cứu đã được công bố về quan hệ thống kê giữa tín ngưỡng và trình độ học vấn, hay tín ngưỡng và IQ (tỉ số thông minh). Michael Shermer, trong How We Believe: The Search for God in an Age of Science [29], mô tả một khảo sát lớn trên những người Mỹ được chọn ngẫu nhiên, đã được ông và đồng nghiệp Frank Sulloway tiến hành. Trong số nhiều điều từ những kết quả thú vị của họ là sự khám phá rằng tín mộ tôn giáo là thực sự có quan hệ song hành nhưng tiêu cực với giáo dục (những người có học vấn càng cao, càng ít hơn cơ hội xảy ra là có sùng mộ tôn giáo). Sùng mộ tôn giáo cũng có quan hệ song hành tiêu cực với sự quan tâm về khoa học và (mạnh mẽ) với chủ nghĩa tự do trong chính trị. Không có điều nào trong số này là đáng ngạc nhiên, cũng không ngạc nhiên với một thực tế rằng có một mối tương quan tích cực giữa sùng mộ tôn giáo (của một người) và sùng mộ tôn giáo của cha mẹ (người ấy). Những nhà xã hội học nghiên cứu trẻ em Anh, đã tìm thấy rằng chỉ có khoảng một trong mười hai em, tách ra khỏi những tin tưởng tôn giáo của cha mẹ.

Như bạn có thể mong đợi, những nhà nghiên cứu khác nhau đo lường sự việc trong những cách khác nhau, do đó, khó so sánh những nghiên cứu khác nhau. Phân tích-meta là kỹ thuật phân tích dựa trên tổng hợp của những kết quả phân tích khác [30], theo đó một nhà điều tra sẽ xem xét tất cả những văn bản nghiên cứu đã được công bố về một chủ đề, và đếm số lượng những văn bản đã cùng có kết luận về một điều, so với số có kết luận về những gì khác. Về chủ đề của tôn giáo và chỉ số thông minh IQ, phân tích-meta duy nhất tôi được biết là của Paul Bell, đã công bố trong tạp chí Mensa, trong năm 2002 (Mensa là một hội của những cá nhân có một chỉ số IQ cao, và không ngạc nhiên, tạp chí của họ gồm những bài viết về một sự việc kéo họ lại cùng với nhau) [31]. Bell kết luận: “Trong số 43 nghiên cứu được thực hiện kể từ năm 1927 về quan hệ giữa tin tưởng tôn giáo và trí thông minh và / hoặc trình độ giáo dục của một người, chỉ trừ bốn, còn tất cả đều tìm thấy một kết nối đảo ngược. Đó là, thông minh hoặc trình độ học vấn giáo dục của một người càng cao hơn bao nhiêu, càng ít hơn bấy nhiêu để có thể xảy ra là (người ấy) sẽ có sùng mộ tôn giáo hay nắm giữ một “tin tưởng” tôn giáo thuộc bất kỳ loại nào”.

Một phân tích-meta là hầu như chắc chắn sẽ ít cụ thể hơn bất kỳ một trong những nghiên cứu nào đã đóng phần tạo thành nó. Điều sẽ là tốt đẹp để có nhiều những nghiên cứu hơn theo cùng chiều hướng này, cũng như nhiều nghiên cứu hơn về những thành viên của những tổ chức, cơ quan trí thức ưu tú chẳng hạn như những học viện quốc gia khác, và những người nhận những giải thưởng và huy chương quan trọng như Nobel, Crafoord, Fields, Kyoto, Cosmos [32] và những giải thưởng khác. Tôi hy vọng rằng trong ấn bản tương lai của quyển sách này sẽ bao gồm những dữ liệu đó. Một kết luận hợp lý từ những nghiên cứu hiện tại là những nhà chống trả bào chữa cho tôn giáo có thể là nên khôn ngoan hãy giữ im lặng hơn là họ thường quen làm về đề tài của những vai trò gương mẫu đáng ngưỡng mộ, ít nhất là nơi nào có liên quan đến những nhà khoa học.

Đánh Cuộc của Pascal

Nhà toán học lớn người Pháp Blaise Pascal đã tính toán rằng, dù những bất thường có thể dài đến đâu khi đánh cuộc về hiện hữu của Gót, thậm chí vẫn có một bất đối xứng lớn hơn trong sự trừng phạt vì đoán sai. Tốt hơn bạn nên tin vào Gót, vì nếu bạn đúng, bạn sẵn sàng để dành được hạnh phúc vĩnh cửu, và nếu bạn sai, nó sẽ không gây nên bất kỳ một khác biệt nào cả. Nhưng về mặt kia, nếu bạn không tin vào Gót, và nếu quay ra là bạn bị sai, bạn chịu sự trừng phạt vĩnh cửu (đày hỏa ngục), trong khi nếu bạn là đúng nó không làm thành khác biệt. Nhìn chỉ bên ngoài thôi, đã hiển nhiên là quyết định thì không phải nghĩ ngợi. Hãy tin vào Gót.

Tuy nhiên, có một gì đó bất thường đặc biệt về biện luận này. Tin tưởng không phải là một gì đó bạn có thể quyết định để làm theo như một vấn đề về nguyên tắc. Ít nhất, nó không phải là một gì đó mà tôi có thể quyết định để làm như một hành động của ý chí. Tôi có thể quyết định đi nhà thờ, và tôi có thể quyết định đọc thuộc tín điều Nicene, và tôi có thể quyết định thề trên một chồng kinh Thánh rằng tôi tin vào từng lời trong chúng. Nhưng không một nào trong số đó có thể làm cho tôi thực sự tin tưởng nó nếu tôi không tin tưởng. Đánh cuộc của Pascal có thể chỉ mãi mãi là một luận chứng cho sự giả vờ tin vào Gót. Và Gót mà bạn tuyên bố tin vào, ông này tốt hơn đừng thuộc loại toàn trí, hay ông nhìn xuyên được thấu qua sự giả dối. Ý tưởng lố bịch rằng tin tưởng một gì đó là điều bạn có thể quyết định để làm thì bị Douglas Adams chế giễu một cách thú vị trong Dirk Gently's Holistic Detective Agency [33], trong đó chúng ta gặp thày chăn chiên robot chạy bằng điện (robotic Electric Monk), một dụng cụ tiết kiệm sức lao động mà bạn mua “để làm những tin tưởng của bạn cho bạn”. Mô hình thượng hạng đắt tiềnđược quảng cáo là “có khả năng tin tưởng những điều mà ở Salt Lake City không tin chúng”. [34]

Nhưng tại sao, dù trường hợp nào đi nữa, có phải chúng ta quá sẵn sàng chấp nhận ý tưởng rằng một điều bạn phải làm nếu bạn muốn làm vui lòng Gót là tin tưởng vào ông? Điều quá đặc biệt về tin tưởng là gì vậy? Không phải đúng là có nhiều xác xuất có thể xảy ra rằng Gót sẽ ban thưởng lòng nhân ái, hay sự độ lượng, hoặc tính khiêm nhường? Hoặc sự chân thực? Điều gì xảy ra nếu Gót là một nhà khoa học, người nhìn sự thành thực tìm kiếm sự thật như đức hạnh tối cao? Thật vậy, không phải rằng nhà thiết kế của vũ trụ phải là một nhà khoa học hay sao? Người ta đã hỏi Bertrand Russell rằng ông sẽ nói gì nếu như ông chết và thấy mình đối chất với Gót đòi biết tại sao Russell đã không tin vào ông ta. “Không đủ bằng chứng, Gót ơi, không đủ bằng chứng”, đó là câu trả lời (tôi gần như phải nói là bất hủ) của Russell. Sẽ không phải là Gót sẽ kính trọng Russell vì sự hoài nghi can đảm của ông (đó là không kể đến, hãy bỏ ra ngoài, lập trường hòa bình dũng cảm của ông đã đẩy ông vào tù thời chiến tranh thế giới thứ nhất) hơn rất nhiều so với Gót sẽ kính trọng Pascal vì sự hèn nhát đặt cuộc, so đo hơn thiệt tránh rủi ro hay sao? Và trong khi chúng ta không thể biết Gót sẽ nhảy sang phía nào, chúng ta không cần phải biết ngõ hầu để bác bỏ Đánh Cuộc của Pascal. Chúng ta đang nói về một đánh cá, đặt cuộc, hãy nhớ lại, và Pascal đã không tuyên bố rằng đánh cá của ông đã được điều gì thuận lợi, nhưng rất có thể dài những khác lạ, đầy bất thường. Bạn có đánh cá vào sự đánh giá của Gót trên tin tưởng giả dối (hay thậm chí tin tưởng trung thực chăng nữa) sẽ thắng sự hoài nghi chân thực?

Sau đó lại nữa, giả sử gót là người bạn phải đối mặt khi bạn chết hóa ra là Baal, và giả sử Baal thì cũng ghen tị đúng hệt như như đối thủ cũ của ông là Yahweh, người được kể là hết sức ganh tị. Không phải có lẽ là Pascal tốt hơn nên đánh cá trên sự không có gót nào tất cả, hơn là trên một gót đoán sai? Thật vậy, không phải chỉ bằng vào con số có thể có của những vị gót nam và gót nữ, trên số đông đảo những gót đó, một người có thể đánh cá, là đủ đánh bại toàn bộ lôgích của Pascal hay sao? Pascal có lẽ là nói đùa khi ông đưa ra đánh cuộc của mình, cũng giống như tôi đang nói đùa khi tôi gạt bỏ nó. Nhưng tôi đã gặp nhiều người, thí dụ trong phần câu hỏi sau một bài giảng, vẫn có những người nghiêm trang đưa ra Đánh Cuộc của Pascal như một Luận chứng thắng lợi cho tin tưởng vào Gót, vì vậy đã là điều thuận hợp để nói về nó ngắn gọn ở đây.

Cuối cùng, có thể được hay không, để biện luận cho một loại của phản-đánh cuộc của Pascal? Giả sử chúng ta cứ tạm cho rằng quả thực có đấy một vài cơ may nhỏ rằng Gót hiện hữu. Dẫu có thế đi nữa, có thể nói rằng bạn sẽ sống một đời sống trọn vẹn hơn, tốt hơn, nếu bạn đánh cuộc ông ta không hiện hữu, hơn là nếu bạn đánh cuộc ông ta hiện hữu, và do đó không phung phí thời giờ của bạn vào chuyện thờ phụng ông, hy sinh cho ông ta, đánh nhau và chết cho ông ta, v.v... Tôi sẽ không theo đuổi câu hỏi ở đây, nhưng độc giả có thể thích, hãy giữ nó trong trí khi chúng ta đi đến những chương sau về những hậu quả ác độc có thể tuôn ra từ tin tưởng và thực hành tuân thủ tôn giáo.

Những Luận chứng dùng định lý xác xuất của Bayes

Tôi nghĩ trường hợp lạ lẫm nhất toan tính với hiện hữu của Gót tôi đã từng thấy là luận chứng dựa trên đính lý về xác xuất của Bayes, gần đây Stephen Unwin đã đưa ra trong Xác suất về Gót [35]. Tôi đã do dự trước khi bao gồm luận chứng này, nó vừa yếu hơn và vừa không cổ điển, ít thần thánh hơn những luận chứng khác. Tuy nhiên, quyển sách của Unwin, khi xuất bản năm 2003, đã nhận được sự chú ý đáng kể của báo chí, và nó thực đem lại cơ hội để mang vài mối giải thích vào cùng với nhau. Tôi có vài cảm tình với những ý định của ông, như đã lập luận trong Chương 2, tôi tin sự hiện hữu của Gót như một giả thuyết khoa học, ít nhất trên nguyên tắc, thì có thể điều tra tìm hiểu được. Thêm nữa, cố gắng quá lý tưởng đến không thực tế của Unwin để đặt một con số trên xác suất thì đúng là buồn cười thú vị.

Tựa đề phụ của quyển sách, Một phép tính đơn giản mà chứng minh chân lý cuối cùng, có tất cả những dấu chứng xác nhận phẩm chất của một thêm vào về sau của nhà xuất bản, vì sự tự tin tự phụ như vậy không tìm thấy được trong văn bản của Unwin. Quyển sách thì tốt hơn được xem là một hướng dẫn kiểu “Làm thế nào”, một thứ thuộc loại Định lý của Bayes cho những Cả đẫn [36], vì dùng hiện hữu của Gót như một trường hợp nghiên cứu bán khôi hài. Unwin cũng đã có thể khéo dùng một kẻ giết người giả tưởng như trường hợp thí nghiệm của mình để chứng minh định lý Bayes. Nhà thám tử tập hợp bằng chứng dẫn đặt thành đâu ra đó. Những dấu tay trên súng lục trỏ về bà Peacock. Định lượng sự ngờ vực đó bằng cách vỗ lên một con số về sự có thể xảy ra được về phần bà ta. Tuy nhiên, Giáo sư Plum đã có một động cơ để bẫy hại ngầm bà Peacock. Giảm bớt sự ngờ vực bà Peacock bằng một con số có giá trị tương ứng. Phương pháp khoa học điều tra cho tòa án đưa ra một con số 70 phần trăm có thể xảy ra là súng lục đã bắn chính xác từ một khoảng cách xa (nạn nhân), điều này biện luận cho một thủ phạm có huấn luyện quân sự. Định lượng sự ngờ vực tăng cao của chúng ta với Đại tá Mustard. Thày chăn chiên phản thệ Green thành ra là người có động cơ xem ra thuận lý nhất trong vụ giết người [37]. Tăng lên ước định số lượng của chúng ta về sự thể đã có thể xảy ra với thày Green. Nhưng sợi tóc vàng dài còn vướng trên áo khoác nạn nhân chỉ có thể thuộc về cô Scarlet.. . và vv... Một hỗn hợp của những có-thể-xảy-ra đã được phán định chủ quan nhiều hơn hay ít hơn khuấy trộn trong não thức của thám tử, kéo ông ta về những hướng khác nhau. Định lý Bayes thì giả định là để giúp nhà thám tử đi đến một kết luận. Nó là một bộ máy toán học để kết hợp nhiều những có thể xảy ra đã được ước tính, và đưa lên một phán quyết cuối cùng, vốn mang tính ước đoán định lượng của riêng nó về sự thể có thể xảy ra. Nhưng dĩ nhiên ước tính cuối cùng đó chỉ có thể tốt ngang bằng với những con số ban đầu đã đem vào (phương trình). Những con số này thường thường đã phán định chủ quan, với tất cả những hoài nghi từ đó trôi theo vào không thể tránh được. Nguyên tắc GIGO (rác vào thì rác ra [38]) thì áp dụng được ở đây – và trong trường hợp thí dụ Gót của Unwin, “áp dụng được” là một từ quá nhẹ.

Unwin là một chuyên viên tham vấn ngành quản lý nguy hiểm và rủi ro có thể xảy ra cho các tổ chức, công ty [39], là người mang đuốc chạy dẫn đầu cho sự suy luận dùng định lý Bayes, như phản lại những phương pháp thống kê đối nghịch cạnh tranh. Unwin minh họa định lý Bayes bằng cách quyết định nhận thử thách, không phải một vụ giết người, nhưng một trường hợp thử nghiệm lớn nhất của tất cả, là sự hiện hữu của Gót. Chương trình được bắt đầu với sự bất định hoàn toàn, vốn ông chọn để định lượng bằng cách chỉ định sự hiện hữu và không hiện hữu của Gót, mỗi bên khởi đầu với xác xuất có thể xảy ra là 50 phần trăm. Sau đó, ông liệt kê sáu sự kiện chúng có thể ảnh hưởng trên vấn đề, ông đặt một trọng số trên mỗi sự kiện, đưa sáu con số vào trong bộ máy của định lý Bayes, và thử xem bật ra con số (thành) nào. Điều rắc rối là (để nhắc lại) sáu trọng số đều không phải là những số lượng đã được đo lường mà đơn giản chỉ là những phán định cá nhân của Stephen Unwin được biến thành những con số, cho tiện ích của bài toán thực tập. Sáu sự kiện là:

  1. Chúng ta có một cảm thức về sự tốt lành.
  2. Người ta làm những điều ác (Hitler, Stalin, Saddam Hussein).
  3. Thiên nhiên làm những điều ác (động đất, sóng thần, bão).
  4. Có thể có những phép lạ nhỏ (tôi đánh mất những chìa khóa của tôi và lại tìm được chúng).
  5. Có thể có những phép lạ lớn (Jesus có thể đã sống lại sau khi chết).
  6. Người ta có những kinh nghiệm tôn giáo.

Cho những gì nó bõ công đáng giá (không có gì, theo ý kiến của tôi), ở cuối của một cuộc chạy đua kiểu Bayes, chuông kêu điinh-đoong, trong đó Gót trồi lên trước trong cuộc đánh cá, sau đó tụt xuống tít đằng sau, sau đó bám đường ông lại lên đến 50 phần trăm, là mức từ đó ông đã bắt đầu, cuối cùng gót đến mức kết thúc, trong dự toán của Unwin, thích thú với một xác xuất 67 phần trăm có thể xảy ra hiện hữu. Unwin sau đó lại quyết định rằng tuyên án 67 phần trăm của phương trình Bayes là không đủ cao, thế nên ông một hành động kỳ dị là thổi phồng nó lên đến 95 phần trăm, bằng cách tiêm thêm cho nó một mũi khẩn cấp của “lòng tin”. Nghe giống như một trò đùa, nhưng đó thực sự là ông tiến hành thế nào. Tôi ước là tôi có thể nói ông biện minh nó thế nào, nhưng thực sự không có gì để nói. Tôi đã gặp loại xuẩn lý này ở nơi khác, khi tôi đã thách thức những nhà khoa học sùng đạo, nhưng mặt khác thông minh, hãy biện minh cho tin tưởng của họ, trước sự thừa nhận của họ là không có bằng chứng: “Tôi thú nhận rằng không có bằng chứng nào cả. Có một lý do là tại sao nó được gọi là lòng tin” (câu cuối cùng này thốt lên với tin tưởng gần như sự xác quyết hung hăng, và không có một chút ẩn ý nào của xin lỗi hay sự tự vệ phòng thủ).

Ngạc nhiên, trong danh sách của Unwin gồm sáu phát biểu không có luận chứng thiết kế, cũng không gồm một bất kỳ năm “bằng chứng” nào của Aquinas, cũng chẳng có một bất kỳ những dạng khác nhau nào của luận chứng bản thể. Ông không thuận, không muốn dây dưa gì với chúng: chúng thậm chí không góp thêm được một cái búng tay lay động nhỏ vào con số ước lượng của ông về sự có thể có của Gót. Ông thảo luận về chúng, như là một nhà thống kê giỏi, và thải hồi chúng vì chúng trống rỗng. Tôi nghĩ điều này là công trạng đáng khen của ông, mặc dù lý do gạt bỏ luận chứng thiết kế của ông là khác với của tôi. Tuy nhiên, luận chứng mà ông chấp nhận qua cửa Bayes của ông, xem ra như với tôi, cũng yếu như thế. Đó là chỉ để nói rằng những trọng số nhiều xác xuất chủ quan đó, nếu tôi có gán cho chúng sẽ là khác với của ông, và dù sao đi nữa,có ai quan tâm về những đánh giá chủ quan hay không? Ông nghĩ rằng sự kiện mà chúng ta có một cảm thức về đúng và sai, đem đếm (thành số) nghiêng thuận lợi mạnh mẽ về phần Gót, trong khi trái lại, tôi không thấy rằng nó sẽ thực sự chuyển dịch (vị trí) Gót, không trong cả hai hướng, từ mức mong đợi khởi đầu của ông. Chương 6 và 7 sẽ cho thấy rằng không có trường hợp (nghiên cứu) tốt nào làm được cho sự sở hữu một cảm thức về đúng và sai của chúng ta có bất kỳ kết nối rõ ràng nào với sự hiện hữu của một thần linh siêu nhiên. Cũng như trong trường hợp khả năng cảm nhận giá trị của chúng ta khi thưởng thức một bài tứ tấu khúc của Beethoven, hay cảm nhận giá trị của chúng ta về sự tốt lành (Dù không nhất thiết phải có sự xui khiến chúng ta làm theo nó) sẽ là cách nó là như vậy, với một Gót, hay không với một Gót.

