Thứ Năm, 13 tháng 10, 2016

Đất Vỡ Hoang Tập II

clip_image002

 

               ĐẤT VỠ HOANG

                                  Mikhain Sô-lô-khốp

 

 

 

 

 

Tiểu thuyết hai tập

Nhà xuất bản Cầu Vồng (Mát-xcơ-va) - 1985

In theo bản dịch của Nhà xuất bản Văn học (Hà Nội)

Người dịch: Vũ Trấn Thủ

Tập 2

CHƯƠNG I

Đất mọng nước mưa, và khi gió xua tản mây ra, đất ngây ngất dưới ánh nắng chói lọi và toả một làn khói lam. Sáng sáng, sương mù dâng lên từ một con ngòi, từ vùng trũng bùn lầy nước đọng. Sương trôi như sóng cuộn qua ấp Grêmiatsi Lốc, lao ra ngoài đồi núi thảo nguyên và ở đó tan ra thành một lớp khói xanh lam mịn màng; và trên cành lá, trên những mái nhà, mái kho lợp sậy, cho đến tận trưa đâu đâu cũng la liệt những hạt sương nặng nom như những hạt đạn ghém đỏ rực, đè trĩu ngọn cỏ.

Ngoài thảo nguyên cỏ băng mọc cao hơn đầu gối. Phía bên kia bãi chăn thả, cây ngạc ba đang ra hoa. Hương hoa ngọt ngào chiều chiều toả vào khắp làng làm xao xuyến trái tim các cô gái. Lúa vụ đông trải ra đến tận chân trời như một  bức tường xanh biếc, lúa xuân thì lên đều san sát nom đến là vui mắt. Những khoảnh ruộng cát xám tua tủa những ngọn ngô non nom như muôn ngàn mũi tên.

Tới thượng tuần tháng Sáu, thời tiết đã đẹp đều, trời không gợn bóng mây, và thảo nguyên nở hoa sau những trận gội mưa phơi mình ra lộng lẫy dưới ánh nắng. Giờ đây, thảo nguyên nom như một thiếu phụ đang nuôi con bú, xinh đẹp lạ thường, một vẻ đẹp lắng dịu, hơi mệt mỏi và rạng rỡ, nụ cười xinh tươi hạnh phúc và trong sáng của tình mẹ con.

Sáng nào cũng vậy, mặt trời chưa mọc, Iakốp Lukits đã khoác lên vai tấm áo măngtô vải thô đã sờn, ra đồng ngắm lúa. Lão đứng hồi lâu bên bờ ruộng, nơi bắt đầu trải ra những đợt sóng triều của lúa đồng xanh rờn và long lanh hạt sương đêm. Lão đứng lặng, đầu rủ xuống, như một con ngựa già mệt mỏi, và nghĩ miên man: “Nếu trong thời gian lúa ngậm đòng không có gió đông nam, nếu lúa không bị trụi đi vì đợt gió nóng thì thằng nông trang ba lần trời đánh kia sẽ vớ bẫm thóc! Cái chính quyền xôviết khốn kiếp này thật là vận đỏ! Hồi làm ăn riêng lẻ, bao nhiêu năm liền mưa gió thất thường, thế mà bây giờ cứ như mong sao được vậy! Và được mùa, giá trị ngày công cao thì có mà kích được bọn nông trang viên chúng nó chống lại chính quyền xôviết khối ra đấy! Đừng hòng! Thằng đói thì như con chó sói trong rừng, đâu cũng sục, thằng no thì như con lợn trong chuồng, chỉ nằm ì bị thịt ra đó. Ngài Pôlốptxép còn nghĩ gì, đợi gì nữa, mình thật chẳng hiểu! Bây giờ lật nhào chính quyền xôviết đi thì đúng lúc quá, thế mà họ cứ lừng khừng…”.

Iakốp Lukits, chờ mãi cuộc đổi đời mà Pôlốptxép đã hứa, phát ngán mà phán bậy thế thôi. Lão thừa biết Pôlốptxép chẳng lừng khừng tí nào và hoàn toàn chẳng khoanh tay ngồi đợi. Hầu như đêm nào cũng có những người liên lạc từ những làng ấp xa xôi, từ những quận khác cưỡi ngựa băng tới dọc theo bờ dốc đứng chạy từ núi tới tận sát vườn nhà Ôxtơrốpnốp. Chắc họ để ngựa lại khu rừng đầu dốc, đi bộ tới. Nghe mật hiệu gõ nhẹ, Iakốp Lukits ra mở cửa cho họ, không lên đèn, đưa họ vào gian phòng xép gặp Pôlốptxép. Gian phòng xép cửa sổ đóng im ỉm ngày đêm, bên trong lại còn buông màn dạ xám dày kín mít. Ngay những ngày trời nắng trong phòng cũng tối xâm xẩm, như dưới hầm chứa, và cũng như dưới hầm, phòng hôi mùi ẩm mốc của những nơi bí hơi. Ban ngày cả Pôlốptxép lẫn Liachépxki không thò ra khỏi nhà. Một thùng thiếc đặt lọt trong cái lỗ khoét dưới ván sàn dùng làm bô vệ sinh cho hai tên tù tự nguyện.

Những kẻ lén lút tới ban đêm ấy, lúc đưa họ vào tới phòng ngoài Iakốp Lukits bao giờ cũng đánh que diêm thoáng xem mặt từng người, nhưng lão chưa lần nào nhận ra một bộ mặt nào quen; tất cả đều là người lạ và xem chừng từ xa đến. Một lần lão đánh bạo hỏi nhỏ một trong những người liên lạc ấy:

- Đồng bào ở đâu đến đấy?

Ánh lửa le lói của que diêm soi sáng dưới chiếc mũ trùm khuôn mặt  rậm râu nom vẻ hiền lành của một anh kô-dắc đã đứng tuổi. Iakốp Lukits trông thấy một đôi mắt nheo lại và một nụ cười chế giễu của hai hàm răng trắng nhởn.

- Từ thế giới bên kia, đồng bào ạ! – Người kia đáp lại cũng thì thầm như thế. Và nói tiếp bằng giọng ra lệnh: - Dẫn vào gặp thượng cấp mau lên, và tò mò vừa vừa chứ!

Và hai ngày sau, người kô-dắc rậm râu ấy lại đến, dắt theo một anh kô-dắc khác trẻ hơn. Họ vác vào một vật gì nặng, nhưng bước nhẹ chân, hầu như không phát ra tiếng động. Iakốp Lukits đánh diêm, trông thấy người rậm râu ôm một đôi yên ngựa sĩ quan, vai vắt những bộ cương nạm bạc; người thứ hai thì vác trên vai một bọc dài nom không ra hình thù gì, cuộn trong một tấm áo khoác đen lông xù.

Người rậm râu nháy mắt với Iakốp Lukits như với một người quen biết từ lâu, hỏi:

- Có nhà không? Cả hai ông chứ? – Và chẳng đợi trả lời, hắn bước thẳng tới gian phòng xép.

Que diêm tàn đốt bỏng tay Iakốp Lukits. Đi mò trong tối, người rậm râu vấp phải cái gì, khẽ vặc một tiếng.

- Đợi tí, có đây, - Iakốp Lukits nói, tay lóng ngóng móc que diêm trong bao ra.

Pôlốptxép đích thân ra mở cửa, khẽ nói:

- Vào đi. Vào đi chứ, lần chần gì đấy? Iakốp Lukits, cả anh nữa, vào đây. Tôi có việc cần đến anh. Khe khẽ chứ, tôi châm đèn đây.

Y châm cây đèn bão “Con dơi”, nhưng trùm chiếc áo varơi lên trên, chỉ để hở một khe sáng chênh chếch rọi xuống ván sàn sơn màu gạch.

Hai người mới tới kính cẩn chào, đặt xuống bên cửa những đồ họ mang tới. Người rậm râu tiến lên hai bước, rập gót giày, rút trong người giơ ra một phong thư. Pôlốptxép bóc thư, ghé sát vào ngọn đèn xem lướt qua một lượt, nói:

- Nói với ông Bạc đầu là tôi cám ơn. Không có thư trả lời đâu. Tôi đợi tin ông ấy muộn nhất là đến ngày mười hai. Thôi về đi! Có tới kịp trước sáng không?

- Kịp chứ ạ. Ngựa chúng tôi tốt. – Người rậm râu đáp.

- Đi đi. Cám ơn anh em.

- Tuân lệnh!

Hai người làm động tác đằng sau quay đều rắp, rập gót giày đi ra. Iakốp Lukits phục lăn, nghĩ bụng: “Đúng là dân lão luyện! Trông biết ngay là quân nhân chuyên nghiệp già đời!... Nhưng sao họ không gọi ông ấy theo quân hàm nhỉ?...”.

Pôlốptxép bước tới, đặt bàn tay nặng chịch lên vai lão. Iakốp Lukits vô tình cũng ưỡn thẳng người đứng nghiêm, tay ruỗi thẳng theo đường nẹp quần. Pôlốptxép cười khe khẽ:

- Trông thấy hai con đại bàng ấy rồi chứ? Họ sẽ không quay quắt đâu. Họ sẽ theo tôi nhảy vào lửa, chứ không như mấy quân chó má non gan bên ấp Vôixkôvôi đâu. Nào xem họ mang đến cho ta những cái gì nào…

Pôlốptxép quuỳ một gối xuống, thoăn thoắt cởi những sợi dây da không thuộc trăng trắng bó nhằng nhịt ngoài tấm áo, giở ra, và lôi ra một khẩu súng máy tháo rời và bốn băng đạn tròn ánh lên đùng đục bọc trong một tấm vải dầu. Rồi y thận trọng kéo ra hai thanh kiếm. Một là thanh kiếm lính kô-dắc đút trong chiếc bao trải qua bao phong trần đã sờn, thanh kia là kiếm võ quan với cái nuốm bạc gắn sâu vào chuôi kiếm, cái dải huân chương Ghêorghi đã xỉn màu, và cái bao dát bạc cài vào chiếc thắt lưng đen kiểu Cápcadơ.

Pôlốptxép quỳ hẳn cả hai gối xuống, nâng thanh kiếm trên hai lòng bàn tay giơ thẳng, ngửa đầu như chiêm ngưỡng cái ánh sáng bạc mờ mờ. Rồi y áp thanh kiếm vào ngực, nói giọng run run:

- Em thân yêu của ta, giai nhân của ta! Người bạn gái trung thành của ta! Em sẽ còn dịp giúp ta, trung thành, một lòng một dạ!

Cái hàm dưới to bạnh của y mấp máy run run, khoé mắt y sôi lên hai giọt lệ giận dữ và ngây ngất, nhưng y cố trấn tĩnh lại, quay sang Iakốp Lukits một bộ mặt méo xệch, xám nhợt và nói oang oang:

- Có nhận ra nó không, Iakốp Lukits?

Iakốp Lukits nuốt khan ừng ực, lặng lẽ gật đầu: lão nhận ra rồi, lão đã trông thấy nó lần đầu tiên hồi năm 1915, tại mặt trận Áo, trong tay viên quan hai Pôlốptxép trẻ măng và hiên ngang…

Liachépxki từ nãy vẫn nằm dài trên giường lặng thinh và mặt lạnh như tiền, ngồi dậy, buông thõng hai bàn chân để trần, vặn người kêu răng rắc, lừ nhìn bằng con mắt độc nhất long lanh, khàn khàn nói:

- Một cuộc hội ngộ cảm động! Có thể nói là một bản tình ca phiến loạn! Mình chúa ghét những cái trò lãng mạn với cái giọng thống thiết thối rích ấy!

- Này thôi đi! – Pôlốptxép gắt.

Liachépxki nhún vai:

- Sao lại phải thôi? Và thôi cái gì nhỉ?

- Tôi yêu cầu anh thôi đi! – Pôlốptxép nói rất nhỏ, vừa nói vừa đứng dậy, rồi từ từ, như rón rén, bước tới bên giường.

Bàn tay trái run run của y cầm thanh kiếm, còn tay phải thì giằng cởi khuy cổ chiếc áo cao cổ màu xám. Iakốp Lukits kinh hãi thấy cơn điên đã làm đôi mắt y nhít vào giữa sống mũi và khuôn mặt húp híp của y xám đi như màu áo y mặc.

Liachépxki thản nhiên từ từ ngả lưng nằm xuống giường, đưa hai bàn tay lót sau gáy. Hắn nói, miệng mỉm cười mỉa mai, con mắt độc nhỡn nhìn lên trần:

- Trò mần tuồng! Những trò ấy mình đã thấy, và thấy mãi rồi, ở những rạp hát tỉnh lẻ khai nồng khai nặc. Ngấy lắm rồi!

Pôlốptxép dừng lại cách hắn hai bước, đưa tay lên lau mồ hôi trán trong một cử chỉ vô cùng mệt mỏi; rồi cánh tay y buông thõng xuống, bải hoải và mềm nhũn.

- Thần kinh… - Y nói ấp úng, lưỡi như líu lại, và một cơn co giật tưởng đâu như một nụ cười kéo mặt y méo xệch.

- Cái ấy nữa mình cũng nghe thấy nhiều lần rồi. Thôi cái trò đàn bà ấy đi, anh Pôlốptxép ạ! Phải tự chủ được chứ!

Pôlốptxép lắp bắp:

- Thần kinh… Thần kinh rối loạn… Mình cũng chán ngấy sống trong bóng tối, trong nấm mồ này rồi…

- Bóng tối là bạn hiền của người quân tử. Nó thuận lợi cho những suy tưởng triết lý về cuộc sống, còn thần kinh thực tế chỉ có ở những cô nường thiếu máu, mặt đầy trứng cá, hoặc ở các bà có bệnh đau đầu và bệnh đa ngôn. Đối với một võ quan thần kinh là điều nhục nhã, đáng xấu hổ! Thực ra thì anh cũng chỉ giả vờ thế thôi, anh Pôlốptxép ạ, anh làm quái gì có thần kinh nào, chỉ gàn dở thôi! Tôi không tin anh đâu! Lấy danh dự võ quan, tôi không tin!

- Anh đâu phải võ quan, mà là con vật!

- Cái ấy nữa tôi cũng nghe anh nói nhiều lần rồi,  nhưng dẫu sao tôi cũng sẽ chẳng thách anh đi đấu kiếm làm gì, quỷ tha ma bắt anh đi! Trò ấy cổ và lỗi thời rồi, đang phải làm những công việc quan trọng bằng mấy. Hơn nữa, anh thừa biết đấy, anh bạn hảo hán ạ, là người ta đấu nhau bằng gươm chứ không phải bằng thứ dao thái thịt của cảnh sát mà anh đang ôm vào lòng một cách cảm động và âu yếm đến thế. Là người lính pháo binh kỳ cựu, tôi coi khinh cái của làm cảnh ấy. Còn một lý do nữa để tôi không thách anh đấu kiếm: anh dòng dõi dân đen, còn tôi dòng dõi quý tộc Ba Lan thuộc một gia đình thế phiệt đã từng…

- Này, quý tộc cái con c…! – Pôlốptxép ngắt lời hắn một cách thô bỉ, và giọng hắn nói bỗng trở lại rắn rỏi như bình thường, sang sảng giọng chỉ huy: - Mày dám chế giễu một thanh bảo kiếm mang huân chương Ghêorghi hả? Mày còn mở mồm nói một câu nữa thôi, tao sẽ chém mày chết tươi như chém một con chó!

Liachépxki bật ngồi dậy trên giường. Miệng hắn biến đâu mất tăm cái nụ cười mỉa mai vừa mới đây thôi. Hắn nói, giọng nghiêm trang và giản dị:

- Cái ấy tôi tin! Giọng anh biểu lộ rõ những ý định chân thật và tốt lành của anh, cho nên tôi sẽ im.

Hắn lại nằm xuống, kéo tấm chăn dạ cũ lên tới cằm. Pôlốptxép đứng bên giường, nghiêng nghiêng đầu như một con bò mộng, khăng khăng nói tiếp:

- Tao vẫn sẽ cứ giết mày! Với chính lưỡi kiếm này đây, tao sẽ chặt đôi một con vật quý tộc, làm thành hai con; và bao giờ, mày có biết không? Bao giờ lật đổ được chính quyền xôviết ở miền sông Đông này.

- A, nếu vậy thì tôi có thể yên trí sống cho đến lúc già cốc đế. Và biết đâu tôi lại chẳng bất tử nhỉ? – Liachépxki cười gằn, nói, rồi văng ra một câu chửi đổng, quay mặt vào tường.

Iakốp Lukits đứng bên cửa đổi hết chân nọ sang chân kia, cứ như đang đứng trên đống than hồng. Mấy lần lão cứ định chuồn thì Pôlốptxép lại giơ tay ra hiệu đứng lại. Cuối cùng không chịu nổi nữa, lão khẩn khoản:

- Bẩm lạy quan, cho phép con lui! Sắp sáng đến nơi rồi, con còn phải ra đồng sớm…

Pôlốptxép ngồi xuống ghế, đặt thanh kiếm lên đầu gối, cúi gục xuống, hai tay tỳ lên bao kiếm, im lặng hồi lâu. Chỉ còn nghe thấy tiếng y thở hổn hển, khò khè, và tiếng tích tắc chiếc đồng hồ quả quýt to tướng của y để trên bàn. Iakốp Lukits tưởng Pôlốptxép đã thiếp đi, nhưng bỗng y dựng phắt cái thân hình nặng nề, chắc nình nịch của y đứng dậy, và nói:

- Iakốp Lukits, anh vác đôi yên, còn lại tôi vác. Ta đi xem có chỗ nào chắc chắn, khô ráo, cất giấu tất cả những cái này. Có lẽ giấu trong cái…, ờ… cái gì nhỉ… cái kho anh chất phân khô ấy mà?

- Thưa, chỗ ấy tốt đấy ạ, ta đi thôi! – Iakốp Lukits muốn cút ngay khỏi nơi này, vội đồng ý luôn.

Lão đã nhấc một chiếc yên lên thì Liachépxki nhảy phắt từ trên giường xuống như bị lửa đốt đít, đôi mắt long lên sòng sọc, miệng rít:

- Làm cái trò gì thế này? Tôi hỏi anh: chứ anh định làm cái vớ vẩn gì vậy?

Pôlốptxép đang cúi xuống tấm áo bọc, đứng thẳng lên, lạnh lùng hỏi:

- Gì? Gì mà ngậu lên thế?

- Anh không hiểu sao? Mấy cái yên và cái đồ sắt gỉ này anh muốn giấu đâu mặc anh, nhưng khẩu súng máy và mấy băng đạn thì để lại đây cho tôi! Anh đâu phải về nghỉ mát quê bạn, và khẩu súng máy này ta có thể cần đến nó bất cứ lúc nào. Điều tôi nói, tôi mong là anh nghe thủng rồi chứ.

Pôlốptxép ngẫm nghĩ qua một lát, đồng ý:

- Nói có lý đấy, ông con quý tộc đẻ hoang ạ. Đã thế thì để lại tất cả đây. Cho anh ra, Iakốp Lukits, đi ngủ đi.

Thế mới biết cái men đời lính có sức sống dai thật! Iakốp Lukits chưa kịp nghĩ gì cả thì hai bàn chân đi đất của lão đã vô tình tự nó làm động tác “đằng sau quay”, và hai gót chân chai nẻ của lão khẽ rập vào nhau hầu như không phát ra tiếng động. Thấy vậy, Pôlốptxép khẽ nhếch mép cười, còn Iakốp Lukits đi ra, khép cửa xong mới thấy mình hố. Lão ngượng ngùng đằng hắng một tiếng, nghĩ bụng: “Cái con quỷ rậm râu ấy cứ bày trò, làm mình mụ mẫm cả đi!”.

Lão nằm đến tận sáng bạch nhật hai mắt chong chong. Lòng lão phân vân đôi ngả giữa niềm hy vọng vào thắng lợi của cuộc nổi dậy với nỗi lo thất bại và sự hối hận quá muộn màng đã dại dột ràng buộc số phận mình vào hai kẻ vô lại là Pôlốptxép và Liachépxki kia. Lão thầm than thở: “Chà, mình hấp tấp quá, thật đúng như con gà mái nhảy bổ vào nồi nước sôi! Già mà dại! Đáng lẽ mình phải đứng ngoài đợi xem thế nào đã, chưa chi đã nhận vớ nhận vẩn với lão Alếchxanđrơ Anhiximôvits ấy. Khi nào họ lật nhào được bọn cộng sản, cỗ bày sẵn ra, mình tham gia vẫn vừa. Chứ thế này thì họ có thể dắt mũi mình xuống lỗ như chơi, như dắt mũi một thằng mù… Xét đi thì cũng xét lại: nếu như mình đứng ngoài, người thứ hai cũng vậy, người thứ ba cũng thế nốt, thì rồi sẽ đi đến đâu? Cứ cõng cái chính quyền xôviết trên lưng suốt đời hay sao? Cũng không ổn! Bảo là nó tự ý tụt từ trên lưng mình xuống thì đừng hòng! Mong sao cho bằng cách nào đó mà sớm chấm dứt đi… Alếchxanđrơ Anhiximôvits hứa hẹn nào là nước ngoài sẽ đổ bộ vào, nào là miền Kuban sẽ hỗ trợ. Nghe thì ngon đấy, nhưng rồi sẽ được xơi cái gì thì có trời biết! Thế ngộ nhỡ quân đồng minh co vòi lại, không đổ bộ thì sao? Họ sẽ gửi sang cho ta quân phục lính Anh, như hồi năm mười chín, còn bản thân họ thì ngồi lì nhà nhấm nháp cà phê và hú hí với vợ, lúc ấy chỉ với quân phục của họ thôi thì ta còn biết là cái trò khỉ gì? Để lấy vạt áo lau máu mồm, máu mũi, có vậy thôi. Bọn bônsêvích sẽ giã cho ta một trận, lạy Chúa, như trời giáng. Việc ấy thì chúng thạo lắm. Lúc đó những ai đứng ra chống lại chúng sẽ bỏ mẹ ráo. Đất sông Đông này sẽ biến thành tro bụi!”.

Nghĩ đến đấy, Iakốp Lukits buồn rứt và thương thân đến muốn phát khóc. Lão hết thở dài lại rên rỉ, lẩm nhẩm đọc kinh, rồi một lần nữa đầu óc luẩn quẩn lại quay trở lại chuyện thế gian: “Không hiểu sao Alếchxanđrơ Anhiximôvits và cái lão Ba Lan chột mắt kia lại không ăn ý với nhau nhỉ? Sao họ cứ cắn xé nhau hoài thế? Đang việc tày đình như vậy mà họ sống với nhau cứ như hai con chó cái nhốt chung một cũi. Nhất là cái lão chột, cứ kiếm chuyện nhảy xổ vào người ta, nói này, nói nọ. Thằng cha thật đáng ghét, mình không tin hắn lấy một mảy may. Phương ngôn nói cấm sai: “Chớ tin thằng còng là một, thằng chột là hai, con vợ là ba”. Alếchxanđrơ Anhiximôvits sẽ giết hắn chết toi mất thôi, lạy Chúa, thế nào cũng giết! Thôi thì mặc xác hắn, hắn đâu phải người bổn đạo”.

Với ý nghĩ tự an ủi ấy, Iakốp Lukits cuối cùng đã thiếp đi được chốc lát trong một giấc ngủ nặng nề.

CHƯƠNG II

Iakốp Lukits choàng tỉnh dậy thì mặt trời đã mọc. Trong khoảng có một tiếng đồng hồ lão đã khéo kịp nằm mê thấy bao nhiêu là chuyện, chuyện nọ vớ vẩn và kinh tởm hơn chuyện kia.

Lão nằm mơ thấy mình đứng trước bệ đọc kinh, trẻ măng và bảnh bao trong bộ cánh chú rể, và bên lão là Liachépxki mặc áo dài cô dâu, trùm tấm khăn voan nom như một đám mây trắng, đang ngó ngoáy nhí nhảnh, giương con mắt dâm dật đầy giễu cợt hau háu nhìn lão và cứ nhấm nháy suốt với lão một cách trâng tráo, châm chọc. Iakốp Lukits hình như đã bảo hắn; “Anh Vátxláp Ápguxtôvits này, chúng mình lấy nhau không ổn đâu: anh chẳng gì thì cũng là một anh đàn ông. Chuyện này còn ra cái thể thống quái gì nữa? Mà tôi thì cũng lại có vợ rồi. Thôi, ta hãy trình cha cụ rõ đầu đuôi, kẻo không cha lại biến chúng mình thành trò cười cho thiên hạ mất!”. Nhưng Liachépxki lại đưa bàn tay lạnh ngắt nắm lấy Iakốp Lukits, ghé vào lão, thủ thỉ nỉ non: “Đừng nói ai biết anh đã có vợ nhá! Còn em, anh Iakốp thân yêu ạ, em sẽ là một người vợ ác chiến ghê lắm, đến nỗi làm anh không thở được nữa cơ!”. Iakốp Lukits muốn kêu lên: “Cút cha mày đi cho rồi, thằng chột khốn nạn!”, và cố giằng tay ra khỏi bàn tay Liachépxki mà không được: mấy ngón tay Liachépxki lạnh ngắt, cứng như thép, còn tiếng của Iakốp Lukits nói thì nghe điếc tịt đến là lạ, và đôi môi lão nhũn như bông thấm nước… Điên tiết lên, Iakốp Lukits nhổ toẹt một bãi và choàng tỉnh dậy. Râu lão và mặt gối của lão dớt dãi lầy nhầy…

Lão còn chưa kịp làm dấu và thều thào “lạy Chúa là đấng…” thì đã lại chìm trong giấc chiêm bao khác. Lão thấy mình cùng với thằng Xêmiôn, con trai lão, cùng với Agaphôn Đúpxốp và bà con dân làng đang tha thẩn trên một cánh ruộng mênh mông, hái cà chua dưới sự kiểm soát của những nữ giám thị trẻ mặc đồ trắng. Bản thân Iakốp Lukits cũng như mọi người nam giới khác không hiểu sao lại trần như nhộng, nhưng ngoài lão ra thì chẳng ai thấy xấu hổ về sự trần truồng của mình cả. Đúpxốp đứng quay lưng về phía lão, cúi lom khom xuống một khóm cà chua. Iakốp Lukits chết ngạt đi vì cười và vì bực dọc, bảo hắn: “Thằng ngu mặt rỗ kia, cúi vừa vừa thôi chứ nào! Có đàn bà con gái thì cũng phải biết ngượng tí chứ!”.

Lão thì cứ lúng ta lúng túng ngồi xổm, hái cà bằng độc một tay phải, còn tay trái thì ủ khư khư như người tắm truồng trước khi lội xuống nước…

Tỉnh dậy, Iakốp Lukits ngồi hồi lâu trên giường, thẫn thờ nhìn trước mặt bằng đôi mắt ngơn gác sợ hãi: “Mơ rặt thấy những hcuyện thối tha thế là gở lắm đây! Thế nào cũng cóc huyện chẳng lành!”. Lão bụng bảo dạ như vậy, tronglòng nặng như đá đeo, vàc hỉ nghĩ đến những chuyện mình vừa miộng mị xong, lão đã nhổ toẹt một bãi, nhổ thật, chứ không phải nhổ trong mơ nữa.

Lão mặc quần áo trong một tâm trạng u ám nhất, đá hất con mèo đến cọ cọ vào người lão làm nũng; ngồi vào ăn sáng, chuyện chẳng đâu vào đâu lão cũng phết cho vợ hai tiếng “đồ ngu”, còn cô con dâu dại dột nói leo vào câu chuyện làm ăn thì bị lão giơ thìa doạ đánh, làm như ả là một đứa con nít chứ không phải gái có chồng. Thái độ cau có của ông bố làm Xêmiôn khoái lắm: hắn làm ra bộ mặt sợ hãi thộn nghệch, nhấm nháy mắt với vợ, và cô vợ nín cười, người cứ rung lên bần bật. Thế là Iakốp Lukits nổi điên lên: lão quẳng cái thìa xuống bàn, quát tháo, tức giận lạc cả giọng:

- Cười cho lắm vào, rồi có lúc ròn cười tươi khóc.

Lão bỏ dở bữa đứng dậy cho cả nhà biết tay lão; nhưng chẳng may hất phải bát xúp nóng đang ăn dở, đổ tung toé ra quần. Cô con dâu ôm  mặt bỏ chạy ra ngoài. Xêmiôn vẫn ngồi nguyên chỗ, đầu gục xuống hai cánh tay khoanh trên bàn; chỉ có tấm lưng vai u thịt bắp của hắn cứ rung lên. Ngay cả bà vợ lão xưa nay cấm thấy cười bao giờ cũng phải bật cười. Mụ vừa cười vừa hỏi chồng:

- Thầy nó hôm nay sao vậy? Ngủ dậy bước phải chân trái hay lại mộng mị chuyện gì gở rồi?

- Sao mày biết, con mụ trời đánh? – Iakốp Lukits điên tiết quát lên và nhảy bổ đi ra.

Đến cửa bếp, lão móc phải cái đinh đóng chìa ra ở khung cửa làm cánh tay áo sơmi xatanh mới toanh rách toạc đến tận khuỷu. Lão trở vào phòng mình, lục hòm tìm áo khác thay, nhưng lại sơ ý, để nắp hòm tựa chênh vênh vào tường đổ sập xuống, choang vào đầu lão một cái như trời giáng.

- Bố tiên sư cha nó! Hôm nay vớ phải cái ngày khỉ gió gì mà sao lắm chuyện! – Iakốp Lukits hậm hực thốt lên, bải hoải ngồi phịch xuống tấm ghế đẩu, tay thận trọng sờ nắn cái bướu tướng nổi u sau gáy.

Lão lóng ngóng thay quần áo, cởi bỏ cái quần dây đầy xúp và chiếc áo sơmi rách ra, nhưng trong lúc lật đật bối rối, mặc quần mới vào lại quên không cài cúc. Cứ tênh hênh như thế lão đi tới gần trụ sở nông trang, trong bụng rất thắc mắc không hiểu sao các mụ lão gặp dọc đường chào hỏi lão lại cứ tủm tỉm đến là khó hiểu và cứ vội quay mặt đi… Bác Suka le te đi tới đã nói toạc móng heo, giải quyết cho lão điều thắc mắc ấy. Bác dừng lại, đon đả hỏi:

- Iakốp Lukits ạ, ông đã già đi tợn, hỉ?

- Vâng, ông thì trẻ. Trẻ đâu chả thấy, chỉ thấy mắt đỏ như mắt cá chày, và toét nhèm…

- Ấy, thức đêm đọc sách nên mắt lão toét đấy. Chả còn sống được mấy năm nữa, đọc tí sách nâng cao trình độ mà, nhưng được cái lão ăn mặc vẫn tử tế; còn ông thì đã có vẻ lú lẫn, như khọm lắm rồi vậy…

- Tôi lú lẫn cái gì?

- Quên cả đóng cửa chuồng, con lợn sổng ra mất bây giờ…

- Thằng Xêmiôn sẽ đóng chứ sao. - Iakốp Lukits lơ đãng đáp.

- Cửa chuồng ấy của ông thì thằng Xêmiôn chả đóng được đâu…

Giật mình chợt đoán ra; Iakốp Lukits cúi nhìn xuống, kêu lên một tiếng, rồi thoăn thoắt mười đầu ngón tay. Để những tai bay vạ gió trút lên đầu lão trong cái buổi sáng ẩm ương ấy được trọn vẹn, lão vừa ào tới sân ban quản trị thì xéo ngay phải một củ khoai tây rơi lăn lóc đó, trượt chân ngã sóng soài.

Thế này thì quá lắm! Tất cả những chuyện  ấy xảy ra chẳng phải không dưng đâu. Iakốp Lukits vốn tính mê tín đinh ninh trong bụng rằng một tai hoạ tày đình gì đó đang rình lão. Mặt tái mét, môi run lập cập, lão bước vào phòng Đavưđốp, nói:

- Báo cáo đồng chí Đavưđốp, tôi ốm, đồng chí cho tôi nghỉ hôm nay. Cậu thủ kho sẽ thay tôi.

Đavưđốp đáp, vẻ thông cảm:

- Ồ, trông bác có vẻ mệt thật đấy. Cứ nghỉ thôi. Bác đến cậu y sĩ bây giờ, hay là phải báo cho cậu ấy đến nhà xem cho bác?

Iakốp Lukits ngán ngẩm xua tay:

- Y sĩ cũng chẳng ăn thua gì đâu, tự tôi khắc khỏi…

Về đến nhà, lão bắt đóng kín cửa chớp lại, cởi quần áo, lên giường nằm, nhẫn nhục đợi cái tai hoạ đang lảng vảng quanh đâu đó… Lão than thở trong bụng: “Cái chính quyền chó chết ấy! Ngày cũng như đêm, nó không để cho người ta yên thân lúc nào! Đêm thì mộng mị toàn những chuyện dấm dớ mà thời trước có nằm mơ thấy bao giờ, ngày thì hết chuyện ẩm ương nọ đến chuyện ẩm ương kia, như cái tội cái nợ… Với chính quyền này thì mình chả sống nổi được hết cái số Chúa ban cho mình đâu! Thế nào mình cũng chết yểu!”.

Nhưng ngày hôm ấy Iakốp Lukits đã hoài công thấp thỏm: cái tai hoạ kia đã nấn ná lại ở chỗ nào đó và hai ngày đêm sau mới đến, và đến từ cái phía lão ít ngờ nhất…

Trước khi đi ngủ Iakốp Lukits đã nốc cạn một cốc vốtka cho vững dạ, qua một đêm ngủ ngon lành, chẳng mộng mị gì cả, và sáng dậy tinh thần lên hẳn, phấn khởi nghĩ bụng: “Thoát rồi!”. Ngày hôm ấy trôi qua đi trong những công việc bận rộn hàng ngày. Nhưng hôm sau, vào ngày chủ nhật, lúc trước bữa ăn trưa, lão để ý thấy vợ có vẻ băn khoăn điều gì, liền hỏi:

- Này, hình như mẹ nó có điều gì bứt rứt trong bụng hả? Hay là con bò cái ốm? Hôm qua nó đi ăn cỏ về, tôi cũng đã thấy nó có vẻ uể oải.

Mụ vợ quay sang bảo con trai:

- Xêmiôn, anh đi ra ngoài, bu có tí việc cần nói với thày…

Xêmiôn đang đứng soi gương chải đầu khó chịu nói:

- Cái gì mà rặt thấy những chuyện bí mật thế không biết? Mấy ông bạn của thày mà quỷ nào tròng lên cổ ta, ngày đêm lúc nào cũng thấy thì thà thì thầm trong xó buồng, bây giờ lại đến thày bu… Cứ những chuyện kín kín hở hở ấy thì chả mấy chốc không sống nổi được ở cái nhà này nữa đâu. Chẳng phải là nhà nữa, mà là cái nhà tu kín: chỗ nào cũng độc thấy thì thà thì thào, nhỏ to…

Iakốp Lukits lộn ruột lên:

- Mày thì biết cái gì mà chõ mõm vào đây, đồ lợn con! Bảo mày đi ra, thì mày đi ra! Bây giờ lại sinh ra cái thói lắm mồm lắm miệng đấy hả… Liệu mà bép xép, không rồi lại ăn cái vả vào miệng sớm!

Xêmiôn phát khùng lên, quay sang phía bố, nói giọng trầm trầm:

- Cả thày nữa, thày cũng doạ tôi vừa vừa chứ! Nhà ta còn có ai bé bỏng, non gan đâu. Bây giờ lại cứ người nọ doạ dẫm người kia rồi thì chả ra gì đâu…

Hắn đi ra, đóng sầm cửa lại. Iakốp Lukits điên tiết thốt lên:

- Bà xem con bà hay chưa! Hảo hán nhỉ, quân chó đẻ!

Mụ vợ xưa nay không bao giờ cãi lại chồng, dè dặt đáp:

- Biết nói thế nào với thày nó? Cũng là đến khổ với mấy ông khách ăn hại của thày nó. Sống lúc nào cũng nơm nớp, ốm cả người! Thày nó cẩn thận đấy, chính quyền người ta đến lục soát thì chết ráo cả! Ta bây giờ không phải là sống nữa, mà là lo ngay ngáy, sột soạt một cái, kịch một cái là đã hết hồn rồi! Lạy Chúa tha cho, đừng bắt ai phải sống kiểu như vậy! Nghĩ đến thày nó, nghĩ đến thằng Xêmiôn, tôi lo cứ rối cả ruột. Mấy ông khách nhà ta mà lộ ra, người ta sẽ bắt, và bắt cả hai cha con nữa. Còn lại hai mẹ con tôi đàn bà con gái thì biết sẽ ra sao? Xách bị đi ăn mày chắc?

Iakốp Lukits ngắt lời mụ:

- Thôi im đi! Tôi không cần hai mẹ con bà dạy khôn. Bà bảo có việc gì muốn nói, thì nói đi!

Lão cài chặt cả hai cửa lại, rồi ngồi xuống sát bên vợ. Thoạt đầu lão nghe mụ nói, bề ngoài không để lộ ra cái lo trong bụng, nhưng về cuối, lão không trấn tĩnh nổi nữa, đứng bật dậy, lồng lên trong gian bếp, hoang mang thều thào:

- Chết ráo cả! Cụ giết con cháu! Chặt đầu con cháu!

Hoàn hồn lại một chút, lão nốc lền một lúc hai cốc vại nước, rồi buông mình xuống tấm ghế dài, ruột rối như mớ bòng bong.

- Bây giờ làm thế nào, hả thày nó?

Iakốp Lukits chẳng đáp. Lão không nghe thấy câu vợ hỏi…

Qua lời vợ kể, lão được biết rằng gần đây có bốn mụ già đến nhà, nằng nặc đòi được gặp các ngài sĩ quan. Các mụ nóng lòng muốn biết đến bao giờ thì các ngài sĩ quan, với sự giúp đỡ của Iakốp Lukits che giấu họ và của anh em kô-dắc khác trong ấp, sẽ nổi dậy lật đổ cái chính quyền xôviết vô đạo kia. Vợ lão đã hoài công giải thích cho các mụ là trong nhà chả chứa chấp ông sĩ quan nào cả. Con mụ còng nanh nọc Lôsilina nghe giải thích đã nổi tam bành lên bảo vợ lão: “Này, nhà bác còn ít tuổi quá, không điêu nổi với tôi đâu! Chính mồm bà mẹ chồng nhà bác bảo chúng tôi là có các ông sĩ quan sống trong buồng xép nhà bác từ mùa đông năm ngoái mà. Chúng tôi biết các ông ấy bí mật, không để ai biết, nhưng chúng tôi không hở ra với ai đâu. Nhà bác cứ dẫn chúng tôi vào gặp ông chỉ huy, cái ông gọi là Alếchxanđrơ Anhiximôvits ấy!”.

… Bước vào phòng Pôlốptxép, Iakốp Lukits run bắn cái run mà lão đã từng biết mùi. Lão tưởng Pôlốptxép nghe chuyện xong sẽ nổi khùng lên, thượng cẳng chân hạ cẳng tay, và lão run rẩy như một con chó cúi đầu cam chịu tội. Nhưng sau khi nghe lão kể xong câu chuyện vợ nói, kể rắm rối, không ra đầu đuôi gì vì quá xúc động, nhưng cũng kể được hết, không dấu diếm điều gì, thì Pôlốptxép chỉ cười khẩy:

- Hoạt động bí mật như mẹ con nhà anh thì thật là nhất, khỏi nói!... Chuyện ấy đáng lẽ phải phòng trước. Vậy là bà lão nhà anh đã chơi khăm ta như thế đấy hả, Iakốp Lukits? Theo anh, bây giờ ta nên làm thế nào?

- Ông nên đi khỏi đây, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits! – Iakốp Lukits được tiếp như vậy phấn khởi quá, đáp lại bằng giọng dứt khoát.

- Bao giờ?

- Càng sớm càng tốt. Gấp lắm rồi.

- Chẳng cần anh nói tôi cũng thừa biết. Nhưng đi đâu?

- Thưa, tôi biết sao được ạ. Thế cái đồng chí… Tôi lỡ mồm, ông tha lỗi cho! Thế ngài Vátxláp Ápguxtôvits đâu rồi ạ?

- Đi rồi. Đêm mai sẽ về. Đêm mai anh ra đầu vườn đón ông ta. Atamantsukốp nhà cũng ở rìa làng phải không? Chẳng còn bao ngày nữa, tôi sang đấy ở tạm… Dẫn tôi đi!

Họ lén lút đi tới nhà Atamantsukốp, và trước khi chia tay nhau, Pôlốptxép bảo Iakốp Lukits:

- Thôi, chúc anh khoẻ! Về bà cụ anh, anh nên suy nghĩ… Bà cụ có thể làm hỏng bét công việc của chúng ta… Anh nên lo cái chuyện ấy… Nhớ đón Liachépxki, bảo ông ta biết tôi đang ở đây.

Y ôm hôn Iakốp Lukits, chạm đôi mô khô khốc lên cái má cứng ráp lởm chởm râu ria của lão rồi bỏ đi, dường như dán mình vào bức tường lâu không quét vôi lại của ngôi  nhà, và mất hút…

Iakốp Lukits trở về nhà. Lên giường nằm, bằng một cử chỉ thô bạo khác thường lão hích vợ dịch vào góc giường và nói:

- Này tôi bảo… từ nay đừng cho bà cụ ăn nữa… và cũng đừng cho uống nước… đằng nào thì bà cụ chẳng chết nay cũng chết mai…

Mụ vợ Iakốp Lukits đã sống với chồng một cuộc đời đằng đẵng và vất vả, chỉ kêu thốt lên:

- Mình! Mình là con!

Thế là Iakốp Lukits, hình như là lần đầu tiên trong suốt thời gian vợ chồng chung sống thuận hoà, thẳng tay quai cho bà vợ không còn trẻ trung gì nữa một quả như trời giáng, và khàn khàn nói bằng một giọng âm thầm:

- Câm mồm! Bà cụ đổ tai đổ vạ cho cả nhà! Câm cái mồm! Muốn đi đày đẩy hẳn?

Iakốp Lukits nặng nhọc nhổm dậy, rút ổ khoá tướng ở cái hòm ra, rón rén đi qua hành lang, khoá trái gian buồng mẹ lại.

Mụ già nghe thấy có tiếng chân bước. Từ những thuở nảo thuở nào mụ đã quen nhận ra tiếng chân con mình trong trăm nghìn tiếng chân khác… Bảo làm sao mà mụ lại không nhận ra được tiếng chân con bằng tai  nghe, dù là con mụ đi mãi đằng xa? Năm mươi năm có lẻ về trước, hồi ấy mụ còn là một thiếu phụ kô-dắc xinh đẹp, mụ chẳng đã từng ngừng tay nấu nướng vá may, mỉm cười hân hoan lắng nghe tiếng bước lạch bạch chập chững, ngập ngừng trên sàn buồng bên của đôi bàn chân nhỏ xíu đi đất của thằng con đầu lòng, thằng Iakốp bé bỏng, thằng con một đẹp nhất đời của mụ, đang lẫm chẫm tập đi. Về sau mụ vẫn từng nghe tiếng chân bé bỏng của thằng nhỏ Iakốp con mụ đi học về nhảy lộp cộp trên bực thềm. Hồi ấy nó vui tươi và tưng tưng như một chú dê cõn. Mụ chả nhớ hồi tuổi ấy có bao giờ nó đi bước một không, độc thấy nó chạy, mà nào có chạy như người ta! Nó vừa chạy vừa nhảy cẫng, đúng như một chú dê cõn mà… Cuộc đời mụ lững lờ trôi, như mọi cuộc đời khác, niềm vui thì hiếm và ngắn chẳng tày gang, đắng cay thì nhiều và triền miên; thế rồi, là một bà mẹ tuổi đã dòng dòng, mụ đêm đêm bực mình dỏng tai nghe tiếng bước nhẹ như lướt của thằng Iakốp, một chàng trai nhanh nhẹn dáng người cân đối, đứa con mà mụ lấy làm hãnh diện. Khi nó đi chơi khuya về, tưởng đâu như dép nó không chạm mặt sàn, vì bước chân của nó sao mà thoăn thoắt, nhẹ nhàng. Thằng con mụ đã trở thành một người lớn có gia đình vợ con lúc nào mụ cũng chẳng biết. Chân nó bước đã có cái vẻ tự tin chắc nịch. Từ lâu trong nhà đã vang lên bước chân người chủ, một người đàn ông đã đứng tuổi, hầu như là một ông già, thế mà đối với mụ người ấy vẫn là thằng Iakốp, như xưa, và mụ vẫn thường nằm chiêm bao thấy nó là một thằng cu con có mái tóc vàng…

Và bây giờ cũng vậy, nghe thấy tiếng bước chân nó, mụ cất cái giọng bà lão khàn khàn hỏi:

- Iakốp, con đấy ư?

Thằng con mụ không trả lời. Nó đứng nán lại một lát bên cửa rồi đi ra sân, chẳng hiểu sao lại rảo bước lên. Qua giấc chập chờn mụ loáng thoáng nghĩ: “Sáng danh Chúa! Mình đã mang nặng đẻ đau ra một anh kô-dắc tốt, một ông chủ biết lo công lo việc! Mọi người ngủ cả, còn nó thì đi quanh xem xét nhà cửa”. Và nụ cười hãnh diện của người mẹ thoáng hiện trên đôi môi khô héo nhợt nhạt của mụ…

Từ đêm hôm đó, tình hình trong nhà xấu hẳn đi…

Mụ già kiệt sức lả đi nhưng vẫn không chịu chết; mụ van xin cho mụ một mẩu bánh thôi, một hụm nước thôi, và Iakốp Lukits rón rén đi qua ngoài hành lang, nghe thấy tiếng thều thào nghẹn ngào hầu như không thành tiếng của mụ:

- Iakốp! Con của mẹ ơi! Sao thế này hả con? Thì cũng cho mẹ tí nước chứ!

… Mọi người bán xới khỏi căn nhà rộng mênh mông. Hai vợ chồng Xêmiôn ngày đêm ở tịt ngoài sân, ngoài vườn, còn mụ vợ Iakốp Lukits có việc gì cần vào nhà thì lúc ra cứ khóc nức nở. Đến chiều ngày thứ hai, khi cả nhà ngồi vào bàn ăn tối, sau một lúc im lặng kéo dài, Iakốp Lukits nói:

- Trong lúc chờ đợi, hay là ta xuống ở tạm dưới bếp?

Xêmiôn run bắn người lên, rời bàn đứng dậy, loạng choạng như bị ai xô, bỏ đi ra…

… Đến ngày thứ tư thì trong nhà lặng ngắt, không nghe thấy gì nữa. Iakốp Lukits đưa ngón tay run lẩy bẩy mở khoá, cùng với vợ bước vào căn phòng mới đây còn là nơi mẹ lão sống. Mụ già nằm sóng soài dưới sàn, gần bậu cửa. Và một chiếc găng tay da đã cũ bỏ quên lay lắt trên trốc lò sưởi từ mùa đông năm ngoái có vết nhay cắn của hai hàng lợi rụng hết răng của mụ… Còn nước thì xem có vẻ mụ đã tìm thấy trên khung cửa sổ, là những hạt mưa bụi li ti hầu như mắt không trông thấy, tai không nghe thấy, lọt qua khe cửa chớp, và có thể là những hạt sương của cái mùa hè mây mù này…

Các bà bạn của mụ lau rửa cái thân thể khô đét răn reo của mụ, mặc quần áo đẹp cho mụ, khóc vài tiếng, và lúc chôn cất mụ, không ai đã khóc lóc ai oán như Iakốp Lukits. Mất mát, đau đớn và hối hận đã nhập cục lại thành một tảng đá đè nặng lên ruột gan lão ngày hôm ấy…

CHƯƠNG III

Đavưđốp nhớ lao động chân tay đến bần thần cả người. Thân thể mạnh khoẻ cường tráng cuả anh khao khát lao động, thứ lao động nó làm cho chiều đến, các bắp thịt đau dần trong cái mệt bã khoan khoái, và đêm đến, giữa lúc đang thèm muốn nghỉ ngơi thì giấc ngủ ập ngay tới, ngon lành, không mộng mị.

Một hôm, Đavưđốp đến xưởng rèn kiểm tra công việc sửa chữa liềm cỏ của nông trang. Cái mùi nồng gắt của sắt đỏ và than hồng, tiếng đe búa rậm rịch và tiếng thở dài não nuột, khò khè già nua của chiếc bễ rèn cổ kính làm ruột gan anh nao nao. Anh đứng lặng mấy phút trong gian xưởng tối xâm xẩm, say sưa nhắm mắt lại rạo rực hít thở những mùi vị anh đã quen thuộc từ tấm bé, quen thuộc đến thấy tê tái cả người, rồi không cưỡng lại nổi sự quyến rũ, anh vớ lấy cái búa… Anh làm thông hai ngày, từ sáng sớm đến tối mịt, không ló mặt ra khỏi xưởng. Thức ăn, cái uống thì bà chủ nhà mang đến cho anh. Nhưng cái kiểu lao động khỉ gió gì mà cứ nửa giờ một lại có người đến bắt anh dừng tay, miếng sắt móng ngựa kẹp ở đầu gọng kìm lại nguội xám đi, bác phó rèn già Ipôlít thì càu nhàu còn thằng phó nhỏ thì cười nhăn nhở khi thấy bàn tay quai búa đã mỏi dừ của Đavưđốp chốc chốc lại buông rơi cây bút chì xuống nền đất, và vạch lên trang giấy công văn không phải là những chữ ngay ngắn rõ ràng mà là những hình nguệch ngoạc, xiêu vẹo.

Làm việc kiểu thế này thì thèm vào, và để khỏi gây phiền hà cho bác Ipôlít, Đavưđốp bỏ xưởng rèn ra về, chửi thầm trong bụng; mặt lầm lầm cau có, anh đến trụ sở ngồi.

Anh mất trọn mấy hôm vào việc giải quyết những công việc hàng ngày, sự vụ nhưng rất cần thiết: kiểm tra lại những bản thống kê và cơ man nào là giấy tờ sổ sách kế toán, nghe báo cáo của các đội trưởng, xem xét đơn từ của nông trang viên, họp hành, tóm lại là những việc mà thiếu nó thì không thể có tổ chức sản xuất tập thể lớn, nhưng cũng là cái mặt công tác ít hấp dẫn Đavưđốp nhất.

Đêm anh đâm ra khó ngủ, sáng dậy đầu nhức như búa bổ, ăn quấy quá cho qua bữa, và từ đó đến chiều tối không lúc nào rũ bỏ được cái cảm giác bứt rứt bần thần rất khó hiểu, xưa nay anh chưa từng bị. Rồi chính anh cũng không để ý, anh đã phần nào buông thả mình, sinh ra cái thói cáu kỉnh mà trước kia anh không hề có, và ngay như nhìn bề ngoài cũng kém xa cái anh chàng hoạt bát tươi tắn ngày nào mới đặt chân đến Grêmiatsi Lốc. Trời sinh ra cái ả Luska kia làm gì để anh cứ nghĩ miết đến nó thế này, nghĩ rất là linh tinh… Cái ả chết tiệt ấy đi ngang qua đường đời anh thật sẽ chỉ mang lại cho anh tai bay vạ gió mà thôi!

Một hôm, ngắm nghía bộ mặt gầy tọp đi của Đavưđốp bằng đôi mắt lim dim giễu cợt, Radơmiốtnốp nói:

- Gầy tợn thế, hả Xêmiôn? Nom cậu bây giờ cứ như một con bò cày già qua một mùa đông đói cỏ: điệu này thì cứ đến đổ giữa luống mất thôi, nom bơ phờ, lông lá xơ xác… Thay lông hay sao đấy? Mà cậu cũng nên bớt tơ tưởng bọn gái làng chúng mình đi, nhất là những ngữ trốn chúa lộn chồng. Cái trò ấy hại sức khoẻ lắm đấy…

- Anh đút nút hộ tôi cái lối khuyên nhủ vô duyên ấy đi!

- Này đừng sửng cồ thế. Mình có quý cậu mới khuyên.

- Cậu là cứ chuyên môn tưởng tượng ra đủ mọi chuyện dấm dớ, thực tế thế!

Mặt Đavưđốp đỏ dần lên, rồi chín rừ. Không đủ sức che giấu sự bối rối của mình, anh vụng về lái sang chuyện khác. Nhưng Radơmiốtnốp không chịu buông tha:

- Cậu học được ở đâu cái lối đỏ mặt thế hả, ở hải quân hay ở nhà máy? Không phải đỏ riêng cái mặt, mà đỏ cả cổ! Khéo đỏ cả người nữa cũng nên. Cởi áo ra tớ xem.

Chỉ đến khi thấy đôi mắt đục ngầu của Đavưđốp ánh lên một ánh dữ tợn, Radơmiốtnốp mới lái ngoắt chuyện sang hướng khác, ngáp dài một cái uể oải, bàn chuyện cỏ khô. Đôi mi mắt trĩu xuống cuả anh làm ra vẻ buồn ngủ, nhưng hàng ria vàng hoe của anh không giấu nổi, hoặc cũng chẳng buồn giấu một nụ cười hóm hỉnh.

Radơmiốtnốp đoán già đoán non hay là biết rõ Đavưđốp đi lại với Luska? Biết thì đúng hơn. Nhất định là biết rồi! Và giữ bí mật làm sao được chuyện ấy khi mà con mụ Luska trâng tráo kia chẳng những không muốn giữ, mà lại còn cố tình phô trương ra. Chắc hẳn việc mụ bị chồng là một ông bí thư chi bộ cho ra rìa nhưnng lại không bị hắt hủi, mà vớ được chính ông chủ tịch nông trang chứ không phải là một anh nông trang viên lèm nhèm nào, đã làm cho lòng tự ái rẻ tiền của Luska thoả mãn.

Mấy lần ả đã sóng đôi với Đavưđốp đi ở trụ sở nông trang ra, và bất chấp tập quán nghiêm khắc của xóm làng, ả khoác lấy tay anh, thậm chí còn hơi nép vào vai anh, Đavưđốp nhớn nhác nhìn quanh, chỉ kinh gặp Maka; nhưng anh không rút tay ra và, lựa chân theo nhịp chân của ả, anh bước  những bước ngắn cũn, như một chú ngựa bị buộc chân, và không hiểu sao đường phẳng phiu mà cứ vấp luôn… Bọn trẻ hỗn như ranh – cái tai vạ của những đôi trai gái – lẵng nhẵng chạy theo họ giở đủ mọi bộ điệu, nheo nhéo hò reo:

Bột chua ta nặn ta nhào

Thành anh thành ả dính vào với nhau.

Chúng đem cái đầu óc sáng kiến tai ác của chúng ra biến hoá vô tận hai câu hát lèm bèm ấy và trong khi Đavưđốp mồ hôi toát ra như tắm, trong bụng rủa thầm cả bọn nhãi lẫn Luska lẫn cái tính thiếu quả quyết của mình, cùng với ả đi chưa được hai góc phố thì “bột chua” đã lần lượt biến thành bột nhão, bột trứng, bột bơ, bột ngọt và v.v.. Rốt cuộc Đavưđốp đã mất hiết kiên nhẫn; anh khẽ gỡ mấy ngón tay đen giòn của Luska đang bám chặt vào khuỷu tay anh, nói: “Xin lỗi, anh bận, vội đi đằng nằy”,  rồi rảo bước bứt lên trước. Nhưng thoát khỏi bọn trẻ dai như đỉa đâu phải chuyện đơn giản. Chúng chia thành hai tốp, một tốp ở lại trêu Luska, một tốp đuổi theo bám riết lấy Đavưđốp. Chỉ còn một cách có hiệu quả để dứt khỏi cái đuôi ấy: Đavưđốp bước tới một hàng rào gần đó, làm ra vẻ định bẻ một cái roi, thế là lập tức bọn nhãi vù đi như một đàn chim sẻ, để lại ông chủ tịch nông trang hoàn toàn làm chủ trận địa…

Cách đó ít lâu, một đêm tối như hũ nút, Đavưđốp và Luska đã chạm trán phải ông già gác chiếc cối xay gió sau làng, xa xa ngoài thảo nguyên. Ông già Verinhin đang đắp áo dipun nằm dưới một cái hang chồn cũ đào trong gò. Thấy bóng một đôi trai gái đang tiến thẳng tới, khéo xéo lên mình, ông chồm bật dậy, đứng thẳng người, hô gắt lên theo đúng phép nhà binh:

- Ai? Đứng lại!

Và giương ra khẩu súng cũ rích, đã thế lại chưa nạp đạn.

- Ta cả đây. Tôi đây mà, cụ Verinhin ạ! – Đavưđốp miễn cưỡng đáp.

Anh quay ngoắt trở lại, kéo Luska theo sau, nhưng cụ Verinhin đuổi theo kịp, năn nỉ:

- Đồng chí Đavưđốp ơi, có thuốc hút không? Đủ một điếu thôi mà. Thèm thuốc đến ù cả tai!

Luska không quay đi, chẳng lánh sang bên, và cũng chẳng kéo khăn che mặt. Ả thản nhiên nhìn Đavưđốp lật đật dốc thuốc lá trong túi ra, và cũng tỉnh bơ như thế, nói:

- Đi thôi, anh Xêmiôn. Và này, bác Nhikôlai ơi, bác nên cảnh giác bọn trộm cắp chứ không phải cảnh giác với trai gái đi ăn sương ngoài thảo nguyên. Đâu phải chỉ có kẻ gian là đi đêm…

Bác Nhikôlai cười ha hả vài tiếng, thân mật vỗ vai Luska:

- Này, cô em ơi… đêm hôm là chuyện tối tăm: biết ai là trai gái ăn sương, ai là ăn trộm? Nghề canh gác của lão là bảo vệ cối xay, thấy bất cứ ai cũng hô đứng lại, bởi vì trong cối xay là thóc nông trang, chứ đâu phải phân bò. Thôi, lão xin cảm ơn về cái chất khói. Chúc anh chị hạnh phúc! Và may mắn…

Khi còn lại hai người với nhau, Đavưđốp hạch Luska, giọng bực dọc ra mặt:

- Cái lối đâu em nói leo vào như thế? Em mà lánh đi thì có khi ông ấy chẳng nhận ra em đâu.

Luska đáp lại ráo hoảnh:

- Em đâu phải mười sáu, và cũng chẳng phải gái tơ mà sợ xấu hổ với mấy lão già ngu ngốc ấy.

- Nhưng dẫu sao…

- Dẫu sao cái gì?

- Tại sao em lại cứ phải trương ra như thế?

- Thế lão ấy là gì đối với em, bố đẻ hay bố chồng?

- Anh thật không hiểu em…

- Cứ chịu khó vắt óc ra, rồi khắc hiểu.

Đêm tối, Đavưđốp không trông thấy nhưng nghe giọng thì đoán là Luska đang cười tủm. Thất vọng trước thái độ của ả là đàn bà con gái mà coi thường thanh danh, ngồi xổm lên dư luận như vậy, anh bốc lên:

- Nhưng, con rồ ạ, em cũng phải hiểu là anh lo cho em chứ!

Luska đáp, càng ráo hoảnh hơn nữa:

- Đừng bận tâm. Em khắc lo lấy. Anh hãy lo cho thân anh.

- Anh cũng lo cho cả anh nữa.

Luska đứng sững ngay lại, xấn sát vào người Đavưđốp. Giọng ả nói vang lên một vẻ đắc thắng cay chua:

- Anh chường là anh chường ơi, anh phải nói toẹt ra như thế ngay từ đầu chứ! Anh chỉ lo cho anh mà thôi, anh ngại cho chính bản thân anh bị người ta bắt gặp ngoài thảo nguyên với gái. Còn như đối với lão Nhikôlai, đêm hôm anh phết tôi hay phết ai thì cũng vậy thôi mà.

Đavưđốp cáu lắm:

- “Phết”? Ăn với nói!

- Thế thì nói thế nào? Lão Nhikôlai sống đã lõi đời, và thừa biết là đêm hôm anh lôi tôi ra đây tất nhiên không phải để hái dâu dại. Và anh đâm ra sợ dân làng lương thiện và bà con nông trang viên đứng đắn nghĩ nọ nghĩ kia về anh. Đúng vậy không? Chứ anh lo khỉ gió gì cho tôi! Anh chẳng chạy nhông ngoài đồng với tôi thì cũng chạy nhông với một con khác. Anh muốn được chơi, đồng thời lại giữ được bí mật, tâm ngẩm tầm ngầm, để không ai biết là anh đi phết gái. Tôi đi guốc vào bụng anh rồi, anh khôn lỏi lắm! Nhưng, anh chường ơi, làm sao mà giữ kín được suốt đời hả anh? Ôi chao, thế mà là lính thuỷ nữa cơ đấy! Làm sao mà anh lại sinh ra nông nỗi ấy hả? Tôi chẳng sợ, còn anh lại sợ? Thành thử, tôi hoá ra là đàn ông, còn anh thì là đàn bà, thế chứ gì?

Luska ăn nói có vẻ cợt nhả hơn là đanh đá, nhưng xem chừng ả hậm hực về thái độ anh chàng người yêu của mình. Ả lặng thinh một lát rồi khinh khỉnh liếc nhìn anh một cái, cởi thốc luôn cái váy láng đen đang mặc ra, hạ lệnh:

- Cởi quần ra!

- Điên à! Cởi làm gì?

- Mặc váy tôi vào, còn quần anh đưa đây, tôi mặc. Như thế mới phải! Trong cái trò đời này, sử xự thế nào thì phải ăn mặc thế ấy. Nào, mau lên!

Đavưđốp bật cười, mặc dù cũng bị chạm tự ái vì lời lẽ và ý kiến đòi đổi váy của Luska. Cố hết sức nén cơn bực dọc đang dâng lên trong bụng, anh nói nhỏ:

- Thôi đừng giở trò nữa, Luska! Mặc váy vào, về thôi.

Luska miễn cưỡng, lừng khừng mặc váy vào, sửa lại mái tóc xoà ra dưới mép khăn vuông, và bỗng nói, giọng bất ngờ buồn rứt:

- Em chán anh ghê lắm, lính thuỷ gì mà như cáy!

Từ đó về đến tận làng họ không nói với nhau một lời. Tới đầu ngõ họ cũng lại lẳng lặng như thế mà chia tay nhau. Đavưđốp lạnh lùng cúi đầu chào, Luska cũng khẽ gật đầu một cái, rồi đi khuất sau cổng, tan đi trong bóng đen kịt của cây phong già…

Mấy ngày sau họ không gặp nhau, rồi một buổi sáng, Luska mò tới trụ sở nông trang, ngồi ngoài hành lang kiên nhẫn đợi cho đến lúc người khách cuối cùng ra về. Đavưđốp định đóng cửa phòng mình lại thì trông thấy Luska. Ả ngồi trên tấm ghế dài, hai chân doạng ra như đàn ông, hai đầu gối tròn trĩnh kéo căng tà váy, miệng cắn hạt quỳ và mỉm cười lâng lâng.

- Cắn hạt quỳ không, đồng chí chủ tịch ơi? - Ả hỏi nhỏ, giọng nghịch ngợm. Đôi lông mày kẻ chỉ của ả khẽ rung rung, và đôi mắt ả nhìn với vẻ ranh mãnh ra mặt.

- Sao cô không đi làm cỏ?

- Đi bây giờ đây, anh không thấy em mặc quần áo lao động à? Em tạt vào dặn anh… Xẩm tối hôm nay anh ra nhá, chỗ bãi thả bò. Em sẽ đợi anh ở gần kho thóc nhà Lêônốp. Biết chỗ không?

- Biết.

- Anh ra chứ?

Đavưđốp lẳng lặng gật đầu, rồi đóng chặt cửa lại.

Anh ngồi hồi lâu bên bàn, chìm đắm trong mối tơ vò, hai nắm tay chống má, đăm đăm nhìn vào một điểm. Anh có chuyện phải suy nghĩ!

Ngay hồi trước cái bữa đầu hai người giận nhau, Luska đã hai lần đến chơi nhà anh vào buổi tối. Ả ngồi một lúc, rồi nói toe toe:

- Đưa em về đi, anh Xêmiôn! Ngoài đường tối om, đi một mình em hãi lắm. Hãi kinh lên được! Từ hồi bé tính em đã nhát nhát là, hãi tối lắm…

Đavưđốp cau lại một cái dữ tợn, lừ mắt chỉ ngăn vách gõ ván; phía bên kia vách, mụ chủ nhà, một mụ già ngoan đạo, đang khó chịu hục hặc như một con mèo cái và khua bát khua đũa, sửa soạn bữa ăn chiều cho ông lão và Đavưđốp. Cái tai nhạy thính của Luska bắt được rành rọt từng tiếng lẩm bẩm rin rít của mụ:

- Của ấy mà lại hãi! Quỷ cái chứ đâu phải đàn bà! Đêm tối âm ty nó sờ soạng cũng tự lần mò được đường đến chỗ con quỷ đực chứ chẳng phải đợi con quỷ đực tới tán tỉnh nó. Lạy Chúa tha cho con cái tội nói xấu, nhưng nó mà lại hãi ư? Thôi đi, con mụ phù thuỷ ấy mà lại có hãi tối!

Luska nghe những lời đánh giá chẳng lấy gì làm bùi tai ấy chỉ mỉm cười. Ả đâu phải hạng đàn bà dễ dàng để cho những lời ngoa ngoắt của một mụ già ngoan đạo nào đó tác động đến tinh thần! Ả thì cứ mặc xác cái con mụ đi đạo hổ mang ấy, con mụ chuyên môn ngứa mồm và ra cái điều nền nếp đạo mạo! Trong quãng thời gian ngắn ngủi từ ngày đi lấy chồng, ả Luska táo tợn đã từng gặp những chuyện còn ghê bằng mấy, đã từng chọi với chị em Grêmiatsi Lốc những trận còn ghê bằng mấy ấy chứ. Ả nghe rõ vanh vách những lời mụ chủ nhà lẩm bẩm trong mồm phía sau cánh cửa kia, gọi ả là con răng há, là mèo mả gà đồng. Lạy Chúa, những lời ấy dẫu sao cũng còn  tương đối dễ nghe hơn những lời ả đã từng nghe, và nhất là chính ả đã từng văng ra trong những  trận xô xát với các chị em đã bị ả xúc phạm, khi những chị em ấy xông vào ả với những câu chửi rủa có sách và với niềm tin ngây thơ mù quáng rằng chỉ một mình họ được phép yêu chồng họ mà thôi! Dù sao thì Luska cũng biết tự vệ và bao giờ cũng đánh trả địch thủ những đòn đích đáng. Không, không bao giờ và không có tình thế nào có thể làm ả hoang mang bối rối, và ả chẳng cần phải lục túi váy mới tìm ra được những lời nanh nọc. Ấy là chưa kể trong làng này, cái mụ đàn bà đánh ghen, đủ tài bêu xấu Luska, giật được khăn vuông của ả, thì cho tới nay vẫn chưa lọt lòng mẹ… Nhưng Luska vẫn quyết định dạy cho bà lão một bài học, dạy chơi thôi, cho đời phải có phép có tắc, thực hành phương châm sống duy nhất của ả là: tiếng nói cuối cùng bao giờ cũng phải thuộc về ả, Luska.

Lần sau đến, lúc ra về, đi qua gian phòng bà lão, ả dừng lại một phút để Đavưđốp vượt lên trước, đợi cho anh ra đến ngoài và bước xuống mấy bậc thềm cót ca cót két rồi ả mới quay lại nhìn bà lão với một vẻ rất đỗi ngây thơ. Quả y như rằng, bà lão Philimônhikha liếm vội đôi môi chẳng cần liếm lúc nào cũng đã chảy nước của bà, rồi làm luôn cho một thôi:

- Mày trơ trẽn quá thể Luska ạ, từ thuở cha sinh mẹ đẻ tao chưa thấy ai như mày bao giờ!

Luska đứng lại giữa phòng, cúi mắt nhìn xuống với một vẻ nhũn nhặn tuyệt vời, như người đứng sám hối. Ả có hai hàng mi rất dài, đen nhánh, như lông mi tô, khi nó cụp xuống thì rợp cả đôi má trắng xanh của ả.

Mắc lỡm cái vẻ ăn năn nhẫn nhục giả vờ ấy, bác Philimônhikha tỉ tê, giọng đã ôn hoà hơn:

- Ngẫm mà xem, cháu ơi, cháu là gái đã có chồng, và dù đã bỏ chồng chăng nữa thì vào buồng ngủ một anh đàn ông chưa vợ, mà lại giữa lúc đêm hôm thế này, liệu có nên hay không? Cũng phải có ý thức trước bà con dân xóm một tí chứ. Cháu nghĩ lại đi, vì Chúa mà ăn năn hối lỗi đi!

Luska đáp lại đúng giọng bác Philimônhikha, cũng nhỏ nhẹ êm ái như thế:

- Khi đức Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế vạn năng của chúng con… - Đến đấy, ả ngừng lại một lát chờ đợi, rồi ngước đôi mắt ánh lên trong bóng tối một ánh chẳng lành.

Bà lão ngoan đạo nghe kêu đến tên Chúa vội kính cẩn cúi đầu, hấp tấp làm dấu; đến lúc ấy Luska mới cắt với một vẻ đắc thắng, giọng đã biến thành giọng ăn nói báng bổ của đàn ông:

- … Khi Chúa chia khẩu phần ý thức phân phát cho mọi người thì tôi không có nhà, tôi đi đàn đúm với đám con trai, chơi trò hôn hít. Bởi thế cho nên tôi chẳng xơ múi được tí nào cái ý thức ấy cả. Bà rõ chửa? Này, đừng có há hốc mồm ra thế, kẻo rồi không ngậm lại được nữa đâu. Bây giờ tôi giao nhiệm vụ cho bà: từ nay cho đến lúc anh khách trọ của bà về, nghĩa là trong thời gian anh ta đi xả thân với tôi, bà hãy cầu nguyện cho hai kẻ tội lỗi chúng tôi, nghe rõ chưa, con ngựa cái già?

Luska bỏ bước đi ra, đường bệ, ngay đến một cái nhìn khinh bỉ cũng không thèm ban cho bà lão bị đánh một đòn tiêu diệt đang chết điếng, đứng ngây tán tàn. Đavưđốp từ nãy vẫn đứng chờ bên thềm, thắc mắc hỏi:

- Hai bà con nói chuyện gì thế, Luska?

- Chuyện bổn đạo, - Luska nép sát vào người Đavưđốp, cười khúc khích đáp. Ả đã học được ở anh chồng cũ cái lối nói đùa đánh trống lảng.

