Thứ Tư, 14 tháng 9, 2011

Bài hát của những thiếu nữ (Paul Verlaine, Pháp)

La chanson des ingénues Bài hát của những thiếu nữ (Người dịch: Phan Cẩm Thịnh)
Nous sommes les Ingénues
Aux bandeaux plats, à l'oeil bleu,
Qui vivons, presque inconnues,
Dans les romans qu'on lit peu.

Nous allons entrelacées,
Et le jour n'est pas plus pur
Que le fond de nos pensées,
Et nos rêves sont d'azur ;

Et nous courons par les prés
Et rions et babillons
Des aubes jusqu'aux vesprées,
Et chassons aux papillons ;

Et des chapeaux de bergères
Défendent notre fraîcheur
Et nos robes - si légères -
Sont d'une extrême blancheur ;

Les Richelieux, les Caussades
Et les chevaliers Faublas
Nous prodiguent les oeillades,
Les saluts et les "hélas !"

Mais en vain, et leurs mimiques
Se viennent casser le nez
Devant les plis ironiques
De nos jupons détournés ;

Et notre candeur se raille
Des imaginations
De ces raseurs de muraille,
Bien que parfois nous sentions

Battre nos coeurs sous nos mantes
À des pensers clandestins,
En nous sachant les amantes
Futures des libertins.
Những mắt xanh thơ ngây
Từ trong câu chuyện cổ
Khăn xếp quấn trên đầu
Người đời không còn nhớ.

Ta thân thiết vô vàn
Ánh sáng ngày tinh khiết
Như bí ẩn kín thầm
Như màu xanh mơ ước.

Ta chạy ra đồi cây
Chỉ bóng đêm rơi xuống
Cùng chuyện trò, bắt bướm
Cười vui suốt cả ngày.

Đội trên đầu mũ rơm
Che cho ta ánh nắng
Vải áo quần nhẹ mỏng
Còn màu nào trắng hơn!

Caussades hay Richelieux
Hay chàng Faublas
Ta nghe tiếng thầm thì
Và những mắt mỏi mệt.

Nhưng thở than vô ích
Các chàng chỉ đứng nhìn
Những chiếc váy thì thầm
Lời mỉa mai chua chát.

Trêu tức vẻ hình dung
Những chàng trai tinh nghịch
Vẻ kiêu kỳ trinh bạch
Tránh lời nói dịu dàng.

Nhưng dù sao trong tim
Những ý nghĩ kín thầm
Ngày mai rồi yêu mến
Điều hú họa gì chăng.
 

Cái chết là gì Victor Hugo

Ce que c'est que la mort Cái chết là gì (Người dịch: Thứ Dân)
Ne dites pas: mourir; dites: naître. Croyez.
On voit ce que je vois et ce que vous voyez;
On est l'homme mauvais que je suis, que vous êtes;
On se rue aux plaisirs, aux tourbillons, aux fêtes;
On tâche d'oublier le bas, la fin, l'écueil,
La sombre égalité du mal et du cercueil;
Quoique le plus petit vaille le plus prospère;
Car tous les hommes sont les fils du même père;
Ils sont la même larme et sortent du même oeil.
On vit, usant ses jours à se remplir d'orgueil;
On marche, on court, on rêve, on souffre, on penche, on tombe,
On monte. Quelle est donc cette aube? C'est la tombe.
Où suis-je? Dans la mort. Viens! Un vent inconnu
Vous jette au seuil des cieux. On tremble; on se voit nu,
Impur, hideux, noué des mille noeuds funèbres
De ses torts, de ses maux honteux, de ses ténèbres;
Et soudain on entend quelqu'un dans l'infini
Qui chante, et par quelqu'un on sent qu'on est béni,
Sans voir la main d'où tombe à notre âme méchante
L'amour, et sans savoir quelle est la voix qui chante.
On arrive homme, deuil, glaçon, neige; on se sent
Fondre et vivre; et, d'extase et d'azur s'emplissant,
Tout notre être frémit de la défaite étrange
Du monstre qui devient dans la lumière un ange.
Đừng nói: chết; hãy nói: ra đời. Hãy tin
Người ta nhìn thấy điều anh và tôi cùng thấy
Người ta xấu như anh và tôi
Lao mình vào thú vui, hội hè, gió xoáy
Người ta cố quên đi mặt trái, ngày tận thế, thác gành
Cố quên sự bình đẳng của chúng sinh về cái chết và áo quan
Kẻ hèn mọn nhất cũng sánh ngang người giàu sang nhất
Mọi người là hạt lệ trào ra từ cùng một mắt
Họ là con của một cha duy nhất
Người ta sống, hao phí năm tháng cho tự kiêu
Đi, chạy, mơ màng, khom lưng, leo cao, ngã xuống trong khổ đau
Vậy cảnh bình minh đó là chi? Là ngôi mộ
Ta đang ở đâu? Trong cõi chết. lại đây! Cơn gió lạ
Cuốn ta tới ngưỡng trời. Ta run rẩy ngỡ ngàng
Tự thấy trụi trần ô uế, xấu xa, gò trói bởi ngàn nút màu tang
Sinh ra do lỗi lầm, tội ác, việc làm tối tăm
Bỗng ai đó hát trong không gian vô tận
Ai đó với ta tỏ ra trân trọng
Ta không thấy bàn tay trao tình yêu cho linh hồn ta độc ác
Cũng không biết giọng ai đang hát
Ta tới nơi là người, là tang, là tuyết, là băng
Ta cảm  tháy tan ra và sống
Lòng tràn mê ly và thiên thanh
Của quái vật trở thành thiên thần trong ánh sáng

Thứ Ba, 13 tháng 9, 2011

Hoạ sĩ Nga Isaac Levitan (1860-1900)