Mặt khác, Unwin nghĩ rằng sự hiện hữu của cái ác, đặc biệt những thiên tai như động đất và sóng thần, được kể là mạnh mẽ chống lạisự có thể có của Gót. Ở đây, phán đoán của Unwin thì ngược với của tôi, nhưng ông đi theo cùng hướng với nhiều những nhà gót học áy náy bất an. “Theodicy” (cãi lấy đúng cho Gót) [40] giữ cho những nhà gót học phải mất ngủ. The Oxford Companion to Philosophy đáng tin cậy, cho vấn đề của cái ác, quen gọi là Luận chứng Tà Ác, là “phản đối có sức mạnh nhất với thuyết tin-có-gót truyền thống”. Nhưng nó là một luận chứng chỉ chống lại sự hiện hữu của một Gót tốt lành. Sự tốt lành thì không là phần của định nghĩa của Giả thuyết Gót, đơn thuần chỉ là một thêm vào đáng mong ước.

Phải thừa nhận, những người thuộc một khuynh hướng gót học thường kinh niên không có khả năng để phân biệt được những gì là đúng thực với những gì họ có thích là đúng thực. Tuy nhiên, với một người có tin tưởng tôn giáo tinh tế hơn về một vài loại thông minh siêu nhiên, sẽ là trò trẻ con dễ dàng để vượt qua vấn nạn tà ác. Chỉ đơn giản đưa lên một gót kinh tởm xấu xa – giống như gót là kẻ hành hạ trừng phạt trên mỗi trang sách Cựu Ước. Hoặc, nếu bạn không thích điều đó, phát minh một gót ác riêng biệt, gọi ông ta là Satan, và đổ lỗi mọi điều xấu ác trên thế giới cho trận chiến vũ trụ của Satan chống lại gót tốt. Hoặc – một giải pháp tinh tế hơn nhiều – đưa lên một gót với những điều vĩ đại để làm hơn là quá bận tâm với những thảm họa của loài người. Hoặc một vị gót là kẻ tuy không thờ ơ với đau khổ, nhưng coi nó như giá phải trả cho “ý chí tự do” trong một vũ trụ trật tự, hợp pháp. Có thể thấy những nhà gót học đã tin tưởng hết lòng vào tất cả những lối giải thích được làm cho hợp lý, thuận lôgích này.

Vì những lý do này, nếu tôi làm lại bài toán xác xuất theo định lý Bayes của Unwin, không phải luận chứng tà ác, cũng không phải những cân nhắc đạo đức nói chung sẽ chuyển dịch tôi, cách này hay cách khác, xa khỏi giả thuyết trống, không nghiêng về bên nào (50 phần trăm – có/không – bắt đầu của Unwin). Nhưng tôi không muốn biện luận ý tưởng, dù trong trường hợp nào đi nữa, vì tôi không thể có phấn khích nào về những quan điểm cá nhân, cho dù là của Unwin hay của chính tôi.

Có một luận chứng mạnh mẽ hơn rất nhiều, mà không tù thuộc trên phán đoán chủ quan, và nó là luận chứng từ xác xuất không chắc xảy ra. Nó thực sự quả có chuyên chở chúng ta đột nhiên xa khỏi thuyết không thể biết (với) 50 phần trăm (ở giữa), thật xa về phía cực đoan của thuyết tin-có-gót trong quan điểm của những người tin-có-gót, thật xa về phía cực đoan của thuyết không-tin-có-gót trong quan điểm của tôi. Tôi đã đề cập về nó nhiều lần rồi. Toàn bộ luận chứng quay về câu hỏi quen thuộc: “Ai tạo ra Gót?” mà hầu hết những người có suy nghĩ khám phá cho chính họ. Một Gót là nhà thiết kế vũ trụ không thể dùng được để giải thích sự phức tạp có tổ chức, vì bất kỳ một Gót có khả năng thiết kế bất cứ điều gì sẽ phải là phức tạp đến mức đủ để khả năng của riêng chính ông đòi hỏi có cùng một loại giải thích. Gót trình bày một chuỗi vô hạn chạy giật lùi, mà trong đó ông không thể giúp chúng ta thoát ra. Lập luận này, như tôi sẽ cho thấy trong chương kế tiếp, chứng minh rằng Gót, mặc dù về mặt kỹ thuật không thể phản chứng minh, nhưng thực sự là rất không thể nào có thể xảy ra.



Chương 4

Tại sao hầu như chắc chắn là không có Gót



Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Jul/2013)


(còn tiếp ...)

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com



[1] Lunatic, Liar or Lord .

[2] Luận chứng Phòng nói tiếng Tàu: Năm 1980, John Searle giới thiệu một luận chứng ngắn và được thảo luận rộng rãi nhằm cho thấy kết luận rằng không thể nào những máy computơ có để hiểu ngôn ngữ hay suy nghĩ được. Searle (1999) tóm tắt luận chứng Phòng nói tiếng Tàu như sau:

Hãy tưởng tượng một người chỉ biết nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh, không biết tiếng Tàu, bị nhốt trong một căn phòng đầy các hộp đựng những ký hiệu tiếng Tàu (một cơ sở dữ liệu – data base) cùng với một cuốn sách hướng dẫn cách sửa đổi, xếp đặt những ký hiệu (progam – chương trình). Hãy tưởng tượng rằng có người bên ngoài phòng gửi vào trong các ký hiệu tiếng Tàu khác, mà người trong phòng không biết, là những câu hỏi bằng tiếng Tàu (đầu vào – input). Và tưởng tượng rằng bằng cách làm theo các hướng dẫn trong chương trình, người đàn ông trong căn phòng có thể đưa ra những ký hiệu tiếng Tàu, trong đó có những câu trả lời chính xác cho câu hỏi (đầu ra – output). Chương trình cho phép người trong phòng làm thành công được thí nghiệm Turing về sự hiểu biết tiếng Tàu, nhưng ông thực sự không hiểu một từ nào của tiếng Tàu.

Searle nói tiếp, "Mục đích của luận chứng là thế này: nếu người đàn ông trong phòng không hiểu tiếng Tàu trên cơ sở thực hiện các chương trình thích hợp để hiểu tiếng Tàu, sau đó cũng không có bất kỳ máy tính máy computơ nào khác chỉ trên cơ sở đó hiểu được, vì không có máy computơ, khả năng máy tính computơ, có được bất cứ điều gì mà người đàn ông không có”.

Luận chứng Phòng nói tiếng Tàu dẫn trên rất nổi tiếng – và nội dung chủ yếu là vấn đề thông minh nhân tạo của computơ – nhưng ở đây Dawkins dùng với nghĩa khác – những người sao chép, có khi máy móc, chẳng hiểu gì, hay biết gì, về nội dung những gì mình sao chép.

[3] bản dịch của kinh Thánh Vietnam (1932):

John 7:40-43 – “Trong đoàn dân có nhiều người nghe những lời đó, thì nói: Người nầy thật là đấng tiên tri. Người khác thì nói: Ấy là Đấng Christ. Người khác nữa lại nói: Đấng Christ há từ Ga-li-lê mà đến sao? Kinh Thánh há chẳng nói rằng Đấng Christ phải ra từ dòng dõi vua Đa-vít sao? Vậy, dân chúng cãi lẽ nhau về Ngài”.

[4] A. N. Wilson trong Jesus, và Robin Lane Fox trong The Unauthorized Version (Phiên bản Trái Phép).

[5] [Tom Flynn, 'Matthew vs. Luke', Free Inquiry 25: 1, 2004, 34-45; Robert Gillooly, 'Shedding light on the light of the world', Free Inquiry 25: 1, 2004, 27-30.]

[6] Nếu Jesus là con Josepth, và Josepth là dòng dõi David, vậy có thể nói Jesus ra đời như lời tiên tri về Mesiah –và như thế Jesus có thể là vị cứu thể dân Dothái đã từng nói tới.

Nhưng nếu mẹ Jesus là Mary vẫn còn là trinh nữ khi sinh ông, vậy Josepth chỉ là cha hờ – vậy ông không có máu mủ gì với Josepth, không một liên hệ dòng dõi nào với vua Dothái David, vậy ông hiển nhiên không thể có cơ hội là vị cứu thể của dân Dothái.

Nhưng những người Kitô muốn có được cả hai tính chất thiêng liêng, dù chúng mâu thuẫn nhau, vì chúng đến từ hai gốc truyền thuyết khác nhau, một Dothái và một ngoài Dothái. Điều này người Kitô cũng không chịu nhìn nhận vì sự kiện kinh Thánh có nguồn gốc hỗn tạp như vậy sẽ giảm giá trị nội dung tôn giáo của họ, phần nào làm nó mất tính chất thiêng liêng, nó không là quyển sách “thánh” nữa.

[7] [* Tôi cung cấp phụ đề, vì tôi tự tin đó là tất cả. Nhan đề chính của ấn bản tôi có của quyển sách, do Continuum London, là Lời của Ai đây? Whose Word Is It? Tôi không thể tìm thấy gì trong ấn bản này để nói nó có phải cùng là quyển sách do nhà xb Harper, San Francisco ở Mỹ công bố hay không, mà tôi chưa được đọc, có Nhan đề chính là Misquoting Jesus. Tôi đoán chúng là cùng một quyển sách, nhưng tại sao những nhà xuất bản làm những chuyện loại này như vậy? ]

Bart D. Ehrman, Misquoting Jesus: The Story Behind Who Changed the Bible and Why (San Francisco: Harper SanFrancisco, 2005)

[8] Robin Lane Fox. The Unauthorised Version: Truth and Fiction in the Bible. London: Viking, 1991.

Jacques Berlinerblau. The Secular Bible: Why Nonbelievers Must Take Religion Seriously. Cambridge University Press, 2005.

A. N. Wilson. Jesus: A Life. London: W. W. Norton & Company, 2004

[9] [Erhman (2006). See also Ehrman (2003a, b).]

[10] [* A.N. Wilson, trong tiểu sử Jesus của ông, đặt nghi ngờ về câu chuyện có phải Joseph đã là một người thợ mộc gì hết tất cả hay không. Từ tekton tiếng Hylạp quả thực có nghĩa là thợ mộc, nhưng nó đã được dịch từ chữ Aramaic naggar, mà có thể có nghĩa là nghệ nhân hoặc người có học. Đây là một trong nhiều phiên dịch sai đã dựng lập, nhưng trêu chọc kinh Thánh, nổi tiếng nhất là sự phiên dịch sai tiếng Hebrew trong chương Isaiah cho một phụ nữ trẻ (almah) vào trong tiếng Hylạp thành một trinh nữ (parthenos). Một sai lầm dễ dàng xảy ra (hãy nghĩ những từ tiếng Anh như “maid” và “maiden” (“người hầu gái, hay người con gái” và “thời con gái”) để xem nó có thể đã xảy ra như thế nào), điều này từ một dịch giả đã trượ, đã được linh động đưa lên cao và làm sống daayh, và gây ra toàn bộ Huyền thoại lố bịch rằng mẹ của Jesus là một trinh nữ! Ibn Warraq đã chêu chọc cười dỡn khi lập luận rằng trong những lời hứa nổi tiếng của bảy mươi hai trinh nữ đem cho mỗi thanh niên Islam chết vì đạo, “trinh nữ” là một sự phiên dịch sai của “những nho khô trắng trong suốt rõ ràng như pha lê”. Bây giờ, nếu nghĩa chỉ có vậy, và nếu nó đã được biết đến rộng rãi hơn, có bao nhiêu nạn nhân vô tội của những nhiệm vụ liều chết tự tử đã có thể có cơ được cứu? (Ibn Warraq, “Trinh nữ ? trinh gì??”, Free Inquiry 26: 1, năm 2006, 45-6).]

[11] The Infancy Gospel of ThomasPhúc Âm Thời Jesus thơ ấucủa Thomas là một truyện kể về thân thế Jesus, tác giả vô danh, nhưng được gọi là “Thomas người Israel”; để phân biệt với Thomas khác của The Gospel of Thomas.

Đây là một bộ sưu tập có từ thế kỉ thứ 2 CN, gồm những câu chuyện về Jesus khi còn là một đứa trẻ tuổi từ 5 đến 12. Phúc Âm Thời Jesus thơ ấu của Thomas được gọi là “ngụy kinh”, vì hội nhà thờ Kitô không chấp nhận, không xếp vào hàng kinh điển chính thức, không dùng như tài liệu học tập và giảng dạy. Nhìn vào nội dung tập sách này sẽ thấy lý do hiển nhiên tại sao nó không được hội nhà thờ chọn lựa. Nhưng cũng như những văn bản được tuyển chọn (Matthew, Mark, Luke, và John), ... đều trên phán đoán chủ quan về giá trị nội dung theo phương diện tuyên truyền, hoàn toàn không trên giá trị lịch sử, vì chúng đều có giá trị lịch sử xấp xỉ như nhau, đều là những truyền thuyết, nhiều hư hơn thực.

Phúc Âm Thời Jesus thơ ấu rất phổ thông, đã vẫn được truyền tụng rộng rãi, và qua nhiều thế kỷ. Đến nay vẫn tìm thấy những phiên bản của những văn bản còn tồn tại trong tiếng Hylạp, tiếng Latin, tiếng Syria, Slave, Gruzia, Ethiopia, và tiếng Ả Rập. Tôi trình bày bản dịch theo một bản tổng hợp, trên những tìm tòi mới nhất, của giáo sư Tony Burke, York Univeristy, Toronto (2009).

Các việc làm vĩ đại thời Trẻ em của Chúa và Đấng Cứu thế Kitô chúng ta

(The Great Childhood Deeds of our Lord and Saviour Jesus Christ)

1.

Khi đứa bé trai Jesus năm tuổi, nó chơi tại một khúc cạn của dòng sông hẹp nước chảy mạnh. Và nó đã tụ nước động vào thành những vũng, và làm chúng thành trong suốt và thật sạch, nó ra lệnh cho nước chỉ bằng cách đọc từng chữ những lời nó nói mà thôi, và không bằng những phương tiện của một hành động nào.

Sau đó, lấy đất sét mềm từ bùn, bé Jesus đã nặn mười hai con chim sẻ. Đã nhằm ngày Sa-bát, khi nó làm những điều này, và có nhiều trẻ con khác với nó. Và có một người Dothái, thấy đứa bé Jesus với những trẻ khác làm những chuyện này, đã đi đến cha nó là Joseph, và vu cáo đứa bé Jesus, nói rằng, trong ngày Sa-bát, nó đã nghịch bùn, và làm mười hai con chim sẻ, đó là không đúng luật Dothái. Joseph đến và mắng Jesus rằng: “Tại sao mày lại làm những việc này vào ngày Sa-bát?”. Nhưng Jesus vỗ tay, ra lệnh cho những con chim với một tiếng la lớn trước mặt mọi người, và nói: “Đi, hãy bay đi, và nhớ ta, những con vật sống”. Và những con chim sẻ, vỗ cánh bay ​​đi, kêu quang quác. Khi người Pharisiêu thấy điều này, ông ta đã rất ngạc nhiên và kể chuyện ấy cho tất cả bạn bè của mình.

2.

Và đứa con trai của Annas, nhà luật học và gót học Dothái đã cùng Joseph theo đến. Và lấy một nhánh liễu, nó phá hỏng những vũng nước, và làm cho nước bé Jesus đã hứng được chảy thoát đi. Và nó làm cạn hết nước tụ trong vũng. Và Jesus, thấy những gì đã xảy ra, nói với nó, “thân quả mày (sẽ bị trụi) không gốc, và cành nhánh mày sẽ bị khô kiệt như một cành cây bị một cơn gió mạnh làm cháy khô”. Và ngay lập tức đứa bé đó bị héo khô mà chết.

3.

Khi đứa bé trai Jesus từ đó đang đi với cha nó là Joseph, một đứa bé chạy xô vào vai nó. Và Jesus nói với nó: “ Mày sẽ thôi đi đường của chúng ta”. Và lập tức, đứa bé chết. Ngay sau đó, thấy đứa bé đã chết, mọi người khóc lớn và nói: “Đứa trẻ này đã sinh ra từ đâu mà lời nó nói thành một hành động?”. Khi họ thấy những gì đã xảy ra, cha mẹ của đứa bé bị chết đổ lỗi cho Joseph, nói, “Vì ông có đứa con trai này, ông không thể sống trong làng này với chúng tôi. Nếu ông muốn ở đây, phải dạy nó làm điều lành và không nguyền điều ác độc”.

4.

Và Joseph nói với Jesus “Tại sao mày lại nguyền những điều như thế? Họ khổ sở và ghét chúng ta”. Và đứa bé nói với Joseph, “Nếu những lời của Cha tôi đã không là khôn ngoan, ông sẽ không biết dạy con cái thế nào”. Và đứa bé lại nói thêm, “Nếu đây đã là những con cái của buồng cưới tân hôn (giữa Gót và người? – “bridal chamber”), họ sẽ không hứng chịu lời nguyền. Những người này sẽ hứng chịu sự trừng phạt của họ”. Ngay lập tức, những người buộc tội Jesus bị mù mắt. Nhưng Joseph trở nên giận dữ, nắm tai Jesus kéo mạnh. Và Jesus nói với ông: “Tìm tôi và thấy tôi, với ông là đã đủ, (nhưng). Ông đã hành động một cách ngu dại” .

5.

Một người thày giáo tên là Zacchaeus, khi ấy đang đứng, nghe Jesus nói những điều này với cha nó, và ông nói, “Ồ đứa bé trai xấu xa !” Ông nói với Joseph, “Nào, dắt nó lại đây, người anh em, để đứa bé có thể học cách yêu những trẻ cùng tuổi của nó, làm vinh dự cha mẹ và thờ kính những trưởng thượng, để nó có thể có được một ước muốn sống giữa đám trẻ em, và đến phiên nó cũng dạy lại chúng, để đền đáp”. Nhưng Joseph nói với người thày giáo, “Ai mà có thể kiềm chế đứa trẻ này và dạy dỗ nó? Đừng có (lầm) mà xem nó như một (con trẻ) trái chứng, người anh em”.

Và đứa bé trai Jesus đã trả lời và nói với người thày giáo, “Những lời mà ông đã nói, tôi là xa lạ đối với chúng. Vì tôi là bên ngoài ông, nhưng tôi ở bên trong ông với lý do của tồn tại trong sự toàn hảo nội dung này. Nhưng ông, một con người của Luật, không biết Luật”. Và đứa bé nói với Joseph, “Khi ông sinh ra đời, tôi đã tồn tại và tôi đã đứng bên cạnh ông, Cha ơi, như thế để ông có thể được tôi dạy cho một giáo lý mà không ai khác biết và cũng không ai có khả năng giảng dạy. Và như như một (con trẻ) trái chứng ông đã nói, ông sẽ chịu đựng nó, mà nó là của ông. Vì khi tôi hết sức phấn khởi, tôi sẽ dẹp bỏ sang một bên bất cứ hỗn hợp nào mà tôi có của chủng tộc ông. Vì ông không biết ông từ đâu đến; Chỉ mình tôi thực sự biết khi nào ông được sinh ra, và thời gian bao lâu ông ở lại đây”.

Và những người đứng ở đấy rất ngạc nhiên và kêu lên lớn tiếng và nói với ông, “Ồ, Thật là một kỳ diệu mới lạ và không thể tin nổi! Những lời như thế chúng ta đã chưa từng bao giờ biết, không từ những thày tu, cũng không phải từ các nhà luật học và gót học Dothái, cũng không từ những người Pharisiêu. Đứa bé này từ đâu đến, đứa bé mới năm tuổi và nói những điều như vậy? Chưa từng bao giờ chúng ta thấy một điều như vậy”.

Đứa bé trả lời họ và nói:” Tại sao các người lại kinh ngạc đến thế? Hơn nữa, tại sao các ngươi không tin là đúng sự thật những điều tôi đã nói với các ngươi? Khi các người được sinh ra, và cha của các người, và cha của cha các người, tôi biết chính xác, là người đã được tạo ra từ trước thế giới này”.