- Không, anh hỏi nghiêm túc đấy. Bà ấy thì thà thì thầm cái gì vậy? Có gây sự với em không?

- Gây sự với em sao được! Bà ấy không đủ tài. Bà ấy ghen lồng lên với em, ghen về anh, anh chàng sứt của em ạ! – Luska vẫn tiếp tục giọng nói nỡm.

Đavưđốp buồn bã lắc đầu:

- Bà ấy nghi hai chúng mình, thực tế thế! Đáng lẽ em chả nên đến tìm anh, vấn đề là ở chỗ ấy đấy!

- Anh sợ con mụ già ấy à?

- Việc gì mà sợ?

- Ồ, nếu anh đã hảo hán thế thì nói chuyện ấy làm gì nữa cho phí lời!

Thuyết phục được cái ả Luska ương bướng và ngang như cua ấy đâu phải chuyện dễ. Nhưng bị mụ mẫm đi vì một tình cảm mãnh liệt ập đến một cách bất ngờ như sét đánh, Đavưđốp đã nhiều lần nghĩ một cách thực sự đến chuyện phải có đôi lời nói chuyện với Maka rồi cưới Luska làm vợ, để thoát ra khỏi cái tình trạng khó xử mà anh đã đâm đầu vào, đồng thời cũng để chấm dứt những điều ong tiếng ve có thể nảy sinh ra về anh. “Mình sẽ cải tạo cô ta! Ở với mình cô ấy sẽ đâu vào đấy ngay, sẽ thôi tất cả những trò ấy! Mình sẽ lôi cuốn cô ta vào công việc tập thể, sẽ yêu cầu, hoặc sẽ bắt buộc cô ấy tu dưỡng học tập. Cô ta sẽ khá ra phết, thực tế là như thế! Cô ta là con người chẳng đến nỗi đần độn, còn như cái tính xốc nổi của cô ta rồi sẽ hết, mình sẽ làm cho nó hết. Mình đâu phải Maka, Maka với cô ta cứ như dao chém đá, mình không có cái tính ấy, mình sẽ có cách khác ăn nói với cô ta, mềm mỏng hơn”. Đánh giá quá cao khả năng của mình và của Luska, anh chàng Đavưđốp dương dương tự phụ đã suy nghĩ như vậy đó.

Cái hôm họ hẹn nhau bên kho thóc nhà Lêônốp, mới ăn trưa xong Đavưđốp đã nhìn đồng hồ rồi. Thế cho nên anh sửng sốt không tả được, rồi sự sửng sốt ấy biến thành giận dữ, khi một tiếng trước giờ hẹn, anh nghe thấy và nhận ra tiếng chân nhẹ nhàng của Luska bước lên thềm, tiếp theo là cái giọng trong trẻo của ả:

- Đồng chí Đavưđốp có nhà không?

Cả bà lão chủ nhà, cả ông lão, - tình cờ đúng lúc ấy ông lão có nhà, - chẳng ai đáp nửa lời. Đavưđốp vớ lấy chiếc mũ cátkét, nhảy bổ ra cửa và chạm trán với một ả Luska tươi như hoa. Ả né sáng bên nhường bước. Hai người lẳng lặng đi ra cổng.

- Tôi không thích những cái trò ấy! – Đavưđốp nói bằng một giọng cục cằn, thậm chí còn nắm chặt hai bàn tay, hơi thở hổn hển vì giận sôi lên. – Cô đến đây làm gì? Ta đã hẹn gặp nhau ở đâu? Nói đi chứ, của tội của nợ!...

- Anh quát tháo gì tôi vậy? Anh coi tôi là thế nào? Là vợ anh đấy phỏng, hay bồi ngựa của anh? – Luska vặn lại, chẳng hề bối rối.

- Thôi đi! Tôi hỏi cô, chứ quát tháo gì cô!

Luska nhún vai, nói bằng một giọng thản nhiên khinh khỉnh:

- Được, nếu anh hỏi chứ không quát thì lại là chuyện khác. Em nhớ anh, đến sớm trước giờ hẹn. Hẳn là anh phải bằng lòng, phải thích lắm chứ nhỉ?

- Bằng lòng cái khỉ gió! Thế nào mụ chủ nhà anh cũng sắp đi nói vung tứ linh khắp làng cho mà xem! Lần trước em bảo gì mụ ấy mà để đến nỗi mụ ấy không nhìn mặt anh nữa, độc chỉ quang quác, và món xúp cắp cải của anh đã biến thành món rau lợn? Nói chuyện đạo à? Chuyện đạo quái gì mà chỉ mới động nghe nhắc đến em mụ ấy đã nấc lên ừng ực, và tái xanh tái xám như người chết trôi vậy! Thực tế là thế, anh nói không sai đâu!

Luska phá ra cười, một cái cười trẻ trung và hồn nhiên đến nỗi Đavưđốp tự nhiên thấy lòng mình dịu đi. Nhưng lần này anh không bụng dạ nào mà vui đùa, và khi Luska cười đến chảy nước mắt hỏi lại anh:

- Anh bảo sao? Nấc lên ừng ực hả, tái xanh hả? Đáng kiếp cái giống con chiên ấy! Để mụ từ nay đừng có chõ mõm vào việc người khác. Rõ khéo, tự nhiên mụ ấy lại vơ vào người cái việc làm vú già dạy bảo em.

Thì Đavưđốp lạnh lùng ngắt lời ả:

- Thế em không ngại mụ đi nói vung vít về chúng mình khắp xóm à?

- Nếu làm việc ấy mụ ấy no được thì mụ ấy cứ làm. – Luska đáp, thản nhiên như không.

- Em phớt được, nhưng anh thì anh không phớt được, thực tế thế! Em thôi cái trò khỉ ấy đi, đừng có trương cái việc ta đi lại với nhau ra nữa! Mai anh sẽ nói chuyện với Maka, rồi hoặc chúng mình sẽ lấy nhau, hoặc là xin chào, cô đi đường cô, tôi đi đường tôi. Anh không thể sống mà cứ để mọi người đàm tiếu thế này được: trông kìa, ông chủ tịch, bồ bịch của con Luska đấy. Cái lối phô trương của em phá hoại uy tín của anh đến tận gốc, em có hiểu không?

Luska đỏ bừng mặt lên, đẩy mạnh Đavưđốp ra, rít răng lại nói:

- Chán mớ đời loại đàn ông đi hỏi vợ như anh! Cái hạng nhát như cáy thế, anh tưởng tôi thiết lắm phỏng? Cứ đợi đấy rồi tôi lấy khối! Đi chơi với tôi trong lòng anh xấu hổ, thế mà cũng “ta lấy nhau đi”! Động tí là sợ, gặp ai cũng nhớn nha nhớn nhác, thấy trẻ con cũng chạy re như bị ma đuổi. Cái uy tín của anh, anh hãy tha nó ra bãi thả bò đằng sau kho thóc nhà Lêônốp rồi ôm nó lăn kềnh ra cỏ, khốn khổ cho cái thân đời anh! Tôi cứ ngỡ anh là người thế nào kia, nhưng anh chẳng khác gì anh chàng Maka nhà tôi cả: anh ta đầu óc đặc sệt cách mạng thế giới, còn anh đặc sệt cái uy tín của anh. Sống với các anh thì gái nào cũng sẽ buồn đến chết khô chết héo thôi!

Luska nín thinh một lát, rồi bỗng nói bằng giọng run run xúc động, dịu dàng một cách bất ngờ:

- Thôi, ta chia tay, anh Xêmiôn của em!

Ả đứng lặng vài giây, như do dự, rồi quay ngoắt đi, bước thoăn thoắt trên con đường nhỏ.

Đavưđốp nghẹn ngào gọi với:

- Luska!

Đến đầu đường, tấm khăn quàng trắng của Luska ánh lên một tia cuối cùng, rồi tắt ngấm trong đêm tối. Đavưđốp đưa tay lên vuốt khuôn mặt tự nhiên nóng bừng bừng, đứng ngây ra không nhúc nhích, miệng hoang mang mỉm cười, và bụng nghĩ: “Mình khéo rõ chọn lúc lao đơn! Thế cũng đòi lấy vợ, đồ con lừa, thực tế thế!”.

* * *

Cuộc giận nhau đã tỏ ra chẳng phải chuyện đùa. Thực chất thì đó không phải là giận nhau, cũng chẳng phải cãi nhau, mà là một cái gì đại loại như một sự tan vỡ. Luska cố tình tránh mặt Đavưđốp. Ít lâu sau bữa ấy, anh dọn đi nhà khác ở. Việc ấy chắc chắn đến tai Luska, nhưng ngay cả việc ấy cũng không thúc đẩy được ả chịu làm lành.

Đavưđốp mất sạch hy vọng gặp lại người mình yêu, phát khùng lên nghĩ bụng: “Đã thế thì mặc xác cô ấy nếu cô ấy muốn loạn thần kinh như vậy!”. Nhưng có một cái gì cay đắng chua chát vò xé trái tim anh, và lòng anh u uất, ảm đạm như một ngày tháng Chạp mưa dầm. Xem ra thì chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi, Luska đã tìm được con đường dẫn thẳng tới trái tim không mánh lới và chưa được tôi luyện ngọn lửa yêu đương của Đavưđốp…

Thực ra thì cuộc tan vỡ đã quá rõ này cũng có mặt tốt của nó: một là anh thoát được cuộc trò chuyện nặng nề thanh minh với Maka, hai là từ nay không có gì đe doạ cái uy tín vững như kiềng ba chân của anh nữa, cái uy tín vừa qua đã hơi bị lung lay vì hành động có phần nào thiếu đạo đức của anh. Song tất cả những lý lẽ đanh thép ấy chỉ đem lại cho anh chàng Đavưđốp khốn khổ một niềm an ủi hết sức mong manh. Cứ động còn lại một mình anh với anh là y như rằng, - và chính anh cũng chẳng để ý thấy thế, - đôi mắt thẫn thờ của anh lại nhìn ngược lại vào một quãng nào trong dĩ vãng. Anh mơ màng mỉm cười buồn bã, nhớ lại cái hương ngây ngất của đôi môi Luska lúc nào cũng se se và mấp máy, nhớ cái ánh mắt luôn luôn biến đổi của đôi mắt nồng cháy của ả.

Mà Luska có đôi mắt quả là kỳ lạ thật! Khi ả khẽ ngước lên nhìn ai, hơi có vẻ như nhìn trộm, thì trong ánh mắt ấy thoáng một cái gì yếu đuối thơ dại làm nao nao lòng người, và lúc ấy nom ả có vẻ một cô bé mới dậy thì hơn là một ả đàn bà đã lõi đời, lõi đủ ngón yêu đương. Nhưng một phút sau, đưa tay khẽ vuốt lại tấm khăn vuông lúc nào cũng tinh tươm hồ lơ trắng bong, ả hất đầu lên, và đã nhìn người ta với một vẻ chế giễu khiêu khích, và lúc ấy đôi mắt ánh lên một ánh độc địa của ả nom trâng tráo và dạn dày ra mặt.

Cái tài thay hình đổi lốt trong nháy mắt ấy không phải Luska đã điêu luyện được qua trường học làm duyên, mà là cái có từ bẩm sinh. Ít ra thì cũng là Đavưđốp cảm thấy như vậy. Mờ mắt đi vì yêu, anh không thấy rằng con người anh yêu là một con người đặc biệt tự tin, có thể là quá tự tin, và rõ ràng là kiêu. Nhưng thiếu gì điều mà Đavưđốp chẳng trông thấy, chẳng nhận thấy.

Một lần, trong lúc sóng tình dâng lên dào dạt, anh hôn lên đôi má xoa một lớp phấn nhẹ của Luska, nói:

- Luska ạ, em cứ như bông hoa! Ngay cả những nốt tàn nhang của em cũng thơm, thực tế thế! Em có biết thơm mùi gì không?

- Mùi gì? – Luska chống khuỷu tay nhỏm dậy thắc mắc hỏi.

- Một cái mùi gì tươi mát, ờ… đại loại như giọt sương đêm chẳng hạn. À mà đúng rồi, mùi hoa điểm tuyết, thoang thoảng thôi, nhưng rất hay.

- Em thì bao giờ chẳng vậy, - Luska đáp bằng một giọng hoàn toàn nghiêm trang, coi đó là chuyện dĩ nhiên.

Đavưđốp nín thinh, ngạc nhiên một cách khó chịu trước sự hợm hĩnh sàm sỡ ấy. Lát sau anh hỏi:

- Nhưng tại sao em lại bao giờ cũng vậy?

- Vì em đẹp chứ sao.

- Thế theo em, ai đẹp cũng đều thơm cả à?

- Em biết đâu đấy, em có nói tất cả đâu. Em ngửi họ bao giờ mà biết. Mà em cũng chẳng hoài hơi nói về họ, em nói về em thôi, của nỡm ạ. Đâu phải ai đẹp cũng đều có nốt tàn nhang cả, mà nốt tàn nhang thì vùng em người ta bảo là những hạt xuân. Chắc vì thế mà nó thơm mùi hoa điểm tuyết.

Đavưđốp buồn rầu nói:

- Em hơi hợm mình, thực tế thế! Má em chẳng phải thơm mùi hoa điểm tuyết đâu, anh nói em biết, mà là mùi củ cải trộn tỏi ngâm dầu giấm.

- Thế sao lại cứ hít lấy hít để?

- Vì anh thích mùi củ cải ngâm dấm tỏi…

- Anh Xêmiôn ạ, anh nói chuyện dớ da dớ dẩn, cứ như trẻ con, - Luska không hài lòng, nói.

- Đi với sói phải nói giọng sói chứ.

Luska phản công ngay:

- Sói nói chuyện với gà, sói vẫn là sói. Gà nói chuyện với sói có sùi bọt mép gà vẫn là gà.

Lần ấy họ cũng giận nhau, nhưng chỉ giận vớ giận vẩn, qua ngay, vài phút sau đã hoàn toàn làm lành. Lần này thì khác. Giờ đây Đavưđốp cảm thấy những giờ phút đã được sống bên Luska là một dĩ vãng tuyệt đẹp nhưng xa xôi lắm rồi và không bao giờ quay trở lại nữa. Hết hy vọng gặp mặt Luska để thanh minh với nhau, nói với nhau cho ra nhẽ, Đavưđốp thực sự nẫu ruột nẫu gan. Anh uỷ nhiệm cho Radơmiốtnốp thay anh giải quyết công việc của nông trang, còn anh thì chuẩn bị đi xuống đội hai trong một thời gian vô định, tham gia với đội tiến hành công việc cày bừa vụ tháng Năm trên cái khoảnh xa nhất của đồng nông trang.

Đó không phải là một chuyến ra đi do đòi hỏi công tác, mà là cuộc chạy trốn nhục nhã của một người vừa muốn lại vừa sợ trông thấy cái kết cục đang tới của cuộc tình duyên của mình. Đavưđốp thừa hiểu như thế trong đôi lúc tỉnh táo nhìn vào mình. Nhưng anh mệt lắm rồi, cho nên anh vẫn quyết định ra đi, coi đó như là lối thoát dễ chấp nhận nhất, dù chỉ vì một lý do là xuống đội anh sẽ chẳng còn cách nào gặp Luska nữa, và may ra sẽ sống được ít bữa bụng dạ tương đối thảnh thơi.

CHƯƠNG IV

Đầu tháng Sáu, trái với thời tiết thường lệ mùa hè, trời đổ mưa luôn, những trận mưa êm ả, hiền lành, không giông, không gió, kiểu mưa thu. Sáng sáng, từ đằng tây, một đám mây tro xám xịt lại từ sau gò đống xa xa trườn tới. Nó lớn lên, lan ra, chiếm nửa bầu trời, và những cánh đen của nó loé lên ở phía dưới một ánh trắng đầy đe doạ. Rồi nó sà xuống, thấp đến nỗi những cánh mây bên dưới trong suốt như thế vướng cả vào mái chiếc cối xay gió dựng trên mả gò ngoài thảo nguyên. Cao cao đâu đó sấm lên tiếng, một tiếng sấm hiền lành ở một cung độ trầm hầu như tai nghe không nhận thấy. Rồi đổ xuống trận mưa vàng mưa bạc.

Giọt mưa ấm, nom như những tia sữa tươi, rơi thẳng đứng xuống dải đất đang náu mình trong sương mù tịch mịch, nổi lên thành những bong bóng trắng trên những vũng nước bọt ngầu chưa kịp khô đi sau trận mưa trước. Và cái mưa hè thưa hạt ấy êm ả và hiền lành đến nỗi hoa cũng chẳng chịu nghiêng đài, và gà mái các nhà cũng chẳng buồn tìm chỗ ẩn. Chúng lăng xăng bận rộn bới quanh các nhà kho và các hàng rào ướt át mốc đen kiếm mồi, còn các chú gà sống giầm mưa có hơi bị mất đi cái dáng oai vệ vì coi khinh trời mưa, thay nhau gân cổ gáy, và tiếng gáy dõng dạc của chúng hoà lẫn vào tiếng ríu rít của bọn chim sẻ sà xuống các vũng nước tắm rửa chẳng chút sợ hãi, hoà lẫn vào tiếng kêu của lũ nhạn lao bổ từ trên cao xuống theo tiếng gọi của mặt đất dịu hiền thơm hương nước mưa và hương bụi.

Tiếng gà gáy ở Grêmiatsi Lốc rất phong phú về giọng, một sự phong phú hiếm thấy, có thể nói là kỳ lạ. Chú gà trống nhà Liubiskin dậy sớm nhất, nửa đêm đã mở đầu cuộc điểm danh. Chú hô giọng têno vui vẻ và sang sảng, hệt như một anh đại đội trưởng trẻ tuổi hăng hái với nhiệm vụ. Chú gà nhà Agaphôn Đúpxốp đáp lại bằng giọng baritông nghiêm trang của một vị đại tá. Rồi khoảng năm phút liền xóm làng nhộn lên tiếng gáy rộn rã, liên chi hồ điệp, và sau rốt, lão gà sống tía phốp pháp nhà Maiđanhikốp, lão gà già nhất làng, đứng trên sào vỗ cánh phành phạch cằn nhằn ngái ngủ, rồi quát lên đinh tai váng óc bằng cái giọng khàn khàn của một vị đại tướng, một giọng trầm gắt nghẹn trong họng và đã rè vì hô hét quá nhiều.

Trừ những đôi trai gái và những người ốm nặng – theo quan điểm của Nagunốp thì hai loại người này hầu như chỉ là một, - người thức khuya nhất làng là chính bản thân Maka Nagunốp. Anh tranh thủ đêm hôm rỗi rãi, tiếp tục cặm cụi cày tiếng Anh. Lưng ghế anh ngồi vắt một chiếc khăn mặt vải bố, và một bình nước giếng lạnh buốt đặt ở góc phòng. Khoa học quả thật là khó nhằn! Cổ áo sơmi phanh ra, đầu bù tóc rối và mồ hôi nhễ nhại, anh ngồi bên bàn trước cửa sổ mở toang, cầm khăn lau mồ hôi trán, lau nách, lau ngực, lau lưng, và chốc chốc lại cúi rạp qua bệ cửa sổ, cầm bình nước đổ lên đầu, miệng hầm hè khoan khoái.

Ngọn đèn năm dây toả sáng mờ mờ, những con thiêu thân đâm sầm vào chiếc chao đèn bằng giấy báo, bên kia bức vách bà lão chủ nhà ngáy đều đều, còn Maka cứ từng chữ, từng chữ một tấn công làm chủ cái thứ tiếng khó kinh người và đối với anh là tối cần thiết ấy… Một hôm, vào lúc gần nửa đêm, ngồi nghỉ giải lao trên bệ cửa sổ làm một điếu thuốc, lần đầu tiên, anh đã thực sự được nghe cuộc hoà giọng của bầy gà trống. Anh chăm chú lắng nghe rồi kinh ngạc thốt lên, giọng trầm trồ; “Chà! Hệt như duyệt binh sư đoàn! Khiếp thật!...”.

Từ đó, đêm nào anh cũng ngóng đợi tiếng kêu báo thức của bầy gà trống và thú vị lắng nghe những giọng hô hiệu lệnh của các chàng ca sĩ đêm khuya ấy, trong bụng coi khinh những tiếng rung, tiếng láy trữ tình của các chú hoạ mi. Anh thích nhất cái giọng trầm đại tướng của lão gà nhà Maiđanhikốp nó vang lên như hoà âm cuối cùng của bản đồng ca gà trống này. Nhưng rồi một hôm, cái trật tự điểm danh mà anh nghe đã quen tai và trong bụng thầm tán thưởng, bỗng bị phá hoại một cách thực bất ngờ vào láo xược: tiếng gáy trầm hùng cuối cùng vừa dứt thì bỗng, ở quãng nào đó sát gần đây thôi, phía đằng sau gian kho, bên sân nhà anh hàng xóm Arkaska Mênốc, một con gà sống khỉ gió nào, có vẻ thuộc loại choai choai, lên tiếng gáy bằng một giọng antô oắt con bắng nhắng, sau đó lại còn cục te cục tác một tràng như gà mái, xen những tiếng nấc nghẹn nghe đến tởm. Maka nghe rõ mồn một con gà trống ranh con ấy đập cánh phành phạch, lục đục trong chuồng gà: chắc hẳn tiếng gáy của nó đã suýt làm nó lộn cổ từ trên sào đậu xuống.

Cái trò lếu láo ấy quả là một sự vi phạm kỷ luật trắng trợn, một sự chà đạp lên tôn ti trật tự. Đối với Maka thì đó cũng đại loại như chuyện một vị đại tướng nhất hàng đại tướng vừa hô xong thì liền bị một anh tiểu đội trưởng quèn lên giọng chấn chỉnh, mà lại là cái giọng nói lắp nữa cơ chứ! Lòng dạ sôi lên sùng sục, Maka không thể chịu đựng nổi cái trò bỉ ổi ấy và quát lên một tiếng vào đêm tối: “Liệu hồn!...”. Anh giận dữ đóng sập cửa sổ lại, miệng lẩm bẩm chửi rủa.

Đêm sau, chuyện ấy lại tái diễn, đêm sau nữa, vẫn vậy. Thêm hai lần nữa Maka quát vào đêm tối: “Liệu hồn!”, làm bà chủ nhà giật mình tỉnh dậy. Sự hài hoà chặt chẽ của cuộc điểm danh đêm khuya của bầy gà trống, trong đó các giọng và thứ tự lên tiếng dường như đã được sắp xếp theo cấp bậc, đã bị phá hoại một cách không gì cứu vãn được. Từ đó, cứ nửa đêm là Maka bỏ đi ngủ… Anh không còn làm sao học, không còn làm sao nhớ được những từ hóc búa kia nữa. Đầu óc anh cứ quay cuồng xung quanh con gà trống bố lếu bố láo kia; anh cay cú nghĩ bụng chủ nào gà nấy, và cái con ôn vật ấy chắc chắn cũng chỉ là cái hạng phất phơ nhắng nhít như thằng chủ nó mà thôi. Trong bụng anh chụp mũ cho chú gà trống chẳng có tội tình gì ấy là đồ ba que, đồ ăn hại đái nát, đồ sâu bọ nhảy lên làm gà. Thế là cái chú gà trống nhà hàng xóm đã dám cả gan lên tiếng tiếp theo sau gà nhà Maiđanhikốp rốt cuộc đã làm cho cuộc sống của Maka bị trật đường ray: học tiếng Anh không vào nữa, tính tình thì mỗi ngày một sinh bực bội bẳn gắt… Đã đến lúc phải chấm dứt cái tình trạng rối tinh rối xoè này thôi.

Sáng ngày thứ tư, Maka sang nhà Arkaska Mênốc, chào một tiếng gọn lỏn, rồi hỏi:

- Này, cho xem con gà sống tí.

- Xem làm gì?

- Muốn biết mặt mũi bộ dạng nó thế nào.

- Anh cần biết bộ dạng nó làm cái khỉ gió gì?

- Thì cứ cho xem tí! Tôi không có thì giờ con cà con kê với anh như đi hỏi vợ đâu! – Maka bực dọc đáp.

Trong khi anh cuốn điếu thuốc hút, Arkaska đã cầm que khá vất vả mới lùa được từ gầm kho ra cả một đàn gà diêm dúa sặc sỡ. Quả y như rằng! Maka đã phỏng đoán cẩm sai tí nào: giữa một đám mười hai ả gà mái lông cánh loè loẹt và lẳng lơ điệu bộ, lăng xăng một chú gà trống oắt tì xà lai, lông màu chuột xám và tả tơi, nom thật vô duyên. Maka nhìn nó với một vẻ khinh bỉ ra mặt.

- Vặn cổ cái của khỉ ấy đi cho rồi!

- Vặn cổ làm gì?

- Nấu miến, - Maka đáp gọn lỏn.

- Nấu miến là thế nào! Nhà tôi có độc mình nó để cho đạp mái!

Maka bĩu môi mỉm một nụ cười mỉa mai:

- Chỉ có đạp mái thôi à? Ghê nhỉ? Cái công việc thối thây ấy quan trọng thế cơ à?

- Cũng chỉ cần nó làm cho cái việc ấy thôi. Mình cũng chả định bắt nó cày cho mình cái ruộng rau, sức nó thì cái cày một lưỡi thôi nó cũng chả kéo nổi…

- Này, đừng có đùa dai! Tôi đây cũng biết đùa chẳng kém ai đâu, nhưng phải tuỳ lúc…

- Nhưng con gà nhà tôi nó phương hại gì đến anh mới được chứ? – Mênốc đã bắt đầu sốt ruột, vặn lại: - Nó quẩn chân anh hay thế nào?

- Nó ngu lắm, không biết kỷ luật là gì cả?

- Kỷ luật gì? Nó sang phá vườn rau bà chủ bên anh sao?

- Không phá vườn rau, cơ mà, nói chung…

Maka lúng túng, không biết giải thích là cái kỷ luật gì. Anh đứng lặng một phút, hai chân dạng háng, trút vào con gà trống những cái nhìn búa bổ. Rồi chợt loé ra một ý:

- Này, anh bạn hàng xóm ơi! – Anh tươi tỉnh lên, bảo Arkaska. – Hay ta đổi gà nào?

- Anh chẳng chăn nuôi gì cả, móc đâu ra gà mà đổi? - Mênốc sốt sắng hỏi.

- Mình sẽ kiếm một con, và không tả tơi như con này đâu!

- Được, cứ mang lại đây, nom ưng thì đổi. Con nhà tôi, tôi cũng không kết gì lắm đâu.

Nửa giờ sau, làm ra vẻ có việc đi qua, Maka ngó vào sân nhà Akim Bexkhlépnốp là nhà có cả một đàn gà lúc nhúc. Vừa chuyện con cà con kê, anh vừa tò mò đưa mắt nhìn theo những ả gả mái đang tha thẩn ngoài sân, tai thì dỏng nghe tiếng gà trống gáy. Cả năm con gà sống nhà Bexkhlépnốp đều là loại gà kén cả, con nào cũng to, lông đẹp, nhưng quan trọng hơn cả đều là giọng gáy tốt, điệu bộ oai vệ. Trước khi ra về, Maka ướm hỏi:

- Này, cụ chủ ơi, để lại cho tôi một con sống, được không?

- Sẵn sàng thôi, đồng chí Nagunốp ạ, nhưng nấu cháo thì gà mái mềm thịt hơn, đồng chí tha hồ chọn, cái của ấy thì bà nó nhà tôi thiếu giống!

- Không, tôi cần một con gà sống cơ. Cụ cho tôi mượn cái bao, tôi dúi nó vào đấy mang về.

Một lát sau, Maka đã đứng trong sân nhà Arkaska Mênốc, tay loay hoay cởi nút bao. Anh chàng Arkaska, như ta đã biết, tính mê đổi chác, nói chuyện đánh đổi đã tắc lẻm, khoái trá xoa tay, nói:

- Nào, lật lên xem con bài tẩy của anh thế nào nào, không khéo anh bạn còn phải các thêm tí ti đấy. Cởi mau lên chứ, sao loay hoay mãi thế! Tôi đi tóm ngay con gà nhà tôi bây giờ, cho hai con này chọi nhau một trận, con ai thua, người ấy phải thết chầu rượu. Dứt khoát thế, không thì tớ chả đổi đâu! Gà của ông nom thế nào? Có đô không?

- Cận vệ! – Maka vừa lấy răng cởi nút bao vừa lúng búng đáp gọn.

Arkaska lon ton chạy ra chuồng gà, vừa chạy vừa túm giữ cái quần muốn tụt. Một phút sau, từ phía chuồng gà vang lại tiếng gà trống kêu thất thanh. Nhưng khi anh ta trở lại, tay ôm trước ngực chú gà trống sợ chết khiếp đang thở hổn hển thì thấy Maka đang cúi lom khom xuống cái bao đã mở, gãi đầu gãi tai có vẻ băn khoăn lắm: chàng “cận vệ” ta đang nằm sóng sượt dưới đáy bao, đôi cánh xoã ra và đôi mắt đỏ ngầu trợn trừng lảo đảo trong cơn giãy chết.

- Nó làm sao thế? - Arkaska sửng sốt hỏi.

- Dại!

- Sao, tôi à?

- Đã bảo dại mà, hỏi mãi!

- Gà mà lại dại à, cái anh này nói lạ!

- Sao anh ngu thế, ai bảo là gà dại? Mà là tôi đây dại. Lúc mang nó về, tự nhiên nó hứng lên gáy te te, làm mình ê cả mặt với bà con, lại đúng lúc đi qua trước cửa ban quản trị, mình mới vặn cái đầu nó sang bên một tí… Có tí ti thôi, thế mà xem này, ai ngờ đâu. Thôi, mang cái rìu lại đây, mau lên, kẻo nó nghẻo mất lại phải vứt đi toi.

Maka ném con gà cụt đầu qua hàng rào, réo bà chủ nhà đang bận rộn bên thềm:

- Này, mẹ ơi! Làm lông đi nhá, trong lúc nó còn ấm, mai nấu miến!

Rồi chẳng nói chẳng rằng gì với Arkaska, anh lại sang nhà Bexkhlépnốp. Thoạt đầu ông lão khăng khăng không chịu: “Cái điệu này thì anh làm cho gà mái nhà lão phải ở goá hết mất thôi!”, nhưng rồi cụ cũng để lại cho anh một chú gà trống nữa. Cuộc đổi chác với Arkaska thế là trót lọt. Chỉ vào phút sau, chú gà nhà Mênốc đã cụt đầu và bay vèo qua hàng rào, kèm theo là tiếng Maka hể hả réo bảo bà chủ:

- Nhặt lấy cái quân thổ tả này, mẹ ơi! Vặt lông nó đi, cái quân vô kỷ luật, và quẳng luôn vào nồi!

Anh bước ra đường với điệu bộ của một người vừa hoàn thành một nhiệm vụ to lớn quan trọng. Chị vợ Arkaska rất đỗi ngạc nhiên trước cuộc thảm sát gà trống mà Maka đã gây ra trên sân nhà chị, lắc đầu nhìn theo anh với một vẻ buồn rầu ái ngại. Đáp lại câu hỏi thầm của chị, Arkaska đặt ngón tay trỏ lên trán, day đi day lại, thì thầm nói:

- Loạn óc! Người thì tốt đấy, nhưng loạn óc mất rồi. Đứt đuôi là hoá rồ hoá dại không phương cứu chữa. Tội nghiệp, ai bảo thức đêm cho lắm vào! Cái tiếng Anh ba lần trời đánh ấy đã làm hại hắn.

Từ đó anh chàng Maka có tinh thần dũng cảm chịu đựng cảnh cô đơn của mình đêm đêm lại được ngồi nghe thoải mái bản đồng ca gà gáy. Ngày ngày anh ra đồng làm cỏ lúa với đám đàn bà trẻ con, và tối đến chén xong bát súp bắp cải xuông và một cốc sữa, anh lại cặm cụi với cuốn sách tự học tiếng Anh, kiên nhẫn đợi đến lúc nửa đêm.

Chẳng bao lâu, bác Suka đã tới làm bạn với anh. Một tối nọ, bác đến, gõ cửa khe khẽ, và hỏi:

- Có vào được không?

- Cứ vào. Có việc gì đấy? – Maka tiếp bác bằng một câu hỏi không lấy gì làm niềm nở lắm.

Bác Suka lúng túng:

- Biết nói làm sao nhỉ… Có lẽ là lão nhớ anh quá, anh Maka ạ. Lão mới bụng bảo dạ, ta sang thăm nhà anh ta một lát.

- Bác có phải là đàn bà con gái đâu mà bảo nhớ tôi!

- Ấy, đôi lúc người già lại sinh ra hay nhớ nhung hơn cả đàn bà con gái đấy. Mà cái công tác của lão thì nó khô khan ghê lắm cơ, lúc nào cũng độc ngựa với nghẽo. Lão đã phát ngán cái giống nó chẳng biết mở mồm nói lấy một câu ấy lắm rồi! Mình đến với nó, ấy là nói giả sử thế, vỗ về nó đôi lời, nhưng nó tỉnh bơ đi, cứ ngốn thóc tiếp và ngoe nguẩy cái đuôi. Thế thì còn nước mẹ gì nữa! Lại còn cái con dê đáng réo ba đời mà rủa kia nữa chứ! Cái giống sâu bọ ấy, chẳng biết đến bao giờ nó mới chịu ngủ đi cho, hả anh Maka? Tối đến, mình cứ vừa chợp mắt một cái là nó dẫn xác đến, cái quân quỷ sứ nhà trời! Không biết bao nhiêu lần rồi, lão đang ngủ nó cứ xéo bừa cả chân cẳng lên người lão! Nó làm mình sợ hết vía lên, lúc ấy có buồn ngủ dính mắt lại thì cũng đành chịu, không sao ngủ lại được nữa. Cái giống ôn vật ba lần trời đánh ấy, nó làm lão không sống được với nó! Suốt đêm nó cứ lang thang khắp chuồng ngựa, khắp vựa cỏ. Hay ta thịt béng nó đi, hả anh Maka?

- Thôi, lão đút nút lại hộ tôi những chuyện con cà con kê ấy đi! Dê nông trang không thuộc quyền chỉ huy của tôi. Thủ trưởng của chúng là Đavưđốp, lão đến anh ta mà hỏi.

- Lạy Chúa, lão đến đây đâu phải vì chuyện dê, đến thăm anh thôi mà. Anh cho lão mượn quyển sách gì hay hay một tí, lão sẽ ngồi đây im thin thít, như con chuột trong lỗ. Có hai người anh cũng vui hơn, và lão cũng vui hơn. Lão không quấy rầy tí ti gì anh đâu.

Maka ngẫm nghĩ một tí rồi đồng ý. Anh dúi cho bác cuốn từ điển giải nghĩa tiếng Nga, và bảo:

- Được, lão cứ ngồi đây đọc với tôi, đọc đi, nhưng đọc thầm thôi, cấm lắp bắp, cấm ho, cấm hắt hơi, tóm lại, tuyệt đối không được gây tiếng động! Hút thuốc thì theo lệnh tôi. Rõ nhiệm vụ chưa?

- Hoàn toàn đồng ý, riêng về khoản hắt hơi… thế ngộ nhỡ ma xui quỷ khiến, tự nhiên lão lại cứ muốn hắt xì một cái thì sao? Công tác của lão thì lúc nào mũi cũng đầy vụn cỏ, đôi khi đang ngủ cũng hắt xì hơi. Thế thì biết làm thế nào?

- Thì lao ra hiên nhanh như đạn bắn!

- Chà, chú Maka nó ơi, nói chuyện đạn thì lão chỉ còn là cái vỏ thôi, mà lại rỉ ngoèn! Chạy được ra đến hiên thì lão cũng đã hắt xì được đến mươi cái và xỉ mũi dăm lần rồi.

- Thì cứ cố mà chạy cho mau.

- Lão biết có một cô ả muốn lấy chồng mau mau, nhưng chẳng có ma nào hỏi. Một cậu chàng tốt bụng thấy vậy, đến giúp cô ta qua bước khó khăn. Thế rồi anh biết con bé ấy ra sao không? Cô ả không còn là con gái nữa mà vẫn là không chồng! Đối với lão thì có thể cũng rứa: mải chạy rồi mà đâm ra thất thố, anh sẽ tống cổ lão ra cửa mất. Lão thấy trước hai năm rõ mười thế rồi!

Maka phì cười, nói:

- Vội thì cũng phải chú ý chứ, không nên làm gì để hại đến uy tín của mình. Tóm lại là im lặng, đừng làm tôi phân tán tư tưởng. Đọc sách đi, cố mà trở thành một lão già có học thức.

- Hỏi anh tí tí nữa có được không? Nhưng anh Maka ơi, anh đừng cau mặt lại thế, lão hỏi câu cuối cùng thôi mà.

- Thì nói đi,mau lên!

Bác Suka ngượng ngùng vặn vẹo người, và ề à nói:

- Số là thế này… Cũng chẳng có gì đáng, nhưng, khổ lắm cơ, bà nhà lão cứ lôi ra nói lão đến nhục: “Có để cho người ta ngủ không!”. Lão xin hỏi anh, nói thế thì lão còn biết làm cách nào?

- Nói ngay vào đề đi.

- Thì lão đang nói đây. Lão bị cái bệnh lòi rom, hoặc cái bệnh khỉ gió gì chẳng biết, chỉ thấy trong bụng cứ sôi lên như sấm như sét, hệt như lúc trời nổi giông vậy! Trường hợp ấy thì ta làm thế nào được nhỉ? Vì, thế thì nó cũng làm anh phân tán tư tưởng mất.

- Thì chạy luôn ra hiên, và không có sấm sét gì cả! Rõ nhiệm vụ chưa?

Bác Suka lẳng lặng gật đật, thở dài đánh sượt và mở cuốn từ điển ra. Đến nửa đêm, dưới sự chỉ đạo của Maka và nhờ được anh giảng giải, lần đầu tiên bác Suka mới thực sự được nghe thấy tiếng gà gáy. Và ba hôm sau hai người đã vai kề vai cùng bò soài ra trên bệ cửa sổ, và bác Suka cứ mê tít thò lò, thì thà thì thầm:

- Lạy Chúa, lạy Chúa tôi! Suốt đời lão cứ phải giẫm cứt gà, lọt lòng ra lớn lên cùng với gà, thế mà lão chẳng bao giờ ngờ đâu chúng nó lại gáy hay đến thế. Thành thử bây giờ lão cứ như người mới được mở mắt ấy! Chú Maka nó ơi, cái tên quỷ sứ nhà Maiđanhikốp, chú thấy nó quát có khiếp không hả? Đích thị đại tướng Bruxilốp!

Maka cau mặt lại, nhưng nén được ngay, và cũng thì thào đáp:

- Thôi đi, ông nội! Ông không được nghe các tướng của ta hô đấy! Đây mới gọi là giọng chứ, giọng quân ta! Còn cái lão Bruxilốp nhà ông thì là cái thá gì? Thứ nhất, là một tên tướng Sa hoàng, nghĩa là một kẻ tôi coi là khả nghi. Và thứ hai, là một tên trí thức đeo kính trắng. Giọng hắn nhất định chỉ như giọng cái con gà nhà Arkaska Mênốc mà chúng tôi đã cho chầu trời và chén thịt rồi. Nói chuyện giọng thì cũng phải đứng trên quan điểm chính trị chứ. Đây này, lấy thí dụ, sư đoàn chúng tôi có một tay giọng trầm, cứ là nhất toàn quân! Rồi té ra nó là một đồ chó chết: nó đã chạy sang địch. Lão biết không, bây giờ tôi coi cái giọng trầm của nó thế nào không? Không bằng cục cứt! Bây giờ tôi không coi nó là giọng trầm nữa, mà là giọng ống bơ gỉ của một tên phản bội!

- Nhưng anh Maka ơi, bọn gà trống thì có dính gì đến chính trị không? – Bác Suka rụt rè hỏi.

- Dính chứ sao lại không! Con gà ấy nếu không phải của nhà Maiđanhikốp mà lại là của một tên kulắc nào đó, thì tôi cứ đấm thèm vào nghe cái đồ ăn hại ấy! Tôi thiết gì cái giống tay sai kulắc ấy! Thôi, chuyện thế là đủ rồi. Bây giờ sách ai người ấy đọc, không hỏi dớ da dớ dẩn gì nữa đấy nhá! Không thì tôi sẽ đuổi cổ ra đấy, không nể đâu.

Bác Suka đâm ra thành một kẻ mê tiếng gà gáy. Chính bác đã rủ Maka đến tận nơi xem mặt con gà nhà Maiđanhikốp. Làm ra bộ có việc, hai người mò đến nhà anh ta. Kônđrát ra đồng vắng, cày đám ruộng hưu canh xuân. Maka chuyện trò đưa đẩy vài câu với chị vợ, tiện mồm hỏi chị sao hôm nay không đi làm cỏ lúa, trong khi mắt thì cứ chăm chú quan sát chú gà trống đang đi khệnh khạng ngoài sân. Anh chàng nom điệu bộ rất oai và đường bệ, lông cánh màu tía sặc sỡ. Maka xem rất lấy làm hài lòng. Bước ra khỏi cổng, anh đưa khuỷu tay hích khẽ bác Suka từ nãy vẫn ngậm tăm, hỏi:

- Thế nào?

- Được cả giọng lẫn dáng. Một vị giáo chủ, không phải là gà.

Maka không thích tí nào về cái lối so sánh ấy, nhưng chỉ nín thinh. Họ về đã gần tới trụ sở nông trang thì bác Suka bỗng trợn mắt lên lo sợ, túm lấy cánh tay áo varơi của Maka, nói;

- Anh Maka ơi, họ cứa cổ mất!

- Cứa cổ ai?

- Tất nhiên không phải cứa cổ lão, lạy Chúa, mà cứa cổ con gà! Họ sợ gì mà không cứa nhỉ! Ôi, họ cứa mất thôi!

- Nhưng tại sao họ lại cứa cổ nó? Duyên do gì? Tôi chả hiểu sao bác lại cứ làm ngậu lên thế?

- Có thế mà anh không hiểu ư? Nó già cốc đế đại vương rồi chứ sao. Nó cùng tuổi với lão đấy, già hơn cũng nên. Lão nhớ rồi, hồi bé tí lão đã thấy có nó!

- Ông nội ơi, thôi ông đừng bịa! Gà nào mà lại sống đến bảy mươi. Quy luật thiên nhiên chả có điều nào nào nói thế cả. Rõ chưa?

- Dẫu sao nó cũng già rồi, cằm nó toàn lông bạc. Anh không để ý thấy sao? – Bác Suka gân cổ cãi.

Maka quay ngoắt gót trở lại. Anh bước rảo, và dài bước đến nỗi bác Suka theo sau chốc chốc lại phải chuyển sang le te nước kiệu. Vài phút sau họ lại đứng ở sân nhà Maiđanhikốp. Maka rút chiếc mùi soa nữ viền đăng ten kỷ niệm của Luska ra lau mồ hôi trán còn bác Suka thì há hốc mồm, thở dốc như con chó săn sau suốt một buổi rượt theo con cáo. Nước dớt nước dãi rỏ từng giọt nhỏ tong tong từ đầu lưỡi tím bầm xuống râu lão.

Vợ Kônđrát bước tới, mỉm cười đon đả:

- Bác với anh quên gì hẳn?

- Chị Prôkhôrốpna ạ, tôi quên không dặn chị; con sống nhà chị, chị không được thịt đâu đấy nhá!

Lom khom nom cái hình dấu hỏi, bác Suka giơ một cánh tay ra phía trước, rồi vừa chỉ trỏ bằng ngón tay trỏ cáu ghét, bác vừa hổn hển nói hắt ra một cách khó nhọc:

- Lạy Chúa, chớ làm chuyện đó!...

Maka không bằng lòng, lừ mắt nhìn bác nói tiếp:

- Chúng tôi định mua lại hoặc đổi cho chị con khác để giữ nó làm giống cho nông trang. Vì cứ xem cái mã nó cũng rõ nó là gà nòi loại thượng hạng, có lẽ tổ tiên nó đã được người ta mang về từ cái nước Anh nào đó hay là Hà Lan chẳng hạn, để lai và nhân giống ỏ nước ta đấy. Ngỗng Hà Lan nó có cái bướu trên mũi không? Có. Thế thì biết đâu con sống này cũng chẳng là nòi tộc Hà Lan, chị không biết à? Tôi cũng chẳng biết nốt, cho nên cấm, không được thịt nó, bất kể vì lý do gì.

- Để lấy giống thì không ăn thua đâu, nó già quá rồi, và nhà em định đến ngày lễ Ba ngôi thì mổ thịt, và mua một con tơ khác.

Lần này thì bác Suka lấy cùi tay huých Maka, ý bảo: thấy chưa, lão đã bảo mà! Nhưng Maka chẳng buồn để ý, tiếp tục khuyên can chị chủ nhà:

- Gà già đâu phải tội tỗi, chúng tôi sẽ lấy được giống nó. Chúng tôi sẽ cho nó ăn thóc tiểu mạch ngâm vốtka, rồi nó sẽ đạp mái phải biết cho mà xem! Nói tóm lại, con gà giống quý thế thì không được vì lý do gì đem thịt. Rõ nhiệm vụ chưa? Còn gà tơ thì bác Suka đây sẽ mang ngay đến cho chị một con.

Ngay hôm đó, Maka đã mua lại được theo giá hời của chị Đemka Usakốp một con trống chị ta thừa, sai bác Suka mang đến cho vợ Maiđanhikốp.

Tưởng đâu như trở ngại cuối cùng đã vượt qua. Nhưng trong làng đã lan đi một tin đồn tếu là Maka Nagunốp đã vơ vét sạch gà trống, cả mua buôn lẫn mua xỉ, không rõ nhằm mục đích gì, mà lại trả bằng giá đắt nữa. Bảo sao mà anh chàng Radơmiốtnốp là người thích đùa tếu lại không nhạy bén trước một sự kiện như vậy được? Nghe chuyện về cái trò chơi ngông ấy của bạn, anh quyết định phải đích thân kiểm tra cho ra nhẽ, và một tối khuya, anh mò đến nhà Nagunốp.

Maka và bác Suka đang ngồi vùi đầu vào những cuốn sách dày cộp. Ngọn đèn dầu bấc khêu tướng lên bốc khói mù. Trong phòng chập chờn những bông khói đen, khen khét mùi giấy cháy – giấy của chiếc chao đèn chụp sát vào bóng thuỷ tinh, đã gần biến thành than – và im phăng phắc như thường thấy ở những lớp vỡ lòng vào giờ tập viết. Radơmiốtnốp không gõ cửa, đứng trước ngưỡng cửa đằng hắng một cái, nhưng chẳng ai trong hai vị đang ngồi miệt mài đọc sách buồn để ý đến anh, Radơmiốtnốp cố nén một nụ cười, lớn tiếng hỏi:

- Xin hỏi thăm, đây là nhà đồng chí Nagunốp có phải không ạ?

Maka ngẩng đầu lên, đăm đăm nhìn vào mặt Radơmiốtnốp. Không, ông khách chơi khuya không say, nhưng đôi môi ông ta cứ mấp máy giần giật do đang cố nén một cơn cười phá. Đôi mắt Maka ánh lên một ánh chẳng lành và nhíu lại. Anh thản nhiên nói:

- Anđrây ạ, đi mà tán các em đi, cậu thấy đấy, mình chả có thì giờ tiếp gẫu cậu đâu.

Thấy Maka không mảy may muốn đùa với mình, Radơmiốtnốp ngồi xuống ghế, châm thuốc hút, và hỏi bằng giọng lúc này đã nghiêm trang:

- Mình hỏi thật, cậu mua gà làm gì thế?

- Nấu miến, nấu xúp. Dễ cậu tưởng mình mua để làm kem mời các em đấy hẳn?

- Kem thì mình chả nghĩ đâu, nhưng mình rất thắc mắc: quái, hắn mua làm gì lắm gà thế nhỉ, mà lại chỉ độc gà trống?

Maka mỉm cười:

- Có gì đâu, mình nghiện món miến mào gà trống. Cậu thắc mắc chuyện mình mua gà, còn mình, Anđrây ạ, mình lại thắc mắc sao chả thấy cậu ra chỗ làm cỏ bao giờ?

- Anh bắt tôi ra đấy làm gì? Ra quản các bà chăng? Việc ấy đã có đội trưởng.

- Không phải quản, mà ra đích thân làm cỏ.

Radơmiốtnốp xua tay, vui vẻ cười xoà:

- Ra để nhổ cây sơn giới với các mẹ ấy ư? Ồ, đừng hòng, anh bạn ơi, tôi xin lỗi anh! Đó đâu phải là việc của nam giới, hơn nữa tôi chẳng gì cũng là một ông chủ tịch xôviết xã.

- To nhỉ? To ông Đùng gì mà to! Thế tại sao tôi đây đi với các bà ấy nhổ sơn giới và đủ thứ cỏ dại khác thì được, mà cậu thì lại không làm được?

Radơmiốtnốp nhún vai:

- Không phải không làm được, chẳng qua là mình không muốn dơ mặt với anh em kô-dắc thôi.

- Đavưđốp chẳng nề hà công việc gì, mình cũng vậy, còn cậu thì tại sao cứ cái mũ vắt vẻo trên đầu, ngồi lì ỏ trụ sở xôviết, hoặc cái túi dết giấy lộn cắp nách, chạy nhông khắp xóm như chó dái thế vậy? Sao, thằng thư ký của cậu không đủ khả năng làm một cái giấy chứng nhận hoàn cảnh gia đình nào đó sao? Anđrây, cậu hãy quẳng cha nó những trò vớ vẩn ấy đi! Mai cậu hãy xuống đội một, biểu diễn cho các bà ấy thấy những người anh hùng nội chiến lao động giỏi như thế nào!

- Này, cậu điên hay là cậu nói đùa? Có giết chết tươi mình cũng không đi! – Radơmiốtnốp cáu kỉnh quẳng đầu mẩu thuốc lá đi, đứng phắt dậy: - Mình không muốn làm trò cười cho thiên hạ! Làm cỏ không phải việc của đàn ông đàn ang! Có lẽ cậu còn muốn mình phải đi vun khoai nữa chẳng?

Maka thản nhiên gõ gõ mẩu bút chì xuống bàn, nói:

- Đảng cử ta tới nơi nào thì nơi đó là công việc của đàn ông. Giả dụ Đảng bảo mình: Nagunốp, anh hãy đi chặt đầu bọn phản cách mạng”, mình vui vẻ đi ngay! Đảng bảo: “Đi vun khoai tây”, mình không vui lắm, nhưng đi. Đảng bảo: “Đi vắt sữa bò”, mình sẽ nghiến răng ken két, nhưng vẫn cứ đi! Mình sẽ lôi con bò chết giẫm ấy ra nắn vú, và cứ nắn bừa đi, và thề với cậu mình sẽ vắt ra sữa!

Radơmiốtnốp đã hơi dịu đi, vui vẻ nói:

- Tay hộ pháp như tay ông mà đòi vắt sữa bò! Chỉ một hai là ông đã lật nó ngã chổng kềnh thì có!

- Mình lật thật, nhưng mình sẽ dựng nó dậy, và sẽ vắt cho kỳ được thì thôi, cho đến lúc nó phải nhả ra tới giọt sữa cuối cùng. Hiểu chưa? – Và không đợi câu trả lời, anh trầm ngâm nói tiếp: - Cậu ngẫm mà xem, Anđrây ạ, và không nên vỗ ngực ta đây là đàn ông, là kô-dắc. Danh dự đảng viên của ta không phải là ở chỗ đó, mình nghĩ như vậy. Mới đây mình có lên huyện trình diện đồng chí bí thư mới, dọc đường gặp cậu Philônốp, bí thư chi bộ Tubianxki. Cậu ấy hỏi mình: “Đi đâu thế, lên huyện hả?”. Mình trả lời: Ờ, lên huyện. “Lên gặp đồng chí bí thư mới hả?. Mình nói: Ờ, lên gặp đồng chí ấy. “À, thế thì ra cái chỗ chúng mình đang cắt cỏ ấy, đồng chí ấy đang ở đấy đấy”. Và hắn giơ roi chỉ cho mình sang bên trái đường. Mình nhìn theo: họ đang cắt cỏ khẩn trương, có sáu máy đang chạy. Mình mới hỏi: các ông dở hơi hay sao mà cắt cỏ sớm thế? Hắn nói: “Đấy không phải cỏ linh lăng đâu, mà là cỏ gai và đủ thứ cỏ dại khác, chúng mình quyết định cho cắt và đánh đống ủ”. Mình hỏi: các anh tự quyết định thế đây à? Hắn trả lời: “Không, hôm qua đồng chí bí thư xuống, ra xem đồng chúng mình, thấy cái cỏ ấy liền hỏi chúng mình định xử lý nó như thế nào? Chúng mình bảo là sẽ cày lật lên để hưu canh. Đồng chí ấy cười xoà, nói: cày là hạ sách rồi, thượng sách là cắt đem ủ”.

Maka ngừng kể, nhìn Radơmiốtnốp, dò xét:

- Thế có gặp đồng chí ấy không? – Radơmiốtnốp sốt ruột hỏi.

- Gặp chứ sao không! Mình rẽ xuống ruộng, đi khoảng hai cây số thì thấy có hai chiếc xe ngựa đỗ đó. Một bố già đang đốt lửa nấu cháo; một thằng cha đô như bò mộng và miệng rộng hoác, nằm dưới gầm xe, vừa gãi chân sồn sột vừa phe phẩy một cành cây xua ruồi. Không có vẻ gì là đồng chí bí thư: chân đi đất, mặt thì như cái mẹt. Mình hỏi thăm hắn đồng chí bí thư đâu thì hắn cười khẩy, bảo: “Đồng chí ấy thay tôi lái máy cắt cỏ từ sáng, ông ấy đang lao máy chạy nhông ngoài đồng cỏ ấy”. Mình nhảy xuống, buộc ngựa vào chiếc xe, đi bộ tới chỗ họ đang cắt cỏ. Chiếc xe thứ nhất chạy qua, trên xe có một ông lão đầu đội mũ rơm, mình mặc chiếc áo sơmi mục mồ hôi rách bươm và chiếc quần vải gai bê bết dầu mỡ. Rõ ràng không phải là đồng chí bí thư. Trên chiếc xe thứ hai là một cậu húi cua, mình trần trùng trục, bóng nhẫy mồ hôi như tắm dầu luyn và loang loáng ánh nắng như một thanh kiếm sắc. Mình nghĩ bụng: rõ ràng không phải đồng chí bí thư. Bí thư đâu lại cởi trần mà ngồi xe cắt cỏ. Mình ngó các xe khác, tay nào cũng trần trùng trục cả! Thế mới gay, trong cái đám ấy biết ai là ông bí thư bây giờ. Mình nghĩ bụng: cứ nhìn xem ai mặt mũi trí thức mà đoán thì trúng ngay ấy mà; mình mới để cho các xe qua hết trước mặt, ấy thế mà mả mẹ nó, cấm đoán ra ai! Ai cũng trần đến ngang lưng, giống nhau như đúc, và chẳng ai trên trán có dấu hiệu gì ghi rõ là bí thư huyện uỷ cả. Thế là không ăn tiền với cái điệu bộ trí thức! Nom anh đếch nào cũng có vẻ trí thức cả. Cậu hãy đem một tay cố đạo râu ria lông lá xồm xoàm nhất cạo trụi đi và đẩy vào phòng tắm có lính đang tắm, liệu cậu có tìm ra lão cố đạo trong đám lính ấy không? Đây cũng thế đấy.

- Này, anh Maka ạ, chả nên nói đụng đến các nhà tu hành, phải tội đấy! – Bác Suka từ nãy vẫn ngồi im như thóc, rụt rè đề nghị.

Maka phóng về phía bác một cái nhìn cáu kỉnh, nói tiếp:

- Mình quay trở về chỗ hai chiếc xe ngựa, hỏi cái cậu kia: trong đám người lái máy cắt cỏ, ai là bí thư? Cái thằng khỉ gió miệng rộng hoác ấy bảo đồng chí bí thư là cái người cởi trần. Mình mới bảo hắn: này, anh dụi cho sạch mắt đi, ruồi nó ỉa vào đầy mắt anh rồi đấy, ngoài ông già ra anh đếch nào cũng cởi trần cả. Hắn chui ra khỏi gầm xe, dụi dụi mắt, rồi cười phá lên. Mình nhìn, và cùng cười nốt: trong khi mình quay lại chỗ xe ngựa đây thì ông lão đã bỏ mũ và cởi sơmi ra nốt, còn mặc độc cái quần mà lao dẫn đầu đoàn xe, cái đầu hói bóng lộn và chòm râu bạc gió thổi bay tung ra sau lưng. Hệt như một con thiên nga đang bơi giữa đám lau sậy vậy. Mình nghĩ bụng: hay thật! Có lẽ đó là mốt thành thị mà đồng chí bí thư đã mang về phổ biến cho họ: cởi trần trùng trục mà chạy nhông thảo nguyên, và đến cả cái ông già lụ khụ kia cũng lại bắt chước cái kiểu vô lối ấy. Cậu miệng hoác dẫn mình đi, chỉ cho mình đồng chí bí thư. Mình đi tới, bước theo chiếc máy, tự giới thiệu và nói mình lên huyện để ra mắt đồng chí ấy. Đồng chí ấy cười, dừng ngựa lại, bảo: “Ngồi lên đây, đồng chí Nagunốp, cầm lấy cương, rồi vừa cắt cỏ ta vừa làm quen với nhau”, mình leo lên ngồi vào chỗ hắn, ra roi cho ngựa đi. Đi được bốn luống chúng mình đã quen nhau… Một tay cỡ quốc tế! Những bí thư như thế ở ta thật chưa có bao giờ. Đồng chí ấy bảo: “Tôi sẽ biểu diễn cho các anh thấy ở Xtavrôpôn người ta làm việc như thế nào! Vùng các anh mặc quần có nẹp, vùng chúng tôi thì làm đến bẹp xương sườn”, rồi cười xoà. Mình bảo: ai làm giỏi hơn ai thì cũng còn phải xem đã, ai ơi chớ vội khoe tài… Anh ta hỏi mình linh tinh đủ mọi chuyện, rồi bảo: “Thôi, về đi, đồng chí Nagunốp ạ, nay mai tôi sẽ xuống chỗ các đồng chí”.

- Anh ấy có nói gì nữa không? – Radơmiốtnốp hỏi dồn.

- Không có gì tiệt. À mà có hỏi chuyện Khốprốp: cậu ấy có hoạt động gì không? Mình bảo: hoạt động gì, hoạt động cái khỉ gió!

- Anh ta bảo sao?

- Anh ta hỏi: vậy tại sao chúng nó lại giết cậu ấy, mà lại giết cả hai vợ chồng? Mình bảo: ai biết đâu được bọn kulắc nó giết là vì sao. Nó bảo không nghe thì nó giết chứ gì.

- Rồi sao nữa?

- Anh ta trệu trạo cái mồm, cứ như ăn phải quả táo chua, rồi “hừm, hừm”, chẳng biết là lẩm bẩm hay là đằng hắng, còn nói thì chẳng nói thêm gì nữa.

- Anh ta nghe ai nói cho biết chuyện Khôprốp thế nhỉ?

- Biết được ai nói. Công an huyện báo cáo lại cho anh ấy, chắc chỉ thế thôi.

Radơmiốtnốp lẳng lặng hút một điếu thuốc nữa. Anh suy nghĩ về một điều gì lung lắm, đến nỗi quên cả mục đích mình đến thăm Nagunốp. Khi ra về, anh mỉm cười nhìn thẳng vào mắt Maka, nói:

- Thông rồi! Mai, tờ mờ sáng mình sẽ xuống đội một. Cậu có thể yên tâm, Maka ạ, đi làm cỏ mình sẽ không gượng nhẹ cái lưng mình đâu. Nhưng chủ nhật anh phải khao tôi nửa lít vốtka đấy, báo anh biết thế!

- Thì khao, và ta sẽ cùng nhau nhậu nhẹt nếu cậu làm cỏ tốt. Nhưng mai nhớ dậy sớm tí vào, làm gương cho các mẹ ấy thấy đi lao động phải như thế nào. Thôi, chúc ông thành công! – Chúc xong, Maka lại vùi đầu vào quyển sách.

Gần nửa đêm, trong không khí vắng lặng như tờ bao trùm lên làng xóm, anh và bác Suka lại trang trọng ngồi lắng nghe những tiếng gà gáy đầu tiên, mỗi người thưởng thức theo kiểu của mình cái bản nhạc mê tơi ấy.

- Cứ như trong nhà thờ! – Bác Suka thành kính thều thào, nhịu giọng đi vì quá ư xúc động.

- Như kỵ binh thao diễn! – Maka nói, mắt mơ màng nhìn chiếc bóng đèn ám khói.

Cái thú say mê kỳ quặc và lạ đời ấy, cái thú say mê ít lâu sau sẽ làm cho Maka suýt mất mạng, đã bắt đầu như thế đó.

CHƯƠNG V

Chỉ có một mình Radơmiốtnốp ra tiễn chân Đavưđốp đi xuống đội hai. Đavưđốp đi ghé chiếc xe chở lương thực thực phẩm từ kho nông trang cho thợ cày, các gia đình cũng gửi kèm cho chồng con quần áo lót và ít quần áo ngoài tập tàng.

Đavưđốp ngồi trên xe, buông thõng hai chân đi đôi bốt vẹt gót đã gả màu nâu, lưng gù xuống như một ông già và mắt hờ hững nhìn quanh. Dưới chiếc véttông khoác vai, góc nhọn đôi xương bả vai anh nhô hẳn lên. Đầu anh lâu rồi chưa cắt tóc và từ dưới chiếc mũ cátkét hất ngược ra sau gáy, những mớ tóc đen bò lan xuống cái cổ mập mạp đen xạm và cổ áo véttông cáu ghét của anh. Có một vẻ gì ơn ớn và thảm hại toát ra từ toàn bộ dáng dấp của anh…

Radơmiốtnốp nhìn anh, nhăn mặt lại như đau quặn, và thoáng nghĩ: “Con Luska nó làm cho cu cậu tả tơi đến ghê! Chà, cái con ranh con! Nó bỏ bùa cu cậu, mà lại là một cậu cứng cựa chứ bỡn đâu, thế nào mà đến nỗi người ta phát ngán không muốn nhìn nữa! Đó, tình yêu dẫn cánh ta đến nông nỗi ấy đó: đang là người biến thành cái xác ve”.

Hơn ai hết, Radơmiốtnốp có đầy đủ thẩm quyền để hiểu rõ “tình yêu dẫn ta đến nông nỗi nào”. Anh nhớ đến Marina Pôirkôva, đến vài chuyện tình tang khác, và thở dài chua chát, nhưng rồi lại mỉm cười vui vẻ, rảo bước đi đến trụ sở xôviết. Nửa đường anh gặp Maka Nagunốp. Vẫn với cái vẻ như thường lệ, khô khan, ngực ưỡn, hơi có tí phô trương cái điệu bộ nhà binh rất chính quy của mình, anh lẳng lặng chìa tay cho Radơmiốtnốp, và hất hàm chỉ về phía chiếc xe ngựa đang chạy đi dọc theo đường cái.

- Có trông thấy bộ dạng cha Đavưđốp không?

- Nom có gầy đi tí, - Radơmiốtnốp trả lời đánh trống lảng.

- Mình, khi mình ở tình cảnh như hắn, mình cũng rộc đi trông thấy. Nhưng hắn thì quá lắm, hèn yếu! Đút vào sáu tấm đi cho rồi! Hồi hắn ở nhà mình, hắn đã biết con mụ ấy là cái loại súng máy ác liệt như thế nào, đã tai nghe mắt thấy mình đấu tranh với cái giống phản cách mạng đầu gối tay ấp ấy như thế nào rồi, ấy thế mà đùng một cái, hắn chết thẳng cẳng! Hôm nay mình nhìn hắn và nói không ngoa, tim mình ứa máu: gầy tọp, nom như người chịu tội, mắt lấm la lắm lét, mà quần thì, khổ cái thân đời hắn, chả biết nó bám vào chỗ nào trên người hắn. Hắn đang chết dần chết mòn trước mắt chúng ta! Cái con vợ cũ của mình, hồi mùa đông đáng lẽ ta phải liệt nó vào loại kulắc và tống cổ đi cùng với thằng Chimôphây của nó đến vùng băng giá mới phải. Ở đấy nhiệt độ của nó may ra mới hạ được tí nào chăng.

- Cậu cũng biết chuyện à, mình không ngờ đấy…

- Hà! “Không biết”! Cả làng ai cũng biết, mà mình lại không biết sao? Mắt mù hay sao mà không biết? Đối với mình, nó lằng nhằng với thằng nào thì mình mặc mẹ nó, nhưng này, đồ đĩ rạc, đừng có đụng vào Đavưđốp của tao, đừng có hại người đồng chí thân thiết của tao! Đấy, vấn đề đặt ra lúc này là như thế đó!

- Giá cậu ngăn chặn trước đi. Sao cậu lại cứ im?

- Nhưng mình ngăn chặn thì không tiện tí nào! Biết đâu cậu ấy lại chẳng nghĩ mình can cậu ấy là vì ghen, hoặc vì cái chết tiệt gì khác. Nhưng cậu, cậu là người ngoài cuộc, sao cậu cũng lại im? Sao không nghiêm khắc cảnh cáo hắn?

- Cảnh cáo ghi lý lịch hả? - Radơmiốtnốp mỉm cười.

- Thế nào cũng có ngày hắn bị ghi lý lịch, nếu hắn vẫn cứ rũ rù rù thế. Nhưng hai chúng ta, Anđrây ạ, ta không thể trù trừ được nữa. Con Luska là một con rắn độc, dính vào nó thì cậu ấy sẽ chẳng kéo nổi đến cách mạng thế giới đâu, mà sẽ chết toi lúc nào không biết. Hoặc chả mấy bữa mà chuốc vào mình bệnh ho lao, hoặc cái bệnh giang mai lậu kén gì đó! Mình, khi cắt đứt với nó, mình thật cứ như được tái sinh: không còn nơm nớp mắc bệnh hoa liễu gì nữa, học tiếng Anh cứ băng băng, chẳng cần thầy, chỉ độc bằng đầu óc mình thôi mà vẫn đạt kết quả tốt; công tác của Đảng mình làm đâu ra đấy, mọi công việc khác mình cũng chẳng nề hà. Nói tóm lại, cảnh sống độc thân, mình được chân tay tự do, đầu óc sáng sủa. Còn trước kia sống với con ấy, rượu vốtka mình chẳng uống mà ngày nào cũng choáng váng như say. Đối với chúng ta, những người cách mạng, thì đàn bà, anh bạn ạ, đúng như thuốc phiện đối với nhân dân! Như mình thì mình sẽ ghi câu danh ngôn ấy vào điều lệ bằng chữ đậm, để mỗi đảng viên, mỗi người cộng sản thực sự, mỗi người cảm tình Đảng, mỗi ngày phải đọc lại ba lần trước khi đi ngủ và sáng dậy lúc bụng đói. Đến lúc ấy sẽ không còn thằng bố khỉ nào rơi vào cái cảnh khốn nạn như anh chàng Đavưđốp nhà ta bây giờ nữa. Cậu nhớ lại mà xem, Anđrây ạ, có biết bao nhiêu người tốt hẳn hoi đã bị điêu đứng vì cái giống đàn bà khốn kiếp ấy! Không sao đếm xuể! Vì bọn chúng mà xảy ra biết bao nhiêu chyện biển thủ, tham ô, biết bao nhiêu người biến thành rượu chè be bét, biết bao nhiêu anh em tốt bị kỷ luật Đảng, biết bao nhiêu anh chàng phải ngồi rũ tù. Thật đúng là cái giống tà ma ác quỷ!

Radơmiốtnốp trầm ngâm suy nghĩ. Họ bước đi lẳng lặng một lát, đắm mình vào những ký ức gần xa, nhớ lại những người đàn bà họ đã gặp trên quãng đường đời của mình. Maka Nagunốp phồng mũi lên, mím chặt đôi môi mỏng và bước đi như hành quân trong đội ngũ, vai ưỡn thẳng, chân bước đều, nom như hiện thân của sự sắt đá. Còn Radơmiốtnốp thì vừa đi vừa lúc thì mỉm cười, lúc thì khoát tay một cái tuyệt vọng, lúc thì vân vê bộ ria mép quăn quăn màu vàng hoe, mắt lim dim như một con mèo đã no nê thoả mãn. Và có lúc, chắc hẳn do nhớ lại một chuyện tình duyên đặc biệt đẹp đẽ nào với một cô này, cô nọ, anh cứ rên lên như người vừa làm một chầu vốtka thoải mái và, xen kẽ với những quãng im lặng kéo dài, thốt lên những lời nghe chẳng ra đầu đũa gì:

- Chà, chà! Ôi, cái mụ ấy! Ác liệt! Em ơi, em trời đánh thánh vật!...

* * *

Grêmiatsi Lốc đã rớt lại phía sau đâu đó, khuất sau một cồn đất, và thảo nguyên mênh mông tít tắp đã nuốt chửng Đavưđốp. Hít căng lồng ngực mùi hương ngây ngất của cỏ và đất ẩm, Đavưđốp nhìn ngắm hồi lâu dẫy đồi mộ phía xa. Những ngọn đồi xanh xanh đằng xa ấy có cái gì phảng phất gợi anh nhớ đến những đợt sóng cồn của biển Bantích và, không cưỡng nỗi một nỗi buồn dìu dịu bất thần dâng lên trong lòng, anh vừa thở dài đánh sượt một cái vừa đưa đôi mắt bỗng dưng rơm rớm nhìn ra chỗ khác… Rồi cái nhìn thẫn thờ ngơ ngác của anh bắt gặp một điểm nhỏ lờ mờ trên nền trời. Oai hùng đường bệ trong cảnh cô đơn, một chú đại bàng đen thảo nguyên - dân thường trú của xứ đồi mộ - đang bay liệng trên bầu trời xanh lạnh lẽo, từ từ đĩnh đạc và mỗi vòng lại hạ độ cao xuống tí chút. Đôi cánh rộng, tày ở hai đầu và giang ra bất động đã dễ dàng đưa chim lên đến tận chín tầng mây, và ngọn gió thổi ngược đã tha thiết vuốt ve và áp sát bộ lông đen ánh lên một ánh đùng đục vào thân thể có khung xương rắn chắc của chim. Khi chim khẽ nghiêng cánh lượn vòng lao về phương đông thì ánh mặt trời chiếu ngược vào chim từ dưới lên, và lúc ấy Đavưđốp thấy hình như mặt dưới trăng trắng của cánh chim loang loáng những ánh bạc khi chợt loé lên khi vụt tắt.