“Nếu cuộc đời này có phụ bạc anh thì anh vẫn còn một cuộc đời khác, một cuộc đời mà trong đó anh không cần phải tỏ tình với ai, không sợ bị ai từ chối, một cuộc đời tự anh xây lên cho mình bằng đam mê, bằng lao động không ngừng – cuộc đời đó là nghệ thuật” – Veresaev.
Đoạn trích trên từ một tiểu thuyết dường như viết về Levitan. Đẹp trai, nhạy cảm và trầm tĩnh nhưng suốt 40 năm cuộc đời của mình, ông luôn là kẻ cô đơn, cô đơn trong tình yêu, trong cuộc sống và trong chính cả tranh của ông nữa.
Levitan sinh năm 1860 trong một gia đình trí thức nghèo gốc Do thái ở thành phố nhỏ Kibarty, Lithuania. Từ 1873 đến 1885 anh theo học tại trường Hội họa, Điêu khắc và Kiến trúc Moskva [1] dưới sự dẫn dắt của các danh họa Nga Savrasov và Polenov. Mười tám tuổi anh đã đoạt được những giải thưởng lớn của quốc gia về mỹ thuật.
Ngày thu. Sokolniki  1879
Một ngày thu. Sokolniki (1879)
Levitan sớm bộc lộ sự cô đơn của mình trong tranh. Khi nhà sưu tập tranh nổi tiếng Tretyakov ngắm khá lâu và quyết định mua bức Một ngày thu. Sokolniki người ta bắt đầu biết đến chàng sinh viên trẻ Levitan. Con đường mùa thu trong công viên, lá vàng cô đơn càng cô đơn hơn với một bóng thiếu nữ lẻ loi bên đường, bộ trang phục màu đen của nàng càng dậy thêm nỗi buồn.
Rừng bạch dương 1889
Rừng bạch dương (1885)
Tranh Levitan buồn nhưng màu sắc vẫn tươi sáng rực rỡ, bạn đã bao giờ thấy lá hát, thấy nắng reo múa trên cây và cảm giác yên tĩnh bất ngờ của rừng trưa? Đó là những gì tôi cảm nhận từ bức Rừng bạch dương của ông, đây cũng là một bức tranh tôi rất thích của Levitan. 
Sau cơn mưa, (1889)
Sau cơn mưa (1889)
Sau cơn mưa là một trong những bức tranh tôi rất thích của Levitan, ai có thể vẽ mặt nước tuyệt vời hơn ông đã vẽ trong bức tranh này. Bến nhỏ sau cơn mưa sáng rõ với mặt nước … tuyệt vời. Còn nhớ có một lần tôi đọc người ta viết về tranh của Levitan thế này: “trong một cuộc triển lãm, ông vẽ những bông hoa súng trong cái lọ sành mộc mạc, những cánh hoa căng mọng nước tràn trề sức sống, sống động đến nỗi một khán giả đã lại gần sờ vào bức tranh để xem nó là thật hay giả” – nói như vậy quả là không quá, nó hoàn toàn trùng khớp với cảm giác của tôi khi tôi xem bức Sau cơn mưa.
Sau này chính vì nguồn gốc Do thái mà ông bị Nga hoàng trục xuất khỏi thủ đô dù tài năng của ông đã nổi danh trong cả nước và bản thân Nga hoàng rất mến mộ ông. Một bức tranh khá nổi tiếng của Levitan đã mang lại giải thưởng cho ông trong thời gian này. Nó càng thể hiện rõ sự cô đơn của ông trong cuộc sống.
Buổi chiều, Plyos vàng, 1889
Buổi chiều Plese vàng (1889)
Buổi chiều Plese vàng là một bức tranh ấn tượng trong trí nhớ của tôi, Levitan yêu thích hoạ sĩ phong cảnh Pháp Corot, nhưng với tôi ông là hoạ sĩ phong cảnh vĩ đại nhất. Ông được đánh giá là hoạ sĩ diễn tả bầu trời, không khí và tâm hồn Nga sâu sắc nhất. 
Qua vực nước sâu, 1892
Nước sâu (1892)
Từ 1892 tới 1895 Levitan đi dọc theo con sông dài Volga và vẽ được nhiều bức tranh phong cảnh đẹp của miền này. Có thể nói tranh của Levitan thẫm đẫm cảnh vật và con người Nga, tranh của ông Nga hơn bất kỳ một hoạ sĩ Nga nào khác nhưng nỗi cô đơn làm tranh ông thường vắng bóng người. 
Vladimirka, 1892
Đường Vladimirka (1892)
Vắng và vắng, đó là nỗi cô đơn luôn luôn mênh mang trong tranh của Levitan. Đường Vladimirka nhìn đã thấy mênh mang và buồn khôn tả, cả con đường rộng thênh thang, bầu trời mênh mang, mây xa tắp, đường chân trời nơi cuối đường, nó quá rộng, chỉ có một bóng áo đen của góa phụ côi cút trên đường – chỉ là cô đơn trong tranh ông. Vladimirka là con đường dẫn giải các tù nhân đi chôn vùi cuộc đời mình ở Sibêri giá lạnh, trong những lớp bụi đường kia như còn nghe tiếng xiềng xích va vào nhau.
Levitan dành được rất nhiều giải thưởng trong cuộc đời của mình, nhưng không tạo ra một trường phái nào cả. Về cuối đời Levitan càng u trầm hơn, sự hiểu nhẩm với người bạn thân nhất là nhà văn Sê-khốp đã khiến ông càng trầm lặng và buồn phiền.
Trên sự yên tĩnh vĩnh Hằng  1894
Sự yên tĩnh vĩnh hằng (1893)
Thêm một nỗi buồn nữa: Sự yên tĩnh vĩnh hằng, nơi ngọn đồi rộng bao la giao hòa trời đất. Levitan là bậc thầy trong diễn tả không gian, chỉ một khuôn vải mà trải ra mênh mang cả trời, cả nước, cả đất, cả mây – ông đặt tên bức tranh này là Sự yên tĩnh vĩnh hằng quả không sai. Trên ngọn đồi cô đơn nóc nhà thờ cổ ẩn mình dưới tán cây, ngọn lửa nhỏ vẫn lặng lẽ sáng trong ô cửa nhỏ, bên cạnh dãy nghĩa địa xiêu vẹo những cây thánh giá. Tôi thực sự ngưỡng mộ cách mô tả không gian tuyệt vời trong bức tranh này.
Tháng Ba, 1895
Tháng ba (1895)
Tranh của ông tươi mới, giản dị mà đẹp mộc mạc như những làng quê và bầu trời mênh mang của nước Nga vậy. Cảm giác như tuyết trong bức tranh Tháng 3 đang lắc rắc tan dưới vó con ngựa buộc trước hiên nhà.
Mùa xuân, con nước, 1896-1897
Nước mùa xuân
Rồi mặt nước mùa xuân không một chút xao động.
Mùa thu vàng, 1889
Mùa thu vàng (1895)
Bầu trời mùa thu trong trẻo, rừng bạch dương vàng rực trong nắng chiều, xa xa một cây bạch dương cô đơn soi bóng xuống dòng sông yên ả, mùa thu đang đến, một mùa thu rất Nga – đó là bức tranh nổi tiếng nhất của Levitan: Mùa thu vàng.
Yên tĩnh, 1898
Yên tĩnh, 1898
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi và cô đơn của mình, Levitan đã vẽ lên rất nhiều tuyệt tác u buồn, những bức tranh u buồn nhưng lóe sáng.
Hồ, 1900
Hồ, 1900
Levitan trút hơi thở cuối cùng vì bệnh lao phổi vào một ngày nắng đẹp, khi trong vườn hoa tử đinh hương đang tỏa hương ngào ngạt và trên giá vẽ của hoạ sĩ là một bức tranh rất rực rỡ, tươi sáng mang tên Hồ.

Ngọc Lan

Ngọc Lan (28 tháng 12 năm 1956 - 6 tháng 3 2001) là một ca sĩ hải ngoại nổi tiếng. Không chỉ với giọng hát, cô còn được khán giả đặc biệt yêu mến vì tính cách và khuôn mặt khả ái.
Ngọc Lan tên thật là Lê Thanh Lan, sinh ngày 28 tháng 12 năm 1956 tại Nha Trang (cô còn được gọi chung với tên Thánh là Maria Lê Thanh Lan). Ngọc Lan là người con thứ năm trong số 8 người con trong một gia đình khá giả. Khi còn ở Việt Nam, cô đã đến với âm nhạc qua nhạc sĩ Lê Hoàng Long, từng học nhạc và biểu diễn trong một số dịp tại Nha Trang. Cô đã từng theo học ở trường Lý Thường Kiệt, ngoại ô Sài Gòn.
Năm 1980, Ngọc Lan đến Hoa Kỳ và định cư tại Minnesota. Hai năm sau, Ngọc Lan thực sự bắt đầu sự nghiệp ca hát ở California. Cô lấy nghệ danh Ngọc Lan vì tên thật Thanh Lan trùng với ca sĩ Thanh Lan đã nổi tiếng. Với sự giới thiệu của ca sĩ Duy Quang, cô đã hát tại một số quán cà phê nhạc và các buổi biểu diễn.Front
Với chất giọng ngọt ngào, trữ tình, Ngọc Lan nhanh chóng được khán giả biết đến và đã được các trung tâm mời ghi âm, xuất hiện thường xuyên tại vũ trường Ritz. Ngọc Lan đạt được đỉnh cao của tiếng tăm từ khi cộng tác với trung tâm nhạc Mây trên những chương trình video Hollywood Nights, đặc biệt sau khi thực hiện hai chương trình video đặc biệt Như em đã yêu anhMặt trời bên kia mùa hạ của đạo diễn Đặng Trần Thức. Ngọc Lan được yêu thích qua nhiều nhạc phẩm nước ngoài lời Việt, như Mưa trên biển vắng, Dòng sông tuổi nhỏ (La Maritza)... Cô cũng trình bày nhiều ca khúc tiếng Pháp, những nhạc phẩm của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Đức Huy... Cô hát ở rất nhiều thể loại nhạc và dòng nhạc, hiện nay theo một số người sưu tầm nhạc, cô đã trình bày trên 800 ca khúc và trên 40 video clip
Sau đó Ngọc Lan đột ngột không xuất hiện nữa và tạo nên nhiều tin đồn. Năm 1994 cô xuất hiện trở lại trong một số chương trình, và cũng trong năm đó, Ngọc Lan thành hôn với nhạc sĩ Kevin Khoa.
Sau một thời gian dài bị chứng bệnh đa thần kinh hóa sợi hành hạ và bị hạn chế tầm nhìn, Ngọc Lan trút hơi thở cuối cùng vào hồi 8 giờ 25 sáng ngày 6 tháng 3 năm 2001 tại bệnh viện Vencor, Huntington Beach, Nam California.
     