Và tất cả những người nghe thế, đã không nói nên lời, thôi không còn có thể nói chuyện với đứa bé. Đến gần họ, đứa bé bỏ về và nói: “Tôi đã chơi với các ngươi vì tôi biết các ngươi ngạc nhiên vì những chuyện lặt vặt và với kẻ khôn ngoan các ngươi là bé nhỏ”.

Bây giờ, khi họ xem có vẻ được thoải mái vì sự an ủi của đứa bé, người thày giáo nói với cha nó, “Nào, hãy đem nó đến trường học và tôi sẽ dạy cho nó tốt hơn”. Và người hiệu trưởng, tâng bốc đứa bé, đã đưa nó vào lớp học. Nhưng Jesus im lặng. Và Zacchaeus đã viết bảng chữ cái cho đứa bé, và bắt đầu dạy các chữ cái. Và ông đã thường lập lại những chữ cái cho nó. Nhưng đứa bé không trả lời ông. Trở thành phát cáu, người thày giáo đánh vào đầu nó. Và đứa bé trở nên giận dữ và nói với ông ta, “cái đe thợ rèn, khi bị đập, dạy cho bất cứ ai là kẻ đập nó, chứ không phải là cái đe được giảng dạy. Tôi biết các chữ cái mà ông đang dạy chính xác còn hơn và hay hơn cả ông. Với tôi, những điều này giống như một tiếng cồng ồn ào hoặc một tiếng tiếng chũm choẹ lanh canh, chúng không trình bày âm thanh, cũng không sự vinh quang, cũng không sức mạnh của hiểu biết”.

Khi đứa bé trai đã nguôi tức giận của nó, nó tự nói một mình tất cả các chữ cái từ alpha đến omega với nhiều thận trọng và rõ ràng. Nhìn thẳng vào thày giáo, nó nói, “ Không biết alpha theo như bản chất của nó, làm sao ông có thể dạy một beta khác? Kẻ đạo đức giả ! Nếu ông có biết, trước tiên hãy dạy tôi alpha và sau đó tôi sẽ tin ông nói về beta”.

Trong khi nhiều người đã nghe, đứa bé nói với thày giáo, “Nghe này, thày giáo, và hiểu lấy trật tự của yếu tố đầu tiên. Hãy chú ý kỹ lưỡng ở chỗ này, xem nó có những nét sắc, và vết phảy ở giữa mà ông nhìn thấy như thế nào nó chỉ hướng, vượt qua, gặp nhau, đi ra ngoài, kéo qua bên, nâng cao, múa trong hợp xướng, [ một từ không chắc chắn là từ gì], trong nhịp ba, quanh hai góc, thuộc cùng một dạng, cùng một độ dày, thuộc cùng một gia đình, làm tăng lên, cân đối, cùng đo bằng nhau, cùng chiều dài – đây là những nét của alpha”.

6

Và sau khi người thày giáo nghe một mô tả giống như thế và những nét viết như thế, của chữ cái đầu tiên mà Jesus đã trình bày, ông cảm thấy choáng váng về sự giảng dạy như vậy và sự chống trả của đứa bé. Và người thày giáo nói, “Khốn nạn cho tôi vì tôi đã mang xấu hổ trút xuống chính mình”.

“Hãy đem đứa bé này xa khỏi tôi, người anh em. Đứa bé này đơn giản là không thuộc Trái đất này, nó thậm chí có thể chế ngự được lửa. Có lẽ đứa bé này đã hiện hữu trước khi có nạn lụt của Noah. Loại tử cung nào đã hoài thai nó? Loại người mẹ nào đã nuôi dạy nó ? Tôi không biết. Khốn nạn cho tôi, người anh em ! Nó làm tôi sững sờ đến u mê. Tôi không thể nghĩ theo trong đầu tôi nữa. Tôi đã tự mình đánh lừa mình, bất mãn gấp ba. Tôi đã nghĩ rằng có được một học trò nhưng tôi đã tìm thấy được một bậc thầy. “Tôi phải bị quăng ra ngoài cho chết, hoặc trốn chạy khỏi làng này vì lý do là đứa bé này. Vì tôi không còn mặt mũi nào nhìn thấy tất cả mọi người, vì tôi là một người già nhưng đã bị một đứa bé rất nhỏ đánh bại. Nhưng tôi có thể nói gì hoặc cho ai biết gì về những nét của yếu tố đầu tiên mà nó đã đề nghị với tôi ? Thực sự, các bạn ơi, tôi không biết. Vì tôi không hiểu từ đầu đến cuối. “ Đứa trẻ này là một gì đó vĩ đại, hoặc một gót hoặc một người trời, hay gì-gì đó, tôi có thể nói thế – Tôi không biết”.

7

Đứa bé Jesus cười và nói, “ Bây giờ hãy để những cây cằn cỗi có quả, và những người mù nhìn thấy quả của sự phán xét”. Và ngay lập tức, tất cả những người đã ngã xuống dưới nguyền rủa của nó đã được khôi phục. Và từ đó trở đi, không một ai dám làm cho đứa bé này tức giận.

8

Và lại lần nữa, nhiều ngày sau, Jesus đang chơi với những đứa trẻ khác trên một mái nhà nào đó của một phòng trên lầu. Và một trong những đứa trẻ bị ngã và chết. Những đứa trẻ khác, nhìn thấy điều này, bỏ đi về nhà của chúng. Và chúng để lại có một mình Jesus. Cha mẹ của đứa trẻ chết đến buộc tội Jesus, nói, “Mày đánh ngã con ta”. Nhưng Jesus nói: “Tôi không có đánh ngã nó”

Và trong khi họ đang điên cuồng và la hét, Jesus từ mái nhà xuống và đứng cạnh xác đứa bé và kêu lên lớn tiếng nói, “Zeno, Zeno – vì đấy là tên đứa bé – dậy đi và nói có phải ta đánh ngã mày xuống không”. Đứa đứng dậy và nói: “ Không, Chúa ơi”. Khi họ nhìn thấy, họ rất ngạc nhiên và cha mẹ của đứa trẻ đã ca ngợi Gót vì những kỳ diệu này .

9

Và đứa bé Jesus được khoảng sáu tuổi, và Mary là mẹ nó, sai nó đi lấy đầy một một bình nước. Nhưng có một đám đông lớn tại bể nước, và bình nước nó cầm bị xô đẩy và vỡ. Sau đó, Jesus trải ra chiếc áo choàng mà nó đang mặc, thấm nước đầy nó và mang về đưa cho mẹ của mình. Và mẹ nó đã rất ngạc nhiên và giữ kín trong lòng tất cả những gì bà đã thấy .

10

Và tại thời gian Giuse gieo hạt giống, đứa bé Jesus cũng gieo một đấu hạt giống. Và cha nó thu thập được 100 đấu lớn (từ một đấu đó), và ông ấy đã đem nó cho người nghèo và trẻ em mồ côi.

11

Và khi nó khoảng tám tuổi. Và khi cha của nó, một người thợ mộc, làm cày và ách, ông đã nhận được một chiếc giường từ một người đàn ông giàu có nào đó để ông có thể làm cho nó cực kỳ lớn và vừa vặn. Vì một khúc gỗ cần thiết thì lại ngắn hơn và ông ta đã không có một thước đo, Joseph thì thất vọng, không biết phải làm gì. Đứa bé đến bên cha nó, và nói: “ Đặt hai khúc gỗ xuống và xếp chúng cho bằng từ phía ông đứng”.

Joseph đã làm đúng như Jesus đã nói với ông ta. Và đứa bé đứng ở đầu kia và nắm lấy khúc gỗ ngắn và kéo nó cho dài. Và nó đã làm cho nó bằng với những khúc gỗ khác. Và nó nói với cha rằng, “Đừng có tuyệt vọng, nhưng hãy cứ làm những gì ông muốn”. Joseph ôm và hôn nó, nói, “Phúc cho tôi vì Gót ban cho tôi đứa bé trai này”.

12

Joseph thấy sự khôn ngoan và hiểu biết của nó và mong nó không nên không biết những chữ cái. Vì vậy, ông đem nó lại với một người thầy giáo khác. Và thầy giáo nói, “Đọc, alpha”.

Nhưng đứa bé nói: “Trước tiên cho tôi biết beta là gì và tôi sẽ cho ông biết những gì là alpha”. “Trở nên phát cáu, người thày đánh nó. Và Jesus bị nguyền rủa ông ta và người thày giáo bị ngã chết.

Và đứa bé trở về nhà với cha mẹ. Và Joseph gọi mẹ nó và ra lệnh cho bà, “Đừng để nó ra khỏi nhà để những người làm cho nó tức giận có thể không bị chết”.

13

Và vài ngày sau đó, lại một người thày giáo khác nói với Joseph, cha của nó, “Nào, người anh em, hãy dắt nó lại tôi, tôi đem nó vào lớp học, nói ngọt ngào tán tỉnh nó, có thể có thể dạy những chữ cái cho nó”.

Và khi đến trường học, nó thấy một cuốn sách nằm trên bục giảng. Và cầm sách, nó đã không đọc những gì viết trong đó, nhưng mở miệng, nó trích dẫn những lời đáng sợ cho đến nỗi người thày giáo ngồi đối diện lắng nghe tất cả mọi lời, và khuyến khích nó để nó có thể nói nhiều hơn, và đám đông đứng đó rất ngạc nhiên trước những lời thần thánh của nó. Joseph vội vàng chạy đến trường, ngờ rằng người thày giáo này đã thôi không còn không có kinh nghiệm và rằng ông này có thể đã phải chết chăng. Nhưng người thày giáo nói với Joseph, “Bạn đã không cho tôi mọt học trò, nhưng một bậc thày”. Và Joseph nắm lấy đứa bé trai và dẫn nó về nhà.

14 Joseph bảo James vào rừng để kiếm lượm củi. Jesus cũng đã đi cùng với nó. Và trong khi chúng đang nhặt cành cây làm củi, một con rắn đáng sợ cắn vào tay James.

Và khi James nằm dài trên đất và chờ chết, đứa bé Jesus chạy đến James, và không làm gì nhưng thổi vào vết cắn và ngay lập tức vết cắn được chữa lành. Và con rắn đã bị giết chết.

15

Và khi Jesus lên mười hai, như thông lệ, cha mẹ của em bé đã đi Jerusalem trong hội của lễ Vượt Qua. Nhưng khi họ bắt đầu quay trở về, Jesus đã ở lại Jerusalem. Cha mẹ em không biết, đinh ninh là nó đi lẫn trong đám đi đường.

Họ đi đường ước được một ngày, và họ tìm nó trong các thân nhân và bạn bè của họ. Khi không tìm thấy dứa bé, họ quay lại Jerusalem để tìm kiếm nó. Sau ba ngày họ tìm thấy nó trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy giáo, lắng nghe họ và hỏi họ những câu hỏi. Và những người nghe đứa bé rất ngạc nhiên vì làm thế nào nó lại đặt những câu hỏi với những người lớn tuổi, và giải thích những điểm chính của luật, và các câu đố, và các dụ ngôn của những nhà tiên tri.

Và mẹ nó nói với nó: “Con ơi, tại sao con làm thế này với chúng ta? Hãy nhìn xem, chúng ta đã tìm con trong hết sức lo âu và thất vọng”. Jesus nói với họ:” Tại sao ông bà tìm kiếm tôi ? Ông bà không biết rằng tôi phải ở trong nhà của Cha tôi hay sao?”.

Và các thày Dothái và những người Pharisêu nói với Mary, “Bà có phải là mẹ của đứa trẻ này không? “ Và bà ấy nói, “ Tôi là mẹ”, và họ nói với bà ấy, “ Phúc cho bà, bởi vì Chúa Gót đã ban phước cho quả lành trong tử cung bà, vì sự khôn ngoan hiện diện của vinh quang và đức hạnh như vậy, chúng tôi chưa bao giờ từng nhìn thấy hay nghe được”.

Và Jesus đã đứng lên từ đó, và theo mẹ và vâng lời cha mẹ. Và bà ấy đã trân trọng tất cả những điều này, suy đi nghĩ lại trong lòng. Và Jesus đã tăng lên khôn ngoan và trong năm tháng và trong ân sủng trước Gót và loài người. Mà với người là vinh quang mãi mãi, Amen.

[12] Wells, G. A. Did Jesus Exist? London: Prometheus Books, 1975.

[13] [* Ngay cả tôi cũng đã được “vinh dự” bởi những lời tiên tri về chuyện “phút chót theo đạo” trên giường hấp hối. Thật vậy, chúng cứ tái diễn với quy luật đơn điệu (xem thí dụ: Steer 2003), mỗi lặp lại đi theo sau màn sương tươi mới của đám mây huyễn tưởng rằng nó là dí dỏm, và là chuyện đầu tiên. Tôi có lẽ nên dùng biện pháp phòng ngừa của việc đặt một máy thu âm trước để bảo vệ danh tiếng của tôi sau khi chết. Vợ tôi, Lalla Ward, nói thêm, “Tại sao lại lộn xộn quanh giường hấp hối? Nếu anh định bán đứng mình, sao không làm điều đó trong thời gian còn tốt để giành thắng giải thưởng Templeton, và đổ lỗi cho tuổi già lú lẫn”]

[14] “Lady Hope”: tên thật là Elizabeth Reid Cotton, chồng là Sir James Hope, nên gọi là “Phu nhân Hope”. (ở nước Anh, người có chồng mang tước hiệp sĩ (sir), vợ được gọi là “phu nhân” (lady)), Bà trắng trợn, đi xa sang tận Mỹ, để phao đồn chuyện bịa đặt, đại ý có thư từ và có lần đến thăm Darwin thấy ông đọc kinh Thánh và tỏ ý hối hận đã chối bỏ thuyết Tiến hóa của mình.

Tài liệu gia đình cho thấy không có thư từ nào của Darwin với bà, và trong thời Darwin đau bệnh, bà không trong số khách thăm viếng. Con trai và con gái Darwin đều sau đó lên tiếng đính chính, phản đối, và Lady Hope nín tiếng không trả lời. Trước sau, với lý do thương mại và cầu danh, bà đã dựng nên chuyện, không ai tin, nhưng những đám nhà thờ ghét sợ Darwin đã vẫn dùng câu chuyện này để tuyên truyền rằng “Thấy không, ngay cả Darwin cũng phải nhận là thuyết của mình sai với kinh Thánh và cuối cùng phải tự chối bỏ!”)

[15] 2000 năm của không-tin: Những người nổi tiếng có Can đảm để Nghi ngờ

[16] Michael Faraday (1791 – 1867): Nhà vật lý và hóa học người Anh đã có nhiều thí nghiệm đóng góp vào sự hiểu biết của kho học về điện từ trường (electromagnetism).

Glasites hay Sandemanians là những người theo một giáo phái Phản thệ truyền thống nhỏ do John Glas (1695-1713) và con rể của ông này là Robert Sandeman (1718-71) thành lập ở Scotland khoảng năm 1730.

[17] Templeton Foundation: Tổ chức Templeton do John Templeton thành lập năm1987. Sir John Marks Templeton (1912 – 2008) là một người Anh sinh ở Mỹ, nhà đầu tư thị trường chứng khoán, nhà kinh doanh và nhà hảo tâm thiện nguyện.

Giải Templeton (Templeton Prize) phát hàng năm, bắt đầu từ 1972, cho những nhân vật còn sống, theo hội đồng phát giải của Tổ chức Templeton là đã “có cống hiến đặc biệt khác thường với sự khẳng định chiều của đời sống tâm linh, hoặc qua viễn kiến sâu sắc, qua khám phá, hay qua công trình thực tiễn”. Cho đến 2001, giải thưởng có tên là “Giải Templeton cho Tiến bộ trong Tôn giáo”, và 2002-2008, đổi tên là “Giải Templeton cho Tiến bộ trong Khảo cứu hay Khám phá về những thực tại Tinh thần”. Tiền phát thưởng rất lớn, khoảng hơn 1 triệu bảng Anh.

Trong danh sánh những người nhận giải có: Desmond Tutu, bà Teresa, Dalai Lama, nhưng cũng có Billy Graham, Solzhenitsyn, và Nikkyō Niwano, người sáng lập và chủ tịch đầu tiên của tổ chức đạo Phật, Risshō Kōsei Kai.

[18] The Human Genome Project

[* Không nên nhầm lẫn với những dự án không chính thức bộ gene người, do đó rực rỡ (Và phi tôn giáo) “Buccaneer” của khoa học, Craig Venter. ]

[19] mạc khải: vén, kéo tấm màn che, cho thấy sự thật.

[20] Năm 1960, Crick đã nhận chức hội viên nghiên cứu danh dự ở Churchill College, Cambridge, với điều kiện là trường college mới này sẽ không có nhà nguyện Kitô. Sau đó, theo yêu cầu của một ân nhân tài trợ lớn khác, nhà trường đã cho xây một nhà nguyện. Winston Churchill đã viết thư cho Crick giải thích không sinh viên nào phải vào nhà nguyện, nếu họ không muốn, nên không nên thành ván đề; nhưng trong thư trả lời ngày 12/Oct/1961, Crick phản đối và còn kèm theo ngân phiếu 10 ghinê, nói rằng nếu như thế, đây là tiền ông cho nhà trường để nên bắt đầu xây thêm một nhà thổ chứa gái điếm (cho tương xứng với nhà nguyện Kitô).

[21] [Beit-Hallahmi and Argyle (1997).]

[22] US National Academy of Sciences (NAS): is an honorific society of distinguished scholars engaged in scientific and engineering research, dedicated to the furtherance of science and technology and to their use for the general welfare.. The institution that was founded in 1863 by President Abraham Lincoln eventually expanded to include the National Research Council, the National Academy of Engineering, and the Institute of Medicine. Collectively, the four organizations are known as the National Academies.

[23] [E. J. Larson and L. Witham, 'Leading scientists still reject God', Nature 394, 1998, 313.]

[24] [http://www.leaderu.com/ftissues/ft9610/reeves.html gives a particularly interesting analysis of historical trends in American religious opinion by Thomas C. Reeves, Professor of History at the University of Wisconsin, based on Reeves (1996).]

[25] tôi tạm dùng theo nghĩa:

website = trạm web (gồm nhóm những trang web)

webpage = trang web

home page = trang gốc

trạm web có trang gốc và gồm một nhóm những trang web

[26] [http://www.answersingenesis.org/docs/3506.asp.]

[27] The Royal Society of London for Improving Natural Knowledge, known as the Royal Society, is a learned society for science, and is possibly the oldest such society still in existence. Founded in November 1660, it was granted a Royal Charter by King Charles II as the "Royal Society of London". The Society acts as the UK's Academy of Sciences.

[28] [R. Elisabeth Cornwell and Michael Stirrat, manuscript in preparation, 2006.]

[29] Michael Shermer. How We Believe: The Search for God in an Age of Science. New York: W. H. Freeman and Co., 2000 Chúng ta tin tưởng như thế nào: Sự truy tìm Gót trong một thời đại khoa học.

[30] meta analysis

[31] [P. Bell, 'Would you believe it?’ Mensa Magazine, Feb. 2002, 12-13.]

[32] Nobel: Giải thưởng quốc tế nổi tiếng nhất, phát hàng năm cho những cá nhân lỗi lạc trong các ngành Vật lý, Hóa học, Văn chương, Hòa bình, Sinh lý hay Y học, và Kinh tế. Giám khảo là Hội đồng Nobel của viện Hàn lâm Sweden thuộc Viện hàn lâm Khoa học Hoàng gia Sweden, và Hội đồng Nobel Norway (cho giải Hòa bình). Giải thưởng bắt đầu từ năm 1901 trên quĩ tài trợ do A. Nobel, một nhà kỹ nghệ người Sweden, thiết lập.

Crafoord: Giải thưởng quốc tế hàng của viện Hàn Lâm Khoa học Hoàng gia Sweden, bắt đầu từ 1982, như bổ túc cho giải Nobel, trao cho các môn: Thiên văn học, Toán học, Địa chất và Sinh học, với nhấn mạnh đặc biệt về Sinh thái học, và bệnh viêm khớp (bệnh của người lập quĩ tài trợ, Holger Crafoord, một nhà kỹ nghệ người Sweden, trong những năm cuối đời).