… Thảo nguyên mênh mông, bát ngát. Những đồi mộ cổ kính trong làm khói lam. Con đại bàng đen bay trên nền trời. Tiếng xào xạc êm ái của đám cỏ nghiêng mình trước gió… Đavưđốp cảm thấy mình bé nhỏ và chìm nghỉm trong cảnh trời đất bao la ấy, đưa con mắt buồn rầu nhìn bao quát thảo nguyên mênh mông vô tận đến nao nao lòng người. Trong những giây phút này, mối tình của anh yêu Luska, cái đau khổ của tan vỡ, ước mong không được thoả mãn về một cuộc gặp mặt lại, tất cả đối với anh sao mà nó nhỏ nhoi, vô nghĩa. Cảm giác cô đơn, cảm giác bị rứt ra khỏi cuộc sống nặng nề xâm chiếm lấy hồn anh. Xưa kia anh đã từng có cảm giác na ná như vậy khi đêm đêm đứng vọng tiêu trên mũi tàu chiến. Chà, sao mà đã xa lắc xa lơ! Cứ như một giấc chiêm bao lâu ngày lắm rồi hầu như đã quên…

Ánh nắng đã nóng lên rõ rệt. Ngọn gió nam hây hẩy đã mạnh lên. Đavưđốp gục đầu xuống và thiu thiu đi lúc nào không biết, người khẽ lắc lư khi xe xóc trên những ổ gà và những chỗ mấp mô trên đường xá thảo nguyên hoang vu.

Đavưđốp gặp phải một đôi ngựa còm nhom và một bác xà ích ít nói, bác nông trang viên Ivan Argianốp mà dư luận hàng xóm cho là có tí cám hấp. Bác hết sức gượng nhẹ đôi ngựa bác mới được giao, và vì vậy hầu như suốt dọc đường tới lán của đội chúng chỉ đi lững thững bước một êm ru đến nỗi nửa đường Đavưđốp sực tỉnh dậy đã không nén nổi và nghiêm giọng hỏi:

- Sao thế, hả bác Ivan, bác chở bát đĩa đi chợ bán hay sao vậy? Sợ vỡ hẳn? Sao cứ bước một suốt mãi thế này?

Bác Argianốp chẳng buồn đáp, cũng chẳng buồn quay lại. Một lát sau bác mới trả lời bằng giọng the thé:

- Chở “bát đĩa” gì thì lão biết chứ! Chú là chủ tịch nông trang thật đấy những cũng không bắt được lão phải cho ngựa chạy đại lên vô tích sự đâu. Chú đừng ấm ớ!

- Thế nào là “vô tích sự”? Nhưng ít ra thì lúc xuống dốc bác cũng phải cho chạy rảo lên tí chứ! Xe chở có nặng lắm đâu, có thể coi như chạy không, thực tế thế!

Im lặng một lúc lâu bác Argianốp mới miễn cưỡng đáp:

- Con ngựa tự nó khắc biết lúc nào nên đi bước một, lúc nào nên chạy.

Đavưđốp bắt đầu phát cáu lên thực sự. Chẳng giấu cái bực  mình, anh kêu thốt lên:

- Hay nhỉ! Thế bác thì để làm cái tích sự gì? Giao cho bác tay cương làm gì? Đặt bác ngồi trên cái ghế này để làm trò gì? Thôi, đưa cương đây tôi!

Bác Argianốp đáp lại với giọng rõ ràng đã bớt miễn cưỡng:

- Nông trang giao cho lão giây cương để đưa ngựa tới nơi cần đến, chứ không phải tới nơi không cần đến. Nhưng nếu chú không thích ngồi bên lão, không thích lão ngồi đây, thì lão có thể xuống đi bộ cạnh xe, nhưng giây cương thì lão không giao cho chú được đâu, chú đừng ấm ớ!

- Sao lại không giao được? - Đavưđốp hỏi, cố nhìn thẳng vào mặt bác xà ích đang cố tình lảng đi không nhìn vào mặt anh.

- Thế chú có chịu giao cương của chú cho lão không?

- Cương nào? - Đavưđốp chưa hiểu ý, hỏi.

- Còn cương nào nữa! Chú cầm cương nảy mực toàn nông trang, được nhân dân giao phó cho chỉ đạo công việc của nông trang. Chú có chịu giao cương ấy cho lão không? Chả đời nào! Chắc chú sẽ bảo: “Bố già ơi, đừng ấm ớ!”. Thì lão cũng vậy! Lão có đòi cương của chú đâu? Vậy chú cũng đừng đòi cương của lão!

Đavưđốp vui vẻ cười phá lên, không còn tí dấu vết nào của cơn bực vừa rồi.

Anh hỏi với cái vẻ thú vị đợi câu trả lời: - Này, thế nếu nói giả dụ, làng có cháy, bác chở nước cứu hoả cũng vẫn cứ lững thững cái tốc độ nhục nhã này sao?

- Chở nước cứu hoả thì chả ai cử những người như lão…

Và đến lúc ấy, nhìn nghiêng vào mặt bác Argianốp, Đavưđốp mới thấy ở dưới gò má rám gió nứt nẻ của bác những vết nhăn li ti của một nụ cười kín đáo.

- Vậy theo bác, người ta cử ai?

- Cử những người như chú với chú Maka Nagunốp.

- Sao lại thế?

- Vì trong làng chỉ có hai anh đi cũng chỉ thích đi nước đại, và sống cũng như ngựa phi nước đại…

Đavưđốp cười một trận ra cười, tay vỗ đầu hối đôm đốp, đầu ngửa ra sau mà cười. Chửa kịp lấy lại hơi sau trận cười ấy, anh đã hỏi:

- Thế nghĩa là, nếu có cháy thật thì chỉ có tôi với Maka có nhiệm vụ chữa cháy thôi ư?

- Không, sao lại thế! Chú với Maka thì chỉ chở nước thôi, các chú sẽ quất ngựa chạy bò rạp đất, bọt sủi đầy mồm bắn tung toé tứ phía, còn dập tắt đám cháy sẽ là bà con nông trang viên chúng tôi, người thùng, người câu liêm, người rìu… Còn đứng chỉ huy chữa cháy thì không ai bằng Radơmiốtnốp…

“Thế mà bảo cám hấp đấy!”, - Đavưđốp nghĩ bụng, thực sự ngạc nhiên. Sau một phút im lặng, anh hỏi:

- Tại sao bác bảo chỉ huy chữa cháy thì nhất Radơmiốtnốp?

Lần này thì bác Argianốp cười một cách tự nhiên hơn, đáp:

- Chú khôn mà không tinh. Ai sống như thế nào thì khi chữa cháy phải được giao nhiệm vụ như thế ấy chứ, tóm lại là theo bản tính người ấy. Chú với anh Maka sống cứ như ngựa phi, ngày đêm chẳng lúc nào yên, thành thử chỉ có hai chú là sẽ chở được nước khẩn trương nhất, vì các chú là người nhanh nhẹn xông xáo nhất: không có nước thì có trời chữa được cháy, đúng thế không? Còn cái chú Anđrây Radơmiốtnốp thì sống như ngựa chạy nước kiệu, không giơ roi ra thì không chịu dấn lên, không chịu đổi bước… Nghĩa là, với cái lối ataman của chú ấy thì còn có việc làm gì khác ngoài cái việc tay chống nạng, hô hét quát tháo, làm rối tinh xoè và quẩn chân mọi người? Còn chúng tôi, nghĩa là nhân dân, thường ngày sống thủng thẳng bước một thế thôi, và chúng tôi phải từ từ dập tắt đám cháy, không lộn xộn, không rối rít lên…

Đavưđốp vỗ đốp một cái vào lưng bác Argianốp, quay ngang người bác về phía mình và bắt gặp một đôi mắt đang mỉm cười hóm hỉnh trên khuôn mặt xồm râu và hiền lành phúc hậu của bác. Anh khẽ mỉm cười, bảo:

- Ông nội ơi, ông cáo lắm!

- Thì anh cũng vậy, anh Đavưđốp ạ, cũng nhất hạng cáo già! - Bác Argianốp vui vẻ đối đáp lại.

Họ tiếp tục lê đi bước một, nhưng Đavưđốp yên chí một bề là có nói mấy cũng vô ích nên thôi không thúc bác Argianốp nữa.

Thỉnh thoảng anh lại nhảy xuống đi bộ bên xe. Chuyện trò về công việc nông trang và linh tinh đủ thứ chuyện, Đavưđốp mỗi lúc một thấy rõ bác xà ích già chả có tí gì lẩm cẩm cả; chuyện nào bác cũng xét đoán một cách chí lý, chính xác, hiện tượng nào bác cũng có một cách đánh giá riêng, độc đáo, ít thấy.

Khi đằng xa đã hiện ra dãy lán của đội và bên cạnh đó làn khói bếp mảnh khảnh uốn khúc cuộn lên, Đavưđốp hỏi bác xà ích:

- Này, bác Ivan ơi, tôi hỏi thật, suốt đời bác lúc nào cũng cho ngựa đi lững thững thế này sao?

- Đúng vậy.

- Sao bác không bảo tôi biết trước cái lối lạ đời ấy của bác? Tôi sẽ chả đi xe bác đâu, thực tế thế!

- Việc gì lão phải vỗ ngực khoe khoang nhỉ? Cứ để tự mắt anh thấy kiểu đi của lão. Anh đi với lão một lần, rồi anh kệch đến già.

Đavưđốp cười nụ: - Tự đâu mà bác sinh ra cái kiểu ấy?

Bác Argianốp không trả lời câu hỏi, kể sang chuyện khác:

- Ngày xưa lão có ông hàng xóm làm thợ mộc, rượu bét nhè. Tay vàng tay ngọc, chỉ phải cái tội bét nhè. Lão ta cố nhịn, cố nhịn, nhưng rồi cứ động đánh hơi thấy mùi rượu là luý tuý càn khôn luôn! Có cái gì trên người là lão cởi bán uống hết sạch, không còn lấy manh khố.

- Rồi sao nữa?

- Rồi đến đời con lão ta thì chỉ độc uống nước lã.

- Bác kể loanh quanh thế làm gì?

- Đâu mà loanh quanh. Ông cụ lão hồi còn sống là một tay đi săn táo tợn, và cưỡi ngựa lại còn táo tợn hơn thế nữa. Hồi còn tại ngũ ông cụ chiếm tất cả những giải nhất trung đoàn về đua ngựa, đấu kiếm và nhào lộn trên lưng ngựa. Giải ngũ về, năm nào cụ cũng giật giải đua ngựa  hàng xã. Cụ là bố đẻ ra lão thật đấy, nhưng nói trộm vong linh cụ, cụ là một tay phá hoại. Cụ là một anh kô-dắc có tính thích giương vây, chơi trội… Thường là sáng nào cụ cũng nướng một cái đinh vào bếp lò để uốn ria mép. Cụ thích làm bảnh với bà con dân làng, nhất là với các bà các cô…. Và cụ phóng ngựa nom mới ghê! Thật là kinh hồn bạt vía! Nói giả dụ cụ có việc phải lên phố, cụ vào chuồng dắt con ngựa chiến ra, đóng yên cương vào, và thế là phóng luôn! Một hai vòng sân, cho ngựa nhảy phốc qua rào, rồi thì chỉ còn thấy bụi mù sau lưng cụ. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ cụ không hề biết đến nước kiệu hoặc đi bước một. Từ làng lên đến phố quận là hai mươi tư véxta, cụ làm một lèo, và khi về cũng vậy. Cụ thích chơi ngông, phóng ngựa đuổi theo thỏ rừng. Thỏ rừng nhá, chứ không phải sói đâu! Cụ xua con thỏ nấp trong đám cỏ ra, đuổi nó ra khỏi bụi rậm, rượt theo, rồi hoặc là vung roi quật chết, hoặc là cho ngựa xéo chết. Đã bao nhiêu lần ông cụ phi ngựa ngã om xương, nhưng vẫn không chịu thôi cái trò ấy. Và ngựa của nhà, ông cụ cho đi đời hết. Lão nhớ, có sáu con bị ông cụ hành cho: con thì què, con thì chết. Ông cụ đã làm mẹ con lão sạt nghiệp! Chỉ trong vòng một mùa đông, cụ đã cho toi hai con ngựa. Vấp một cái giữa lúc đang phi, lộn cổ xuống đất đóng băng, thế là đi đứt một con! Mẹ con thấy ông cụ lủi thủi đi bộ về, vai vác bộ yên. Bà cụ khóc gào lên như nhà có người chết, còn ông cụ cứ phớt tỉnh nhân sự! Cụ nằm liệt giường ba ngày, mồm rên hừ hừ, nhưng những vết thâm tím trên người chưa kịp tan, cụ đã tấp tểnh đi săn rồi…

- Quần chết ngựa mà sao cụ vẫn sống nguyên được nhỉ?

- Con ngựa nó nặng xác lắm. Đang phi mà ngã thì nó lộn cổ ba vòng trong không khí rồi mới rơi xuống mặt đất. Còn ông cụ ấy à, ông cụ nhả luôn bàn đạp ra và bay khỏi lưng ngựa như một con én. Rồi rơi bịch xuống, nằm bất tỉnh nhân sự, đủ cái thời gian cần thiết để lai tỉnh, rồi lổm ngổm bò dậy, hành quân cuốc bộ về nhà. Gan thật là gan cóc tía! Và đúng là xương đồng da sắt!

- Bợm đấy nhỉ! - Đavưđốp phục lăn, nói.

- Bợm thì đúng là có bợm, nhưng ở đời có kẻ lại còn bợm hơn…

- Sao?

- Cụ đã bị đám kô-dắc trong làng giết toi mạng.

- Vì sao vậy? - Đavưđốp cuốn điếu thuốc hút, tò mò hỏi.

- Anh cho lão xin một điếu.

- Tưởng bác không hút chứ, bác Ivan?

- Lão có hút đâu, nhưng đôi lúc cũng muốn làm một hơi. Với lại, ngồi nhớ lại chuyện ngày xưa, không hiểu sao thấy khô khô và đắng miệng… Anh hỏi tại sao họ lại giết cụ hả? Nghĩa rằng là cũng đáng kiếp thôi…

- Đáng kiếp là thế nào?

- Chuyện nhân tình nhân ngãi ấy mà. Cái bà này có chồng rồi. Và anh chồng nghe phong thanh biết chuyện. Một chọi một với ông cụ thì anh ta ngại: cụ không cao lớn lắm, nhưng khoẻ kinh người. Thế là anh chồng cô nhân tình của cụ mới đem chuyện bàn với hai tay em. Câu chuyện xảy ra vào ngày lễ cầu Đức bà. Đêm hôm ấy ba anh em hắn rình ông cụ ở bờ sông… Lạy Chúa, họ nện cho ông cụ một trận nhá! Cứ đòn xóc mà quật, và còn thanh sắt gì nữa… Sáng hôm sau khi người ta khiêng ông cụ về nhà thì ông cụ vẫn còn bất tỉnh nhân sự và xám ngoét như chì. Suốt một đêm nằm bất động trên mặt băng giá đâu có phải là chuyện bỡn, phải không? Trên mặt băng cơ mà! Một tuần sau ông cụ bắt đầu nói được và nghe ai nói gì thì hiểu được. Tóm lại là cụ hồi tỉnh. Nhưng cụ nằm liệt giường mất hai tháng, thổ ra huyết và nói thì chỉ lí nhí, lí nhí. Lục phủ ngũ tạng cụ bị đánh dập hết mà. Bạn bè đến thăm hỏi cứ căn vặn cụ: “Đứa nào đánh anh, hả anh Phêđo! Nói đi, chúng tôi sẽ…”. Nhưng cụ cứ nín thinh, khẽ nhếch mép cười, và khi đưa mắt nhìn thấy bà cụ đã ra ngoài mới thều thào nói: “Anh em ạ, tôi không nhớ mà. Những anh chồng đã bị tôi làm hại thì nhiều lắm”.

Còn bà cụ thì không biết bao nhiêu lần đã quỳ xuống bên giường ông cụ mà van: “Phêđo mình ơi, ít ra thì cũng xin mình nói cho tôi biết: đứa nào đã hại mình? Mình nói đi, lạy Chúa, nói đi để tôi còn biết đường cầu Chúa trừng phạt ai!”. Nhưng ông cụ đặt bàn tay lên đầu bà cụ, vuốt tóc như vuốt ve một đứa nhỏ, và bảo: “Tôi chả biết là ai cả. Trời tối lắm, tôi không đoán ra là ai mà. Họ nện tôi từ đằng sau lưng, đánh ngã quay lơ, tôi cũng có kịp nhận ra đứa nào cho tôi ăn đất đâu…”. Hoặc cũng vẫn ôn tồn như thế cụ mỉm cười bảo cụ bà: “Mẹ nó cứ thích bới chuyện cũ ra làm gì? Ác giả ác báo đấy thôi…”. Nhà mời cha đạo đến làm lễ ban thánh thể, nhưng ông cụ chẳng hở ra điều gì với cha đạo cả. Người gan thế mới là gan!

- Sao bác biết cụ không nói gì với cha đạo?

- Lão rúc dưới gậm giường, nghe trộm mà. Cụ bà bảo: “Này, Ivan, mày chui xuống gậm giường, nghe xem có khi thày mày nói cha biết những đứa nào đã giết thày đấy”. Nhưng ông cụ chả nói gì về họ cả. Năm lần bảy lượt bị cha căn vặn, cụ đều nói: “Thưa cha, con là kẻ có tội”, rồi hỏi lại cha: “Thưa cha Mitơri, chẳng hay ở thế giới bên kia có ngựa không cha?”. Cha đạo nghe thế xem chừng phát hoảng lên, lắp bắp nói: “Ơ hay, Phêđo con ơi, con chiên của Chúa! Làm gì có chuyện ngựa nào ở thế giới bên kia! Con hãy lo đến chuyện cứu vớt linh hồn con!”. Cha đạo khuyên giải ông cụ hồi lâu, ông cụ vẫn cứ nín tinh, rồi nói: “Cha bảo ở đấy không có ngựa à? Chán nhỉ! Giá có thì con sẽ xin cái chân dạy ngựa… Nhưng đã không có thì con cũng chả biết làm gì ở cái thế giới bên kia ấy cả. Thế thì con sẽ chả chết nữa đâu, thế thôi cha ạ”. Cha đạo làm ù cho xong lễ ban thánh thể rồi ra về, trong bụng rất khó chịu, tức đến lộn ruột. Lão kể lại cụ bà nghe đầu đuôi, cụ bà oà khóc và bảo: “Thày con sống là một kẻ tội lỗi, chết cũng sẽ là một kẻ tội lỗi mất thôi!”.

Sang xuân - lúc ấy tuyết đã tan - ông cụ ngóc dậy được, đi đi lại lại trong nhà hai ngày, rồi sang ngày thứ ba, lão thấy cụ khoác áo bông vào, đội mũ bông vào, rồi bảo; “Này, Ivan, đi đóng yên con ngựa cái cho thày”. Hồi ấy nhà chỉ còn độc con ngựa cái ba tuổi. Cụ bà nghe thấy ông cụ nói, và thế là giọt ngắn giọt dài: “Phêđo, bây giờ mình còn cưỡi ngựa sao được nữa mà đòi cưỡi! Đứng còn không vững kia mà! Mình chả thương thân thì cũng phải thương vợ con tí chứ!”. Cụ ông cười xoà và bảo: “Mẹ nó à, cả đời tôi chả đi ngựa bước một bao giờ. Trước khi tôi chết, mẹ nó cho tôi được lên yên một lần nữa thôi, đi bước một quanh sân một tí. Hai vòng thôi mà, rồi vào ngay”.

Lão đi đóng yên con ngựa, dắt đến trước thềm. Bà cụ dìu ông cụ ra. Hai tháng trời cụ không cạo râu, và trong nhà tối quá không thấy thời gian qua cụ đã thay đổi ghê đến thế nào… Ra chỗ thanh thiên bạch nhật, lão nhìn ông cụ, và trong lòng nóng bỏng rơi nước mắt! Hai tháng trước râu tóc cụ đen như bồ hóng, thế mà bây giờ râu cụ đã hoa râm, ria cũng vậy, còn tóc hai bên thái dương thì bạc phơ, trắng như tuyết… Giá như cụ không mỉm một nụ cười đau khổ thì lão cũng chả khóc đâu, nhưng thế này thì lão không kìm nổi… Cụ cầm lấy cương ở tay lão, víu lấy bờm ngựa, trong khi cánh tay trái cụ bị đánh gãy chỉ vừa mới liền xương thôi. Lão định đỡ cụ, nhưng cụ không cho. Người kiêu đâu mà kiêu lạ! Chỉ cái chuyện mình yếu thôi cũng đã làm cụ xấu hổ rồi. Chắc hẳn cụ muốn, cũng như xưa, bay lên lưng ngựa như một con chim, nhưng không được… Cụ đặt chân lên bàn đạp dướn mình lên, nhưng cánh tay trái cụ đã phản lại cụ, ngón tay rã rời ra, và cụ ngã ngửa, lăn chổng kềnh xuống đất… Mẹ con lão khiêng cụ vào nhà. Trước cụ chỉ ho khạc ra máu thôi, bây giờ mồm cụ ộc máu ra như cái vòi rồng. Cho đến tối bà cụ không lúc nào rời khỏi cái chậu giặt, không sao giặt kịp những khăn lau đỏ lòm máu. Nhà lại kêu cha đạo tới. Đến đêm cha đạo làm lễ ban thánh thể cho ông cụ, nhưng cụ thật là gan lạ gan lùng! Mãi đến ngày thứ ba sau khi chịu lễ ban thánh thể, vào lúc xẩm tối, cụ mới bắt đầu rên rỉ, vật vã trên giường một lúc, rồi nhảy xuống đất, nhìn bà cụ bằng đôi mắt đục lờ nhưng tươi cười, và nói: “Nghe nói chịu lễ xong thì không được giẫm chân xuống đất, nhưng tôi muốn đứng thế một tí… Cái đất này bao lâu nay tôi xéo lên nó, cưỡi ngựa trên nó, nay phải rời bỏ nó lòng tôi đau như cắt… Mẹ nó ơi, đưa tôi nắm bàn tay bé bỏng của mẹ nó, cái bàn tay trên đời này đã vất vả trăm chiều…”.

Bà cụ xích gần tới, nắm lấy tay ông cụ. Ông cụ ngả lưng nằm xuống, im lặng một lát, rồi thều thào: “Còn nước mắt thì vì tôi bàn tay mẹ nó cũng đã phải lau biết bao nhiêu bận…” - cụ quay mặt vào tường rồi qua đời sang thế giới bên kia chăn ngựa cho đức thánh Vlaxi…

Chắc hẳn bồi hồi trước chuyện xưa gợi lại, bác Argianốp im lặng một hồi lâu. Đavưđốp hắng giọng, hỏi:

- Này, bác Ivan à, nhưng sao bác lại biết kẻ đánh cụ là anh chồng của… ờ, nghĩa là của cái bà kia... và anh em nhà hắn? Bác phỏng đoán thế thôi chứ gì? Nghi thôi hả?

- Nghi là thế nào! Chính cụ đã bảo lão biết thế, một ngày trước khi nhắm mắt.

Đavưđốp ngạc nhiên nhổm  người lên:

- Thế nào, cụ bảo à?

- Phải, đúng là cụ bảo. Sáng hôm ấy bà cụ đi vắt sữa bò, lão ngồi bên bàn học nốt bài trước khi cắp sách ra trường, lão nghe thấy tiếng cụ thều thào; “Ivan, lại đây con!”. Lão lại. Cụ thều thào: “Cúi thấp xuống đây”. Lão cúi xuống. Cụ nói lí nhí: “Con ơi, con sắp mười ba rồi, thày chết đi con sẽ là chủ gia đình, con hãy ghi nhớ điều này: kẻ đánh chết thày là thằng Avêrian Arkhipốp và hai thằng em nó, thằng Aphanaxi và thằng Xergây mắt chột. Nếu như chúng nó đánh thày chết ngay lúc ấy, thày đã chả mang lòng thù oán chúng đâu. Hôm ấy, ở bờ sông, lúc còn tỉnh, thày đã xin chúng giết thày chết ngay đi. Nhưng thằng Avêrian đã bảo thày; “Mày không được chết nhẹ nhàng như thế đâu, đồ sâu bọ! Mày phải sống què sống quặt, mày phải nuốt máu mày ừng ực, chán chê mê mỏi đã rồi mới chết nổi cơ!”. Đấy, vì thế thày mới oán thằng Avêrian. Thày đã chết đến cổ rồi, nhưng bụng vẫn oán giận! Bây giờ con còn bé, nhưng một ngày kia con lớn, con hãy nhớ những nỗi đau đớn của thày và giết thằng Avêrian đi cho thày! Những điều thày nói đây, con đừng nói với ai cả, cả mẹ, cả bất cứ ai trên đời. Con thề sẽ không nói với ai đi!”. Lão thề, hai mắt ráo hoảnh và hôn chiếc thánh giá cụ đeo trước ngực…

- Chà, hệt như chuyện dân Tserkex ở Cápcadơ ngày xưa vậy! - Đavưđốp bồi hồi trước câu chuyện bác Argianốp kể, kêu thốt lên.

- Thế dễ chỉ dân Tserkex mới có tim gan, còn người Nga thì có hòn đá thay cho tim sao? Chú nó ơi, người ta ai cũng như ai.

- Rồi sao nữa? - Đavưđốp nóng ruột nghe tiếp, hỏi.

- Chúng tôi mang cụ đi chôn. Ở nghĩa địa về, lão vào phòng, đứng tựa lưng vào bậu cửa, lấy bút chì đánh dấu quãng đỉnh đẩu. Tháng tháng lão đo xem mình cao lên đến đâu: lão muốn mau mau lớn để giết thắng Avêrian… Lão đã thành chủ gia đình, và lúc ấy lão mới mười hai tuổi, và ngoài lão ra, bà cụ lão lớn nhỏ còn bảy đứa nữa. Từ ngày ông cụ mất, bà cụ ốm đau luôn, và lạy Chúa, nói sao cho hết những cay đắng cùng cực mẹ con lão đã phải cắn răng chịu! Ông cụ bậy bạ thật đấy, nhưng ông cụ biết chơi thì cũng biết làm. Đối với những ai đó thì cụ là con người xấu xa, còn đối với mẹ con lão thì cụ là máu mủ: từ mùa xuân đến mùa thu cụ còng lưng ngoài đồng kiếm cho mẹ con lão có bánh ăn, có áo mặc, có giày đi… Lúc ấy vai lão còn hẹp, lưng lão còn mềm, thế mà lão đã phải gánh vác tất cả gia đình và làm việc như một người lớn. Còn mồ ma ông cụ, nhà có bốn anh em đi học, cụ chết đi thì tất cả phải bỏ học. Con bé Nhiurka, lên mười tuổi, lão giao cho nó bếp núc và vắt sữa bò thay cho bà cụ, những thằng em nhỏ thì đỡ lão công việc đồng áng. Nhưng tháng tháng lão vẫn không quên tựa lưng bậu cửa đo người. Hiềm nỗi năm ấy lão lớn xoàng quá: đau khổ và đói rách làm lão cọc người đi. Còn thằng Avêrian thì lão vẫn theo dõi như một con sói con rình con vịt trong bụi cói. Hắn đi đâu một bước lão cũng biết, đi bộ, hay đi ngựa, lão biết tất…

Những ngày chủ nhật, thường là đám trẻ lứa tuổi lão tụ tập lại vui chơi, còn lão chả có thì giờ đâu, lão là ông chủ gia đình. Ngày thường, chúng đi học, còn lão thì đi dọn chuồng bò… Lão uất phát khóc lên với cái cuộc sống mòn mỏi! Dần dần lão xa lánh đám bạn cùng lứa tuổi, sống cô đơn, lầm lì như cục đất, chẳng muốn gặp ai… Thế là làng xóm người ta bắt đầu nói về lão, bảo là thằng Ivan Argianốp có tí lẩn thẩn, cám hấp. Lão nghĩ bụng: “Cha tiên nhân chúng bay! Đặt chúng bay vào địa vị tao xem! Cuộc sống điêu đứng như tao đây sẽ làm cho chúng bay thông minh chán ra đấy!”. Và thế là lão đâm ra căm ghét tất cả dân làng, không muốn nhìn mặt ai!... Chú nó ơi, cho lão xin điếu thuốc nữa.

Bác Argianốp lóng ngóng cầm lấy điếu thuốc. Ngón tay lão trông rõ run lẩy bẩy. Lão loay hoay mãi mới mồi được lửa ở điếu thuốc Đavưđốp, rồi nhắm mắt, trề môi ra một cách ngộ nghĩnh, miệng chem chép.

- Còn thằng Avêrian thì thế nào?

- Thằng Avêrian hả? Hắn sống nhởn nha, theo ý hắn thích. Hắn không tha cho vợ cái tội phải lòng ông cụ nhà lão, đánh đập mụ chí chết, chỉ một năm sau là mụ xuống lỗ. Sang thu, hắn cưới một cô vợ khác, gái tơ trong làng. Lúc ấy lão nghĩ bụng: “Được rồi, Avêrian ơi, mày sẽ chẳng sống bao lâu với con vợ trẻ này đâu…”.

Lão bắt đầu giấu bà cụ, dành dụm ít tiền, rồi mùa thu, lão bỏ không đi chợ huyện gần đấy, một mình mang một xe ngựa lúa mạch đi chợ Kalátsơ bán, mua luôn khẩu súng một nòng với mười ba viên đạn. Trên đường về, bắn thử súng, lão tiêu mất ba viên. Súng với ống chán kinh: cò mổ yếu quá, ba viên thì xịt hai, viên thứ ba mới nổ. Về đến nhà lão giấu khẩu súng trong kho thóc, dưới dầm nhà, không hé răng nói với ai về việc mua bán này. Và từ đó lão bắt đầu rình thằng Avêrian … Mất bao nhiêu lâu chẳng được tích sự gì. Lần thì đông người quá, lần thì vì một lý do nào đó lão thấy không nên nổ. Nhưng đợi mãi rồi cũng đến lúc lão vớ được! Điểm chính là lão không muốn giết nó trong làng, gay là ở chỗ ấy! Một hôm, vào ngày đầu lễ xá tội, hắn đi chợ huyện, một mình một xe, không có con vợ. Nhìn rõ hắn đi có một mình, lão liền làm dấu, chả là vì nếu không thì lão đến phải giết cả hai vợ chồng chúng nó. Hai ngày một đên lão không ăn, không uống, không ngủ nấp ở cái khe bên đường. Ngồi dưới khe, lão hết lời cầu nguyện Chúa, xin Chúa làm sao cho thằng Argianốp đi chợ trở về một mình, không có bà con dân xóm nào đi cùng. Và Chúa lòng lành đã nhận lời cầu nguyện thơ ngây của lão! Xẩm chiều hôm sau lão nhìn thấy đúng thằng Avêrian  kia rồi - nó đi một mình. Cho đến lúc ấy, đã có biết bao nhiêu xe diễu qua trước mắt lão, biết bao nhiêu lần tim lão đập thình thình khi tưởng trông thấy đôi ngựa thằng Avêrian đang chạy đằng xa trên đường… Khi nó tới ngang chỗ lão, lão liền từ trong khe nhảy ra, quát: “Nhà bác Avêrian kia, xuống xe ngay, và cầu Chúa đi!”. Hắn tái mặt đi, bệch như cái tường vôi, và dừng ngựa lại. Hắn là một lão kô-dắc to và khoẻ, nhưng hắn làm gì nổi tôi? Vì tay tôi lăm lăm khẩu súng mà. Hắn quát lão; “Mày giở trò gì thế, đồ ếch nhái kia?”. Lão bảo hắn: “Xuống xe ngay, và quỳ xuống. Trò gì thì mày biết ngay bây giờ đây”. Quân khốn kiếp ấy, nó to gan thật! Nó nhảy trên xe xuống và hai tay không xông vào lão… Lão để cho nó đến gần, còn khoảng cách từ đây đến cái bụi kia thì lão nổ súng bắn chết tươi…

- Thế ngộ đạn xịt?

Bác Argianốp mỉm cười:

- Chậc, thì nó sẽ cho lão đi theo ông cụ sang chăn ngựa ở thế giới bên kia.

- Chuyện rồi sao nữa?

- Nghe tiếng đạn nổ, đôi ngựa lồng lên chạy, còn lão thì không sao nhúc nhích được khỏi chỗ. Chân tay lão rụng rời, toàn thân run như tàu lá trước gió. Thằng Avêrian nằm ngay kia, nhưng lão không sao bước nổi một bước đến chỗ nó, nhắc chân lên là lại rơi thõng xuống, chực ngã. Hoảng đến thế đấy! Nhưng rồi cũng loay hoay trấn tĩnh lại được, bước tới nó, nhổ toẹt cho nó một bãi vào mặt và lục túi quần, túi áo nó. Lão móc cái túi tiền của nó ra. Trong túi có hai mươi tám rúp tiền giấy, một đồng năm rúp tiền vàng và hai ba rúp tiền lẻ. Chỗ còn lại trong số tiền nó mang đi chắc là nó đã vung hết vào việc sắm sửa cho con vợ nó… Cái túi rỗng lão quẳng bên đường, rồi nhảy xuống khe, chuồn thẳng! Chuyện lâu lắm rồi, nhưng lão nhớ rành mạch, cứ như mới xảy ra hôm qua. Súng và đạn lão chôn dưới khe. Ngay trận mưa tuyết đầu tiên, nửa đêm lão ra đào lên, mang về làng, đem giấu trong hốc cây liễu già bên nhà hàng xóm.

- Sao bác lại lấy tiền của hắn? - Đavưđốp hỏi, giọng gay gắt.

- Thì sao?

- Tôi hỏi bác, sao bác lại lấy tiền?

- Vì lão cần, - bác Argianốp đáp lại thản nhiên. - Hồi ấy cái đói hút sạch máu của mẹ con lão, quá chấy rận.

Đavưđốp nhảy xuống đi bộ theo xe, lẳng lặng hồi lâu. Bác Argianốp cũng lẳng lặng. Rồi Đavưđốp hỏi:

- Chuyện thế là hết à?

- Không, chú nó ạ, chưa hết. Các nhà chức trách đến điều tra, sục sạo, tìm bới… Rồi cũng tiu nghỉu về không. Ai dám ngờ là lão? Và ít lâu sau, thằng Xergây mắt chột, là em thằng Avêrian, đi đốn rừng về cảm lạnh, ốm rồi chết: nó bị sưng phổi. Thế là lão đâm lo: ngộ nhỡ cả thằng Aphanaxi nữa cũng lại chết bình thường như vậy nốt, thì bàn tay lão mà ông cụ đã trao phó cho nghĩa vụ rửa thù, sẽ thành vô dụng mất! Lão vội vàng…

- Khoan, - Đavưđốp ngắt lời bác. - Ông cụ chỉ dặn bác về thằng Avêrian, sao bác lại định làm cả ba?

- Cụ nói nhưng biết bụng cụ thế nào… Và cụ có ý của cụ, lão có ý của lão. Và thế là lão vội vàng tranh thủ… Lão đã bắn chết thằng Aphanaxi qua cửa sổ, khi nó đang ăn tối. Tối hôm ấy lão tựa lưng bậu cửa đo mình lần cuối cùng, rồi lấy giẻ lau sạch những vết đánh dấu. Còn súng đạn thì lão ném xuống sông; những của ấy lão chả cần làm gì nữa… Lão đã làm tròn ý nguyện cụ dối dăng. Không bao lâu sau, bà cụ ngắc ngoải. Một đêm bà gọi lão đến bên, hỏi: “Ivan, con giết chúng đấy hả?”. Lão nhận: “Con đấy, mẹ ạ”. Cụ chẳng nói chẳng rằng, chỉ nắm lấy bàn tay phải lão đặt lên ngực cụ…

Bác Argianốp giật nhẹ cương. Đôi ngựa bước rảo hơn, và bác đưa đôi mắt xám, sáng như mắt trẻ con, nhìn Đavưđốp hỏi:

- Bây giờ anh có còn căn vặn lão tại sao cứ cho ngựa đi thủng thỉnh nữa thôi?

- Rõ rồi, - Đavưđốp đáp. - Này, bác Ivan ơi, phải giao cho bác đánh xe bò chở nước mới phải, thực tế thế!

- Chuyện ấy lão đã năm lần bảy lượt đề nghị với Iakốp Lukits rồi, nhưng hắn không đồng ý. Hắn muốn hành lão cho đến cùng mà…

- Sao vậy?

- Hồi bé lão đã đến ở làm công cho nhà hắn một năm rưỡi.

- Ra thế!

- Thế đấy, chú nó ạ. Thế chú không biết lão Ôxtơrốpnốp suốt đời có người ở làm công trong nhà à? - bác Argianốp nheo nheo mắt một cách hóm hỉnh: - Có, chú nó ạ, có đấy… Cách đây bốn năm, bắt đầu bị bóp thuế, lão ta đã dẹp lại, thu mình như con rắn độc chuẩn bị vồ mồi, nhưng bây giờ thử không có nông trang và thuế má nhẹ đi xem, Iakốp Lukits sẽ ra tay ngay, anh cứ yên trí! Lão ấy là  một tên kulắc gian ác bậc nhất, và anh đã nuôi ong tay áo…

Đavưđốp im lặng hồi lâu, rồi nói:

- Chuyện ấy ta sẽ sửa, sẽ làm cho ra ngô ra khoai, nhưng này, bác Ivan, kể ra bác cũng có tí ngồ ngộ.

Bác Argianốp cười nụ, đôi mắt mơ màng nhìn ra xa xa:

- Ngồ ngộ hả, biết nói với anh thế nào… Có một cái cây anh đào cành lá tua tủa. Lão đến, bẻ một cành con làm cái roi, - cành anh đào làm roi thì nhất hạng, - cái cành xinh xinh ấy, nó cũng có tí ngồ ngộ: mắt này, lá này, dáng này. Thế rồi lão đem gọt nó đi, và bây giờ nó thế này… - lão rút cái roi dưới gầm ghế ra, giơ cho Đavưđốp xem cái tay roi mà nâu nâu vỏ ngoài khô đét. - Nó thế này đây! Nom không ra cái mã gì! Con người ta cũng vậy: không có tí ngồ ngộ thì con người cũng trơ trẽn, thảm hại như cái roi thôi. Đấy như Nagunốp thì học một cái thứ tiếng gỉ tiếng gì ấy chẳng phải tiếng ta - ngồ ngộ đấy; lão Kramxkốp hai chục năm nay cứ ky ca ky cóp vỏ diêm - cũng ngộ; chú thì tằng tịu với con Luska Nagunôva - cũng ngộ; anh chàng say rượu thất thểu ngoài đường, vấp dúi vấp dụi và cà lưng vào hàng rào - cũng ngộ nốt. Ông bạn thân mến ơi, ông chủ tịch, nếu bây giờ chú lại tước mất của con người ta cái ngồ ngộ ấy đi thì người ta nom sẽ trơ trẽn, vô duyên như cái roi này thôi.

Bác Argianốp chìa cái roi cho Đavưđốp và, vẫn cứ cười mơ màng, nói:

- Cầm thử nó một tí, và ngẫm nghĩ xem, đầu óc anh sẽ sáng sủa ra…

Đavưđốp cáu kỉnh gạt tay bác Argianốp đi:

- Quỷ tha ma bắt bác đi! Tôi cần gì phải có cái roi của bác mới biết đường ngẫm nghĩ và xử sự ở đời!

… Rồi, suốt dọc đường, cho đến tận lán của đội sản xuất, cả hai người đều nín thinh…

CHƯƠNG VI

Đội đang ăn trưa. Thợ cày và người dắt bò chen chúc nhau quanh chiếc bàn dài thô sơ. Họ ăn, thỉnh thoảng ném ra một câu pha trò tục tĩu và trao đổi nhận xét về chất lượng món cháo của chị nhà bếp.

- Suốt đời nhạt muối! Của tội của nợ chứ không phải nhà bếp!

- Nhạt thì cũng không chết. Thích ăn mặn thì cho thêm muối vào.

- Nhưng mình và thằng Vaxili ăn chung một bát, mình thích mặn, nó thích nhạt. Làm thế đếch nào bây giờ? Cậu tài thì cậu thử xem nào!

- Mai chúng tớ sẽ đan cho cái liếp ngăn đôi bát các cậu ra, có thể thôi mà. Cậu đần lắm! Chuyện đơn giản thế mà nghĩ không ra!

- Còn cậu thì khôn, khôn như con bò cày của cậu ấy, không hơn không kém.

Có lẽ họ còn châm chọc nhau, trả miếng nhau quanh bàn ăn còn lâu nếu như phía xa xa không thấp thoáng một chiếc xe ngựa. Anh thợ cày Prianhisnhikốp, người tinh mắt nhất đội, khum bàn tay che trán, khẽ huýt lên một tiếng:

- Lão cám hấp Ivan Argianốp đấy, và Đavưđốp đi cùng.

Cùi dìa lạch cạch hạ xuống bàn và con mắt mọi người sốt ruột chăm chú nhìn về phía cái xe vừa khuất đi chốc lát sau một cồn đất.

- Bỏ mẹ rồi! Anh chàng ấy đến để lại thúc đít chúng mình đây, - Agaphôn Đúpxốp cố nén bực mình, nói. - Cũng đáng đời cơ! Nhưng tớ thì xin đủ! Bây giờ đến lượt các đằng ấy è cổ ra mà đỡ, tớ è mãi chán rồi, tớ không còn mặt mũi nào mà nhìn anh ấy nữa!

Đavưđốp cảm thấy lòng xúc động khoan khoái khi thấy mọi người nhất tề đứng dậy chào anh. Anh bước rảo tới, và để đón anh, các bàn tay đã chìa ra, nhiều nụ cười đã rạng lên trên các khuôn mặt hơi hơi rám ửng của các bà các cô. Chị em phụ nữ này thì chẳng bao giờ bị sạm nắng thực sự: đi làm đồng họ trùm khăn vuông trắng kín đến nỗi chỉ còn hở một cái khe cho mắt nhìn. Đavưđốp chân bước, miệng mỉm cười mắt đảo nhìn các khuôn mặt quen thuộc. Đến bây giờ họ đã gắn bó với anh, thực sự vui mừng khi thấy anh đến, và đón anh như đón người nhà. Đavưđốp ý thức được ngay tất cả những điều đó và một niềm vui sâu sắc rung động tận đáy lòng anh, làm giọng anh cao lên, hơi khé:

- Kính chào những người lao động chậm tiến! Thế nào, có mời khách chén không đây?

- Khách đến ở lâu thì có chén, còn ghé thăm qua chốc lát thì chúng tôi xin miễn, chỉ cung kính tiễn chân thôi. Có đúng không, đội trưởng? - Prianhisnhikốp nói giữa tiếng cười ồ của mọi người.

Đavưđốp mỉm cười: - Chắc là tôi sẽ ở đây lâu đấy.

Đúpxốp cất giọng ồm ồm như lệnh vỡ:

- Quản lý đâu! Ghi cho anh ấy một khẩu phần chẵn bắt đầu từ hôm nay, còn chị, chị nuôi ơi, múc cháo cho anh ấy xơi kỳ đến vỡ bụng thì thôi!

Đavưđốp đi một vòng bàn ăn, bắt tay mọi người. Anh em thì như thường lệ, bắt tay anh thật chặt, còn chị em thì nhìn vào mắt anh, bẽn lẽn chìa ra cho anh bàn tay để úp: cánh đàn ông kô-dắc trong làng có bao giờ quan tâm quá tới họ như vậy đâu, và hầu như chả bao giờ lại tự hạ mình tới mức chào hỏi, bắt tay họ như những người bằng vai.

Đúpxốp kéo Đavưđốp ngồi xuống bên, đặt bàn tay nặng chịch và nóng hổi lên đầu gối anh:

- Anh Đavưđốp ạ, anh đến, anh em chúng tôi khoái lắm!

- Mình thấy. Cám ơn!

- Chỉ có điều là anh đừng vội quát tháo chúng tôi ngay…

- Nhưng mình có định quát tháo tí nào đâu.

- Không, anh nhịn quát sao nổi, không quát thì anh không sống được. Vả lại vài lời cứng rắn cũng là tốt đối  với chúng tôi. Nhưng anh cứ tà tà. Trời đánh cũng tránh bữa ăn.

Đavưđốp cười khanh khách:

- Đợi tí cũng được. Vài lời hảo tâm ấy ta cũng chả tránh được đâu, nhưng ngồi bên bàn ăn thì ta chưa nên khơi, ta sẽ cố nhịn, phải không, bà con?

- Nhất định là phải nhịn rồi! - Đúpxốp tuyên bố dứt khoát giữa tiếng cười ồ của mọi người, và làm gương, cầm thìa ăn tiếp.

Đavưđốp cặm cụi, lẳng lặng ăn, đầu vùi vào bát. Anh hầu như không để tai đến những tiếng nói cố hạ giọng của đám thợ cày, nhưng lúc nào cũng cảm giác có đôi mắt ai đó nhìn dán lên mặt mình. Ăn xong bát cháo, Đavưđốp thở dài khoan khoái: lâu nay đây là lần đầu tiên anh được một bữa thực sự no. Anh liếm thìa, như một đứa trẻ con, và ngẩng đầu lên. Phía bên kia bàn một đôi mắt màu xám đang đăm đăm nhìn anh không chớp, và trong đôi mắt ấy có biết bao nhiêu là tình yêu nồng cháy, thầm lặng, biết bao nhiêu chờ đợi, hy vọng và nhẫn nhục đến nỗi tự nhiên anh đâm hoang mang. Trước đây anh đã nhiều lần, trong các cuộc họp hoặc chỉ là ngẫu nhiên ngoài đường làng, gặp cô gái mười bảy tuổi, cao lớn, xinh đẹp và có hai bàn tay to ấy, và lần nào cô ta cũng đã bối rối mỉm cười  nhìn anh âu yếm, và vẻ ngượng nghịu hiện rõ trên gương mặt bỗng đỏ ửng của cô. Nhưng lần này trong cái nhìn của cô có cái gì khang khác, chín muồi hơn, và không phải chuyện đùa…

Đavưđốp lơ đãng nhìn gương mặt ửng đỏ của cô gái, nghĩ bụng - “Ngọn gió nào đã đưa em đến với tôi, hả cô em bé nhỏ? Tôi cần gì em? Và em cũng cần gì tôi? Thiếu gì những chàng trai trẻ đang lượn quanh em, nhưng em thì lại để mắt đến tôi, cô em khờ dại! Tôi gấp đôi tuổi em, bị thương, xấu trai, răng sứt, những cái ấy em lại chẳng nhìn thấy… Không, tôi chẳng cần đến em đâu, hỡi Varia hẩm hiu! Em cứ ăn no chóng lớn không có tôi là hơn!”.

Bắt gặp cái nhìn của Đavưđốp, cô khẽ quay đi, mắt nhìn xuống, Hai hàng mi cô chớp chớp và những ngón tay thô chai ráp của cô vuốt lại nếp chiếc chiếc áo cánh tàng tàng nhem nhuốc cứ run lẩy bẩy trông rõ. Có biết bao nhiêu ngây thơ vụng dại trong sự bất lực của cô không che đậy nổi nó, đến nỗi chỉ có ai mù mới không thấy.

Kônđrát Maiđanhikốp quay sang Đavưđốp, cười phá lên:

- Anh đừng nhìn con bé Varia nữa, kẻo có bao nhiêu máu nó bốc lên mặt hết bây giờ! Này, mày ơi, đi rửa mặt đi, may ra dập tắt được lửa đấy. Nhưng chả hiểu nó có còn bước nổi nữa không nhỉ? Chân tay rụng rời hết rồi còn gì… Nó dắt bò cho tôi đấy anh ạ, và cứ vừa đi vừa luôn mồm hỏi tôi bao giờ anh Đavưđốp đến. “Bao giờ anh ấy đến thì tao biết đâu đấy, hỏi mãi điếc tai”, - tôi bảo nó thế, nhưng nó cứ căn vặn tôi miết, gõ tôi suốt từ sáng đến tối như con chim gõ kiến gõ cành khô vậy.

Như để chứng tỏ rằng chân mình chưa rụng rời, Varia Kharlamôva quay ngang người, khẽ nhún chân nhảy tót một cái qua tấm ghế dài mình đang ngồi, chạy ra chỗ chiếc xe lều, mắt hầm hầm nhìn Maiđanhikốp và miệng tái nhợt lẩm bẩm điều gì. Tới đó cô ta mới dừng lại, quay về chỗ mọi người đang ngồi, nghẹn ngào kêu lên:

- Chú, chú Kônđrát… chú độc nói điêu!

Mọi người cười ồ đáp lại.

Đúpxốp vừa cười vừa nói: - Nó chạy ra xa mới cãi. Đứng xa mà cãi thì dễ mà.

- Cậu cứ trêu cô ấy thế làm gì? Chả nên! - Đavưđốp không hài lòng, nói.

- Anh chưa biết nó đấy thôi, - Maiđanhikốp lấy giọng bề trên, đáp lại. - Có anh nó mới tử tế thế, không có anh thì nó móc mắt người ta ngay, chả tha ai đâu. Mồm mép nanh nọc ra phết đấy! Gái đâu mà như con gà chọi! Anh thấy nó nhảy tót một cái đấy không? Như con dê rừng!...

Không, cái mối tình quê mùa trinh bạch kia mà cả đội ai ai cũng đã biết từ lâu, còn anh thì chỉ đến hôm nay mới được rõ lần đầu, nó chẳng mơn trớn được lòng tự ái của anh đàn ông trong Đavưđốp. Chao ôi, giá mà một đôi mắt khác cũng nhìn anh, dù chỉ một lần thôi, với một sự say đắm và trung thành không bờ bến như thế kia nhỉ!...

Để cắt đứt câu chuyện đã trở thành khó chịu, Đavưđốp nói đùa:

- Thôi, cảm ơn chị nuôi và cám ơn cái cùi dìa của tôi! Cả hai đã cho tôi một bữa căng bụng.

- Này, anh chủ tịch ơi, anh hãy cảm ơn cái miệng rộng hoác và cái bàn tay phải của anh nó đã tích cực hoạt động ấy, chứ cám ơn gì chị nuôi với cái cùi dìa. Ăn thêm tí nhá? - Chị nuôi, một bà đồ sộ, to béo ít thấy, vừa đứng lên vừa hỏi.

Đavưđốp nhìn, vẻ kinh ngạc ra mặt,cái thân hình phốp pháp, đôi vai bè bè và bộ ngực người ôm không xuể của bà ta, và hỏi nhỏ Đúpxốp: - Kiếm đâu ra cái của hiếm thế này hả?

- Đúc theo đơn đặt hàng đặc biệt của chúng tôi tại nhà máy luyện thép Taganrốc đấy, - kế toán viên, một cậu thanh niên mồm mép suồng sã, nói.

- Quái, sao trước đây con chưa thấy mẹ lần nào nhỉ? - Đavưđốp vẫn chưa hết sửng sốt. - Mẹ ơi, tầm cỡ mẹ như thế mà con lại không trông thấy là thế nào?

Bà cấp dưỡng phì cười:

- Mẹ con cái gì! Tôi mới bốn bảy, đâu dám làm mẹ anh? Anh không thấy tôi là vì mùa đông tôi không ló mặt ra khỏi cửa mà. To béo và chân ngắn cũn như tôi thì không đi trên tuyết được, dễ mắc kẹt lắm. Mùa đông tôi ngồi lỳ nhà, kéo sợi, đan khăn vuông, lần hồi qua ngày. Tuyết tan bùn lầy tôi cũng chẳng lội được: tôi như con lạc đà, hãi trơn ngã dập mặt. Trời khô ráo tôi mới đi làm cấp dưỡng. Và đồng chí chủ tịch ạ, tôi chẳng mẹ con gì với anh đâu! Nếu anh muốn sống hoà bình với tôi thì hãy gọi tôi là chị Đaria Kuprianốpna, và như thế, xuống đội, anh sẽ không bao giờ đói.

- Thưa bà chị Đaria Kuprianốpna, tôi xin hoàn toàn đồng ý sống hoà bình với chị, - Đavưđốp mỉm cười nói và đứng dậy cúi chào với vẻ hết sức nghiêm trang.

- Thế thì càng hay, hay cho anh và hay cả cho tôi. Bây giờ anh đưa bát đây, tôi múc cho anh ít sữa chua tráng miệng, - bà cấp dưỡng nói, rất hài lòng trước thái độ lịch sự của Đavưđốp.

Bà mạnh tay múc vào bát cả một kilô sữa chua đã gạn kem, trao cho Đavưđốp kèm theo một cái chào cúi rạp.

- Nhưng sao chị lại đi làm cấp dưỡng mà không ra đồng hả? - Đavưđốp hỏi. - Nặng cân như chị, chị chỉ cần ấn nhẹ một cái là lưỡi cày sẽ phập sâu xuống đất nửa mét, thực tế thế!

- Số là tôi bị đau tim! Các bác sĩ bảo là tim tôi nặng mỡ, hoạt động kém. Làm cấp dưỡng cũng thấy vất vả rồi, cứ động loay hoay với đống bát đĩa là tim tôi đã thót lên đến tận cổ rồi. Không đâu, đồng chí Đavưđốp ạ, đi cày thì tôi chịu thôi. Cái trò ấy tôi xin vái.

- Lúc nào cũng kêu tim phổi, thế mà đã chôn ba đời chồng rồi đấy. Ba ông kô-dắc, và bây giờ đang tìm một ông thứ tư, nhưng chả ông nào dám xung phong. Bà chị ấy mà quần cho thì cứ nát xương! - Đúpxốp nói.

Bà cấp dưỡng phát khùng lên thật sự, quát:

- Cái thằng mặt rỗ điêu xoen xoét kia! Tội tình gì tao nếu ba chàng kô-dắc ấy chả anh nào ra hồn người, toàn giống hom hem, ốm dở cả? Chúa không cho họ sống mãn kiếp, tội lại đổ lên đầu tao à?

Đúpxốp vẫn không chịu thua: - Thì bà chị cũng giúp cho các ông anh ấy mau mau chóng chóng xuống lỗ.

- Tao giúp thế nào?

- Thế nào thì đã rõ…

- Rõ thì nói ra xem!

- Đối với tôi thì hai năm rõ mười rồi…

- Không, rõ thì phải nói ra, đừng có khua môi múa mép hão thế!

- Giúp thế nào thì rõ rồi chứ còn gì: chị yêu các ông anh tôi quá, - Đúpxốp vừa cười vừa dè dặt nói.

- Cái thằng ngu lòi ruột lòi gan kia! - bà cấp dưỡng quát lên, át cả tiếng cười ầm ầm của mọi người, và vơ một ôm hết nửa số bát trên bàn.

Nhưng không dễ gì quật ngã anh chàng Đúpxốp mặt lạnh như tiền kia. Anh vẫn từ tốn chén nốt bát sữa chua, đưa lòng bàn tay lên quệt ria mép, rồi nói:

- Có thể là tôi ngu, có thể là tôi lòi ruột lòi gan, nhưng bà chị tôi ơi, những cái trò ấy thì tôi hiểu tỏng tòng tong.

Thế là bà cấp dưỡng tương cho Đúpxốp một câu đến nỗi mọi người cười rộ lên như phá rạp. Đavưđốp đỏ mặt tía tai vì cười và ngượng nói không ra hơi:

- Thế là thế nào nhỉ, anh em? Mình đã từng đi lính thuỷ, thế mà cũng chưa hề nghe thấy cái tiếng ấy bao giờ!...

Nhưng Đúpxốp vẫn giữ vẻ hoàn toàn nghiêm trang, gào lên giọng cố làm ra vẻ bị kích động:

- Tôi xin thề trước Thánh kinh! Xin hôn Thánh giá! Nhưng bà chị Đaria ơi, tôi xin cứ là vẫn giữ ý kiến: chị đã yêu ba ông anh tôi quá nên đã đưa họ sang thế giới bên kia mà! Ba vị, đâu có phải chuyện bỡn… Và Vlađimia Grátsép năm ngoái sao bỗng dưng ông ta lại chết? Ông ta đi lại với chị…

Đúpxốp chưa nói dứt câu đã vội cúp gập xuống: một chiếc môi gỗ nặng bay vèo qua đầu anh như một mảnh đạn trái phá. Đúpxốp vắt cẳng nhảy tót qua tấm ghế dài, lanh lẹn như một chú thiếu niên. Aanh đã chạy ra xa bàn mười thước thì bỗng nhảy cẫng sang bên, quay ngoắt lại, vừa kịp tránh cái bát sắt bay vù qua, bắn tung toé sữa chua rồi vẽ thành một đường cong, rơi xa xa ra đồng. Đúpxốp đứng giạng háng, giơ nắm đấm lên doạ, quát:

- Ê này, bình tĩnh nào, chị Đaria! Muốn ném cái chết tiệt gì thì ném, cấm ném bát đĩa! Vỡ thì lạy Chúa, sẽ bắt đền trừ vào công điểm đấy! Bắt chước con Varia ra nấp sau cái xe kia kìa, đứng đấy mà thanh minh thì dễ hơn!... Còn tôi, tôi vẫn giữ nguyên xi ý kiến: chị giết mấy ông chồng chị, bây giờ chị lại trút giận lên đầu tôi…

Đavưđốp vất vả mới lập lại được trật tự. Họ ngồi xuống hút thuốc cách chòi canh một quãng và Kônđrát Maiđanhikốp cười sặc sụa nói:

- Ngày nào cũng thế, bữa trưa hoặc bữa tối, cũng xảy ra cái trò ấy. Cậu Agaphôn bị sưng vêu má tím bầm mất một tuần, mụ Đaria cho cậu ấy xơi một quả tống mà, thế mà vẫn không chừa trêu mụ ấy. Này, Agaphôn ạ, cậu không qua được vụ cày này lành lặn mà trở về đâu, mụ ấy chẳng đánh lòi con ngươi cậu ra thì cũng vặn gãy cẳng cậu, lúc ấy sẽ hết trêu…

- Đàn bà gì mà cứ như cái máy kéo Phoxơn! - Đúpxốp vừa nói bằng một giọng thán phục vừa liếc trộm chị cấp dưỡng đang diễu qua gần đó.

Rồi làm ra vẻ không trông thấy chị ta, anh ta nói to hơn:

- Này, anh em ạ, chả xấu gì mà phải dấu, mình mà chưa vợ thì mình lấy em Đaria ngay. Nhưng chỉ lấy trong một tuần thôi, rồi đánh bài chuồn. Khoẻ như mình đây thì quá một tuần mình cũng chẳng chịu nổi. Mà chết thì lúc này mình chưa muốn. Tội gì mà chết uổng nhỉ? Đánh nhau suốt một cuộc nội chiến không sao, để bây giờ chết vì gái… Không chơi, mình ngu lòi ruột lòi gan thật đấy, nhưng vẫn còn khôn chán! Mình sẽ cầm cự với em Đaria một tuần, đến ngày thứ tám, nửa đêm mình sẽ lẳng lặng tụt trên giường xuống, bò ra cửa, rồi phi nước đại về tận nhà… Anh tin tôi, anh Đavưđốp ạ, có Chúa chứng giám, tôi không nói điêu đâu, và có cậu Prianhisnhikốp đây thì tôi nói điêu sao được: một lần, tôi và cậu ấy đã đánh cuộc với nhau một bữa chén ôm thử em Đaria xem. Hắn ôm đằng trước, tôi ôm đằng sau, nắm lấy tay nhau, nhưng không sao ôm nổi, em ấy đô quá thể! Chúng tôi réo cậu kế toán, cậu ấy non tuổi lại thêm cái non gan, sợ, cóc dám đến gần em Đaria. Thành thử đến mãn kiếp em ấy cũng sẽ không bao giờ được biết mùi cái ôm thực sự ra ôm…

- Đồng chí Đavưđốp ạ, đừng nghe mồm cái thằng trời đánh thánh vật ấy, - chị cấp dưỡng đã hết cơn thịnh nộ, vừa cười vừa nói. - Một ngày mà nó không nói lảm nhảm thì nó sẽ buồn chết trương chết rũ ra ngay. Trời sinh ra nó mồm cứ như cái trôn trẻ!

Chầu thuốc xong, Đavưđốp hỏi:

- Còn phải cày bao nhiêu nữa?

- Cày đến tết! - Đúpxốp miễn cưỡng đáp. - Hơn trăm rưởi hécta. Một trăn năm mươi tám, tính đến hết ngày hôm qua.

- Làm ăn giỏi đấy, thực tế thế! - Đavưđốp lạnh lùng nói. - Thế suốt ngày các anh làm gì? Mần tuồng với bà cấp dưỡng phải không?

- Anh nói quá.

- Đội một và đội ba xong từ đời nào rồi mà sao các anh vẫn cứ dây dưa lề mề thế ?

Đúpxốp đề nghị:

- Anh Đavưđốp ạ, để tối nay ta họp toàn thể bàn bạc thoải mái, còn bây giờ đi làm đã.

Đó là một đề nghị hợp lý và Đavưđốp ngẫm nghĩ một tí rồi đồng ý.

- Các anh để tôi bò nào?

- Lấy bò tôi mà cày, - Kônđrát Maiđanhikốp khuyên. - Bò tôi quen việc và khoẻ. Có hai cặp bò non thì hiện nay chúng tôi đang cho nghỉ.

Đavưđốp ngạc nhiên: - Sao lại nghỉ?

Đúpxốp mỉm cười giải thích:

- Chúng nó yếu quá, cứ gục giữa luống. Chúng tôi đã cho tháo ra, thả ở bãi cỏ bên bờ đầm. Cỏ ở đấy tốt, bổ, cho chúng nó ăn lại sức, đằng nào thì lúc này chúng nó cũng chằng được cái việc quái gì. Qua mùa đông, chúng nó đã gày tọp đi, và bây giờ ngày nào cũng cày, chúng nó cũng ớn, cóc kéo nữa, thế là chịu đấy! Chúng tôi đã thử ghép đôi một với bò già, nhưng mả mẹ nó, không đi đến đâu. Kônđrát nói phải đấy, anh cứ lấy bò cậu ấy mà cày.

- Thế thì cậu ấy làm gì?

- Tôi cho cậu ấy về nhà, nghỉ hai ngày. Chị ấy ốm, nằm liệt giường, chị ấy cũng chẳng đưa bác Ivan Argianốp quần áo cho cậu ấy nữa và nhắn gọi cậu ấy về.

- Thế thì được. Mình lại cứ tưởng ông định cho cậu ấy thả cỏ nốt. Mình thấy ở đây đang có phong trào thả cỏ…

Đúpxốp đưa mắt ra hiệu cho mọi người, không để Đavưđốp thấy. Tất cả đứng dậy, lục tục ra lắp bò.

CHƯƠNG VII

Mặt trời lặn thì Đavưđốp cày đến cuối ruộng. Anh tháo bò ra, ngồi xuống vệ cỏ bên luống, đưa cánh tay áo véttông lên quệt mồ hôi trán, cuốn điếu thuốc lá bằng mấy đầu ngón tay run run, và đến lúc ấy anh mới thấy thấm mệt. Lưng anh đau như dần, mấy đường gân dưới đầu gối cứ giần giật, tay run lẩy bẩy như ông lão.

Anh hỏi Varia: - Sớm mai liệu ta có tìm thấy lại bò không?

Cô đứng đối diện anh, trên thửa ruộng cày. Hai bàn chân bé nhỏ đi đôi giày to tướng tã mướp của cô lún tới mắt cá xuống lớp đất bở tơi vừa cày lật lên. Tháo tấm khăn vuông đầy bụi trùm mặt xuống, cô nói:

- Thấy chứ, đêm nó không đi xa đâu.

Đavưđốp rít lấy rít để điếu thuốc, hai mắt nhắm lại. Anh không muốn nhìn cô gái. Còn cô thì khuôn mặt rạng rỡ một nụ cười sung sướng và mệt mỏi, nói nhỏ:

- Anh quần cho cả em, cả bò mệt nhoài. Anh nghỉ thưa quãng quá.

- Tôi đây cũng mệt muốn chết, - Đavưđốp đáp, mặt khó đăm đăm.

- Phải cho nghỉ mau hơn. Chú Kônđrát nghỉ có vẻ nhiều hơn, cho bò thở, thế nhưng bao giờ cũng cày được nhiều hơn anh em khác. Anh chưa quen cho nên mệt đấy…

Cô suýt thêm: “anh thương yêu”, và hoảng quá mím chặt môi lại.

Đavưđốp đồng ý: - Đúng đấy, tôi chưa quen.

Anh ậm ạch cất mình đứng dậy, ậm ạch nhấc đôi cẳng mỏi nhừ bước dọc luống trở về lán. Varia bước theo sau, rồi tiến lên, đi sánh ngang với anh. Tay trái Đavưđốp túm lấy chiếc áo mayô lính thuỷ bạc phếch rách tan. Ngay lúc còn sáng, sửa lại cày, anh đã cúi xuống, móc cổ áo phải tay cày, rồi ngẩng phắt dậy, làm cho cái áo rách toạc làm đôi. Trời nóng, anh chẳng cần quái gì đến áo, nhưng cởi trần trùng trục đi theo cày trước mặt một người con gái là một việc anh không có gan làm. Anh ngượng nghịu khép hai vạt áo lính thuỷ lại, hỏi Varia có chiếc ghim băng nào không. Cô đáp: tiếc là không có. Đavưđốp ngán ngẩm nhìn về phía lán. Từ đây đến đấy ít ra phải hai cây số. “Hai cây cũng phải đi”, - Đavưđốp nghĩ bụng, thở dài đánh sượt một cái, văng thầm một câu, rồi nói:

- Này, cô Varia hẩm hiu này, đợi tôi tí, tôi chạy về lán một cái.

- Về làm gì thế?

- Lấy cái véttông, thay cái tã rách này.

- Mặc véttông trời này thì nóng chết.

- Nóng cũng đi, - Đavưđốp cứ  một mực.

Mẹ kiếp, dẫu sao thì anh cũng không thể chơi cái mốt đánh trần trùng trục được! Còn gì là đời nếu cái con bé ngây thơ và đáng yêu này trông thấy trên ngực anh, trên da bụng anh có những hình vẽ gì. Thực ra những hình xăm trên hai thớ thịt nổi gồ của bộ ngực nở nang của Đavưđốp cũng vô thưởng vô phạt thôi, có đôi chút tình tứ nữa là khác: một đôi chim bồ câu do bàn tay của một nhà hoạ sỹ lính thuỷ phác ra một cách rất khéo; nhất cử nhất động của Đavưđốp đều làm cho đôi bồ câu xanh như vỗ vỗ cánh và khi anh nhún vai một cái là chúng chạm mỏ vào nhau, như hôn yêu nhau. Có thế thôi mà. Nhưng trên bụng anh… Cái hình này đã từ lâu gây biết bao nhiêu đau khổ về tinh thần cho Đavưđốp. Hồi nội chiến, anh chàng lính thuỷ hai mươi tuổi Đavưđốp có một lần say rượu gần chết. Về tới phòng thuỷ thủ tàu phóng lôi của anh, anh em lại đổ cho anh thêm một cốc rượu mạnh nữa. Và trong khi anh nằm bất tỉnh nhân sự trên cái giường tầng dưới, mình mặc độc chiếc quần đùi, thì hai anh bạn say rượu, thuỷ thủ của tàu vớt mìn đậu cạnh đó - hai bậc thầy trong nghề trổ xăm - đã cặm cụi trên thân thể anh, thả sức tung hoành cho cái trí tưởng tượng chuếnh choáng hơi men của họ, tương ra toàn những hình vẽ nhảm nhí. Từ đó Đavưđốp thôi không dám tắm ở những nơi công cộng nữa và khi đi khám sức khoẻ cứ nằng nặc đòi được bác sỹ nam khám.

Năm đầu tiên vào làm ở nhà máy ngay sau khi giải ngũ, một lần Đavưđốp đánh bạo vào một phòng tắm hơi nước tập thể. Hai tay ôm bụng che, anh tìm đến chỗ một thùng nước không có người đứng tắm. Anh vừa mới xát xà phòng đầy đầu thì nghe thấy ở đâu đây bên cạnh mình, thâm thấp phía dưới, một tiếng cười khúc khích. Đavưđốp khoả mặt cho đi hết xà phòng, mở mắt nhìn: một anh chàng nào chẳng biết, đã đứng tuổi, một ông công dân đầu hói, đang lom khom chống tay xuống cái bậc, trắng trợn nhìn chòng chọc xem cái hình xăm trên bụng Đavưđốp và khoái trá cười rinh rích. Đavưđốp cứ thủng thẳng đổ nước đi, rồi cầm cái chậu gỗ sồi nặng chịch giáng xuống cái đầu hói của ông đồng bào có tính tò mò quá quắt kia, làm cho ông ta không kịp xem hết hình vẽ, nhắm mắt lại mà lẳng lặng lăn kềnh ra giữa sàn. Đavưđốp tắm nốt cho xong, rồi trút lên ông đầu hói kia một chậu nước lạnh như nước đá và khi thấy ông ta bắt đầu chớp chớp mắt, anh mới bỏ đi ra phòng thay quần áo. Từ đó Đavưđốp dứt khoát chào vĩnh biệt cái thú tắm hơi nước chính cống kiểu Nga trong nhà tắm công cộng, và chỉ tắm ở nhà.

Chỉ cần thoáng nghĩ đến chuyện Varia có thể trông thấy, dù chỉ là liếc mắt một cái, những hình vẽ lăng nhăng trên bụng mình, Đavưđốp đã thấy phát sốt phát rét lên và vội khép chặt hơn nữa hai tà áo cứ phanh ra của anh.

- Cô tháo bò ra, thả cho chúng đi ăn cỏ, tôi đi đây, - anh thở dài nói. Anh chẳng thú vị tí nào trước cái viễn cảnh phải đi vòng thúng cánh đồng hoặc ba cây số bước thấp bước cao đi tắt ruộng cày và tất cả tội vạ ấy chỉ là do một sự ngẫu nhiên vớ vẩn.

Nhưng Varia lại đánh giá sự bối rối của Đavưđốp theo ý mình. “Anh của em ơi, đi làm với em không mặc áo thì anh xấu hổ chứ gì!” - cô khẳng định như vậy và, trong bụng thầm biết ơn Đavưđốp tế nhị, chiếu cố tính con gái cả thẹn, cô dứt khoát tụt giày ra.

- Em đi nhanh hơn anh!