   Link : Download
                 ...Link:http://www.mediafire.com/?gh4iu382xwxns
   

Thứ Hai, 12 tháng 9, 2011

Puskin-Gửi

Gửi

Giữa cô quạnh âm u tù hãm
Dòng đời trôi quằn quại hắt hiu,
Chẳng tiên thần, chẳng nguồn cảm xúc,
Chẳng đời, chẳng lệ, chẳng tình yêu.

 Cả hồn anh bỗng dưng tĩnh giấc:
Trước mắt anh em lại hiện lên,
Như hư ảnh mong manh vụt biến,
Như thiên thần sắc đẹp trắng trong.


Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu:                                      Trai tim lại rộn ràng náo nức
Trước mắt anh em bỗng hiện lên,                                        Vì trái tim sống dậy đủ điều:
Như hư ảnh mong manh vụt biến,                                       Cả tiên thần, cả nguồn cảm xúc
Như thiên thần sắc đẹp trắng trong.                                    Cả đời, cả lệ, cả tình yêu
           
Giữa ray rứt sầu đau tuyệt vọng                                             ( Thúy Toàn dịch)
Giữa ồn ào xáo động buồn lo
Tiếng em nói bên tai anh văng vẳng
Bóng dáng em anh gặp lại trong mơ.

Tháng ngày qua những cơn gió bụi,
Đã xua tan mộng đẹp tuổi thơ,
Lãng quên rồi giọng em hiền dịu,
Nhòa tan rồi bóng dáng nguy nga.

Nhạc sĩ Ludwig van Beethoven

BEETHOVEN, LUDWIG VAN (1770 - 1827)

Beethoven_ts

Chân dung Beethoven (Joseph Karl Stieler, 1820)

Là người đại diện cuối cùng của trường phái cổ điển thành Vienna, nhà soạn nhạc thiên tài người Đức Ludwig van Beethoven đã có những đóng góp vĩ đại vào tiến trình phát triển của âm nhạc cổ điển thế giới. Không có một di sản đồ sộ về số lượng như các bậc tiền bối của trường phái cổ điển thành Viên Wolfgang Amadeus Mozart (1756 - 1791) hay Joseph Haydn (1732 – 1809) nhưng Beethoven đã đem đến cho thế giới âm nhạc một phong cách mới, phong cách anh hùng ca rực lửa và tràn ngập tinh thần tranh đấu, vươn tới tự do cùng những cách tân vĩ đại. Với sự cải cách mạnh mẽ về nội dung lẫn hình thức, ở hầu hết các thể loại âm nhạc như sonata, concerto và giao hưởng, Beethoven đều để lại dấu ấn thiên tài của mình. Cả cuộc đời của ông thực sự là bản anh hùng ca của một con người có nghị lực phi thường vượt qua mọi khó khăn, thử thách và chiến thắng bệnh tật.
Ludwig van Beethoven sinh ra trong một gia đình nghệ thuật. Ông nội của nhà soạn nhạc thiên tài, Ludwig van Beethoven, giữ chức nhạc trưởng của nhà hát cung đình Bonn. Cha của nhạc sỹ, Johann van Beethoven, cũng là thành viên của dàn nhạc cung đình và là một bợm nhậu. Chính tật xấu này của Johann đã dìm gia đình ông và tuổi thơ Beethoven lâm vào cảnh địa ngục. Sau cái chết của người ông và sự nghiện ngập của người cha, gia đình lâm vào cảnh túng thiếu nghiêm trọng, Beethoven đành phải thôi học từ rất sớm. Chính vì vậy, sau này, khi lớn lên, Beethoven đã nỗ lực học và tự học rất nhiều để tự bù đắp kiến thức cho mình. Tuy nhiên, trong cái rủi có cái may, do sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc, Beethoven được học nhạc từ nhỏ. Dù được giảng dạy một cách tuỳ hứng trong roi vọt, tài năng thiên bẩm đã khiến cậu bé Beethoven biết chơi thành thạo đàn clavecin, violin, flute... Buổi biểu diễn đầu tiên của Beethoven trước khán giả thành Bonn là vào ngày 26-3-1778 với một bản concerto cho đàn clavecin.

Ngôi nhà nơi Beethoven chào đời tại Bonn nay cũng  là bảo tàng
BeethovenTháng 10-1779, Beethoven bắt đầu theo học môn đối vị và nghệ thuật bè trầm với Kh. Neefe và chịu ảnh hưởng lớn về quan điểm thẩm mỹ từ người thầy đáng kính này. Năm 12 tuổi, Beethoven được đưa vào dàn nhạc cung đình với vai trò trợ lý đàn organ cho Neefe. Trong thời gian này, Beethoven được Neefe hướng dẫn về Bình quân luật của Johann Sebastian Bach (1685-1750) và bắt đầu biết đến George Frideric Handel (1685-1759), tác giả mà sau này, Beethoven đặc biệt ngưỡng mộ.

Sự nghèo túng luôn là bạn đồng hành với Beethoven trong những năm tháng trưởng thành. Ngoài việc chơi cho dàn nhạc cung đình, ông phải đi dạy học để kiếm tiền nuôi gia đình. Tuy vậy, những ước mơ về một chân trời âm nhạc mới mẻ ngoài phạm vi thành Bonn vẫn không ngừng thôi thúc ông tìm đến với thành Vienna, học hỏi những nhà soạn nhạc danh tiếng. Mùa xuân năm 1787, chàng nhạc sỹ thành Bonn đã đến đây để tìm gặp Mozart và đáng tiếc là chỉ được gặp Mozart một lần duy nhất. Sau khi nghe Beethoven chơi ngẫu hứng bên phím piano, Mozart đã choáng váng trước tài nghệ phi thường: “Hãy nhìn kỹ chàng trai này, rồi cả thế giới sẽ phải nói về anh ta”. Điều đáng buồn là cuộc gặp gỡ giữa hai con người thiên tài này chỉ diễn ra ngắn ngủi bởi Beethoven phải vội vã rời Vienna về Bonn vì mẹ bị ốm nặng. Cái chết của người mẹ hiền hậu, nhẫn nại đã không chỉ khiến Beethoven rơi vào tình trạng tuyệt vọng mà còn kéo theo sự sụp đổ của gia đình, vốn luôn luôn được bà mẹ dày công vun đắp.

May mắn cho Beethoven và cũng cho nhạc cổ điển bởi trong những năm tháng này, Beethoven đã có được sự nâng đỡ tinh thần từ hai người bạn tốt như Stephan von Breuning và Franz Wegeler, những người sẽ tận tụy gắn bó cả cuộc đời với ông. Thông qua mối quan hệ bè bạn này, Beethoven đã tiếp xúc với giới trí thức thành Bonn, mở con đường lớn đưa ông đến với văn học cổ điển Đức, văn học Hy Lạp cổ đại, văn học Anh. Beethoven đặc biệt say mê và chịu ảnh hưởng lớn của Homero với các bản trường ca “Iliad”, “Odisea”, Plutarque với “Tiểu sử các danh nhân” và William Shakespeare với các vở kịch nổi tiếng của ông. Hai nhà thơ Đức đương thời là Goethe và Schiller cũng chinh phục được Beethoven.