Fields: Giải thưởng quốc tế cao nhất về Toán học, tương đương với giải Nobel (vốn không có giải Toán học) của Hội nghị quốc tế những nhà toán học tại Toronto, bắt đầu từ năm 1924. Sau đó Liên hội quốc tế toán học trao giải bốn năm một lần. Giải thưởng mang tên người lập quĩ tài trợ là nhà toán học J. C. Fields, người Canada.

The Kyoto Prize: Giải thưởng quốc tế hàng năm của Nhật, tương đương với giải Nobel, bắt đầu từ 1984 do tổ chức Inamori thành lập. Giải thưởng này là một trong những giải thưởng quốc tế uy tín nhất cho sự nghiệp một đời thành tựu trong nghệ thuật và khoa học.

Cosmos: Giải thưởng quốc tế hàng năm của Nhật, bắt đầu từ năm 1993, sau hội chợ quốc tế Osaka năm 1990, Japan. Nhằm duy trì tinh thần của “Sự Cộng sinh hòa hợp giữa Thiên nhiên và Con người”.

[33] Douglas Adams. Dirk Gently's Holistic Detective Agency(1987)

[34] trung tâm của giáo phái Mormon nước Mỹ.

[35] Stephen D. Unwin. The Probability of God: A Simple Calculation That Proves the Ultimate Truth. New York: Random House, 2004

Unwin là một nhà vật lý lý thuyết chuyên về QG (quantum gravity) và làm việc như một tùy viên Anh tại Bộ Năng lượng Mỹ. Hiện nay, ông là chủ tịch của công ty tư vấn riêng của ông, Công ty Unwin, chuyên sử dụng toán xác suất để tiến hành phân tích rủi ro bất ngờ và quản lý rủi ro bất ngờ cho những công ty khách hàng lớn khác nhau, có trong danh sách nổi tiếng Fortune 100, và những cơ quan quản lý quốc tế.

Trong quyển sách trên của ông, Unwin biện luận rằng phương trình toán của Thomas Bayes có thể dùng để tính được xác xuất “có/không” của câu hỏi Gót hiện hữu hay không. Ông không tuyên bố rằng phương pháp này của ông sẽ cho một xác xuất tuyệt đối mà mọi người sẽ đồng ý, nhưng nói rằng nó đem cho một phương thức mới mẻ, có hệ thống, trong đó xếp đặt những ý tưởng của con người theo mức độ nặng nhẹ, gắn trọng lượng vào mỗi tin tưởng, và vào sự không chắc chắn, để đi đến xác định những tác động tổng hợp của nó – trả lời câu hỏi sự hiện hữu của Gót sẽ có một xác xuất nào.

Unwin sử dụng phép tính xác suất Bayes, một phương pháp thống kê do R Thomas Bayes đưa ra từ đầu thế kỷ 18. Unwin bắt đầu với một xác suất 50 phần trăm rằng Gót hiện hữu (cho rằng 50-50 đại diện cho “sự thiếu hiểu biết tối đa”), sau đó áp dụng một sửa đổi của định lý Bayes. Unwin kết luận: “Khả năng mà Gót hiện hữu là 67%”. Nhưng sau đó ông lưu ý rằng “con số này có một yếu tố chủ quan vì nó phản ánh đánh giá của tôi về bằng chứng”. Unwin muốn nói đến những ước tính của ông qua những con số “D”, những giá trị mà ông xử dụng để có được ước tính của ông, đây là những hằng số đưa vào phương trình và giá trị của chúng dĩ nhiên là rất chủ quan, nên có nhiều tranh cãi với phương pháp của Unwin, bắt đầu ngay với những con số “D” này.

Thomas Bayes (1701 – 1761) là một nhà toán học và cũng là một thày chăn chiên đạo Thệ phản dòng Presbyterian, người Anh. Ngày nay ông nổi tiếng vì một định lý mang tên ông: Định lý Bayes. Bayes đưa ra để giải quyết bài toán “xác suất nghịch đảo” (inverse probability), được ông trình bày trong tiểu luận “An Essay towards solving a Problem in the Doctrine of Chances” đọc trước Hàn lâm viện Anh (Hội Hoàng gia) năm 1763.

Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ thứ mười tám, nhiều bài toán liên quan đến xác suất của một số sự kiện nhất định, nếu biết những điều kiện đặc biêt của nó, đã có thể giải được. Thí dụ, đưa ra một con số của những viên bi màu trắng và đen trong một chiếc bình, xác xuất lấy ra được một viên bi màu trắng (hay đen) là gì? Sau đó, chú ý nhanh chóng chuyển sang đảo ngược của bài toán đó: nếu biết số những lần màu trắng và đen được rút ra, chúng ta có thể nói gì về số lượng những bi trắng và đen trong bình ? Đây thường được gọi là bài toán về “xác suất nghịch đảo”. Tiểu luận của Bayes đưa ra giải pháp của ông cho một bài toán tương tự.

Bayes and Bayesianism: Bayesian probability is the name given to several related interpretations of probability, which have in common the notion of probability as something like a partial belief, rather than a frequency. This allows the application of probability to all sorts of propositions rather than just ones that come with a reference class. "Bayesian" has been used in this sense since about 1950. Since its rebirth in the 1950s, advancements in computing technology have allowed scientists from many disciplines to pair traditional Bayesian statistics with random walk techniques. The use of the Bayes theorem has been extended in science and in other fields.

Bayes himself might not have embraced the broad interpretation now called Bayesian. It is difficult to assess Bayes's philosophical views on probability, since his essay does not go into questions of interpretation. There Bayes defines probability as follows (Definition 5).

The probability of any event is the ratio between the value at which an expectation depending on the happening of the event ought to be computed, and the value of the thing expected upon its happening

In modern utility theory, expected utility can (with qualifications, because buying risk for small amounts or buying security for big amounts also happen) be taken as the probability of an event times the payoff received in case of that event. Rearranging that to solve for the probability, Bayes's definition results. As Stigler points out,this is a subjective definition, and does not require repeated events; however, it does require that the event in question be observable, for otherwise it could never be said to have "happened". Stigler argues that Bayes intended his results in a more limited way than modern Bayesians; given Bayes's definition of probability, his result concerning the parameter of a binomial distribution makes sense only to the extent that one can bet on its observable consequences.

[36] Bayes’ Theorem for DummiesFor Dummies (Cho những kẻ Cả Đẫn) là một tủ sách xuất bản hàng loạt, có mục đích phổ biến kiến thức khá chuyên môn nhưng ngày nay được xem là cần thiết, cho những độc giả không trong giới chuyên môn, về mọi loại chủ đề khác nhau. Tủ sách rất thành công về phương diện thương mại trong thị trường xuất bản Anh ngữ.

[37] [Thày chăn chiên đạo thệ phản Green là tên nhân vật trong những ấn bản của Cluedo bán ở Anh (là gốc của trò chơi), Australia, New Zealand, India và tất cả những vùng nói tiếng Anh khác, ngoại trừ khu vực Bắc Mỹ, nơi nhà chăn chiên này đột nhiên trở thành “ông Green”. Tất cả chuyện này là gì đây?]

[38] Garbage In, Garbage Out: rác vào thì rác ra (trong cômputơ)

[39] risk management

[40] Theodicy: luận thuyết bào chữa Gót tốt lành và công chính mặc dù thực tại thiên tai, khổ đau trên thế giới. (Tàu dịch: thần nghĩa luận – 神义论; hay thần chánh luận 神正论). Các nhà chuyên học về Gót định nghĩa là “sự bào chữa, chứng minh tính chất chính đáng của sự lo xa bảo bọc của gót đối mặt với sự hiện hữu của cái ác”. Tôi dịch là gót chính luận cho đúng nội dung này, với nghĩa nói cho đẹp chữ là biện luận cho sự công chính của gót, nhưng rõ nghĩa, đúng hơn là sự cãi lấy đúng cho Gót.

Tại sao bất hạnh xảy ra cho những người thiện lành? Tại sao một đứa bé vô tội chết vỡ óc, trong tai nạn ô tô, nhưng người tài xế say rượu kia lại không hề hấn gì? Tầm mức lớn hơn – những nạn nhân vô tội trong chiến tranh nhân loại – phụ nữ, trẻ em, già lão,.. đã chịu thảm tử, thương tật. Những nạn nhân của động đất, núi lửa, sóng thần, bão lụt, hỏa hoạn. Tại sao?

Những vấn nạn không thể đáp này là trọng tâm môn học theodicy trong môn học chuyên về Gót của đạo Kitô; tên gọi theodicy do Leibnitz đặt ra. Không phải chỉ là suy luận loại như “Tại sao xấu ác lại xảy ra với, x, y z hay là tôi?”. Nhưng nó đưa đến những câu hỏi triết học về bản chất của một Gót theo những tôn giáo Abraham vẫn xác định và mô tả. Gót là ai? Ông ta ra sao? (Who or what is God?) Nếu Gót toàn thiện sao lại để những xấu ác xảy ra? Hay Ông không ngăn ngừa nổi? Hai đặc tính toàn năng và toàn thiện mâu thuẫn nhau trước thực tại của thế giới nhân văn và tự nhiên.

Về phần nhân văn – nếu quay đổ lại cho đặc tính ý chí tự do (free will) của con người, giả định như vậy, những hành động tàn ác của nhân loại có nằm trong tiên liệu của Gót không? Nếu có, sao lại không ngăn? Nếu không? Vậy không là toàn trí.

Và còn những Tà Ác (evil)? Phải chăng có một Tà Ác mặt đối mặt chống lại Gót, hay Tà Ác chỉ là sự vắng mặt của Gót? Nhìn cách nào đi nữa, Gót không toàn khắp (omnipresent), nghĩa là không có đồng thời khắp mọi nơi. Vì nếu Tà Ác là sự vắng mặt của Thiện lành, và Gót là toàn thiện lành, phải có một thời không – trong ấy là không-Gót.

Cứ như thế, những câu hỏi bất tận, tốn không biết bao nhiêu giấy mực và cả xương máu về một Gót của những tôn giáo độc thần Abraham. Lý do, của tất cả những loanh quanh đó, là khái niệm Gót vốn chỉ đơn giản là sản phẩm của con người trong một thời mông muội nhưng vẫn được một tập đoàn ký sinh trùng cố giữ lại, bằng mọi cách khéo léo cấy trồng vào não thức của những con người yếu đuối, biến họ thành những nô lệ tinh thần (con người sáng tạo ra Gót, không phải Gót sáng tạo ra con người) và như Dawkins đang chứng minh ở đây – Gót là một huyễn tưởng, không có sức mạnh nào cả, sức mạnh tàn hại thế gian đến từ những phủ thủy đeo mặt nạ vẽ hình Gót, hô phong hoán vũ gọi tên Gót (bằng từ Latin)! Hãy nhìn lại dao kiếm đẫm máu người trong tay những phù thủy mới là dao kiếm thật, dao kiếm trong tay những “thiên thần” chỉ bằng gỗ, hay sắt, đá trên thân tượng, đứng bất động, không hề giết được ai!

Dawkins đi xa hơn – theo ông không nên nêu lên luận chứng về tà ác, và chúng ta không cần đến nó để chứng minh Gót không thực, vì những tiền giả định của nó. Khi chúng ta đứng trước một nạn nhân, hỏi -Tại sao một đứa bé vô tội chết vỡ óc, trong tai nạn ô tô, nhưng người tài xế say rượu kia lại không hề hấn gì? tại sao? – Chúng ta đã giả định có một kẻ nào đó đứng sau tất cả, đã giật dây này kéo dây kia, gây ra thảm cảnh – (như chúng ta vẫn hỏi “cao xanh kia có hay?”) – một giả định nữa là kẻ đó một người biết làm, có thể làm điều tốt, hay vẫn làm điều tốt, nhưng trong trường hợp này đã không làm! Nghĩa là, rước sau, đó là một kẻ tốt lành, lương thiện, thương người.

Nghĩ lại xem, thực sự trước sau, không có ai “làm” cả, có thể có rất nhiều dây kéo mối buộc, nhiều bàn đạp chỗ này, thắng chỗ kia, nhưng không chỉ có một, và không có chủ ý nào ở sau chúng (không có Gót, chỉ là một huyễn tưởng) và nếu tạm cho có Gót như những người mê tín vẫn tin cho đến nay quanh chúng ta – Gót đó, theo nguyên bản truyền thuyết, cũng đã biết thực sự không là một kẻ toàn thiện gì cả, trái lại Gót Abraham của đạo Kitô như kể trong Cựu Ước là một kẻ hết sức bất nhân, tàn ác kinh khủng, giết người như ngóe, nháy mắt, không chút động tâm, chần chừ : “Gót của Cựu Ước có thể được cho là nhân vật cực kỳ khó chịu, gây tai giáng họa bất hạnh, ứng xử không thân thiện, bất cần, và thô lỗ nhất trong tất cả mọi truyện giả tưởng: kẻ ghen tuông và tự hào về điều đó, một quái vật tính tình đồng bóng, thất thường luôn muốn dành quyền kiểm soát, hiềm thù không hề biết tha thứ, nhỏ nhen, bất công, kẻ tẩy rửa sắc tộc khát máu; kẻ ghét phụ nữ, kẻ ghét đồng tính luyến ái, kẻ kỳ thị chủng tộc, kẻ giết trẻ con, kẻ diệt chủng, kẻ giết con ruột, kẻ độc hại như bệnh dịch, kẻ thích làm lớn, hoang tưởng tự đại, kẻ bạo dâm, cuồng dâm, ác dâm, thông dâm và loạn dâm, kẻ ác độc thất thường lại hay bắt nạt”. (Xem chương I)

Một Gót như thế, nên mới có những nhà gót học chuyên ngành “theodicy”, cãi lấy đúng cho Gót – bào chữa cho Gót, đặc biệt “con tạo đành hanh này” đã bị đưa ra tòa công luận, từ thời cổ đại Hylạp, với Luận chứng Tà ác cổ điển của Epicurus, nhưng trong câu hỏi của ông đã tiềm ẩn những giả định:

– có gót

– Gót đó tốt lành

– Nên “tại sao Gót đó” không những chỉ tạo ra, nhưng lại tiếp tục để những tà ác sống mãi ???

và như thế luận chứng này đã dựa trên giả định có hiện hữu của Gót. Khi hỏi tại sao không may bất hạnh xảy ra cho người tốt – là đã công nhận có một gì đó sắp xếp định đoạt số phận con người, nắm dây kéo nhợ chuyển đổi những biến cố nhân văn và thiên nhiên, và lại còn cho là kẻ nắm dây kéo nhợ đó có bản chất tốt lành!

Quá nhiều với một khái niệm tưởng tượng – quá nhiều với một huyễn tưởng.

Posted by Lê Dọn Bàn

Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2017

Richard Dawkins – Huyễn Tưởng Gót (20)


                          Huyễn Tưởng Gót
                                            Richard Dawkins

                                            (The God Delusion)

Chương 7 (tiếp theo)

Hãy Yêu Láng Giềng nhà Ngươi

Khôi hài đen của John Hartung thì hiển nhiên ngay từ đầu, [1] ở chỗ ông kể về một người Thệ phản Baptist ở miền Nam nước Mỹ, khởi xướng để đếm số người của tiểu bang Alabama trong hỏa ngục. Như tờ New York Times Newsday đã thuật lại, con số tổng kết là 1, 86 triệu người, được ước tính bằng một công thức bí mật, gán cân nặng nhẹ, theo đó những tín đồ Methodist có nhiều khả năng được cứu hơn so với những tín đồ Catô Lamã, trong khi “tất cả mọi người nếu không thuộc về một họ đạo nhà thờ nào cả, đều được cộng vào con số những kẻ không được cứu”. Sự dương dương tự mãn tự đắc siêu phàm của những người như vậy được phản ảnh trong nhiều trang web “cực sướng” ngày nay, nơi mà tác giả của nó luôn có thái độ xem như chuyện đương nhiên phải có rằng ông sẽ là một trong những người “biến mất” vào thiên đường khi “ngày giờ cuối” xảy đến. Dưới đây là một thí dụ điển hình, từ tác giả của “Rapture Ready”, một trong nhiều sự phô trương lòng mộ đạo nhờm tởm hơn cả thuộc mẫu thử nghiệm cho loại này: “Nếu sự cực sướng rồi sẽ có diễn ra, kết quả trong sự vắng mặt của tôi, điều sẽ trở nên cần thiết để “những thánh trong thời hoạn nạn” copy sao chụp lại, hoặc hỗ trợ tài chính cho trang web này” [2].

Diễn giải về kinh Thánh của Hartung gợi ý rằng nó không cung cấp những nền tảng cho sự tự mãn tự đắc thiển cận như vậy giữa những người Kitô. Jesus đã nghiêm ngặt giới hạn những người trong-nhómđược cứu của ông chỉ gồm những người Dothái, đó là ông đã theo truyền thống Cựu Ước, đó cũng là tất cả những gì ông được biết. Hartung rõ ràng cho thấy rằng “Ngươi không được giết người” đã không bao giờ dự định sẽ có nghĩa như những gì chúng ta bây giờ nghĩ rằng nó có nghĩa. Nó có nghĩa, rất đặc biệt, là ngươi sẽ không giết người Dothái. Và tất cả những điều răn đó có nhắc tới “láng giềng nhà ngươi” là cũng chuyên biệt như thế. “Láng giềng” có nghĩa là một người Dothái, cùng giống, cùng tộc [3]. Moses Maimonides, nhà rápbai Dothái thế kỷ thứ mười hai rất được tôn kính và cũng là một y sĩ, khai mở đầy đủ ý nghĩa của “Ngươi sẽ không giết người” như sau: “Nếu một người giết chỉ một người Israel, người ấy đã đạp qua, phủ nhận một điều răn, vì kinh Thánh nói: ngươi không được giết người. Nếu một người giết một ai cố ý với sự hiện diện của những nhân chứng, người ấy sẽ bị giết chết bằng kiếm. Không cần phải nói, một người sẽ không bị xử và giết, nếu người ấy giết chết một người ngoại đạo”. Không cần phải nói!

Hartung trích dẫn Sanhedrin (Tòa án Tối cao của người Dothái, đứng đầu là vị giáo sĩ tối cao) trong cùng một mạch suy nghĩ tương tự, như khi miễn tội cho một người là người được giả thuyết đã giết chết một người Dothái do nhầm lẫn, trong khi có ý định giết một con vật hay một người ngoại đạo. Câu hỏi hóc búa một chút trêu chọc đạo đức nêu lên một điểm hay. Điều gì xảy ra nếu ông đã ném một hòn đá vào một nhóm gồm chín người ngoại đạo và một người Dothái, và có bất hạnh là giết chết người Dothái? Hm, khó khăn thật! Nhưng câu trả lời là đã sẵn sàng. “Sau đó, tính không trách nhiệm pháp lý của ông có thể được suy ra từ sự kiện là đại đa số đã gồm những người ngoại đạo”. [4]

Hartung dùng rất nhiều những trích dẫn kinh Thánh giống như tôi đã dùng trong chương này, về cuộc chinh phục đất hứa của Moses, Joshua và những phán quan Dothái. Tôi đã cẩn thận để thừa nhận rằng những người mộ đạo Kitô không còn suy nghĩ trong một cách thức như kinh Thánh nữa. Đối với tôi, điều này chứng minh rằng đạo đức của chúng ta, dù chúng ta là tôn giáo hay không, đến từ một nguồn khác, và nguồn khác đó, dù nó là bất cứ gì đi nữa, thì có sẵn cho tất cả chúng ta, không phân biệt có hay không tôn giáo. Nhưng Hartung kể một nghiên cứu kinh hoàng của nhà tâm lý học người Israel, George Tamarin. Tamarin trình bày cho hơn một ngàn học sinh Israel, tuổi từ tám và mười bốn, những ghi chép về trận chiến của Jericho trong kinh Thánh, sách của Joshua:

Joshua nói với mọi người, “Hét lên, vì Gót đã ban cho các ngươi thành phố. Và thành phố cùng tất cả những gì bên trong nó sẽ được dành trọn cho Gót để tiêu huỷ.. . Nhưng tất cả bạc và vàng, và những đồ thờ như hương đèn, lư, đỉnh, chậu bằng đồng và sắt, là thiêng liêng với Gót, chúng sẽ đi vào kho bạc của Gót”.. .. Sau đó, họ đã phá hủy hoàn toàn tất cả mọi thứ trong thành phố, cả nam và nữ, trẻ và già, bò, cừu, và lừa, với lưỡi kiếm sắc.. . Và họ châm lửa đốt thành phố, và tất cả những gì bên trong nó, chỉ trừ có bạc và vàng, và những đồ thờ bằng đồng và bằng sắt, họ đưa vào kho bạc của (đền thờ là) nhà của Gót.