Đavưđốp chưa kịp mở miệng nói lên một tiếng thì cô đã như một con chim bay vù về lán. Trên ruộng cày đất đen thấp thoáng ánh sâm sẫm đôi cẳng chân thoăn thoắt của cô, và ngọn gió tạt lại thổi phần phật sau lưng cô cái đuôi khăn vuông trắng. Cô chạy, người hơi ngả về đằng trước, hai tay nắm lại giữ chặt lấy bộ ngực rắn chắc, đầu cô độc một ý nghĩ: “Mình chạy lấy áo về cho anh ấy… Mình sẽ đi nhanh, về nhanh, được việc cho anh ấy, rồi anh ấy sẽ nhìn mình âu yếm, dù chỉ là một lần thôi trong suốt cái thời gian này, và biết đâu anh ấy sẽ chẳng bảo: cám ơn Varia!”.

Đavưđốp nhìn theo cô một lúc lâu, rồi tháo bò, bước ra khỏi ruộng cày. Cách đấy một quãng anh tìm thấy một đám bìm bìm lứa năm ngoái rối nhằng nhịt, bẻ một cành, tuốt sạch lá đi, thắt chặt hai vạt áo mayô rách lại. Anh ngả lưng nằm và thiếp đi luôn, như chìm đắm vào một cái gì đen đen, mềm mềm, thơm mùi đất…

Anh tỉnh dậy vì có một cái gì bò bò trên trán, chắc hẳn một con nhện, hoặc một con sâu gì đó. Anh cau lại, đưa tay lên xoa mặt, rồi lại thiếp đi, và rồi lại có cái gì trườn trên má, bò lên môi, cù cù lỗ mũi anh. Đavưđốp hắt xì một cái, mở mắt. Trước mắt anh là cô Varia ngồi xổm, toàn thân rung lên một cơn cười nén không nổi. Cô đang cầm một ngọn cỏ khô đưa đi đưa lại trên mặt Đavưđốp, và không kịp rụt tay lại khi anh mở mắt. Anh nắm lấy cổ tay mảnh dẻ của cô. Cô cũng chẳng gỡ tay ra, chỉ quỳ một gối xuống, và gương mặt đang cười của cô bỗng chốc chuyển sang một vẻ ngoan ngoãn và đợi chờ pha chút lo sợ.

- Em mang áo cho anh đây, dậy đi, - cô thì thào như một hơi thở, khẽ gỡ tay ra một cách yếu đuối.

Đavưđốp buông ra. Bàn tay to và rám nắng của Varia buông xuống đầu gối cô. Cô nhắm mắt lại, nghe thấy tim mình đập thình thình, rộn rã. Cô vẫn chờ đợi một cái gì, hy vọng một cái gì… Nhưng Đavưđốp cứ nín thinh. Ngực anh thở đều đều, bình thản, và không một thớ thịt nào trên mặt anh rung rung. Rồi anh nhỏm dậy, ngồi ngay ngắn, chân phải gập lại, lừng khừng thò tay vào túi sờ tìm túi thuốc lá. Bây giờ thì hai mái đầu họ gần như chạm nhau. Đavưđốp mấp máy cánh mũi, bắt được mùi hương thoang thoảng, hơi nồng của mái tóc cô. Và toàn thân cô ngát mùi hương nắng ban trưa, ngát mùi cỏ xém ánh mặt trời, ngát mùi hương tuổi trẻ chỉ có một lần trong một cuộc đời và chưa ai dùng được lời lẽ nào tả nổi…

- “Con bé sao mà dễ thương!” - Đavưđốp thoáng nghĩ bụng và thở dài. Hai người gần như đồng thời đứng dậy, bốn mắt lẳng lặng nhìn nhau giây lát. Rồi Đavưđốp cầm lấy chiếc áo véttông từ tay cô, và mắt anh mỉm cười dịu dàng:

- Cám ơn Varia!

Anh nói đúng thế đấy: “Varia”, chứ không phải “Varia hẩm hiu”. Thế là rốt cuộc đã diễn ra đúng cái điều cô mơ ước khi chạy đi lấy áo. Vậy thì tại sao trong đôi mắt xám kia lại rưng rưng hai giọt nước mắt, và hàng mi đen và dày kia lại khẽ rung rung, cố chặn chúng lại? Sao cô lại khóc, hỡi cô gái dễ thương? Cô đang khóc không thành tiếng, đầu cúi gục xuống, với cái vẻ tuyệt vọng thầm lặng của một đứa con nít. Nhưng Đavưđốp chẳng nhìn thấy gì hết: anh cứ chăm chú cuốn điếu thuốc, cố sao cho không một sợi nào rơi vãi. Thuốc điếu anh đã hết, thuốc sợi sắp cạn, và anh tiết kiệm, cuốn điếu thuốc nho nhỏ thôi, cuốn cẩn thận, sao cho vừa đủ rít năm sáu hơi.

Cô đứng lặng một lát, cố hết sức trấn tĩnh lại. Nhưng cô không làm sao tự chủ được và quay ngoắt gót, đi ra chỗ đôi bò, chân bước miệng thốt:

- Em đi gọi bò.

Ấy thế nhưng cả lần này nữa Đavưđốp cũng chẳng nhận thấy cái vẻ xúc động đau đớn trong giọng nói run run của cô. Anh lẳng lặng gật đầu, châm thuốc hút, đầu óc tập trung vào chuyện đội này bằng độc lực mình cần phải mất bao nhiêu ngày nữa mới cày xong toàn bộ diện tích vụ tháng Năm, và liệu có nên điều sang đây vài chiếc cày của đội ba là đội mạnh hơn không?

Khuất mắt Đavưđốp rồi thì có thể khóc tự nhiên. Và Varia khóc thoải  mái, vừa đi vừa lấy đuôi khăn vuông lau những giọt nước mắt lăn lã chã trên đôi má rám nắng…

Mối tình đầu trong trắng, mối tình gái tơ của cô đã vấp phải sự thờ ơ của Đavưđốp. Thêm nữa, Đavưđốp lại là người mù đặc trong chuyện yêu đương; có nhiều điều không lọt tới được ý thức anh, hoặc nếu có lọt thì cũng đã quá muộn, và đôi khi cái muộn ấy không thể cứu vãn được…

Đứng mắc ách bò, anh trông thấy má Varia có những ngấn xam xám, vết tích của những giọt nước mắt trào ra lúc nãy mà anh không trông thấy. Anh hỏi, giọng có ý chê trách:

- Ề, Varia hẩm hiu! Có vẻ như hôm nay cô không rửa mặt hả?

- Sao lại có vẻ thế?

- Mặt nhem nhuốc thế kia kìa. Sáng nào dậy cũng phải rửa mặt tử tế chứ! - Anh nói bằng giọng lên lớp.

… Mặt trời đã lặn mà họ vẫn còn mệt mỏi bước đi trên đường về lán. Hoàng hôn trùm bóng lên thảo nguyên. Thung lũng cỏ gai chìm trong sương chiều. Đằng tây, những đám mây xanh thẫm, gần như đen, dần dần đổi sắc: đầu tiên là chân mây ngả sang màu lựu, rồi một ráng đỏ máu thấm xuyên qua mây trườn mạnh lên ngọn và khoanh lên nền trời một cánh cung lửa. “Anh ấy chẳng đời nào yêu mình…” - Varia buồn rầu nghĩ bụng, đôi môi mòng mọng mím chặt lại đau đớn. “Mai sẽ có gió to, chỉ một ngày là đất khô, bò kéo sẽ vất vả đây”, - Đavưđốp nhìn ráng chiều đỏ rực nghĩ bụng, không lấy gì làm thú vị.

Dọc đường Varia cứ bứt rứt, muốn nói điều gì, nhưng có một sức mạnh nào đã ghìm cô lại. Khi chẳng còn mấy bước nữa thì tới lán, cô mới quả quyết nói:

- Đưa em cái áo mayô lính thuỷ của anh, - cô nói nhỏ. Và sợ anh từ chối, cô tiếp thêm, như van vỉ: - Đưa cho em đi!

Đavưđốp ngạc nhiên:

- Đưa làm gì?

- Em vá cho, em vá khéo lắm, anh sẽ không thấy vết vá đâu. Rồi em giặt.

Đavưđốp cười xoà:

- Nó mặc mãi thấm mồ hôi bở bùng bục cả rồi còn gì. Vá được chỗ nọ lại toạc chỗ kia. Thôi mà, em Varia hẩm hiu ạ, cái áo ấy đã hết hạn sử dụng rồi, cho bà Đaria Kuprianốpna lau sàn thôi.

- Cứ đưa em. Em vá thử, rồi anh xem, - Varia cứ nằng nặc.

- Tuỳ cô, nhưng cô sẽ mất công toi thôi, - Đavưđốp đồng ý.

Cô mà vác cái áo kẻ sọc của Đavưđốp lù lù về lán thì thật chả tiện tí nào: sẽ lắm chuyện và sẽ nhao nhao lên những câu châm chọc… Cô đưa mắt lấm lét nhìn Đavưđốp rồi nghiêng vai che che, đút luôn cái áo vo tròn thành một cục âm ấm vào sau yếm.

Một cảm giác lạ lùng, mới mẻ và bồi hồi dâng lên trong cô từ lúc chiếc áo lót mình đầy bụi của Đavưđốp nằm ép trên da ngực cô: cứ như thể tất cả cái hơi ấm nóng hổi của một thân thể đàn ông cường tráng đang thấm vào người cô, đầy ăm ắp… Môi cô bỗng se lại, trên cái trán thấp trắng trẻo của cô hiện ra những giọt mồ hôi lấm tấm, và đến cả dáng đi của cô nữa bỗng cũng có vẻ như ngập ngừng, chập chững.

Nhưng Đavưđốp chẳng để ý gì, chẳng trông thấy gì cả. Chỉ một phút sau anh đã quên khuấy đi là anh vừa dúi vào tay cô cái áo mayô lính thuỷ bẩn thỉu của anh. Anh quay sang cô, kêu thốt lên:

- Nom kìa, Varia, anh em hoan hô thắng lợi kìa! Đấy, cậu chấm công đang vẫy mũ đón chúng ta đấy. Hôm nay hai chúng mình đã làm ra làm, thực tế thế!

* * *

Ăn chiều xong, đám nam giới nhóm một đống lửa trại gần chiếc xe lều, và ngồi hút thuốc.

- Nào, bây giờ ta nói chuyện thẳng thắn: tại sao các anh làm xoàng thế? Tại sao việc cày bừa lề mề như vậy? - Đavưđốp hỏi.

- Các đội khác nhiều bò hơn chúng tôi, - Bexkhlépnốp con đáp.

- Nhiều hơn bao nhiêu?

- Anh không biết à? Đội ba nhiều hơn tám đôi, muốn xoay vần thế nào thì cũng cứ là bốn lưỡi cày! Đội một hơn hai cày, thế nghĩa là họ lợi thế hơn chúng tôi.

- Chỉ tiêu của chúng tôi lại nặng hơn, - Prianhisnhikốp bổ sung thêm.

Đavưđốp cười khẩy:

- Nặng hơn nhiều lắm hả?

- Dù chỉ là ba chục hécta thôi thì cũng vẫn cứ là nặng hơn. Chỗ ấy cũng không thể lấy sống mũi mà dũi được.

- Chỉ tiêu ấy hồi tháng Ba các anh đã biểu quyết rồi phải không? Bây giờ còn than thở nỗi cái gì nữa? Chỉ tiêu là xuất phát từ số diện tích từng đội, có phải thế không nào?

Đúpxốp điềm tĩnh nói:

- Nào ai than thở gì đâu, anh Đavưđốp ạ, vấn đề không phải ở chỗ ấy. Bò của đội chúng tôi qua mùa đông kém ăn cứ rộc đi. Hồi tiến hành tập thể hoá súc vật và thức ăn chăn nuôi, rơm cỏ chúng tôi có ít hơn các đội khác. Cái đó thì anh biết rõ quá rồi, anh còn hoạnh hoẹ chúng tôi cái gì? Đúng là việc cày bừa của chúng tôi lề mề. Bò của chúng tôi đa số yếu, đáng lẽ phải phân phối rơm cỏ một cách hợp lý chứ không phải như kiểu anh và lão Ôxtơrốpnốp đặt ra: cá thể nộp vào cái gì thì bây giờ cho bò ăn cái ấy. Hậu quả bây giờ là thế này đây: người ta đã cày xong, chuẩn bị bò cho vụ cắt cỏ, còn chúng tôi thì vẫn cứ loay hoay mãi với đám ruộng hưu canh này.

- Chúng tôi sẽ giúp anh. Liubiskin sẽ đỡ các anh một tay, được không? - Đavưđốp đề nghị.

- Anh em chúng tôi chẳng từ chối, - Đúpxốp tuyên bố với sự im lặng đồng tình của mọi người, - chúng tôi chả tự ái gì.

- Rõ ràng rồi, - Đavưđốp trầm ngâm nói. - Rõ ràng là trong việc này cả ban quản trị lẫn mọi người chúng ta đều sai toét: ta đã phân phối cỏ mùa đông có thể nói là theo nguyên tắc lãnh thổ; một cái sai! Ta đã phân phối lao động và sức kéo không đúng; cái sai thứ hai! Sai tại ma quỷ nào? Tại chúng ta thôi, và chúng ta sẽ phải sửa. Về năng suất hàng ngày, thì con số của các anh chẳng đến nỗi nào, nhưng tổng số diện tích đã cày thì không nghĩa lý gì. Các anh thử tính xem, cần quẳng thêm cho các anh bao  nhiêu cái cày nữa để các anh thoát ra khỏi được chỗ sa lầy này. Tính đi, lấy bút ghi tử tế, và khi nào đi cắt cỏ khô chúng ta sẽ rút kinh nghiệm sai lầm của chúng ta, phân phối lực lượng lại. Chẳng lẽ lại tái diễn cái sai mãi?

Họ ngồi quanh đống lửa khoảng hai tiếng đồng hồ, tranh luận, tính toán, vặc nhau. Hoá ra Atamantsukốp lại tỏ ra là người tích cực nhất: hắn ta phát biểu rất hăng, đưa ra những đề nghị chí lý, nhưng tình cờ bắt gặp cái nhìn của hắn giữa lúc Bexkhlépnốp đang đả ác Đúpxốp, Đavưđốp thoáng thấy trong đôi mắt hắn một ánh thù sắc lạnh đến nỗi anh phải ngạc nhiên cau mày lại. Atamantsukốp vội cúi nhìn xuống, đưa tay lên sờ sờ cục yết hầu tua tủa những sợi râu rễ tre màu hạt dẻ. Nhưng chỉ một phút sau, khi hắn lại ngẩng lên nhìn Đavưđốp thì đôi mắt hắn đã ánh lên một vẻ thân ái giả vờ, và mỗi nếp nhăn trên mặt hắn đều toát ra một vẻ chất phác hồn nhiên. Đavưđốp nghĩ bụng: “Đóng kịch tài thật! Nhưng sao hắn lại nhìn mình cái lối tởm thế nhỉ? Chắc hắn ức chuyện mình định đuổi hắn ra khỏi nông trang hồi mùa xuân chăng?”.

Đavưđốp không biết, và không thể biết được rằng hồi mùa xuân vừa qua, khi được tin Atamantsukốp bị đuổi ra khỏi nông trang, Pôlốptxép nửa đêm đã cho gọi hắn ta đến, nghiến răng nghiến lợi bảo: “Làm cái trò gì thế, hả đồ con lừa? Tao cần là cần một thằng nông trang viên gương mẫu, chứ không phải một thằng ngu ngốc ra cái điều hăng hái để bị tôm cổ vì một chuyện không đâu, rồi bị GPU (*) hỏi cung lại khai ra cả nút, và thế là hết chuyện. Ra hội nghị toàn nông trang mày làm thế nào thì làm, đồ chó đẻ, quỳ xuống mà lạy chúng nó cũng được, nhưng miễn sao cho hội nghị không thông qua quyết định của đội khai trừ mày. Trong khi chúng ta chưa khởi sự thì không được để một thoáng nghi ngờ nào rơi lên anh em ta”.

Atamantskốp đã không phải quỳ xuống lạy: theo lệnh của Pôlốptxép, Iakốp Lukits và bọn đồng loã ra hội nghị đã đồng thanh bênh vực Atamantskốp, và hội nghị đã không chuẩn y quyết định của đội. Atamantskốp chỉ bị một cú cảnh cáo chung trước hội nghị thôi. Từ đó hắn im bặt, làm việc không ai chế trách vào đâu được, thậm chí còn được nêu gương về ý thức giác ngộ lao động cho những kẻ ăn bơ làm biếng. Nhưng lòng thù hằn của hắn đối với Đavưđốp và chế độ nông trang, hắn không thể đào sâu dấu kỹ được, và thỉnh thoảng, muốn hay không, nó vẫn cứ lòi ra, lúc thì qua một câu nói lỡ mồm, lúc thì bằng một nụ cười hoài nghi, lúc thì trong những tia lửa giận sữ bùng lên rồi lập tức tắt ngấm trong đôi mắt xanh thẫm như thép biếc của hắn.

Mãi đến nửa đêm họ mới xác định được ngã ngũ về con số cần xin tăng viện và thời gian hoàn thành cày. Đavưđốp thảo luôn dưới ánh lửa một mẩu thư về cho Radơmiốtnốp, và Đúpxốp xung phong đi ngay tắp lự về làng, không đợi sáng, để trưa hôm sau đưa được bò và cày của đội ba về, và để cùng với Liubiskin chọn những tay cày nào khá nhất. Họ ngồi rốn bên đống lửa đang tàn làm thêm điếu thuốc nữa, rồi kéo nhau đi ngủ.

Trong khi đó, đằng sau chiếc xe lều, diễn ra một cuộc chuyện trò khác. Varia đang vò đi vò lại giặt rũ chiếc áo lót của Đavưđốp trong một chiếc bồn kẽm cũ kỹ. Bà cấp dưỡng đứng bên cô nói nhỏ, giọng gần như đàn ông:

- Con lẩn thẩn này, sao mày lại khóc?

- Áo anh ấy mặn mặn như mùi muối…

- Thế thì sao? Người làm ăn thì áo lót mình phải sặc mùi muối, mùi mồ hôi, chứ đâu có mùi nước hoa hay mùi xà phòng thơm. Làm sao mà mày phải rống lên như vậy? Anh ấy có làm gì mày không?

- Ồ không, dì vớ vẩn!

- Thế sao lại nước mắt ngắn nước mắt dài, hả con dở hơi?

- Vì cháu giặt đây không phải là giặt áo của người dưng nước lã, mà là của người cháu thương… - Cô gái cúi xuống chiểc bồn, nén một tiếng nghẹn ngào, nói.

Bà cấp dưỡng im lặng một lúc khá lâu, rồi tay chống nạnh thốt lên bằng một giọng cáu kỉnh:

- Thôi, tao rác tai lắm rồi! Varia, ngẩng mặt lên tao xem.

Cô bé dắt bò khốn khổ mới mười bảy tuổi đầu ấy ngẩng lên, nhìn bà cấp dưỡng bằng đôi mắt đẫm lệ, nhưng rạo rực niềm hạnh phúc của tuổi xuân chưa hề được biết cái hôn ban đầu.

- Cháu thích cả cái mùi mặn muối ở áo anh ấy…

Bộ ngực đồ sộ của bà Đaria Kuprianốpna nẩy lên bần bật vì cười.

- Mày ơi, tao thấy mày đã thực thụ thành đứa con gái rồi đấy.

- Thế trước cháu không phải là con gái sao?

- Trước ấy à? Trước, mày là cái ngọn gió, bây giờ mày mới thành đứa con gái. Một thằng con trai mà chưa đánh gãy răng một thằng khác vì gái thì chưa phải thằng con trai mà chỉ là cái quần lót thôi. Một đứa con gái chỉ mới biết toe toét cái mồm và mắt liếc ngang liếc dọc thì chưa phải con gái mà là cái ngọn gió mặc váy. Vả chỉ khi nào nó vãi nước mắt ra vì tình làm cho đêm nào gối cũng ướt đầm thì  lúc bấy giờ nó mới thực thụ thành đứa con gái. Rõ chưa, hả cái đồ ngốc?

Đavưđốp nằm trong xe lều, hai tay vắt sau gáy, và nằm mãi không sao ngủ được. Anh buồn rầu nghĩ: “Mình chưa hiểu những người trong nông trang, không biết bụng họ nghĩ gì. Đầu tiên là đánh đổ bọn kulắc, rồi xây dựng nông trang, rồi tổ chức làm ăn, chả còn thời giờ nào xem xét đến con người, tìm hiểu họ kỹ lưỡng. Lãnh đạo cái khỉ gió gì mình nếu như mình không hiểu được con người, không thu xếp được thời giờ để tìm hiểu họ? Mà phải hiểu tất cả mọi người, họ đâu có nhiều nhặn gì cho lắm. Nhưng thực ra những cái đó đâu phải chuyện đơn giản… Đấy như lão Argianốp kia mà chẳng lắm chuyện à? Ai cũng bảo lão hâm, nhưng lão có hâm đâu, chà, hâm chán ra đấy! Cái lão rậm râu sâu mắt ấy, ma quỷ phanh phui được lão cũng còn khướt: từ bé lão đã thu mình trong cái vỏ sò, lấp kín miệng lại, đấy, thử thâm nhập vào bụng lão xem nào! Dễ mà lão đã cho vào! Cả Iakốp Lukits nữa, lão ấy cũng là một cái lò bí ẩn. Phải để mắt theo dõi sát lão mới được. Xưa kia lão là kulắc, điều đó đã rõ ràng, nhưng bây giờ lão làm việc tốt, chắc hẳn lão sợ cho lý lịch của lão… Nhưng cũng phải đưa lão ra khỏi ban quản trị thôi, để lão tham gia như một nông trang viên bình thường. Và cái tay Atamantsukốp kia cũng khó hiểu. Hắn nhìn mình như muốn ăn thịt mình vậy. Sao lại thế nhỉ? Hắn là một trung nông điển hình, hắn đã đi bạch vệ, ờ, nhưng có cái anh trung nông nào mà lại không đi bạch vệ? Đáp số không phải chỗ ấy. Mình phải chịu động não suy nghĩ kỹ về mọi việc, thôi đi cái lối lãnh đạo mò, chẳng biết ai là người có thể thực sự dựa vào, ai là người có thể thực sự tin cậy. Chà, anh bạn lính thuỷ ơi! Anh em phân xưởng mà biết anh lãnh đạo nông trang kiểu thế này, thì họ sẽ tuốt xác anh ra đến trơ xương mất thôi!”.

Đám phụ nữ ngủ quanh chiếc xe lều, màn trời chiếu đất. Qua cơn mơ mơ màng màng, Đavưđốp loáng thoáng nghe thấy cái giọng thanh thanh của Varia và giọng baritông của bà Đaria Kuprianốpna:

- Sao mày cứ rúc vào tao như con bê rúc vào nách mẹ thế? - bà cấp dưỡng cười, hổn hển như nghẹt thở. - Có thôi ôm tao đi không? Nghe rõ chưa, Varia? Xê ra, lạy Chúa, người mày nóng cứ như cái lò than! Tao nói mày có nghe không? Tội nợ cho tao đi nằm cạnh mày… Người mày nóng quá lắm! Hay là mày sốt?

Tiếng cười rinh rích của Varia nghe như tiếng gù gù của con chim cu.

Đavưđốp thiu thiu mỉm cười, mường tượng cảnh hai người ấy nằm bên nhau, rồi vừa thoáng nghĩ vừa thiếp đi: “Con bé dễ thương thật, lớn tướng rồi, đến tuổi lấy chống rồi mà tính cứ như trẻ con. Chúc em hạnh phúc nhá, em Varia hẩm hiu!”.

Anh tỉnh dậy thì đã sáng bạch. Trong xe lều không còn ai, bên ngoài tịch mịch không một tiếng người; anh chị em đã ra ruộng cả, còn mình Đavưđốp nằm lại trên tấm phản rộng thênh thang. Anh nhanh nhẹn nhỏm dậy, đi giày tất vào thì chợt trông thấy bên gối tấm áo mayô lính thuỷ đã giặt sạch và mạng lại rất khéo với những đường kim nhỏ lăn tăn, thêm cả chiếc áo sơmi sạch sẽ bằng vải thô của anh nữa. “Cái sơmi ở đâu ra thế này? Mình đến đây có đem theo cái quái gì đâu, mình nhớ rõ lắm. Sao nó lại ở đây được nhỉ? Thánh hiểu!” - Đavưđốp phân vân nghĩ bụng, và như để chứng mình với mình là mình không mê ngủ, anh đưa tay sờ sờ mặt vải lành lạnh.

Chỉ đến lúc mặc xong áo lót vào, bước xuống xe lều, anh mới vỡ lẽ đầu đuôi: Varia diện chiếc áo cánh màu da trời và chiếc váy đen là phẳng nếp đang đứng bên bồn nước rửa chân, tươi roi rói như buổi bình minh, đôi môi đỏ hồng mỉm cười với anh và, cũng như hôm qua, đôi mắt xám hơi cách xa nhau long lanh một niềm vui bất giác.

- Anh chủ tịch hôm qua được bữa mệt hả? Không dậy nổi nữa phải không? - cô cười hỏi, giọng cao lanh lảnh.

- Đêm qua cô ở đâu?

- Em về làng.

- Ra đây lúc nào?

- Vừa ra xong.

- Cô mang áo sơmi cho tôi đấy à?

Cô lẳng lặng gật đầu, và trong đôi mắt lộ vẻ lo lắng:

- Em làm thế không nên hay sao hả anh? Có lẽ em không nên ghé vào nhà anh? Nhưng em nghĩ bụng cái áo sọc của anh bục lắm rồi…

- Hoan nghênh Varia! Rất là một sự cám ơn cô. Nhưng đi đâu mà diện thế này? Ối mẹ ơi, tay lại còn đeo nhẫn nữa kìa!

Cô gái bẽn lẽn xoay xoay chiếc nhẫn bạc đeo ở tay, miệng ấp úng.

- Quần áo em mấy hôm nay bẩn chạt. Em về ngó qua bà cụ, tiện thể thay quần áo… - Rồi bỗng, gạt đi cái bối rối, đôi mắt cô ánh lên tinh nghịch: - Em còn định đi giày cao gót nữa cơ, để ngày hôm nay anh cũng phải để mắt nhìn em một cái, nhưng dắt bò bước thấp bước cao dưới ruộng mà đi giày cao gót thì chả được mấy bước.

Đavưđốp cười ha hả:

- Được rồi, hôm nay tôi sẽ nhìn cô miết, con sóc con nhanh thoăn thoắt ạ! Nào, cô đi đóng bò đi, tôi rửa qua cái mặt rồi ra ngay đây.

Nhưng hôm ấy Đavưđốp hầu như chẳng còn lúc nào để đi cày. Anh chưa rửa mặt xong thì Kônđrát Maiđanhikốp tới.

- Cậu được nghỉ hai ngày, sao mò ra sớm thế? - Đavưđốp mỉm cười hỏi.

- Ở nhà buồn kinh. Bu nó nhà tôi dậy được rồi. Sốt qua loa thôi. Mình ở nhà làm cái tích sự gì? Thế là tôi đằng sau quay, đi ra đây luôn. Varia đâu rồi, anh?

- Nó đi đóng bò.

- Thôi, để tôi cày, còn anh thì có khách bây giờ đấy. Liubiskin đang đích thân đưa tám bộ cày đến, nửa đường tôi gặp họ mà. Agaphôn dẫn đầu, cưỡi con ngựa bạch, nom cứ như Kutudốp. À, còn tin này nữa: tối qua, lúc đã khuya, Nagunốp bị đứa nào đó bắn.

- Sao? Bắn sao?

- Bắn chứ còn sao, súng trường. Chả biết cái thằng khốn nạn nào. Anh ấy đang ngồi bên đèn, trước cửa sổ mở toang, và thế là nó bắn. Đạn sượt qua thái dương, sướt da thôi, không sao. Nhưng cái đầu anh ấy thì hơi lôi thôi, chả biết vì bị chấn thương hay vì điên tiết, nhưng tóm lại là vẫn sống nguyên, và khoẻ mạnh. Công an trên huyện xuống, tìm kiếm, đánh hơi, nhưng vụ này thì yếu đây…

- Mai mình sẽ chào các cậu, mình về làng, - Đavưđốp quyết định. - Kẻ thù ngóc đầu dậy, phải không, Kônđrát?

- Càng hay! Cho nó ngóc! Một cái đầu ngóc lên thì càng dễ chặt hơn, - Maiđanhikốp thản nhiên đáp và đi thay giày.

-------------------------------

(*)          GPU: Tên tắt của ngành công an Xôviết hồi đó. - ND.

CHƯƠNG VIII

Nửa đêm về sáng, những đám mây đen dày đặc lũ lượt kéo nhau phủ lên bầu trời đầy sao, rồi mưa phùn rơi xuống, cái mưa thu buồn tênh, và liền sau đó thảo nguyên trở thành mịt mùng, lành lạnh và lặng ngắt như dưới một cái hầm sâu ẩm ướt.

Một giờ trước khi rạng sáng, gió nổi lên, mây đen xô nhau bay nhanh hơn, mưa đang rơi thẳng đứng đổi chiều xiên xiên, rơi chếch về phương Đông, từ chân mây cho đến tận mặt đất; rồi bỗng trời tạnh, cũng bất thần như lúc bắt đầu mưa.

Mặt trời sắp mọc thì một người cưỡi ngựa đi tới chỗ chiếc xe lều của đội sản xuất. Người ấy thong thả xuống ngựa, buộc cương vào khóm sơn trà mọc cạnh đó, và cũng vẫn thong thả như thế, anh ta bước vài bước cho đỡ chồn cẳng, đi tới bà cấp dưỡng đang hì hục bên cái lò đào dưới đất, chào một tiếng nho nhỏ. Bà Đaria Kuprianốpna chẳng đáp lại lời chào. Bà đang quỳ phủ phục, hai khuỷu tay và hai cái vú to đùng chống xuống đất, nghiêng đầu ra sức thổi phù phù vào những cục than củi, cố thổi bùng ngọn lửa lên mà mãi không được. Than ướt nước mưa và đẫm sương đêm không chịu bốc lửa, khói cuồn cuộn phả vào cái mặt đỏ gay của bà cấp dưỡng.

- Mẹ cha cái bếp thổ tả! - bà cấp dưỡng vừa sặc khói ho vừa bực dọc kêu thốt lên. Bà lùi lại phía sau một chút, ngẩng đầu đưa tay lên sửa lại mái tóc xoã ra ngoài khăn vuông, và đến lúc ấy bà mới trông thấy ông khách đứng trước mặt mình.

- Than cùi thì đêm phải cất vào trong xe lều chứ, hả chị nuôi! Củi ướt thế này thì cái bễ của bác chả đủ hơi mà thổi đâu. Nào, để tôi giúp cho một tay nào, - khách nói và khẽ đẩy bà cấp dưỡng sang bên.

- Những hạng lên mặt dạy đời như anh thì thảo nguyên này nhông nhông vô khối. Anh cứ thử thổi đi xem nào, xem cái bễ của anh có mấy hơi, - bà Đaria Kuprianốpna càu nhàu nói, nhưng cũng sẵn sàng lánh sang một bên rồi chăm chú xem xét người khách lạ mặt.

Khách tầm vóc nhỏ và nom xấu mẽ. Khách mặc một cách nom cũng đỏm dáng, một chiếc varơi dạ đã khá tàng thít chiếc thắt lưng lính. Chiếc quần màu kaki vá mạng cẩn thận và đôi ủng và đôi ủng cũ kỹ xù xì một lớp bùn xám từ mũi đến cổ nom rõ ràng cũng đã quá niên hạn phục vụ; và tương phản một cách rất bất ngờ với bộ cánh tồi tàn ấy là chiếc mũ Kuban bằng lông cừu lóng lánh ánh bạc, rất bảnh và đội sụp xuống tận mắt. Nhưng gương mặt xạm đen của khách nom hiền, chiếc mũi hếch nhăn lại nom nhộn nhộn khi khách cười, và đôi mắt nâu màu hạt dẻ thì nhìn đời với một vẻ châm biếm, kẻ cả, lọc lõi.

Khách ngồi xổm xuống, thò tay vào túi trong rút ra một cái bật lửa và cái lọ nút thuỷ tinh mài. Một phút sau, những thanh củi nhỏ được tưới đẫm xăng đã bùng bùng bốc lửa.

- Phải làm như vậy đấy, chị nuôi ạ! - khách vừa nói vừa vỗ vui một cái vào cái vai nần nẫn thịt của bà cấp dưỡng. - Còn cái lọ này thì tất nhiên là xin tặng bác làm kỷ niệm cho đến ngày xuống lỗ. Củi ẩm bác cứ tưới một tí cái này là xong ngay ấy mà. Bác cầm lấy, và khi nào xong món xúp hổ lốn thì nhớ chiêu đãi tôi đấy! Một bát đầy phè và đặc sệt vào!

Bà Đaria Kuprianốpna thủ cái lọ vào bọc, miệng cám ơn cứ ngọt xớt.

- Anh cho tôi thế này thì xin rất là một sự cám ơn. Thật là phúc đức quá! Tôi sẽ chiêu đãi anh  món xúp hổ lốn. Nhưng anh thủ trong người cái lọ này làm gì thế? Anh là ông lang chữa bệnh bò cái đấy à?

- Không, tôi không phải ông lang bò đâu, - khách đánh trống lảng. - Nhưng anh em thợ cày đâu hả bác? Còn ngủ cả sao?

- Người thì ra đầm tìm bò, người thì đã còng lưng ngoài ruộng đằng kia.

- Anh Đavưđốp đâu?

- Trong xe lều. Đang nằm rốn một tí. Khổ thân anh ấy hôm qua làm quần quật suốt ngày, làm cứ như trâu như bò, đêm lại còn thức khuya.

- Anh ta làm gì mà thức khuya vậy?

- Thiên lôi mà biết được. Ngoài đồng đã về muộn, lại nghĩ ngay ra cái trò đi thăm lúa đông, cái lúa gieo hồi còn cá thể ấy mà. Mò ra mãi tận cái gò ngoài khe!

- Thăm lúa mà lại đi lúc tối mò? - Khách nhăn mũi lại mỉm cười, dò hỏi nhìn vào khuôn mặt tròn vành vạnh và bóng nhẫy của bà cấp dưỡng.

- Nói thế chứ lúc đi thì còn sáng, về mới tối. Có thiên lôi biết anh ta làm gì mà về tối thế, mải nghe hoạ mi hót chăng? Chả là vì cái bọn hoạ mi ngoài khe Térnôvaia chúng tôi, nó làm khiếp lắm cơ! Nó hót, nó véo von ran lên, cấm có cho ai ngủ! Cái giống chết tiệt ấy, nó cứ làm rối ruột người ta lên! Đôi khi tôi nằm, nằm mãi, rồi nước mắt có bao nhiêu tuôn ra bằng hết…

- Duyên cớ gì vậy?

- Lại còn “duyên cớ” gì nữa? Lúc thì nhớ lại hồi nhỏ, lúc thì nhớ đến đủ các thứ chuyện linh tinh hồi con gái… Anh ạ, đàn bà chúng tôi thì phải cái tật mau nước mắt.

- Thế Đavưđốp đi thăm lúa một mình à?

- Anh ta cũng không mù loà chân chậm, lạy Chúa, cho nên cũng chưa cần có người dắt. - Bà Đaria Kuprianốpna bỗng cảnh giác, mím môi lại nghiêm khắc: - nhưng anh là ai? Đến đây có việc gì?

- Có chút việc cần gặp đồng chí Đavưđốp, - khách trả lời lờ lững. - Nhưng cũng chả vội gì, đợi tí anh ấy dậy cũng được, người làm mệt phải để người ta ngủ đẫy giấc cho lại sức. Trong khi chờ đợi lửa bốc, ta ngồi xuống đây, chuyện gẫu tí chơi.

- Ngồi nói chuyện nhăng cuộc với anh thì lúc nào tôi mới gọt được đống khoai tây cho cả nhà cả tổ ăn? - Bà Đaria Kuprianốpna hỏi vặn.

Nhưng người khách lạ nhanh trí ứng phó được ngay: anh ta rút trong túi ra một chiếc dao con, gại gại thử lưỡi lên móng tay cái.

- Đem khoai tây lại đây, tôi giúp một tay. Với một chị nuôi hấp dẫn như thế này thì tôi tình nguyện suốt đời làm phụ bếp, miễn là đêm ngủ bà chị chịu khó cười tình với tôi một tí… Ấy đấy, cứ như bây giờ là được đấy.

Bác Đaria Kuprianốpna sướng mê cu tơi càng đỏ bừng mặt lên, rồi làm ra bộ ngán ngẩm, lắc đầu:

- Nhưng anh còm nhom quá, khổ thân anh! So với tôi thì anh hơi yểu đấy… Đêm ngủ nếu như tôi có cười tình với anh thì anh cũng chả nhìn ra, chả thấy gì đâu…

Khách ngồi xuống thoải mái trên khúc gỗ sồi, nheo mắt nhìn bà cấp dưỡng đang cười.

- Đêm mắt tôi tinh như mắt cú mèo.

- Đâu phải vì mắt anh không tinh nên không nhìn thấy, mà là vì tinh thì tinh nhưng mắt anh lúc ấy đã vãi ra đầy nước…

- A, cái bà chị này khá đấy! - khách cười rinh rích. - Nhưng liệu hồn, bà béo ơi, khéo rồi bà lại khóc trước! Ban ngày ban mặt tôi nom hiền, nhưng đêm thì những loại phốp pháp như bà chị là tôi quất cho ác liệt. Đừng khóc hu hu, đừng lạy nhá!

Bà Đaria Kuprianốpna cười rũ và nhìn ông khách tợn mồm tợn miệng với một vẻ thầm tán thưởng:

- Này, ông anh ơi, những kẻ đầu hôm khoác lác thì đến sáng sẽ rên hừ hừ đấy.

- Được, để rồi đến sáng mai xem hai chúng ta ai rên hừ hừ và ai khoái tỉ nằm tơ lơ mơ. Thôi, cái bà nỏ mồm, mang khoai ra đây, tán gẫu mãi mất thì giờ!

Bà Đaria Kuprianốpna khệ nệ bê một thùng khoai tây đầy ở trong xe lều ra và miệng vẫn cười tình như thế, ngồi xuống chiếc ghế con đối diện với khách. Nhìn lớp vỏ khoai mỏng tanh cuộn tròn dưới ngón tay đen xạm nhanh thoăn thoắt của khách, bà hài lòng nói:

- Anh không phải chỉ mồm mép khá, mà làm cũng khá đấy nhỉ. Phụ bếp cho tôi thì cũng được đấy.

Khách nín thinh đưa lưỡi dao nhanh thoăn thoắt, nhưng chỉ vài phút sau lại hỏi:

- Thế… cái anh Đavưđốp ấy thế nào? Bà con kô-dắc ta có ưa không?

- Ưa chứ. Trai anh hùng đấy, và giản dị cũng như anh vậy. Những anh nào không ra cái vẻ khệnh khạng là bà con chúng tôi thích thôi mà.

- Giản dị hả bác?

- Rất chi là giản dị!

- Nghĩa là cũng có tí ngớ ngẩn chứ gì? - Khách ranh mãnh liếc nhìn lên từ dưới vành mũ.

- Thế anh tự cho mình là ngớ ngẩn à? - bà Đaria Kuprianốpna đốp chát lại.

- Tôi đâu nói thế…

- Thế việc gì anh lại nói xấu anh Đavưđốp? Anh ta với anh thì có khác gì nhau…

Khách lại nín thinh, trong bụng cười thầm, mắt chốc chốc lại liếc nhìn bà cấp dưỡng mau mồm mau miệng một cái.

Đằng đông, phía chân mây, ráng hồng của vầng dương đang mọc lan rộng dần ra. Gió chuyển mình sau giấc ngủ đêm, tung cánh đưa về từ khe Térnôvaia tiếng hót vang vang của đám hoạ mi. Và đến lúc ấy thì khách chùi lưỡi dao vào quần, bảo bà cấp dưỡng:

- Bác đi đánh thức anh Đavưđốp dậy đi. Sang mùa đông thì tha hồ ngủ.

Đavưđốp trên xe lều bước xuống, chân đi đất, vẻ mặt ngái ngủ khó đăm đăm. Anh liếc nhìn khách một cái, hỏi giọng khê nặc:

- Công văn trên huyện hả? Đưa đây.

- Không có công văn, nhưng đúng là trên huyện. Đi giày vào đi, đồng chí Đavưđốp, ta cần bàn ít chuyện.

Đavưđốp đưa tay gãi gãi bộ ngực nở nang trổ đầy xăm, nhìn khách với một vẻ coi xoàng:

- Tôi bấm độn thì hình như quan anh là phái viên kiểm tra của huyện uỷ… Báo cáo đồng chí, xin là có ngay.

Anh mặc vội quần áo, xỏ đôi chân không tất vào ủng, rửa mặt qua quýt bằng cái nước tanh tanh đựng trong chếc thùng gỗ sồi, rồi cúi chào với một vẻ hơi trịnh trọng:

- Tôi là Xêmiôn Đavưđốp, chủ tịch nông trang Grêmiatsi Lốc.

Khách tiến sát tới Đavưđốp, choàng ôm ngang tấm lưng bè bè của anh:

- Giới thiệu chính quy gớm nhỉ! Còn mình thì là Ivan Nextêrenkô, bí thư huyện uỷ. Thế là ta đã làm quen nhau xong, bây giờ đồng  chí chủ tịch nông trang đi dạo với tôi vài bước, ta chuyện trò với nhau thoải mái. Thế nào, diện tích cày còn nhiều không?

- Kha khá…

- Nghĩa là ông chủ tính toán chưa sát phỏng?

Nextêrenkô khoác lấy tay Đavưđốp, kéo nhẹ đi ra phía ruộng cày. Đavưđốp liếc nhìn anh ta một cái, dè dặt nói:

- Tính sai. - Rồi bỗng anh  bốc lên, chính anh cũng không hiểu sao: - Nhưng, đồng chí bí thư ạ, đồng chí hiểu cho, trong công việc đồng áng tôi ù ù cạc cạc. Tôi không thanh minh đâu, nhưng không phải chỉ có mình tôi sai…. Công việc nó mới quá…

- Mình thấy rồi, và mình hiểu, cậu cứ bình tĩnh.

- Không phải mình tôi sai, mà cả những anh em cốt cán mà tôi dựa vào cũng lầm như tôi. Chúng tôi bố trí lực lượng không đúng. Anh hiểu không?

- Hiểu. Và chả có gì ghê gớm cho lắm. Chả ghê gớm gì lắm, các cậu sửa luôn đi thôi. Đã nhận được người và bò kéo tăng cường rồi phỏng? Tốt. Còn việc bố trí lực lượng, sắp xếp lực lượng cho các đội thì rồi đây cậu sẽ rút kinh nghiệm, vận dụng luôn cho vụ cắt cỏ, và nhất là cho vụ gặt. Cần tính toán trước cho chu đáo.

- Rõ, thực tế thế!

- À, bây giờ ta đi, cậu chỉ mình xem đám ruộng chính tay cậu cày. Mình muốn ngó xem giai cấp công nhân Lêningrát làm ăn như thế nào trên đồng ruộng sông Đông… Liệu mình có phải viết thư cho đồng chí bí thư đảng bộ nhà máy Puchilốp phàn nàn về chuyện ăn bơ làm biếng của cậu không đấy, hả?

- Cái đó tuỳ đồng chí đánh giá.

Bàn tay nhỏ nhắn nhưng rắn chắc, Nextêrenkô nắm lấy khuỷu tay Đavưđốp càng chặt hơn. Nhìn nghiêng vào gương mặt giản dị cởi mở của đồng chí bí thư, Đavưđốp bỗng cảm thấy nhẹ nhõm thoải mái, và một nụ cười vô tình nở ra trên đôi môi cương nghị cuả anh. Đã lâu rồi chưa có ai trong hàng các cán bộ lãnh đạo Đảng ăn nói với anh bằng một giọng giản dị thân tình và một tình người ấm áp đến thế…

- Đồng chí Nextêrenkô ơi, có thật đồng chí định kiểm tra chất lượng đấy không? Kiểm tra thật đấy chứ?

- Kiểm tra quái gì! Mình chỉ tò mò muốn xem xem giai cấp công nhân có thể làm được trò trống gì khi không phải là đứng bên bàn thợ, bên cỗ máy, mà là đứng trên đồng ruộng. Nếu cậu muốn biết thì mình tự giới thệu là nhà mình đã bao nhiêu đời làm dân cày Xtavrôpôn, và mình muốn xem xem dân kô-dắc đã dạy cậu được những điều gì. Và biết đâu lại chẳng là một ả kô-dắc nào đã dạy cậu cày nhỉ? Ả ấy có thể dạy cậu những kiểu cày rất lạ đấy, cậu hãy coi chừng, chớ có ăn phải bả gái kô-dắc Grêmiatsi! Họ có những cái phép có thể đẩy một tay lính thuỷ dạn dày như cậu làm những cái trò gì có trời biết… Anh nào thật thà thì lạc đường với họ dễ như chơi ấy mà! Hay là có ả nào đã cho cậu lạc rồi?

Nextêrenkô nói với một giọng vui vẻ tự nhiên, và có vẻ như gặp đâu nói đấy, nhưng Đavưđốp cảm thấy  ngay có ý gì bóng gió đằng sau những câu nói đùa ấy, và trong bụng anh lo ngay ngáy, - “Anh ấy biết phong thanh gì về Luska rồi, hay chỉ là bắt nọn?”. Nhưng anh cũng bắt giọng nói đùa:

- Đàn bà mà lạc đường thì kêu cứu ầm lên, còn đàn ông thực thụ là anh đàn ông lặng lẽ tìm ra đường mà đi, thực tế thế!

- Cậu thì chắc hẳn là anh đàn ông thực thụ chứ gì?

- Thế đồng chí nghĩ thế nào, hả đồng chí bí thư?

- Mình nghĩ thế này: mình thích những anh đàn ông thực thụ hơn là những kẻ to mồm, và nếu như cậu, cậu Đavưđốp ạ, chẳng may có bị lạc đường, cậu hãy rỉ tai mình nói nhỏ, chẳng nên làm ầm ĩ làm gì. Mình sẽ tìm cách nào đấy giúp cậu lần được ra con đường ngay. Đồng ý chứ?

- Cám ơn đồng chí khuyên bảo, - Đavưđốp nói bằng một giọng lúc này đã nghiêm trang, trong khi thâm tâm nghĩ: “Cha này cáo thật! Đánh hơi thấy hết rồi…”. Và để nhẹ bớt tính chất nghiêm trang của câu mình vừa nói, anh tiếp: - Chà, huyện nhà vớ được ông bí thư tốt bụng hiếm có!

Nextêrenkô đang đi đừng lại, quay sang Đavưđốp, và hất ngược ra sau gáy chiếc mũ Kuban lịch sự, nhăn mũi cười, nói:

- Mình tốt bụng là vì hồi trẻ chính mình không phải lúc nào cũng đi đường ngay… Có lần mình đang bước đều, bước đều, gót dận cồm cộp như duyệt binh, thế rồi bỗng sảy chân, sa đà đến chỗ quái quỷ nào chả biết, nói tóm lại là đâm quàng đâm xiên vào cái đống bờ bụi khỉ gió gì bên đường, cho đến lúc có những người tốt bụng tới kéo cái thằng thanh niên ngu ngốc là mình trở lại mặt đường. Chú lính thuỷ ơi chú đã hiểu lòng tốt của mình do đâu mà có chưa? Nhưng không phải mình tốt với bất kể ai, không phân biệt đâu…

- Người ta nói con ngựa bốn chân hẳn hoi mà vẫn vấp, - Đavưđốp thận trọng đưa đà một câu.

Nhưng Nextêrenkô lạnh lùng nhìn anh:

- Con ngựa tốt mà vấp một đôi lần thì có thể tha thứ cho nó, nhưng có những của nợ mỗi bước đi là một bước vấp chúi mũi. Dạy nó đến thế nào, đánh vật với nó đến thế nào thì nó vẫn cứ dùng mũi cuả nó đếm đủ số mô đất trên đường. Những của nợ ấy thì giữ chúng lại trong chuồng làm gì nhỉ? Cho một chày cho xong đời!

Đavưđốp nín thinh, miệng thoáng một nụ cười kín đáo. Câu nói cạnh khía rõ nghĩa đến thế cần gì một lời giải thích…

Họ thong thả đi ra đồng, và sau lưng họ mặt trời cũng thủng thỉnh nhô ra khỏi đám mây màu tím. Đavưđốp cố làm ra vẻ tự nhiên, hất hàm chỉ đám ruộng cày chạy dài ra xa: - “Ruộng tôi cày đấy”.

Khẽ hất đầu một cái đẩy chiếc mũ Kuban sụp xuống tận mắt, Nextêrenkô bước thấp bước cao đi băng qua thửa ruộng cày còn ẩm. Đavưđốp bước theo sau anh ta một quãng, thấy anh ta cúi xuống giả vờ phủi cỏ may bám vào ủng để đo chiều sâu của luống cày, và không phải một đôi lần mà cứ chốc chốc lại thế. Đavưđốp không nén được, nói:

- Anh đo thì cứ việc đo tự nhiên! Việc gì phải giở trò lịch sự thế hả anh?

Nextêrenkô chân vẫn bước đi, miệng làu bàu:

- Thì cậu cứ giả vờ như không trông thấy có được không?

Đến cuối thửa ruộng anh ta dừng lại, phát biểu với giọng bề trên không hài lòng:

- Nói chung tạm được, nhưng đường cày không đều, như đường cày của thợ non: chỗ hơi sâu, chỗ hơi nông, chỗ thì lại sâu quá. Lý do chính là chưa biết cày, nhưng cũng có thể là vì khi bước vào cày trong bụng không vui. Đavưđốp ạ, cậu nên nhớ rằng cáu kỉnh chỉ có tác dụng ngoài mặt trận thôi, ở đó sự nổi giận giúp ta chiếc đấu tốt, còn trên thửa ruộng thì phải là một con người hiền từ, vì đất ưa được ta đối xử với nó một cách dịu dàng từ tốn. Ông cụ mình hồi còn mồ ma vẫn nói như thế… Mơ màng cái gì thế hả, ông lính thuỷ đánh bộ?! - Nextêrenkô thốt lên câu hỏi ấy bằng một giọng khiêu khích, rồi lấy vai huých cho Đavưđốp một cái thật lực.

Đavưđốp loạng choạng và lúc đầu chưa hiểu ra là anh ta thách mình đấu một keo. Nhưng khi Nextêrenkô cười sằng sặc huých mạnh anh một cái nữa thì Đavưđốp lấy luôn thế trung bình tấn, chân giang rộng, người hơi ngả đằng trước.

Họ ôm lấy nhau, lần túm thắt lưng nhau.

- Chơi nắm thắt lưng hay không? - Nextêrenkô nén thở, hỏi.

- Nắm thì nắm, nhưng cấm chơi đểu, khoèo chân.

- Và cấm lẳng qua đầu, - Nextêrenkô thở hắt ra, giọng đã hơi hổn hển do ráng sức để lật ngã địch thủ.

Đavưđốp ôm choàng lấy thân hình rắn chắc bắp thịt của Nextêrenkô, và theo kinh nghiệm thi đấu, hiểu ngay là mình đang chọi với một tay đô vật thực thụ lão luyện. Đavưđốp có phần khoẻ hơn, nhưng Nextêrenkô ăn đứt anh ở chỗ  nhanh và khôn khéo. Hai ba lần mặt ghé sát mặt, Đavưđốp trông thấy một cái má nâu sạm ửng đỏ, một con mắt long lanh ranh mãnh, nghe thấy một tiếng thều thào: “Nào, cố lên, cố lên, giai cấp công nhân! Sao cứ đứng ỳ cục thịt ra thế?”.

Họ quần nhau mươi phút trên đám ruộng cày, rồi Đavưđốp đã mệt lử cò bợ, khàn khàn nói:

- Ta ra chỗ cỏ kia đi, chứ quần nhau ở đây rồi thì chết hết cả hai mất…

- Không, bắt đầu ở đâu cứ kết thúc ở đấy, - Nextêrenkô hổn hển nói không ra hơi.

Dồn hết sức mình, Đavưđốp tìm cách đẩy đối thủ đến một đám đất cứng, và tới đây, trận đấu kết thúc: họ ôm nhau ngã lăn quay ra, nhưng trong khi ngã Đavưđốp đã lật ngửa được Nextêrenkô ra, nằm đè lên trên. Hai chân giang rộng, dùng toàn bộ sức nặng của thân mình ghìm chặt đối phương xuống đất, anh hổn hển nói không ra hơi:

- Thế nào, đồng chí bí thư?

- Xin hàng, chứ thế nào nữa… Cậu khoẻ đấy, giai cấp công nhân ạ… Thắng tớ không phải dễ đâu, tớ chơi cái trò này từ thuở bé…

Đavưđốp đứng dậy, độ lượng chìa tay đỡ kẻ chiến bại, nhưng Nextêrenkô bật dậy như chiếc lò xo, quay ngoắt lưng lại:

- Phủi đất đi, cậu!

Với một vẻ ân cần, tình cảm kểu đàn ông, Đavưđốp đưa hai bàn tay to bè phủi kỹ những cục bùn và cọng cỏ khô bết chặt dưới lưng áo Nextêrenkô. Rồi bốn mắt lại gặp nhau và cả hai phá ra cười.

- Đáng lẽ cậu phải nể cái chức vụ Đảng của tớ một tí chứ nhỉ? Mất gì đâu? Chà, cái đồ gấu Lêningrát! Cậu thật chả có tí ý thức gì tôn trọng cấp trên cả… Lại còn nhăn răng ra cười nữa! Cười ngoác tận mang tai, phởn như thằng cha vớ được cô vợ đẹp!

Quả là Đavưđốp đang ngoác miệng ra cười thật:

- Lần sau xin rút kinh nghiệm, thực tế thế! Nhưng ông cũng không nên ngoan cố chống cự như thế làm gì, có lúc tôi tưởng như chân cắm ngập xuống đất tới tận đầu gối để khỏi thua. Chà, anh Nextêrenkô ơi, anh đúng là điển hình của một anh trung nông Xtavrôpôn đáng buồn, một đồ tiểu tư hữu, như anh bạn Maka Nagunốp chúng ta thường nói. Anh là một anh bí thư, tất phải hiểu rằng giai cấp công nhân bao giờ cũng là kẻ chiến thắng, điều đó đã được lịch sử chứng minh, thực tế thế!

Nextêrenkô lắc đầu huýt gió một cái ra vẻ chế nhạo. Chiếc mũ Kuban của anh ta tụt ngửa ra sau gáy và chẳng hiểu sao lại còn dính lại đó không rơi. Anh cười, nói:

- Lần sau nhất định mình sẽ cho cậu đo đất! Thử xem lúc ấy cậu sẽ lấy quan điểm mácxít để giải thích việc ấy như thế nào. Có điều không hay là bà cấp dưỡng ấy mà, bà ấy đã trông thấy chúng mình đánh lộn nhau như hai thằng nhãi ranh, bà ấy sẽ nghĩ thế nào về chúng mình? Chắc bà ấy sẽ bảo hai bố ấy điên…

Đavưđốp khoát tay một cái ra vẻ bất cần:

- Cứ bảo anh em mình trẻ, bà ấy khắc hiểu, chả thắc mắc… Nhưng thôi, ta bàn công việc tí chứ, hả đồng chí Nextêrenkô, kẻo hết thời giờ rồi, thực tế thế!

- Ta ra đống nào khô khô ngồi.

Họ ra ngồi xuống một mô sét nho nhỏ vốn là cái hang của một con cu ly nào đã bỏ, rồi Nextêrenkô chậm rãi nói:

- Trước khi đến đây mình có rẽ qua Grêmiatsi Lốc. Mình đã gặp Radơmiốtnốp và tất cả các anh chị en cốt cán trong ấp. Còn Nagunốp thì trước khi về đây mình đã biết cậu ấy, cậu ấy có lên chỗ huyện uỷ chúng mình. Mình đã nói với cả cậu ấy lẫn Radơmiốtnốp và bây giờ mình nói lại cậu nghe: việc kết nạp vào Đảng những nông trang viên tốt, những người trung thành với sự nghiệp của chúng ta, các cậu làm kém lắm. Hết sức kém! Mà những anh em tốt thì nông trang thiếu gì, đúng không?

- Thực tế thế!

- Vậy tại sao lại thế?

- Nhưng ngay những anh em tốt vẫn còn chờ…

- Chờ cái gì?

- Chờ xem nông trang làm ăn ra sao… Và trong khi chờ đợi thì họ vẫn chăm mảnh vườn họ hơn.

- Phải lay họ dậy, thức tỉnh cái đầu óc lười suy nghĩ của họ chứ!

- Có lay đấy, nhưng không đi đến đâu. Tôi cho là đến sang thu chi bộ chúng tôi mới phát triển được, thực tế thế!

- Thế từ nay đến sang thu thì khoanh tay ngồi chờ à?

- Không, sao lại chờ, vẫn hoạt động chứ, nhưng chúng tôi không cưỡng ép ai.

- Ai bảo anh phải cưỡng ép. Chẳng qua chỉ là không nên bỏ lỡ dù chỉ là một cơ hội nào lôi kéo người này hay người khác trong đám lao động tiên tiến, giải thích cho họ đường lối của Đảng bằng những lời lẽ dễ hiểu.

- Thì chúng tôi vẫn làm như thế mà, đồng chí Nextêrenkô, - Đavưđốp cam đoan như vậy.

- Các anh hoạt động, nhưng chi bộ Đảng vẫn cứ không phát triển. Thế thì có làm cũng như không… Thôi được, ta đợi xem công việc của các cậu làm sẽ đi đến đâu. Bây giờ ta bàn sang việc khác. Mình muốn vạch cho cậu thấy một số thiếu sót thuộc một mặt khác. Mình về đây tìm cậu để làm quen nhau, đánh hơi nhau, như người ta thường nói, và chuyện trò với nhau một cách thoải mái. Cậu là một người am hiểu, chắc cậu sẽ không vin cớ mình còn trẻ, tuổi trẻ của cậu đã trôi qua rồi, và trôi xa đến nỗi cậu không đuổi theo níu nó lại được nữa đâu. Cậu cũng đừng mong mình chiếu cố cho cậu cái xuất thân vô sản của cậu, cái thiếu kinh nghiệm hoặc cái gì khác. Nhưng cậu cũng đừng tưởng mình sẽ có thái độ nghiêm khắc cứng rắn đặc biệt mà một số cán bộ lãnh đạo thích phô trương. - Nextêrenkô hơi bốc lên, nói tiếp: - Theo mình, trong sinh hoạt Đảng chúng ta có những cách làm chẳng lấy gì làm thông minh và tương ứng với chúng là những câu; “gọt”, “cạo”, “mài giũa”, v.v.. Cứ làm như đây không phải chuyện con người mà là một cục sắt gỉ nào đó vậy. Thế là cái quái gì nhỉ? Và đáng chú ý là trong đa số trường hợp, những câu ấy thường ở cửa miệng những người cả đời chưa hề cạo một tí gỉ sắt nào, và chắc là tay cũng chưa bao giờ sờ đến cái giũa. Vậy mà con người là một cái gì tinh tế, xử lý với nó phải hết sức thận trọng!

Mình kể cậu nghe câu chuyện này. Năm mười tám, ở đơn vị chúng mình tình trạng trật tự kỷ luật nát đến mức không ở đâu nát bằng. Không phải là một đội cận vệ Đỏ nữa mà là một đám thổ phỉ Mácnô, không nói ngoa đâu! Và thế là đầu năm 1919, trên đưa về một đồng chí chính uỷ, một đảng viên cộng sản, thợ mỏ Đônét. Một ông bác đứng tuổi, lưng gù gù, râu đen trễ xuống như râu Tarax Séptsenkô. Sau khi ông ta đến tình hình đơn vị thay đổi hẳn. Đơn vị được phiên chế lại thành một trung đoàn Hồng quân. Người thì vẫn là những con người cũ, đồng thời lại không phải như cũ, dường như họ đã thay da đổi cốt vậy. Chẳng cần kỷ luật ai, chẳng cần đưa ai ra Toà án cách mạng, và đấy chỉ là một tháng sau khi cái ông thợ mỏ chính uỷ ấy xuất hiện ở trung đoàn! Cha ấy làm bằng cách nào? Bằng trái tim, cậu ạ, ranh không? Ông ta chuyện trò với từng chiến sĩ Hồng quân, và với từng người ông ta tìm được những lời lẽ ân cần thích hợp. Người bước vào chiến đấu mà hoang mang dao động thì ông ta tâm sự động viên riêng; tay  nào liều lĩnh thì ông ta chấn chỉnh, nhưng chấn chỉnh thế nào mà không làm hắn tự ái, tiêu cực gì cả. Ông ta rỉ tai hắn: “Đồ ngốc ơi, đừng có nhắm mắt xông bừa! Chúng nó giết chết toi đấy, và lúc ấy chúng mình biết làm thế nào? Thiếu cậu thì cả trung đội, ấy chưa nói cả đại đội, sẽ gay go to”. Lẽ dĩ nhiên là anh chàng hảo hán ấy lấy làm hởi lòng hởi dạ thấy chính uỷ quan niệm về mình như vậy, và từ đó thôi không liều lĩnh nữa, mà chiến đấu một cách thông minh… Ông chính uỷ nhà ta chỉ duy có một nhược điểm: đánh chiếm được một làng nào to hoặc một thị trấn kô-dắc nào là ông ta bắt đầu đi vơ vét…

Đavưđốp bị bất ngờ quay ngoắt một cái sang phía Nextêrenkô,  mạnh đến nỗi suýt nữa thì ngã ngửa xuống từ trên cái mô đất hang con cu li bị gió xói mòn. Anh xoè năm ngón tay phải ra chống xuống lớp đất sét ướt để khỏi ngã, và thốt lên:

- Sao, vơ vét à, thế là thế nào? Anh nói bậy!

Nextêrenkô cười khúc khích:

- Nói thế cũng không đúng hẳn! Không phải vơ vét mà là đi lục tủ sách của những nhà buôn giàu, của bọn địa chủ, tóm lại là của tất cả những ai vào cài thời ấy có khả năng  mua sách. Ông ta chọn riêng ra những cuốn sách mình cần rồi tịch thu phăng, không ý kiến ý cỏ gì cả! Tôi nói cậu không tin đâu: ông ta kéo lếch thếch sau mình bốn xe ngựa sách, cả một thư viện lưu động, và ông ta chăm lo đến sách cứ như chăm lo đến đạn dược vậy: xe nào cũng có vải bạt phủ, sách thì xếp từng chồng, lại còn lót rơm bên dưới nữa chứ. Rồi dọc đường trú quân, hoặc những lúc nghỉ ngơi, những quãng thời gian giữa các trận chiến đấu, vào mọi lúc rỗi rãi sau giờ ăn, giờ lau chùi vũ khí, ông ta lại dúi sách cho anh em chiến sĩ bắt đọc, rồi sau đó kiểm tra xem có đọc hay không…

Hồi ấy mình còn trẻ, quan tâm đến các em nhiều hơn đến sách, và thú thật chuyên môn lỉnh, không đọc… Mình hầu như mù chữ, và dốt đặc cán mai. Thế rồi một lần ông ta tóm được mình trốn đọc một quyển sách ông ấy đưa cho. Đến tận bây giờ mình vẫn còn nhớ cả tên tác giả lẫn đầu đề cuốn sách… Khoảng hai ngày sau ông ta hỏi mình nội dung quyển ấy, và mình đứng ngây tán tàn. Ông ta mới bảo, và trong những trường hợp  như thế ông ta bao giờ cũng gọi riêng ra một chỗ nói, để người bị nói khỏi xấu hổ trước mặt người khác, ông ta bảo mình thế này: “Cậu nghĩ ra sao vậy? Cậu định sống ở trên đời này như một thằng ngốc đấy hử? Tôi thấy cậu suốt tối qua độc lượn quanh một em. Này, cậu hãy nhồi nhét vào đầu cậu điều này: một đứa con gái có học thì nó cần cóc gì một thằng ngu ngốc vô học như cậu, ngồi chuyện trò với cậu độ dăm phút nó đã chán ngấy; còn một đứa con gái ngu ngốc thì nó hẳn là chẳng cần gì đến cậu: cậu có truyền được tí thông minh nào cho nó đâu, và cũng chưa nhặt đâu được tí thông minh nào. Còn về tất cả mọi cái khác làm nên giá trị anh đàn ông thì người có học và kẻ vô học đều có ngang nhau, thành thử trong mọi trường hợp ưu thế bao giờ cũng thuộc về những người có học. Nghe thủng chưa, hả thằng ngỗng đực?”.

Ông ta nói thế thì mình còn cãi vào đâu được?

Nửa tháng ròng ông ta bám mình dai như đỉa, châm chọc mình, làm mình đến phát khóc, nhưng rốt cuộc đã làm mình quen dần với việc đọc sách, rồi chính mình cũng mê đến nỗi không rứt ra được nữa. Cho đến nay mình vẫn còn nhớ những lời động viên của ông ấy và nói thực ra, bây giờ mình cũng chẳng biết đã nhờ ai mà nên người: nhờ ông bố đã quá cố hay là nhờ đồng chí chính uỷ của mình.

Nextêrenkô ngừng lại một lát, đăm chiêu suy nghĩ, ra chiều buồn buồn. Nhưng một phút sau, không giấu  nổi một nụ cười ranh mãnh anh ta đã hỏi dồn:

- Thế cậu, những lúc rỗi rãi có đọc gì không? Chắc chỉ xem báo thôi chứ gì? Và cũng ít lúc rỗi rãi, có phải không? Phòng đọc sách của các cậu có nhiều sách hay không hả?... Không biết à? Này người anh em ơi, thế thì cũng đáng lấy làm xấu hổ đấy! Thế nhưng cậu đã mò đến phòng đọc sách lần nào chưa đã?... Có hai lần tạt qua thôi hả? Thế thì ăn thua quái gì, cậu ơi! Mình đã đánh giá người đại biểu của giai cấp công nhân Lêningrát cao hơn đấy! Thế là mình đã có đề tài viết thư cho nhà máy của cậu rồi! Nhưng cậu đừng lo, mình sẽ lấy danh nghĩa cá nhân thôi, và viết như thế này: “Đồng chí Đavưđốp, nguyên là công nhân nhà máy các đồng chí, thuộc đoàn Hai vạn rưởi, hiện là chủ tịch nông trang Grêmiatsi Lốc, và các nông trang viên dưới quyền lãnh đạo của anh ấy đang cần sách vô cùng. Họ hết sức cần những sách chính trị và kinh tế phổ thông, sách về trồng trọt, chăn nuôi, nói chung là về nông nghiệp. Một bộ sưu tập sách văn học, cả cổ điển lẫn hiện đại, cũng sẽ được hoan nghênh. Đề nghị các đồng chí, với tư cách là đơn vị đỡ đầu, tặng cho nông trang một tủ sách gồm khoảng ba trăm cuốn, gửi theo địa chỉ sau đây…”. Được không? Viết thế nhá?.. Không muốn à? Cậu không muốn cũng phải! Thế thì cậu phải tự xoay xở, dùng vốn liếng nông trang tự túc lấy một tủ sách, ít nhất là hai ba trăm cuốn. Cậu bảo không có tiền hả? Xoay được thôi, khó quái gì! Cậu cứ đem bán béng một đôi bò gì đi, lạy trời, không sạt nghiệp đâu mà sợ! Thế là cậu sẽ có cả một thư viện, mà thư viện ra trò đấy! Hôm qua mình có xem sổ sách của nông trang, và thấy so với diện tích ruộng đất thì rõ ràng thừa sức kéo. Thế thì tốn cỏ nuôi làm gì vô ích? Cho tẩu đi! Cậu biết nông trang có bao nhiêu bò quá mười tuổi không? Không biết à? Cũng đáng tiếc đấy, nhưng mình có thể nói giúp cậu biết: có chín đôi bò già từ mười tuổi trở lên. Những nhà nông biết làm ăn không bao giờ giữ những của nợ ấy trong chuồng, họ vỗ béo rồi bán luôn. Rõ chửa?

- Rõ chứ sao không rõ, nhưng đàn gia súc thải, trong đó kể cả bò già, chúng tôi đã quyết định để sang thu sẽ bán. Những nhà nông giàu kinh nghiệm đã khuyên tôi làm thế.

- Thế hiện nay đàn gia súc ấy các cậu cho thả rông chứ?

- Không. Chúng nó cũng phải đi làm, đấy là nói về bò, cái ấy tôi biết chắc chắn.

- Cái ông nhà nông giàu kinh nghiệm nào mà lại khuyên cậu sang thu mới bán?

- Lão quản lý Ôxtơrốpnốp, và một tay nào nữa, tôi không nhớ.

- Hừm, hay nhỉ… Cái lão quản lý nhà cậu trước lúc tiến hành tập thể hoá không đầy nửa phút chắc hẳn phải là kulắc. Là nhà nông có kinh nghiệm sao lão ấy lại có thể khuyên cậu cái điều dấm dớ như vậy? Sang thu bán bò, và từ nay đến sang thu lại không tháo ách cho nó? Thế thì các anh sẽ chỉ có da và xương đem bán thôi. Còn mình thì mình khuyên cậu cái khác: bây giờ toàn bộ gia súc định đem bán, cậu cho thả cỏ, rồi vỗ béo bằng thức ăn tinh, và sang hè khi thị trường gia súc khan hiếm và giá thịt cao thì đem bán. Còn như sang thu thì chẳng có bò của các cậu thịt cũng đã ê hề, rẻ như bèo. Thóc các cậu thừa thãi. Vậy có quái gì mà lo? Vả lại, các cậu cứ tự tính đi, mình không muốn can thiệp vào công việc của các cậu. Cậu cũng nên suy nghĩ tí về chuyện ấy… Dù sao thì trước mắt cậu cũng có thể cho vỗ béo một đôi bò già và bán luôn. Nhưng tiền ấy đừng có đem ra chén, mà phải để mua sách. Tóm lại, sao cho sau hai tháng các cậu phải có một thư viện. Đó là một. Hai là, cậu cho chuyển ngay cái phòng đọc sách từ cái lều rách hiện nay sang cái nhà kulắc nào đẹp nhất. Làm thế không sợ sai đâu! Ba là, mình sẽ điều về cho cậu một người phhụ trách thư viện, một cậu tháo vát, và mình sẽ chỉ thị cho cậu ấy hàng ngày, vào buổi chiều, tổ chức đọc sách báo cho bà con nghe.