Beethoven
năm 1804 (chân dung do W. J. Mahler vẽ)Một sự kiện gây chấn động châu Âu thời bấy giờ cũng để lại dấu ấn sâu sắc cho Beethoven, đó là cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789. Những luồng tư tưởng tiên tiến từ cuộc cách mạng đã được Beethoven tiếp nhận hết sức hào hứng. Riêng cá nhân Napoleon được Beethoven hết sức ngưỡng mộ và thán phục. Có thể nói cuộc cách mạng Pháp 1789 đã góp phần thắp lên tinh thần rực lửa đấu tranh vì quyền tự do, bình đẳng của con người và phong cách anh hùng ca như các tác phẩm sau này của ông. Chính những biến động về tư tưởng đã giúp ông đi đến quyết định, rời thành Bonn vào tháng 11-1792 để đến với thành Vienna, trung tâm văn hóa của châu Âu thời bấy giờ. Giai đoạn ở thành Vienna sẽ là giai đoạn đánh dấu sự trưởng thành và bước thăng hoa trong cuộc đời sáng tác âm nhạc của Beethoven. Ông đến với thành Vienna trong sự hào hứng của tuổi trẻ và niềm tin vào một môi trường học tập mới. Như các nhạc sỹ đương thời, Beethoven đã có được nhà bảo trợ cho quá trình theo đuổi nghệ thuật của mình, công tước Lichnowsky. Mặc dù nhận bảo trợ của Lichnowsky nhưng Beethoven trong mọi trường hợp vẫn giữ vững phẩm giá, lòng kiêu hãnh, lập trường kiên định về chính trị, quan điểm sống và coi đó là điều sống còn của cuộc đời mình.

Song song với quá trình sáng tác, Beethoven còn theo học các nhạc sỹ danh tiếng của thành Vienna để củng cố và hệ thống lại kiến thức âm nhạc của mình. Trong số các người thầy đáng kính ấy thì, nhà soạn nhạc vĩ đại Haydn, cha đẻ của giao hưởng, đóng vai trò quan trọng. Cũng phải nói thêm là đây cũng là thời kỳ sáng tác rực rỡ của Haydn nên nhà soạn nhạc già này đã không có nhiều thời gian dành cho Beethoven. Tuy nhiên, với vai trò của người đi trước, Haydn đã đưa ra những nhận xét xác đáng và những lời khuyên qúy báu về các tác phẩm mới sáng tác của Beethoven. Có một giai thoại kể lại rằng, khi Beethoven hỏi ý kiến thầy về các tác phẩm của mình, Haydn đã thốt lên sau những phút trầm tư suy nghĩ: “Anh gây cho tôi cảm tưởng về một con người có mấy cái đầu, mấy trái tim và mấy linh hồn”. Khi đã ổn định được cuộc sống và học tập thêm về âm nhạc, Beethoven bắt đầu ra mắt công chúng thành Vienna và nhanh chóng nhận được sự chú ý đặc biệt. Nhiều nhà hoạt động nghệ thuật cũng đánh giá cao tài năng của ông và hào hứng cho rằng: “Người nghệ sỹ này đã bù đắp cho chúng ta sự tổn thất sau cái chết của Mozart”. Không chỉ sáng tác, Beethoven còn là người đầu tiên đưa ra một phong cách mới trong nghệ thuật chơi piano: phong cách anh hùng ca.

Trong thời gian này, Beethoven tập trung sáng tác nhiều tác phẩm khí nhạc quy mô nhỏ tuy nhiên, ở các tác phẩm ấy đã xuất hiện dấu ấn của thiên tài, tiêu biểu như Piano sonata số 8 giọng Đô thứ "Pathetique" (1799), số 14 giọng Đô thăng thứ "ánh trăng" (1801), số 17 giọng Rê thứ "Tempest" (1801), overture “The Creatures of Prometheus” (1801)...

Sự hoàn chỉnh về nội dung và hình thức của khúc mở màn cho vở ballet “The Creatures of Prometheus” đã đưa overture trở thành một tác phẩm khí nhạc độc lập, tiền thân của loại tác phẩm giao hưởng một chương, giao hưởng có tiêu đề sau này. Riêng về sonata, Beethoven đã đem lại cho thể loại này một tầm vóc mới. Trước đây, các bậc tiền bối của ông đã sáng tạo ra thể loại sonata chưa có sự tương phản lớn giữa các chương và bản thân trong một chương cũng chưa thể hiện sự phát triển rõ nét giữa các chủ đề. Về sự sáng tạo của Beethoven ở thể loại sonata, các nhà hoạt động âm nhạc sau này đã cho rằng, Beethoven đã làm rõ phần triển khai cơ cấu các chủ đề, phân tích và tổng hợp các nét đấu tranh kịch tính, mạnh mẽ để tạo nên phần trung tâm của tác phẩm. Beethoven còn sáng tạo ra phần coda (phần kết) với nhiệm vụ là tổng kết tác phẩm bằng những nét chấm phá đầy rõ nét. Với tính chất kịch tính cao, thể hiện không chỉ giữa các chương mà phản ánh được sự phát triển nội tại trong từng chương này, Beethoven đã tạo ra sự phát triển mới về cả về nghệ thuật và tư tưởng trong các tác phẩm âm nhạc thính phòng.

Tài năng của Beethoven đã được khẳng định và một tương lai rực rỡ đã đến với nhà soạn nhạc thiên tài này. Khi người ta những tưởng bước đường nghệ thuật và cuộc sống riêng tư của Beethoven sẽ suôn sẻ thì bất hạnh đã đổ ụp xuống đầu ông. Lần này, không phải là sự túng quẫn về tài chính mà lại là bệnh tật. Căn bệnh điếc đáng nguyền rủa đã trở thành vật ngăn cách ông với tất cả. Đã có nhiều tài liệu nghiên cứu về căn bệnh kỳ lạ này ở người nhạc sỹ thiên tài và lý giải nguồn gốc căn bệnh. Đến nay, có nhiều cách lý giải căn bệnh này của ông, một trong những cách đó là việc tập trung cao độ trong quá trình sáng tác chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn bệnh điếc của Beethoven. Điều đau xót hơn cả với nhạc sỹ là trước khi mắc căn bệnh này, ông có thính giác tinh tường, nhạy cảm đến mức hiếm có. Nỗi thống khổ về bệnh tật đã hành hạ ông và dẫn đến sự tuyệt vọng. Thậm chí, ông đã nghĩ đến việc tự tử. Tất cả những dằn vặt, đau đớn, đấu tranh nội tâm của nhà soạn nhạc được thể hiện qua bản di chúc Heiligenstadt nổi tiếng viết vào tháng 10-1802. Tuy nhiên, chiến thắng được bản thân, ý chí và nghị lực của Beethoven đã đưa ông đến với những thành công mới với những tác phẩm in đậm những phẩm chất tốt đẹp này. Ngay từ lời đề tựa bản giao hưởng số 2 giọng Rê trưởng op 36 đã cho thấy rõ điều đó: “Tôi muốn nắm lấy cổ số mệnh. Tuyệt vời biết bao nếu như ta có thể sống ngàn lần cuộc sống này!”.

Beethoven năm 1815Sau thời kỳ Heiligenstadt, Beethoven trở lại với âm nhạc với tinh thần và tình yêu cuộc sống của một con người hoàn toàn mới. Chính nét mới mẻ này đã đem lại sức sống và tầm vóc tư tưởng mới cho các tác phẩm của ông giai đoạn sau này. Những cách tân táo bạo, đưa hình thức và nội dung của các tác phẩm âm nhạc thoát khỏi lối mòn của các bậc tiền bối đã giúp Beethoven vươn tới đỉnh cao trong nghệ thuật, đặc biệt ở tác phẩm sáng tác từ năm 1803. Bản giao hưởng số 2 giọng Rê trưởng op 36 được coi là cầu nối của hai giai đoạn sáng tác nghệ thuật trước và sau năm 1803. Và các nhà nghiên cứu âm nhạc cho rằng, đỉnh cao trong giai đoạn trưởng thành của Beethoven chính là các tác phẩm: Piano Sonata No.21 giọng Đô trưởng "Waldstein", Piano Sonata số 23 giọng Pha thứ "Appassionata", vở opera “Fidelio” và chùm 7 bản giao hưởng. Trong số các tác phẩm này, bản giao hưởng số 3 giọng Mi giáng trưởng "Eroica" có số phận đặc biệt không chỉ vì trước ngày công diễn, Beethoven đã xóa lời đề tặng Napoleon trên bản tổng phổ mà là sự cân đối và đẹp lạ thường của nó. Các nhà phê bình âm nhạc đều đánh giá cao tác phẩm này, coi đó là cột mốc mở ra đỉnh cao mới của nền âm nhạc giao hưởng thế kỷ 19. Sáng tác vĩ đại này không những có quy mô lớn mà còn có tư tưởng, khát vọng lớn lao vượt tầm thời đại. Tại tác phẩm này, chương menuetto kiểu cách đã được thay thế bằng chương Scherzo tươi vui (trước đây, trong bản giao hưởng số 1 Beethoven từng thế chỗ menuetto bằng Scherzo).