Tamarin sau đó hỏi những trẻ nhỏ một câu hỏi đạo đức đơn giản: “Em có nghĩ rằng Joshua và dân Dothái đã hành động đúng hay không?” Chúng phải lựa chọn giữa A (hoàn toàn đồng ý), B (một phần đồng ý) và C (hoàn toàn không đồng ý). Những kết quả đã bị phân cực: 66 phần trăm hoàn toàn đồng ý, và 26 phần trăm hoàn toàn không đồng ý, với khá ít (8 phần trăm) ở giữa, với một phần đồng ý. Dưới đây là ba câu trả lời điển hình từ nhóm (A) hoàn toàn đồng ý:

Theo ý kiến của tôi, Joshua và những con cái của Israel đã hành động giỏi dang, và đây là những lý do: Gót đã hứa cho họ đất này, và ban cho họ được phép để chinh phục. Nếu họ đã không hành động theo cách này hoặc không giết bất cứ ai, sau đó là sẽ có nguy hiểm rằng những con cái của Israel sẽ bị đồng hóa giữa những Goyim (đám dân không-Do thái).

Theo ý kiến của tôi Joshua đã đúng khi ông đã làm thế, một lý do có được là Gót truyền lệnh cho ông ta để tiêu diệt đám người đó, để những bộ tộc của Israel sẽ không có thể chịu đồng hóa giữa đám họ, và học những thói xấu của họ.

Joshua đã làm tốt vì những người cư trú ở đất đó đã thuộc một tôn giáo khác biệt, và khi Joshua giết họ chết, ông bị xóa sổ tôn giáo của họ khỏi mặt đất.

Sự biện minh cho vụ thảm sát diệt chủng của Joshua là có tính chất tôn giáo trong mọi trường hợp. Ngay cả những trẻ con trong thể loại C, những em đã hoàn toàn không đồng ý, cũng đã làm như vậy, trong một vài trường hợp, vì những lý do tôn giáo đối ngược. Một em gái, lấy thí dụ, không chấp thuận sự chinh phục Jericho của Joshua, vì để làm được như vậy, ông đã phải đi vào thành đó:

Tôi nghĩ rằng đó là xấu, vì người Ả Rập là không tinh khiết và nếu một người vào một vùng đất không tinh khiết cũng sẽ trở nên mất tinh khiết và nhận chịu cùng lời nguyền của họ.

Hai em khác hoàn toàn không chấp thuận đã làm như vậy, vì Joshua đã phá hủy tất cả mọi thứ, kể cả động vật và tài sản, thay vì giữ lấy một ít như chiến lợi phẩm cho dân Dothái:

Tôi nghĩ Joshua đã không hành động tốt, vì đã có thể chừa lại những thú vật cho bọn họ.

Tôi nghĩ Joshua đã không hành động tốt, như ông đã có thể chừa lại những bất động sản của Jericho, nếu ông đã không bị phá hủy, những bất động sản đó sẽ phải thuộc về dân Dothái.

Một lần nữa, với nhà hiền triết Dothái Maimonides [5], thường được trích dẫn vì thông thái bác học của ông, thì không phải nghi ngờ đâu là vị trí của ông về vấn đề này: “Đây là một lênh truyền tích cực để tiêu diệt bảy quốc gia, như nó đã nói: Người sẽ hoàn toàn tiêu diệt chúng. Nếu người ta đã không giết chết bất kỳ một nào trong số chúng sau khi đã rơi vào trong quyền lực của một người, người ấy đã đạp lên, phủ nhận lênh truyền, vì nó đã nói: “Người sẽ không được cứu sống bất cứ gì có hơi thở”.

Không giống Maimonides, những trẻ em trong thí nghiệm của Tamarin đều còn trẻ tuổi đủ để là ngây thơ. Có lẽ quan điểm dã man chúng đã bày tỏ là của cha mẹ chúng, hoặc của nhóm văn hóa mà chúng đã được nuôi dạy. Đó là, tôi cho rằng, không phải là những trẻ em Palestine, lớn lên trong cùng một đất nước bị chiến tranh tàn phá này, sẽ không đưa ra những ý kiến tương đương nhưng theo chiều hướng ngược lại. Những xem xét nhận định này làm tuyệt vọng đầy trong tôi. Chúng dường như cho thấy sức mạnh lớn lao của tôn giáo, và đặc biệt là trong tôn giáo mà trẻ em đã được giáo dục, để phân rẽ con người và nuôi dưỡng những oán hận lịch sử và phục thù đẫm máu truyền kiếp. Tôi không thể nào không lại nhận xét rằng là hai trong ba trích dẫn đại diện từ nhóm A của Tamarin đã đề cập đến những tà ác của sự đồng hóa (tôn giáo), trong khi một phần ba nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phải giết người khác để dập tắt tôn giáo của họ.

Tamarin đã “chạy” một nhóm kiểm soát hết sức đáng chú ý trong thí nghiệm của ông. Một nhóm khác, gồm 168 trẻ em Israel, nhận cùng một bản văn từ tập sách của Joshua, nhưng với tên của Joshua được thay thế bằng “Đại tướng Lin”, và “Israel” được thay thế bằng “một vương quốc Tàu 3000 năm trước”. Bây giờ thí nghiệm đã cho những kết quả trái ngược. Chỉ có 7 trên phần trăm hoàn toàn đồng ý hành vi của Lin, và 75 phần trăm hoàn toàn không đồng ý. Nói cách khác, khi lòng trung thành của đám trẻ với đạo Dothái đã bị loại bỏ khỏi sự tính toán, đa số những trẻ em đồng ý với những phán đoán đạo đức mà hầu hết con người hiện đại sẽ đồng ý chia sẻ. Hành động của Joshua là một hành động diệt chủng man rợ. Nhưng nó đều được nhìn khác nhau tất cả từ một quan điểm của tôn giáo. Và sự khác biệt bắt đầu sớm trong đời sống. Đó là tôn giáo đã làm nên khác biệt giữa trẻ em lên án sự diệt chủng và tha thứ nó.

Trong nửa sau bài khảo cứu của Hartung, ông chuyển sang Tân Ước. Để cung cấp một bản tóm tắt ngắn gọn về luận án của ông, Jesus đã là một tín đồ, trọn vẹn với cùng một loại đạo đức của trong-nhóm – đi kèm với sự thù địch ngoài-nhóm – điều đó đã được xem như đương nhiên có trong Cựu Ước. Jesus là một người Dothái trung thành. Đó là Paul mới là người đã phát minh ra ý tưởng lấy Gót của dân Dothái cho dân ngoài-Do thái. Hartung nói nó ra một cách thẳng thừng hơn là tôi dám nói: “Jesus có thể đã dãy đành đạch dưới mồ, nếu ông đã biết được rằng Paul sẽ lấy chương trình của ông đem cho những con lợn”. [6]

Hartung có một vài thích thú vui vẻ với sách Khải Huyền, mà chắc chắn là một trong những quyển sách kỳ quái nhất trong kinh Thánh. Nó được cho là đã được thánh chiên John viết, và như Hướng dẫn vào kinh Thánh của của Ken đã gọn gàng viết về nó, nếu những thư từ của ông có thể được xem như là (một) John say thuốc (cần sa), sau đó sách Khải huyền là (một) John say átxít [7]. Hartung kéo chú ý tới hai câu trong sách Khải Huyền, nơi con số gồm những ai là người đã “dán-kín” (mà một vài giáo phái, như là Những Nhân chứng của Jehovah, giải thích có nghĩa là “được cứu”) thì giới hạn với 144.000. Hartung chỉ ra là tất cả họ đều đã phải là người Dothái: 12. 000 người của mỗi bộ lạc trong số 12 bộ lạc. Ken Smith còn đi xa hơn nữa, chỉ ra rằng 144.000 được chọn được cứu, “không ô uế chính họ với phụ nữ”, vậy có lẽ có nghĩa là không ai trong số họ có thể là phụ nữ. Vâng, đó là những thứ thuộc loại mà chúng ta đã đi đến mong đợi.

Còn có rất nhiều hơn nữa trong bài khảo cứu đọc rất thích thú của Hartung. Tôi sẽ chỉ đơn giản giới thiệu nó một lần nữa, và tóm tắt nó trong một trích dẫn:

Kinh Thánh là một bản vẽ kế hoạch chi tiết của đạo đức trong-nhóm, hoàn tất với những hướng dẫn cho diệt chủng, sự nô lệ của những ngoài-nhóm, và thống trị thế giới. Nhưng Kinh Thánh không phải là xấu ác do phẩm tính của những mục tiêu của nó, hay thậm chí sự tôn vinh của nó về giết người, đối xử tàn ác, và hãm hiếp. Nhiều tác phẩm cổ đại đều làm những điều đó – Tập Iliad, Saga của dân Iceland, những câu chuyện của người Syria cổ đại, và ghi khắc của người Maya cổ đại, thí dụ. Nhưng không có ai đem Iliad ra bán rao như một nền tảng cho đạo đức. Vấn đề thì nằm ở chính chỗ đó. Kinh Thánh được bán, và mua, như một hướng dẫn về cách mọi người nên sống đời sống họ như thế nào. Và nó, cho đến nay, là tác phẩm bán chạy nhất của tất cả mọi thời.

Đừng sợ để có ý nghĩ rằng sưh dành riêng độc quyền trong đạo Dothái truyền thống là duy nhất giữa những tôn giáo, hãy đọc những câu tự tin sau đây, từ một bài thánh ca của Isaac Watts (1674-1748):

Gót, tôi gán nó với Ân huệ Ngài,

Và không với ngẫu nhiên, như những người khác làm,

Rằng tôi đã được sinh ra từ giòng giống Kitô

Và không phải là một người ngoại đạo hoặc một người Dothái.

Điều khó hiểu như đố hiểm với tôi về câu này không phải là tính chất dành riêng độc quyền trong yêu tính của nó, nhưng lôgích của nó. Vì rất nhiều những người khác đã được sinh ra trong những tôn giáo khác Kitô, Gót đã quyết định – những người nào trong tương lai sẽ được nhận ân huệ sinh ra đời trong chọn lựa ưa thích đó – như thế nào? Tại sao lại ưa thích lựa chọn Isaac Watts và những cá nhân mà ông ta hình dung khi hát bài thánh ca của ông? Trong trường hợp nào đi nữa, trước khi Isaac Watts đã được hình thành trong thai mẹ, bản chất của thực thể được ưa chuộng đã là gì? Đây là những vùng nước sâu, nhưng có lẽ không quá sâu cho một não thức đã điều chỉnh cho thuận với gót học. Bài thánh ca của Isaac Watts là nhắc gợi ba cầu nguyện hàng ngày mà phái nam Chính thống và Bảo thủ (nhưng không Cải cách) người Dothái được dạy để đọc: “Phúc là Người đã không làm tôi là một ngoại đạo. Phúc là Người đã không làm tôi là người nữ. Phúc là Người đã không làm tôi là một nô lệ”.

Tôn giáo chắc chắn là một sức mạnh chia rẽ, và đây là một trong những tố cáo chính nhắm vào nó [8]. Nhưng đó là thường xuyên và đúng đã nói rằng chiến tranh, và những hận thù giữa những nhóm tôn giáo hay giáo phái, là hiếm khi thực sự về những bất đồng lý thuyết gót học. Khi một người dân Thệphản tự vũ trang ở Ulster giết một người một người Catô, hắn không phải lẩm bẩm với chính mình, “Ăn phát đạn này đi, thằng khốn, đồ đốt hương sặc sụa, đồ sùng bái Maria, đồ tin nhảm vào biến đổi bản thể!”[9]. Ông rất có thể sẽ chỉ là trả thù cái chết của một người Thệphản khác đã bị một người Catô giết chết, có lẽ trong giòng chảy của báo thù phục hận truyền đời được gìn giữ bền vững qua những thế hệ. Tôn giáo là mộtnhãn hiệu của hận thù và trả thù của trong-nhóm/ngoài-nhóm, không nhất thiết phải tồi tệ hơn hơn so với những nhãn hiệu khác như màu da, ngôn ngữ hoặc đội bóng đá ưa thích, nhưng thường có sẵn khi nhãn hiệu khác thì không.

Vâng và vâng, dĩ nhiên những rắc rối ở Bắc Ireland là chính trị. Thực sự đã có những áp bức kinh tế và chính trị của một nhóm này với nhóm khác, và nó ngược về quá khứ hàng thế kỷ. Có những bất bình thật sự và những bất công nguyên ủy, và những dường như có rất ít gì dính líu với tôn giáo, ngoại trừ việc – và điều này là quan trọng và bị phần lớn rộng rãi đã bỏ qua – nếu không có tôn giáo sẽ không có nhãn hiệu quyết định theo đó để đàn áp ai, và để trả thù ai. Và vấn đề thực tế ở Bắc Ireland là những nhãn hiệu được kế thừa xuống qua nhiều thế hệ. Người Catô, có cha mẹ, ông bà và cụ-kị, đã theo học những trường Catô, gửi con cháu họ theo học những trường Catô. Thệphản, có cha mẹ, ông bà và cụ-kị, đã theo học những trường Thệphản, ông bà đã đi đến trường học Thệphản, gửi con cháu họ theo học những trường Thệphản. Hai tập hợp gồm những người có cùng một màu da, nói cùng một ngôn ngữ, họ vui hưởng những điều tương tự, nhưng họ cũng có thể thuộc về loài khác nhau, hết sức sâu xa là sự phân chia lịch sử. Và nếu không có tôn giáo, và không có giáo dục tách biệt theo tôn giáo, sự phân chia sẽ giản dị là không có ở đó. Từ Kosovo đến Palestine, từ Iraq tới Sudan, từ Ulster tới tiểu lục địa India, xem xét cẩn thận tại bất kỳ khu vực nào của thế giới, nơi bạn thấy hận thù và bạo lực giữa những nhóm đối thủ bướng bỉnh không thể kiểm soát được. Tôi không thể đảm bảo rằng bạn sẽ tìm thấy những tôn giáo như là những nhãn hiệu chi phối cho trong-nhóm và ngoài-nhóm. Nhưng đó là một đánh cá vững có nhiều cơ may thành đúng.

Ở India, tại thời điểm phân chia lãnh thổ, hơn một triệu người đã bị tàn sát trong những dấy loạn bạo động tôn giáo giữa người Hindu và Muslim (và mười lăm triệu người phải bỏ nhà cửa, quê quán để di tản). Không có phù hiệu nào khác ngoài tôn giáo để dán nhãn ai là người để giết. Cuối cùng, không có gì để chia rẽ họ, ngoài tôn giáo. Động lòng vì một trận giao tranh ngắn nhưng khốc liệt gần đây của những tàn sát tôn giáo ở India, Salman Rushdie đã viết một bài gọi là “Tôn giáo, vẫn như bao giờ, là thuốc độc trong máu India” [10]. Dưới đây là đoạn kết của ông:

Có gì ở đó để tôn trọng trong bất kỳ nào của việc này, hoặc trong bất kỳ những tội ác nào đang phạm gần như hàng ngày quanh khắp thế giới dưới tên gọi đáng sợ của tôn giáo hay không? Giỏi khéo biết chừng nào, với những kết quả gây tử vong, tôn giáo dựng lên những tôtem, và chúng ta sẵn sàng biết bao để giết nhau vì chúng! Và khi chúng ta đã làm điều đó quá thường cho đến đủ, Sự suy giảm trong tác động từ những kết quả đó làm nó thành dễ dàng hơn để lại phạm vào điều đó lần nữa.

Vì vậy, vấn đề của India hóa ra là vấn đề của thế giới. Điều gì đã xảy ra ở India đã xảy ra dưới tên của Gót.

Tên của vấn đề là Gót.

Tôi không phủ nhận rằng khuynh hướng mạnh mẽ của nhân loại hướng tới trong lòng trung thành với trong-nhóm và thù đich, không thân thiện với ngoài-nhóm hiện hữu ngay cả trong sự vắng mặt của tôn giáo. Những người hâm mộ của những đội banh đối thủ là một thí dụ về hiện tượng rõ ràng tuy nhỏ. Ngay cả những người ủng hộ bóng đá đôi khi cũng phân chia theo dòng tôn giáo, như trong trường hợp của những đội Glasgow Rangers và Celtic Glasgow. Ngôn ngữ (như ở Belgium), chủng tộc và bộ lạc (đặc biệt ở châu Phi) có thể là những chứng cớ quyết định quan trọng. Nhưng tôn giáo khuếch đại và làm trầm trọng thêm những thiệt hại trong ít nhất ba cách:

• Dán nhãn vào trẻ em. Trẻ em được mô tả là “trẻ em Catô” hay “trẻ em Thệphản” … từ khi còn nhỏ tuổi, và chắc chắn còn quá sớm để chúng quyết định tâm trí riêng chúng về những gì chúng suy nghĩ về tôn giáo (tôi trở lại với sự nhiễu hại lạm dụng tuổi thơ này trong chương 9).

• Những trường học tách biệt (theo tôn giáo). Trẻ em được giáo dục, lại nữa, thường xuyên từ tuổi rất sớm, với những thành viên của cùng-nhóm đồng tôn giáo, và bị phân cách, cô lập với trẻ em của những gia đình theo những tôn giáo khác. Nó không phải là quá đáng khi nói rằng những khó khăn ở Bắc Ireland sẽ biến mất trong một thế hệ, nếu chế độ trường học tách biệt được bãi bỏ.

• Những tabu cấm kỵ đối với “kết hôn với người ngoại đạo”. Điều này kéo dài mãi những tranh chấp và oán cừu di truyền, bằng cách ngăn ngừa những trộn lẫn của những nhóm hận thù. Hôn nhân giữ người khác tôn giáo, nếu nó đã được cho phép, sẽ tự nhiên có khuynh hướng xoa dịu những thù địch.

Làng Glenarm ở Bắc Ireland là lãnh địa của hầu tước dòng Antrim. Trong một dịp còn nhớ rõ trong ký ức những người sống, người hầu tước thưở đó đã làm một việc không thể tưởng tượng: ông kết hôn với một người Catô. Ngay lập tức, trong mọi nhà khắp làng Glenarm, mọi màn sáo đều buông xuống như trong tang tóc. Sự kinh dị của việc “kết hôn ra ngoài” thì cũng phổ biến rộng rãi giữa những người sùng đạo Dothái. Một vài trẻ em Israel có lời chúng dẫn ở trên, đã nhắc đến những nguy hiểm thảm khốc của sự “đồng hóa” dẫn đầu trong chống đỡ và chấp thuận cuar chúng với Joshua trong trận Jericho. Khi người của những tôn giáo khác nhau kết hôn thực sự, nó được cả hai bên mô tả với sự báo hiệu như điềm gở là “hôn nhân hỗn tạp” và thường có những trận chiến kéo dài về việc những đứa con sẽ được nuôi dạy theo tôn giáo nào. Khi tôi còn là một đứa trẻ và vẫn còn mang một đèn nến cho Hội nhà thờ Anh giáo, tôi nhớ mình đã sững sờ khi nghe kể đến một qui luật ràng khi một người Catô Lamã lấy một người Anh giáo, những trẻ em luôn được nuôi dạy thành Catô. Tôi có thể dễ dàng hiểu lý do tại sao một thày chăn chiên của một giáo phái đêu sẽ cố gắng nhấn mạnh vào điều kiện này. Những gì tôi không thể hiểu được (vẫn không thể) là sự bất đối xứng. Tại sao những thày chăn chiên Anh giáo lại không trả đũa với qui luật ngược lại tương đương? Chỉ là ít tàn nhẫn hơn, tôi giả định vậy. Vị chăn chiên ở trường học cũ của tôi và kinh “Cha chúng ta” của Betjeman đã đơn giản là quá tử tế.