- Thì anh hãy từ từ đã nào! - Đavưđốp đỏ mặt lên đề nghị. - Tôi xin nói cưa đứt đục suốt với anh là tủ sách sẽ có, xong cái “một là”! Mai tôi sẽ cho dọn phòng đọc sách sang một cái nhà tử tế, xong cái “hai là”! Còn cái “ba là” thì phải để xem đã… Người phụ trách thư viện thì tôi đã nhằm được một cậu, một tay cỡ quốc tế, làm tuyên truyền thì chúa lắm! Nhưng hiện nay hắn ta đang ở dưới sản xuất, gay chính là ở chỗ đó… Tôi cho rằng khu đoàn Kômxômôn sẽ đi tới nhất trí với tôi thôi, và tôi sẽ phân công cho hắn việc ấy.

Nextêrenkô chăm chú nghe anh nói, gật gù, vẻ mặt khó hiểu, chỉ cười bằng đôi mắt:

- Một anh chỉ huy kiên quyết, biết nhanh chóng đưa ra những quyết định đúng đắn là mình mê ghê lắm.. Nhưng dẫu sao về cái phòng đọc sách của cậu, cậu hãy cứ nghe mình nói nốt đã. Hôm qua mình có đến đó. Mình cứ nói thật: một ngôi nhà không lấy gì làm hấp dẫn cho lắm… Trống tuềnh trống toàng và tiêu điều thảm hại! Cửa sổ bụi trắng. Sàn từ đời tám hoánh không cọ rửa. Nồng nặc mùi mốc và những cái mùi khỉ gió gì nữa chẳng biết. Cứ như chui vào nấm mồ vậy, lạy Chúa! Nhưng cái chính là sách chỉ lơ thơ được vài cuốn, và lại cũ rích. Trên một ngăn sách mình thấy một tờ áp phích cuộn tròn, lâu ngày đã vàng khè. Mình giở ra, xem tranh, rồi đọc:

Nhìn đội ngũ chúng ta

Bao thiếu nữ dõi mắt theo trìu mến,

Các mẹ già móm mém cầu nguyện,

Các bố già xúc động tự hào:

Con cái chúng ta dũng mãnh xiết bao

Đánh cho giặc thù tan tác

Hỡi các bạn dân cày giữa ruộng đồng bát ngát

Chớ quên rằng: có đội ngũ cần lao

Đang bảo vệ cho chúng ta yên lành lao động.

Mình nghĩ bụng: à, cái của này thì mình biết lâu rồi đấy! Tấm áp phích ấy mình đã được xem hồi 1920 trên mặt trận chống Vranghen, và từ đó mình nhớ mãi. Thơ của Đêmian Bétnưi đến bây giờ vẫn dùng tốt, nhưng phải nhận rằng năm nay là năm 30 thì cũng nên có một cái gì mới mẻ hơn, liên quan đến hiện tại, đến việc tập thể hoá chẳng hạn…

- Anh quả là tinh mắt, và sắc sảo, - Đavưđốp chưa hết lúng túng, làu bàu nói, giọng ra chiều hoan nghênh chứ không phải khó chịu.

- Cái nghề của mình là phải tinh mắt nhìn, giúp anh em uốn nắn lại những thiếu sót trong công tác, và việc ấy mình làm với tất cả thiện ý đối với cậu, cậu Xêmiôn ạ. Nhưng tất cả những cái đó chỉ là mào đầu thôi, còn bây giờ mới vào đề. Cậu xuống đội đây, bỏ phóng sinh nông trang, bao nhiêu công việc trút hết cho Radơmiốtnốp. Và cậu thừa biết với tình hình hiện nay thì Radơmiốtnốp khó mà ôm nổi một mình, chẳng quán xuyến được công việc. Biết thế chứ gì? Vậy mà cậu cứ làm liều!

- Nhưng chính anh cũng đi gặt trên đồng ruộng Tubianxki đấy thôi! Anh định phủ nhận sức mạnh của tấm gương hay sao?

Nextêrenkô khoát tay một cái không hài lòng:

- Mình xuống làm ở Tubianxki có vài tiếng đồng hồ, để làm quen với anh em thôi, đó là chuyện khác. Còn cậu thì lao xuống đội vì có chuyện đời tư trắc trở. Khác nhau chứ? Mình cảm thấy hình như cậu chạy trốn Luska Nagunôva thì phải… Hay là mình nhầm?

Máu mặt Đavưđốp chảy đi đâu hết sạch. Anh quay đi, tay vặn vặn một cọng cỏ chẳng để làm gì, âm thầm nói:

- Anh cứ nói, tôi xin nghe…

Nhưng Nextêrenkô ân cần đặt nhẹ tay lên vai anh, khẽ kéo anh vào gần mình, nói:

- Nhưng đừng tự ái nhá! Dễ cậu tưởng không dưng mà mình lại đo đường cày của cậu sao? Cậu cày có đôi chỗ sâu hơn cả máy! Cơn giận của cậu, cậu trút xuống đất, và cái đau của cậu, cậu đổ lên đầu bò… Theo lời những anh em biết rõ cậu thì chuyện cậu với Luska hình như đang đi đến phăng teo thì phải. Đúng vậy không?

- Hình như thế.

- Chậc, thế thì chỉ có thể thành thực chúc mừng cậu thôi. Xêmiôn thân mến ạ, chuyện lòng thòng ấy cậu cũng nên mau mau chấm dứt đi. Dân ở đây quý cậu, nhưng có điều không hay là họ ái ngại cho cậu về cái chuyện trăng gió lăng nhăng ấy. Khi người ta ái ngại cho trẻ côi cút và người tàn tật thì đó là chuyện thường tình trong phong tục Nga. Nhưng khi người ta lại đem lòng ái ngại một anh chàng thông minh, hơn nữa lại là người lãnh đạo của mình, thì đối với anh chàng ấy còn có gì đáng xấu hổ và đáng sợ cho bằng? Và điều quan trọng là việc cậu ngớ ngẩn mà đi mê một ả chẳng ra cái quái gì, hơn nữa mới đây còn là vợ của đồng chí mình, theo mình đã ảnh hưởng đến mọi mặt. Nếu không phải là thế thì giải thích sao được những cái sai lầm không thể tha thứ được trong công tác của cậu, trong công tác của Nagunốp? Các cậu đã đâm đầu vào một bụi bòng bong, và nếu các cậu không tự gỡ ra thì huyện uỷ sẽ nhảy vào đấy, nói cậu biết thế!

- Có lẽ tôi nên rời khỏi Grêmiatsi Lốc thì tốt hơn chăng? - Đavưđốp ngập ngừng hỏi.

Nextêrenkô ngắt phăng lời anh:

- Đừng nói dấm dớ! Nếu bị vấy bùn thì trước hết phải tắm rửa sạch sẽ đã rồi hãy nói chuyện đi. Tốt hơn hết là cậu hãy nói mình rõ: cậu có biết Egôrôva, cô giáo, là đoàn viên Kômxômôn không?

- Biết, tôi đã có gặp. - Bỗng dưng Đavưđốp mỉm cười một cái không phải lúc. Anh nhớ lại lần đầu tiên anh gặp cái cô giáo trẻ măng nhút nhát quá đáng ấy hồi mùa đông năm ngoái giữa lúc đang đấu bọn kulắc.

Gặp anh, cô ta vụng về chìa ra bàn tay nhỏ nhắn khum khum lạnh ngắt mồ hồi, rồi đỏ mặt lên đau khổ, tưởng muốn khóc, cô ta nói không ra hơi: “Nữ giáo viên Egôrôva Liútmila”. Hồi ấy Đavưđốp đã đề nghị với Nagunốp: “Cậu nhận cô giáo Kômxômôn này đi, cho nhập đội với cậu. Để con bé ấy được thấy thế nào là đấu tranh giai cấp”. Nhưng Nagunốp lầm lầm nhìn hai bàn tay dài đen sạm của mình, rồi đáp: “Cậu nhận về chỗ cậu ấy, mình chả cần đến con bé ấy làm gì! Nó dạy học trẻ con, có thằng nhóc bị điểm hai, thế là cả cô lẫn trò cùng khóc. Ai đã kết nạp một con nhãi như vậy vào Kômxômôn thế chả biết? Kômxômôn gì nó! Mới nứt mắt!”.

Lần đầu tiên từ lúc buổi đầu Nextêrenkô cau mày lại, nhìn Đavưđốp một cách không bằng lòng:

- Cậu cười gì vậy? Cậu thấy câu mình hỏi kỳ cục lắm sao?

Đavưđốp vụng về cố giải thích nguyên nhân cái cười không đúng lúc của mình:

- Không, có gì đâu, tôi chỉ nhớ lại một chuyện với vẩn về cái cô giáo ấy… Cô ấy nhát cứ như cáy…

- Nhớ lại một chuyện vớ vẩn! Cậu khéo chọn lúc đùa nhỉ! - Nextêrenkô thốt lên bằng một giọng khó chịu ra mặt. - Tốt hơn là cậu hãy nhớ rằng cái cô giáo nhát như cáy ấy là người đoàn viên Kômxômôn duy nhất trong làng các anh đấy! Một làng to như vậy mà không có được cái chi đoàn. Và đó là không phải chuyện vớ vẩn đâu! Ai phải chịu trách nhiệm về chuyện ấy? Trước nhất là Nagunốp, rồi đến cậu, và cả mình nữa. Cậu lại còn cười hả? Cái cười ấy là không hay đâu, Xêmiôn Đavưđốp ạ. Và cậu cũng đừng viện cớ bận nhiều việc cấp bách! Mọi công việc Đảng trao cho chúng ta đều là cấp bách cả. Vấn đề là biết xoay xở.

Đavưđốp đã bắt đầu nóng mặt, nhưng vẫn cố nén, nói:

- Đồng chí Nextêrenkô ạ, đồng chí mới đến Grêmiatsi Lốc có một ngày mà đã phát hiện được bao nhiêu là sai lầm khuyết điểm trong công tác của chúng tôi, kể cả chuyện đời tư của tôi… nếu anh về đây ở từ tháng Giêng thì chắc còn khiếp nữa! Phải ngồi một tuần nghe chưa hết nhận xét của anh, thực tế thế!

Câu nói cuối cùng của Đavưđốp làm cho Nextêrenkô tươi tỉnh lên phần nào. Anh nheo mắt hóm hỉnh, lấy cùi tay huých Đavưđốp một cái:

- Thế cậu, Xêmiôn ạ, cậu có cho là thế này không: nếu không phải mình về “ở” Grêmiatsi từ tháng Giêng, mà cũng kề vai sát cánh làm việc với các cậu thì có thể khuyết điểm sẽ bớt đi chăng?

- Thực tế thế, sẽ bớt,  nhưng vẫn cứ có. Anh cũng chả thoát khỏi sai lầm, thực tế thế! Anh ạ, nhiều khuyết điểm của tôi, tôi cũng nhìn ra, nhưng không phải cái nào cũng sửa được và sửa được ngay, khốn nạn cho tôi là ở chỗ đó, thực tế thế! Mùa xuân vừa rồi, một lần các em học sinh cùng với ông hiệu trưởng tên là Spưn kéo nhau ra đồng diệt chuột. Tôi đi qua đó nhưng chẳng dừng lại, chẳng nói năng một câu, chẳng biết và đến bây giờ cũng vẫn chẳng biết cái ông giáo già ấy sống ra sao. Tôi nói anh nghe, có chuyện khác còn tệ hơn cơ. Mùa đông, ông ta gửi giấy cho tôi xin một chiếc xe ngựa để chở củi. Chắc anh tưởng tôi cho ông ta mượn chứ gì? Không, tôi quên khuấy mất. Bao nhiêu công việc khác làm tôi không còn thời gian lẫn bụng dạ nào nhớ đến ông lão nữa… Đến tận bây giờ cứ nghĩ đến là tôi thấy xấu hổ! Còn về việc chi đoàn Kômxômôn thì đúng thôi. Chúng tôi đã lơ là một công tác quan trọng, và trong việc này, tôi cũng rất có lỗi, thực tế thế!

Nhưng Nextêrenkô đâu phải là người dễ mủi lòng trước những lời ăn năn hối lỗi. Anh chưa buông tha:

- Có điều rất tốt là cậu đã thấy sai lầm của mình và rõ ràng là còn biết xấu hổ. Thế nhưng chi đoàn Kômxômôn có nhờ thế mà mọc ra được đâu, và ông giáo già được tí củi nào đâu… Phải làm, Xêmiôn ạ, chứ không phải chỉ ngồi ăn năn!

- Tất cả những cái đó sẽ được sửa chữa, sẽ làm, hứa với anh như vậy! Nhưng về việc tổ chức chi đoàn thì đề nghị các anh, nghĩa là huyện uỷ, giúp chúng tôi một tay. Các anh cứ cho xin vài ba cô cậu đoàn viên, làm tạm thời một thời gian thôi cũng được. Cô Egôrôva, tôi nói với anh một cách nghiêm chỉnh, là cán bộ tổ chức thì không ra gì. Cô ấy lúc nào cũng bẽn la bẽn lẽn thế thì làm ăn với thanh niên sao được, nhất là đám thanh niên của chúng tôi đây!

Đến lúc này Nextêrenkô mới tỏ vẻ hài lòng:

- Đấy, nói thế thì đã nghe được rồi đấy! Về đoàn Kômxômôn, chúng mình sẽ hỗ trợ, mình hứa, và bây giờ cho phép mình bổ sung thêm một chút vào lời tự phê bình của cậu. Trước ngày Mồng 1 tháng Năm, cửa hàng hợp tác ở đây có xin cậu hai cỗ xe để lên phố quận chở hàng về phải không?

- Có chuyện ấy.

- Cậu có cho không?

- Không cho được. Lúc ấy chúng tôi đang vừa cày, vừa gieo, làm đồng thời. Công đâu mà đi chở hàng.

- Không thể nào dành ra được hai cỗ xe à? Thôi đi, anh cứ nói liều! Dành được quá chứ, và chẳng tai hại gì đến công việc đồng áng cả. Chẳng qua là cậu không biết làm, không muốn làm, không chịu nghĩ: “Việc này sẽ có ảnh hưởng gì đến tinh thần nông trang viên?”. Kết quả là để có những thứ cần thiết cho đời sống như xà phòng, muối, diêm, dầu hoả, và ngày lễ lại đến nơi rồi, chị em Grêmiatsi lại phải cuốc bộ lên phố quận. Thế rồi thì họ sẽ bàn tán với nhau đánh giá chính quyền xôviết của chúng ta như thế nào? Hay là cậu cóc cần? Vậy mà mình với cậu chiến đấu đâu phải là để người ta chửi vào cái chính quyền thân yêu của chúng ta! Không, đâu phải thế! – Nextêrenkô thốt lên bằng một giọng đanh lại bất ngờ. Rồi kết thúc, giọng bây giờ lại thì thào: - Chẳng lẽ một chân lý đơn giản như vậy mà cậu không hiểu sao, hả Xêmiôn? Đồng chí ơi, tỉnh lại đi, và nhúc nhắc lên đi!...

Đavưđốp vê nát mẩu thuốc đã tắt ngấm, mắt nhìn xuống đất, im lặng hồi lâu. Suốt đời anh bao giờ cũng hết sức dè dặt trong việc bọc lộ những tình cảm đang dày vò mình, và cái gì chứ đa cảm uỷ mị thì không ai có thể trách anh được. Ấy thế mà lúc này có một sức mạnh nào không rõ đã thúc đẩy anh ôm chầm lấy Nextêrenkô, thậm chí còn khẽ đặt đôi môi khô cứng lên cái má râu ria lởm chởm của đồng chí bí thư. Giọng anh rung rung xúc động khi nói:

- Cám ơn, anh Nextêrenkô! Rất cám ơn! Anh tốt lắm, và làm việc với anh dễ chịu lắm, chứ không như với anh Korghinxki. Anh nói với tôi những lời nghe rất đắng, nhưng rất đúng, thực tế thế! Duy có điều là, lạy Chúa, anh đừng nghĩ tôi là đồ bỏ đi! Tôi sẽ làm đâu vào đấy, tất cả anh em chúng tôi sẽ cố gắng và làm đâu vào đấy; tôi sẽ xem xét lại nhiều chuyện, bây giờ thì chả thiếu những vấn đề suy nghĩ… Đồng chí Nextêrenkô ạ, đồng chí hãy tin ở tôi!

Nextêrenkô cũng xúc động chẳng kém, nhưng không để lộ ra mặt. Anh ho húng hắng, nheo nheo đôi mắt nâu lúc này đã mất ánh vui vui. Sau một phút im lặng, anh so vai rùng mình một cái, nói nhỏ:

- Mình tin ở cậu, tin ở anh em, và mình trông mong vào cậu, như vào chính mình. Nhớ kỹ điều đó, Xêmiôn Đavưđốp ạ! Chớ phụ lòng tin của huyện uỷ và của mình, chớ đấy nhá! Vì chúng mình, những người cộng sản, bất kể trường hợp nào chúng mình cũng không được quên là phải kề vai sát cánh, như những chiến sĩ trong cùng một đại đội! Điều ấy cậu biết quá đi rồi. Sao cho từ nay mình với cậu khỏi phải có những cuộc chuyện trò khó chịu nữa. Cho qua được rồi đấy! Mình không thích những cuộc nói chuyện như thế này, mặc dầu đôi khi nó vẫn cứ cần. Mỗi lần phải nặng lời, cắn cấu một anh em như cậu là y như rằng đêm ấy mình mất ngủ, lòng đau nhoi nhói…

Xiết chặt bàn tay nóng hổi của Nextêrenkô, Đavưđốp đăm đăm nhìn vào mặt anh và sửng sốt: ngồi bên anh không còn là một còn người kể chuyện có duyên, không còn là một anh chàng xởi lởi ruột để ngoài da, sẵn sàng bông phèng cũng như sẵn sàng vật nhau, mà là một người đã luống tuổi và mệt mỏi. Đôi mắt Nextêrenkô bỗng như già hẳn đi, hai bên mép hằn những đường nhăn sâu, và cả cái màu rám đỏ trên đôi gò má cao của anh cũng dường như phai đi, nhợt vàng. Chỉ có vài phút ngắn ngủi mà Nextêrenkô như đã thay da đổi lốt. Anh nặng nhọc cẩt mình đứng dậy, nói:

- Mình phải đi đây, ngồi với cậu lâu qúa rồi.

- Anh muốn ốm hay sao đấy? – Đavưđốp lo lắng hỏi.- Sao tự nhiên nom phờ phạc.

- Cậu đoán giỏi đấy, - Nextêrenkô nói, giọng rầu rầu. – Mình bắt đầu lên cơn sốt rét. Cái bệnh khốn kiếp ấy, mình mắc phải nó lâu rồi, ở Trung Á, thế rồi từ đó không sao trừ được nó!

- Anh làm gì ở Trung Á? Có việc gì cần mà phải mò ra tận đấy?

- Dễ cậu tưởng mình ra đấy để hái đào chắc? Mình đi quét bọn bạch vệ, thế mà có tí bệnh  sốt rét của bản thân mình, mình không quét nổi. Các ông bác sĩ đã xua nó vào buồng gan cho mình rồi, bây giờ cũng đành phải chung sống với nó thôi. Nhưng này, nhân tiện, đây là điều cuối cùng mình muốn nói với cậu: bọn phản cách mạng đang rục rịch ở khu ta đấy, và ở tỉnh Xtalingrát bên cạnh cũng vậy. Bọn ngu thảm ngu hại ấy hát thế nào nhỉ? “Tiêu diệt ta, chúng muốn tiêu diệt, chúng định tiêu diệt ta…”.

Đavưđốp tiếp luôn vào đó:

- “Và chúng ta cũng không khoanh tay ngồi chờ”.

- Rất đúng. Nhưng dù sao cái tai ta phải giữ rất thính, - Nextêrenkô trầm ngâm gãi gãi một bên lông mày, rồi càu nhàu: - chả còn cách nào khác, đôi khi cũng đành phải cho đi cái vật mình quý… Chúng mình đã kết bạn gắn bó với nhau thì cậu hãy nhận lấy cái đồ chơi này mình tặng cậu, có lúc cần đến nó đấy. Nagunốp đã bị chúng cảnh cáo, cậu nữa cũng phải cẩn thận, kẻo rồi có thể ăn một đòn gì gay hơn…

Anh rút trong túi áo ra một khẩu Braoninh cỡ hai, đặt vào tay Đavưđốp:

- Để tự vệ thì cái vật xinh xinh này có lẽ tác dụng hơn cái lắc lê thợ nguội đấy.

Đavưđốp xiết chặt tay Nextêrenkô, ấp a ấp úng nói:

- Cám ơn anh chí tình, chả biết nói thế nào… ờ, anh chu đáo quá, thực tế thế! Rất là một sự cám ơn!

Nextêrenkô nói đùa:

- Dắt nó vào người ấy, lợi cho sức khoẻ lắm đấy. Nhưng chú ý, đừng có để mất! Những anh cựu chiến binh càng về già càng hay đãng trí…

- Tôi còn sống thì còn nó, và nếu tôi mất nó thì cũng là mất luôn cái đầu, - Đavưđốp khẳng định dứt khoát và đút luôn khẩu súng vào túi sau quần.

Nhưng rồi anh lại rút nó ra ngay, băn khoăn nhìn nó, rồi lại nhìn Nextêrenkô:

- Thế này không ổn… Anh không có vũ khí phòng thân thì làm thế nào hả? Trả anh, tôi không cần!

Nextêrenkô ngượng nghịu gạt bàn tay Đavưđốp chìa ra:

- Không lo, mình còn dự trữ khẩu nữa. Khẩu này là khẩu dùng thường ngày, còn khẩu kia mình giữ như giữ con ngươi của mình, nó là cái tặng phẩm, có khắc tên mình. Cậu tưởng mình đi bộ đội, chiến đấu năm năm mà không được cái gì sao? – Nextêrenkô nháy mắt một cái, và cố mỉm cười nữa, nhưng chỉ rặn ra được một nụ cười rúm ró của kẻ đang ốm.

Anh lại xo ro vì lạnh, rùng rùng đôi vai, cố cưỡng lại cơn run, và nói nhát gừng:

- Hôm qua bác Salưi có khoe với mình món tặng phẩm của cậu. Mình đến chơi bác ấy mà, ngồi uống nước chè pha mật ong bàn luận sự đời với nhau, thế rồi bác ấy lục hòm lấy ra bộ đồ thợ nguội cậu cho, và bảo: “Cả đời lão chỉ nhận được hai cái tặng phẩm: cái túi đựng thuốc lá của bà lão cho khi bà ấy còn con gái và đang xu hướng với anh thợ rèn trẻ là lão lúc bấy giờ, và cái bộ đồ này đây của đồng chí Đavưđốp tặng cho vì thành tích trong công tác rèn của lão. Cả một đời người dài dằng dặc có độc hai tặng phẩm! Ấy thế mà trong cuộc đời đầy muội khói của lão, lão đã rèn nắn biết bao nhiêu là sắt thép, không thể nào đếm được! Bởi vậy cho nên những tặng phẩm này không phải lão chỉ cất trong hòm đâu, mà còn cất trong trái tim lão!”. Ông lão hay thật! Ông ta đã sống một cuộc đời lao động rất đẹp, và nói giọng các cụ, cầu Chúa phù hộ cho mỗi người chúng ta đem lại được lợi ích cho mọi người bằng với cái mà hai bàn tay của ông lão thợ rèn ấy đã mang lại. Cậu thấy đấy, tặng phẩm của cậu so với tặng phẩm của mình còn quý hơn nhiều chứ!

Hai người rảo bước trở về xe lều của đội. Bây giờ thì Nextêrenkô lên cơn run bần bật.

Từ đằng tây, mưa lại đang đổ tới. Những đám mây tơi tả tà tà bay thấp: dấu hiệu đầu tiên của thời tiết chuyển xấu. Hương cỏ non quyện với mùi đất ẩm. Mặt trời vừa ló ra đã ẩn vào trong đám mây đen, và hai con đại bàng thảo nguyên đã xuất hiện, giang đôi cánh rộng đón làn gió mát, bay vút lên tận chín tầng mây. Cái lặng tờ trước cơn mưa trùm lên thảo nguyên như một tấm dạ mềm, duy chỉ còn tiếng bọn chuột đồng lo ngại kêu lên rin rít, báo hiệu sẽ kéo dài:

- Anh vào xe lều nằm nghỉ tí đã rồi hãy đi. Không thì bị mưa giữa đường, ướt hết rồi lại ốm to, - Đavưđốp một mực khuyên Nextêrenkô.

Nhưng Nextêrenkô dứt khoát từ chối:

- Không được. Ba giờ mình phải họp huyện uỷ. Mà mưa không đuổi kịp mình đâu. Ngựa mình hay lắm!

Tay anh run run như một ông lão lụ khụ khi anh tháo cương và xiết lại yên ngựa. Hôn vội Đavưđốp một cái rồi bằng một động tác nhanh nhẹn bất ngờ, anh nhảy phốc lên lưng con ngựa đang sốt ruột đứng chờ, lớn tiếng nói:

- Phóng ngựa một lúc sẽ ấm người lên ngay! – Và anh ra đi theo nước kiệu rảo.

Nghe tiếng vó ngựa bồm bộp, bà Đaria Kuprianốpna ở trong xe lều lao ra như một cục bột nhão bắn ra từ trong chậu nhào bột, và giơ tay lên trời than vãn:

- Đi rồi à? Đi khổ đi sở đâu mà ăn cũng chẳng kịp ăn?

- Anh ấy bị ốm, - Đavưđốp đáp, mắt nhìn theo đồng chí bí thư một lát lâu.

- Thế có chán cho cái thân tôi không cơ chứ! Người tốt ơi là tốt, thế mà để người ta đi bụng đói! Anh ta là cán bộ thật, trông biết mà, nhưng đã không ngại ngồi gọt khoai với tôi lúc anh đang ngủ khì đấy, anh chủ tịch ạ. Anh ta không như các ông tướng kô-dắc nhà ta đâu, thật là một trời một vực! Các ông tướng ấy thì đừng hòng họ giúp mình! Họ thì chỉ chén kễnh bụng rồi chơi trăng tán láo, chứ giúp mình bếp núc thì đừng có mở mồm nhờ họ! Người ở đâu đến thế mà nói năng với tôi ngọt ngào đáo để! Có tìm trăm năm cũng chẳng thấy đâu được ai ăn nói ngọt ngào dễ nghe đến thế! – Bà Đaria Kuprianốpna mín chặt đôi môi đỏ hỏn lại làm duyên, hết lời ca ngợi Nextêrenkô, mắt thì liếc nhìn Đavưđốp xem cảm tưởng của anh ta thế nào.

Đavưđốp chẳng buồn nghe, đầu còn đang bận nghĩ lại cuộc chuyện trò vừa rồi với Nextêrenkô. Nhưng bà Đaria Kuprianốpna đã mở máy nói thì hãm lại đâu phải chuyện dễ, cho nên bà lại tiếp:

- Nhưng anh, anh Đavưđốp ạ, anh cũng là cái đồ chết giẫm, giá anh bảo cho tôi một câu là người ta phải đi thì hay bao nhiêu! Còn tôi thì cũng ngu khổ ngu sở, chả biết trông chừng, thật chán mớ đời! Biết đâu anh ta lại chẳng nghĩ là con mụ cấp dưỡng đã cố tình chui vào xe lều tránh mặt anh ta, mà tôi thì còn tiếc anh ta cái gì nữa…

Đavưđốp vẫn cứ nín thinh, còn bà Đaria Kuprianốpna thì cứ thao thao bất tuyệt:

- Xem anh ta cưỡi ngựa mới ác chứ! Cứ như đẻ ra dưới bụng ngựa và lớn lên trên mình ngựa vậy! Và ngồi vững như bàn thạch, ôi con chim ưng! Một dân kô-dắc chính cống, khỏi nói, mà kô-dắc có tông có giống nữa ấy chứ! – bà ta hồ hởi nói, mắt thích thú nhìn người kỵ sĩ đang phóng như bay.

- Anh ấy không phải kô-dắc, mà là người Ukrain, - Đavưđốp lơ đãng đáp, và thở dài. Trong bụng anh chẳng vui từ sau lúc Nextêrenkô ra đi.

Lời anh đáp làm bà Đaria Kuprianốpna bùng lên như thùng thuốc nổ:

- Chuyện dớ da dớ dẩn ấy anh về nói với bu nó ở nhà ấy, đừng nói với tôi! Tôi nói cấm sai, anh ta đứt đuôi con nòng nọc là dân kô-dắc mà! Mắt mũi anh gà mờ hay sao đấy? Trông dáng cưỡi ngựa từ xa đã đoán ra ngay, huống hồ nhìn tận mắt, qua vẻ người, qua tư thế dáng điệu, và qua cả lời ăn tiếng nói với phụ nữ nữa thì rành rành anh ta là máu kô-dắc, và không phải là loại cà là mèng đâu… - bà nhấn mạnh, giọng đầy ngụ ý.

- Ừ thì kô-dắc vậy, đối với tôi cái đó cũng vô thưởng vô phạt, - Đavưđốp dàn hoà. – Nhưng anh chàng hay đấy chứ nhỉ? Bác thấy thế nào? Chắc bác chuyện trò với anh ta chán chê mê mỏi rồi mới vào đánh thức tôi dậy chứ gì?

Bây giờ đến lượt bà Đaria Kuprianốpna thở dài. Bà thở dài đánh sượt một cái, mạnh đến nỗi đường khâu cái áo cũ kỹ đứt tung ra từ nách xuống dọc thân.

- Người thế hiếm lắm! – chờ một lát rồi bác Đaria Kuprianốpna mới đáp bằng một giọng đầy cảm tình sâu sắc, rồi bỗng dưng vô vớ bà khùng lên, khua nồi xoong bát đĩa loảng xoảng, xếp đi đặt lại trên bàn, mà thực ra cũng chẳng phải xếp đặt, mà là bạ đâu quẳng đó, lung tung…

CHƯƠNG IX

Đavưđốp đi thong thả, nhưng dài bước. Lên tới đỉnh đồi anh dừng lại, ngắm nhìn dãy lán của đội vào giờ này vắng tanh vắng ngắt,  nhìn cánh đồng đã cày thoải ra trên sườn bên kia hầu như tới tận chân trời. Những ngày qua anh đã làm tận lực, khỏi nói, và mong rằng cả cô Varia lẫn cặp bò của Kônđrát không giận vì anh đã bắt làm chí chết… Đến tháng Mười ra nhìn cánh đồng  này thì vui mắt phải biết: những bụi lúa mì đông xanh rờn sẽ ken dày đặc khắp cả, sương giá ban mai sẽ rắc vẩy bạc lên chúng, và đến giữa trưa, khi mặt trời lơ lửng chênh chếch trên bầu trời xanh nhạt đã toả nắng ấm, cánh đồng sẽ long lanh đủ ngũ sắc cầu vồng, tưởng đâu như vừa sau một trận mưa rào, và mỗi giọt sương sẽ phản chiếu trong nó cả cái bầu trời thu lạnh lẽo, cả những đám mây trắng mịn như lông tơ và cả vầng mặt trời mờ dịu…

Đứng đây, nhìn từ xa, cánh đồng với một đường viền cỏ xanh nom như một tấm thảm nhung đen trải rộng. Duy chỉ ở rìa phía bác, nơi đất á sét dâng lên sát mặt ruộng, là có một vệt nâu nhấp nhô điểm những mảng xém hung hung đỏ. Dọc các luống, loang loáng những tảng đất đen bị lưỡi cày lật lên và miết nhẵn; trên trời mấy con quạ đang chao lượn; và trên nền đen của cánh ruộng hiện ra một vệt xanh xanh, nom như một bông hoa điểm tuyết lẻ loi, đó là Varia Kharlamôva, đầu rũ xuống, đang lững thững lê bước về lán, quẳng lại đó một công việc lúc này đối với cô không còn tí lý thú gì nữa. Và trên một luống cày, Maiđanhikốp ngồi lẳng lặng hút thuốc. Không có người dắt bò thì anh còn việc gì để làm nữa, bó tay bất lực trước đôi bò đang bị một đám ruồi trâu lăn xả vào tấn công.

Trông thấy Đavưđốp dừng chân lưng đồi, Varia cũng dừng lại, nhanh nhẹn tháo tấm khăn vuông ra khẽ vẫy anh. Cái vẫy gọi ấy lặng lẽ và rụt rè đó làm anh  phải mỉm cười. Anh cầm mũ kêpi vẫy đáp, rồi bước đi không ngoái lại. Anh vừa đi vừa nghĩ lan man:

“Con bé ngang quá! Xinh thì xinh thật, nhưng được nuông quen thân rồi, và ngang như cua. Nhưng trên đời này có đứa con gái nào mà lại không được nuông nhỉ? Đến cái  mức không sinh ra điệu tí tỉnh? Những loại như thế cả đời mình chưa hề gặp, cũng như chưa hề nằm mơ thấy bao giờ… Các cô nàng xinh đẹp ấy, hễ cứ ngấp nghé mười sáu mười bảy là y như rằng bắt đầu làm đỏm làm dáng đủ trò, đem anh em ta ra sẽ sàng thử sức mạnh quyến rũ của họ, ối giào ơi, thực tế thế! Đấy như cô ả Varia hẩm hiu kia đang định cưa ta đấy, để trổ tài mà! Nhưng em ơi, đừng hòng, lính thuỷ Bantích đây, đâu phải bỡn! Nhưng cô ả đi về xe lều làm gì thế nhỉ? Thủng thà thủng thỉnh thế kia có nghĩa không phải Kônđrát sai về có việc, mà là tự tiện bỏ về, cái kiểu con gái chơi chướng. Hay là vì không có mặt mình ở đội nữa chăng? À, nếu như thế thì bậy quá đấy và là một sự trắng trợn vi phạm kỷ luật lao động! Nếu như cô ả đi có lý do chính đáng thì được thôi, xin mời, còn nếu là hứng lên mà đi thì đến cuộc họp đội, phải cạo ngay cho một trận, trẻ cũng mặc, xinh cũng mặc! Việc cày bừa đồng áng đâu phải trò chơi đu và xin cô em hãy làm ăn tử tế cho tôi nhờ”, - Đavưđốp nghĩ đến đó đã cảm thấy nóng gáy.

Lúc này anh có một cảm giác hay đáo để, trong lòng như xẻ làm đôi: một mặt anh bực mình với cái lối tự tiện vô kỷ luật của Varia, nhưng mặt khác anh cũng thấy khoan khoái vì có người con gái đã bỏ công bỏ việc vì anh…

Anh nhớ đến một anh bạn ở Lêningrát của mình, cũng là dân lính thuỷ cũ, cứ mỗi lần bắt đầu tán cô nào là lại kéo anh ra một chỗ, bí mật thì thà thì thào vào tai anh, cố ra vẻ nói như thật: “Xêmiôn ơi, mình tiến vào tiếp cận địch đây. Trong trường hợp mình gặp khó khăn, cậu hãy bắn tạt sườn chi viện cho mình, còn nếu như mình địch không nổi thì cậu chịu khó yểm trợ cho cuộc rút lui nhục nhã của mình”. Nhớ lại chuyện cũ xa xôi ấy anh mỉm cười, và liền theo đó nghĩ bụng: “Không, cái “quân địch” Varia kia thì mình “tiếp cận” làm quái gì cho mệt. Tuổi tác khác  nhau, quân chủng khác nhau… Vả lại, mình mà bám nó thì thế nào bà con  nông trang viên cũng sẽ kháo nhau ngay rằng mình có thiên hướng đặc biệt với giới phụ nữ. Thiên hướng cái con khỉ gì khi có độc một ả Luska kia mà mình cũng cóc biết làm cách nào rũ ra được. Không, một con bé dễ thương như Varia thì chỉ có thể yêu một cách nghiêm chỉnh, chứ đùa với nó thôi thì lương tâm mình không cho phép. Nó là một đứa thật là trong sáng, cứ như buổi bình minh một ngày đẹp trời, nó  nhìn mình với đôi mắt thật là thanh khiết… Mà yêu một cách nghiêm chỉnh thì mình có được học tập gì đâu, có biết mô tê gì đâu, vậy thì lung lạc con bé ấy làm gì cho khổ thân nó. Thôi, anh lính thuỷ Đavưđốp ơi, nhổ neo đi, cao chạy xa bay đi thôi!... Và nói chung, mình nên xa nó đi. Cần lựa lời giải thích cho nó, để nó khỏi tự ái, rồi.. phăng teo”, - Đavưđốp quyết định như vậy và bất giác thở dài.

Nghĩ lan man về cuộc sống khá khắc khổ của mình ở Grêmiatsi Lốc, về những nhiệm vụ mà đồng chí bí thư mới của huyện uỷ đã đặt ra cho anh, đầu óc anh lại quay trở lại chuyện Luska: “Cái nút ấy làm thế nào gỡ cho khỏi đau được nhỉ? Cái cậu Maka nhà ta nói thế mà chí lý: tay không cởi được, răng không cởi được, thì phải chặt! Mả mẹ nó, cái chuyện rắc rối thật! Cắt đứt với cô ả thì sẽ gay cho mình lắm đó. Nhưng sao lại thế nhỉ? Tại sao Maka coi cứ nhẹ như lông hồng, mà mình thì lại gay? Mình thiếu nghị lực chăng? Chẳng có lẽ! Và biết đâu đối với Maka cũng chẳng phải là dễ dàng, chỉ là vì anh ấy không để lộ ra mà thôi. Chắc thế, lòng vả cũng như lòng sung, nhưng Maka biết giấu nỗi đau khổ của mình, còn mình thì không, mình chịu. Đó, tất cả vấn đề là ở chỗ ấy đó”.

Đavưđốp đi đã được một quãng đường dài từ lúc nào chẳng hay. Anh ngả lưng dưới bóng một bụi sơn trà bên lề đường nằm nghỉ và làm một điếu thuốc. Anh nghẫm nghĩ hồi lâu, cân nhắc xem đứa nào đã bắn Nagunốp, nhưng rồi anh hậm hực gạt phăng đi mọi điều phỏng đoán: “Chả cần có chuyện bắn trộm ấy cũng thừa biết là sau khi đánh đổ bọn kulắc, trong làng vẫn còn một bọn chó chết. Mình sẽ gặp Maka, nghe cậu ấy kể đầu đuôi, lúc ấy vấn đề có lẽ sẽ rõ ra là thế nào, vậy hơi đâu mà nát óc vô ích”.

Anh bỏ đường cái, rẽ tắt đâm thẳng qua đồng cỏ hoang. Nhưng đi chưa được nửa cây số thì bỗng thấy như vừa vượt qua một đường ranh giới vô hình, bước sang một thế giới khác: cỏ dại không xào xạc đập vào ống giày ủng của anh nữa, bốn bề hoa đồng đã biến đâu mất sạch, không còn phô màu nữa, hương nồng của mọi loại hoa thơm cỏ dại đã tan biến, và thảo nguyên trần trụi, xám xịt, ảm đạm trải dài ra trước mắt anh.

Cái mảnh đất hoang dại như vừa trải qua một trận hoả hoạn tàn phá ấy, nom nó tang tóc đến nỗi Đavưđốp cảm thấy trong bụng nao nao. Nhìn quanh một vòng, anh hiểu rằng mình vừa bước ra phía đỉnh “Lũng chó sói”, tới cái giải đất hoang mà một lần Iakốp Lukits có nhắc tới trong một cuộc họp ban quản trị: “Ở vùng Cápcadơ, Chúa đã nặn ra toàn những núi là núi để làm gì chẳng biết, mặt đất chỗ nào cũng lổn nhổn những u bướu thổ tả, người cũng chịu, ngựa cũng chịu, không lèn chân qua được. Và sao Chúa lại chơi khăm chúng ta, nghĩa là bà con kô-dắc Grêmiatsi chúng ta như vậy, tôi thật chẳng hiểu. Gần năm trăm đêxiachin đất tốt đã bị Chúa làm cho chua mặn đến nỗi từ thuở khai thiên lập địa đến nay cấm có cày, cấm có gieo được cái gì. Mùa xuân có thể thả súc vật ra đó được, nhưng chỉ được mấy bữa thôi, rồi sau đó cứ nhổ toẹt vào cái đất khốn khổ khốn nạn ấy, đừng mò ra nữa làm gì mất công, cho đến tận mùa xuân sang năm. Tất cả ích lợi của nó chỉ có thế này đây thôi: nó nuôi đàn cừu Grêmiatsi được nửa tháng với mức vừa đủ để khỏi chết đói, rồi sau đó nó chỉ còn là một ô trên bản đồ địa chính của chúng ta và làm nơi trú ngụ của đủ loại thằn lằn rắn rết”.

Đavưđốp chậm bước lại, vòng tránh những mô đất mặn, bước qua nhưng hố sâu do móng bò, móng cừu đào xuống, những cái hố mà miệng đã bị những cái lưỡi ram ráp của đám cừu, bò liếm nhẵn bóng, và đất ở thành hố xám từa tựa màu xám của viên đá hoa cương.

Giải thảo nguyên ảm đạm ấy kéo dài khoảng năm cây số tới tận “Khe ướt”. Nó bàng bạc màu xám nhờ nhờ của những bụi cỏ dại, màu đất mặn khô cằn và nứt nẻ dưới ánh mặt trời, nó bốc lên những làn hơi rung rinh và nó thở ra cái hơi nóng hầm hập của buổi giữa trưa. Nhưng ngay cả ở đây, trên mảnh đất cằn cỗi này, sự sống vĩnh hằng vẫn ngự trị: dưới bước chân đi của Đavưđốp chốc chốc lại tanh tách bay vù lên những chú cào cào cánh đỏ; những ả thằn lằn xám màu đất lặng lẽ bò đi; chuột đồng kêu chin chít báo động cho nhau; một chú diều hâu lượn là là mặt đất, hoà mình vào những bụi cây vũ mao và tròng trành đôi cánh ở những khúc liệng; những ả sơn ca nhẹ dạ tin người thản nhiên để cho Đavưđốp tới sát mới cất cánh, vẻ như miễn cưỡng, rồi bay vút lên cao, chìm đi trong màn khói màu xanh sữa của bầu trời không gợn bóng mây, và từ trên cao đó rót xuống tiếng hót không bao giờ cạn của chúng, nghe nhỏ đi, nhưng êm ái hơn.

Sắp sang xuân, khi tuyết bắt đầu tan loang lổ từng đám, đàn chim sơn ca lại bay về cái mảnh đất cằn cỗi và không hiểu sao lại được chúng ưa thích này, xây tổ bằng những cọng cỏ mục lứa năm ngoái, sinh con đẻ cái, và từ đó cho đến giữa thu, chúng làm thảo nguyên tươi vui lên bằng tiếng hót của chúng, tiếng hót mộc mạc nhưng đối với con người là thân tình ngay từ những ngày thơ ấu. Đavưđốp suýt xéo phải một trong những tổ chim đan rất khéo trong lòng  một hố chân ngựa. Anh giật mình rụt cẳng lại, cúi xuống nhìn. Thì ra là một tổ cũ đã bỏ, xung quanh vương vãi những chiếc lông chim tí xíu dính bết lại vì nước mưa, những mảnh vỏ trứng vỡ nho nhỏ.

“Con mẹ đã tha con đi đâu rồi. Giá được xem mấy chú sơn ca con thì cũng hay đấy chứ nhỉ! Mình chả nhớ, không biết hồi bé mình đã được xem lần nào chưa, - Đavưđốp nghĩ bụng. Và anh buồn rầu nhếch mép cười: - con chim tí tẹo nào cũng xây tổ, sinh con đẻ cái, còn mình thì cứ khấp khểnh cuộc đời độc thân đã gần bốn chục năm trời, và cũng chẳng biết liệu mình có được trông thấy mặt con mặt cái không… Về già mình mới lấy vợ hay sao?”.

Đavưđốp bật cười ra tiếng, thoáng mường tượng cái cảnh mình là một ông chồng khệ nệ đứng đắn, cặp kè một bà vợ phì nộn, kiểu bà cấp dưỡng Đaria Kuprianốpna, với một đàn con lúc nhúc lớn bé đủ các tuổi. Anh đã từng nhìn thấy những tấm ảnh gia đình như vậy bày ở tủ kính các hiệu ảnh tỉnh lẻ. Cái ý nghĩ lấy vợ vừa bất chợt nảy ra trong đầu óc anh, anh thấy nó buồn cười và ngô nghê quá nên anh chỉ khoát tay một cái và rảo bước về làng.

Đavưđốp không đi về nhà mà đi thẳng đến trụ sở nông trang. Anh nóng ruột muốn hỏi cho rõ chuyện đã xảy ra với Nagunốp.

Sân trụ sở rộng thênh thang cỏ mọc loăn xoăn lúc này vắng tanh vắng ngắt, chỉ có mấy con gà mái nhà hàng xóm đang uể oải bới bới đống phân bên chuồng ngựa, và con dê, không hiểu sao lại được đặt tên là con Tơrôphim, đang đứng lặng dưới mái hiên kho, trâm ngâm như một ông già. Thấy Đavưđốp tới, nó hoạt lên, hiên ngang vểnh bộ râu dê, giậm chân tại chỗ mấy cái rồi nhong nhong lao lên phía trước. Nửa đường nó cúi đầu xuống, ngỏng cái đuôi chổi sể cũn cỡn lên với một thái độ hiếu chiến, và chuyển sang phi nước đại. Ý đồ của nó lộ liễu quá làm cho Đavưđốp phải mỉm cười dừng lại trong tư thế sẵn sàng ứng chiến cái tên gây gổ dài râu ấy.

- Đón ông chủ tịch kiểu thế à? Giày tây ông đá phốc cho một cái bây giờ, con quỷ già! – Đavưđốp cười nói, và nhanh tay tóm lấy cái sừng khía xoáy trôn ốc của con dê. – Nào, bây giờ ta vào trụ sở thanh toán với nhau chuyện này, anh bạn nối khố của bác Suka ạ, anh là dân vô công rồi nghề chuyên môn đi cà khịa!

Con Tơrôphim tỏ ra thái độ hoàn toàn quy phục: nó ngoan ngoãn lon ton chạy bên Đavưđốp, chỉ thỉnh thoảng lúc lắc cái đầu, cố gỡ sừng ra một cách từ tốn. Nhưng tới bậc đầu tiên bước lên thềm, nó kiên quyết đu cả bốn chân kìm lại, và khi Đavưđốp cũng dừng lại, nó tin cậy vươn cổ về phía anh, hít hít đánh hơi túi áo, đôi môi xám ngoét mấp ma mấp máy nom đến ngộ nghĩnh.

Đavưđốp lắc đầu chê và mắng mỏ nó, cố sao cho giọng mình có sức biểu cảm cao nhất:

- Ê, cái con Tơrôphim này! Già nua tuổi tác rồi, lại là nông trang viên về hưu nữa, nói thế không ngoa đâu, thế mà vẫn chứng nào tật nấy, chuyên môn đi gây sự, và gây sự không xong thì xoay ra ăn mày mẩu bánh. Xấu lắm, dơ dáng ấy nữa chứ, thực tế thế! Nào, mày hít hít cái gì?

Đavưđốp móc ra một mẩu bánh mì ỉu nằm trong đáy túi, dưới túi thuốc và bao diêm, phủi sạch những vụn thuốc lá dính vào bánh và không hiểu sao đưa lên mũi ngửi đã rồi mới chìa món quà nhỏ của mình cho con dê. Con dê khúm núm nghiêng đầu cầu khẩn, nhìn Đavưđốp bằng đôi mắt khôn ranh của một con Dương thần già (*), nhưng chỉ vừa mới ngửi qua mẩu bánh nó đã khinh bỉ phì ra một cái, chững chạc bỏ đi ra khỏi thềm.

- Chưa đến lúc đói meo mõm mà, - Đavưđốp tự ái ra mặt, nói: - Mày chưa biết mùi đời lính, đồ quỷ già, chứ nếu không thì mày đã nhai ngấu nhai nghiến nuốt chửng rồi! Bánh bị tí mùi thuốc lá, thế thì đã sao nào! Mày dứt khoát là có máu quý tộc, đồ ăn hại, cho nên mày mới kênh kiệu thế chứ, thực tế thế!

Đavưđốp quẳng mẩu bánh đi, bước vào hành lang mát rượi, múc một ca nước trong thùng, nốc cạn. Chỉ đến bây giờ anh mới cảm thấy thấm mệt vì cuộc đi bộ dưới trời nắng oi.

Trong trụ sở chỉ có độc Radơmiốtnốp và anh kế toán. Thấy Đavưđốp về, Radơmiốtnốp toét miệng ra cười:

- Về đấy hả, ông lính thuỷ? Chà, thật là mình trút được gánh nặng ngàn cân! Ốm xác với cái việc chỉ đạo nông trang này, khổ thấy cha thấy mẹ! Lúc thì lò rèn hết than, lúc thì gầu giếng gãy, lúc thì ông nọ tới mè nheo, lúc thì bà kia tới ám… Cái công việc nhức đầu nhức óc này thật chả hợp với mình tí nào. Mình phải ngồi đây thêm tuần lễ nữa khéo mình sẽ phát rồ phát dại lên mất, nom không ra cái chó gì!

- Cậu Maka thế nào?

- Vẫn sống sờ sờ ra đấy.

- Ai chả biết vẫn sống, nhưng đã bình phục chưa?

Radơmiốtnốp bĩu  môi:

- Ô hay, bị có viên đạn mà cậu bảo bình phục? Dễ cậu tưởng chúng nó bắn cậu ấy bằng pháo 76 li chăng? Chậc, hắn có choáng váng tí, lấy rượu vốtka rửa chỗ đạn bắn xước da, rồi chỗ còn lại của nửa lít vốtka hắn dốc tuột vào mồm, thế là hết chuyện.

- Bây giờ hắn đâu?

- Xuống đội.

- Câu chuyện đầu đuôi thế nào?

- Rất chi là đơn giản: đêm hôm ấy cậu Maka ngồi bên cửa sổ mở toang, với nhà học giả là bác Suka ngồi đầu bàn đối diện. Thế rồi có đứa dùng súng trường bắn vào Maka. Đứa nào bắn, cái đó thì chỉ có bóng đêm biết được, duy có một điều là rõ: khẩu súng ở trong tay một thằng cà là mèng.

- Sao kết luận thế?

Radơmiốtnốp tròn xoe mắt ngạc nhiên:

- Lại còn “sao” à? Thế cậu, cách ba mươi bước cậu cầm súng trường có bắn trượt không? Sáng hôm sau chúng mình đã tìm thấy chỗ thằng ông mãnh nấp bắn. Căn cứ vào chỗ đui đạn rơi mà. Chính chân mình đo: đúng hai mươi tám bước, từ hàng rào vào đến thềm.

- Đêm hôm thì ba mươi bước cũng có thể bắn trượt.

- Không, không đời nào, - Radơmiốtnốp gân cổ cãi lại. – Mình thì không thể trượt được! Ông không tin, cứ thử xem: đêm nay ông cứ ngồi đúng chỗ cậu Maka ngồi, và đưa tôi khẩu súng trường. Chỉ cần độc một viên tôi sẽ khoan cho ông một cái lỗ xinh xinh giữa sống mũi. Thành ra rõ rành rành thằng bắn là một dân tò te, chứ không phải lính thực thụ.

- Kể rõ hơn một tí tớ nghe.

- Mình sẽ kể tỉ mỉ đầu đuôi. Gần nửa đêm, mình nghe thấy trong xóm có tiếng súng bắn: một tiếng trường, rồi hai tiếng nhỏ hơn, kiểu như súng lục, rồi lại một tiếng nổ đanh, tức là súng trường, nghe tiếng phân biệt rõ lắm. Mình vớ vội khẩu súng lục dưới gối, đâm bổ ra đường, vừa chạy vừa kéo quần. Mình chạy đến nhà Maka; tiếng súng nổ nghe có vẻ từ phía ấy lại. Thú thực là mình đã nghĩ bụng: thằng cha Maka lại giở trò gì ra đây…

Mình chạy bổ tới nhanh như chớp. Mình đấm cửa: cửa đóng chặt, nhưng nghe bên trong có tiếng người rên rỉ. Thế là mình lấy vai hích hai cái thật lực, bật tung then cửa ra, nhảy xổ vào bên trong nhà, đánh que diêm lên. Trong bếp, dưới gầm giường có hai bàn chân người thò ra. Mình liền túm lấy, và lôi. Ôi cha mẹ ơi, cái của khỉ dưới gậm giường ấy nó rống lên ăng ẳng mới khiếp chứ! Thậm chí mình phát hoảng lên nữa, nhưng mặc, cứ thế mình lôi dần. Mình lôi xềnh xệch cái lão ấy ra giữa gian bếp, lúc ấy mới té ra không phải là một lão, nghĩa là không phải một ông lão, mà là bà lão chủ nhà. Mình hỏi bà lão, Maka đâu, nhưng bà ấy sợ quá không cạy răng thốt ra được một lời.

Mình đâm bổ sang phòng Maka, mình vấp phải vật gì nhùn nhũn, ngã dúi xuống, đứng bật dậy, hết cả hồn vía. Mình nghĩ bụng: “Thế nghĩa là Maka bị chúng nó bắn chết rồi, cậu ấy nằm đây đây”. Mình lóng ngóng đánh diêm lên, nhìn: lão Suka đang nằm sóng soài dưới sàn, ti hí một mắt nhìn mình, còn mắt kia nhắm tịt. Trán và một bên má lão có máu. Mình hỏi lão: “Sống đấy chứ? Cậu Maka đâu?”. Nhưng lão lại hỏi lại mình: “Anh Anđrây ơi, vì Chúa, làm ơn nói cho lão biết lão còn sống hay đã chết rồi?”. Nhưng giọng lão nói nghe nhỏ nhẻ yếu đuối quá, tưởng đâu như lão sắp về chầu trời thật vậy… Mình mới động viên lão, bảo: “Bác còn múa lưỡi được nghĩa là tạm thời vẫn còn sống. Nhưng xem ra thì bác sặc mùi người chết rồi…”. Lão oà khóc, bảo: “Thế thì đích thị phần hồn lão đang lìa khỏi phần xác đây, cho nên mới có cái mùi nằng nặng thế. Nhưng nếu tạm thời lão còn đang sống thì lão cũng sắp chết đến nơi rồi: trong sọ lão có một viên đạn mà”.

- Chuyện gì mà lăng nhăng! – Đavưđốp sốt ruột cắt ngang. – Sao mặt lão lại có máu? Chả còn hiểu cái chết tiệt gì cả! Lão cũng bị thương sao?

Radơmiốtnốp mỉm cười kể tiếp:

- Nào có ai bị thương đâu, yên ổn cả. Thế rồi, mình ra đóng cửa sổ lại đề phòng bất trắc, châm đèn lên. Lão Suka vẫn nằm ngửa đó, im như thóc, chỉ khác là con mắt kia lão đã nhắm nốt lại và hai tay chắp lên bụng. Lão nằm như nằm trong sáu tấm, không cựa, y xì người chết rồi! Lão lễ phép đề nghị bằng một giọng lí nhí: “Anh ơi, vì Chúa, anh đi gọi hộ bà nhà lão. Trước khi nhắm mắt, lão muốn giối giăng vài lời!”.

Mình cúi xuống, cầm đèn soi. – Radơmiốtnốp phì cười, cố lắm mới khỏi cười phá lên. – Mình soi, và thấy trên trán, nghĩa là trên trán lão Suka, thò ra một mẩu dằm thông… Thì ra là viên đạn sượt qua khung cửa sổ đã làm bắn tung ra một mẩu dằm gỗ nó cắm phập vào trán lão Suka. Lão dớ dẩn tưởng đó là viên đạn, và thế là lăn kềnh ngay ra đất. Lão đang giả vờ chết, còn mình thì cười một trận gần chết. Đường nhiên là mình rút mẩu dằm ra cho lão, và bảo: “Tôi trích viên đạn ra cho bác rồi đấy, bây giờ dậy thôi, không việc gì phải nằm ườn ra nữa, nhưng bố nói đi cho con nhờ: cậu Maka chạy đâu rồi?”.

Mình thấy bố Suka nhà ta tươi tỉnh hẳn lên, nhưng có mặt mình đấy mà ngồi nhỏm dậy thì trơ quá, nên lão không dậy, cứ quằn quại dưới đất… Và cái lão ba hoa bất trị ấy cứ nằm thế mà lải nhải như đấm vào tai mình. Lão nói: “Khi quân địch xả súng vào lão, cho lão một phát trúng giữa trán, lão ngã đổ kềnh ra như bị sét đánh, nằm bất tỉnh nhân sự, trong khi đó thì anh Maka tắt phụt đèn, nhảy tót qua cửa sổ, chuồn đi đâu không biết. Đấy, thật là chán mớ đời cái tình bằng hữu: lão bị thương nằm đó, nửa sống nửa chết, còn anh ta thì sợ mất mật bỏ chạy, mặc xác lão cho quân thù giày xéo. Anh Anđrây ơi, anh đưa lão cái viên đạn nó xuýt giết lão chết toi xem nào. Nếu nhờ ơn Chúa lão tai qua nạn khỏi được, lão sẽ giữ nó ở chỗ bà lão, đặt trên bàn thờ thánh giữ làm kỷ niệm cho muôn đời sau!”.

Mình trả lời lão: “Không, tôi chả thể đưa cho bác xem viên đạn ấy được đâu, nó bê bết máu, bác trông thấy nó thì lại ngất xỉu đi lần nữa mất thôi. Viên đạn lịch sử này chúng tôi sẽ gửi đi Rôxtốp để bày vào viện bảo tàng”. Nghe thế, lão càng khoái tợn, quay phắt sang nằm nghiêng, miệng hỏi: “Này, anh Anđrây ơi, do cái vết thương oanh liệt này, và do cái sự lão đã đánh lui được quân thù như vậy, có thể lão sẽ được thượng cấp gắn cho cái huy chương gì cũng nên đấy nhỉ?”. Đến đây thì mình không thể chịu được nữa. Mình dúi cái dằm vào tay lão, bảo: “Đây, viên đạn của lão đây, cái của này viện bảo tàng không thèm. Lão mang về bày lên bàn thờ mà làm kỷ niệm, nhưng trước hết hãy xéo ngay ra giếng rửa ráy cho sạch cái oanh liệt của lão đi đã, và sửa sang lại quần áo, kẻo người lão nồng nặc như cái hố phân”

Lão Suka lủi ra sân, đi mất tăm, và chẳng bao lâu sau cậu Maka xuất hiện, thở hổn hển như con ngựa phi mệt lử. Hắn ngồi vào bàn, nín thinh. Thở một trận hết mệt, hắn mở miệng: “Sểnh mất cái thằng chó chết ấy rồi! Mình tương hai phát. Tối quá, không nhìn rõ đầu đuôi, cứ bắn bừa, trượt cả. Còn nó thì đứng lại, bắn trả lại mình phát nữa. Cứ như có ai túm áo varơi mình giật mạnh một cái vậy”. Maka vạch tà áo varơi ra, và quả đúng là ở lườn bên phải, trên thắt lưng một tí có lỗ đạn xuyên qua. Mình hỏi cậu ấy có nhận ra là đứa nào không? Cậu ấy cười khẩy: “Mắt mình đâu phải mắt cú. Mình chỉ biết nó là một thằng trẻ trẻ, vì nó nhanh thoăn thoắt. Người có tuổi không chạy được thế đâu. Mình đuổi theo nó, chẳng ăn thua mẹ gì cả! Thằng ấy thì ngựa đuổi cũng không kịp”. Mình bảo cậu ấy: “Sao cậu lại liều thế nhỉ? Không biết chúng nó có bao nhiêu đứa mà lại đuổi theo? Thế ngộ nhỡ có hai thằng nữa nấp phục ở hàng rào thì sao? Và chỉ cần một thằng thôi cũng có thể đợi cậu tới sát, bắn cho chết tươi”. Nhưng Maka thì có nghe ai bao giờ? Hắn bảo: “Thế theo cậu thì mình phải làm thế nào? Tắt đèn rồi rúc xuống gầm giường chắc?”. Đấy, đầu đuôi là như thế. Đối với cậu Maka, hậu quả duy nhất của vụ mưu sát này là hắn bị sổ mũi.

- Sao lại sổ mũi?

- Ấy là cậu ấy bảo thế, còn sao thì có trời biết, và chính mình cũng lấy làm lạ. Ồ, sao cậu lại cười? Đúng là sau vụ mưu sát ấy hắn bị sổ mũi kinh khủng thực. Mũi hắn chảy nước như tháo cống, và hắt hơi liên tục, cứ như súng máy bắn.

- Chẳng qua là do anh ấy học thức kém mà thôi, - bác kế toán, một dân kô-dắc đứng tuổi đã từng làm văn thư trung đoàn, càu nhàu nói. Bác ta đẩy ngược lên trán đôi kính gọng bạc dùng lâu đã xỉn, và nhắc lại bằng một giọng khô khốc: - Chẳng qua là đồng chí Nagunốp đã tỏ ra là một người kém học thức!

- Bây giờ thì những người kém học thức lại càng hay bị ăn đòn, - Radơmiốtnốp cười khẩy, nói. – Đấy như ông là người học thức ác, bàn tính gẩy như gió, chữ viết như rồng bay phượng múa thì chúng nó có bắn vào ông đâu, mà lại bắn vào Nagunốp…- Và quay sang Đavưđốp, anh kể tiếp: - Sáng hôm sau, mình đến thăm cậu ấy từ sớm tinh mơ, thấy hắn đang tranh cãi với ông y sĩ cái gì kịch liệt lắm, nghe đến ma cũng không biết đằng nào mà lần. Lão y sĩ bảo là cậu Maka bị sổ mũi là do đêm khuya ngồi bên cửa sổ mở toang bị trúng phong nhiễm lạnh. Còn cậu Maka thì cứ nhất định sổ mũi là do viên đạn đã chạm vào dây thần kinh mũi. Lão y sĩ vặn lại; “Viên đạn đi qua mé trên tai, sượt vào thái dương, sao lại chạm vào dây thần kinh mũi được?”. Cậu Maka đối đáp lại: “Sao nó chạm được thì không việc gì đến ông; thực tế là nó đã chạm rồi, và nhiệm vụ của ông là chữa cho người ta khỏi cái  bệnh sổ mũi thần kinh ấy, chứ không phải nói ba lăng nhăng về những cái ông không biết”.

Cậu Maka là thằng tổ sư cha bướng, mà cái ông lão y sĩ cũng chẳng kém, kẻ tám lạng người nửa cân. Ông ấy cãi: “Anh đừng đem những chuyện dấm dớ ấy ra bịp tôi. Người ta bị thần kinh thì chỉ giật giật mi mắt thôi chứ không giật cả hai mí, rung rung một bên má chứ không rung cả hai bên. Cớ làm sao trong trường hợp này anh bị sổ mũi, không sổ một lỗ mà lại sổ cả hai lỗ mũi? Rõ rành rành là do cảm lạnh”.

Cậu Maka im lặng một tí, rồi hỏi: “Này, ông y sĩ đại đội ơi, ông đã bao giờ bị ai quại cho một quả vào mang tai chưa?”.

Đề phòng xảy ra chuyện gì không hay, mình kéo ghế ngồi gần vào hắn, để còn kịp túm tay hắn, còn lão y sĩ thì ngược lại, lảng ra xa, mắt đã liếc ra cửa và nói bằng một giọng nhũn như chi chi: “Khô-ô-ông, lạy Chúa tha cho, chẳng ai quại cả. Sao anh lại hỏi tôi thế?”.

Cậu Maka lại hỏi tiếp: “Thế giả dụ tôi thoi cho ông một quả vào mắt trái, dễ ông tưởng chỉ riêng tai trái ông ù lên thôi  hẳn? Ông yên chí, cả hai tai ông sẽ rung loạn lên, như chuông nhà thờ ngày lễ Phục sinh cho  mà xem!”.

Lão y sĩ đứng dậy, rồi len lén, len lén lảng ra cửa. Cậu Maka lại bảo: Này, ông đừng có giở hung, ngồi xuống đây ông ơi, tôi không định nện ông đâu, chỉ là giải thích cho ông thôi, để làm thí dụ. Rõ chưa?”.

Làm sao mà lão y sĩ lại có thể giở hung được? Lão dịch ra cửa là vì lão hoảng qúa, nhưng nghe Maka nói thế, lão lại ngồi xuống ghế, nhưng chỉ ngồi ghé nửa đít thôi, trong khi mắt vẫn lấm lét nhìn ra cửa… Maka nắm tay lại, ngắm nghía mặt nọ mặt kia quả đấm của mình, cứ như lần đầu tiên trông thấy nó, rồi lại hỏi: “Thế giả dụ tôi mời ông xơi thêm một quả này nữa thì thế nào nhỉ?”. Lão y sĩ lại đứng dậy, lỉnh ra cửa, và khi tay đã nắm quả đấm cửa rồi, lão mới nói: “Anh nói toàn những chuyện dấm dớ! Quả đấm của anh không có tí liên quan gì đến y học và thần kinh cả!”, - Cậu Maka đáp lại: “Có quá đi chứ!”, rồi lại yêu cầu lão y sĩ ngồi xuống và lịch sự kéo lão ngồi xuống ghế. Đến lúc ấy không hiểu sao lão y sĩ tự nhiên mồ hôi toát ra như tắm, và kêu lão bận lắm, phải đi thăm bệnh nhân ngay bây giờ. Nhưng cậu Maka dứt khoát bảo rằng bệnh nhân có thể đợi thêm vài phút nữa, rằng cuộc tranh luận về đề tài y học này cứ sẽ tiếp tục, và hắn, Maka, tin rằng về môn khoa học này hắn sẽ ăn đứt ông y sĩ.

Đavưđốp nhếch một nụ cười mệt mỏi, bác kế toán thì che miệng cười rinh rích như một bà lão, nhưng Radơmiốtnốp vẫn cứ hết sức nghiêm trang, kể tiếp:

- Cậu Maka nói: “Thế này nhé, giả dụ tôi tống thêm cho ông một quả nữa vào đúng chỗ cũ, thì ông chớ tưởng chỉ có mắt trái ông vãi ra nước mà thôi đâu. Cả hai mắt ông sẽ vọt nước ra, như quả cà chua chín bị bóp vỡ vậy, điều ấy tôi chắc chắn đảm bảo với ông! Thế thì cái bệnh sổ mũi thần kinh cũng vậy: nếu lỗ mũi bên trái chảy nước thì lỗ mũi bên phải cũng phải chảy. Rõ chưa?”. Đến đây thì lão y sĩ lại hăng lên, nói: “Thôi anh ơi, anh đã không biết mô tê gì về y học thì đừng ba hoa bốc phét nữa, và xin anh hãy uống mấy giọt thuốc tôi đưa cho anh đây”. Chà, cậu Maka nhà ta mới nhảy cẫng lên một cái nhá! Suýt nữa thì đầu húc vào trần nhà, và miệng thì gào lên, lạc cả giọng: “Tôi đây mà không biết gì về y học hả?! Ông là lão lang băm thì có! Tôi đây, trong chiến tranh chống Đức đã bốn lần bị thương, hai lần chấn thương và một lần bị hơi độc, trong nội chiến đã ba lần bị thương, đã từng lang thang ba mươi trạm cấp cứu, nhà thương, bệnh xá mà lại không biết mô tê gì về y học hả?! Này, đồ lang vườn, ông biết những bác sĩ và giáo sư nào đã chữa cho tôi đây không? Đồ ngu như lợn, những nhà bác học như vậy thì cái đời ông chưa bao giờ mơ thấy đâu!”. Nhưng đến đây thì lão y sĩ hăng tiết lên, chẳng hiểu hắn lấy được can đảm ở đâu ra, và quát lại cậu Maka: “Dù anh có được những nhà bác học chạy chữa cho thì bản thân anh, tôi nói anh tha lỗi cho, về y học thì vẫn cứ là dốt đặc cán mai!”. Maka đốp chát lại: “Còn ông, về y học, ông dốt đặc cán thuổng! Ông thì chỉ được cái cắt rốn cho trẻ mới đẻ và chữa bệnh sa đì cho mấy ông già là cùng thôi, còn về chuyện thần kinh thì ông thông thạo cũng như con lừa thông thạo kinh thánh vậy! Về môn khoa học ấy ông biết cái chó gì!”.

Thế là lời đi tiếng lại, họ xỉ vả nhau một hồi thậm tệ, rồi lão y sĩ ù té bỏ chạy như bị ma đuổi. Rồi cậu Maka nguôi nguôi đi một tí và bảo tôi: “Cậu về trụ sở trước đi, mình chữa theo lối cổ truyền, xoa tí mỡ vào mũi, rồi mình đến ngay”. Đavưđốp ạ, cậu có biết một tiếng sau hắn đến mặt mũi nom thế nào không? Mũi sưng vêu, tím như quả cà dái dê, mà vẹo sang một bên. Chắc là hắn xát mạnh quá, vênh cha nó cả mũi. Và hắn, nghĩa là cái mũi hắn, sặc mùi mỡ cừu, nồng nặc cả trụ sở. Cái lối xoa bóp ấy chính hắn nghĩ ra đấy… Mình nhìn hắn, và nói không ngoa đâu, mình cười một trận tưởng chết. Chà, cu cậu tự làm tình làm tội mình đã khiếp! Mình định hỏi hắn làm sao mà nên nông nỗi ấy, nhưng không thở ra được một câu vì cười. Thế là hắn nổi cơn điên lên, hỏi mình: “Cười cái gì, đồ con lợn? Hoá dại hay sao đấy thì bảo? Có cái gì mà cậu phởn, đồ con vật? Trí khôn của cậu thì cũng chỉ vừa vặn bằng của con Tơrôphim, thế mà còn dám mở miệng cười người!”.

Hắn bỏ ra chuồng ngựa. Mình theo luôn. Mình thấy hắn lấy bộ yên, thắng con ngựa hồng, dắt ra ngoài, và cứ lầm lì chẳng nói chẳng ràng. Nghĩa là hắn vẫn cáu chuyện mình cười. Mình hỏi: “Đi đâu vậy?”. Hắn hầm hầm đáp: “Ra đồng chặt cái cành cây, về quật cho anh một trận”. Mình hỏi: “Mình làm gì mà ông quật?”. Hắn im. Mình bước đi theo hắn. Hai đứa không mở miệng cho đến tận nhà hắn. Tới cổng, hắn quẳng dây cương cho mình, đi vào nhà. Mình thấy hắn trong nhà bước ra, thắt lưng bao súng chỉnh tề, và tay thì cầm chiếc khăn mặt…

- Khăn mặt à? – Đavưđốp ngạc nhiên, hỏi: - Sao lại cầm khăn mặt?