Tiếp sau thành công của bản giao hưởng số 3 là những chùm tác phẩm chói sáng của Beethoven với các bản giao hưởng được liệt vào hàng kinh điển trong kho tàng âm nhạc giao hưởng thế giới với các thể loại: kịch tính, bi kịch, ngợi ca thiên nhiên, sử thi: giao hưởng số 4 giọng Si giáng trưởng được nhạc sỹ Schumann ví như “cô gái Hy Lạp mảnh dẻ giữa hai người khổng lồ phương Bắc”, giao hưởng 5 giọng Đô thứ được mệnh danh là giao hưởng định mệnh, giao hưởng số 6 giọng Fa trưởng "Pastorale" được gọi là bản giao hưởng đồng quê, giao hưởng số 7 giọng La trưởng, giao hưởng số 8 giọng Pha trưởng và đỉnh cao giao hưởng số 9 giọng Rê thứ. Có câu chuyện về bản giao hưởng số 9 rằng nếu có người ngoài trái đất nào tới thăm hành tinh xanh của chúng ta thì để giải thích về con người, chỉ cần cho họ nghe bản giao hưởng số 9 này. Câu chuyện này đã nói lên được tính chất sử thi, tầm vóc và quy mô của tác phẩm. Có thể nói bước tiến về nghệ thuật của Beethoven là kết quả của quá trình học hỏi không mệt mỏi trong những năm tháng ở thành Vienna và cũng như sự chín muồi về tư tưởng của ông. Sâu xa hơn, đó còn là kết quả của quá trình phát triển âm nhạc giao hưởng mà các bậc tiền bối đã gây dựng lên, trong đó có sự phát triển của dàn nhạc giao hưởng, yếu tố giúp thể hiện các ý tưởng âm nhạc của ông. Về xã hội, tác động mạnh mẽ nhất đến Beethoven giai đoạn này là vẫn là luồng tư tưởng do cuộc cách mạng 1789 đem lại. Tuy Napoleon đã phản bội lại cách mạng song lý tưởng về một xã hội con người với con người sống trong tự do, bình đẳng, bác ái vẫn rực sáng trong ông.

Sẽ là không đầy đủ nếu không nhắc đến vị trí của các bản overture và 5 bản concerto cho piano với dàn nhạc, 1 bản concerto bộ ba cho piano, violin và cello, bản concerto duy nhất viết cho violin và dàn nhạc trong sự nghiệp âm nhạc của Beethoven. Với sức biểu đạt mạnh như một bản giao hưởng, các tác phẩm này của ông được đánh giá cao bởi sự súc tích, cô đọng, tính khái quát và mối quan hệ chặt chẽ giữa các chủ đề. Bằng tài năng của mình, Beethoven đã chứng minh rằng với những thể loại tác phẩm khí nhạc có quy mô nhỏ cũng có sức sống và tầm vóc như các tác phẩm lớn. Đây sẽ là tiền đề cho các nghệ sỹ thế hệ sau không tiếp tục khai phá để cho ra đời nhiều thể loại mới, làm phong phú thêm kho tàng âm nhạc cổ điển. Riêng bản concerto cho violin duy nhất của ông cũng trở thành bản concerto kinh điển cho thể loại này.

Thành công về nghệ thuật nhưng cuộc sống riêng tư của ông lại không mấy may mắn. Mặc dù luôn luôn khao khát một mái ấm gia đình thực sự nhưng chưa khi nào, Beethoven gặp được người bạn gái tri âm, tri kỷ, sẵn sàng cùng ông đi hết cuộc đời. Ông từng có nhiều mối tình, phần lớn đều bất hạnh và có cái kết ảm đạm giống nhau bởi theo nhận xét của nhiều người thì vẻ bề ngoài không mấy hào hoa phong nhã, tính cách độc đoán (ảnh hưởng của bệnh điếc) và nhất là không có một gia sản hấp dẫn đã loại ông ra khỏi tầm ngắm của các thiếu nữ thời đó. Cũng phải nói thêm rằng, tuy có tính cách độc đoán, thậm chí có phần khắc nghiệt, nhưng với bạn bè, bao giờ ông cũng cư xử hết sức chân thành và đây là một trong những đức tính đẹp nhất của ông.

Cả cuộc đời của Beethoven là quá trình học tập, sáng tác không mệt mỏi và chiến đấu vượt qua số phận, qua những đắng cay thử thách của cuộc đời. Trong những ngày cuối đời, trên giường bệnh, ông vẫn không nguôi nghiền ngẫm đến đề tài của bản giao hưởng số 10. Dự định này đã mãi mãi không thể thực hiện được bởi trái tim nhà soạn nhạc thiên tài đã vĩnh viễn ngừng đập vào ngày 26-3-1827. Ông mất đi để lại một khoảng trống không dễ lấp đầy trong âm nhạc. Không chỉ thành Vienna mà cả thế giới âm nhạc rơi lệ tiễn đưa người anh hùng... Beethoven tuy không còn nữa nhưng với những người yêu nhạc cổ điển thì hình ảnh Beethoven với ánh mắt rực lửa, đầy thách thức trên gương mặt cương nghị đang sải những bước dài mạnh mẽ, cương quyết vẫn còn đó trong âm nhạc và cuộc đời.

Hồn rượu (Charles Baudelaire, Pháp)

L'âme du vin Hồn rượu (Người dịch: Hải Đà)
Un soir, l'âme du vin chantait dans les bouteilles:
”Homme, vers toi je pousse, ô cher déshérité,
Sous ma prison de verre et mes cires vermeilles,
Un chant plein de lumière et de fraternité!

Je sais combien il faut, sur la colline en flamme,
De peine, de sueur et de soleil cuisant
Pour engendrer ma vie et pour me donner l'âme;
Mais je ne serai point ingrat ni malfaisant,

Car j'éprouve une joie immense quand je tombe
Dans le gosier d'un homme usé par ses travaux,
Et sa chaude poitrine est une douce tombe
Où je me plais bien mieux que dans mes froids caveaux.

Entends-tu retentir les refrains des dimanches
Et l'espoir qui gazouille en mon sein palpitant?
Les coudes sur la table et retroussant tes manches,
Tu me glorifieras et tu seras content;

J'allumerai les yeux de ta femme ravie;
A ton fils je rendrai sa force et ses couleurs
Et serai pour ce frêle athlète de la vie
L'huile qui raffermit les muscles des lutteurs.