Những nhà xã hội học đã thực hiện những điều tra thống kê vềhomogamy tôn giáo (Kết hôn trong cùng tôn giáo) và heterogamytôn giáo (kết hôn khác tôn giáo). Norval D. Glenn, của Đại học Texas tại Austin, thu tập một số những nghiên cứu như vậy cho đến năm 1978, và phân tích chúng cùng nhau một lượt [11]. Ông kết luận rằng có một khuynh hướng mang ý nghĩa đáng chú ý hướng tớihomogamy tôn giáo trong giới Kitô (Thệphản kết hôn với Thệphản, và Catô kết hôn với Catô, và điều này vượt xa chuyện “hai bên láng giềng gần nhau lấy nhau” bình thường), nhưng nó thì đặc biệt là đậm nét giữa những người Dothái. Trong một tổng số 6.021 những người kết hôn của thử nghiệm trả lời với bảngg câu hỏi, có 140 tự được gọi là người Dothái, trong số này, 85,7 phần trăm lập gia đình với người Dothái. Điều này là cực kỳ lớn hơn tỷ lệ ngẫu nhiên kỳ vọng của tỷ lệ những hôn nhân homogamous (cùng tôn giáo). Và dĩ nhiên nó sẽ không đến như là mới lạ gì cho bất cứ ai. Những người sùng mộ và tuân thủ đạo Dothái thì mạnh mẽ làm nản lòng sự “kết hôn ra ngoài”, và điều cấm kỵ tự nó cho thấy trong những câu chuyện cười của người Dothái về những bà mẹ cảnh cáo con trai của họ về những cô gái ngoại đạo shiksas tóc vàng nằm chờ để lừa phỉnh đưa chúng “vào tròng”. Dưới đây là phát biểu điển hình của ba rápbai Dothái Mỹ:

• “Tôi từ chối cử hành lễ cho những hôn nhân liên tín ngưỡng.”

• “Tôi hành lễ khi hai vợ chồng nói rõ dự định nuôi dạy con cái là người Dothái”.

• “Tôi hành lễ nếu cả hai người đều đồng ý nhận tư vấn tôn giáo trước hôn nhân”.

Rápbai Dothái, người sẽ đồng ý để hành lễ̉ cùng với một thày chăn chiên Kitô là rất hiếm, và có nhiều nhu cầu với người như thế.

Ngay cả như tôn giáo nếu bản thân nó đã không gây hại nào khác, tính lố lăng bất chính và cẩn thận nuôi dưỡng sự chia rẽ – sự chủ ý và cấy trồng thói ma cô dắt gái, lén lút nối giáo cho giặc của nó với khuynh hướng tự nhiên của loài người để thiên trọng chuộng đãi những trong-nhóm và phủ nhận, tránh xa những ngoài-nhóm – sẽ là đủ để làm nó là một sức mạnh đáng kể cho cái ác trong thế giới.

Tinh thần Thời đại (Zeitgeist) về Đạo đức

Chương này đã bắt đầu bằng cho thấy rằng chúng ta – ngay cả những người có tôn giáo giữa chúng ta – không đặt đạo đức của chúng ta trên nền tảng của những quyển sách thánh, bất kể những gì chúng ta có thể tưởng tượng rằng ưa chuộng đi nữa. Vậy sau đó, chúng ta quyết định thế nào về những gì là đúng và những gì là sai? Bất kể chúng ta trả lời câu hỏi đó thế nào, có một sự đồng thuận thực sự về những gì chúng ta xem xét đúng và sai: một sự đồng thuận chiếm ưu thắng một cách rộng rãi ngạc nhiên. Sự đồng thuận không có kết nối rõ ràng nào với tôn giáo. Nó trải dài, tuy nhiên, tới những người tôn giáo nhất, dù họ có hoặc không nghĩ rằng đạo đức của họ đến từ kinh Thánh. Với những trường hợp ngoại lệ ghi nhận được như những người Taliban ở Afghanistan và những người Mỹ Kitô tương đương, hầu hết mọi người đều mặc nhiên đồng ý thụ động với cùng một đồng thuận cởi mở rộng rãi của những nguyên tắc đạo đức. Đa số chúng ta không gây đau khổ không cần thiết; chúng ta tin vào tự do phát biểu ý kiến, và bảo vệ nó, ngay cả khi chúng ta không đồng ý với những gì đang được nói; chúng ta đóng phần thuế của chúng ta, chúng ta không ăn gian, không giết hại, không phạm tội loạn luân, không làm những gì cho người khác mà chúng ta không muốn đem làm cho chúng ta. Một vài những nguyên tắc tốt đẹp này có thể được tìm thấy trong những quyển sách thánh, nhưng chúng đã chôn vùi bên cạnh nhiều những thứ khác nữa. mà không người tử tế nào sẽ ước muốn để theo: và những sách thánh không đem cho bất kỳ một quy tắc nào để phân biệt những nguyên tắc tốt với những nguyên tắc xấu.

Một cách để bày tỏ đạo đức đồng thuận của chúng ta là như một “Mười Điều Răn Mới”. Nhiều cá nhân và tổ chức khác nhau đã có cố gắng này. Những gì có ý nghĩa quan trọng là họ có khuynh hướng đưa ra những kết quả đúng hơn là tương tự nhau, và những gì họ đưa ra là đặc trưng của thời đại, xảy ra là chính họ đang sống trong đó. Đây là một tập hợp gồm “Mười Điều Răn Mới”, có hôm nay, tôi tình cờ tìm thấy trên trang-web của một người không-tin-có-gót.[12]

• Đừng làm cho những người khác những gì bạn sẽ không muốn họ làm cho bạn.

• Trong tất cả mọi điều, cố gắng hết sức để không gây hại.

• Đối xử với những người đồng loại của bạn, những sinh vật sống chung trên trái đất này của bạn, và thế giới nói chung với thương yêu, chân thực, trung thành và tôn trọng.

• Đừng bỏ qua xấu ác lớn đến nhỏ từ cái nhìn điều hành công lý, nhưng luôn luôn sẵn sàng tha thứ cho việc làm sai trái nhưng đã tự nhận không vì ai bắt buộc, và đã thành thật hối tiếc.

• Hãy sống đời sống theo ý hướng của hân hoan vui mừng và ngạc nhiên tự hỏi muốn biết.

• Luôn luôn tìm để học một gì đó mới.

• Thử nghiệm tất cả mọi thứ, luôn luôn kiểm nghiệm những ý tưởng của bạn với những sự kiện, và sẵn sàng để loại bỏ, ngay cả một tin tưởng trân quí nếu nó không phù hợp với chúng.

• Không bao giờ tìm cách cấm cản, hoặc cắt bản thân bạn khỏi sự bất đồng ý kiến; luôn tôn trọng những người khác có quyền không đồng ý với bạn.

• Hình thành những ý kiến độc lập trên cơ sở của lý trí và kinh nghiệm riêng của bạn, không cho phép chính bạn bị những người khác dẫn dắt một cách mù quáng.

• Đặt câu hỏi với tất cả mọi sự-vật-việc.

Sưu tập nhỏ này không phải là công trình của một nhà hiền triết vĩ đại, hay tiên tri, hoặc đạo đức gia, luân lý học giả chuyên nghiệp. Nó chỉ là ghi chép trên trang-web khá bình thường, đúng hơn là cố gắng đáng yêu để tóm tắt những nguyên tắc của đời sống tốt đẹp ngày nay, để làm sự so sánh với Mười điều Răn trong kinh Thánh. Đó là danh sách đầu tiên tôi đã gặp, khi tôi đánh máy “Mười Điều Răn Mới” vào một prôgram tìm kiếm dữ kiện thông tin, và tôi chủ định không tìm thêm nữa. Tất cả điểm muốn nói là nó thuộc loại những danh sách mà bất kỳ một người bình thường, khuôn phép, sống theo những tiêu chuẩn đạo đức thông thường phải chăng, trong thời đại ngày nay sẽ đưa ra. Không phải tất cả mọi người sẽ ôm về nhà cùng một danh sách, và đều có đúng mười điều. Triết gia John Rawls [13] có thể bao gồm một vài điều gì đó như sau: “Luôn luôn đưa ra những quy tắc của bạn, như thể nếu bạn không biết liệu bạn sẽ là ở trên đầu hoặc dưới đáy của đẳng cấp xã hội” [14]. “ Một hệ thống phân chia thực phẩm, được cho là của người Inut, là một thí dụ thực tế của nguyên tắc của Rawls: cá nhân nào cắt phần chia thức ăn, sẽ là người lấy phần sau cùng.

Trong Mười điều răn sửa đổi của riêng tôi, tôi sẽ chọn một vài từ danh sách trên, nhưng tôi cũng sẽ cố gắng tìm chỗ, trong số những điều khác, cho:

• Hãy vui hưởng đời sống tình dục của bạn riêng có (miễn là nó không gây thiệt hại cho một ai khác) và để mặc người khác vui hưởng của họ trong riêng tư dù khuynh hướng của họ là gì đi nữa, vốn không phải là công việc của bạn.

• Không kỳ thị hay áp bức trên cơ sở chủng tộc, giới tính hoặc (như là nhiều càng tốt) những chủng loại động vật.

• Không nhồi sọ con em bạn. Hãy dạy chúng biết cách tự suy nghĩ cho bản thân chúng, biết cách đánh giá chứng cứ, và biết cách không đồng ý với bạn.

• Đánh giá tương lai trên một mức độ thời gian lâu dài hơn của riêng bạn.

Nhưng đừng bận tâm với những khác biệt nhỏ này về ưu tiên. Vấn đề là gần như tất cả chúng ta đã tiếp tục di chuyển, tiến tới, trong một cách lớn rộng, từ những thời của Kinh Thánh. Chế độ nô lệ, vốn đã được thực hành vì xem như đương nhiên trong kinh Thánh và trong suốt phần lớn lịch sử, đã bị bãi bỏ ở những nước văn minh trong thế kỷ XIX. Tất cả những quốc gia văn minh bây giờ chấp nhận những gì đã bị phủ nhận rộng rãi cho đến tận năm 1920, rằng một lá phiếu của người phụ nữ, trong cuộc bầu cử, hoặc trên một bồi thẩm đoàn, là bằng của một con người nam. Trong những xã hội đã khai sáng ngày nay (một thể loại mà rõ ràng là không bao gồm, thí dụ, nước Saudi Arabia), phụ nữ không còn bị coi là tài sản, như họ rõ ràng đã bị xem chỉ là như thế trong thời kinh Thánh. Bất kỳ một hệ thống pháp lý hiện đại nào, sẽ truy tố Abraham về tội bạo hành ngược đãi trẻ em. Và nếu như ông ta đã thực sự thực hiện kế hoạch của ông là hy sinh Isaac cho Gót, chúng ta sẽ phải kết án ông với tội giết người có chủ tâm mưu tính, là tội nặng nhất trong những tội giết người. Tuy nhiên, theo như tập tục ở thời kinh Thánh của ông, hành vi của ông đã được xem là hoàn toàn đáng khâm phục, vì tuân phục theo lệnh truyền của Gót. Tôn giáo hay không, chúng ta tất cả đã đều thay đổi đông đảo, quan trọng, và bằng khối lượng lớn lao, trong thái độ của chúng ta với những gì là đúng và những gì là sai. Bản chất của sự thay đổi này là gì, và những gì thúc đẩy nó?

Trong bất kỳ một xã hội nào, đều hiện hữu một sự đồng thuận có phần nào hơi bí ẩn khó hiểu, một sự nhất trí lạ lùng khó giải thích; nó thay đổi trong những khoảng thời gian mười năm, và vì thế, không phải là khoa trương để dùng từ-mượn tiếng Đức Zeitgeist(tinh thần của thời đại). Tôi đã nói: giờ đây quyền bỏ phiếu của phụ nữ trong những nền dân chủ trên thế giới là phổ thông, nhưng cải cách này, thật kinh ngạc vì nó thực sự cũng chỉ mới gần đây. Đây là những năm, ở những nước, quyền đầu phiếu đã ban cho phụ nữ:

New Zealand 1893, Australia 1902

Phần Lan 1906, Norway 1913

Nước Mỹ 1920, Anh 1928

Pháp 1945, Bỉ 1946

Thụy Sĩ 1971, Kuwait 2006

Sự lan rộng của những năm ghi nhận này qua suốt thế kỷ hai mươi, là một dụng cụ đo lường biểu kiến của Zeitgeist chuyển dịch. Một đo lường khác là thái độ của chúng ta với vấn đề chủng tộc. Trong phần những năm đầu của thế kỷ hai mươi, hầu như tất cả mọi người ở Anh (và ở nhiều nước khác nữa) sẽ bị phán đoán là một người kỳ thị chủng tộc theo những tiêu chuẩn ngày nay. Hầu hết người da trắng tin rằng người da đen (trong thể loại đó, họ đã gộp những người châu Phi thuộc rất nhiều chủng tộc khác biệt, với những nhóm không liên hệ ở India, Australia và Melanesia) là thấp kém so với người da trắng trong hầu hết mọi lĩnh vực, ngoại trừ – với thái độ kẻ cả bề trên – ý thức về nhịp điệu. Tương đương với (nhân vật tiểu thuyết gián điệp) James Bond, trong những năm 1920, là nhân vật Bulldog Drummond, người anh hùng trẻ tuổi duyên dáng vui tươi[15]. Trong một tiểu thuyết, The Black Gang, Drummond nói đến “dân Dothái, dân nước ngoài, và những dân khác chưa rửa ráy sạch sẽ “. Trong màn “gay cấn” nhất của The Female of Species, Drummond đã khéo léo ngụy trang như Pedro, người đầy tớ da đen của nhân vật “tà đạo” đối nghịch. Để tuyên bố úp mở bố đầy kịch tính về mình là ai, với người đọc cũng như với nhân vật tà đạo phản diện, rằng Pedro “thực sự là chính Drummond”, ông đã có thể nói cho biết: “Bạn nghĩ tôi là Pedro chăng. Một chút thôi bạn nhận ra rằng, tôi là kẻ không đội trời chung của bạn, là Drummond bị bôi đen”. Thay vào đó, ông đã chọn những từ này: “Mỗi hàm râu quai nón thì không phải là giả, nhưng mỗi mọi đen thì có mùi. Râu quai nón đó thì không phải là râu giả, bạn thân ơi, và mọi đen này thì lại không có mùi. Vì vậy, tôi nghĩ, có điều gì sai ở đâu đó”. Tôi đọc nó trong những năm 1950, ba mươi năm sau khi nó được viết ra, và nó đã vẫn (đúng là) có thể khiến một cậu bé bị tấn tuồng trên giấy mực lôi cuốn, đến không ghi nhận được sự kỳ thị chủng tộc. Ngày nay, điều đó, dẫu chỉ mường tượng, sẽ là không thể có được.

Thomas Henry Huxley, theo tiêu chuẩn của thời đại của ông, đã là một nhân vật trí tuệ khai sáng, và tiến bộ khai phóng. Nhưng thời của ông đã không phải của chúng ta, và năm 1871 ông đã viết như sau:

Không có con người lý trí nào, đã nhận thức được những sự kiện, lại tin rằng người da đen trung bình là ngang bằng, chưa nói là vượt trên, với người da trắng. Và nếu điều này là đúng, nó chỉ đơn giản là không thể tin được như thế, khi tất cả những khuyết tật của họ được loại bỏ, và sự tương đối của chúng ta phóng chiếu có một trường công bằng và không có ưa thích thiên lệch, cũng như không có áp bức, hắn sẽ có có khả năng cạnh tranh thành công với đối thủ, đầu óc lớn hơn và quai hàm nhỏ hơn của hắn, trong một cuộc ganh đua được tiến hành bằng những suy tưởng và không bàng những cắn xé. Những chỗ cao nhất trong đẳng cấp của văn minh sẽ chắc chắn không nằm trong tầm tay của những người anh em họ có da sậm màu của chúng ta .[16]

Là điều thông thường rằng những sử gia tốt, sẽ không phán đoán những phát biểu trong những thời quá khứ bằng những tiêu chuẩn của thời mình. Abraham Lincoln, như Huxley, đã đi trước thời của ông, nhưng quan điểm của ông về những vấn đề chủng tộc cũng có âm thanh lạc hậu của kỳ thị chủng tộc như trong thời chúng ta. Ở đây, ông đang trong một tranh luận năm 1858, với Stephen A. Douglas:

Tôi sẽ nói, sau đó, rằng tôi không, và cũng không bao giờ từng, nghiêng sang ủng hộ sự thực hiện dù trong bất kỳ cách nào sự bình đẳng xã hội và chính trị của chủng tộc da trắng và đen; rằng tôi không, và cũng không bao giờ từng, nghiêng sang ủng hộ cho người da đen làm cử tri hoặc bồi thẩm tòa án, cũng không làm họ được xem là đủ trình độ, điều kiện để giữ những chức vụ công quyền, cũng như được kết hôn với người da trắng, và tôi sẽ nói, thêm với điều này, rằng có một sự khác biệt thể chất giữa da trắng và da đen mà tôi tin rằng sẽ mãi mãi ngăn cấm hai chủng tộc chung sống với nhau trong những điều kiện xã hội và chính trị bình đẳng. Và trong cũng nhiều rằng hai chủng tộc không thể sống như thế, trong khi cả hai quả thực phải sống chung với nhau, thì phải có vị trí của trên cao và dưới thấp, và tôi cũng nhiều như bất kỳ người nào khác, nghiêng sang ủng hộ có vị trí trên cao được gán cho giống da trắng.[17]

Nếu như Huxley và Lincoln đã sinh ra và học hành trong thời chúng ta, họ (như những người khác) tất sẽ đầu tiên co rúm lại đều lấy làm lạ cùng với phần còn lại của chúng ta, trước thứ tình cảm thời Victoria và giọng điệu ngọt xớt của họ (như trên). Tôi trích dẫn họ chỉ để minh họa Zeitgeist đã thay đổi chuyển dịch thế nào. Nếu ngay cả Huxley, một trong những đầu óc lớn có tư tưởng tự do tiến bộ của thời đại ông, và thậm chí Lincoln, người đã giải phóng nô lệ, có thể nói những điều như vậy, hãy chỉ nghĩ thử xem một người trung bình thời Victoria đã phải có những suy nghĩ gì. Trở ngược lại với thế kỷ thứ mười tám, dĩ nhiên, đó là cũng được biết rằng những Washington, Jefferson và con người thời Khai sáng khác, đã nuôi giữ (những tôi tớ) nô lệ. Tinh thần thời đại, Zeitgeist, di chuyển tiến tới, do đó, không thể tránh được rằng đôi khi chúng ta nhận nó như đương nhiên sẵn có đó, và quên rằng sự thay đổi là một hiện tượng thực, xảy ra trong nghĩa đúng thực của nó.

Có rất nhiều thí dụ khác. Khi những thủy thủ là những con người đầu tiên lên bờ đảo hoang Mauritius, và thấy những con chim dododễ tính hiền lành, không bao giờ xảy ra với họ để làm bất cứ một điều gì khác hơn, là lấy gậy đánh chúng đến chết. Họ thậm chí còn không muốn ăn thịt chúng (chúng đã được mô tả như là không ngon miệng). Giả định rằng, đánh vỡ đầu một loài chim không biết tự vệ, thuần thục, bằng một cây gậy, có lẽ đã chỉ là một điều gì đó để làm. Nhưng ngày nay, hành vi như thế sẽ là không thể tưởng tượng được, và sự tuyệt chủng của một loài vật nào hiện đại, tương đương với tuyệt chủng của những con dodo, ngay cả chỉ do tai nạn ngẫu nhiên, chứ không phải nói chi đến do con người sát hại với chủ ý, thì được nhìn như một thảm kịch. [18]

Một thảm kịch giống đúng như thế, theo những tiêu chuẩn của khí hậu văn hóa ngày nay, là sự tuyệt chủng gần đây của Thylacinus, loài chó sói đảo Tasmania. Sinh vật giờ đây được xem như một biểu tượng thương tiếc, đã mang một món tiền thưởng trên đầu của chúng, cho đến mới đây, vào năm 1909. Trong những tiểu thuyết thời Victoria về Châu Phi, “con voi”, “con sư tử” và “con linh dương” (chú ý các danh từ với số ít, đã hé lộ) là “trò chơi” [19], và bạn làm những gì để chơi, không cần phải nghĩ ngợi đến hai lần, là bắn nó. Không phải để lấy thức ăn. Không phải để tự vệ. Chỉ là trò “thể thao”. Nhưng bây giờ Zeitgeist đã thay đổi. Phải thừa nhận rằng, những nhà “thể thao” giàu có, thích ngồi lì hơn vận động, vẫn có thể bắn những động vật hoang dã của châu Phi, từ sự an toàn của một chiếc xe Land Rover, và lấy đầu thú đem nhồi, mang về nhà. Nhưng họ phải trả tiền ngập mũi để làm như vậy, và bị rất nhiều người khinh miệt, xem thường vì làm điều như thế. Bảo vệ những loài động vật sống trong hoang dã, và bảo tồn môi trường, đã trở thành những giá trị được chấp nhận, có cùng tính cách đạo đức như đã từng có tương ứng với sự giữ gìn giới luật Sa-bát, hay xa lánh những hình tượng chạm khắc.