- Mình đã bảo cậu là hắn sổ mũi kinh khủng, không mùi xoa nào chịu nổi. Còn như xỉ toẹt mũi xuống đất như anh em chúng mình thì hắn ngượng, ngay cả đứng giữa thảo nguyên cũng vậy. – Radơmiốtnốp cười hóm hỉnh: - Cậu chớ có tưởng người ta tầm xoàng, chẳng gì thì người ta cũng học tiếng Anh, người ta phải tỏ ra là người học thức chứ… Thế cho nên hắn mới mang theo khăn mặt thay cho mùi xoa. Mình bảo hắn: “Này, Maka, cậu cũng phải băng bó lại tí chứ, cho kín vết thương đi”. Hắn phát khùng lên, quát tướng: “Thương cái khỉ gió, xéo cha anh đi! Mắt anh mù hay sao mà không thấy đây là cái vết xước, đâu phải vết thương?! Những cái trò đàn bà ấy tôi cứ coi khinh! Tôi đi xuống đội, gió sẽ thổi nó se, bụi bám vào đóng thành vẩy, nó khắc liền, như da con chó già vậy. Việc gì anh phải chõ mõm vào công việc người khác, anh hãy vác những lời khuyên dấm dớ của anh xéo đi cho được việc!”.

Mình thấy là do cuộc đấu khẩu với lão y sĩ và do bị mình cười, hắn đang bực, cho nên mình lựa lời khuyên hắn đừng phô súng lục ra như thế. Úi chào! Hắn mới đuổi tống đuổi táng mình đi chứ, và bảo: “Bất cứ một quân chó má nào cũng có thể bắn vào tôi, thế mà tôi đây, tôi cứ phải chạy nhông với khẩu súng cao su trong tay chắc? Tám năm nay súng lục tôi đút túi, bao nhiêu túi rách mẹ nó hết, bây giờ thì xin đủ! Từ nay tôi sẽ đeo công khai. Súng tôi không phải của ăn cắp, tôi đã đem xương máu giành lấy nó. Nó là tặng phẩm người ta thay mặt đồng chí Phrunde trao cho tôi, có cả tên tôi khắc trên cái lập lắc bạc gắn vào báng hẳn hoi chứ chơi đâu? Thôi đi ông, ông đừng có chõ mũi vào công việc người khác nữa cho tôi nhờ”. Nói xong hắn nhảy lên yên, đi thẳng. Và cho đến lúc hắn ra khỏi đầu làng còn nghe thấy tiếng hắn xỉ mũi vào khăn mặt to như người thổi kèn. Xêmiôn ạ, cậu nên bảo hắn một câu về chuyện đeo súng. Dù sao trước mặt bà con cũng không hay đâu. Cậu nói thì hắn nghe đấy.

Tiếng Radơmiốtnốp nói không còn lọt vào tai Đavưđốp nữa. Hai tay chống má, khuỷu tì xuống bàn, anh đăm đăm  nhìn mấy tấm gỗ mặt bàn đầy vết sứt sẹo, vết mực, và nhớ lại lời kể của Argianốp anh nghĩ: “Được, Iakốp Lukits là một tên kulắc, cứ cho là như thế đi, nhưng tại sao mình nghi cho chính lão ấy. Chẳng phải tay lão bắn đâu, lão ấy già rồi, và khôn chán; vả lại cậu Maka nói thằng kia là một thằng trẻ, chạy nhanh thoăn thoắt. Hay là thằng con lão đồng loã với lão? Dẫu sao không có chứng cớ rõ ràng thì không thể cách chức Iakốp Lukits được, làm thế thì nếu như lão có dính vào một âm mưu nào thật sẽ chỉ tổ làm cho lão cảnh giác đề phòng, và bọn đồng loã cao chạy xa bay nữa chứ. Đơn độc thì Iakốp Lukits chẳng làm cái việc ấy. Thằng quỷ ấy ranh lắm, một mình hắn thì không đời nào hắn lao đầu vào cái trò ấy cả. Nghĩa là đối với lão, ta cứ phải như bình thường, không để lộ tí gì nghi ngờ, không thì hỏng bét cả. Ván bài bắt đầu sử dụng đến chủ bài đây… Tốt hơn hết là ta nên lên huyện, trao đổi với đồng chí bí thư và trưởng phòng GPU huyện. GPU ta vẫn ăn no ngủ kỹ, trong khi đó thì ở đây đêm hôm đạn bắt đầu bay vèo vèo. Hôm nay bắn Maka, mai vào mình hoặc Radơmiốtnốp. Không, không thể để thế được. Nếu ta không hành động thì chỉ một tên chó chết nào đó cũng có thể trong ba ngày cho chúng mình đi đời nhà ma tất… Nhưng chẳng có lẽ Iakốp Lukits lại lao vào cái trò phản cách mạng này. Lão tính toán khôn lắm, thực tế thế! Mà lão được lợi quái gì? Lão làm quản lý, uỷ viên ban quản trị, lão sống ung dung, sung túc. Không, mình không thể tin được rằng lão lại bám khư khư lấy quá khứ. Cái quá khứ đã ra đi không có ngày trở lại, điều ấy tất lão phải hiểu. Giả thử như bây giờ ta có chiến tranh với một ông láng giềng nào đó thì lão có thể cựa quậy thật đấy, nhưng lúc này mình không tin là lão cựa quậy”.

Radơmiốtnốp cắt đứt dòng suy nghĩ của Đavưđốp. Anh ta lẳng lặng nhìn hồi lâu khuôn mặt gầy tọp đi của bạn, rồi săn đón hỏi:

- Cậu ăn sáng chưa?

- Ăn sáng hả? Làm sao? – Đavưđốp lơ đãng đáp.

- Cậu gày lắm, nom phát sợ! Độc thấy răng với mắt, mặt thì cháy nắng.

- Lại chuyện cũ rích giở ra hả?

- Không mà, mình nói nghiêm chỉnh, thật đấy!

- Mình chưa ăn. Không kịp ăn, và cũng chẳng muốn ăn, vì hôm nay mới sáng đã nóng khiếp.

- Mình cũng đang đói meo đây. Về nhà mình đi, Xêmiôn, tìm cái gì chén chơi. – Radơmiốtnốp đề nghị.

Đavưđốp miễn cưỡng đồng ý.

Họ cùng bước ra sân, và ngọn gió thảo nguyên khô hanh, nóng bỏng và ngào ngạt mùi hương cỏ ngái hầm hập phả vào mặt họ.

Tới bên cổng, Đavưđốp dừng lại, hỏi:

- Anđrây ạ, cậu có nghi ai không?

Radơmiốtnốp nhún vai và từ từ giang hai cánh tay:

- Có thánh biết! Mình đã cân đi nhắc lại không biết đến bao nhiêu lần rồi, nhưng vẫn chẳng suy ra được cái chết tiệt gì. Mình đã điểm tất cả đám kô-dắc trong làng, nhưng chẳng rút ra được cái gì đứng vững cả. Một thằng quỷ tha ma bắt nào đặt ra cho chúng mình câu đánh đố này, và bây giờ chúng mình cứ việc tha hồ mà nát óc. Một đồng chí GPU huyện đã về đây, đi mấy vòng xung quanh nhà cậu Maka, hỏi cậu Maka, lão Suka, bà chủ nhà cậu Maka và tôi, xem xét cái đui đạn chúng mình đã tìm thấy, cái đui đạn ấy không có chữ gì cả… Xem xong, anh ta nói: “Nhất định là ở đây có bàn tay kẻ địch”. Cậu Maka liền hỏi vặn lại anh ta: “Này, ông anh ơi, vậy theo ông anh có trường hợp là bàn tay đồng chí mình ư? Mời ông anh tếch ngay đi cho được việc! Chúng tôi khắc tự lo liệu lấy”. Cái anh chàng dấm dớ ấy chẳng nói chẳng rằng một lát, rồi nhảy lên ngựa tếch thẳng.

- Cậu nghĩ thế nào? Có thể là Ôxtơrốpnốp đã chơi cái cú này không?

Radơmiốtnốp tay đã nắm lấy then cổng, nghe hỏi thế sửng sốt quá lại buông thõng tay xuống, rồi cười phá:

- Cậu có điên không đấy? Iakốp Lukits ấy ư? Lão ấy lao vào chuyện này làm gì? Lão ấy nghe tiếng xe ngựa cót két đã hết hồn vía rồi, cậu nghĩ gì mà lẩm cẩm vậy! Cứ chặt đầu mình đi, mình vẫn bảo hắn không dính đến việc này! Ai thì ai, nhưng nhất định không phải hắn.

- Thế thằng con hắn?

- Cũng không phải. Này, nếu cứ đoán già đoán non thế thì rồi có thể chụp cho cả mình nữa đấy. Không, câu đố này phức tạp lắm… Đây là cái ổ khoá chìm.

Radơmiốtnốp rút hộp thuốc lá ra, cuốn một điếu, nhưng chợt nhớ ra hôm nay mình vừa ký cái thông tri cấm các bà nội trợ nổi lửa ban ngày và đàn ông hút thuốc ngoài đường. Anh hậm hực vò nát điếu thuốc đi. Thấy Đavưđốp nhìn mình không hiểu, anh đáp một cách thản nhiên, cứ như không phải chuyện mình, mà là chuyện ai khác:

- Có những cái thông tri dấm dớ. Cấm hút thuốc ngoài đường! Thôi, vào nhà mình làm một điếu.

* * *

Bữa ăn sáng, bà mẹ Radơmiốtnốp dọn ra món cháo kê loãng muôn thuở mà Đavưđốp ăn mãi đã phát ngán, với tí thịt mỡ băm, gọi là chạy qua hàng mỡ. Nhưng khi bà cụ ra vườn mang về một đĩa dưa chuột tươi thì mặt anh tươi tỉnh lên. Anh ăn ngon lành hai quả thơm hương đất và hương nắng, uống một cốc nước quả luộc, rồi đứng dậy.

- Cám ơn mẹ nhá, hôm nay được một bữa no căng. Cám ơn nhất là khoản dưa chuột. Năm nay con được ăn dưa chuột tươi lần này là lần đầu tiên. Ngon, ngon không chê được, thực tế thế!

Bà lão là người bản tính ân cần và hay chuyện, buồn rầu tì tay chống má:

- Khốn khổ, anh thì kiếm đâu ra dưa mà ăn? Vợ con chả có…

Đavưđốp mỉm cười:

- Con chả còn thời giờ nào mà đi hỏi vợ nữa.

- Hỏi vợ không có thời giờ thì đừng chờ có dưa chuột mà ăn. Muốn trồng cây hái quả thì phải có anh có ả, có cả đôi bên chứ.  Đấy như thằng Anđrây nhà tôi cũng thế, cứ ở vậy một mình. Không có mẹ lo cơm nước cho thì khéo chết đói nhăn răng rồi. Có mẹ thì thỉnh thoảng còn được miếng ăn. Trông các anh mà tôi nẫu cả ruột. Đã thằng Anđrây nhà tôi ở vậy, lại thêm anh Maka, rồi lại cả anh nữa. Ba anh không biết lấy thế làm xấu hổ à? Như ba con bò tót thế mà chạy nhông khắp làng không kiếm nổi cô vợ. Có thật các anh nhất định không anh nào lấy vợ không? Thế thì đáng xấu hổ lấy rổ mà che!

Radơmiốtnốp cười, trêu mẹ:

- Có ma nào thèm lấy chúng con đâu hả mẹ.

- Các anh cứ như thế này dăm sáu năm nữa thì chẳng ma nào thèm thật. Già câng rồi thì một mẹ nạ dòng nó cũng chả lấy làm gì. Còn gái tơ thì tôi chả nói nữa, các anh đã quá cái tuổi lấy gái tơ rồi!

Radơmiốtnốp nói đùa đánh trống lảng:

- Gái tơ chẳng đứa nào muốn lấy chúng con, vì chúng con già câng rồi, chính mẹ nói thế. Còn gái già thì chúng con lại không muốn lấy. Phải vạ gì mà còng lưng nuôi con người khác!

Câu chuyện như thế xem ra Radơmiốtnốp đã quen tai rồi, nhưng Đavưđốp thì cứ ngồi im và không hiểu sao cảm thấy mất tự nhiên.

Cảm ơn chủ nhà mến khách, anh chào ra về, và đi thẳng đến lò rèn. Anh muốn, trước khi tiểu ban tiếp nhận nông cụ tới, được tự mình kiểm tra lại những cỗ máy cắt và cào cỏ vừa được sửa chữa chuẩn bị cho vụ cắt cỏ, nhất lại là vì chính anh đã tham gia một tay vào công việc sửa chữa ấy.

------------------------------

(*)          Thần mình người, chân dê, trong thần thoại Hy Lạp. – ND.

CHƯƠNG X

Ngôi lò rèn cũ kỹ đặt tận cuối làng đã tiếp đón anh bằng những mùi và tiếng động quen thuộc của nó: vẫn như thường lệ, chiếc búa vẫn chắc trong tay bác Ipôlít Xiđôrôvits nện chan chát, tuân theo răm rắp từng động tác của chủ nó; ngay từ xa đã nghe thấy vọng lại tiếng thở hổn ha hổn hển của cái bễ đã hết tuổi phục vụ; và vẫn như thường lệ, từ khoang cửa mở toang bay toả ra mùi than nồng cay gắt và cái mùi diệu kỳ, khó quên của sắt nung đỏ rực.

Gian lò rèn đứng riêng một chỗ, quanh nó vắng tanh và trống trải. Con đường mòn qua sát đó bốc lên mùi bụi nóng hầm hập và mùi cây rau lê. Cây gai mèo và cỏ dại mọc lên trên mái nhà đan bằng cành cây và võng xuống dưới một lớp đất cỏ phủ dày. Mái nhà nhung nhúc những chim sẻ. Vốn xưa nay chúng vẫn ngụ cư trong lớp rui mè của gian lò rèn này, kể cả trong mùa đông, và tiếng ríu rít không lúc nào  ngừng của chúng dường như là tiếng nhạc nền cho cuộc đối thoại chan chát của đe và búa.

Bác Salưi đón tiếp Đavưđốp như một ông bạn nối khố. Suốt ngày này sang ngày khác làm việc với độc một thằng phó nhỏ, bác buồn tênh cho nên thấy Đavưđốp tới, bác hớn hở ra mặt. Bác chìa ra bàn tay rắn như sắt nguội, vui vẻ cất lên cái giọng ồm ồm:

- Lâu, lâu lắm rồi không thấy anh đấy, anh chủ tịch nhỉ! Anh quên giai cấp vô sản rồi sao mà chả thấy lại chơi. Anh làm thế cho cao giá chứ gì. Thế nào, hôm nay anh lại thăm bà con phải không? Mà đâu có chuyện thế nhỉ? Anh bạn ạ, lão đi guốc vào bụng anh rồi, anh đến xem mấy cái máy cắt cỏ thì có! Nào thì đi xem. Lão đã cho xếp hàng như quân kô-dắc đứng duyệt binh vậy. Ta đi thôi, nhưng anh chớ có bới lông tìm vết đấy. Chính anh đã đến đây cùng làm với lão, thế thì bây giờ tội tình đừng đổ lên đầu người khác.

Đavưđốp dừng lại hồi lâu trước mỗi cỗ máy cắt cỏ, xem xét kỹ lưỡng. Nhưng dù đã kiểm tra bằng con mắt rất xoi mói, anh cũng chẳng phát hiện được gì ngoài vài ba chỗ sơ xuất nhỏ. Thế nhưng anh đã làm bác phó rèn già thực sự bị chạm tự ái. Ông lão cứ lẽo đẽo theo anh từ cỗ máy này sang cỗ máy khác, tay cầm vạt tạp dề bằng da thuộc lau mồ hôi trên khuôn mặt đỏ như gà chọi, miệng thì cằn nhằn:

- Anh đúng là một ông chủ chẻ tóc làm tư! Xoi mói thế cũng chả đi đến đâu đâu… Ờ, anh đánh hơi cái gì vậy? Chứ lão hỏi anh, anh định tìm cái gì? Anh coi lão là một thằng digan sao? Gõ chan chát mấy cái, làm quấy quá cho xong, rồi nhảy lên xe, nhong nhong tếch mất hút thế hẳn? Không phải đâu, anh ơi, mọi cái ở đây đều làm đến nơi đến chốn cả đấy, như việc nhà mình vậy, chả việc gì anh phải hít hít đánh hơi, bới lông tìm vết.

- Bác cứ nghĩ thế thôi, chứ bới lông tìm vết gì đâu, hả bác Ipôlít Xiđôrôvits.

- Nếu không là bới lông tìm vết thì anh dã xem xong từ đời tám hoánh nào rồi chứ đâu còn loanh quanh mãi bên từng cỗ máy hít hít ngửi ngửi, sờ sờ nắn nắn…

- Nghề của tôi nó thế, bác ạ: mắt nhìn, tay nắn, - Đavưđốp đùa cho qua chuyện.

Nhưng khi anh đặc biệt chăm chú xem xét một cỗ máy ọp ẹp, lưỡi sứt mẻ cả, là cỗ máy của Anchíp Gráts trước khi đưa vào tập thể, thì bác Salưi nở nang mặt mày hẳn lên, vẻ bực bõ tự nhiên tiêu tan đâu hết. Bác túm lấy chòm râu, nhấm nháy mấy cái chả rõ với ai, rồi mỉm một nụ cười láu lỉnh, bác hóm hỉnh nói:

- Bò xuống, bò hẳn xuống gầm mà xem, anh Đavưđốp ạ! Sao lại cứ lượn quanh như con gà sống vậy? Nằm sắp rạp xuống, lấy răng mà thử cái lưỡi hái. Sao lại cứ sờ soạng như sờ con gái thế? Ghé răng vào cắn thử, ghé răng vào! Chà, thợ như anh thì thật chán kinh! Cái mình làm mà không nhận ra ư? Cỗ máy này do chính tay anh sửa đấy mà! Tôi nói dứt khoát thế đấy, tay anh làm tất, vậy mà xem nó anh cũng chẳng nhận ra là thế nào? Anh ạ, cái tính anh thế thì khéo lấy vợ tối hôm trước, sáng hôm sau mở mắt ra chả biết vợ là ai nữa…

Đắc chí với câu pha trò của mình, bác Salưi cười ha hả, tiếng cười như lệnh vỡ, rồi bác ho, khoa tay lên. Nhưng Đavưđốp chẳng hề tự ái, đáp:

- Có quái gì mà cười, hả bác Ipôlít Xiđôrôvits? Cái máy trung nông còm này tôi đã nhận ra ngay mà, và cũng nhớ là tay mình sửa. Cho nên tôi càng phải kiểm tra nó kỹ lưỡng để vào vụ cắt cỏ khỏi bị trơ mặt. Vì nếu như chẳng may cái đồ thải này có trục trặc gì, chắc bác sẽ là người đầu tiên rêu rao với đám thợ: “Lão giao búa, giao kìm cho anh Đavưđốp đấy, nhưng anh ấy làm ăn như mèo mửa”. Thế chứ gì?

- Tất nhiên là thế. Mà sao lại không thế nhỉ? Ai làm người ấy chịu.

- Bác lại bảo: “Không nhận ra”! Cái của quý này tôi nhận ra quá chứ, nhưng với bản thân thì phải khắt khe hơn.

- Thế nghĩa là anh không tin ở anh à?

- Đôi khi thế…

Bác phó rèn bỗng nghiêm nét mặt lại, đồng tình. – Anh ạ, thế thì tốt lắm. Cái nghề làm sắt của chúng ta như người ta nói là cái nghề phải có tinh thần trách nhiệm, chẳng phải chốc lát mà thành thạo được, ồi, chẳng phải chốc lát đâu… Không phải vô cớ mà cánh phó rèn chúng tôi có câu này: “Tin bàn tay mình, tin cái búa cái đe. Nhưng cái đầu óc mình còn non thì chớ nghe nó mà dại”. Ở nhà máy lớn là thế, thì ở cái lò rèn nhỏ cũng vậy, đâu cũng phải có tinh thần trách nhiệm cả, lão nói dứt khoát với anh như vậy. Năm ngoái người ta gửi về trọ ở nhà lão anh cán bộ huyện phụ trách thu mua da lột; anh ta được cử về làng ta với đầy đủ quyền hành. Lão và bà nó nhà lão săn sóc anh ta như con đẻ, nhưng anh ta chẳng hé răng chuyện trò một câu với cả lão lẫn bà nó nhà lão, sợ như thế là hạ mình. Ngồi vào ăn, câm như hến, đứng dậy, cũng câm như hến, ở trụ sở xôviết về, câm như hến, và ra đi, cũng câm như hến. Hỏi anh ta cái gì về chính trị hay chủ trương chính sách, anh ta đều chỉ càu nhàu đáp lại “Có phải việc của ông đâu mà cứ hỏi lôi thôi”. Chuyện trò với anh ta đến đấy là thôi đấy. Ông khách trọ ấy sống ở nhà lão ba ngày đêm miệng câm tịt, nhưng đến ngày thứ tư thì mở miệng… Sáng hôm ấy, anh ta vênh mặt lên, bảo lão: “Này, bảo bà lão mang khoai tây lên cho tôi đừng có bê cả soong lên, mà phải xẻ ra đĩa, và đừng để giẻ lau tay lên bàn, mà phải có khăn ăn tử tế. Tôi là người có văn hoá, lại là một cán bộ phụ trách trên huyện, tôi không thích bị đối xử suồng sã như vậy”.

Lão mới điên lên, và bảo: “Anh là cái con bọ hôi mù chứ đâu phải là người có văn hoá! Nếu anh có văn hoá thì thức ăn người ta dọn cho anh đựng bằng gì anh cũng chén được, và người ta đưa cho anh khăn gì cũng chùi mép được, bởi vì khăn ăn thì từ thuở lọt lòng lão nào có thấy nhà có bao giờ, còn đĩa thì có bao nhiêu bà nó đánh vỡ sạch. Tôi không lấy của anh đồng xu nào; bà nó nhà tôi cứ bấn tinh xúc xích lên, không biết làm thế nào để phục dịch anh cho được vừa ý, để anh có cái ghế tử tế mà ngồi, cái giường êm êm ngủ, thế mà bây giờ anh lại hếch ngược mũi lên cao hơn mái nhà: “Tôi đây là cán bộ phụ trách!”. Vậy chứ tôi hỏi anh, anh phụ trách cái gì? Phụ trách mấy cái bộ lông thỏ, lông chuột đồng! Đấy, chả phụ trách cái khỉ gió gì cả, tôi đây cơ, tôi mới là phụ trách! Sau ông chủ tịch và ông bí thư chi bộ, tôi là người quan trọng nhất làng, bởi vì rằng không có tôi thì đừng hòng cày bừa gặt hái. Tôi nói anh nghe, tôi làm công việc sắt thép, còn anh thì việc da lông, vậy thì giữa hai ta ai quan trọng hơn ai nào? Anh tự coi là cán bộ phụ trách, tôi cũng thế. Hai anh phụ trách thì làm sao sống chung được một mái? Chả sống nổi đâu! Vậy thì anh bạn quý hoá ơi, xin anh cắp cặp bán xới đi đâu thì bán xới, người dương dương tự đắc như anh thì tôi dứt khoát không thiết”.

Đavưđốp híp tít mắt lại đến nỗi chỉ trông thấy ánh mắt anh qua hai cái khe nhỏ tí. Anh hỏi nhỏ, giọng rung rung vì cười:

- Bác đuổi hả?

- Đuổi luôn! Hắn xéo thẳng và cũng chẳng thèm có một lời cám ơn, cái quân chó đẻ phụ trách ấy!

- Giỏi lắm, bác Ipôlít Xiđôrôvits ạ!

- Giỏi giang gì đâu, chẳng qua là không chịu nổi cái loại khách trọ ấy thôi.

Hút xong điếu thuốc, Đavưđốp tiếp tục xem xét cái máy và mãi đến nửa ngày mới xong. Trước khi chào bác Salưi ra về, anh nhiệt liệt cám ơn bác đã làm việc tận tình, và hỏi:

- Sửa chữa thế này họ tính cho bác bao nhiêu công?

Bác phó rèn già sa sầm mặt xuống, quay đi:

- Iakốp Lukits tính cho thì tiền không dính túi…

- Iakốp Lukits dính dáng gì vào đây?

- Dính ở chỗ lão ấy ban phát luật lệ cho tay kế toán. Lão  nói sao, kế toán ghi vậy.

- Thì bác cứ cho biết bao nhiêu?

- Chả nghĩa lý gì, anh ạ, rẻ như bèo.

- Ô hay, tại sao thế được nhỉ?

Ông lão phó rèn thường ngày hiền lành thế, lúc này nom dữ hẳn, cứ như đứng trước mặt lão không phải là Đavưđốp mà là c hính Iakốp Lukits vậy.

- Tại là vì họ không thèm đếm xỉa gì đến công sức của lão. Lão đứng lò một ngày, họ chấm một công. Còn như đứng đấy lão làm hay vểnh râu hút thuốc lá thì đối với họ cũng thế thôi! Có thể là một ngày lão sửa chữa đáng bằng năm công, mặc, họ cứ chấm một. Dù anh có quằn lưng bên cái đe thì anh cũng chẳng kiếm được thêm công nào. Công xá các anh định như thế thật chả lo người ta phì nộn ra đâu! Tất nhiên là không chết, nhưng chả thiết lấy vợ nữa!

- Đâu phải tôi định! – Đavưđốp gay gắt cắt lời bác. – Và cũng không phải nông trang định! Chuyện tầm bậy thế mà sao bác chả nói gì với tôi trước?

Bác Salưi ngập ngừng một tí rồi đáp, vẻ miễn cưỡng ra mặt:

- Biết nói với anh thế nào, cũng có thể là lão ngượng mồm, cũng có thể là lão dè dặt. Có lúc lão đã dứt khoát định đến kêu ca với anh, nhưng rồi lão nghĩ là anh sẽ bảo: “Người chả biết điều tí nào, bao nhiêu cũng không vừa…”. Cho nên lão ngậm tăm. Nhưng bây giờ đã nói thì nói cho hết: theo kiểu ban ơn của họ, họ chỉ tính công cho mình những việc nom rõ rành rành, chẳng hạn như sửa chữa các loại cày, hái, tóm lại là những việc nó sờ sờ ra đấy. Còn những việc lặt vặt, chẳng hạn như rèn móng, đóng móng ngựa, đánh móc sắt, đinh khuy, bản lề cửa, và những việc linh tinh khác, thì họ lờ tịt và không  muốn nghe mình nhắc đến nữa. Điều đó lão cho là không đúng vì những việc lắt nhắt ấy tốn mất khối thời gian.

- Bác cứ nói mãi “họ”, nhưng “họ” là ai? Một mình kế toán tính toán công và một mình anh ta phải chịu trách nhiệm trước ban quản trị, - Đavưđốp cau có nói.

- Kế toán tính công, nhưng Iakốp Lukits định công. Anh nói với lão cái chuyện đáng lẽ phải thế, còn lão thì nói với anh cái chuyện thực tế nó thế.

- Nếu thực tế nó thế thì rất bậy.

- Ồ, nhưng đâu phải lỗi ở lão, mà lỗi ở anh.

- Chẳng cần bác nói, tôi cũng thừa biết là lỗi ở tôi rồi. Phải sửa, càng sớm càng tốt. Mai tôi sẽ cho họp ban quản trị, và sẽ chất vấn Iakốp Lukits về việc này… Chúng tôi sẽ có ý kiến thẳng thừng với lão ấy! – Đavưđốp nói dứt khoát.

Nhưng bác Salưi chỉ cười khẩy trong hàng râu:

- Đâu phải chuyện có ý kiến với lão ấy…

- Vậy theo bác thì với ai? Với kế toán hả?

- Với anh.

- Với tôi? Hừmm… Được, thì ý kiến đi.

Bác Salưi nhìn kỹ anh một cái từ đầu đến chân, như muốn đo sức chịu đựng của anh, rồi thủng thẳng nói:

- Đứng cho vững, anh cả ạ! Những điều lão sẽ nói với anh đây không được bùi tai cho lắm đâu… Lão cũng chả muốn nói, nhưng cần thì phải nói. Lão e rằng người khác chả ai dám nói với anh những điều ấy.

- Cứ nói, cứ nói đi, - Đavưđốp động viên bác nói, trong bụng thầm cảm thấy rằng câu chuyện sẽ chẳng phải là thú vị gì cho mình, nhất là anh sợ bác Salưi sẽ lôi chuyện anh đi lại với Luska ra nói.

Nhưng ngược lại với e ngại của anh, bác mở đầu bằng chuyện hoàn toàn khác:

- Nhìn bề ngoài thì thấy anh đường đường làmột ông chủ tịch, nhưng đào sâu vào một tí thì anh chẳng phải chủ tịch chủ tiếc gì cả, mà là một vai chạy cờ, như người ta thường nói.

- Hay thật! – Đavưđốp thốt lên bằng giọng có phần nào cố làm ra vui vẻ.

- Hay gì đâu, - bác Salưi nghiêm nghị nói tiếp. – Chẳng có gì là hay ở đây cả, lão nói dứt khoát với anh như vậy. Anh chui xuống gầm máy cắt cỏ, anh xem xét kiểm tra, đúng như một chủ nhân ông thực thụ, rồi anh ra đồng sống với anh em, rồi tự tay anh cày, nhưng ở ban quản trị người ta làm những gì thì anh chẳng thấy, chẳng biết cái chết tiệt gì. Giá anh bớt lang thang ngoài đồng đi, có mặt trong làng đây nhiều hơn một tí, công việc chắc sẽ chạy hơn. Chứ cái thời gian anh ở lúc thì ngoài đồng, lúc thì lò rèn, bao biện làm thay người khác, thì Ôxtơrốpnốp ở đây thay anh làm mưa làm gió. Quyền hành trong tay anh, anh buông rơi, và Ôxtơrốpnốp đã nhặt lấy…

- Bác cứ dốc bầu nói hết đi, - Đavưđốp lạnh lùng nói. – Cứ nói hết, đừng ngại!

- Nói hết thì được thôi, - bác Salưi sẵn sàng đồng ý ngay. Bác ngồi thoải mái xuống bệ một cỗ máy, chỉ tay mời Đavưđốp ngồi xuống cạnh mình, và chợt thấy thằng phó nhỏ đang thập thò ở cửa nghe trộm chuyện họ, bác giậm chân, quát lên ồm ồm: - Cút ngay, đồ quỷ sứ nhà giời! Không có việc gì làm hả? Con mẹ mày, lúc nào cũng độc thấy mày nghe trộm là thế nào? Ông thì cởi thắt lưng ông quật cho một trận bây giờ cho mày biết tay! Thế sẽ khắc đút nút lỗ tai mày lại được ngay. Cái thằng ôn vật ấy sao mà nó nghịch ngợm thế không biết!

Thằng bé mặt mũi lọ lem, đôi mắt ánh lên ranh mãnh, lủi đi như một con chuột vào trong bóng tối của lò rèn, và liền sau đó lại nghe thấy cất lên tiếng thở phì phèo của chiếc bễ và ngọn lửa phun ra từ cửa lò lại sáng lên đỏ rực. Và bác Salưi nói tiếp, miệng mỉm một nụ cười lúc này đã trở lại hiền lành:

- Thằng mồ côi ấy lão đang dạy nghề cho nó đấy. Bọn lớn thì chẳng thằng ma nào chịu đi làm lò rèn đâu. Chính quyền xôviết đã dứt khoát làm chúng nó hư hỏng hết! Đứa thì mơ bác sĩ, đứa thì đại học nông nghiệp, đứa thì kỹ sư kỹ siếc, nhưng cánh già chúng tôi chết đi rồi lấy ai mà khâu giày cho nhân dân, ai may quần, ai đóng móng ngựa! Và ở chỗ lão đây cũng thế: chẳng kéo được đứa nào vào làm lò rèn cả, đứa nào cũng sợ khói lò rèn như ma quỷ sợ khói hương trầm vậy. Cho nên lão phải lấy thằng Vanhia này vào làm. Thằng quỷ sứ ấy, nó có khả năng, nhưng những trò ma quái của nó lão phải chịu đựng thì không sao kể xiết! Lần thì mùa hè nó lẻn vào vườn nhà người ta để rồi lão phải nghe chửi, lần thì nó bỏ lò rèn tếch đi câu cá bống, lần thì nó bày ra những trò gì chả biết, dứt khoát nó là một thằng vô tích sự. Cái bà cô ruột nuôi nó không trị nổi nó, thành thử ra là lão phải è cổ ra chịu đựng những trò tai quái của nó. Nhưng lão chi có thể mắng chửi nó được thôi, còn như đánh đập một trẻ mồ côi thì lão không đành. Sự thể là như vậy đấy, anh ạ. Sự thể là dạy dỗ con cái người ta, nhất lại trẻ mồ côi, là việc gay go lắm. Nhưng trong đời lão, lão đã đào tạo được mươi tay phó rèn dứt khoát lành nghề rồi, và hiện giờ đây các học trò của lão đang hành nghề tại các lò rèn bên Tubianxki, Vôxkôvôi và nhiều làng khác, thậm chí có một đứa còn làm việc ở nhà máy ở Rôxtốp nữa. Đó chả phải chuyện bỡn đâu, anh ạ, chính anh đã làm việc nhà máy đấy, anh thừa biết: chả phải bạ ai người ta cũng nhận cho vào làm đâu. Cho nên lão cũng rất lấy làm tự hào là lão có chết đi thì cũng để lại cho đời hàng chục kẻ được lão truyền tài cho. Lão lý luận thế có phải không anh?

- Ta hãy bàn luận vào việc của ta thì hơn. Bác thấy công tác của tôi có điều gì thiếu sót nữa?

- Thiếu sót thì chỉ có một cái: anh chỉ làm chủ tịch trong các cuộc họp thôi, còn trong công việc thường ngày thì chủ tịch là Ôxtơrốpnốp. Mọi cái dở đều từ đó mà ra cả. Lão thì lão thấy thế này: mùa xuân anh cũng cần phải ra đồng ba cùng vài bữa với anh thợ cày, nêu gương cho họ thấy làm ăn tập thể thì phải làm như thế nào, hơn nữa chính bản thân anh cũng học biết được cày. Đối với một ông chủ tịch nông trang điều đó chẳng có hại gì cả. Nhưng tại sao đến bây giờ anh vẫn còn ở lì ngoài đồng thì lão dứt khoát không sao hiểu nổi. Chẳng lẽ ở nhà máy, nơi anh làm ấy, ông giám đốc cũng ra đứng máy tiện suốt ngày hay sao? Nếu thế thì cũng lạ đấy.

Bác Salưi nói hồi lâu về những chuyện lủng củng của nông trang, những chuyện mà Đavưđốp chẳng hề hay biết, những chuyện mà Iakốp Lukits cùng với tay kế toán và tay thủ kho vẫn ra sức dấu kín anh. Nhưng mọi chuyện bác nói đều dẫn đến một điểm là kẻ chủ mưu tất cả những sự việc đen tối xảy ra từ ngày đầu thành lập nông trang đến nay chính là cái lão Iakốp Lukits tâm ngẩm tầm ngầm kia.

- Tại sao bác không lần nào phát biểu ra trong hội nghị? Bác không gắn bó với lợi ích của nông trang hay sao? Thế mà cứ nói: “Tôi là giai cấp vô sản!”. Vô sản cái phải gió gì mà chỉ xì xà xì xào vụng trộm, còn ra hội nghị thì không thấy tăm hơi đâu cả?

Bác Salưi cúi gằm xuống, im lặng hồi lâu, tay mân mê một cọng cỏ, và ngọn cỏ mỏng manh ấy kẹp trong những ngón tay chuối mắn, đen đủi và gần như dại cứng của bác Salưi nom nó nghịch mắt quá đến nỗi Đavưđốp bất giác mỉm cười. Còn bác Salưi thì vẫn đăm đăm nhìn vào một cái gì đó ở dưới chân, dường như bác muốn tìm ở đấy câu trả lời cho Đavưđốp. Im lặng hồi lâu rồi bác hỏi:

- Mùa xuân vừa rồi trong một cuộc họp anh đưa ra ý kiến đuổi Atamantsukốp ra khỏi nông trang có phải không?

- Tôi có đặt vấn đề ấy. Thì sao?

- Thế đã đuổi chưa?

- Không đuổi. Và đáng tiếc; lẽ ra phải đuổi.

- Tiếc thì đúng là tiếc, nhưng vấn đề không phải ở chỗ tiếc…

- Vậy thì ở chỗ nào?

- Thế anh có nhớ ai đã phản đối việc đó không? Không nhớ à? Lão nhắc cho anh nhớ lại: Ôxtơrốpnốp này, thủ kho Aphônia này, Liusnhia này, và trên dưới hai chục người nữa. Chính họ đã đả vào ý kiến đúng đắn của anh, kéo mọi người chống lại anh. Như thế nghĩa là Ôxtơrốpnốp hành động không phải một mình. Anh nghe đã hiểu chưa?

- Còn gì nói nốt đi.

- Nói nốt thì được thôi. Anh vừa hỏi lão tại sao ra hội nghị lão không phát biểu. Lão có thể phát biểu một lần, hai lần, những đến lần thứ ba thì hết đường phát biểu: người ta sẽ choảng vào đầu lão ở ngay cái lò rèn này, bằng chính thanh sắt vừa lúc nào lão đưa vào lò và cầm đỏ rực trong tay, thế lão lão hết bép xép. Không, anh ơi, lão già rồi, hơi sức đâu mà phát biểu, anh có giỏi thì anh phát biểu thôi, lão vẫn còn muốn được ngửi cái mùi sắt đỏ trong lò.

- Bố già ơi, bố phóng đại mối nguy hiểm hơi quá đấy, thực tế thế! – Đavưđốp nói bằng một giọng thiếu tự tin, đầu óc vẫn đang bị ám ảnh vì câu chuyện bác thợ rèn vừa kể.

Nhưng ông lão vẫn giương đôi mắt ốc nhồi đen nhánh nhìn Đavưđốp chòng chọc, rồi nheo mắt lại cười kháy:

- Già rồi thì mắt mũi thong manh, anh ạ, cho nên có thể là lão phóng đại, như anh nói. Thế nhưng anh, anh là thanh niên mà những tác oai tác quái của bọn chúng anh chả thấy gì cả. Những trò bận rộn của tuổi thanh niên đã làm anh tối mắt thực sự rồi. Lão dứt khoát nói với anh như vậy.

Đavưđốp lặng im một lát. Bây giờ đến lượt anh ngồi đăm chiêu suy nghĩ, và anh đăm chiêu hồi lâu. Lúc này không phải bác Salưi nữa mà là Đavưđốp mân mê tay như vậy, chỉ khác là đó không phải ngọn cỏ, mà là chiếc ốc rỉ anh vừa nhặt dưới đất… Nhiều người có cái tật không thể giải thích được là hễ suy nghĩ lung là quay quay hoặc mân mê trong tay bất cứ vật gì mình vớ được…

Mặt trời đã xế từ lâu. Bóng đã ngả, và những tia nắng nóng hầm hập đổ xuống hun đốt cái mái lò rèn võng trĩu phủ đầy đất và cỏ dại, hun đốt những cỗ máy hái xếp hàng bên đó và lớp cỏ cháy xém bên đường. Cái im ắng lặng tờ của trưa hè trùm lên Grêmiatsi Lốc. Cửa nhà nào nhà nấy đóng kín mít; đường cái vắng tanh; ngay cả những chú bê từ sáng vẫn tha thẩn trên các ngõ cũng tản ra ngoài bờ ngòi ẩn mình dưới bóng rợp của những đám cây dương liễu. Thế mà Đavưđốp và bác Salưi vẫn cứ ngồi phơi dưới nắng chang chang.

- Ta vào trong nhà rèn, ngồi cho mát, chứ nắng này lão không quen, - bác Salưi không chịu nổi nắng rát vừa lau mồ hôi trên mặt, trên trán hói, và nói tiếp: - Một lão phó rèn già thì cũng chẳng khác gì một bà phu nhân già: không ưa tắm nắng, chẳng là vì suốt cái kiếp của mình cứ cấm cung trong nhà, - tất nhiên là mỗi người một kiểu.

Họ chuyển vào chỗ có bóng râm, ngồi xuống thềm đất nóng hâm hẩm đằng hướng bắc của gian lò rèn. Bác Salưi ngồi sát vào Đavưđốp, rì rầm nói, vo ve như một con ong bị mắc vào chạn:

- Vợ chồng Khốprốp có phải đã bị chúng giết không? Chúng giết đấy. Vì sao giết? Vì say rượu ư? Đâu phải cái sự ấy, anh ơi… Đây có chuyện gì đen tối đấy. Ai người ta lại giết người vì những chuyện không đâu. Lão già lão nghĩ lẩn thẩn thế này: nếu chính quyền xôviết không mê anh ta thì sẽ bắt và xử tử anh ta đàng hoàng theo toà án, chứ đâu lại làm dấm dúi, vậy nếu anh ta đã bị giết một cách dấm dúi, giết trộm, giữa đêm hôm, thậm chí lại bị giết cả vợ nữa thì có nghĩa là kẻ thù của chính quyền xôviết không mê anh ta, không thể khác được! Chứ lão hỏi anh, tại sao chúng lại giết vợ anh ta? Tại vì bọn giết người sợ chị ta tố cáo chúng trước chính quyền, do chị biết mặt chúng mà! Người chết thì hết nói, chôn xuống mồ là yên chuyện, anh ạ… Thế đấy thôi, không thể khác được, lão nói dứt khoát với anh như vậy.

- Cho là thế, và những điều ấy chả cần bác nói chúng tôi cũng thừa biết, thừa đoán ra được, nhưng cụ thể là ai giết? Điều đó thực tế chả ai biết cả, - Đavưđốp im lặng một lát, rồi lập mẹo, nói tiếp: - Và sẽ chẳng bao giờ biết được!

Bác Salưi dường như không nghe thấy câu cuối cùng của anh. Tay nắm chòm râu gần như bạc hết, bác toét miệng cười:

- Ngồi trong chỗ râm mát này dễ chịu thật. Ngày xửa ngày xưa, anh ạ, lão có lần gặp một chuyện như thế này. Một hôm, hồi ấy là trước mùa gặt, lão đang lắp vành cho chiếc xe bốn bánh của một lão nhà giàu ở Tavria. Lão nhớ, hắn đến lấy xe vào một ngày thường, ngày ăn chay, thứ tư hay thứ sáu gì đó. Hắn trả tiền, khen lão làm tốt, thết lão một chầu rượu, gọi những người làm của hắn đã dắt ngựa đến cho hắn lại cùng ngồi. Mọi người cùng uống. Rồi đến lượt lão mời rượu. Lại uống. Cái lão Ucrain ấy giàu lắm, trong bọn nhà giàu thật hiếm đứa như hắn: tâm địa hắn tốt. Anh ạ, thế rồi hắn nẩy ra sáng kiến làm một bữa nhậu nhẹt đàng hoàng. Mà lão thì công việc đang bề bộn, giữa ngày mùa mà, hàng họ ngập tận mũi. Lão đành bảo hắn; “Ông Tơrôphim Đênixôvits ạ, mời ông cứ tiếp tục, cứ uống với anh em, còn tôi ông cho kiếu, tôi không ngồi được đâu, lắm việc lắm”. Hắn đồng ý. Họ tiếp tục ngồi chén chú chén anh, còn lão, lão quay về lò. Đầu lão ù lên, nhưng chân vẫn đứng chắc, và tay cũng chắc, nhưng say, dứt khoát say lúy tuý. Đúng cái lúc khỉ gió ấy thì một chiếc xe ba ngựa leng keng đến trước cửa lò rèn. Lão bước ra. Đó là một chiếc xe thổ mộ thùng mây, và ngồi trên xe, dưới chiếc dù là tên Xêlivanốp, một tên địa chủ khắp vùng biết tiếng, kiêu căng khiếp lắm, và chó má thì trên đời này không ai bằng… Anh xà ích, mặt trắng bệch như tường vôi, tay run lẩy bẩy, đang cởi đai cho con ngựa bên trái. Anh ta đã sơ xuất để một chiếc cá móng ngựa rơi mất dọc đường. Thế là tên quý tộc ấy xỉa xói:

“Đồ mặt mẹt, tao sẽ đuổi cổ mày đi, sẽ tống mày vào tù, thế này thì mày làm tao nhỡ xe hoả mất”, - và cứ thế lải nhải mãi. Anh ạ, ở vùng sông Đông chúng tôi, dưới thời Sa hoàng, dân kô-dắc cũng không chịu khom lưng trước địa chủ lắm đâu. Đối với cái tên Xêlivanốp này thì cũng thế thôi: lão coi nó không ra cái đếch gì, mặc dầu nó là thằng địa chủ to nhất. Thế là lão bước ra, chuếnh choáng hơi men, lão đứng bên cửa, nghe nó mắng anh xà ích như tát nước vào mặt. Lão sôi tiết lên, anh ạ, dứt khoát là sôi lên sùng sục. Thằng Xêlivanốp trông thấy lão, quát gọi: “Ê, thằng thợ rèn kia, lại đây!”. Lão đã định trả lời: “Mày cần thì mày lại đây”. Nhưng lão chợt nảy ra một ý khác: lão bước tới phía hắn, tươi cười như với một người thân thích, đi đên bên xe, giơ tay bắt tay và nói: “Chào anh bạn! Thế nào, có khá không?”. Hắn sửng sốt đến nỗi chiếc kính gọng vàng trên mũi rơi xuống; nếu cái kính không có sợi dây đeo buộc giữ, nhất định nó đã vỡ tan tành rồi! Hán kéo lại kính lên mũi, còn lão thì vẫn cứ chìa tay ra, mà tay lão thì đen, như bồ hóng, bẩn như hủi. Hắn làm như không trông thấy bàn tay lão, nhăn mặt lại như nuốt phải mật đắng, và rít răng lại nói: “Thằng này say rượu phỏng? Mày có biết mày giơ tay ra với ai không, thằng mặt mo?”. Lão đáp: “Ô hay, sao lại không biết nhỉ, biết quá đi chứ! Tớ với đằng ấy thì có khác nào anh em ruột thịt: đằng ấy tránh nắng rúc xuống dưới cái ô, còn tớ thì chui vào dưới mái lò rèn; tớ thì những ngày thường tớ cũng say khướt, đằng ấy vừa nhận xét rất đúng, còn đằng ấy thì chắc hẳn không chỉ uống rượu có ngày chủ nhật như dân phu dân thợ, trông cái mũi đằng ấy đỏ như quả cà chua thì biết… Thành thử, hai ta là dòng dõi quý tộc, chứ không phải như những kẻ khác. Vậy nếu đằng ấy ngại không muốn bắt tay tớ, vì tay đằng ấy trắng, tay tớ đen, thì cái đó tớ để đằng ấy tự vấn lương tâm. Chui vào sáu tấm thì cả hai chúng mình cũng đều mục xương ra như nhau thôi mà”.

Thằng Xêlivanốp lặng ngắt, chỉ có đôi môi cứ nhai trệu trạo và mặt méo đi. Lão hỏi hắn: “Đằng ấy cần gì? Cần đóng móng con nghẽo hả? Cái ấy thì xong ngay thôi. Nhưng đằng ấy đừng chửi mắng cậu xà ích nữa. Trông thì biết, cậu ta không biết đường nào mà nói. Đằng ấy muốn chửi thì chửi tớ đây này. Hai anh em ta vào trong lò rèn, khoá trái cửa lại, rồi đằng ấy thử chửi tớ xem. Tớ rất thích những thằng to gan”.

Thằng Xêlivanốp lặng ngắt, mặt càng méo xệch, lúc méo sang bên này, lúc méo sang bên kia, lúc tái nhợt lúc đỏ dừ, nhưng vẫn cứ lặng ngắt. Lão đóng móng cho con ngựa của nó, rồi bước tới bên xe. Nó làm ra vẻ không trông thấy lão, chìa ra cho cậu xà ích một đồng rúp bạc, bảo: “Đưa cho cái thằng khốn nạn ấy”. Lão nhận đồng rúp cậu xà ích đưa cho, ném trả lại vào trong xe xuống dưới chân thằng Xêlivanốp, và lão ra vẻ ngạc nhiên, cười bảo hắn: “Ô hay, anh em với nhau giúp nhau có tí thế thôi ai lại lấy tiền? Thôi, tớ ủng hộ anh em đấy, cầm lấy ra quán làm cút rượu chúc cho tớ khoẻ!”. Đến đó thì mặt lão địa chủ nhà ta không phải tái nhợt, và cũng không phải đỏ dừ nữa, mà là xám ngoét; nó rít lên the thé: “chúc sức khoẻ mày hả… Chúc cho mày và cả nhà mày chết trương chết rũ thì có, đồ chó đểu, đồ khốn nạn, đồ xã hội chủ nghĩa! Ông sẽ lên phố trình quan ataman! Cho mày tù rục xương!”.

Đavưđốp cười ha hả, to đến nỗi đàn chim sẻ sợ hãi bay vù từ dưới mái lò rèn ra. Bác Salưi cười nụ sau hàng râu, giở thuốc ra cuốn.

- Tóm lại là “hai anh em” không ăn ý với nhau chứ gì? – Đavưđốp hỏi, nói gần như không ra lời.

- Không ăn ý.

- Thế còn tiền? Nó lại ném trong xe ra chứ gì?

- Thế thì lão sẽ ném cho nó biết… Không, nó cầm đồng rúp chuồn thẳng… Nhưng anh ạ, vấn đề không phải là tiền…

- Thì là cái gì?

Cái cười của Đavưđốp dòn và dễ lây quá đến nỗi bác Salưi cũng phởn lên cười ha hả, khoát tay một cái:

- Kể ra lão cũng hơi ngớ ngẩn…

- Thì kể nốt đi bác! Kể luôn đi nào! – Đavưđốp cười chảy nước mắt hau háu nhìn bác Salưi.

Nhưng bác Salưi cứ khoát tay, toét rộng hoác cái miệng râu xồm xoàm mà cười ồm ồm như lệnh  vỡ.

- Kìa thì kể đi chứ! Còn chờ gì nữa? – Đavưđốp lúc này đã quên đi vấn đề nghiêm túc đang bàn dở, cười không còn biết cái gì trên đời nữa, giục bác Salưi.

- Không còn biết kể cái gì nữa… Nó đã bảo lão là đồ chó đểu, đồ khốn nạn, và những cái đồ gì gì nữa, và cuối cùng là hết tiếng để chửi, nó giậm chân thình thình xuống sàn xe, rít lên: “Mẹ cha đồ xã hội chủ nghĩa! Ông sẽ cho mày vào tù!”. Hồi ấy lão chả hiểu xã hội chủ nghĩa là cái gì… Cách mạng thì lão biết, còn “xã hội chủ nghĩa” là gì thì lão chẳng biết, và lúc ấy lão tưởng đó là câu chửi tục nhất trong các câu chửi… Lão trả miếng ngay: “Mày là đồ xã hội chủ nghĩa ấy, quân chó đẻ, có cút ngay đi không, không ông đánh cho tuốt xác!”.

Đavưđốp ôm bụng cười một trận nữa. Bác Salưi đợi cho anh cười cho đã, rồi nói tiếp:

- Hôm sau có người đến dẫn lão lên gặp quan ataman. Hắn hỏi lão đầu đuôi xuôi ngược, rồi cũng cười như anh vậy, và thả lão về, không bắt giam. Hắn cũng xuất thân từ một gia đình sĩ quan nghèo, vậy cho nên hắn cũng khoái khi thấy có một anh phó rèn xoàng lại dám xỉ vả một ông chúa đất giàu có. Chỉ có là trước khi cho lão về, hắn bảo: “Này, anh kô-dắc kia, vừa vừa thôi nhớ, liệu giữ mồm giữ miệng, thời buổi này phức tạp đấy, hôm nay anh đóng móng ngựa, ngày mai rất có thể người ta sẽ đóng móng cho anh cả bốn cẳng để đường trường đến tận Xibia anh đi khỏi trượt ngã. Rõ chưa?”. Lão trả lời: “Bẩm quan lớn, rõ rồi ạ”. Hắn bảo: “Thôi, cút, và từ nay đừng để ta trông thấy mặt nữa. Còn ông Xêlivanốp thì ta sẽ báo ông ấy là ta đã lột da anh”. Đó, anh ạ, đầu đuôi là như thế…

Đavưđốp đứng dậy định chào bác phó rèn hay chuyện ra về, nhưng bác túm lấy cánh tay áo anh, lôi anh ngồi lại xuống bên bác, đột ngột hỏi:

- Anh sẽ chẳng bao giờ biết được ai đã giết vợ chồng Khốprốp phải không? Anh ạ, cái sai của anh là ở đấy đấy. Sẽ biết. Dứt khoát là sẽ biết, có điều là phải có thời gian.

Xem vẻ ông lão có biết manh mối gì đó, Đavưđốp quyết định lật con bài ra:

- Bác Ipôlít Xiđôrôvits ạ, bác nghi cho ai? – Anh  hỏi thẳng, nhìn xoi mói vào đôi mắt đen có lòng trắng đầy những tia máu của bác Salưi.

Bác liếc vội anh một cái, trả lời lảng:

- Chuyện này, anh ạ, dễ lầm lắm đấy…

- Thì bác cứ nói đi!

Bác Salưi đặt tay lên đầu gối Đavưđốp nói bằng một giọng đã hết do dự:

- Này, anh ạ, giữ lấy lời còn hơn giữ tiền, giữ của, anh hãy hứa với lão: không nói với ai rằng đây là ý kiến của lão. Đồng ý không?

- Đồng ý.

- Nó là thế này; chuyện này cũng không thể không có bàn tay Iakốp Lukits dính vào. Lão dứt khoát với anh như thế.

- Ồ, ông bạ-ạ-ạn ơi… - Đavưđốp thất vọng dài giọng đáp…

- Lão là “bạn” thằng Xêlivanốp, còn anh thì lão đáng làm bố anh. – Bác Salưi tự ái nói: - Lão không bảo anh là chính tay Iakốp Lukits giết Khốprốp, lão chỉ bảo vụ này có tay hắn dính vào thôi. Cái đó anh cần phải hiểu ra, nếu như Chúa cũng cho anh chút trí thông minh.

- Vậy chứng cớ đâu?

- Anh được bổ làm thẩm phán rồi chắc? – bác Salưi hỏi đùa.

- Bác Ipôlít Xiđôrôvits ạ, chuyện nghiêm chỉnh thì bác đừng nói đùa, có ý kiến thì nêu hết ra đi. Chúng ta không việc gì phải chơi ú tim với nhau.

- Anh ạ, thẩm phán như anh thì tồi lắm, - bác Salưi khẳng định. – Đi đâu mà vội, quỷ tha ma bắt anh đi, lão sẽ trình bày hết anh nghe, trình bày dứt khoát, có điều là anh hãy cố lau sạch nhử mắt mà nhìn cho rõ… Anh tằng tịu với con Luska làm cái khỉ gió gì? Thật chẳng vừa đôi phải lứa tí nào! Anh không tìm được đứa đàn bà nào hơn cái con đĩ rạc ấy ư?

- Cái ấy không việc gì đến bác, - Đavưđốp ngắt lời bác Salưi.

- Không đâu, anh ơi, việc đến cả lão, việc đến cả toàn nông trang nữa kia.

- Tại sao lại thế được?

- Tại là vì anh tằng tịu với con mèo mả gà đồng ấy, công tác của anh bê trễ đi hẳn. Anh sinh ra bị quáng gà… Thế mà anh bảo không việc gì đến lão. Anh ạ, đây không phải là chuyện không hay cho riêng anh, mà cho chung toàn nông trang ta. Chắc anh tưởng chuyện anh lăng nhăng với con Luska anh giữ được kín hẳn, thực ra thì cả làng biết tỏng tòng tong. Đấy như đám phụ lão chúng tôi, đôi lần ngồi với nhau, chúng tôi cứ băn khoăn thắc mắc: làm thế nào để tách được anh ra khỏi cái con Luska chết giẫm nửa đời nửa đoạn ấy nhỉ? Vì sao chúng tôi lại nghĩ như thế? Vì rằng cái giống đàn bà như con Luska thì không làm cho anh đàn ông chịu thương chịu khó ra đâu, mà chỉ làm cho người ta sao lãng công việc đi thôi, chúng tôi lo cho anh là vì thế… Anh là người tốt, chững chạc, chẳng rượu chè bê tha, tóm lại là hiền, và cái con quỷ cái ấy đã lợi dụng những cái tốt của anh: nó cưỡi lên lưng anh quất cho anh chạy nhong nhong. Nó làm cách nào để cưỡi được lên lưng anh thì anh biết hơn lão; cưỡi lên lưng anh thì chớ, nó lại còn khoe vung khắp làng: “Đấy, thấy chưa, đã thấy tôi xỏ mũi được những anh chàng như thế nào chưa?”. Ôi anh Đavưđốp ơi, kiếm ai chả kiếm, sao lại kiếm con ấy… Một lần, vào hôm chủ nhật, đám già chúng tôi đang ngồi chơi trước cửa nhà Bexkhlépnốp thì anh đi qua. Ông cụ Bexkhlépnốp đã nhìn theo anh và nói: “Đáng lẽ phải bắc anh chàng Đavưđốp nhà ta lên cân mới phải: xem trước khi dính vào con Luska được bao nhiêu cân và bây giờ còn bao nhiêu. Nom kìa, nó đã rút hết ruột anh ta rồi. Chuyện này dở òm, các cụ ạ: ruột thì nó rút, phần bà con ta còn lại cái xác ve…”. Anh ạ, lão nói anh hãy tin lão, lão nghe thế mà lão xấu hổ hộ cho anh! Nếu như anh là anh phó nhỏ ở lò rèn lão thì làng xóm chả ai hơi đâu mà nói làm gì, nhưng đằng này anh lại là người đứng đầu toàn nông trang ta… Mà đứng đầu là quan trọng lắm đấy, anh ạ… Ngày xưa, khi có người kô-dắc nào bị đòn quan ngoài chợ vì phạm phải tội gì đó người ta thường nói; “Vãi máu đít ra cũng chẳng sao, miễn là cái đầu còn tỉnh”. Vậy nhưng cái đầu của nông trang ta không còn tỉnh nữa, hơi mụ đi rồi. Cái đầu ấy đã bị con Luska cho bùa mê thuốc lú. Nếu như anh chọn một con bé nào đứng đắn, hoặc một mụ goá đi cũng được, thì nào có ai bảo sao, đằng này anh lại… Ôi anh Đavưđốp ơi, anh tối mắt đi mất rồi! Lão thì lão chẳng cho rằng vì quá yêu con Luska mà anh rộc người đi như thế đâu mà là vì lương tâm anh cắn rứt, lão nói dứt khoát với anh như vậy.

Đavưđốp nhìn con đường chạy qua bên lò rèn, nhìn đàn chim sẻ đang quần bụi. Mặt anh tái đi trông rõ và trên đôi gò má nứt nẻ của anh xuất hiện những vết bầm xanh xanh.

- Thôi được rồi đấy! – anh lẩm bẩm nói, rồi quay sang bác Salưi. – Ông ạ, chả cần ông nói tôi cũng đã muốn lộn mửa.

- Say mà mửa được ra thì cũng nhẹ người, - bác Salưi nói như tiệm mồm nói chơi.

Nén đi cái ngượng ngùng bối rồi, Đavưđốp nói giọng lạnh lùng:

- Ừ, bác hãy đưa bằng chứng là Ôxtơrốpnốp có tham gia. Không có bằng chứng, không có sự việc cụ thể thì coi như vu khống. Bác giận Ôxtơrốpnốp đã gây chuyện với bác. Và bác chơi lại hắn chứ gì! Nào bác có chứng cớ gì thì đưa ra đi!

- Anh ạ, anh nói dở lắm, - bác Salưi nghiêm nghị đáp lại. – Lão giận gì Ôxtơrốpnốp? Giận chuyện tính công chăng? Thì lão cứ việc không chịu, tự khắc hắn phải tính đủ cho lão. Còn như bằng chứng thì lão không có, lão đâu có nằm dưới gầm giường Khốprốp khi chúng hành hung giết cô vợ anh ta và cũng là người thân tình với lão.

Ông lão lắng tai nghe có tiếng sột soạt sau tường, và thân hình nặng nề trùng trục thế mà lão đứng phắt dậy một cái nhanh nhẹn lạ thường. Lão đứng đó một phút dỏng tai nghe, rồi thủng thỉnh cởi tấm tạp dề da cáu bẩn luồn qua đầu, và nói:

- Thôi, anh ạ, anh về chơi nhà lão, làm một bát sữa mát, rồi ngồi mát mẻ nói nốt câu chuyện. Lão nói riêng với anh… - Bác ghé tai Đavưđốp và cái câu chuyện kín bác nói thì thào bằng cái giọng ồm ồm ấy có lẽ hàng xóm lắng giềng đều nghe rõ mồn một: - Lại cái thằng ranh con ấy đang nghe trộm đấy, cấm sai đâu.!... Lúc nào nó cũng rình nghe, nó không để mình nói chuyện yên được với ai, cái tai nó lúc nào cũng vểnh lên. Lạy Chúa, lão thật khốn khổ khốn sở với nó, không sao kể xiết! Ương bướng, và lười, và ranh ma quỷ quái không để đâu cho hết, nhưng công việc lò rèn thì nó có khả năng, nghĩa là lão nói dứt khoát thế! Thằng quỷ sứ nhà giời ấy, nó mó đến việc gì là làm được việc ấy. Lại là đứa mồ côi cha mẹ nữa. Có thế lão mới cố cắn răng chịu đựng những cái tai ác của nó, lão muốn dạy nó nên người, để nó nối được nghiệp lão.

Bác Salưi bước vào trong gian lò rèn, vứt cái tạp dề lên trên mặt bàn đen nhẻm bồ hóng, bảo gọn Đavưđốp: “Đi!”. – và ra đường về nhà.

Đavưđốp chỉ muốn sớm được ngồi một mình ngẫm nghĩ về những lời anh vừa nghe bác Salưi nói, nhưng câu chuyện liên quan đến vụ sát hại Khốprốp còn đang dở, đành theo gót bác thợ rèn đang bước đi khệnh khạng như một con gấu.

Lẳng lặng mà đi thì Đavưđốp thấy bất tiện, cho nên anh gợi chuyện hỏi:

- Gia đình nhà ta thế nào, hả bác Ipôlít Xiđôrôvits?

- Gia đình lão ấy hả? Có độc lão và bà lão điếc lòi tĩ.

- Thế không con cái gì à?

- Hồi còn trẻ cũng có hai đứa đấy, nhưng trời không cho sống. Còn đứa thứ ba đẻ ra đã chết rồi, và từ đó bà lão không chửa đẻ gì nữa. Hồi đó bà ấy trẻ, khoẻ mạnh, nhưng có cái gì mắc míu, trục trặc sao đó, và thế là tịt hẳn! Vợ chồng lão làm đủ cách, cố đủ vành, nhưng chẳng đi đến đâu. Bà nhà nó năm ấy đã cuốc bộ đi Kiép, lễ nhà thờ xin cầu tự một mụn con, nhưng cũng chẳng được cái gì. Trước khi bà ấy ra đi, lão bảo: “Đi thì cũng cố đùm vạt áo mang về cho tôi một thằng nhãi Khôkhôn nhá!” – Bác Salưi cười khúc khích, nói tiếp: - Bà ấy nhiếc lão là đồ phải gió, ra cầu nguyện mấy câu trước tượng thánh, rồi đi. Bà ấy đi từ mùa xuân đến mùa thu mới về, nhưng chẳng được cái tích sự gì cả. Từ đấy trở đi, lão bắt đầu nuôi đủ thứ trẻ mồ côi, truyền cho chúng nghề rèn. Lão rất chi là yêu trẻ, nhưng Chúa lại không muốn lão có con cho vui nhà vui cửa. Anh ạ, đời vẫn có những chuyện như thế đấy…

Ngôi nhà nom sạch sẽ, bên trong tối lờ mờ, yên tĩnh và mát rượi. Một thứ ánh sáng vàng vàng lọt vào nhà qua khe cửa chớp đóng kín che nắng. Sàn nhà mới cọ rửa ít lâu thoang thoảng mùi xạ và mùi cỏ ngái. Bác Salưi đích thân xuống hầm mang lên một bình sữa đổ mồ hôi lạnh, đặt lên bàn hai chiếc cốc vại, thở dài nói:

- Bà nhà lão đang công tác ngoài vườn rau. Cái bà thổ tả ấy cấm có sợ nắng… Vậy là anh hỏi lão có bằng chứng gì không hả? Lão nói dứt khoát với anh là sáng hôm vợ chồng Khốprốp bị giết, lão có đến thăm viếng, vì cái nhà chị Khốprốp ấy chẳng gì cũng là chỗ thân tình với lão. Nhưng nhà có công an gác ngoài cửa, dự thẩm viên đến, và cấm không cho ai vào. Lão đứng vẩn vơ bên thềm một lát.. Chợt lão nhìn thấy trên thềm nhà một vết chân quen quen… Trên thềm vết chân người dẫm nát, nhưng có một vết phía bên, gần lan can.

- Nó có cái gì mà bác thấy quen? – Đavưđốp hỏi vội, vẻ chăm chú.

- Có cái gót cá sắt. Vết chân còn mới, đêm qua thôi, in rõ, và cái cá sắt nom quen quen… Loại cá sắt ấy theo lão thì cả làng chẳng ai dùng đóng ủng, trừ một người. Và lão không thể lầm được, vì đôi cá ấy ở lò rèn lão ra.

Đavưđốp sốt ruột đặt cốc sữa uống dở sang bên:

- Tôi không hiểu. Xin bác nói rõ hơn.

- Anh ạ, có gì đâu mà không hiểu. Hai năm trước đây, từ cái hồi còn cá thể cơ, lúc sắp vào  mùa xuân, Iakốp Lukits có đến lò rèn nhờ lão lắp vành cho chiếc xe ngựa. Lão bảo; “Đem lại đây, hiện tôi đang rỗi.”. Hắn đem xe lại, ngồi lò rèn lão khoảng nửa tiếng, chuyện gẫu con cà con kê. Rồi hắn đứng dậy định về, và đứng bên lò hắn chú ý đến đống sắt vụn, cúi xuống lục bới. Cái đống sắt vụn của lão thì đủ thứ linh tinh, đủ các vật tầm tầm. Hắn tìm thấy một đôi cá ủng kiểu vòng kín gót gầy của Anh mà lão vứt lăn lóc đấy từ hồi nội chiến. Hắn nói: “Bác Ipôlít Xiđôrôvits ơi, cho tôi xin đôi cá này tôi đóng vào ủng, dạo này già rồi, cứ lê gót sền sệt, gót giày dép nào cũng chẳng được mấy nả, phải chữa luôn”. Lão bảo hắn: “Cứ lấy đi thôi, bà con với nhau có đáng cái gì. Cá thép bền lắm đấy, đi đến đời con đời cháu không hỏng”. Hắn đút túi ra về. Chuyện ấy tất nhiên là hắn quên rồi, nhưng lão thì lão nhớ. Lão đã trông thấy chính cái hình cá sắt ấy ở vết chân in trên tuyết…Lão thấy nghi quá. Lão nghĩ bụng: sao lại có cái vết cá ấy ở đây nhỉ?

- Rồi sao nữa? – Đavưđốp giục ông lão cứ kể lể con cà con kê.

- Rồi lão nghĩ bụng: “Ta đến chơi nhà Iakốp Lukits tí, xem vết giày hắn thế nào”. Lão đến tìm hắn, giả vờ hỏi han sắt đánh lưỡi cày, rồi nhìn chân hắn. Nhưng hắn lại đi giày nỉ? Chẳng là đang rét đại hàn mà. Lão làm như tiện mồm hỏi chơi: “Bác Iakốp Lukits à, bác có trông thấy xác hai người bị giết không?”. Hắn trả lời: “Không, tôi không dám nhìn người chết, nhất lại là bị giết. Tim tôi yếu mà. Nói thế chứ trước sau rồi ai cũng phải qua cái đận ấy thôi”. Lão lân la trò chuyện rồi như vô tình hỏi tiếp: “Bác gặp Khốprốp lần cuối cùng đã lâu chưa?”. Hắn nói: “Chả mấy lâu, mới tuần trước”. Hắn nói tiếp: “Trong ta sao lại có  những kẻ ác ôn thế! Sát mạng một con người lực lưỡng như vậy. Và vì lý do gì chả biết? Anh ta hiền như đất, xưa nay có gây thù chuốc oán với ai bao giờ đâu. Mẹ cha bọn khốn nạn, cho chúng nó chết khô chết héo, chết trương chết rũ ra”.

Lão nghe mà lòng như lửa đốt! Trong khi hắn giở cái giọng lưỡi Giuđa ấy ra, đầu gói lão cứ rung lên, và bụng lão nghĩ: “Đồ chó, chính mày đêm qua đã lần mò đến nhà Khốprốp, và nếu không phải mày đã giết anh ta thì là mày đã dẫn thằng sát nhân đến đấy”. Những lão vẫn làm ra vẻ như không, rồi cáo về. Nhưng cái ý định kiểm tra lại vết giày ấy đã chốt sâu vào đầu óc lão, như cái đinh cắm vào móng ngựa vậy. Đôi cá giày lão cho hắn, còn hay đã rơi mất? Lão đợi hai tuần thì hắn mới bỏ giày nỉ, đi ủng vào. Trời vừa bắt đầu ấm, tuyết bắt đầu tan là lão quẳng công việc lò rèn đó, mò ngay lên trụ sở. Iakốp Lukits có đó, và đi ủng! Một lát sau hắn bước ra ngoài. Lão theo hút. Hắn bỏ đường cái, rẽ vào lối ra kho. Lão nhìn lốt chân hắn: đôi cá sắt lão cho hắn hai năm trước vẫn còn, vết in rành rành đó!

- Ông lão ngớ ngẩn này, sao hồi ấy lại ngậm miệng, không nói không năng gì? Sao không báo cáo với nơi cần báo cáo? – Máu Đavưđốp bốc hết lên mặt. Anh bực tức đấm mạnh một cái xuống bàn.