En toi je tomberai, végétale ambroisie,
Grain précieux jeté par l'éternel Semeur,
Pour que de notre amour naisse la poésie
Qui jaillira vers Dieu comme une rare fleur !”
Một chiều hồn rượu hát ca vang
Gửi người cô thế, kẻ gian nan
Từ nơi ngục kiếng viền xi đỏ
Rực sáng bài ca nghĩa bạn vàng

Trên đồi rực lửa tốn bao công
Nắng vã mồ hôi ướt chảy ròng
Sinh sản hồn ta, đời sống mới
Ta không bất nhẫn, bạc ơn lòng

Sung sướng là bao lúc rót vào
Tràn nơi cuống họng kẻ cần lao
Êm đềm ngực ấm là ngôi mộ
Thoát chốn hầm sâu lạnh xiết bao

Chủ nhật ngồi nghe điệp khúc vui
Phập phồng hy vọng ngực chơi vơi
Xắn tay áo dựa trên bàn rượu
Ta được vinh danh, thỏa mãn người

Đôi mắt vợ ngươi thắp sáng ngời
Con người khoẻ mạnh sắc hồng tươi
Cho chàng lực sĩ dầu xoa bóp
Bắp thịt phồng căng đấu đã đời

Cao lương mỹ vị rước ta vào
Hạt giống vĩnh hằng được ném trao
Lộng lẫy tình ta thơ nở rộ
Đoá hoa kỳ diệu ngút trời cao

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2011

Cuộc đời là một đoá hoa

Philippe Desportes (1546-1606)
La vie est une fleur Cuộc đời là một đoá hoa Người dịch: Tường Vân
La vie est une fleur espineuse et poignante,
Belle au lever du jour, seiche en son occident;
C'est moins que de la neige en l'esté plus ardent,
C'est une nef rompue au fort de la tourmente.

L'heur du monde n'est rien qu'une roue inconstante,
D'un labeur eternel montant et descendant;
Honneur, plaisir, profict, les esprits desbordant,
Tout est vent, songe et nue et folie evidente.

Las! c'est dont je me plains, moy qui voy commencer
Ma teste à se mesler, et mes jours se passer,
Dont j'ay mis les plus beaux en ces vaines fumées;

Et le fruict que je cueille, et que je voy sortir
Des heures de ma vie, helas! si mal semées,
C'est honte, ennuy, regret, dommage et repentir.
Đời gai góc tựa hoa buồn
Bình minh lộng lẫy hoàng hôn ủ sầu
Tuyết băng mùa hạ khác đâu
Gió cuồng phá một con tàu khác chi

Chuyện đời như một bánh xe
Vần xoay vĩnh viễn đi về đổi thay
Lợi danh, dục vọng khát say
Cũng là giấc mộng, gió, mây điên rồ

Ôi! dầu tôi loạn giấc mơ
Buồn như mây khói, ngày giờ trôi suông
Đời tôi một giấc hoàng lương

Ngẫm ra chỉ thấy chán chường nhớ nhung
Chỉ toàn hối tiếc mông lung
Buồn đau, khổ nhục vô cùng mà thôi

Buổi chiều tà của mặt trời lãng mạn

  Charles Baudelaire
Le coucher du soleil romantique Buổi chiều tà của mặt trời lãng mạn 
Que le soleil est beau quand tout frais il se lève,
Comme une explosion nous lançant son bonjour!
— Bienheureux celui-là qui peut avec amour
Saluer son coucher plus glorieux qu'un rêve!

Je me souviens!... J'ai vu tout, fleur, source, sillon,
Se pâmer sous son oeil comme un coeur qui palpite...
— Courons vers l'horizon, il est tard, courons vite,
Pour attraper au moins un oblique rayon!

Mais je poursuis en vain le Dieu qui se retire;
L'irrésistible Nuit établit son empire,
Noire, humide, funeste et pleine de frissons;

Une odeur de tombeau dans les ténèbres nage,
Et mon pied peureux froisse, au bord du marécage,
Des crapauds imprévus et de froids limaçons.
Ôi! đẹp sao mặt trời khi ban mai hồng tươi mọc
Như ánh sáng nổ tung, chào hỏi chúng ta
Sung sướng thay ai có thể say mê khao khát
Chào hỏi hoàng hôn rực rỡ hơn giấc mơ

Tôi nhớ lại!... Tôi đã thấy tất cả, hoa, suối, cánh đồng
Như một trái tim phập phồng, dưới ánh mặt trời rung động...
- Chạy mau đến chân trời, đã muộn rồi, ta hãy nhanh chân
Để níu, ít ra, một vài tia nắng quái!

Nhưng vô ích, đuổi chẳng được vị thần kia đã buộc
Đêm sâu mãnh liệt tiến lên, chiếm cả bầu trời
Đầy tai hoạ, rùng mình, tối đen, ẩm ướt

Một cái mùi chết chóc, từ đáy mả bốc lên
Và bàn chân ta rụt rè, trên miệng đầm lầy bẩn thỉu
Chạm bất ngờ những con ốc, con sên lạnh lẽo







Chim hải âu-Charles Baudelaire

Chim hải âu Charles Baudelaire

L'albatros Chim hải âu (Người dịch: Phạm Nguyên Phẩm)
Souvent, pour s’amuser, les hommes d’équipage
Prennent des albatros, vastes oiseaux des mers,
Qui suivent, indolents compagnons de voyage,
Le navire glissant sur les gouffres amers.

À peine les ont-ils déposés sur les planches,
Que ces rois de l’azur, maladroits et honteux,
Laissent piteusement leurs grandes ailes blanches
Comme des avirons traîner à côté d’eux.

Ce voyageur ailé, comme il est gauche et veule !
Lui, naguère si beau, qu’il est comique et laid !
L’un agace son bec avec un brûle-gueule,
L’autre mime, en boitant, l’infirme qui volait !

Le Poète est semblable au prince des nuées
Qui hante la tempête et se rit de l’archer ;
Exilé sur le sol au milieu des huées,
Ses ailes de géant l’empêchent de marcher.
Người thuỷ thủ thường hay đùa bỡn
Bắt hải âu chim lớn biển xanh
Vô tư người bạn đồng hành
Theo tàu lướt sóng băng mình vực sâu

Vừa được xuống sàn tàu bằng gỗ
Chúa trời mây xấu hổ vụng về
Kéo đôi cánh trắng to bè
Như đôi chèo rộng lê thê bên mình

Mới vừa rồi dáng hình đẹp đẽ
Giờ trông sao xấu xí kỳ khôi
Người cầm tẩu gõ chim chơi
Kẻ thời bắt chước chim trời què chân

Thi sĩ giống vua ngàn mây gió
Khoái phong ba cung nỏ xá chi
Lưu đầy giữa tiếng cười chê
Mang đôi cánh rộng khó bề bước đi.

Chán đời (Charles Baudelaire, Pháp)

5CA
Spleen Chán đời (Người dịch: Hải Đà)

Quand le ciel bas et lourd pèse comme un couvercle
Sur l'esprit gémissant en proie aux longs ennuis,
Et que de l'horizon embrassant tout le cercle
Il nous verse un jour noir plus triste que les nuits ;

Quand la terre est changée en un cachot humide,
Où l'Espérance, comme une chauve-souris,
S'en va battant les murs de son aile timide
Et se cognant la tête à des plafonds pourris ;

Quand la pluie étalant ses immenses trainées
D'une vaste prison imite les barreaux,
Et qu'un peuple muet d'infâmes araignées
Vient tendre ses filets au fond de nos cerveaux,

Des cloches tout à coup sautent avec furie
Et lancent vers le ciel un affreux hurlement,
Ainsi que des esprits errants et sans patrie
Qui se mettent à geindre opiniâtrement.

- Et de longs corbillards, sans tambours ni musique,
Défilent lentement dans mon âme; l'Espoir,
Vaincu, pleure, et l'Angoisse atroce, despotique,
Sur mon crâne incliné plante son drapeau noir.
 
Trời trũng thấp như chiếc vung nặng trĩu
Đè lên hồn rền rĩ nỗi buồn dai
Xiết vòng quanh là chân trời vây kín
Rót ngày đen sầu thảm hơn đêm dài

Mặt đất biến thành nhà tù ẩm thấp
Nơi chốn mà Cuồng Vọng tựa cánh dơi
Bức tường ngăn rụt rè đôi cánh đập
Chạm đầu va trần mục nát tả tơi

Từng vạt lớn cơn mưa tràn vung vãi
Tựa khung tù song sắt rộng thênh thang
Ghê gớm quá lặng câm nhìn đàn nhện
Tận óc mình thả lưới bủa vây giăng

Trong bất chợt cỗ chuông reo phẩn nộ
Thất kinh người tiếng hú vọng lên trời
Không tổ quốc tựa linh hồn lang bạt
Phàn nàn than dai dẳng chẳng ngừng thôi

Đoàn xe tang chạy dài không chiêng trống
Qua hồn tôi bước chậm.. Hy Vọng tàn …
Òa lên khóc, Kinh Hoàng và áp chế
Trên đầu tôi nghiêng gục cắm cờ đen ..