Những năm sáu mươi biến động là truyền thuyết vì sự tự do hiện đại của chúng. Nhưng vào đầu của mười năm đó, một luật sư công tố, trong phiên tòa xử Lady Lover của Chatterley, bị buộc tội khiêu dâm; vẫn có thể hỏi đoàn bồi thẩm: “Ông bà có chấp thuận cho con trai còn trẻ của mình, và con gái còn trẻ – Vì con gái cũng có thể đọc như con trai [bạn có thể tin được không, ông ta nói thế?] – đọc quyển sách này? Có phải nó là một quyển sách mà ông bà có thể bỏ mặc, nằm chỗ nào cũng được trong nhà của ông bà? Có phải nó là một quyển sách mà ông bà thậm chí sẽ muốn vợ hoặc đầy tớ gái của ông bà đọc hay không?” Câu hỏi tu từ cuối cùng này là một minh họa đặc biệt hết sức chấn động cho thấy tốc độ của sự thay đổi củaZeitgeist. [20]

Cuộc xâm lăng của Mỹ ở Iraq bị lên án rộng rãi vì những thương vong dân sự, thế nhưng những con số nạn nhân đã không trong cùng tầm mức, chúng thấp hơn nhiều, nếu so với con số của Thế giới Chiến tranh Thứ hai. Hiện xem ra có vẻ là có một sự di chuyển vững chắc trong những tiêu chuẩn về những gì về mặt đạo đức có thể chấp nhận được. Donald Rumsfeld, người nói nghe nhẫn tâm và đáng tởm như vậy ngày nay, sẽ có vẻ giống như một tấm lòng yêu tự do buộc phải chảy máu, nếu ông đã nói cùng một điều như thế trong thời Thế chiến thứ hai. Một vài điều gì đó đã chuyển dịch, thay đổi trong khoảng giữa những mười năm có những biến cố đó. Nó đã chuyển dịch trong tất cả chúng ta, và chuyển dịch không có kết nối nào với tôn giáo. Nếu như bất cứ có điều gì chăng nữa, nó xảy ra trong sự bất chấp tôn giáo, không phải vì tôn giáo.

Sự thay đổi này là theo một hướng nhất quán thể nhận ra, mà hầu hết chúng ta sẽ đánh giá như là cải tiến. Ngay cả Adolf Hitler, được nhiều người xem như thúc đẩy những phong bì đựng cái ác vào vùng đất chưa từng được thăm dò, sẽ không đứng nổi bật trong thời của Caligula, hoặc của Thành Cát Tư Hãn. Hitler không phải nghi ngờ, đã giết chết nhiều người hơn so với Thành Cát Tư Hãn, nhưng ông đã có kỹ thuật của thế kỷ hai mươi trong tay. Và ngay cả, có phải Hitler đã có được thích thú lớn nhất của mình hay không, như Thành Cát Tư thú nhận công khai là đã có, khi nhìn thấy nạn nhân của ông phải “đặc biệt với ông là tắm trong nước mắt”? Chúng ta đánh giá mức độ ác độc của Hitler bằng những tiêu chuẩn của ngày hôm nay, và Zeitgeist đạo đức đã tiếp tục di chuyển từ thời của Caligula, cũng đúng như kỹ thuật đã di chuyển. Hitler có vẻ đặc biệt ác độc, chỉ theo những tiêu chuẩn tử tế tốt lành hơn của thời chúng ta.

Nội trong đời của tôi, một số lớn những người đã bị dán nhãn một cách vô ý thức, với những tên lóng miệt thị, và những mẫu-người giản lược xúc phạm cả quốc gia: Frog, Wop, Dano, Hun, Yid, Coon, Nip, Wog [21]. Tôi sẽ không tuyên bố rằng những từ lóng như vậy sẽ biến mất, nhưng trong những giới ăn nói lịch sự, chúng đang bị lên án rộng rãi. Từ “negro - da đen”, mặc dù không có chủ ý xúc phạm, có thể được dùng để đoán tuổi của một bản văn xuôi tiếng Anh. Thành kiến thực sự được tiết lộ như quà cho không về ngày tháng của một bài viết. Trong thời của chính ông, một nhà gót học Cambridge vẫn được tôn trọng, A. C. Bouquet, đã có thể bắt đầu chương về Islam trong quyển Comparative Religion của ông với những lời: “người Semite không phải là một người tin-chỉ-một-gót tự nhiên, như đã được xem thế khoảng giữa thế kỷ XIX. Ông là một người theo tín ngưỡng vật linh”. Sự ám ảnh với chủng tộc (như đáng lẽ với văn hóa) và cách dùng tiết lộ của số ít (“Người Semite... Ông là một người, ..”) để thu giảm toàn bộ đông đảo người của một dân tộc xuống thành một “mẫu người” thì không có gì là đáng ghét dù bất kỳ tiêu chuẩn nào. Nhưng chúng là một chỉ số khác rất nhỏ vềZeitgeist thay đổi. Ngày nay, không một giáo sư gót học Cambridge, hoặc môn học khác nào, sẽ dùng những từ đó. Những hé lộ gợi ý tinh tế về những thói tục thay đổi, nói cho chúng ta biết rằng Bouquet đã viết văn bản này, chậm nhất là giữa thế kỷ hai mươi. Trong thực tế, đó là năm 1941.

Quay ngược trở lại bốn mươi năm, và những tiêu chuẩn thay đổi trở thành không thể nhầm lẫn được. Trong một quyển sách trước đây tôi đã trích dẫn, New Republic, của H. G. Wells về một Cộng hòa không tưởng mới, và tôi sẽ trích dẫn một lần nữa, vì nó thật là một minh họa đến gây sốc, về những điểm tôi đang nói đây.

Và nước Cộng hòa mới sẽ đối xử với những chủng tộc thấp kém như thế nào? Nó sẽ đối phó với những người da đen như thế nào?. .. người da vàng?. .. người Dothái?. .. những bầy lúc nhúc màu đen và nâu, và màu trắng bẩn thỉu, và dân da vàng, ai không đi vào trong những nhu cầu mới của hiệu năng sản xuất ? Vâng, thế giới là một thế giới, và không phải là một tổ chức từ thiện, và tôi sẽ nhận là đúng rằng họ sẽ phải đi ... Và hệ thống đạo đức của những người này của nước Cộng hòa mới, hệ thống đạo đức mà nó sẽ thống trị nhà nước thế giới, sẽ được định hình chủ yếu để ủng hộ sự sinh sản của những gì là khéo tốt, và có hiệu suất, và đẹp đẽ trong nhân loại – những cơ thể đẹp đẽ và tráng kiện, những não thức trong sáng và mạnh mẽ.. . Và phương pháp mà thiên nhiên đã theo, cho đến nay, trong việc định hình của thế giới, nhờ đó mà sự yếu nhược bị ngăn cản không cho sinh sản ra sự yếu nhược ... là cái chết.. . Những con người của nước Cộng Hòa mới.. . sẽ có một lý tưởng sẽ làm cho việc giết chết, là đáng công sức và bõ thì giờ .

Điều đó đã được viết năm 1902, và Wells được coi như tiến bộ trong thời của ông. Trong năm 1902, những tình cảm loại giống như vậy, trong khi không được rộng rãi đồng ý, đã có thể chấp nhận được để làm một biện luận trong bàn bạc ở những tiệc ăn tối. Ngược lại, có những độc giả hiện đại, sẽ há hốc miệng đến ngưng thở, đứng hơi vì kinh hoàng, theo nghĩa đen của từ, khi họ nhìn thấy những lời này. Chúng ta bị buộc phải nhận ra rằng Hitler, mặc dù kinh khủng như ông đã là, đã không phải là khá xa lạc với Zeitgeist thời của ông, như ông xem dường có vẻ đã như vậy, từ những điểm nhìn có lợi thế hơn của chúng ta ngày nay. Zeitgeist thay đổi nhanh chóng biết chừng nào – và nó di chuyển song song, trên một mặt tiền rộng lớn, suốt trong thế giới có học vấn, kiến thức.

Vậy sau đó, những thay đổi cân bằng, vững chắc và hòa hợp trong ý thức xã hội đến từ đâu? Trách nhiệm nặng nhọc này không phải cho tôi để trả lời. Đối với những mục đích của tôi, điều chắc chắn rằng chúng đã không đến từ tôn giáo, điều đó là đủ. Nếu buộc phải đưa ra một lý thuyết, tôi sẽ tiến đến gần nó để suy nghĩ theo những dòng sau. Chúng ta cần phải giải thích lý do tại sao sự thay đổi đạo đức Zeitgeist là rất rộng rãi đồng bộ cùng thời trải khắp ra trên những lượng lớn dân chúng; và chúng ta cần phải giải thích chiều hướng tương đối kiên định, nhất quán của nó.

Trước tiên, thế nào là nó đồng bộ cùng thời trải khắp trên rất nhiều người? Tự nó lan rộng từ não thức này sang não thức khác, qua những truyện trò trong quán rượu và tiệc ăn tối, qua sách vở và những bài điểm sách, qua báo chí và truyền thanh, và truyền hình, và ngày nay qua Internet. Những thay đổi trong môi trường đạo đức được cho thấy như những dấu hiệu trong những bình luận của ban biên tập, trên những cuộc nói chuyện với người nghe trên đài phát thanh, trong những phát biểu chính trị, trong những lập lại của những nhà trình diễn chuyên nói khôi hài, và những kịch bản của phim truyền hình, trong những phiếu bầu của những nghị viện làm luật, và những quyết định của quan tòa khi diễn dịch chúng. Một cách khác để nói về nó sẽ là – trong những điều kiện của sự thay đổi những tần số của meme trong ao meme chung, nhưng tôi sẽ không đuổi theo để mở rộng điều đó.

Một vài người trong chúng ta tụt hậu phía sau làn sóng tiến tới của thay đổi đạo đức Zeitgeist, và một vài người trong chúng ta là ở hơi xa về phía trước. Nhưng hầu hết chúng ta, trong thế kỷ 21, là đã tụ lại với nhau, và đã tiến vượt tới, bỏ lại đằng sau rất xa những tương đương của thời Trung cổ, hoặc của thời Abraham, hoặc thậm chí mới đây, của thời những năm 1920. Toàn bộ làn sóng tiếp tục thế di chuyển, và ngay cả lớp tiên phong của một thế kỷ trước đó (chẳng hạn như T.H. Huxley, là thí dụ rõ ràng) sẽ tìm thấy chính nó bị tụ hậu, đi sau thế kỷ đi sau nó. Dĩ nhiên, sự tiến tới thì không phải là một đường nghiêng mịn nhưng gãy khúc răng cưa. Có những thụt lùi thất bại của địa phương và trong tạm thời, như Nước Mỹ phải gánh chịu với chính phủ của nó, trong những năm 2000. Nhưng trên thước đo thời gian dài hơn, khuynh hướng tiến bộ là không thể nhầm lẫn, và nó sẽ tiếp tục.

Những gì đã thúc đẩy nó theo chiều hướng trước sau vẫn không đổi của nó? Chúng ta phải đừng bỏ qua vai trò dẫn đường của những cá nhân lãnh đạo, đã đi trước thời đại của họ, là những người đứng lên và thuyết phục phần còn lại chúng ta, để di chuyển tới trước cùng với họ. Ở nước Mỹ, những lý tưởng về bình đẳng chủng tộc đã được những nhà lãnh đạo chính trị nuôi dưỡng, những người có tầm cỡ của Martin Luther King, và của những khuôn mặt công chúng quen thuộc, trong những giới giải trí, thể thao, và những khuôn mặt công chúng khác, và những người được xem xứng với vai trò khuôn mẫu làm gương, như Paul Robeson, Sidney Poitier, Jesse Owens và Jackie Robinson. Những điều kiện đưa đến sự giải phóng cho nô lệ và cho phụ nữ, đã mang nợ nhiều với những nhà lãnh đạo có sức thu hút đám đông. Một vài những người này đã là những người có tôn giáo, một vài đã không. Một vài người có tôn giáo đã làm những việc tốt của họ, vì họ có tôn giáo. Trong những trường hợp khác, tôn giáo của họ chỉ là ngẫu nhiên. Mặc dù Martin Luther King là một người Kitô, triết lý bất bạo động của ông về bất tuân dân sự đã có gốc trực tiếp từ Gandhi, không phải là người Kitô.

Sau đó, thêm nữa, có giáo dục được cải thiện, và đặc biệt, hiểu biết được nâng cao rằng mỗi chúng ta đều chung một nhân loại, chia xẻ với những thành viên của những chủng tộc khác, và với giới tính khác – cả hai là những ý tưởng sâu xa, đều không có trong kinh-thánh, đều đến từ khoa học sinh học, đặc biệt là học thuyết tiến hóa. Một lý do khiến người da đen và phụ nữ, và trong thời Đức Quốc xã Đức, người Dothái và người Gypsy đã bị đối xử tàn tệ, là vì họ đã không được xem hoàn toàn như con người. Triết gia Peter Singer, trong Animal Liberaton, [22] là biện hộ hùng hồn nhất của quan điểm rằng chúng ta nên chuyển sang một điều kiện sau- phân biệt giống loại tàn nhẫn [23], trong đó đối xử nhân đạo mở ra với tất cả những loài vật có khả năng của bộ óc để nhận biết và thâm cảm nó. Có lẽ điều này gợi ý đến chiều hướng mà trong đó Zeitgeist đạo đức có thể di chuyển trong những thế kỷ tương lai. Nó sẽ là một sự ngoại suy tự nhiên từ những cải cách trước đó, giống như bãi bỏ chế độ nô lệ và giải phóng phụ nữ.

Nó nằm ngoài khả năng về tâm lý học và xã hội học, vốn không chuyên môn của tôi, để đi xa hơn nữa trong việc giải thích lý do tại sao Zeitgeist đạo đức di chuyển trong đường đi rộng rãi hòa hợp của nó. Đối với những mục đích của tôi, điều là đủ, rằng như một sự kiện thực tại, nó thực có di chuyển, và nó không phải do tôn giáo thúc đẩy – và chắc chắn không phải do những sách thánh. Nó có lẽ không phải là một lực lượng duy nhất như trọng lực, nhưng một giao thoa qua lại phức tạp của những lực lượng khác nhau giống như một phức tạp thúc đẩy Luật Moore [24], mô tả sự gia tăng theo cấp số nhân trong sức mạnh của cômputơ. Dù cho nguyên nhân của nó là gì đi nữa, hiện tượng biểu hiện của sự tiến triển của Zeitgeist là quá đủ để làm suy yếu, phá vỡ nên tảng của những tuyên xưng rằng chúng ta cần có Gót để ngõ hầu là tốt, hoặc để quyết định về những gì là tốt.

Thế còn Hitler và Stalin? Không phải họ đã là những người không-tin-có-gót hay sao?

Zeitgeist có thể chuyển dịch, và thay đổi theo một hướng nhìn chung là tiến bộ, nhưng như tôi đã nói, nó là một đường hình răng cưa không phải là một đường trơn nhẵn theo chiều đi lên, và đã từng có một vài đổi chiều kinh hoàng. Những đổi chiều nổi bật, những thấp sâu và khủng khiếp, do những nhà độc tài của thế kỷ hai mươi đem tới. Điều quan trọng là để tách những ý định xấu xa của những người như Hitler và Stalin khỏi quyền lực rộng lớn mà họ nắm giữ xử dụng khi đạt được chúng. Tôi đã quan sát thấy rằng những ý tưởng và ý định của Hitler đã không tự hiển nhiên là nhiều tà ác hơn của những người như Caligula – hoặc một vài những sultan Ottoman, người có những kỳ công gớm ghiếc xấu xa choáng người, như được mô tả trong Lords of the Golden Horn của Noel Barber [25]. Hitler đã có vũ khí và kỹ thuật truyền thông của thế kỷ hai mươi trong tay điều động của ông. Dù sao đi nữa, Hitler và Stalin, với bất kỳ tiêu chuẩn nào, đã là những con người xấu ác, thu hút sự chú ý của mọi người.

“Hitler và Stalin là những người không-tin-có-gót. Bạn có gì để nói về việc đó không? “ Câu hỏi này được nêu lên đúng sau mỗi bài giảng trước công chúng mà tôi từng nói về chủ đề tôn giáo, và cũng trong hầu hết những phỏng vấn trên radiô của tôi nữa. Nó được đặt hỏi một cách hung dữ, chở nặng phẫn nộ với hai giả định: không chỉ (1) Stalin và Hitler là những người không-tin-có-gót, nhưng (2) họ đã làm những hành động khủng khiếp của họ, bởi vì họ đã là người không-tin-có-gót. Giả định (1) thì đúng với Stalin, và chưa rõ, còn ngờ với Hitler. Nhưng giả định (1) dù thế nào, đã không can dự với câu hỏi, vì giả định (2) thì sai. Nó chắc chắn là phi-lôgích nếu nó được cho là đến theo từ (1). Ngay cả nếu chúng ta chấp nhận rằng Hitler và Stalin đều chia xẻ chung thuyết không-tin-có-gót, họ cả hai đều có ria mép, cũng như Saddam Hussein. Vậy thì đã sao? Câu hỏi đáng chú ý không phải là liệu những cá nhân con người xấu (hoặc tốt) đã là những người sùng đạo, có tôn giáo, hay là những người không-tin-có-gót hay không. Chúng ta không phải trong công việc đi đếm số để tính đầu những kẻ ác, và kết toán cuộc điểm danh với hai đối thủ về tội ác. Sự kiện là khoá dây nịt lưng của Đức Quốc xã đã được ghi với câu “Gót với chúng ta” (“Gott mit uns”) không chứng minh bất cứ điều gì, ít nhất với không rất nhiều thảo luận hơn nữa. Điều quan trọng không phải là không biết Hitler và Stalin có là người không-tin-có-gót hay không, nhưng không biết thuyết không-tin-có-gót có ảnh hưởng một cách hệ thống khiến người ta làm những điều xấu ác hay không. Không có bằng chứng nào dù nhỏ nhất rằng nó làm như thế.

Có vẻ như không phải nghi ngờ, như một sự thực, rằng Stalin là một người không-tin-có-gót. Ông đã nhận giáo dục của ông ở một chủng viện Kitô Chính thống giáo, và mẹ ông không bao giờ quên sự thất vọng của bà rằng ông đã không thành giáo sĩ như ý định đã có của bà – một sự kiện, theo Alan Bullock, đã gây cho Stalin nhiều thích thú buồn cười [26]. Có lẽ vì sự huấn luyện của ông cho đời giáo sĩ, Stalin trưởng thành đã phê bình cay độc về Hội nhà thờ Chính thống Nga, và về đạo Kitô, và tôn giáo nói chung. Nhưng không có bằng chứng cho thấy sự không-tin-có-gót của ông là động cơ của sự tàn bạo của ông. Sự huấn luyện tôn giáo trước đó của ông có lẽ cũng đã không là động cơ, trừ khi đó đã là qua huấn luyện, ông đi đến tôn sùng sự tin tưởng những nguyên tắc tuyệt đối, uy quyền có ảnh hưởng mạnh, và một tin tưởng rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện.