Nhưng bác Salưi chằm chằm nhìn anh bằng con mắt không lấy gì làm dịu dàng cho lắm, hỏi vặn lại:

- Này anh ơi, anh tưởng trứng khôn hơn vịt hẳn? Chuyện ấy lão đã nghĩ đến trước anh cơ… Nhưng giả thử là ba tuần sau khi xảy ra vụ giết người, lão đi báo cáo với nhân viên điều tra, xin hỏi cái lốt chân kia đâu? Thế chẳng ra là lão ngu lắm sao?

- Lão phải nói ngay hôm xảy ra ấy chứ! Lão là đồ hèn, chẳng qua là lão hốt thằng Ôxtơrốpnốp, thực tế thế!

- Của đáng tội, có thế, - bác Salưi xin chịu ngay. – Anh ơi, lủng củng với Ôxtơrốpnốp là chuyện nguy hiểm đấy… Mươi năm trước đây, khi hắn còn trẻ hơn, mùa cắt cỏ, hắn với Anchíp Gráts bực nhau, chửi lộn nhau, rồi hắn bị Anchíp nện cho một trận nên thân. Một tháng sau cái bếp ngoài trời nhà Anchíp cháy. Bếp làm ngay gần nhà và đêm ấy gió thổi tạt theo hướng nhà, và thế là nhà cháy nốt. Cả cái dẫy nhà xép bốc cháy rừng rực, rồi kho thóc cũng đi đời luôn. Anchíp trước kia nhà cửa bề thế, bây giờ chui rúc trong cái lều gianh vách đất. Đụng đến Iakốp Lukits thì thế đấy. Những chuyện xích mích thù oán từ đời thuở nào hắn cũng chẳng bỏ qua đâu, nói gì đến chuyện bây giờ. Nhưng anh ạ, vấn đề không phải ở chỗ ấy. Vấn đề là lão đã do dự, không quả quyết đến trình bày với công an: phần thì lão e dè, phần thì lão không tin dứt khoát là chỉ mình Iakốp Lukits có đôi cá giày ấy. Phải kiểm tra đã, bởi vì rằng thời nội chiến có đến nửa số người vùng ta đi giày săng đá Anh. Thêm nữa, qua một tiếng đồng hồ thì thềm nhà Khốprốp đã nát những vết giày, đến nỗi ngay cả vết lạc đà hay chân ngựa cũng khó mà phân biệt được. Đấy, đầu đuôi như thế đấy, nếu suy trước tính sau cho kín mọi bề thì đâu phải chuyện đơn giản. Cho nên hôm  nay lão mời anh đến đây không phải để xem máy cắt cỏ đâu, mà để bàn bạc riêng với anh một lúc.

- Ông quyết định hơi muộn, ông lẩm cẩm lắm… - Đavưđốp nói bằng giọng trách móc.

- Chưa muộn đâu, nhưng nếu anh không sớm mở to mắt ra thì nhìn muộn mất đấy, lão nói dứt khoát cho anh biết thế.

Đavưđốp im lặng một lát, rồi đáp, cân nhắc từng tiếng:

- Về chuyện tôi, bác Ipôlít Xiđôrôvits ạ, về chuyện công tác của tôi bác có nhiều ý kiến đúng, tôi xin cám ơn bác. Công tác của tôi phải chấn chỉnh lại, thực tế thế! Nhưng công việc mới toanh thế thì ma quỷ cũng lần mò đâu được ra ngay!

- Cái ấy thì đúng, - bác Salưi tán thành.

- Còn về việc tính công cho bác, chúng tôi sẽ xem xét và sửa lại. Về Ôxtơrốpnốp bây giờ cứ từ từ vậy thôi, vì ta không bắt được quả tang hắn. Cần phải có thời gian. Nhưng về chuyện ta nói với nhau đây, bác chớ hé răng ra với ai. Bác rõ không?

- Lão sẽ im như thóc.

- Bác còn điều gì muốn nói nữa không? Nếu không thì tôi ra trường học đây, tôi có tí việc cần gặp ông hiệu trưởng.

- Còn điều này nữa. Anh hãy dứt khoát quẳng cha nó con Luska đi! Anh ạ, con ranh con ấy sẽ cho anh đi đứt ấy…

- Ồ, quỷ tha ma bắt ông đi! – Đavưđốp kêu lên ngán ngẩm. – Chuyện ấy ta bàn rồi, và thế là đủ. Tưởng trước khi chia tay bác nói chuyện gì đáng chuyện, chứ lại cái chuyện cũ rích ấy…

- Anh đừng vội khùng lên, chuyện người già cả nói cho anh, anh hãy vểnh tai lên mà nghe. Lão không nói chuyện vớ vẩn đâu, anh nên biết là thời gian gần đây con ấy không chỉ móc với riêng mình anh… Và nếu anh không muốn ăn một viên đạn vào giữa sọ thì cái con chó cái ấy, anh hãy đá nó đi, dứt khoát!

- Nhưng tôi có thể bị ăn đạn của ai cơ chứ?

Đôi môi cương nghị của Đavưđốp chỉ thoáng một nụ cười hoài nghi, nhưng bác Salưi đã để ý thấy và điên tiết lên:

- Anh nhăn nhở cái gì? Anh hãy cảm ơn Chúa đã để cho anh sống đến ngày hôm nay, anh thật có mắt cũng như mù! Lão cứ thắc mắc mãi: sao nó lại bắn anh Maka, mà không bắn anh?

- “Nó” là ai?

- Thằng ranh con Chimôphây Mũi toác chứ còn ai nữa! Nó thù oán với anh Maka cái gì lão chẳng hiểu. Lão mời anh đến báo cho anh biết chuyện này, anh lại nhăn nhăn nhở nhở chẳng khác gì thằng Vanhia nhà lão vậy.

Đavưđốp bất giác thò tay vào túi áo, tỳ ngực vào bàn.

- Thằng Chimôphây hả? Nó ở đâu mò ra?

- Ở chỗ đi đày trốn về, chứ còn ở đâu?

- Bác thấy nó à? – Đavưđốp hỏi  nhỏ, gần như thì thào.

- Hôm nay có phải thứ tư không nhỉ?

- Thứ tư.

- Vậy thế là đêm hôm thứ bảy lão thấy nó đi với con Luska nhà anh. Tối hôm ấy con bò cái nhà lão không về chuồng, lão phải đi tìm cái con ôn vật ấy. Quãng nửa đêm, lão túm được cái con thối thây ấy dắt về thì bắt gặp hai đứa ở gần rìa làng.

- Nhưng bác có trông gà hoá cuốc không đấy?

- Anh tưởng lão trông anh hoá ra thằng Chimôphây sao? – bác Salưi mỉm cười chế giễu. – Không, anh ơi, lão già thì già nhưng mắt còn tinh chán. Chắc chúng nó tưởng con vật đi lang thang một mình trong đêm tối, mà thực ra thì có lão theo sau, tóm lại là thoạt đầu chúng nó chưa thấy lão. Con Luska nói: “Úi, đồ chết giẫm, con bò đấy, anh Chimôphây ạ, thế mà em cứ tưởng có người”. Vừa lúc ấy thì lão lù lù đến. Con ấy đứng phắt dậy trước, thằng Chimôphây đứng dậy theo ngay. Lão nghe nó lên đạn, nhưng miệng nó vẫn lặng ngắt. Thế là lão rất chi là ôn tồn, bảo chúng nó: “Ngồi xuống đi, bà con cứ ngồi xuống đi! Lão không làm phiền gì bà con đâu, lão đi lùa con bò về thôi mà, nó bị lạc đàn…”.

- Chà, bây giờ thì rõ cả rồi, - Đavưđốp nói, có lẽ là nói với mình thì đúng hơn là nói với bác Salưi.

Anh nặng nề cất mình đứng dậy, tay trái ôm lấy bác thợ rèn, tay phải nắm chặt khuỷu tay bác;

- Bác Ipôlít Xiđôrôvits, xin cám ơn về tất cả những điều bác nói hôm nay.

Tối hôm ấy anh kể lại cho Nagunốp và Radơmiốtnốp về câu chuyện giữa anh với bác Salưi. Anh đề nghị lập tức báo cáo lên GPU huyện việc thằng Chimôphây Mũi toác đã trốn về làng. Nagunốp, lúc nghe tin cứ tỉnh bơ như không, phản đối đề nghị của Đavưđốp:

- Không nên báo cáo đi đâu cả. Họ sẽ làm hỏng toét hết. Thằng Chimôphây không ngu đâu, nó không dại gì ở trong làng, và chỉ cần một cha GPU ló mặt về đây thôi, nó lập tức biết ngay và chuồn thằng.

- GPU về bí mật, ban đêm, thì nó biết làm sao được? – Radơmiốtnốp vặn lại.

Nagunốp khinh khỉnh nhìn anh một cái nhìn thương hại:

- Anđrây ạ, cậu nói cứ như trẻ con. Con chó sói bao giờ cũng phát hiện ra người đi săn trước, rồi người đi săn mới phát hiện ra nó.

- Vậy ý kiến cậu thế nào? – Đavưđốp hỏi.

- Cho mình cái hạn năm sáu hôm, mình sẽ mang về cho các cậu thằng Chimôphây hoặc sống hoặc chết. Còn cậu với Anđrây thì dẫu sao ban đêm cũng liệu dờ hồn: khuya đừng có mò ra đường, và đừng thắp đèn. Tôi chỉ yêu cầu các cậu có thế, còn mọi việc cứ để mặc tôi.

Nagunốp dứt khoát từ chối không chịu nói gì thêm về kế hoạch hành động của mình.

- Được, để cậu làm, - Đavưđốp đồng ý. – Nhưng cậu coi chừng: để hụt thằng Chimôphây, nó sổng mất thì có đến mạt kiếp ta cũng không tìm ra nó.

- Cứ yên tâm, nó chạy đằng trời, - Nagunốp khẽ nhếch mép cười, nói quả quyết như thế, và đôi mi thâm quầng của anh khép xuống, dập tắt những tia lửa vừa loé lên một khoảnh khắc trong đôi mắt anh.

CHƯƠNG XI

Luska lúc ấy vẫn ở nhà bà cô. Ngôi nhà nhỏ, lợp phên cành với những cánh cửa chớp sơn vàng xộc xệch và những bức tường lún xiêu vẹo vì già nua, bám cheo leo ở cái đầu mỏm vách đứng bên sông. Chiếc sân nhỏ mọc đầy cỏ hoang, bụi dại. Alếchxâyépna, bà cô của Luska, không có tài sản gì hết ngoài con bò cái và cái vườn rau nhỏ tí. Sân có một hàng rào thấp phía trông ra sông, có trổ một cổng chui. Mụ chủ nhà vẫn chui qua lỗ trổ đó ra sông lấy  nước tưới bắp cải, dưa chuột và cà chua trong vườn.

Quanh lỗ trổ, cỏ dại kiêu hãnh giơ cao những đài hoa đỏ lựu và tím ngắt của chúng, cây gai mèo mọc um tùm; dọc hàng rào, dây bầu leo ngoằn ngoèo qua các hàng cọc, vẽ nên những hình hoa văn bằng những bông hoa chuông vàng nho nhỏ; sáng sáng hàng rào long lanh những vẩy xanh biếc của dây bìm bìm nở hoa và từ xa nom  như tấm thảm thần kỳ trong chuyện cổ tích. Cảnh vật vắng tanh. Nagunốp đã chọn chỗ ấy khi ngày hôm sau, từ sớm tinh mơ, anh men theo bờ sông đi sát qua sân nhà mụ Alếchxâyépna.

Hai ngày đầu anh chưa động tĩnh gì hết, đợi cho qua cơn hắt hơi sổ mũi đã. Đến ngày thứ ba, vừa sẩm tối anh đã khoác áo bông vào, lẻn ra đường, tụt xuống bờ sông. Suốt đêm hôm ấy, một đêm không trăng, đen như mực, anh nằm phục trong đám cỏ gai mèo bên hàng rào. Không có bóng ai hiện ra bên lỗ trổ cả. Mờ sáng Maka trở về nhà, chợp mắt đi vài tiếng, lúc ấy đội vừa bước vào vụ cắt cỏ khô. Trời đổ tối anh đã lại nằm phục bên lỗ trổ rồi.

Khoảng nửa đêm, cánh cửa ngôi nhà khẽ kẹt mở. Maka nhìn qua hàng rào thấy trên thềm hiện ra cái bóng xâm xẫm của một người phụ nữ trùm khăn vuông xâm xẫm. Anh nhận ra Luska.

Ả thong thả bước trên thềm xuống, đứng đó một lát, rồi ra đường, rẽ vào lối ngõ. Maka êm bước theo gót ả, cách khoảng mươi bước. Không hề nghi ngờ gì, Luska đi thẳng ra phía đồng cỏ, đầu chẳng ngoái lại. Hai người vừa ra khỏi đầu làng thì cái bệnh sổ mũi hắt hơi đã phản lại Maka: anh hắt xì một tiếng to tướng, và lập tức nằm bẹp xuống đất. Luska quay phắt người lại. Ả đứng không nhúc nhích một phút, như hoá đá, hai tay nén chặt ngực, miệng thở hổn hà hổn hển. Chiếc áo lót mình của ả bỗng trở thành như chật căng và hai bên thái dương ả đập thình thình. Ả nén sợ, thận trọng bước lên từng bước ngắn về phía vừa có tiếng động. Maka nằm chống hai khuỷu tay xuống đất, gườm gườm quan sát ả. Đến cách anh khoảng ba bước chân, Luska dừng lại, nén giọng hỏi:

- Ai đấy?

Maka lúc ấy đã chống cả bốn tay chân xuống đất, khẽ kéo vạt áo bông trùm kín đầu. Anh thật chẳng muốn Luska nhận ra anh tí nào.

- Ôi, lạy Chúa! - ả hoảng sợ thở hắt ra và bỏ chạy về làng.

… Trời chưa rạng Maka đã lay Radơmiốtnốp dậy rồi ngồi xuống tấm ghế dài nói, mặt như đưa đám:

- Hắt hơi có một cái thế là hỏng mẹ nó cả việc! .. Anđrây ơi, cậu giúp mình một tay, không thì sổng thằng Chimôphây mất!

Nửa giờ sau hai người đã cưỡi xe song mã đến nhà mụ Alếchxâyépna. Radơmiốtnốp buộc ngựa vào hàng rào, bước đi trước lên thềm, gõ vào tấm cửa xộc xệch.

- Ai đấy? – mụ chủ nhà hỏi, giọng khê nặc. – Cần hỏi ai?

- Dậy thôi, bà Alếchxâyépna ơi, ngủ lắm thì mất bò đấy, - Radơmiốtnốp lấy giọng vui nhộn, nói.

- Anh là ai?

- Tôi đây, là chủ tịch xôviết, Radơmiốtnốp đây.

- Làm gì mà bảnh mắt đã mò đến nhà người ta thế này? – mụ già khó chịu hoạnh lại.

- Có tí việc, mở cửa ra!

Then cửa lạch cạch mở, Radơmiốtnốp cùng với Nagunốp bước vào gian bếp. Mụ chủ nhà mặc vội áo vào, lẳng lặng châm đèn.

- Cô khách trọ có nhà không bà? – Radơmiốtnốp đưa mắt chỉ cái cửa gian phòng xép.

- Có nhà. Có việc gì cần hỏi nó sớm vậy?

Radơmiốtnốp không đáp, bước tới gõ cửa, lớn giọng nói:

- Ê, cô Luska! Dậy, mặc quần áo vào! Cho cô năm phút để trang phục chỉnh tề, theo kiểu nhà binh!

Luska chân đất bước ra, chiếc khăn san khoác trên đôi vai trần. Nước da bánh mật của đôi bắp chân ả làm nổi bật lên màu trắng tinh của đường đăng ten viền chiếc váy lót.

- Ăn mặc tử tế vào! – Radơmiốtnốp ra lệnh. Và hất hàm nói, giọng chê trách: - Ít nhất cũng xỏ cái váy ngoài vào chứ… Đàn bà đâu mà trơ trẽn quá thể vậy!

Luska nhìn hai người một cái nhìn dò hỏi chăm chú, rồi nhoẻn một nụ cười sáng chói:

- Anh em nhà cả, gì mà tôi phải ngượng nhỉ!

Cái ả Luska khốn kiếp này, đang ngái ngủ thế mà vẫn mơn mởn như gái tơ, nom hay đáo để! Radơmiốtnốp chẳng dấu vẻ ngưỡng mộ sắc đẹp ả, mỉm cười lẳng lặng ngắm nhìn ả. Còn Maka thì nhìn mụ chủ nhà đang đứng tựa lưng vào bếp lò một cái nhìn nặng chịch, đăm đăm không chớp;

- Các ông anh có việc gì đến thăm chị em vậy? – Luska nhún vai một cái duyên dáng, xốc lại tấm khăn vuông đang muốn tụt xuống. – Chẳng hay có phải các anh đến tìm Đavưđốp không?

Ả  nhoẻn một nụ cười lúc này đã có vẻ đắc chí một cách trâng tráo, đôi mắt lim dim ánh lên một ánh ranh mãnh cố bắt gặp ánh mắt chồng cũ của ả. Nhưng Maka quay mặt lại nhìn ả một cái nhìn bình tĩnh nặng ngàn cân, rồi cũng bình tĩnh và nặng ngàn cân như thế, anh buông từng tiếng trả lời ả:

- Không, không phải đến tìm Đavưđốp, mà tìm thằng Chimôphây Mũi toác.

- Tìm anh ta sao lại tìm ở đây? – Luska đáp thản nhiên như không, nhưng liền đó đôi vai ả co giật một cái rùng mình ớn lạnh. – Tìm con chim ưng của tôi thì các anh phải lên vùng xứ lạnh, nơi mà các anh đã xua nó lên đấy ấy chứ…

Vẫn bình tĩnh như thế, vẫn hoàn toàn tự chủ, Maka nói:

- Bỏ cái lối đóng kịch ấy đi.

Cái thái độ bình tĩnh lạnh lùng hoàn toàn bất ngờ đối với Luska ấy xem ra đã làm ả điên tiết, và ả chuyển sang tấn công:

- Ông chồng quý hoá của tôi ơi, chẳng hay có phải ông đêm qua đã bám gót tôi khi tôi ra khỏi đầu làng không?

- Cũng nhận ra hả? – Và trên đôi môi Maka thoáng hiện một nụ cười gằn.

- Không, đêm tối như hũ nút tôi nhận ra làm sao được, và anh lại làm tôi sợ hết hồn, anh yêu quý ạ! Chạy về đến trong làng tôi mới đoán là anh.

- Thế nào, loại quỷ cái coi trời bằng vung như cô mà cũng biết sợ à? – Radơmiốtnốp giở giọng cục cằn nói, hy vọng dùng cái cục cằn cố tình ấy để xua tan sức mạnh quyến rũ của sắc đẹp đầy khêu gợi của Luska.

Ả chống nạnh, ném vào anh một cái nhìn nảy lửa:

- Anh đừng nói quỷ cái với tôi! Câu ấy anh về mà nói với con Marina nhà anh, thằng Đêmít Miệng hến nó lại không vả cho anh vỡ mõm! Còn nói láo với tôi thì dễ quá rồi, tôi không có người bênh vực…

- Của ấy thì cô có thừa, - Radơmiốtnốp cười khẩy.

Nhưng Luska không thèm mảy may để ý đến anh nữa, quay sang hỏi Maka:

- Anh đi theo tôi làm gì? Anh muốn gì tôi? Tôi như con chim tự do, muốn bay đâu thì bay. Giả thử tôi đi với anh bạn Đavưđốp của tôi, chắc chắn anh ấy sẽ không cám ơn anh đã bám theo chúng tôi đâu!

Dưới đôi gò má tái nhợt đi của Maka, các thớ thịt bắt đầu cuộn lên giần giật, nhưng bằng một sự cố gắng phi thường, anh đã nén lại được, không nói năng gì. Hai nắm tay anh bóp chặt kêu lên răng rắc cả gian bếp nghe rõ. Radơmiốtnốp vội cắt đứt câu chuyện bắt đầu chuyển sang chiều nguy hiểm:

- Nói gẫu thế đủ rồi! Chuẩn bị đi, Luska, và cả bà nữa, bà Alếchxâyépna. Chúng tôi đến bắt hai người, và giải lên huyện ngay bây giờ.

- Vì sao bắt? – Luska hỏi.

- Đến đấy khắc biết.

- Tôi không đi thì sao?

- Chúng tôi sẽ trói cô lại như một con cừu lôi đi. Và cấm giãy. Nào, mau lên!

Luska đứng do dự vài giây, rồi quay gót lẩn nhanh vào trong buồng, đóng sập cửa lại, định cài then khoá trái. Nhưng Maka đã kịp thời và cũng chẳng cần một cố gắng gì đặc biệt, giật tung cánh cửa ra, bước vào trong buồng, cao giọng cảnh cáo;

- Này, không đùa với cô đâu! Mặc quần áo vào và đừng tìm cách chuồn. Hạng ngu ngốc như cô thì tôi không cần đuổi bắt, mà cho một phát chết tươi. Rõ chưa?

Luska thở dốc, ngồi xuống chiếc giường bừa bãi chăn gối.

- Đi ra, cho tôi mặc quần áo.

- Cứ việc mặc. Không có gì phải ngượng: người ngợm cô còn chỗ nào mà tôi chưa  nhìn chán mắt!

- Thì mặc xác anh! – Luska nói, giọng mệt mỏi và không còn ý hằn học.

Ả cởi áo lót mặc đêm ra, cởi váy, rồi trần truồng trong cái vẻ đẹp thanh xuân rạng rỡ, ả bước với dáng điệu hết sức tự nhiên tới rương quần áo, mở nắp lên. Maka không nhìn ả: đôi mắt thản nhiên và lạnh như băng của anh nhìn cắm ra phía cửa sổ…

Năm phút sau, Luska trong tấm áo vải hoa nhũn nhặn, lên tiếng:

- Tôi xong rồi, anh Maka ạ. – Và ngước nhìn Maka một cái nhìn lắng dịu, pha chút buồn buồn.

Ngoài bếp, mụ Alếchxâyépna đã xống áo chỉnh tề, hỏi:

- Nhà tôi ai trông cho bây giờ? Con bò cái ai vắt sữa cho nó? Lại cái vườn nữa?

- Việc ấy thím khỏi lo, bao giò thím trở về thì đâu sẽ vào đấy, hệt như bây giờ, - Radơmiốtnốp nói để mụ yên tâm.

Họ ra khỏi nhà, lên xe ngựa. Radơmiốtnốp tháo giây cương, quất mạnh roi, và chiếc xe lao đi theo nước kiệu rảo. Đến trụ sở xôviết, anh dừng xe lại, nhảy xuống.

- Nào, xuống thôi, các bà! – Anh bước đi trước vào hành lang, đánh que diêm, mở cánh cửa một gian phòng xép tối om. – Vào đây, ngồi trong ấy.

Luska hỏi:

- Bao giờ mới lên huyện?

- Sáng ra cái là đi.

- Có từ đấy đến đây mà phải xe với pháo, sao không đi bộ? – Luska gặng hỏi.

- Cho nó lịch sự, - Radơmiốtnốp cười ruồi trong bóng tối.

Thực ra anh cũng không thể giải thích cho hai mụ đàn bà đang thắc mắc kia rằng anh đưa xe đi giải họ vì không muốn để ai trông thấy lúc đang trên đường về trụ sở.

- Có tí đường thì đi bộ cũng được, - mụ Alếchxâyépna nói, rồi làm dấu, và bước vào gian buồng.

Luska thở dài đánh sượt một cái, lẳng lặng bước theo gót mụ. Radơmiốtnốp khoá chặt cửa lại, rồi đến lúc ấy mới lớn tiếng nói vọng vào:

- Luska, nghe tôi nói này: thức ăn thức uống chúng tôi sẽ mang vào. Trong góc, phía bên trái cửa, có cái chậu đi vệ sinh. Yêu cầu ngồi yên lành tử tế, không làm ầm, không đấm cửa, không thì chúng tôi trói nghiến lại đấy, mẹ kiếp, và tống giẻ vào mồm. Không phải chuyện đùa đâu. Thôi, xin chào! Sáng tôi sẽ quay lại.

Anh móc thêm cái khoá nữa vào cửa ra vào trụ sở xôviết, rồi nói với Nagunốp đang đứng đợi bên thềm, - và giọng anh nói nghe có ý van lơn:

- Mình chỉ có thể giữ họ đây ba ngày đêm thôi, không thể hơn được, Maka ạ. Muốn gì thì gì chứ Đavưđốp mà biết thì mình với cậu ốm đòn!

- Không biết được đâu. Cậu đem cất xe đi, rồi mang ít gì chén cho bọn tạm giam ấy. Thôi nhá, cám ơn cậu, mình về đây.

… Không, không phải là anh chàng Maka trước đây nữa – một anh chàng Maka hiên ngang oai vệ - đang bước đi trong bóng đêm đang ngả màu lam của lúc trước buổi rạng đông, qua các lối ngõ vắng vẻ của Grêmiatsi Lốc… Đó là một anh chàng Maka lưng hơi gù gù, chân lê bước, đầu ủ rũ cúi xuống và chốc chốc lại đưa bàn tay rộng bè bè ép lên phía bên trái ngực…

* * *

Để tránh va chạm với Đavưđốp, Nagunốp ở lì mấy ngày ngoài bãi cắt cỏ, chỉ tối mới về làng. Tối hôm thứ hai, trước khi đi phục, anh đến tìm Radơmiốtnốp, hỏi:

- Đavưđốp có tìm gì mình không?

- Không. Chính mình đây hầu như cũng chẳng thấy mặt hắn. Hai hôm nay bắc cầu qua sông, mình độc chỉ những loay hoay ngoài cầu rồi lại chạy về ngó qua hai con mụ tù binh ấy.

- Họ thế nào?

- Hôm qua, lúc giữa buổi, con mụ Luska nổi điên lên khiếp quá! Mình chửa đi tới bên cửa, mụ ấy đã tặng mình không còn thiếu cái tên gì. Và nó văng tục ra, con mụ khốn kiếp ấy, quá một anh kô-dắc say rượu! Nó học đâu được những lời chửi rủa có sách thế chẳng biết! Mình tướt bơ mới dẹp yên được mụ ấy. Bây giờ thì mụ ấy yên rồi. Đang khóc.

- Cho khóc. Rồi thì nó sắp được rống lên mà khóc một thằng chết toi.

- Thằng Chimôphây sẽ chẳng dẫn xác đến đâu, - Radơmiốtnốp tỏ vẻ hoài nghi.

- Nó sẽ đến! – Nagunốp đấm xuống đầu gối một cái, và đôi mắt anh sưng húp mấy đêm thức trắng long lên sòng sọc. – Nó bỏ con Luska đi đâu nổi? Nó sẽ đến!

… Và thằng Chimôphây đã đến thật. Quên hết cả giữ gìn, đến đêm thứ ba, vào hồi hai giờ sáng, nó đã hiện ra ở bên lỗ trổ cuả hàng rào. Lòng ghen tuông đã kéo nó về làng chăng? Hay cái đói? Có thể là cả hai, chỉ biết rằng nó không chịu nổi nữa và đã dẫn cái xác đến…

Bước êm như một con thú, nó leo lên cái lối mòn dẫn từ bờ sông tới. Maka tịnh không nghe thấy một tiếng sào sạo, xào xạo của đất sét dưới chân nó cũng như một tiếng cành khô sột soạt. Và khi một bóng người hơi cúi lom khom bất thần hiện ra cách anh có dăm bước, anh mới giật mình kinh ngạc.

Chimôphây đứng đó, không một chút run sợ, tay phải lăm lăm khẩu súng trường và tai dỏng lên nghe ngóng. Maka nằm trong bụi gai mèo, nín thở. Tim anh rạo rực lên giây lát, rồi trở lại đập đều đều, nhưng miệng anh khô khốc và đắng xè.

Từ bờ sông vang lại tiếng kêu ken két của con chim cuốc. Một ả bò cái rống lên phía cuối làng. Đâu đó phía bãi cỏ bên kia sông, rải ra tiếng hót đổ hồi của con cun cút.

Maka ở thế bắn rất thuận lợi: thằng Chimôphây đứng kia, giơ sườn bên trái ra trước miệng súng, người hơi nghiêng về phía bên phải, và tai vẫn dỏng lên nghe ngóng cái gì đó.

Maka khẽ đặt nòng súng lục lên khuỷu tay trái gập lại của anh. Cánh tay áo bông anh ướt đẫm sương đêm. Anh trù trừ giây lát. Không, Nagunốp, anh đâu thèm bắn trộm vào kẻ thù của mình như một quân chó má kulắc nào đó! Và vẫn giữ nguyên tư thế ấy, anh lớn tiếng quát:

- Thằng khốn kiếp, quay mặt lại nhìn thẳng vào cái chết đây!

Chimôphây như bật lò so nhảy vọt lên phía trước rồi sang bên, và giương súng. Nhưng Maka đã nhanh tay hơn nó. Súng lục nổ vang lên một tiếng không lấy gì làm to lắm, chìm trong cái tĩnh mịch ẩm ướt của buổi đêm.

Maka nhìn thấy thằng Chimôphây buông rơi khẩu súng, khuỵu hai đầu gối và hình như từ từ ngã đổ ngửa. Anh nghe thấy tiếng gáy nó va bịch xuống con đường mòn mà mặt đất đã rắn đanh lại do chân người xéo.

Maka nằm nguyên đó mươi lăm phút nữa, im phăng phắc. “Có một con đàn bà thì chúng chả kéo nhau đi một lũ đâu, nhưng biết đâu bọn cùng tụi nó chả đang phục đợi dưới sông?”, - anh nghĩ bụng thế và căng hết tai ra nghe ngóng. Nhưng bốn bề lặng ngắt như tờ. Con cuốc nghe súng nổ đã im tiếng giờ đây lại kêu ken két, ngập ngừng và ngắt từng quãng. Rạng đông bừng lên gấp gấp. Một dải dài đỏ rực hiện lên và lan dần ra ở góc đằng đông của bầu trời xanh thẫm. Hàng dương liễu bên kia sông đã hiện hình rõ nét. Maka đứng dậy, bước tới chỗ thằng Chimôphây. Nó nằm ngửa đó, cánh tay phải giang rộng. Đôi mắt đã dại nhưng chưa mất hẳn ánh sống, vẫn mở trừng trừng. Đôi mắt ấy, đôi mắt đã chết ấy dường như đang ngắm nhìn với một lòng ngưỡng mộ và một vẻ sửng sốt lặng lẽ những ngôi sao mờ đang tắt kia, cái đám mây nhẹ kia trong trong màu ngọc thạch và phơn phớt bạc ở phía dưới, đang tan dần trên đỉnh đầu, và cái vòm trời bao la phủ một làn khói sương trong vắt.

Maka lấy mũi ủng đá nhẹ xác chết, khẽ hỏi:

- Thế nào, hết léng phéng chưa, thằng giặc?

Thằng đĩ đực được gái cưng ấy chết rồi mà nom vẫn đẹp trai. Một mớ tóc hung hung xoà xuống vầng trán trắng tinh không gợn một chút rám nắng của nó. Khuôn mặt đầy đặn chưa kịp mất đi cái dáng hồng hào. Môi trên hơi hênh hếch với hàng ria đen mượt hé lên , để lộ hàm răng ươn ướt, và bóng một nụ cười ngạc nhiên còn ẩn trên môi như bông hoa của nó, đôi môi mới mấy ngày trước đây còn hôn Luska chùn chụt. Maka nghĩ bụng: “Nom mày thế mà cũng béo ra đấy, thằng ông mãnh ạ!”.

Giờ đây đứng bình tĩnh ngắm nhìn kẻ bị anh hành hạ, Maka chẳng còn cảm thấy nỗi thù hằn như vừa mới trước đây chốc lát, chẳng cảm thấy thoả mãn, chẳng cảm thấy cái gì hết, ngoài một sự mệt mỏi ghê gớm. Tất cả những gì đã xáo động lòng anh trong bao năm tháng đằng đẵng, tất cả những gì đã làm trào lên tim anh một luồng máu nóng bỏng và bắt anh ngậm đắng nuốt cay trong tủi hờn, ghen tuông và đau khổ, tất cả những cái đó giờ đây, với cái chết của thằng Chimôphây, ẩn biến đi tận đâu xa lắc, và biến hẳn, không bao giờ trở lại nữa.

Anh nhặt khẩu súng trường lên, rồi lục soát túi, mặt nhăn lại ghê tởm. Trong túi véttông bên trái, anh sờ thấy cái vỏ sần sùi của quả lựu đạn na, túi phải không có gì ngoài bốn cái ốp đạn. Trong người Chimôphây không có một mảnh giấy tờ nào cả.

Trước khi bỏ về, Maka nhìn xác chết một lần chót, và đến lúc ấy anh mới để ý thấy chiếc áo sơmi thêu thằng Chimôphây mặc đã được giặt rũ tinh tươm, và cái quần kaki của nó được mạng lại ở hai đầu gối, mạng rất khéo, rõ ràng là do một bàn tay phụ nữ. “Xem ra nó nuôi mày và chăm sóc mày không đến nỗi tồi”, - anh cay đắng nghĩ bụng như vậy và cất bước nặng nề, rất nặng nề, luồn qua lỗ trổ hàng rào.

Mặc dù còn sớm tinh mơ, Radơmiốtnốp đã đứng ngoài cổng đón Maka. Anh đỡ lấy khẩu súng trường, đạn và quả lựu đạn, hể hả nói:

- Hạ được rồi hả? Thằng ôn ấy ngổ ngáo lắm đấy, sống coi trời bằng vung… Mình nghe thấy cậu nổ súng, mình vùng dậy mặc quần áo, định chạy ra chỗ ấy thì thấy cậu về. Thật nhẹ cả người.

- Đưa mình chìa khoá trụ sở xôviết, - Maka đề nghị.

Radơmiốtnốp thừa hiểu, nhưng cứ hỏi:

- Cậu định thả Luska?

- Ừ.

- Dở.

- Cậu im đi! – Maka âm thầm đáp. – Con đĩ rạc ấy, dẫu sao mình vẫn yêu nó…

Anh cầm lầy chìa khoá, lẳng lặng quay đi, lê gót ủng sền sệt đi đến trụ sở xôviết.

* * *

Đứng trong hành lang tối mò Maka loay hoay một lúc mới đút được chìa khoá trúng ổ. Anh mở toang cửa buồng, gọi nhỏ:

- Luska! Ra tôi hỏi một tí.

Phía góc phòng sột soạt tiếng ổ rơm. Luska đứng ở ngưỡng cửa chẳng nói chẳng rằng, đưa tay uể oải sửa lại tấm khăn vuông trắng trên đầu.

- Ra ngoài thềm này, - Maka đứng né sang bên, để ả đi lên trước.

Ra tới thềm, Luska vắt tay sau lưng, lẳng lặng đứng tựa người vào lan can. Ả cần có cái đỡ người ả chăng? Ả im lặng chờ. Cũng như Anđrây Radơmiốtnốp, cả đêm qua ả không chợp mắt và gần sáng ả đã nghe thấy tiếng súng nổ nhỏ. Chắc ả đã đoán ra Maka sắp báo cho ả tin gì. Mặt ả nhợt nhạt và đôi mắt ráo hoảnh thâm quầng của ả ấp ủ một ý tứ gì mới lạ mà Maka chưa từng thấy.

- Tôi đã bắn chết thằng Chimôphây, - Maka nói và nhìn thẳng vào cặp mắt đen phờ phạc của Luska. Và bất giác anh lướt nhìn những nếp nhăn đau khổ mới chỉ có hai  ngày hai đêm qua thôi mà đã in sâu một cách mau chóng lạ thường vào hai bên khoé cái miệng đỏng đảnh và đa dâm của ả. – Cô về ngay nhà, thu xếp khăn gói đi khuất mắt làng này, đi cho đến ngày mãn kiếp không về, không thì khốn đấy… Họ sắp lôi cô ra xử tội.

Luska đứng lặng. Maka lóng ngóng tất bật lục túi tìm cái gì. Rồi ngửa bàn tay chìa ra một chiếc mùi xoa viền đăng ten vo tròn, cáu bẩn lâu chưa giặt:

- Của cô đấy. Cô bỏ quên hôm rời khỏi nhà tôi… Trả cô, bây giờ tôi không cần đến nó nữa…

Luska đưa ngón tay lạnh giá cầm lấy chiếc khăn mùi xoa, nhét vào ống tay áo nhàu nát. Maka hít một hơi dài, nói:

- Nếu cô muốn vĩnh biệt nó… Nó nằm bên nhà cô, sau lỗ trổ hàng rào.

Họ lẳng lặng chia tay nhau để rồi không bao giờ gặp lại nhau nữa. Trên thềm bước xuống, Maka khẽ gật đầu vĩnh biệt ả, còn Luska thì đưa mắt nhìn tiễn theo anh hồi lâu, mái đầu kiêu hãnh của ả cúp rạp xuống ra ý chào. Phải chăng lần gặp gỡ cuối cùng này trong đời họ, ả đã có cái nhìn khác đối với con người nghiệt ngã và có phần nào cô độc kia? Nào ai biết…

CHƯƠNG XII

Những ngày nắng ráo nóng nực đã làm cho cỏ các thung lũng lớn như bốc, và rốt cuộc đội muộn mằn nhất của Grêmiatsi Lốc, đội ba, cũng đã kéo nhau ra thảo nguyên cắt cỏ. Toán cắt cỏ xuất phát ra thảo nguyên sáng thứ sáu thì chiều thứ bảy Nagunốp đến nhà Đavưđốp. Anh ngồi lúc lâu chẳng nói chẳng rằng, lưng gù xuống, râu ria chẳng cạo và dường như mấy ngày qua đã già sọp đi. Và trên cái cằm nhô ra lởm chởm râu đen của anh ta, Đavưđốp lần đầu tiên trông thấy ánh lên những sợi sương muối.

Cả khách lẫn chủ cứ ngồi lẳng lặng hút thuốc trong mươi phút, không ai hé răng một lời, không ai muốn khơi mào nói trước. Sắp bước chân ra về rồi Nagunốp mới hỏi:

- Hình như đội Liubiskin đã ra hết ngoài đồng cắt cỏ rồi phải không, cậu đã kiểm tra chưa?

- Những ai được phân công thì đã đi rồi. Sao?

- Sáng mai cậu nên ra đội cậu ấy xem xem tình hình công việc thế nào.

- Vừa mới đi thì đã kiểm tra cái gì?

- Mai là chủ nhật.

- Thì làm sao?

Đôi môi khô khốc của Nagunốp thoáng nhếch một nụ cười:

- Đội cậu ấy hầu như toàn một bọn ngoan đạo ăn phải bùa mê thuốc lú của nhà thờ, đặc biệt là bọn váy đụp. Họ đi thì đi, nhưng chủ nhật cắt cỏ thì họ cắt khối ra đấy! Rồi cậu xem, thế nào cũng có mụ mò sang nhà thờ Tubianxki. Mà công việc thì không thể chậm trễ được nữa, thời tiết lại có thể giở giói, rồi rơm cỏ đâu chẳng thấy, chỉ vác về độc cỏ rác lót ổ chó.

- Được, mai mình sẽ đi sớm kiểm tra. Mình sẽ không bỏ qua bất cứ trường hợp vắng mặt nào. Cám ơn cậu đã gợi ý. Nhưng tại sao chỉ riêng đội Liubiskin lại hầu như toàn là dân ngoan đạo như cậu nói thế nhỉ?

- Cái của quý ấy thì các đội khác cũng nhan nhản, nhưng đội ba thì dày đặc hơn.

- Rõ rồi. Còn cậu thì mai định làm gì? Xuống đội một chăng?

Nagunốp miễn cưỡng đáp:

- Mình không đi đâu cả, sẽ ở nhà mấy ngày. Không hiểu sao người mình cứ nhão ra thế nào ấy… Cứ như bị roi quật, bị cho vào cối giã vậy…

Trong chi bộ Grêmiatsi đã thành cái lệ là đến ngày mùa thì đảng viên nào cũng bắt buộc phải có mặt ngoài đồng. Thường thường thì họ ra đồng từ lâu trước khi nhận được chỉ thị của huyện uỷ. Và lần này, Nagunốp xuống tham gia một đội cũng là việc đương nhiên, nhưng Đavưđốp thừa hiểu tâm trạng của bạn, nên anh bảo:

- Thì cậu cứ ở nhà thôi, Maka ạ. Thế có khi lại hay: trong lãnh đạo cũng nên có một người ở nhà phòng có việc gì.

Đavưđốp nói thêm câu sau chỉ là vì không muốn để lộ rõ ra cho Maka thấy sự ái ngại cuả anh. Và Nagunốp – dường như đến đây chỉ có việc thế thôi – đứng dậy ra về không chào một tiếng.

Nhưng một phút sau anh lại quay vào, mỉm cười ngượng ngập:

- Trí nhớ mình bây giờ cứ như cái túi thủng, quên cả chào cậu. Ở chỗ Liubiskin về, cậu ghé qua mình, kể mình nghe bọn ngoan đạo ở đấy làm ăn ra sao và mắt họ để đi đâu: để dưới chân ngựa hay để nơi cái thập tự nhà thờ Tubianxki. Cậu hãy nói cho bọn dấm da dấm dớ có tên thánh ấy biết là Đức Chúa Giêsu chỉ làm ra trận mưa thóc vào một năm đói nọ cho các cụ tổ ta ngày xưa thôi, mà cũng chỉ làm có độc một lần ấy trong suốt cuộc đời ông ta, còn như với bà con kô-dắc mình thì ông ta sẽ chẳng cắt cỏ trữ mùa đông hộ đâu, họ đừng hoài hơi mong chờ! Tóm lại là cậu hãy mở hết tốc lực tuyên truyền chống tôn giáo cho tôi! Mà tự bản thân cậu cũng thừa biết rằng trong những trường hợp ấy cần nói những gì. Đáng tiếc là mình không đi được với cậu, nếu không thì mình có thể giúp cậu một tay đắc lực trong việc chống tôn giáo ấy. Tất nhiên, mình cũng chẳng phải tay hùng biện gì cho lắm, nhưng mình có quả thôi sơn thích hợp với bất cứ cuộc tranh luận nào. Mình mà phóng nó ra thì kẻ đang tranh luận với mình hết đường lý sự. Bởi vì lý sự muốn hay thì phải đứng mà lý sự, chứ nằm sóng soài đấy thì còn lý sự quái gì nữa? Lý sự nằm chỉ đáng bỏ ngoài tai!

Nagunốp bỗng phấn chấn hoạt bát hẳn lên, đôi mắt vui vẻ long lanh, đưa ra đề nghị:

- Này Xêmiôn ạ, mình sẽ đi với cậu! Để lỡ ra nếu cậu phải đấu với các con mẹ ấy trên lĩnh vực chủ nghĩa ngu dân tôn giáo thì lúc ấy mình sẽ có tác dụng cho cậu ghê lắm đấy. Cậu biết cái giống đàn bà vùng mình đấy: mùa xuân nếu như lần thứ nhất chúng nó chưa mổ chết được cậu thì lần thứ hai nhất định chúng nó sẽ mổ đến chết đứ đừ. Nhưng có mình thì cậu khỏi lo! Mình biết cách xử sự với bọn quỷ cái ấy!

Đavưđốp cố hết sức nén cười, sợ hãi xua tay quầy quậy:

- Không! Không! Tôi xin ông! Tôi chả cần gì sự giúp đỡ của ông, tôi khắc tự giải quyết được! Và biết đâu  chả là cậu cứ lo hão? Nhân dân bây giờ đã giác ngộ ra nhiều so với hồi mấy tháng đầu tập thể hoá, thực tế thế! Và cậu, Maka ạ, cậu vẫn cứ đo nó bằng cái thước cũ, đó cũng là một thực tế nữa!

- Tuỳ cậu, mình đi cũng được, không đi cũng được. Mình nghĩ là mình có thể giúp được cậu, nhưng nếu cậu đã hảo hán thế thì mặc cậu tự giải quyết lấy.

- Maka ạ, mình nói cậu đừng tự ái, - Đavưđốp làm lành. – Nhưng đấu tranh chống những thành kiến tôn giáo thì cậu là một chiến sĩ tồi, cậu có thể làm cho sự nghiệp hỏng không cứu vãn được, đúng là không cứu vãn được!

- Về vấn đề ấy mình không muốn tranh luận với cậu, - Nagunốp đáp lại khô khan. – Có điều là cậu cẩn thận đấy, khéo không lại vãi ra quần đấy! Cậu cứ quen cái lối ăn nói ngọt nhạt với cái bọn hôm qua còn là kẻ tư hữu đến tận xương tuỷ ấy, còn mình, mình tuyên truyền chúng theo cách mà lương tâm anh du kích đỏ của mình mách nước cho. Thôi, mình đi đây. Chào cậu.

Họ xiết chặt tay nhau, cứ như sắp xa nhau lâu ngày vậy. Bàn tay Nagunốp cứng và lạnh ngắt như hòn đá, và trong đôi mắt đã mất đâu cái ánh linh hoạt vừa mới rồi, lại thấy hiện ra nỗi đau âm thầm, không nói ra lời. “Cu cậu khổ lắm đấy!” – Đavưđốp nghĩ bụng, cố nén cái cảm giác thương hại vô duyên ấy đi.

Tay đặt trên quả đấm cửa, Nagunốp quay đầu lại , nhưng anh không nhìn vào Đavưđốp mà nhìn tránh sang bên, và giọng anh cất lên nghe hơi khàn khàn:

- Con vợ cũ của mình, cũng là cô bạn của cậu, nó bỏ làng cuốn xéo đi đâu rồi ấy. Cậu biết chưa?

Đavưđốp nghe nói, sửng sốt. Anh chưa hề hay biết gì về chuyện cách đây mấy ngày, Luska đã bỏ làng Grêmiatsi Lốc, nơi chôn rau cắt rốn đầy kỷ niệm, để ra đi không bao giờ trở lại nữa. Anh quả quyết:

- Làm gì có chuyện ấy! Giấy tờ chẳng có thì đi đâu? Chắc là nó vẫn ở đằng bà cô, nằm đó đợi cho dư luận bới móc về Chimôphây qua đi. Mà thực ra bây giờ cô nàng chường mặt ra với thiên hạ thì cũng dơ, thật chuyện cô nàng với Chimôphây thật chẳng hay hớm gì…

Maka cười khẩy, toan bảo: “Thế mình và cậu thì có hay hớm gì hơn không?” – nhưng anh lại nói:

- Nó có đủ giấy tờ trong tay, bỏ làng đi từ hôm thứ tư, mình nói đích xác với cậu như thế. Chính mắt mình trông thấy nó lên đường từ sớm bảnh mắt, tay ôm cái bọc nhỏ, chắc là áo xống. Đến đỉnh gò, nó dừng lại một lát, quay nhìn về làng, rồi biến mất hút, con ôn dịch! Mình có đến khảo bà cô: này, Luska dẫn xác đi đâu rồi? Nhưng mụ ấy chẳng biết cái chết tiệt gì cả. Luska chỉ bảo mụ ấy rằng chân nó dẫn đến đâu thì nó đi đến đấy. Có thế thôi. Cuộc đời của nó là thế đấy con mụ khốn kiếp ấy!

Đavưđốp nín thinh. Cái cảm giác ngượng và xấu hổ của anh những khi đối diện với Maka, lại dâng lên trong anh mạnh hơn lúc nào hết. Anh cố làm ra vẻ thản nhiên, và cũng nhìn lánh sang một phía bên cạnh người Maka, nói  nhỏ:

- Thôi thì đường rộng cứ đi! Chả ai thương.

- Xưa nay nó có cần ai thương bao giờ, và cậu ơi, về cái chuyện yêu đương vớ vẩn thì thằng Chimôphây cứ gọi là ăn đứt chúng mình. Thực tế thế, như cậu vẫn nói! Nhưng việc gì cậu phải nhăn mặt lại như vậy? Cậu thấy chối hả? Mình, anh bạn ạ, chuyện này mình cũng chối ghê lắm, nhưng sự thật vẫn là sự thật, nhắm mắt bỏ qua đâu có được! Con Luska đã lọt khỏi cả tay mình lẫn tay cậu một cách dễ dàng. Vì sao vậy? Vì rằng nó là con đàn bà không phải là đàn bà nữa, mà đã hoá thành quỷ cái! Cậu tưởng cuộc cách mạng thế giới của chúng ta, nó mê lắm phỏng? Mê cái chết tiệt! Cả nông trang tập thể, cả nông trường quốc doanh, và ngay cả chính quyền xôviết nữa, nó coi là những của vô tích sự. Rong chơi hội hè, làm thật ít, ngoáy đít thật nhiều, đó là toàn bộ cương lĩnh phi Đảng của nó! Một con đàn bà như thế, muốn giữ được nó bên mình thì phải lấy nhựa hắc ín quét vào tay, túm chặt lấy váy nó, nhắm tịt mắt lại, và quên hết mọi sự đời. Nhưng mình cho là chỉ cần cậu chợp mắt đi một tí là y như rằng nó đã tụt khỏi váy, như con rắn lột da, và cứ tồng ngồng như khi mới lọt lòng mẹ, nó phóng ngay tới đám múa may nhảy nhót. Đó, cái con Luska trời đánh thánh vật là như thế đó! Chính vì thế mà nó cứ bám riết lấy thằng Chimôphây. Trước kia, ngày nào cũng như ngày nào, thằng Chimôphây cứ ôm chiếc phong cầm đi phất phơ trong xóm, lảng vảng qua trước cửa nhà mình, là con Luska phát sốt phát rét, khốn khổ cái thân đời nó, cuống lên vì không biết bao giờ mình mới chịu ra khỏi nhà cho. Một con động cỡn như thế thì mình với cậu lấy gì mà giữ được nó? Vì nó mà tung hê cả cách mạng, cả công việc hàng ngày của chính quyền xôviết hay sao? Hay là chung nhau tiền mua cái đàn phong cầm? Chết ngay! Chết chìm trong sự sa đoạ tư sản! Không, thà mặc cho nó treo cổ lên cái cây thứ nhất nó gặp bên đường, thà cho nó treo cổ đến ba lần đi nữa thì Xêmiôn ạ, hai chúng mình cũng sẽ không vì một con đĩ rạc như thế mà từ bỏ lý tưởng Đảng của chúng ta!

Một lần nữa, Nagunốp lại linh hoạt lên ưỡn thẳng người. Đôi gò má anh ửng hồng. Anh tựa vào khung cửa, cuốn điếu thuốc, châm lửa, rít hai ba hơi dài, rồi nói bằng giọng bây giờ đã bình tĩnh hơn và nhỏ hơn, đôi lúc chuyển sang gần như thì thào:

- Thú nhận với cậu, Xêmiôn ạ, mình đã sợ là con vợ cũ của mình sẽ tru tréo lên khi nhìn thấy thằng Chimôphây nằm chết đó… Nhưng không! Cô nó có kể lại rằng nó đến bên thằng Chimôphây, không rỏ một giọt nước mắt, không kêu một tiếng, nó quỳ phục xuống bên thằng kia, miệng nói nhỏ: “Con chim ưng của em ơi, anh muốn bay về với em, nhưng đã bay về cõi chết… Hãy tha tội cho em đã không che chở được anh khỏi nạn dữ này”. Rồi nó bỏ khăn vuông ra, rút cái lược trên đầu, chải cho thằng Chimôphây, sửa lại mái tóc cho nó, hôn nó lên môi, rồi đi. Nó đi, không ngoái nhìn lại một lần!

Maka ngừng một lát rồi lại nói tiếp, nói to hơn, và trong giọng nói hơi khàn khàn của anh Đavưđốp chợt bắt gặp mấy âm hưởng tự hào được che dấu một cách vụng về:

- Nó vĩnh biệt thằng ấy như thế đấy. Đáo để đấy chứ nhỉ? Con mụ khốn kiếp ấy nom thế mà gan cóc tía! Thôi, mình đi đây. Chào cậu!

Thì ra Maka đến là để nói chuyện ấy… Đưa bạn ra đến cổng rồi, Đavưđốp quay trở về gian phòng tối nhờ nhờ, để nguyên quần nằm vật xuống giường. Anh không muốn nhớ lại một cái gì, không muốn nghĩ đến một cái gì, chỉ muốn sao mau chóng chìm đắm được trong giấc ngủ. Nhưng giấc ngủ chẳng chịu đến.

Bao nhiêu lần rồi anh tự xỉ vả mình đã nông nổi thiếu suy nghĩ mà dan díu với Luska! Nào có tí mảy may tình yêu trong quan hệ giữa hai người đâu… Còn thằng Chimôphây thì chỉ cần nó xuất hiện là Luska không chút do dự đã cắt phăng ngay với anh, với Đavưđốp, nối lại với nó, cắm đầu lao theo người yêu của mình. Ừ mà rõ ràng mối tình đầu thì khó quên… Cô ta đã bỏ làng lặng lẽ ra đi, không nói một lời chào vĩnh biệt. Nhưng thực ra cô ta cần gì đến anh? Lời vĩnh biệt của cô ta, cô ta đã nói với người mà chết rồi vẫn được cô ta yêu, còn anh, Đavưđốp, anh định xơ múi gì vào đây? Mọi sự đã diễn ra theo đúng cái lẽ đời của nó. Và tất cả cái chuyện không lấy gì làm sạch sẽ lắm giữa anh và cô ả Luska này chỉ là một lá thư viết dở, lưng chừng dứt đoạn. Có thế thôi!

Đavưđốp trằn trọc hoài trên tấm phản hẹp, rền rĩ, hai lần vùng dậy hút thuốc. Nhưng đến gần sáng anh cũng chợp mắt được. Anh tỉnh dậy thì trời đã sáng bạch. Giấc ngủ ngắn ngủi đã chẳng làm anh sảng khoái lên được tí nào. Anh nhỏm dậy và có cảm giác như vừa sau một cơn say rượu bí tỉ: khát như cào, đầu nhức như búa bổ, miệng khô đắng, chốc chốc lại lợm giọng buồn nôn. Anh khó nhọc quỳ phục xuống tìm giầy, và tìm mãi chẳng thấy. Anh sờ soạng dưới gầm giường, gầm bàn, ngơ ngác nhìn quanh mấy góc gian phòng đồ đạc trống tuyềnh trống toàng, và chỉ đến lúc ưỡn mình đứng dậy thì mới thấy đôi giầy mình vẫn đi ở chân. Anh kêu thốt lên một tiếng ngán ngẩm và lẩm bẩm:

- Thế này thì quá quắt lắm! Tàu mắc cạn mẹ nó rồi, thực tế thế! Cha tiên nhân con Luska! Bốn ngày đêm nay nó không có mặt ở cái làng này nữa, vậy mà lúc nào nó vẫn cứ như ở bên mình…

Đứng bên giếng, anh cởi trần tới  ngang lưng, vục nước lạnh buốt dấp lên cái lưng mồ hôi và nóng hầm hập của mình, đằng hắng, rền rĩ, dội nước lên đầu. Và cuối cũng thấy đã hơi dễ chịu, anh đi đến tàu ngựa nông trang.

CHƯƠNG XIII

Một giờ sau anh đã tới gần chỗ lán đội ba, và từ xa anh thấy ở đội đang có chuyện lôi thôi gì đó: đến già nửa số máy cắt cỏ không làm việc, ngựa bị buộc tròng vào chân đi lang thang trên thảo nguyên, cỏ cắt rồi để khô không ai cào lại, và nhìn suốt đến tận chân trời không thấy lấy một đống cỏ nhỏ nào…

Bên chiếc xe lều di động, sáu anh kô-dắc đang ngồi trên tấm bạt trải rộng, châu đầu vào ván bài. Anh thứ bảy ngồi vá giày rách, còn anh thứ tám thì nằm thoải mái dưới bóng một bánh xe ngủ khoèo, mặt úp vào một tấm áo mưa vo tròn cáu bẩn. Thấy Đavưđốp tới, đám đánh bài lừng khừng đứng dậy, trừ một anh chàng đang chống khuỷu tay nửa nằm nửa ngồi, anh chàng này xem chừng vừa mới thua xong đang chậm rãi trang trang bộ bài, đang mơ màng đăm chiêu.

Đavưđốp giận tái mặt, thúc ngựa lao tới sát đám chơi bài, quát đến xé giọng:

- Làm việc thế này hả? Sao không cắt cỏ? Liubiskin đâu?

Một anh trong đám chơi bài ngập ngừng đáp:

- Hôm nay là chủ nhật.

- Thế trời có đợi các anh không? Mưa thì sao?

Đavưđốp kéo cương con ngựa mạnh quá làm nó chồm lên, xéo cả vào miếng vải bạt. Thấy chân giẫm phải cái gì lạ lạ, nó hoảng sợ lồng lên, nhẩy cẫng sang bên. Đavưđốp bị lắc mạnh, suýt nữa thì chân trượt ra ngoài bàn đạp, nhưng rồi vẫn ngồi vững được trên yên. Anh ngửa người ra sau, ghì xiết chặt giây cương lại, và khi đã loay hoay làm chủ được con ngựa cứ nhún nhảy tại chỗ, anh lại quát to hơn:

- Tôi hỏi các anh, Liubiskin đâu?

Uxchin Rưkalin, một anh chàng kô-dắc lùn mập đã đứng tuổi có đôi lông mày bạch tạng giao nhau ở chân mũi và có bộ mặt tròn vành vạnh lốm đốm tàn nhang, trả lời giọng châm chọc:

- Anh ta đang cắt cỏ kia, máy cắt cỏ thứ hai phía bên trái cái gò. Nhưng ông chủ tịch ơi, làm gì mà quát tháo gớm thế? Khéo không lại khản đặc giọng…

- Sao các anh lại bỏ việc ngồi chơi. Tôi hỏi cả mấy anh! – Đavưđốp nghẹn cả họng vì giận và vì quát tháo.

Sau vài phút mọi người im lặng, Alêchxanđrơ Netsaép, anh hàng xóm ốm yếu và tính tình ôn hoà của Đavưđốp, đáp:

- Ngựa chả có ai dắt, đầu đuôi là thế thôi, anh ạ. Các bà và một số các cô kéo nhau đi nhà thờ hết, thế là chúng tôi đành phải nghỉ… Chúng tôi đã yêu cầu họ thôi cái trò ấy đi, nhưng bọn mê muội ấy nhất định không nghe, nói ngọt cũng không xong! Nghĩa là không cách nào giữ họ lại được. Nói xuôi, nói  ngược, nói thế nào họ cũng bỏ ngoài tai. Đúng y như thế đấy, đồng chí Đavưđốp ạ.

- Được, anh nói tôi  hãy cứ tin. Nhưng đàn bà đi thì đàn ông các anh cũng cứ phải làm chứ, sao không làm? – Đavưđốp hỏi đã ôn tồn hơn, nhưng vẫn cứ là quát.

Con ngựa vẫn không chịu đứng yên. Nó cất hậu, lo ngại vẫy vẫy tai, và da thịt nó rùng rùng những làn sóng lăn tăn. Đavưđốp ghì cương giữ chặt nó, vuốt ve cái cổ óng mượt và âm ấm của nó. Anh kiên nhẫn đợi câu trả lời, nhưng lần này thì im lặng kéo dài…

- Thì đã bảo là thiếu người mà. Các bà ấy đi hết rồi, - Netsaép miễn cưỡng đáp và đưa mắt nhìn anh em kia như muốn cầu cứu họ.

- Sao lại thiếu người? Thì đây có tám người ngồi không đấy thôi. Có thể cho chạy bốn máy được không? Được quá chứ! Nhưng các anh lại chơi bài. Tôi không ngờ các anh lại coi thường công việc nông trang như thế, thật tôi không ngờ, thực tế thế!

- Vậy ông nghĩ thế nào? Ông nghĩ chúng tôi không phải là người, mà là con vật kéo cày chăng? - Uxchin khiêu khích hỏi.

- Anh nói thế là thế nào?

- Công nhân có ngày nghỉ không?

- Có, nhưng nhà máy không nghỉ sản xuất trong các ngày chủ nhật, và công nhân không đánh bài trong phân xưởng như các anh thế này. Rõ chưa?

- Ở nhà máy người ta thay phiên nhau ngày chủ nhật, còn chúng tôi thì lúc nào cũng độc ngần ấy người khổ sai! Suốt từ thứ hai đến thứ bảy, rồi ngày chủ nhật cũng không được tháo ách, lối đâu lại như vậy? Chính quyền xôviết bảo phải như thế đấy hả? Chính quyền xôviết bảo không được có sự phân biệt giữa các tầng lớp lao động, nhưng các ông đã xuyên tạc pháp luật, bẻ queo đi để có lợi cho mình.

- Anh nói lảm nhảm cái gì thế? Lảm nhảm cái gì thế, hả? – Đavưđốp cáu tiết lên. – Tôi muốn bảo đảm cho bò ngựa của nông trang, và cả bò sữa  nhà các anh nữa, mùa đông có cái ăn. Rõ chưa? Tôi kiếm lợi lộc gì ở đấy? Lợi lộc riêng tôi phỏng? Thế còn lảm nhảm cái gì, hả đồ bẻm mép?

Uxchin khinh khỉnh khoát tay một cái:

- Các ông thì chỉ cốt sao hoàn thành kế hoạch đúng thời hạn, còn sống chết mặc bay. Ông mất ăn mất ngủ vì bò ngựa của chúng ta ư? Nói khó tin? Dạo mùa xuân chở thóc giống trên ga về Vôxkôvôi, có bao nhiêu bò đã chết bỏ xương dọc đường? Không đếm xuể! Thế mà bây giờ ông lại cứ định bịp chúng tôi!

- Bò nông trang Vôxkôvôi chết đói dọc đường vì những hạng tư hữu như anh đã chôn thóc dưới đất. Các anh, người thì vào nông trang, nhưng thóc thì dấu đi. Mà gieo thì phải có giống chứ! Thế cho nên mới phải xua bò đi chở giống qua những đường đất quá thể lắm, vì thế mà bò chết quay cu lơ! Thực tế thế! Dễ thường anh không biết chuyện ấy sao?

- Các ông chỉ cốt hoàn thành kế hoạch, cho nên ông mới tích cực chuyện cỏ này, - Uxchin càu nhàu bướng bỉnh.

- Cái cỏ này, dễ tôi ăn vào mồm tôi đấy phỏng? Tôi tích cực là vì lợi ích chung! Kế hoạch thì dính dáng gì vào đây? – Đavưđốp không nhịn được nữa, quát tướng lên.

- Này ông chủ tịch ơi, ông đừng quát tháo, ông quát tháo tôi không sợ đâu, vì tôi đã từng đi lính pháo binh đây. Được, cứ hãy cho rằng ông tích cực là vì lợi ích chung, nhưng tại sao lại bắt người ta nai lưng ra làm việc suốt đêm ngày? Đó, chính cũng là vì kế hoạch mà! Các ông cố để được huyện khen, huyện cố để được tỉnh khen, còn chúng tôi thì è cổ ra để được các ông khen. Dễ ông tưởng nhân dân không thấy đấy hẳn? Ông tưởng dân mù hay sao? Không mù đâu, thấy hết đấy, nhưng chả có cách nào rũ được bọn tích cực giả hiệu các ông ra đấy thôi! Giả dụ như ông, và những người khác như ông, chúng tôi có thể cất chức được không? Không? Thế là các ông thả cửa, nghĩ ra cái gì là làm cái ấy. Còn Mátxcơva thì xa, Mátxcơva biết đâu ở đây các ông bày ra những trò gì…

Trái với dự đoán của Nagunốp, Đavưđốp đã không phải chạm trán với đám các bà, nhưng không phải vì thế mà vấn đề đơn giản hơn. Trước thái độ im lặng nặng nề của đám kô-dắc, Đavưđốp hiểu là quát tháo nạt nộ chẳng có tác dụng gì, mà còn hỏng việc. Phải biết kiên nhẫn và sử dụng phương pháp có hiệu lực nhất: phương pháp thuyết phục. Chăm chú nhìn khuôn mặt hằn học của Uxchin, anh nhẹ người đi, nghĩ bụng: “May mà mình không kéo cậu Maka đi cùng! Không thì bây giờ đấm đá nhau to rồi…”.

Để tranh thủ có thời gian nghĩ một tí về kế hoạch đối phó với Uxchin, và có thể là với cả một số người ủng hộ hắn, Đavưđốp hỏi:

- Khi người ta bầu tôi làm chủ tịch, anh có bỏ phiếu cho tôi không, anh Uxchin Mikhailôvíts?

- Không, tôi không bỏ! Bỏ cho ông làm quái gì? Người ta quẳng ông đến đây cho chúng tôi như con mèo nhốt trong bị…

- Tự tôi đến chứ ai quẳng!

- Quẳng ông đến hay tự ông đến thì cũng vẫn là con mèo trong bị, vậy thì tôi bầu ông làm gì? Nào có biết ông là anh cha căng chú kiết nào đâu!

- Thế bây giờ anh bỏ phiếu chống chứ?

- Chứ lại chả chống! Còn sao nữa?

- Vậy đến kỳ họp toàn thể nông trang viên anh cứ đặt vấn đè phế tôi đi. Hội nghị quyết định thế nào thì sẽ là như thế. Có điều là đưa đề nghị ấy ra, anh phải có cơ sở hẳn hoi, không thì sẽ chết cháy đấy!

- Chết cháy sao được, ông cứ yên trí, vả lại cũng còn chán thời giờ, đâu phải chuyện ngày một ngày hai. Trước mắt, ông chủ  tịch ạ, ông hãy nói chúng tôi nghe: tại sao ông lại thiến mất của chúng tôi các ngày chủ nhật?

Trả lời câu hỏi ấy thì không gì dễ cho bằng, nhưng Uxchin nào có để cho Đavưđốp kịp mở miệng. Hắn nói tiếp luôn:

- Ở trên huyện, tức nghĩa là ở trên phố, các cô tiểu thư nhân viên nhà nước cứ chủ nhật là tô son điểm phấn rong chơi phố suốt ngày, tối lại đi nhảy, đi xem chiếu bóng, tại sao vợ chúng tôi và con gái chúng tôi lại phải đổ mồ hôi sôi nước mắt các ngày chủ nhật?

- Mùa hè, thời vụ…

- Chúng tôi thì đông cũng như  hè, có bao giờ không phải thời vụ? Quanh năm thời vụ.

- Tôi muốn nói là…

- Nói nhăng nói cuội thì nói làm gì cho mệt, vô bổ.

Đavưđốp giơ tay ngăn:

- Uxchin, hẵng để tôi nói!

Nhưng Uxchin cứ liến thắng át lời anh:

- Nói chuyện với chúng tôi, ông ngồi chễm chệ trên lưng ngựa như ông chủ, còn chúng tôi thì đứng dưới nghếch mắt nhìn lên như những kẻ làm thuê.

- Đề nghị anh nghe tôi nói nào, anh em với nhau.

- Không việc gì tôi phải nghe! Nghe với chả ngóng, tôi chẳng trông ngóng ông nói lên cái điều gì nghe được cả

- Anh có để tôi nói không thì bảo? – Đavưđốp đỏ mặt tía tai quát lên.

- Ông đừng làm ngậu lên với tôi! Tôi không phải là con Luska vợ thừa của Nagunốp đâu! – Uxchin phồng lỗ mũi hít mạnh một cái rồi cứ rè rè giọng oang oang liến thoắng: - Ông sừng sộ là không được với chúng tôi đâu! Trong hội nghị ông muốn làm vương làm tướng gì thì làm, nhưng ở đây cầm chịch là chúng tôi. Chúng tôi chơi bài, ông đừng hoạnh hoẹ chúng tôi. Trong nông trang chúng tôi là chủ: muốn làm thì làm, muốn nghỉ thì nghỉ, ông đừng hòng ép chúng tôi làm việc ngày chủ nhật, ông không đủ tài!

- Nói xong chưa? – Đavưđốp sắp điên lên đế nơi, hỏi.

- Chưa, chưa xong đâu. Tôi bảo thêm ông điều này nữa: nếu ông không ưa cái cung cách chúng tôi thì vốn dĩ ở đâu đến, bây giờ ông tếch về đấy cho tôi nhờ! Không ai mời ông về làng chúng tôi đây cả, và chẳng có ông thì lạy Chúa, chúng tôi vẫn cứ sống được như thường. Đối với chúng tôi ông không phải là thánh tướng!

Rõ ràng đó là một sự khiêu khích. Đavưđốp thừa hiểu Uxchin định lái đi đâu, nhưng lúc này anh tự chủ không nổi nữa. Mắt anh hoa lên, trong giây phút hầu như không còn thấy rõ cái hàng lông mày nhíu lại của Uxchin, cái bộ mặt tròn vành vạnh và tự dưng húp híp lên của hắn, và anh chỉ còn mơ hồ cảm thấy máu mình dồn ứ xuống bàn tay phải đang bóp chặt cái roi da, và các đầu ngón tay anh tê nhức, nặng chình chịch.

Uxchin đứng đối diện anh, hai tay ngạo mạn đút túi quần, hai cẳng xoạc rộng… Hắn đã lấy lại được ngay cái điềm tĩnh lúc nãy và giờ đây, cảm thấy đằng sau lưng mình có sự ủng  hộ thầm lặng của đám kô-dắc, tin tưởng ở ưu thế của mình, hắn cười khẩy một cách thản nhiên và láo xược, lim dim đôi mắt xanh lơ sâu trũng. Còn Đavưđốp thì lại càng tái mét, đôi môi  nhợt nhạt cứ mấp máy mà không thốt ra nổi một lời. Anh đang đấu tranh với mình quyết liệt, căng hết nghị lực kìm lại trong mình không để cho bùng ra cơn điên giận mù quáng nó bất chấp tất cả. Tiếng Uxchin nói vọng tới anh từ đâu đến, cứ như từ đằng xa, nhưng anh vẫn nắm được ý hắn nói cũng như bắt được cái điệu châm chọc trong giọng hắn…

- Ô kìa, ông chủ tịch ơi, sao ông chẳng nói mà lại ngáp ngáp cái mồm như con cá chép vậy? Nuốt chửng mất lưỡi rồi sao, hay là không biết đường nào mà nói? Hình như ông muốn nói lắm thì phải, nhưng nó ngắc ngứ trong cổ… Thôi đúng rồi, chân lý không thể nuốt trôi được mà! Không, ông chủ tịch ạ, tốt hơn hết là ông đừng gây sự với chúng tôi, đừng nổi khùng lên về những chuyện không đâu. Tốt hơn hết là ông hãy bình tĩnh xuống ngựa, chơi một ván bài với chúng tôi, ta sẽ chơi tu-lơ-khơ. Ông bạn ạ, đó là một công việc bổ ích lắm, chứ không phải như công việc lãnh đạo nông trang của ông đâu…

Một anh chàng trong đám đứng sau lưng Uxchin cất tiếng cười khúc khích một cái rồi ngừng bặt. Một không khí im lặng nặng nề bao trùm lên quanh chiếc xe lều trong khoảnh khắc. Chỉ còn nghe thấy tiếng Đavưđốp thở dốc, tiếng máy cắt cỏ chạy lạch xạch đằng xa, và tiếng hót thanh bình, vô tư lự vang động bầu trời xanh của những con chim sơn ca đang bay đâu chẳng ai nhìn thấy. Phải rồi, chúng thì hơi đâu để ý đến chuyện gì đang xảy ra giữa mấy con người sát khí đằng đằng đứng túm bên chiếc xe lều kia…

Đavưđốp từ từ giơ cao roi ngựa lên, thúc gót giầy vào bụng ngựa. Và lập tức, Uxchin tiến sấn lên, đưa tay trái ra túm lấy hàm thiếc ngựa, và bước lách sang phải, ép sát người vào cẳng Đavưđốp, hỏi nhỏ, giọng đầy đe doạ:

- Đánh hả? Cứ thử xem!