Chán đời (Charles Baudelaire, Pháp)

Spleen Chán đời (Người dịch: Hải Đà)
Quand le ciel bas et lourd pèse comme un couvercle
Sur l'esprit gémissant en proie aux longs ennuis,
Et que de l'horizon embrassant tout le cercle
Il nous verse un jour noir plus triste que les nuits ;

Quand la terre est changée en un cachot humide,
Où l'Espérance, comme une chauve-souris,
S'en va battant les murs de son aile timide
Et se cognant la tête à des plafonds pourris ;

Quand la pluie étalant ses immenses trainées
D'une vaste prison imite les barreaux,
Et qu'un peuple muet d'infâmes araignées
Vient tendre ses filets au fond de nos cerveaux,

Des cloches tout à coup sautent avec furie
Et lancent vers le ciel un affreux hurlement,
Ainsi que des esprits errants et sans patrie
Qui se mettent à geindre opiniâtrement.

- Et de longs corbillards, sans tambours ni musique,
Défilent lentement dans mon âme; l'Espoir,
Vaincu, pleure, et l'Angoisse atroce, despotique,
Sur mon crâne incliné plante son drapeau noir.
Trời trũng thấp như chiếc vung nặng trĩu
Đè lên hồn rền rĩ nỗi buồn dai
Xiết vòng quanh là chân trời vây kín
Rót ngày đen sầu thảm hơn đêm dài

Mặt đất biến thành nhà tù ẩm thấp
Nơi chốn mà Cuồng Vọng tựa cánh dơi
Bức tường ngăn rụt rè đôi cánh đập
Chạm đầu va trần mục nát tả tơi

Từng vạt lớn cơn mưa tràn vung vãi
Tựa khung tù song sắt rộng thênh thang
Ghê gớm quá lặng câm nhìn đàn nhện
Tận óc mình thả lưới bủa vây giăng

Trong bất chợt cỗ chuông reo phẩn nộ
Thất kinh người tiếng hú vọng lên trời
Không tổ quốc tựa linh hồn lang bạt
Phàn nàn than dai dẳng chẳng ngừng thôi

Đoàn xe tang chạy dài không chiêng trống
Qua hồn tôi bước chậm.. Hy Vọng tàn …
Òa lên khóc, Kinh Hoàng và áp chế
Trên đầu tôi nghiêng gục cắm cờ đen ..

Tên cố nhân de Lamartine

Alphonse de Lamartine
   Un nom
Tên cố nhân (Người dịch: Phạm Bạch Lĩnh)
Il est un nom caché dans l'ombre de mon âme,
Que j'y lis nuit et jour et qu'aucun oeil n'y voit,
Comme un anneau perdu que la main d'une femme
Dans l'abîme des mers laissa glisser du doigt.

Dans l'arche de mon coeur, qui pour lui seul s'entrouvre,
Il dort enseveli sous une clef d'airain ;
De mystère et de peur mon amour le recouvre,
Comme après une fête on referme un écrin.

Si vous le demandez, ma lèvre est sans réponse,
Mais, tel qu'un talisman formé d'un mot secret,
Quand seul avec l'écho ma bouche le prononce,
Ma nuit s'ouvre, et dans l'âme un être m'apparaît.

En jour éblouissant l'ombre se transfigure ;
Des rayons, échappés par les fentes des cieux,
Colorent de pudeur une blanche figure
Sur qui l'ange ébloui n'ose lever les yeux.

C'est une vierge enfant, et qui grandit encore ;
Il pleut sur ce matin des beautés et des Jours ;
De pensée en pensée on voit son âme éclore,
Comme son corps charmant de contours en contours.

Un éblouissement de jeunesse et de grâce
Fascine le regard où son charme est resté.
Quand elle fait un pas, on dirait que l'espace
S'éclaire et s'agrandit pour tant de majesté.

Dans ses cheveux bronzés jamais le vent ne joue.
Dérobant un regard qu'une boucle interrompt,
Ils serpentent collés au marbre de sa joue,
Jetant l'ombre pensive aux secrets de son front.

Son teint calme, et veiné des taches de l'opale,
Comme s'il frissonnait avant la passion,
Nuance sa fraîcheur des moires d'un lis pâle,
Où la bouche a laissé sa moite impression.

Sérieuse en naissant jusque dans son sourire,
Elle aborde la vie avec recueillement ;
Son coeur, profond et lourd chaque fois qu'il respire,
Soulève avec son sein un poids de sentiment.

Soutenant sur sa main sa tête renversée,
Et fronçant les sourcils qui couvrent son oeil noir,
Elle semble lancer l'éclair de sa pensée
Jusqu'à des horizons qu'aucun oeil ne peut voir.

Comme au sein de ces nuits sans brumes et sans voiles,
Où dans leur profondeur l'oeil surprend les cieux nus,
Dans ses beaux yeux d'enfant, firmament plein d'étoiles,
Je vois poindre et nager des astres inconnus.

Des splendeurs de cette âme un reflet me traverse ;
Il transforme en Éden ce morne et froid séjour.
Le flot mort de mon sang s'accélère, et je berce
Des mondes de bonheur sur ces vagues d'amour.

- Oh ! dites-nous ce nom, ce nom qui fait qu'on aime ;
Qui laisse sur la lèvre une saveur de miel !
- Non, je ne le dis pas sur la terre à moi-même ;
Je l'emporte au tombeau pour m'embellir le ciel.
Tên ai chôn đáy dạ này
Ngày đêm hằng đọc người ngoài thấy đâu
Ví như chiếc nhẫn chìm sâu
Rời tay thiếu phụ rơi vào trùng dương

Trong tim lẫn nét khuôn vòng
Chủ chôn chặt kín trong vòm phủ che
Sợ rằng thương quá nói ra
Dấu như dấu ngọc, hội về, khoá bao

Hé môi thề chẳng khi nào
Riêng mình nhẩm tiếng nhiệm màu đọc tên
Riêng mình nghe giọng vang rền
Nội tâm mở cánh, hiện hình bóng ai

Sáng bừng nổi rõ hình hài
Khe mây ánh lọt nét ngài trắng xinh
Sắc màu tinh khiết nguyên trinh
Tỏ niềm khâm phục thần linh cúi đầu

Đồng trinh, tuổi ấy lớn mau
Hạt trong sương sớm buổi đầu muà xuân
Mỗi ngày tâm trí khai dần
Mỗi ngày mỗi lộ tuyệt trần đường cong

Thật là duyên dáng trẻ trung
Càng nhìn càng mến, càng trông càng thèm
Nghiêm trang từ tốn gót sen
Không gian rộng mở thêm phần phong quang

Mướt trơn mái tóc đồng đen
Mắt đưa kín đáo dưới làn tóc che
Sợi tơ gương mặt đá huê
In trên gò má ửng hoe nỗi lòng

Nước da vân ngọc bích hồng
Nổi gai e lệ, lửa lòng âm i
Mịn màng óng ánh màu hoa
Môi in mọng ướt hương thề nét cong

Mặt nghiêm cười giữ nghiêm lòng
Đường đời dò dẫm, rộn ràng tâm tư
Tim vàng sâu đậm mộng mơ
Phập phồng lồng ngực vò tơ khối tình

Tay ngà đầu tựa nghiêng mình
Cau mày che cặp mắt huyền suy tư
Tình anh nảy ý ai ngờ
Mắt nào trông kịp ý loè chân mây

Dường như giữa cảnh đêm này
Trời trông trong vắt, không mây, sương mù
Sáng trong mắt trẻ đồng màu
Hiện nhiều sao lạ đầy tròng long lanh

Tâm hồn đẹp đẽ muôn phần
Khơi niềm tình ái, ngỡ gần cung tiên
Tưởng như đã tắt lửa tình
Máu đông lại chảy tim duềnh sóng thương

- Cho nhau biết với tên nàng
Đọc lên như mật quyện vành môi xinh
- Tên kia giữ kín suốt đời
Tắt hơi, mang xuống tuyền đài dệt mơ.
 