Truyền thuyết rằng Hitler là một người không-tin-có-gót đã được cần mẫn cấy trồng, quá nhiều đến nỗi một số đông người tin vào nó mà không xét hỏi, và nó thường xuyên và thách thức được những người bào chữa đạo Kitô nhanh nhảu trưng nó ra. Sự thật của vấn đề không hẳn là trắng đen. Hitler đã ra đời trong một gia đình Catô, và khi còn nhỏ ông đã theo học những trường Catô và đi nhà thờ Catô. Rõ ràng điều đó tự nó không phải là quan trọng trong: ông đã có thể dễ dàng buông bỏ nó, cũng như Stalin, sau khi rời chủng viện Gót-học Tiflis, đã bỏ Chính thống giáo Nga của ông. Nhưng Hitler không bao giờ chính thức từ bỏ đạo Catô của mình, và có những dấu hiệu trong suốt đời ông cho thấy ông vẫn còn là một con người có tôn giáo. Nếu không là Catô, ông dường như đã giữ lại một tin tưởng trong một vài loại quan phòng của Gót. Thí dụ ông ghi trongMein Kampf, khi ông nghe tin tuyên chiến Thế chiến thứ nhất, rằng “Tôi đã quị gối xuống và cảm ơn Gót trên cao, từ tất cả con tim tràn đầy của tôi, đã ban ân huệ cho phép được sống trong một thời như vậy”. [27] Nhưng đó là năm 1914, khi ông vẫn còn chỉ mới 25 tuổi. Có lẽ sau đó ông đã thay đổi?

Năm 1920, khi Hitler ba mươi mốt, Rudolf Hess, người cộng tác chặt chẽ của ông, sau này là “phó Führer”, đã viết trong một lá thư gửi Thủ tướng chính phủ Bavaria, “Tôi biết rất rõ cá nhân ngài Hitler, và tôi rất gần gũi với ngài. Ngài có một nhân cách cao thượng đáng kính hết sức khác thường, đầy lòng tử tế sâu xa, rất sùng mộ tôn giáo, là một người Catô tốt lành” [28]. Dĩ nhiên, cũng có thể nói, vì Hess nhận xét “nhân cách cao thượng đáng kính” và “lòng tử tế sâu xa “ sai be bét, có lẽ ông đã nhận xét “người Catô tốt” cũng sai nốt! Khó có thể mô tả Hitler được như là một bất cứ gì “tốt lành”, nó làm tôi nhớ lại biên luận táo bạo một cách khôi hài nhất tôi đã từng nghe để tán đồng đề xướng rằng Hitler phải là một người không-tin-có-gót. Lâp lại những lời nói dài dòng từ nhiều nguồn khác nhau, Hitler đã là một người xấu ác, đạo Kitô dạy sự tốt lành, do đó Hitler không thể là một người Kitô! Nhận xét của Goering về Hitler, “Chỉ có một người Catô có thể thống nhất nước Đức”, như thế tôi có thể giả định rằng, nó có nghĩa là một ai đó được nuôi dạy lớn lên trong đạo Catô, hơn là một người có tin tưởng của đạo Catô.

Trong một bài diễn văn năm 1933 tại Berlin, Hitler nói, “Chúng ta đã quả quyết rằng dân chúng cần và đòi có lòng tin này. Do đó, chúng ta phải tiến hành cuộc chiến chống lại phong trào không-tin-có-gót, và rằng không phải chỉ với một vài tuyên bố lý thuyết: chúng ta phải dập tắt nó” [29]. Điều đó có thể chỉ cho biết rằng, giống như nhiều người khác, Hitler “đã tin vào sự tin tưởng”. Nhưng trễ muộn đến tận năm 1941, ông đã nói với người trợ tá của ông, Tướng Gerhard Engel, “Tôi sẽ vẫn còn là một người Catô mãi mãi”.

Ngay cả nếu ông đã không còn là một người Kitô tin tưởng chân thành nữa, Hitler hẳn đã phải từng là một cách tích cực khác thường không từng bị ảnh hưởng của truyền thống lâu đời Kitô về sự đổ tội cho dân Dothái là những kẻ giết Chúa. Nhưng trong một bài diễn văn tại Munich vào năm 1923, Hitler nói, “Việc trước tiên để làm là để giải cứu nước [Đức] khỏi người Dothái là kẻ làm suy hoại đất nước chúng ta. … Chúng ta muốn ngăn ngừa nước Đức của chúng ta khỏi đau khổ, như Đấng-Kia đã chịu, cái chết trên thập giá”. [30]Trong quyển Adolf Hitler: The Definitive Biography của John Toland, ông đã viết về vị trí tôn giáo của Hitler tại thời điểm của “giải pháp cuối cùng” này:

Vẫn còn là một thành viên được công nhận xứng hợp, không tì vết, của hội nhà thờ Lamã mặc dù có sự ghê tởm trong hàng ngũ lãnh đạo của nó, ông đã đem ra thực hành sự giảng dạy của hội nhà thờ là dân Dothái là kẻ giết Chúa. Sự diệt chủng, do đó, có thể được thực hiện mà không có một bứt rứt nào trong lương tâm, vì ông đã đơn thuần chỉ hành động như cánh tay trả thù của Gót – miễn là nó đã được thực hiện một cách phi-cá nhân (không do con người chủ động), nó thì không tàn ác.

Hân thù của người Kitô với dân Dothái không chỉ là một truyền thống Catô. Martin Luther đã là một người bài-Dothái độc địa. Tại buổi họp của Hội đồng đế quốc Thần thánh Lamã ở Worms [31], ông đã nói rằng “Tất cả dân Dothái nên bị đuổi khỏi nước Đức”. Và ông đã viết cả một quyển sách, Về dân Dothái và những Gian dối của họ, mà có thể đã ảnh hưởng Hitler. Luther mô tả dân Dothái như là một “bầy toàn giống rắn độc”, và cùng một cụm từ được Hitler dùng lại trong một bài phát biểu đáng chú ý năm 1922, trong đó ông đã nhiều lần lập đi lập lại rằng ông là một người Kitô:

Xúc cảm của tôi như một người Kitô, trỏ tôi vào Chúa của tôi và đấng Cứu thế như một chiến sĩ. Nó trỏ tôi đến con người là người một lần trong đơn độc, bao quanh chỉ có một vài người theo, đã nhận ra những người Dothái này là những gì họ thực là, và đã triệu tập những người để chống lại họ, và là người, sự thật của Gót!, đã vĩ đại nhất không phải như một người chịu khổ nạn, nhưng như một chiến sĩ. Trong tình yêu vô biên như một người Kitô và như một con người, tôi đọc suốt qua đoạn (kinh thánh) trong đó nói với chúng ta sau cùng Chúa đã đứng lên như thế nào trong khí thế của Ngài, và đã chụp lấy roi đuổi bầy rắn độc và bè lũ khỏi Đền thờ. Tuyệt vời biết chừng nào là chiến đấu của Ngài cho thế giới chống lại nọc độc Dothái. Để ngày nay, sau hai ngàn năm, với xúc xúc động thâm sâu nhất tôi nhận ra sâu sắc hơn bao giờ trước sự kiện rằng đã là vì điều này mà Ngài đã phải đổ máu Ngài trên thập giá. Là một Người Kitô, tôi có nghĩa vụ không cho phép bản thân mình bị lừa gạt, nhưng tôi có nghĩa vụ là một chiến sĩ cho sự thật và công lý.. . Và nếu có bất cứ điều gì có thể chứng minh rằng chúng ta đang hành động đúng đắn, đó là tình trạng suy đốn mà ngày càng phát triển. Vì như là một người Kitô, tôi cũng có một nghĩa vụ với dân tộc của tôi [32]

Thật khó để biết liệu Hitler nhặt lên cụm từ “bầy rắn độc” của Luther, hay không biết ông đã lấy nó trực tiếp từ (kinh thánh)Matthew 3: 7 hay không, như Luther có lẽ đã làm. Về phần chủ đề khủng bố dân Dothái như một phần ý chí của Gót, Hitler quay về với nó trong Mein Kampf: “Thế nên, hôm nay tôi tin rằng tôi đã hành động theo thuận hợp với ý chí của Đấng Tạo Hóa toàn năng:bằng sự bảo vệ bản thân tôi chống lại dân Dothái, tôi chiến đấu cho việc làm của Gót”. Đó là năm 1925. Ông nói lại nó một lần nữa trong bài phát biểu ở nghị viện Reichstag vào năm 1938, và ông nói những điều tương tự như thế trong suốt sự nghiệp của ông.

Những trích dẫn như trên phải được làm cân bằng với của những người khác trong Table Talk của ông, trong đó Hitler đã diễn tả độc địa những quan điểm chống-Kitô, như được thư ký của ông ghi chép. Tất cả sau đây có ngày của năm 1941:

Đòn nặng nhất đã từng đánh vào nhân loại là đến từ đạo Kitô. Chủ nghĩa Bônsêvíc là đứa con hoang của đạo Kitô. Cả hai đều là những sáng tạo của người Dothái. Sự gian dối cố ý trong vấn đề tôn giáo đã được đạo Kitô đem giới thiệu vào trong thế giới.

Lý do tại sao thế giới cổ đại đã là tinh khiết, trong sáng và quang đãng như thế, là vì nó không biết gì về hai thiên tai lớn: bệnh dịch thủy đậu và đạo Kitô.

Khi tất cả đã nói xong, chúng ta không có lý do để muốn rằng những người Italy và người Spain nên tự giải phóng họ khỏi thuốc của đạo Kitô. (Chúng ta) Hãy là dân tộc duy nhất được chủng ngừa chống lại căn bệnh này.

Table Talk của Hitler có nhiều những trích dẫn giống như trên, thường đánh đồng đạo Kitô với chủ nghĩa Bônsêvíc, đôi khi vẽ một tương tự giữa Karl Marx và thánh chiên Paul và không bao giờ quên rằng cả hai đều là những người Dothái (mặc dù Hitler, kỳ lạ, luôn luôn kiên quyết rằng Jesus không phải là một người Dothái). Có thể có được là Hitler đến năm 1941 đã kinh nghiệm một vài loại như bỏ-đạo hoặc vỡ mộng với đạo Kitô. Hoặc có phải giải đáp cho những mâu thuẫn chỉ đơn giản là ông là một kẻ nói dối tùy cơ hội, những lời ông nói không thể tin tưởng được, dù chiều nào trong cả hai?

Có thể biện luận được rằng, mặc dù những lời của riêng ông và của những cộng tác của ông, Hitler đã không thực sự có tôn giáo, nhưng chỉ mỉa mai khai thác một cách cay độc lòng mộ đạo của những người nghe. Ông có thể đã đồng ý với Napoleon, người đã nói, “Tôn giáo là thứ tuyệt vời để giữ người dân bình thường yên lặng”, và với Seneca-Con [33] : “Tôn giáo thì được những người dân thường xem là đúng, những người khôn ngoan xem là sai, và những người cai trị xem là hữu ích”. Không ai có thể phủ nhận rằng Hitler không có khả năng giả dối như vậy. Nếu điều này đã là động lực thật sự của ông, để giả vờ là sùng đạo, có tôn giáo, nó phục vụ để nhắc nhở chúng ta rằng Hitler đã không thực hiện những tàn ác của ông đơn độc một mình. Những hành động khủng khiếp chính chúng đã được những binh lính và sĩ quan của họ thực hiện, hầu hết những người này chắc chắn là tín đồ Kitô. Thực vậy, đạo Kitô của người Đức là nền tảng cho chính giả thuyết chúng ta đang thảo luận – một giả thuyết để giải thích tính chất giả dối giả định của sự tự trưng bày tôn giáo của Hitler! Hoặc, có thể Hitler đã cảm thấy rằng ông đã phải cho thấy một vài chứng cớ là có thông cảm với đạo Kitô, nếu không chế độ của ông sẽ không nhận được sự hỗ trợ nó đã có từ những Hội nhà thờ. Sự hỗ trợ này chính nó đã tự cho thấy trong nhiều cách khác nhau, gồm từ sự liên tục từ chối của vua chiên Pius XII để có một lập trường chống lại Đức Quốc xã – một chủ đề xấu hổ đáng kể cho Hội nhà thờ hiện đại. Dù những tự thú của Hitler về đạo Kitô đã là chân thành, hoặc ông đã đóng vai giả Kitô của ông, để giành lấy – được thành công – sự hợp tác của những người Kitô Đức và Hội nhà thờ Catô. Trong cả hai trường hợp, những tà ác của chế độ Hitler khó có thể được nêu lên như đã tuôn chảy ra từ thuyết không-tin-có-gót.

Ngay cả khi ông phàn nàn chống đạo Kitô, Hitler không bao giờ ngừng dùng ngôn ngữ của mệnh-Gót: một tác nhân huyền bí, trong đó, ông tin rằng, đã đặt riêng ông ra với một sứ mệnh thiêng liêng để dẫn dắt nước Đức. Đôi khi ông gọi nó là mệnh-Gót, những lần khác là Gót. Sau hợp nhất Áo-Đức Anschluss, khi Hitler khải hoàn quay về Vienna năm 1938, bài phát biểu hớn hở vui mừng của ông đã nhắc đến Gót trong lốt mệnh-Gót này: “Tôi tin rằng đã là ý Gót để gửi một cậu bé từ nơi đây vào trong đế quốc Đức (Reich), để cho cậu lớn lên và để nuôi dạy cậu để là người lãnh đạo đất nước, như thế khiến cậu có thể dẫn quê hương mình về lại trong đế quốc Reich.”[34] “

Khi ông trong gang tấc đã thoát khỏi vụ ám sát ở Munich vào Tháng 11 năm 1939, Hitler ghi công Gót-quan phòng đã can thiệp để cứu mạng sống của ông bằng cách khiến ông thay đổi lịch trình của mình: “Bây giờ tôi hoàn toàn hài lòng. Sự kiện là tôi đã rời Biirgerbraukeller sớm hơn thông thường là một chứng thực về ý định của Gót-quan phòng để cho tôi đạt được mục đích của tôi”[35]. Sau vụ ám sát hụt này, nhà chăn chiên cấp tỉnh của Munich, Michael Faulhaber, đã ra lệnh rằng một Te Deum, tụng ca tạ ơn Gót,nên được của hành trong nhà thờ của ông, “Để tạ ơn Gót-quan phòng Siêu phàm, nhân danh tổng giáo phận của ông về sự may mắn thoát hiểm của Führer”. Một vài những người theo Hitler, với sự hỗ trợ của Goebbels, đã nói toạc không úp mở về sự xây dựng chủ nghĩa phát xít Nazism vào thành một tôn giáo theo đúng nghĩa của nó. Sau đây, của người thủ lĩnh của công đoàn thống nhất, có xúc cảm của một cầu nguyện, và thậm chí có nhịp trầm bổng của kinh Lạy Cha của người Kitô (“Cha chúng ta”) hoặc Bài Tín Điều Các Sứ Đồ:

Adolf Hitler! Chúng tôi đang hợp nhất với chỉ mình Ngài! Chúng tôi muốn làm mới đức tin của chúng tôi trong giờ phút này: Trên trái đất này chúng tôi tin chỉ vào Adolf Hitler. Chúng tôi tin rằng đảng Quốc Xã là đức tin cứu rỗi duy nhất cho dân tộc chúng ta. Chúng tôi tin rằng có một Gót, Gót ở trên trời, người đã tạo ra chúng ta, người dẫn dắt chúng ta, người chỉ đường cho chúng ta, và người ban phước cho chúng ta rõ ràng trông thấy. Và chúng ta tin rằng Gót này gửi Adolf Hitler cho chúng ta, như thế khiến nước Đức có thể trở thành một nền tảng vững bền cho tất cả vĩnh cửu.[36]

Stalin là một người không-tin-có-gót, và Hitler có lẽ đã không, nhưng ngay cả nếu như ông có thế, dòng cuối cùng tổng kết của điểm tranh luận về Stalin / Hitler rất đơn giản. Những cá nhân là người không-tin-có-gót có thể làm những điều tà ác, nhưng họ không làm những điều tà ác nhân danh thuyết không-tin-có-gót. Stalin và Hitler đã làm những điều vô cùng tà ác, nhân danh, tương ứng, một người với chủ nghĩa Mác xít nhưng chỉ trong giáo điều và lý thuyết xuông, và một người với thuyết ưu sinh [37] vừa phi khoa học vừa điên rồ, và nhiễm màu của lý thuyết tôn sùng lĩnh tụ mê cuồng kiểu Wagner-ngầm [38]. Những chiến tranh tôn giáo thực sự là chiến đấu nhân danh tôn giáo, và chúng thường xuyên đã là khủng khiếp trong lịch sử. Tôi không thể nghĩ ra được bất kỳ một chiến tranh nào đã được chiến đấu nhân danh thuyết không-tin-có-gót. Tại sao cần đến nó? Một cuộc chiến có thể được thúc đẩy bởi tham lam kinh tế, bởi tham vọng chính trị, bởi định kiến sắc tộc hay chủng tộc, bởi oán hận sâu xa hoặc phục thù, hoặc bằng lòng yêu nước, tin tưởng vào vận mệnh của một quốc gia. Thậm chí còn vững vàng nhiều hơn như là một động lực chính đáng cho chiến tranh là một lòng tin bền vững bất di dịch rằng chỉ tôn giáo của riêng mình là duy nhất đúng, đươc củng cố mạnh mẽ bằng một quyển sách thánh trong đó lên án một cách rõ ràng tất cả những người dị giáo và những người theo những tôn giáo đối thủ với tội chết, và những lời hứa rõ ràng rằng những chiến sĩ của Gót [39] sẽ đi thẳng lên thiên đường của một kẻ chết-vì-đạo. Sam Harris, thường như vậy, nói đúng ngay vào trung tâm, trong The End of Faith:

Sự nguy hiểm của lòng tin tôn giáo là nó cho phép con người, nếu không thế chỉ là những con người bình thường khác, để gặt hái được những thành quả của sự điên rồ, và xem chúng làthánh linh. Vì mỗi thế hệ mới của trẻ em thì được dạy rằng những mệnh đề tôn giáo không cần phải được minh chứng rằng có hợp lý hay không, trong cách mà những mệnh đề khác đều phải, văn minh vẫn còn bị những đội quân của lố bịch vây hãm bốn mặt. Chúng ta đang, thậm chí ngay hiện giờ, giết chết chính mình dựa trên văn chương cổ đại. Ai có thể nghĩ một điều gì đó vô lý bi thảm đến thế lại có thể có được?

Ngược lại, việc gì khiến người ta đi đến chiến tranh cho mục đích của một thiếu vắng, không có niềm tin tôn giáo? [40]

Chương 8

Tôn giáo có gì sai ? Sao ghét quá thế?

Tôn giáo đã thực sự thuyết phục người ta rằng có một người đàn ông vô hình – đương sống trên bầu trời – là người theo dõi canh gác tất cả mọi sư vật việc bạn làm, từng phút mỗi ngày. Và người vô hình này có một danh sách đặc biệt gồm mười điều ông ta không muốn bạn làm. Và nếu bạn làm bất kỳ một điều nào trong mười điều này, ông đã có một chốn đặc biệt, đầy lửa và khói, và thiêu đốt và tra tấn và quằn quại thống khổ, nơi đó ông sẽ gửi bạn tới sống và chịu đau đớn, và bị đốt, và nghẹt thở, và la thét, và khóc mãi mãi, và mãi cho đến cùng tận thời gian, … Thế đấy, nhưng Ông ta yêu thương bạn! (George Carlin)

Tôi, bởi tư chất, không hứng thú với sự chạm trán đối đầu. Tôi không nghĩ rằng hình thức đối chất là trù tính xếp đặt khéo để đến được sự thật, và tôi thường xuyên từ chối những lời mời tham dự vào những cuộc tranh luận chính thức. Tôi đã một lần được mời đến tranh luận với nhà chăn chiên cao cấp trông coi toàn tỉnh, lúc ấy, của York, thành phố Edinburgh. Tôi cảm thấy vinh dự bởi điều này, và đã chấp nhận. Sau cuộc tranh luận,

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jul/2013)