Nước Nga- Xergây Êxênhin

Nước Nga

Ôi nước Nga thân thiết của tôi ơi
Nhà gỗ thông xanh khoác áo choàng tượng chúa...
Một màu xanh mát ngắm nhìn thuê thoả
Một màu xanh tít tắp tận chân mây

Như một kẻ hành hương từ xa đến
Tôi ngắm nhìn mãi đồng ruộng của Người
Bên lối vào le te bên thôn xóm
Những cây phong gầy guộc lá reo vui

Ngày lễ thánh nhà thờ trên mỗi nẻo
Hương mật ong, táo chín toả ngất ngây
Sau điệu nhảy cầm tay trên cỏ thảo
Là rộn ràng đến điệu vũ xuân tươi

Theo lối mòn nát nhàu tôi tất cả
Ra bao la đồng ruộng trải ngát xanh
Tiếng cười vang của các cô thôn nữ
Đến gặp tôi như những tiếng khuyên vàng


Ôi nếu như thiên thần lên tiếng gọi
Bỏ nước Nga lên sống ở thiên đường !
Tôi sẽ đáp:" Thiên đường xin để đấy
Cho tôi xin ở cùng Tổ quốc yêu thương".
(Thuý Toàn dịch)

Người chết vui mừng


Charles Baudelaire, Pháp
   Le mort joyeux
Người chết vui mừng (Người dịch: Lê Trọng Bổng)
Dans une terre grasse et pleine d'escargots
Je veux creuser moi-même une fosse profonde,
Où je puisse à loisir étaler mes vieux os
Et dormir dans l'oubli comme un requin dans l'onde.
 

Je hais les testaments et je hais les tombeaux;
Plutôt que d'implorer une larme du monde,
Vivant, j'aimerais mieux inviter les corbeaux
À saigner tous les bouts de ma carcasse immonde.

Ô vers! noirs compagnons sans oreille et sans yeux,
Voyez venir à vous un mort libre et joyeux;
Philosophes viveurs, fils de la pourriture,

À travers ma ruine allez donc sans remords,
Et dites-moi s'il est encor quelque torture
Pour ce vieux corps sans âme et mort parmi les morts!
Ta muốn tự mình đào
Một cái hố thật sâu
Trên mảnh đất màu mỡ
Lúc nhúc ốc sên này
Để có được một chỗ
Mà mặc sức phô bày
Hài cốt mình vào đó
Rồi ngủ trong lãng quên
Giống như chú cá mập
Giữa làn nước lặng yên

Ta ghét các di chúc
Ta ghét các nấm mồ
Ta không ưa lạy lục
Xin nước mắt thế gian
Chẳng thà khi còn sống
Ta mời đám quạ đen
Tới tha hồ mổ lên
Cái bộ xương uế tạp
Cho chảy máu triền miên

Ôi, ôi các chú giun
Đám bạn bè hiểm độc
Không mắt lại không tai
Thấy được chăng chẳng biết
Có kẻ đang đến cùng
Đó là một người chết
Tự do và vui mừng
Hỡi triết gia ăn chơi
Con cưng của rữa nát

Đừng ăn năn gì sất
Khi qua tấm thân tàn
Hãy nói liệu có còn
Cuộc tra tấn nào khác
Lên thân già không hồn
Và chết giữa người chết

Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2011

Cây liễu

Cây liễu                Alfred de Musset

blue-sky-wallpaper

Le saule (extrait)

Cây liễu (trích) (Người dịch: Phạm Nguyên Phẩm)

Pâle étoile du soir, messagère lointaine,
Dont le front sort brillant des voiles du couchant,
De ton palais d'azur, au sein du firmament,
Que regardes-tu dans la plaine ?

La tempête s'éloigne, et les vents sont calmés.
La forêt, qui frémit, pleure sur la bruyère ;
Le phalène doré, dans sa course légère,
Traverse les prés embaumés.

Que cherches-tu sur la terre endormie ?
Mais déjà vers les monts je te vois t'abaisser ;
Tu fuis, en souriant, mélancolique amie,
Et ton tremblant regard est près de s'effacer.

Étoile qui descends vers la verte colline,
Triste larme d'argent du manteau de la Nuit,
Toi que regarde au loin le pâtre qui chemine,
Tandis que pas à pas son long troupeau le suit, -

Étoile, où t'en vas-tu, dans cette nuit immense ?
Cherches-tu sur la rive un lit dans les roseaux ?
Où t'en vas-tu si belle, à l'heure du silence,
Tomber comme une perle au sein profond des eaux ?

Ah ! si tu dois mourir, bel astre, et si ta tête
Va dans la vaste mer plonger ses blonds cheveux,
Avant de nous quitter, un seul instant arrête ; -
Étoile de l'amour, ne descends pas des cieux !

Hỡi sứ giả phương xa, ngôi sao Hôm mờ nhạt
Trên màn chiếu khuôn sáng hiện dần ra
Từ cung trời xanh, giữa vũ trụ bao la
Nhìn chi đó trên cánh đồng bát ngát?

Giông tố đã qua, trời trở lại hiền hoà
Rừng run rẩy, than vãn cùng thạch thảo
Con bướm vàng nhẹ nhàng bay dạo
Lướt thảo nguyên thơm ngát hương nồng

Sao tìm chi trên cõi trần êm giấc
Mà hạ mình xuống sát đầu non?
Sao vừa trốn vừa cười, hỡi cô em trầm mặc
Ánh mắt chập chờn sắp biến khỏi không gian

Sao đang xuống quả đồi xanh biếc
Giọt lệ buồn ngấn bạc áo đêm thâu
Xa xa chú mục đồng nhìn mải miết
Mặc đàn cừu lững thững bước theo sau

Sao đi đâu trong đêm dài vô tận?
Muốn tìm chăng nơi nghỉ ở bờ lau?
Sao đẹp quá! trong phút giây yên lặng
Sắp gieo mình như ngọc quý dưới biển sâu?

Nếu phải giã đời, hỡi ngôi sao xinh đẹp
Mái tóc vàng phải dìm xuống biển khơi
Một phút thôi, xin hãy dừng khi từ biệt
Sao tình yêu, đừng biến khỏi bầu trời!

Thứ Tư, 7 tháng 9, 2011

Cái điếu (Charles Baudelaire, Pháp)

222-5

La pipe

Cái điếu (Người dịch: Đỗ Tiến Hiền)

Je suis la pipe d'un auteur; 
On voit, à contempler ma mine 
D'Abyssinienne ou de Cafrine, 
Que mon maître est un grand fumeur. 

Quand il est comblé de douleur, 
Je fume comme la chaumine 
Où se prépare la cuisine 
Pour le retour du laboureur. 

J'enlace et je berce son âme 
Dans le réseau mobile et bleu 
Qui monte de ma bouche en feu, 

Et je roule un puissant dictame 
Qui charme son coeur et guérit 
De ses fatigues son esprit.

Tôi là điếu một tác gia 
Thấy tôi ám khói người ta tưởng rằng 
Châu Phi tôi hẳn mới sang 
Chủ tôi ắt cũng là trang...hút cừ 

Khi lòng chứa chất sầu tư 
Tôi như mái bếp toả mờ không gian 
Nơi đang sửa soạn bữa ăn 
Thợ cày đói bụng vừa tan buổi làm 

Miệng tôi ngậm lửa đỏ lòm 
Phun luồng uyển chuyển xanh lam chập chờn 
Dịu dàng như mẹ ru con 
Quyện hồn ông chủ, ru hồn lên mây 

Tôi vê lá thuốc thơm cay 
Để cho ông chủ ngất ngây cõi lòng 
Và tôi cũng chữa cho ông 
Khỏi bao mệt mỏi chất trong tâm hồn