Trên mặt hắn hai gò má bỗng nổi gô lên, đôi mắt ánh như thách thức vui thú và nóng lòng chờ đợi.

Nhưng Đavưđốp quất mạnh roi ngựa vào ống chiếc ủng đã nâu tàng và từ trên cao nhìn xuống Uxchin, anh lớn tiếng nói, cố rặn cười mà không được:

- Không, Uxchin, không đánh đâu! Anh tiểu tốt bạch vệ ơi, anh đừng hy vọng làm cái chuyện ấy! Giá là mười năm trước đây anh rơi vào tay tôi thì lại là chuyện khác… Rơi vào tay tôi hồi ấy thì anh đã vĩnh viễn tịt cái lỗ miệng rồi, đồ phản cách mạng ạ!

Anh gạt nhẹ chân đẩy Uxchin ra, và xuống ngựa:

- Chậc, anh Uxchin Mikhailôvíts, anh đã thích túm lấy cương ngựa tôi thì anh hãy dắt nó đi, buộc nó vào chỗ nào đó cho tôi. Anh rủ tôi chơi bài hả? Được thôi, sẵn sàng! Chia bài ra, thực tế thế!

Câu chuyện đã xoay chuyển một cách bất ngờ… Đám kô-dắc đưa mắt nhìn nhau, do dự một lát, rồi lẳng lặng ngồi quây xuống tấm vải bạt. Uxchin buộc con ngựa vào bánh xe lều rồi tới ngồi xếp bằng tròn xuống đối diện với Đavưđốp, chốc chốc lại liếc trộm anh một cái. Không, hắn hoàn toàn không coi là mình đã thua trong trận đụng độ  này với Đavưđốp, cho nên hắn quyết định tiếp tục câu chuyện:

- Nhưng ông chủ tịch ơi, chuyện ngày nghỉ ông chưa trả lời chúng tôi đấy! Ông định ỉm đi đấy à…

- Tôi còn nói chuyện với anh nhiều, cứ yên trí! – Đavưđốp hứa một câu đầy ngụ ý.

- Ông nói thế là thế nào? Định doạ tôi phỏng?

- Không, doạ làm gì! Đã ngồi vào chơi bài thì mọi chuyện ngoài lề gác sang bên. Thiếu gì lúc nói…

Nhưng lúc này khi mà Đavưđốp mỗi lúc một bình tĩnh hơn thì Uxchin càng mất bình tĩnh. Chưa chơi hết ván, hắn đã hậm hực vứt toẹt tập bài xuống mặt bàn, ngồi bó gối:

- Chơi chán bỏ mẹ, thà ngồi mà nói nốt chuyện ngày nghỉ còn hơn. Này ông chủ tịch ơi, về cái chuyện ngày nghỉ ấy mà, ông tưởng chỉ có người kêu thôi hả? Không phải đâu! Sáng hôm qua, tôi đi đóng ngựa, và cái con ngựa cái nâu đã thở dài não ruột mà nói với tôi cứ như người nói: “Ôi anh Uxchin ơi! Vào nông trang sao nó khổ thế này! Ngày thường đã bắt tôi làm ngày làm đêm, không lúc nào thoát được cái ách, thế mà có ngày chủ nhật cũng lại tròng ách vào cổ tôi. Trước kia đâu có thế-ế-ế! Trước kia, ngày chủ nhật, người ta đâu có bắt tôi làm, mà chỉ bảo tôi kéo xe đưa người ta đi thăm nhau, hoặc đi ăn cưới chẳng hạn. Trước kia đời tôi sướng hơn bây giờ nhiều!”.

Đám kô-dắc nghe nói thế cười, cười nhỏ thôi, nhưng nhất loạt. Cảm tình của họ xem ra ngả về phía Uxchin. Nhưng họ lắng đi, dỏng tai nghe khi Đavưđốp đưa tay lên xoa xoa yết hầu, nói với giọng bình thường;

- Thế cái con ngựa cái đáng yêu ấy, trước khi vào nông trang nó là ngựa ai?

Uxchin nheo mắt ranh mãnh, thậm chí lại còn nháy khẽ một cái với Đavưđốp:

- Dễ ông tưởng nó của tôi chăng? Và nó ăn nói theo giọng chủ chăng? Không, ông chủ tịch ơi, ông lầm to rồi! Nó là con ngựa cái của Titốc, là ngựa tịch thu của kulắc. Thời cá thể, sống với chủ nó, nó được ăn sướng hơn bây giờ vào nông trang: mùa đông nó không biết mùi cỏ thừa, cỏ rác, độc chỉ thóc kiều mạch nhai đến mòn răng. Có thể nói, nó sống như bà hoàng!

- Vậy là nó già rồi hả? Vì nó mòn răng rồi mà? – Đavưđốp như vô tình hỏi chơi.

Uxchin không thấy cái bẫy đối thủ giăng ra, nhanh nhảu trả lời:

- Già rồi, già cốc đế.

- Thế thì cái con ngựa cái lắm mồm lắm miệng ấy, anh hoài hơi mà nghe nó nói, - Đavưđốp nói, giọng khẳng định.

- Sao lại hoài hơi?

- Vì nó là ngựa kulắc, ăn nói độc giọng kulắc chứ sao.

- Nhưng bây giờ nó là ngựa nông trang rồi…

- Thì anh cũng thế đấy thôi, bề ngoài thì cũng là người nông trang đấy, nhưng thực tế thì bụng anh kulắc.

- Ồ, ông chủ tịch ơi, ông chụp mũ cho tôi rồi đấy…

- Chả chụp gì cả, thực tế vẫn là thực tế. Vả lại con ngựa cái ấy nó già lão thế mà anh nghe nó được à? Nó già sinh ra lẩm cẩm! Nó mà trẻ hơn một tí, đỡ lẩn thẩn đi một tí, nó sẽ phải nói với anh giọng khác.

- Nói thế nào? – Uxchin hỏi, bắt đầu cảnh giác.

- Nó sẽ phải bảo anh thế này: “Chà, anh Uxchin ơi, anh là một tên tay sai kulắc! Mùa đông anh chẳng làm cái mẹ gì cả, mùa xuân anh giả vờ ốm không làm, và bây giờ cũng chỉ làm phất phơ. Vậy đến mùa đông anh lấy gì mà nuôi tôi, và chính bản thân anh sẽ lấy gì mà nhá, hả đồ chó đẻ? Cái lối làm ăn như thế thì cả anh lẫn tôi rồi sẽ chết đói nhăn răng ra cả mất thôi!”. Đấy, nó sẽ phải bảo anh thế đấy!

Cả đám kô-dắc cười ồ lên, át cả câu nói cuối cùng của Đavưđốp. Netsaép cười lanh lảnh, giòn tan như  con gái. Anh chàng Ghêraxim Diablốp thì nhẩy cẫng lên cười ồm ồm, rồi ngồi lom khom xuống một cách quấy đảo, vỗ bồm bộp vào ống giày ủng như khi nhảy vũ dân tộc. Còn bác Chikhôn Ôxêtơrốp thì đưa tay lên túm bộ râu xám, kêu the thé:

- Nằm im thôi, Uxchin, và cúi cái đầu xuống! Đavưđốp cưỡi được lên lưng cậu rồi!

Nhưng trước sự ngạc nhiên của Đavưđốp, chính bản thân Uxchin cũng cười, chẳng tỏ ra tí gì bực dọc, và tiếng cười của anh ta hoàn toàn không có chút gượng hoặc giả vờ.

Và khi tiếng cười đã lắng, Uxchin là người đầu tiên lên tiếng:

- Chà, ông chủ tịch ơi, em xin thua ông… Thật không ngờ ông anh lại quật lại được một cú khéo thế. Nhưng bảo tôi là tay sai kulắc thì không nên, còn như cái chuyện xuân vừa rồi không phải là tôi ốm, mà chỉ là giả vờ, thì cũng là ông đặt điều cho tôi. Về cái điểm ấy, xin lỗi ông chứ, ông chủ tịch ạ, ông ăn nói huyên thuyên rồi!

- Anh chứng minh đi.

- Chứng minh thế nào?

- Lấy sự việc chứngminh.

- Nói đùa chơi thì cần gì phải sự việc chứng minh? – Uxchin cười gượng, và giọng anh ta lúc này đã không phải giọng đùa nữa.

- Thôi anh đừng làm bộ ngớ ngẩn! – Đavưđốp nói gay gắt. – Chuyện ta nói còn xơi mới là đùa, và việc anh gây ra hôm nay hoàn toàn không phải là đùa. Còn sự việc thì nó rành rành ra đấy: vào nông trang anh hầu như không đi làm, anh lôi kéo những phần tử kém giác ngộ, anh ăn nói cái giọng điệu nó có thể làm cho anh có ngày khốn nạn, và hôm nay đây chẳng hạn, anh xúi anh em bỏ việc ngồi chơi: nhờ những cố gắng của anh mà một nửa đội không ra cắt cỏ. Thế mà anh gọi là đùa hả?

Đôi lông mày đang rướn lên một cách ngộ nghĩnh của Uxchin hạ xuống, nhíu lại hai bên cuống mũi, kéo thành một đường thẳng cứng đờ:

- Nói có chuyện ngày nghỉ mà ông đã chụp cho là tay sai kulắc, là phản cách mạng! Cứ như là chỉ mình ông có quyền nói thôi còn chúng tôi thì chỉ được há mồm ra mà nghe chăng?

- Không phải chỉ có chuyện ấy! – Đavưđốp đối đáp lại, giọng sôi nổi. – Toàn bộ thái độ của anh là không lương thiện, thực tế thế! Mùa đông anh nghỉ mỗi tháng đến hai mươi ngày, bây giờ anh còn làm nhặng lên về chuyện ngày nghỉ cái nỗi gì? Và cũng chẳng phải mình anh thế, mà mọi người có mặt đây đều thế cả. Mùa đông, ngoài việc chăm sóc bò ngựa và lọc giống ra, các anh làm những gì? Chẳng làm gì cả! Chỉ nằm  khểnh trên trốc lò sưởi ấm. Vậy thì bây giờ, giữa lúc thời vụ căng thẳng nhất,khi một giờ là quý, khi mà cỏ khô bị đe doạ thối ủng, các anh lấy quyền gì tự cho phép mình nghỉ? Các anh trả lời tôi nghe xem nào, lấy lương tâm mà nói.

Uxchin nín thinh nhìn Đavưđốp chằm chằm không chớp. Chikhôn Ôxêtơrốp nói thay anh ta:

- Này, anh em kô-dắc ạ, có gì đâu mà phải xì xào úp mở. Đavưđốp nói đúng đấy. Ta dở rồi, ta phải sửa thôi. Cái công việc của chúng ta không phải lúc nào cũng nghỉ được, mà thực thế là nghỉ chủ yếu vào những ngày đông tháng giá. Và cái hồi còn làm cá thể cũng vậy thôi. Hồi ấy bà con ta có ai mà xong được việc đồng áng trước ngày Lễ cầu Đức Mẹ? Gặt chưa xong đã phải cày ải. Đavưđốp nói không oan, và hôm nay ta để cho các bà ấy đi lễ nhà thờ là ta dở, và ta đây nữa, ra đồng làm mà lại ngồi chơi thì cũng chẳng ra cái nghĩa lý gì… Tóm lại là dở òm! Chúng ta đã có lỗi với chính bản thân ta, rõ ràng là thế. Và tất cả những cái đó là do cái đồ khỉ gió nhà cậu đấy, Uxchin ạ, cậu xui dại anh em!

Uxchin bùng lên như thùng thuốc súng. Đôi mắt xanh lơ của anh ta tối sầm xuống, và ánh lên một ánh hằn học:

- Đồ quỷ rậm râu, thế thì cái trí khôn của ông, ông bỏ quên nhà rồi sao mà bảo tôi xui dại?

- Có khi thế đấy, quên ở nhà rồi cũng nên …

- Thế thì chạy về mà lấy!

Netsaép đưa bàn tay gầy guộc lên che miệng giấu một nụ cười, cất giọng thanh thanh lên hỏi bác Ôxêtơrốp đang hơi bị tưng hửng:

- Này ông Chikhôn Gorđêits ơi, cái trí khôn của ông ấy mà, để nhà thì có cất cẩn thận không đấy?

- Cậu lo cho nó ư?

- Hôm  nay chủ nhật mà…

- Chủ nhật thì sao?

- Chị con dâu của ông chắc hẳn hôm nay phải dậy sớm quét nhà và nếu cái trí khôn của ông, ông lại dấu dưới gầm ghế hoặc sau ngách bếp thì e rằng chị ta khua chổi quét ra sân mất. Và ra sân thì lũ gà mái sẽ đớp ngay tắp lự… Nếu vậy thì ông Chikhôn Gorđêits ạ, ông sẽ  phải sống không có trí khôn cho đến ngày mãn kiếp, tôi lo là lo chuyện ấy đấy…

Mọi người, kể cả Đavưđốp, cười ồ lên, nhưng trong tiếng cười của đám kô-dắc có cái gì không được vui lắm… Tuy nhiên cái không khí căng thẳng vừa rồi cũng đã tan biến. Như vẫn thường xảy ra trong những trường hợp tương tự, câu pha trò tếu đã chặn đứng cuộc xô xát sắp nổ ra đến nơi. Ôxêtơrốp bị chọc tức cũng dịu dịu đi, và chỉ đáp lại Netsaép:

- Cậu Alếchxanđrơ ạ, mình xem ra thì cậu chẳng phải lo bỏ quên mất trí khôn ở nhà, vì cậu làm quái gì có. Cậu tưởng cậu khôn ngoan hơn tớ hẳn? Mẹ đĩ nhà cậu thì có kém ai, hôm nay cũng ích ê đi sang Tubianxki, còn cậu thì chuyện chơi bài cậu cũng chẳng từ chối.

- Khuyết điểm! Em xin nhận khuyết điểm! – Netsaép bông phèng nhận lỗi.

Nhưng Đavưđốp không hài lòng với chiều hướng câu chuyện. Anh đang muốn thanh toán cho xong với Uxchin.

- Ta hãy giải quyết một lần cho xong cái chuyện ngày nghỉ, - anh nói, đưa mắt nhìn Uxchin chòng chọc. – Mùa đông anh đã làm nhiều hay ít, anh Uxchin Mikhailôvíts?

- Cần bao nhiêu tôi làm bấy nhiêu.

- Nghĩa là bao nhiêu?

- Tôi không tính.

- Thế người ta tính cho anh bao nhiêu công?

- Tôi không nhớ. Nhưng việc gì ông cứ căn vặn tôi dai như chão rách thế? Ông đi mà tính, đi mà nhớ, nếu ông ngồi buồn rỗi hơi.

- Tôi chả cần phải tính. Nếu anh quên thì tôi đây, cái nghề chủ tịch nông trang của tôi là không được quên.

Cuốn sổ tay to tướng, vật bất ly thân, luôn luôn kè kè bên nách hôm nay đã giúp anh thật đắc lực! Vừa qua một cơn xúc động, ngón tay Đavưđốp hãy còn hơi run run khi anh vội vã lật giở những trang sổ hoen vết nước bọt.

- Đây, tên anh đây, đồ ăn bơ làm biếng! Và số ngày công của anh đây: tháng Giêng, tháng Hai, tháng Tư, và tháng Năm, cả thảy là, đợi tí…, cả thảy là hai mươi chín công. Thế nào? Làm ghê quá nhỉ?

- Thế thì xoàng quá đấy, Rưkalin ạ! – một người trong đám kô-dắc nhìn Uxchin, nói bằng giọng nửa thương hại, nửa trách móc.

Nhưng Uxchin đâu có chịu thua:

- Còn nửa năm nữa, đến tháng Mười sẽ biết tay nhau.

- Tháng Mười sẽ biết, nhưng công điểm thì chấm hàng ngày, - Đavưđốp nói gay gắt. – Anh Uxchin ạ, anh hãy nhồi nhét vào đầu óc anh điều này: chúng tôi sẽ không tha thứ những kẻ ăn bơ làm biếng trong nông trang đâu! Sẽ đuổi cổ thẳng cánh những kẻ phá hoại! Nông trang không cần gì đến những kẻ ngồi không ăn bám. Anh nghĩ  lại đi: cứ cái điệu này thì anh đi đến đâu? Ôxêtơrốp được gần hai trăm công, các anh em khác trong đội anh, trên một trăm, và ngay cả những người ốm yếu nhất, như anh Netsaép cũng xấp xỉ tới một trăm, còn anh thì hai mươi chín! Anh không thấy nhục à?

- Vợ tôi đau ốm luôn, bệnh đàn bà, nằm liệt giường hàng tuần liền. Đấy là chưa kể lũ nhóc sáu đứa, - Uxchin nói, mặt lầm lầm.

- Thế bản thân anh?

- Bản thân tôi làm sao?

- Sao anh không làm hết năng suất của mình?

Một lần nữa hai gò má Uxchin lại bầm lên những nốt đỏ sẫm, và trong đôi mắt xanh lơ cau lại giận dữ của anh ta ánh lên những tia lửa hằn học.

- Việc gì anh cứ trợn mắt nhìn tôi chằm chằm vào mặt mũi tôi?  - anh ta khua nắm tay trái, gào lên, và cái cổ vừa thấp vừa bạnh của anh ta nổi phồng những đường gân xanh. – Ông coi tôi là con Luska vợ Nagunốp hay sao? Hay là cái con Varia Kharlamôva chết mê chết mệt vì ông?! Mở mắt ra mà nhìn tay tôi đây, rồi hãy căn vặn về công việc của tôi!

Anh ta xỉa mạnh bàn tay ra và đến lúc bấy giờ Đavưđốp mới để ý thấy bàn tay phải bị tàn tật của Uxchin chỉ còn độc ngón tay trỏ, và thay cho những ngón tay khác là những vết sẹo rúm ró tím bầm.

Đavưđốp phân vân gãi sống mũi;

- À ra thế… Bị ở đâu vậy?

- Ở Crưm, trên mặt trận chống Vranghen. Ông bảo tôi là bạch vệ, thực ra tôi là đỏ, đỏ như một quả dưa hấu chín: tôi có đi quân trắng, rồi nhảy sang quân xanh ở hai tuần lễ, để rồi nhót về với quân đỏ. Đi bạch vệ là bị bắt buộc, không thiết chiến đấu, và chỉ tìm cách lẩn lại hậu phương, nhưng khi đi đánh lại bọn bạch vệ thì ông cứ yên trí, tôi đã không tiếc bốn ngón tay, - Uxchin hoa lên bàn tay trái có những ngón tay ngắn tù tù và to mập, nói tiếp: - Cái tay để cầm cốc đưa lên miệng thì còn nguyên. Nhưng cái tay để nuôi miệng thì, ông trông thấy đấy, thiếu quân số…

- Mảnh pháo hả?

- Lựu đạn.

- Sao lại còn được ngón trỏ?

- Nó khuất cái vòng cò súng, thế cho nên mới còn. Hôm ấy riêng tôi đã tiêu diệt được hai tên bạch vệ. Được thế thì cũng phải trả giá cái gì chứ nhỉ? Chúa đã nổi giận với tôi vì cái tội gây đổ máu, và thế là tôi phải cúng Chúa bốn ngón tay. Tôi cho thế còn là rẻ đấy. Chứ Chúa mà ác ý thì có thể đòi tôi nộp nửa cái sọ dừa ấy chứ…

Thái độ bình tĩnh của Đavưđốp dần dần lây sang Uxchin. Họ chuyện trò với nhau đã bằng một giọng ôn hoà. Anh chàng Uxchin ba trợn đã dịu đi, thậm chí cái nụ cười mỉa mai hóm hỉnh thường ngày lại hiện ra trên đôi môi anh ta.

- Sao không cúng nốt cái ngón tay ấy đi, còn độc mình nó thì được cái tích sự gì?

- Ô hay, ông chủ tịch ơi, ông coi xoàng tài sản của người khác quá! Độc mình nó thôi mà cũng được việc đấy.

- Được việc gì vậy? – Đavưđốp nén một nụ cười, hỏi.

- Được khối việc… Đêm ngủ dùng nó để doạ mẹ đĩ này, nếu mẹ đĩ không chịu chiều, ban ngày dùng nó mà xỉa răng này, để đánh lừa những bà con nhẹ dạ cả tin. Rớt mùng tơi như tôi đây thì cả năm may ra được một lần ăn xúp có thịt, nhưng ngày nào ăn uống xong tôi cũng nhởn nhơ ra đường, dùng ngón tay ấy gẩy gẩy răng, rồi nhổ toẹt ra, và thế là bà con ắt phải nghĩ bụng: “Mả cha cái thằng Uxchin sống đế vương thật! Ngày nào cũng chén thịt, thế thì phải lắm của lắm đây!”. Vậy mà ông lại bảo còn độc một ngón thì giữ làm gì… Nó đắc lực ra phết đấy chứ! Tha hồ cho bà con tưởng mình là giàu: muốn nói gì thì nói, thế cũng khoái!

Đavưđốp không nén được nụ cười nữa, nói:

- Anh mồm mép cũng khá đấy… Thế bây giờ có đi cắt cỏ không?

- Chuyện trò thân ái với nhau thế này thì hẳn là đi rồi!

Đavưđốp quay sang phía Ôxêtơrốp hỏi, vì bác ta là người cao tuổi nhất ở đây:

- Các bà ấy đi Tubianxki đã lâu chưa?

- Khoảng một tiếng đồng hồ đổ lại.

- Có đông không?

- Mươi mười hai bà. Các bà ấy cứ như đàn cừu mà: một con đi là cả đàn lốc nhốc theo sau luôn. Và đôi khi chỉ một con lếu láo cũng lôi theo cả đàn… Ngay như cả chúng tôi đây cũng thế, nghe cái thằng ôn dịch Uxchin này xui dại mà bỏ cả công việc, ngồi đánh bài!

Uxchin cười hề hề;

- Lỗi tại tôi? Này ông rậm râu sâu mắt ơi, đừng có cái gì cũng đổ lên đầu tôi! Các bà ấy đi lễ nhà thờ thì chuyện ấy có dính dáng gì đến tôi? Rủ rê họ đi sai đường lạc lối là mụ Atamantsukôva và một mẹ nữa trong làng đấy chứ. Hai mẹ ấy mò ra đây từ sớm tinh mơ cơ, và thế là tuyên truyền vận động luôn! Các mẹ ấy bảo: hôm nay là ngày lễ Thánh bà Glikêria cực khổ, và các bà ơi, hôm nay bỏ lễ đi cắt cỏ là tội to lắm đấy… Oánh trúng tâm lý nhá! Tôi liền hỏi các mẹ ấy: Glikêria nào thế nhỉ! Có phải con vợ bỏ của Nagunốp không(*)? Thế thì đúng là cực khổ trăm bề: suốt đời lúc nào cũng có đứa nó đè ra, hành cho tới số…. Chà, thế là các mẹ ấy nhảy chồm chồm lên, tưởng đâu bão táp trút xuống đâu tôi vậy! Mẹ Atamantsukôva thậm chí còn khua nạng lên định choảng tôi, nhưng nhờ trời, tôi đã né tránh kịp, nếu không thì trán tôi đã có cái bướu tướng, như trán con ngỗng Hà Lan vậy… Lại thêm cái tội các bà nhà ta cứ bám riết lấy tôi như lũ bọ chó bám vào đuôi con chó vậy, tướt bơ tôi mới rứt được ra… Mình thật là cái số không may! Ngày hôm nay đúng là cái ngày xúi quẩy! Đấy bà con xem, sơ sơ có một buổi sáng mà đã phải chọi hết với các bà, rồi lại với ông chủ tịch, bây giờ lại với cái lão rậm râu sâu mắt Chikhôn Gorđêits này nữa! Chọi được thế thì cũng là tay có tài đây!

- Cậu thì tài rồi! Tài ấy cậu chả cần phải mượn ở đâu, Uxchin ạ, từ bé cậu đã chuyên môn gây gổ, như con gà sống choai. Nhưng cậu nên nhớ là gà sống chuyên gây gổ thì mào lúc nào cũng toạc đấy… - Ôxêtơrốp cảnh cáo.

Nhưng Uxchin cứ làm như không nghe thấy bác ta nói. Nhìn Đavưđốp một cái nhìn ngổ ngáo gan lỳ, anh ta nói tiếp:

- Ngược lại, về khoản các nhà tuyên truyền thì hôm nay chúng ta lại gặp may: họ đến tới tấp, người đi bộ tới, người cưỡi ngựa tới… Đường tàu hoả mà gần thì khéo họ đáp cả tàu hoả đến nữa! Nhưng về nghệ thuật tuyên truyền thì ông chủ tịch ạ, ông nên học hai cái mẹ nhà ta… Các mẹ ấy già hơn anh, ranh hơn, và nhiều kinh nghiệm hơn. Các mẹ ấy cứ rủ rỉ nói, ngọt như mía lùi, rất là một sự kính cẩn, y như rằng ăn chết, cấm trượt cú nào! Còn cái kiểu của ông thì thế nào? Vừa mới phi ngựa tới đã om sòm thảo nguyên: “Sao không làm?!”. Cái thời buổi bây giờ ai còn ăn nói với nhân dân kiểu ấy nữa? Từ ngày có chính quyền xôviết dân đã lôi cái lòng kiêu hãnh cất trong đáy hòm ra, và không mê  những ai cứ quát tháo mình. Tóm lại, ông chủ tịch ạ, là dân không thích bị ai chọc đâu. Vả lại ngay cả xưa kia, dưới thời Sa hoàng, đối với bà con kô-dắc bọn ataman cũng chẳng quát tháo om sòm: chúng sợ xúc phạm các bô lão. Ông với Nagunốp nên sớm mà hiểu đi, là bây giờ đâu phải ngày xưa nữa, và nên bỏ những cái thói cũ kĩ ngày xưa đi… Dễ ông tưởng  nếu ông không đấu dịu thì tôi cũng vẫn đồng ý đi cắt cỏ hôm nay đấy phỏng? Có cắt cái con khỉ! Nhưng ông đã hạ giọng, đổi giận làm lành, nhận chơi bài với chúng tôi, ăn nói phải trái dễ nghe, thế thì tôi xin toàn tâm đồng ý với ông! Ông cứ hai tay không mà đến với tôi, tôi sẽ đồng ý tất: đánh bài cũng được, cào cỏ cũng được.

-------------------------------------

(*) Tên “Luska” có một biến dạng là “Lukeria”, tương tự với “Glikêria”. – ND.

Ngồi nghe chăm chú Uxchin nói, Đavưđốp trong bụng cảm thấy giận cay giận đắng mình và bứt rứt bực bội. Cái thằng cha kôdắc mồm mép thế này, hắn nói không phải là không có lý. Dù chỉ ở một điểm là lẽ ra anh, Đavưđốp, chẳng nên vừa đặt chân tới đội đã gắt gỏng quát tháo. Tiền đầu đã bất lợi, như Uxchin nhận xét. Duyên do làm sao mà anh không kìm được mình thể nhỉ? Và Đavưđốp không quanh co, tự nhận là mình đã tiêm nhiễm cái lối ăn nói cục cằn của Nagunốp. Anh đã tự buông lỏng cương, như Anđrây Radơmiốtnốp sẽ nói, và kết quả là có kẻ đã xỏ xiên khuyên anh phải noi gương mấy mụ già kia đã biết hành động một cách thận trọng, ngọt xớt như không, và đạt tới mục đích của các mụ ấy một cách ăn chắc, không hề vấp váp. Thật rõ như ban ngày nhá! Lẽ ra anh đến đội phải ung dung như không, ung dung ngồi nói chuyện, thuyết phục bà con là nghỉ lúc này rất không phải lúc, đáng lẽ thế thì anh lại quát thiên quát địa, và đã có lúc suýt nữa thì cái roi của anh cũng nhảy vào cuộc. Trong khoảnh khắc rất có thể là cả một năm cố gắng của anh lăn lộn tổ chức nông trang đã bị sổ toẹt, và sau đó, biết đâu đấy, cũng có thể phải lên huyện ủy đặt tấm thẻ Đảng lên bàn mà trả lại… Và đó sẽ là cái thảm họa ghê gớm nhất của đời anh!

Chỉ mới nghĩ đến một chuyện là cái gì sẽ xẩy đến cho anh nếu như anh đã không kịp thời tự chủ lại, Đavưđốp đã rùng mình, trong một giây phút thoáng cảm thấy sống lưng ớn lạnh…

Chìm đắm trong những ý nghĩ nặng nề ấy, Đavưđốp đăm đăm nhìn những quân bài rải rác trên mặt bạt, và không hiểu sao chợt nhớ lại cái trò chơi bài tính điểm anh vẫn chơi hồi nội chiến. Anh thoáng nghĩ: “Mình rao cao quá! Mình đã rao mười sáu trong khi đó còn thừa ít nhất là mười điểm, thực tế thế!”. Nhận là mình đã nóng nảy thiếu tự chủ cũng hơi mệt đấy nhưng anh cũng đủ can đảm để làm việc đó, và mặc dù không phải trong bụng không có sự cưỡng lại, miệng anh vẫn nói:

- Mình nặng lời như thế là sai toét toè loe rồi, điểm ấy anh nói đúng, Uxchin ạ! Nhưng các anh bỏ việc ngồi chơi như thế nom ngứa mắt lắm, anh có thấy không? Thêm nữa, anh ăn nói với tôi cũng chẳng phải ngọt ngào gì. Nhưng tất nhiên chúng ta có thể nhất trí với nhau mà chả cần đến những lời xô xát. Thôi, chuyện ấy ta cho nó xong? Anh đi đi, lấy cho tôi đôi ngựa nào khoẻ nhất đóng vào chiếc xe tải, còn anh, Netsaép, tìm đôi khác cũng kha khá đóng vào chiếc xe thổ mộ này cho tôi.

- Ông định đuổi theo các bà ấy hả? – Uxchin không khỏi ngạc nhiên, nói.

- Đúng. Mình sẽ cố thuyết phục các bà ấy, để các bà ấy về làm.

- Các bà ấy có chịu không?

- Để xem. Thuyết phục không có nghĩa là ra lệnh.

- Chậc, thế thì cầu Chúa và Đức Mẹ phù hộ cho ông! À này, ông chủ tịch ơi, ông cho tôi đi cùng với! Được không?

Đavưđốp đồng ý ngay, không chút do dự:

- Được, ta đi thôi. Nhưng anh sẽ giúp tôi một tay thuyết phục các bà ấy chứ?

Uxchin nhếch đôi môi nứt nẻ vì nắng nóng, cười:

- Có tay phụ tá của tôi sẽ giúp ông, tôi sẽ mang hắn đi theo!

- Phụ tá nào? – Đavưđốp ngỡ ngàng nhìn Uxchin.

Uxchin không đáp, lững thững đi tới xe lều, rút từ dưới đống áo dipun ra một chiếc roi dài mới toanh có cán lắp vào một sợi dây da rất đẹp.

- Lão phụ tá của tôi đây. Được đấy chứ? Lão này thì khiếp lắm, miệng nói có gang có thép! Lão ấy mà lên tiếng một câu là thuyết phục được ngay và nhà cửa êm ru. Ông đừng lo tôi chỉ còn tay trái!

Đavưđốp cau mặt lại:

- Anh đừng làm thế! Cấm anh không được đụng đến cái lông chân của các bà ấy, nhưng tôi lại muốn thử tài lão phụ tá của anh lên chính cái lưng anh đấy.

Uxchin chỉ nheo mắt lại, mỉa mai đáp:

- Ông nội tôi cũng định thử tài làm bánh, nhưng lại bị chó xơi mất nhân… Tôi là thương binh trong cuộc nội chiến, được ưu tiên chiếu cố, còn đối với các bà ấy thì một roi quắn đít chỉ có tác dụng làm cho ngoan ra, béo đẹp thêm thôi, cứ căn cứ vào bà nhà tôi thì tôi biết. Các bà ấy sinh ra trên đời là để bị đánh đòn mà! Vậy ông ngại cái gì? Tôi chỉ cần cho hai ba bà vài roi tử tế một tý là các bà khác khắc ù té lên xe ngay, ngồi đâu vào đấy!
Coi câu chuyện thế là xong, anh ta nhặt bộ giây cương lăn lóc dưới gầm xe lên, ra gò bắt ngựa. Netsaép và anh em khác cũng hối hả theo gót anh, trừ một mình bác Ôxêtơrốp ở lại.

- Bác Chikhôn Gôrđêits, sao bác không ra cắt cỏ? – Đavưđốp hỏi.

- Tôi muốn nói với anh vài lời về Uxchin. Được không?

- Cứ nói đi.

- Cái thằng ba toác ấy, lạy Chúa, anh đừng giận nó! Chỉ cần cái đai mông luồn dưới đuôi nó một cái là nó giở trò ngay, - Ôxêtơrốp nói giọng khẩn khoản.

Nhưng Đavưđốp ngắt lời ông ta:

- Hắn chẳng ba toác tí nào đâu, mà là kẻ thù địch trắng trợn với nông trang! Những kẻ ấy chúng tôi đã và sẽ trị thẳng tay!

- Thù địch gì nó? - Ôxêtơrốp sửng sốt thốt lên. – Tôi xin nói anh nghe, thằng ấy có cái tính cứ cáu lên là không biết trời đất gì nữa, thế thôi! Tôi biết nó từ lúc nó còn bé, và càng nhớ lại chỉ càng thấy cái tính nó vẫn gai góc thế. Thằng ôn vật ấy, trước cách mạng thành công, các cụ bô lão làng chúng tôi đã biết bao lần lôi ra hội đồng đánh cho vì cái tội chống đối. Đánh cho cháy đít, bò lê bò càng, nhưng rồi cũng như nước đổ đầu vịt. Một tuần lễ nó bỏng đít không ngồi được, xong rồi đâu lại hoàn đó, kiếm chuyện với mọi người, không tha ai. Nó có vẻ thú cái trò kiếm chuyện ấy lắm! Cứ như con chó kiếm rận vậy! Nó mà thù địch với nông trang ư? Đối với bọn nhà giàu nó là cái cục xương mắc ngang cổ, còn như nó sống thế nào, anh cứ đến xem thử. Cái lều nát xiêu vẹo, sập lúc nào không biết, gia sản thì có độc con bò cái còm và đôi cừu ghẻ, còn tiền nong thì suốt đời không xu dính đít, tất cả vốn liếng của nó chỉ là con rận ở túi bên phải, con rệp ở túi bên trái. Thêm vào đó là con vợ ốm quặt ốm quẹo, một lũ con lốc nhốc làm tình làm tội, và cái nghèo cái đói gặm cho chết dần chết mòn… Có lẽ chính vì thế mà nó cắn quàng cũng nên. Anh bảo nó là kẻ thù. Không, ba trợn thì có, nhưng kẻ thù thì không.

- Sao ông bênh hắn? Hắn có họ hàng gì với ông chăng?

- Chính thế, có họ. Nó vào hàng cháu tôi.

- Thế cho nên ông mới bênh chứ gì?

- Thì cũng phải thế chứ sao hả, đồng chí Đavưđốp? Một nách sáu con, lớn bé sàn sàn, lại thêm cái mồm mép nó ăn nói táo tợn. Bao nhiêu lần rồi tôi đã bảo nó: “Liệu vừa vừa cái mồm chứ, Uxchin ạ. Thế nào cũng có ngày mà vạ mồm vạ miệng, nóng lên nói quàng nói xiên, rồi đến bị tống đi Xibia mất thôi, lúc ấy vò đầu bứt tai thì đã muộn!”. Nó trả lời tôi như thế này: “Thế ở Xibia người ta phải đi bốn chân hay sao. Còn gió rét thì chẳng làm gì nổi tôi, tôi xương đồng da sắt!”. Cái thằng ba toác như thế thì anh bảo làm thế nào với nó? Lại còn lũ nhãi nhà nó nữa! Nuôi chúng nó rất gay, và với cái thời buổi bây giờ thì trở thành mồ côi cũng dễ như bỡn…
Đavưđốp nhắm mắt lại ngẫm nghĩ một lát. Phải chăng trong giây phút này anh đang nhớ lại cái tuổi ấu thơ tối tăm mù mịt, đầy đắng cay của anh?

- Anh đừng chấp làm gì những lời nó ăn nói lăng nhăng, - Ôxêtơrốp nhắc lại.

Đavưđốp đưa tay lên xoa mặt một cái, như bừng tỉnh.

- Thế này nhá, bác Chikhôn Gôrđêits ạ, - Đavưđốp nói chậm rãi, rành rọt từng tiếng. – Trước mắt, tôi chưa đụng đến cậu ấy. Cậu ấy cứ ở nông trang, làm việc tuỳ theo khả năng. Việc nặng chúng tôi sẽ không phân cho cậu ấy, việc nào vừa sức thì cậu ấy làm. Nếu đến cuối năm, số công không đủ, chúng tôi sẽ tương trợ, trích thóc quỹ chia cho các cháu. Rõ chưa? Nhưng bác hãy nói riêng với hắn đây là ý kiến của tôi: nếu một lần nữa hắn giở trò phá thối, gây hoang mang trong đội, hắn sẽ không yên với tôi đâu! Hắn hãy nghĩ lại đi trong khi chưa muộn. Tôi không hơi đâu mà đùa với hắn mãi, bác cứ bảo thế. Tôi thương là thương lũ trẻ, chứ không thương hắn!

- Thưa đồng chí Đavưđốp, xin cảm ơn về lời nói có tình. Xin cảm ơn đồng chí đã không để bụng mà ghét bỏ thằng Uxchin nhà tôi. - Ôxêtơrốp vừa nói vừa cúi rạp đầu xuống.

Nhưng Đavưđốp bất ngờ gắt om lên:

- Cái lối gì thế hả? Tôi có là tượng thánh cho ông đâu mà ông lạy! Chẳng cần ông lạy tôi vẫn cứ sống được, và tôi đã nói sao thì tôi sẽ làm vậy!

- Chúng tôi đã quen như vậy từ cái ngày xưa: cảm ơn ai thì phải cúi đầu xuống, - Ôxêtơrốp chững chạc đáp lại.

- Thôi được!.. Bây giờ ông nói tôi nghe: bọn trẻ nhà Uxchin quần áo thế nào? Có mấy đứa được đi học?

- Mùa đông chúng nó ngồi xếp hàng đủ mặt trên trốc lò, vì ra ngoài thì không có gì khoác lên người. Mùa hè chúng nó đóng khố rách chạy nhông. Chúng nó cũng vớ được ít quần áo kulắc nông trang chia cho đấy, nhưng sao đủ che thân được. Còn chuyện đi học thì mùa đông vừa rồi, Uxchin đã cho nghỉ nốt đứa cuối cùng: quần áo chẳng có mà mặc, giày chẳng có mà đi. Thằng bé cũng đã lớn kệnh rồi, mười hai tuổi, ăn mặc rách rưới như ma dại nó xấu hổ…

Đavưđốp gãi gáy mấy cái như giận dữ, rồi bỗng quay ngoắt lưng vào Ôxêtơrốp:

- Ông đi cắt cỏ đi.

Giọng anh u uất, nghe như khó chịu… Ôxêtơrốp đăm đăm nhìn cái dáng gù gù một cách buồn bã của Đavưđốp, cúi rạp xuống chào anh một lần nữa, rồi thong thả đi ra chỗ cắt cỏ.

Trong bụng đã nguôi nguôi, Đavưđốp đưa mắt nhìn theo Ôxêtơrốp, nghĩ bụng: “Cái dân kôdắc này đến là lạ! Anh có giỏi thì cứ tìm hiểu xem cái thằng cha Uxchin kia lòng dạ ra sao. Một kẻ thù điên cuồng hay chẳng qua chỉ là một tay chuyên gây gổ và ba hoa xích đế, bụng có gì bày hết ra mồm? Mỗi ngày họ lại thêm cho mình một câu đố… Thật đến ma quỷ cũng không biết đằng nào mà lần với họ! Nhưng được rồi, mình sẽ lần ra! Người ta nói là muốn hiểu ai thì phải ăn cùng với họ hết một pút muối. Nếu cần, mình sẽ ăn cả một tải đầy, và nhất định mình sẽ lần ra, thực tế thế!”.

Uxchin đã cắt đứt dòng suy nghĩ của anh. Anh ta phi ngựa tới, tay dắt theo một con thứ hai.

- Ông chủ tịch ơi, đóng chiếc thổ mộ này làm quái gì? Đóng thêm chiếc xe tải nữa hay hơn chứ. Nếu các bà ấy bằng lòng quay về, thì ngồi xe tải có xóc tí cũng chẳng sao!

- Không, cứ đóng cho tôi chiếc thổ mộ, - Đavưđốp đáp.

Anh đã suy nghĩ kỹ cả rồi và biết rằng nếu công việc trót lọt thì sẽ dùng xe thổ mộ để làm gì

* * *

Sau bốn mươi phút phóng xe hai người đã trông thấy đằng xa đám lố nhố các bà các cô diện quần xanh áo đỏ ngày lễ đang thủng thỉnh leo lên con đường dốc.

Uxchin cho xe dấn lên chạy song song với xe Đavưđốp

- Bám cho vững, ông chủ tịch nhá! Chuyến này thì là các bà ấy sẽ cho ông ốm ho đấy!

- Nói bắt chước anh chàng mù: “Rồi ta xem!”, - Đavưđốp giật cương thúc ngựa, đáp lại có vẻ thích thú.

- Ông không sợ à?

- Sợ cái gì? Các bà ấy chỉ độ trên dưới một tá chứ mấy.

- Ngộ nhỡ tôi lại ủng hộ các bà ấy thì sao? – Uxchin hỏi, mỉm cười khó hiểu.

Đavưđốp nhìn vào mặt anh ta chăm chú, nhưng không tài nào biết được anh ta nói thật hay đùa.

- Lúc ấy sẽ thế nào nhỉ? – Uxchin hỏi tiếp, nhưng bây giờ thì không cười nữa.

Đavưđốp dừng sững ngựa lại, xuống xe, bước tới xe Uxchin. Anh thò tay vào túi bên phải áo véttông, rút ra khẩu súng lục của Nextêrenkô cho anh, đặt nó lên đầu gối Uxchin

- Giữ hộ tôi cái đồ chơi này, cất kỹ nó đi. Vì nếu như chẳng may anh lại về hùa với các bà ấy, tôi e rằng không cưỡng nổi với sự cám dỗ tương cho anh một phát vào sọ đâu.

Anh giật cái roi khỏi bàn tay xâm xấp mồ hôi của Uxchin một cách dễ dàng, lấy đà quẳng nó ra xa bên đường.

- Thôi, ta đi! Phóng nhanh nhanh lên, Uxchin Mikhailôvíts, và nhớ lấy chỗ tôi vứt cái roi, để lúc về mà nhặt. Còn khẩu súng tôi, về đội anh sẽ trả lại tôi. Nào, chạy!

Đuổi kịp các bà, Đavưđốp phóng lướt sang bên rồi cho chiếc xe tải đỗ chắn ngang đường họ. Uxchin cũng dừng ngựa cạnh anh.

- Xin chào các bà chị, chào các cô em xinh đẹp! – Đavưđốp làm ra bộ vui vẻ chào các bà các cô đi lễ.

- Xin chào anh, nếu anh không định lỡm chị em chúng tôi, - một bà nhanh mồm nhanh miệng nhất đám thay lời tất cả, đáp.

Đavưđốp nhảy từ trên xe xuống, ngả mũ, cúi nghiêng mình:

- Xin thay mặt ban quản trị nông trang mời các bà các cô quay trở về đi làm cho. Các ông nhà ta phái tôi đuổi theo các bà. Các ông ấy đã đang cắt cỏ rồi đấy.

- Chúng tôi đi lễ, chứ có phải đi chơi đâu! – Một bà nái xề mặt đỏ bừng bóng nhoáng mồ hôi, kêu lên bực tức.

Đavưđốp hai tay vo tròn chiếc mũ kêpi áp lên ngực:

- Cắt cỏ xong các bà các cô tha hồ mà đi lễ, còn bây giờ thì không nên. Bà con xem, mây đen đang kéo đến, trong khi đó thì bà con chưa đánh được một đống cỏ nào. Cỏ sẽ hỏng hết mất thôi! Thối hết! Và sang đông súc vật sẽ khốn nạn. Cái đó bà con rõ hơn tôi nhiều chứ?

- Mây đen đâu mà anh bảo mây đen? – một cô trẻ măng chế giễu hỏi vặn lại. – Trời sạch tinh tươm như vừa mới tắm ấy mà!

- Phong vũ biểu đã báo mưa thì cần gì phải mây đen hả cô? – Đavưđốp nhanh trí chống chế. – Nhất định là sắp mưa đến nơi rồi! Ta về thôi, các bà các cô ơi, chủ nhật sau ta đi lễ. Để chủ nhật sau thì đã sao? Nào, mời các bà lên xe, tôi sẽ cho phóng như bay! Kìa, lên thôi chứ, mau kẻo muộn.

Đavưđốp nói ngọt cứ như mía lùi. Các bà các cô nghe bùi bùi tai, đã phân vân xì xào bàn tán với nhau. Chẳng ngờ giữa lúc ấy, Uxchin đã nhảy vào vòng, chi viện một tay cho Đavưđốp: anh ta lẳng lặng lẻn tới sau lưng một bà to lớn phốp pháp là vợ Netsaép, ôm ngang lưng, và mặc cho chị ta vừa đấm anh thùm thụp vừa cười như nắc nẻ, anh bế thốc chị ta chạy lon ton mang về xe, nhẹ nhàng đặt ngồi xuống ghế sau. Các bà các cô cười rú, chạy toé ra.

- Nào các bà tự động lên xe đi, không tôi giơ roi ra đấy! – Uxchin trợn trừng mắt, quát oang oang. Nhưng rồi cười xoà ngay: - Nói thế thôi chứ mời các bà chị lên xe, tôi chả dám đụng đến các bà đâu. Nhưng nhanh nhẩu lên, lũ quỷ cái!

- Đứng thẳng người sừng sững trên xe, bà vợ Netsaép vừa buộc lại chiếc khăn vuông bị tuột, vừa hét:

- Thôi lên đi, các bà ơi, nhanh lên! Các bà bắt em đợi đến bao giờ? Các bà xem, vinh dự cho chị em ta lắm đây chứ: ông chủ tịch đích thân đánh xe đi đón chị em ta!

Các bà các cô chẳng phải để mời mọc nữa, từ ba phía xô đẩy nhau suồng sã ùa lên xe, cười nói ríu rít và mắt thì cứ liếc nhìn ông chủ tịch. Dưới đường còn trơ lại hai mụ già.

Đồ quỷ xa tăng, anh làm cho hai bà lão chúng tôi phải cuốc bộ một mình đi Tubianxki đây này! – Mụ Atamantsukôva hằn học lườm Đavưđốp.

Nhưng Đavưđốp giở hết cái tài lịch thiệp ngày xưa trong đời lính thuỷ, rập hai gót giầy vào nhau đánh bộp một cái, nghiêng mình nói:

- Thưa hai mẹ, con đâu dám để hai mẹ đi bộ! Đây, có xe dành riêng cho hai mẹ đây, mời hai mẹ lên, đi lễ đi cho đến chán thì thôi. Anh Uxchin Mikhailôvíts đây sẽ đưa hai mẹ đi, đợi hai mẹ lễ, rồi lại đưa hai mẹ về tận nhà.
Mỗi phút là quý, thời giờ đâu mà đợi hai mẹ đồng ý! Đavưđốp khoác luôn lấy tay hai mụ kéo ra xe. Mụ Atamantsukôva cưỡng lại không chịu, nhưng Uxchin đứng đằng sau đẩy nhẹ mụ đi một cách lễ phép kính cẩn. Đặt được hai mụ lên xe rồi, Uxchin nắm dây cương rỉ tai Đavưđốp nói nhỏ, rất nhỏ:

- Anh thật là mưu ma quỷ kế, anh Đavưđốp ạ!

Trong suốt thời gian này đây là lần đầu tiên anh ta gọi đến tên của ông chủ tịch.
Đavưđốp cũng để ý điều đó, mỉm cười uể oải. Anh buồn ngủ rũ: hậu qủa của đêm mất ngủ và bao nhiêu chuyện rắc rối trong ngày.

* * *

Hôm sau, sớm bảnh mắt ông chủ nhà đã đánh thức Đavưđốp dậy:

- Dậy, ông khách trọ ơi, có giao thông hoả tốc ở tiền tuyến về kìa… Có anh chàng Uxchin Cụt-ngón-tay ở đội ba phi ngựa về, yên cương rơi đâu mất sạch, mặt mũi sây sát, áo quần tơi tả…

Ông chủ nhà cười ha hả, còn Đavưđốp thì đang ngái ngủ chưa hiểu đầu cua tai nheo chuyện gì. Anh nghển đầu lên khỏi cái gối dúm do, thờ ơ hỏi giọng nghe khó hiểu:

- Gì thế?

- Đã bảo là có giao thông hoả tốc mà, nom tả tơi, đứt đuôi con nòng nọc là về xin cứu viện…

Cuối cùng Đavưđốp nghe đã rõ nhẽ, dậy xỏ vội quần áo vào. Anh đi ra hành lang rửa mặt qua quít bằng cái nước qua cả một đêm vẫn chẳng mát đi được, vẫn nóng một cách khó chịu, rồi bước ra hiên.

Uxchin Rưkalin đang đứng ở bậc thềm cuối cùng, một tay nắm cương ngựa, một tay vung lên đe con ngựa cái mình nóng hừng hực sau cuộc phi nước đại. Chiếc áo sơmi vải thô màu xanh đã bạc phếch của anh ta rách sả từng mảng và hẳn phải do một phép thần thông nào mới còn bám được vào đôi vai anh ta; má bên trái anh ta sưng tím từ gò má xuống đến cằm, mắt trái húp híp đỏ bầm, còn mắt phải thì giận dữ long lên sòng sọc.

- Nông nỗi đâu mà thế này? - Đavưđốp chân bước xuống thềm, miệng hỏi, quên cả chào.

- Cướp, cướp đồng chí Đavưđốp ơi! Cướp chính cống! Loạn! - Uxchin rít lên khàn khàn. - Chà, có là quân chó má nó mới giở cái trò ấy!

Con ngựa cái xuýt xéo lên chân Uxchin, và anh ta lại điên tiết, vung tay đe nó:

- Mày có đứng yên hay không, hả quân trời đánh!

- Cậu kể nghe cho có đầu có đuôi tí, - Đavưđốp đề nghị.

- Còn thế nào mới là có đầu có đuôi nữa! Tiên sư chúng nó, cũng mang tiếng là hàng xóm láng giềng với nhau! Cái giống ăn hại ăn bám ấy thì cứ cho chết thiêu chết cháy, chết bệnh chết tật cả đi! Anh thử nghe mà xem! Các ông hàng xóm chúng ta bên Tubianxki, cái hạng hàng xóm ấy thì tôi cứ tống cái càng xe bò vào mồm chúng nó, đêm qua đã lẻn sang cánh đồng Kim ngân chở trộm của chúng tôi đến ba mươi đụn cỏ chứ không ít. Sáng ra tôi còn thấy chúng nó chất cỏ lên hai xe tải còn rớt lại, cái cỏ mồ hôi nước mắt của chúng ta, còn xung quanh thì sạch nhẵn, không còn thấy qua một đụn cỏ nào! Tôi vội nhảy lên ngựa, phóng tới chỗ chúng: "Mả mẹ các anh, chứ các anh làm cái trò gì thế hả?! Trên cơ sở nào mà các anh lấy cỏ của chúng tôi?". Một tên trong bọn, tên ngồi trên cái xe tải gần bên tôi, lại nhăn nhăn nhở nhở, cái quân chó má: "Trước là của các anh, nhưng bây giờ là của chúng tôi. Ai bảo dại, đi cắt cỏ trên đất người ta". Tôi bảo: "Sao, không thấy cọc ranh giới chỗ nào à?" Thế là hắn nói: "Có anh ấy, anh hãy dụi mắt đi mà nhìn, cọc ở đằng sau lưng anh đấy. Đất này là đất Tubianxki từ thuở khai thiên lập địa. Ơn Chúa, cắt cỏ hộ chúng tôi, các anh làm cũng khẩn trương đấy". À, ra thế đấy hả? Nhổ cọc cắm ra chỗ khác hả? Tôi liền túm lấy cẳng nó kéo tuột trên xe xuống, cho một quả phật thủ vào giữa hai mắt nó, cho nó sáng mắt ra, khỏi lẫn đất người ta với đất mình… Cái thằng ấy cũng xoàng, mới một quả đã lăn kềnh ra. Thế là ba thằng còn lại xông tới. Tôi cho thêm một thằng nữa ngửi đất. Nhưng rồi cả bốn thằng xúm vào đánh tôi, tôi địch khổng nổi. Một chọi bốn thì anh bảo chọi sao được! Trong khi anh em ta chưa kịp tới cứu, chúng nó đã tô vẽ mặt mũi tôi như quả trứng ngày lễ Phục sinh, còn chiếc áo sơmi thì toạc sạch. Anh bảo thế có chó má không? Thế này thì vác mặt về với bu nó ở nhà làm sao đây chứ? Được, đánh thì ông cho tha hồ đánh, nhưng sao lại túm ngực ông xé sả vai áo ông ra? Áo này bây giờ còn làm được cái của khỉ gì nữa? Khoác cho con bù nhìn giữ dưa, con bù nhìn cũng xấu hổ vì rách ruới quá, còn xé làm băng thì bọn con gái không thèm, vì đâu phải loại vải làm băng… Chà, tôi mà vớ được một thằng Tubianxki nào ngoài thảo nguyên thì nó chết với tôi! Cứ một chọi một, tôi sẽ cho nó vác về với vợ cái mặt cũng thâm tím chẳng kém gì tôi bây giờ!

Đavưđốp bá lấy vai Uxchin, cười ha hả:

- Không lo, áo khắc kiếm ra cái khác, còn mặt mũi thì đến lúc đi dự đám cưới sẽ hết thâm tím thôi.

- Cưới ai? Cưới anh hả? - Uxchin ranh mãnh hỏi.

- Đám cưới đầu tiên trong làng. Còn mình thì đã có ma nào chịu lấy đâu. Cậu có nhớ ông chú cậu hôm chủ nhật nói gì không? "Gà sống gây gổ thì mào lúc nào cũng toạc".

Đavưđốp cười, nhưng trong bụng thầm nghĩ: "Chà, cậu Uxchin đáng yêu ơi, cậu đi đánh nhau không phải để giữ cỏ riêng của cậu, mà là giữ cỏ của nông trang, thì thật là tuyệt! Một sự việc rất chi là cảm động!".

Nhưng Uxchin tự ái bước lùi ra:

- Anh Đavưđốp ạ, anh nhăn răng ra thì dễ thôi, nhưng tôi có bao nhiêu xương sườn long sạch cả đây này. Không phải cười mà xong việc đâu, anh hãy lên ngựa, sang bên Tubianxki mà đòi lại cỏ. Chúng tôi đã lấy lại được hai xe, nhưng suốt cả đêm chúng nó đã chở đi biết bao nhiêu là xe?! Vì cái tội ăn cướp của họ, họ phải chở cỏ về tận làng ta mà trả, thế mới là công lý. - Và đôi môi sưng vù rớm máu của Uxchin giãn ra trong một nụ cười khó nhọc: - Rồi anh xem, rồi lại chỉ toàn bọn đàn bà chở cỏ trả chúng ta thôi, chứ bọn kôdắc thì sẽ chẳng dám vác mặt sang thăm ta đâu. Nhưng khi sang ăn trộm thì lại toàn bọn kôdắc, mà chọn toàn những đứa gớm cả, đến nỗi khi mà bốn đứa xông vào giở đấm nói chuyện với tôi, tôi phát buồn nôn tới… Mình ngã chúng nó cũng không cho mình ngã, người chưa chạm đất chúng nó đã đấm bốc mình lên, hất từ tay đứa nọ sang tay đứa kia, cứ như quả bóng. Trong khi anh em chưa kịp! Bàn tay cụt của tôi, tôi quại lại cũng ra trò, nhưng như người ta nói, bốn nện một không chột cũng què!

Uxchin cố cười một cái nữa, nhưng chỉ rặn ra được một nụ cười nhăn nhúm, và khoát tay một cái:

- Đồng chí Đavưđốp ạ, đồng chí mà trông thấy cậu Liubiskin nhà ta thì đồng chí sẽ được trận cười đau ruột. Hắn cứ chạy lăng xăng quanh chúng tôi, nhẩy cẫng lên như con chó cái muốn nhảy qua hàng rào, và quang quác cái mồm: "Oánh, anh em ơi, oánh tan xác chúng nó ra! Oánh đi, tôi biết chúng nó rồi, chúng nó là giỏi chịu đòn lắm đấy!" Hắn hét thế nhưng cứ đứng ngoài, không chịu xông vào. Ông chú Ôxêtơrốp tôi mới điên lên, quát hắn: "Thì vào đi, ủng hộ anh em một tay, đồ nỏ mồm! Hay là lại sợ lưng mọc nhọt rồi?" Cậu Liubiskin xuýt nữa phát khóc, và gào lên: "Vào làm sao được! Tôi là Đảng viên mà, lại đội trưởng nữa! Anh em cứ quại vỡ mặt chúng nó ra cho tôi, còn tôi thì tôi cố nhịn vậy!" Thế là hắn cứ chạy như đèn cù, hoa chân múa tay, răng nghiến kèn kẹt… Nhưng thôi, không nên mất thời giờ vô ích, anh đi ăn sáng mau lên, trong khi đó tôi đi kiếm cho anh con ngựa, đóng yên cương, rồi anh đi cùng tôi về đội. Các bố già trong đội bảo tôi là không dắt được anh về thì đừng vác mặt về. Cái cỏ mồ hôi nước mắt của chúng tôi, đời nào chúng tôi lại để cho cái bọn ăn bẩn ăn thỉu ấy xơi không!".

Coi như chuyện đi sang Tubianxki thế là đã được quyết định, Uxchin buộc cương ngựa vào lan can, bước vào nhà ban quản trị. Đavưđốp nghĩ bụng: "Phải đi gặp thằng cha Pôlianhítxa. Nếu việc lấy cỏ ấy được hắn tán thành thì không tránh khỏi một cuộc cãi vã với hắn. Hắn ương bướng như con lừa. Nhưng dù thế nào cũng phải đi gặp hắn".

Đavưđốp uống vội một cốc sữa mới vắt, nhá một mẩu bánh mì khô cứng, và trông thấy Uxchin cưỡi con ngựa của Nagunốp phóng tới cổng, một anh chàng Uxchin diện chiếc áo sơmi mới toanh và nom hăng hái lanh lẹn hơn bao giờ hết.

CHƯƠNG XV

Mặc dầu họ chỉ mới gặp nhau có vài lần trên huyện uỷ và chỉ nghe tiếng nhau nhiều hơn, chủ tịch nông trang "Ánh hồng" Nhikipho Pôlianhítxa - nguyên là thợ nguội nhà máy luyện kim Đnhiéprôpêtơrốpxkơ và cũng là dân hai vạn rưởi, - đã đón tiếp Đavưđốp tại trụ sở ban quản trị nông trang như tiếp người bạn cũ.

- A, anh bạn Đavưđốp thân mến của tôi đấy mà! Chào anh lính thuỷ Bantích! Ngọn gió nào đưa anh đến cái nông trang lạc hậu về mọi chỉ tiêu là nông trang của chúng tôi thế này? Xin mời vào, ngồi chơi, ở đây anh là thượng khách!

Khuôn mặt tròn vành vạnh lốm đốm tàn hương của Pôlianhítxa nở ra một nụ cười giả tạo, láu lỉnh và đôi mắt đen ti hí của anh ta ánh lên một vẻ hiếu hách vờ vĩnh. Cuộc đón tiếp quá ư niềm nở ấy làm Đavưđốp cảnh giác. Anh chào một câu gọn lỏn, ngồi xuống bên bàn, rồi từ từ đưa mắt nhìn quanh.

Theo ý Đavưđốp, phòng làm việc của một chủ tịch nông trang mà thế này thì quả là nghịch mắt: gian phòng rộng thênh thang ngổn ngang những chậu đất, những bồn gỗ sơn vàng cắm những bông hoa phủ trắng bụi, và giữa đống chậu hoa ấy lạc loài vài chiếc ghế mây đã tã xen lẫn mấy chiếc ghế đẩu bẩn thỉu; bên cửa ra vào lại kê một chiếc đivăng hình thù kỳ quái, rách bươm, để lòi cả ra ngoài những chiếc lò xo rỉ; tường thì dán đầy những tranh ảnh cắt trong tạp chí “Ruộng đồng” ra và những tranh thạch bản rẻ tiền, nào là tranh lễ rửa tội của nước Nga tại Kiép, nào là trận vây hãm Xêvaxtôpôn, chiến trận ở Sípka, nào là cuộc tấn công Liêu Dương năm 1904 của quân đội Nhật.

Phía trên bàn làm việc của ông chủ tịch có treo một tấm ảnh Xtalin đã vàng ố, và trên bức tường đối diện là bức tranh quảng cáo màu sắc loè loẹt và lốm đốm cứt ruồi của nhà máy xe chỉ Môrôdốp. Tranh vẽ một chàng tôrêađô (*) dũng cảm mặc áo chẽn đỏ một tay giữ một con bò mộng hung dữ đang lồng lên, sừng bị một sợi dây thòng lọng bằng chỉ bó chặt, còn tay kia thì hững hờ đặt lên đốc kiếm. Và dưới chân chàng ta lăn lóc một cuộn chỉ trắng khổng lồ tháo dở với cái nhãn hiệu đề rõ: “Số 40”.

Bổ sung thêm vào sự bày biện ấy là một cái hòm to tướng đóng đai sắt đặt ở góc phòng. Chắc hẳn Pôlianhítxa dùng cái hòm ấy thay cho két sắt. Một ổ khoá kho cỡ đại, tương xứng với kích thước hòm và được đánh bóng lộn, chứng tỏ rằng tài liệu cất trong hòm phải thuộc loại tối ư quan trọng.

Nhìn lướt qua gian phòng một lượt, Đavưđốp không thể không mỉm cười. Pôlianhítxa suy diễn nụ cười ấy theo ý mình, hể hả nói:

- Ông thấy thế nào, bày biện thế được đấy chứ! Mình đã giữ nguyên tất cả những gì của lão chủ cũ là một tên kulắc để lại, giữ nguyên kiểu trang trí trong gian phòng. Chỉ có cái giường có đệm lông và gối là mình cho chuyển sang phòng chị lao công thôi, còn thì nói chung mình giữ nguyên cái không khí ấm cúng của nó, ông lưu ý cho điều đó. Không có tí vẻ gì là cơ quan cả! Không có tí vẻ gì là trụ sở! Phải, thú thật với ông là mình rất thích cái không khí gia đình và muốn ai đến gặp mình đều cảm thấy thoải mái như ở nhà người ta vậy. Mình nói thế có đúng không hả?

Đavưđốp chỉ nhún vai, không trả lời. Rồi anh nói thẳng vào đề:

- Ông bạn hàng xóm ạ, hôm nay tôi đến gặp ông có chuyện không được vui cho lắm.

Đôi mắt lươn láu cá của Pôlianhítxa như chìm xuống giữa những nếp nhăn húp híp, và từ đó chúng ánh lên một ánh biêng biếc như hai mẩu than đá nhỏ, và đôi lông mày đen sâu róm của anh ta rướn cong lên.

- Hàng xóm láng giềng thân thiện thì có chuyện gì không vui được nhỉ? Đavưđốp ơi, ông làm mình hoảng lên đấy! Mình với ông xưa nay vẫn như cá với nước, thế mà bỗng đâu: tôi đến ông có chuyện không vui! Mình không thể tin được! Ông muốn nói gì thì nói, mình chả tin đâu!

Đavưđốp nhìn thẳng vào đôi mắt Pôlianhítxa, nhưng chịu, không bắt được một ý gì trong đôi mắt ấy cả. Vẻ mặt Pôlianhítxa vẫn cứ sởi lởi và kín như bưng, và trên đôi môi anh ta vẫn là nụ cười điềm nhiên, niềm nở. Xem ra ông chủ tịch nông trang “Ánh hồng” là một diễn viên bẩm sinh, rất tự chủ và đóng vai rất khéo.

Đavưđốp nói toạc móng heo:

- Có phải ông cho người đến chở trộm cỏ của chúng tôi đêm qua không?

Đôi lông mày Pôlianhítxa rướn cao lên nữa:

- Ô hay, cỏ nào?

- Cỏ chứ, còn cỏ nào, cỏ thảo nguyên.

- Tin mới toanh đấy! Người ta chở trộm cỏ của ông à? Người bên Tubianxki chúng mình à? Làm gì có chuyện! Mình không tin! Ông cứ giết mình đi, bắn mình đi, mình vẫn không tin! Xêmiôn ạ, xin ông lưu ý rằng nông trang viên “Ánh hồng” là những người lao động rất trung thực trên đồng ruộng xã hội chủ nghĩa của chúng ta, và ông nghi ngờ họ như thế là xúc phạm đến họ, không những thế, còn xúc phạm đến tôi là chủ tịch nông trang này nữa. Ông bạn ơi, mình xin ông lưu ý cho điều đó.

Đavưđốp nén bực, bình tĩnh nói:

- Này, ông bạn hờ ơi, đối với ông tôi không phải là Lítvinốp (**) và đối với tôi ông không phải là Tsembéclen (***), cho nên chúng ta không việc gì phải giở trò ngoại giao với nhau. Anh cho lệnh họ lấy cỏ khô của chúng tôi phải không?

- Lại cỏ khô! Nhưng ông bạn ơi, ông nói cỏ khô nào nhỉ?

- Ông đừng giở cái giọng dớ da dớ dẩn, - Đavưđốp bực dọc kêu thốt lên.

- Ông bạn ơi, xin ông lưu ý rằng tôi hỏi ông một cách nghiêm chỉnh: ông định nói chuyện cỏ khô nào?

- Cỏ khô ở cánh đồng Kim ngân. Ở đấy đồng cỏ hai bên giáp giới nhau, và người bên các anh đã sang nẫng nhẹ cỏ khô của chúng tôi, thực tế thế!

Pôlianhítxa dường như lấy làm thú vị vì một chuyện hiểu lầm đã được giải quyết tốt đẹp như vậy, vỗ đánh đốp một cái vào mặt da khô của đôi ủng đang đi ở chân, và sằng sặc cười:

- Ông bạn ơi, sao ông không nói rõ ra như thế ngay từ đầu! Ông lại cứ cỏ khô, cỏ khô, nhưng cỏ khô nào mới được chứ? Ở cánh đồng Kim ngân, chẳng biết là do vô tình hay là cố ý, các ông đã cắt cỏ khô trên đất chúng tôi. Chỗ cỏ khô ấy chúng tôi dã cho thu hồi lại trên cơ sở hợp pháp và chính đáng. Rõ chưa, ông bạn?

- Chưa, ông bạn hờ ơi, chưa rõ. Nếu cỏ khô ấy là của các ông, sao các ông lại chở đêm hôm vụng trộm?

- Chuyện ấy thì phải hỏi dưới đội. Đêm hôm mát mẻ, người làm đỡ nhọc, vật kéo cũng đỡ nhọc, chắc là do thế nên anh em mới chở ban đêm đấy. Thế bên các ông không làm đêm bao giờ à? Thế là dại! Đêm, nhất là những đêm trăng sáng, làm việc khoái bằng mấy ban ngày trời nắng chang chang.

Đavưđốp cười khẩy:

- Cữ này đêm lại tối như hũ nút, thực tế thế!

- Ờ ông bạn ơi, đêm tối mấy thì tối, đưa thìa lên miệng chẳng ai đút trượt ra ngoài cả.

- Nhất là khi cái thìa ấy lại múc cháo ở bát người khác…

- Ông bạn ơi, ông thôi cho cái trò đó đi! Ông lưu ý cho rằng những lời cạnh khía của ông đã xúc phạm nặng nề đến nông trang viên rất chi là trung thực, rất chi là giác ngộ của chúng tôi, và xúc phạm vào tôi là chủ tịch nông trang “Ánh hồng”. Muốn nói gì thì nói, nhưng chúng tôi là những người lao động chứ đâu phải quân trộm cắp, xin ông lưu ý điều đó!

Đôi mắt Đavưđốp long lên tức giận, nhưng anh vẫn trấn tĩnh lại được, nói:

- Còn ông thì hãy thôi đi những lời hoa mỹ ấy đi, ông bạn hờ ạ, và hãy đi thẳng vào chuyện. Chắc ông biết là xuân vừa rồi ở hai bên lũng Kim ngân đã có ba cột mốc cắm làm ranh giới chứ gì? Các nông trang viên rất trung thực của ông đã di chuyển cột mốc, sửa lại đường ranh giới lấn chiếm của chúng tôi ít ra là bốn năm hécta đất. Chuyện ấy ông biết không?

- Ờ, ông bạn, ông moi đâu ra cái chuyện ấy thế? Ông lưu ý cho rằng những sự nghi ngờ của ông đã xúc phạm sâu sắc đến những người không có chút tội tình gì…

Đavưđốp không nén được nữa, sôi lên cắt ngang:

- Thôi đừng ba hoa, giả vờ giả vịt nữa! Anh coi tôi là trẻ con đấy phỏng? Tôi nói chuyện nghiêm chỉnh với anh, còn anh thì cứ giở trò đóng kịch, ra cái điều bị vu oan. Trên đường sang đây, tôi đã tạt qua cánh đồng Kim ngân, đích thân kiểm tra lại những điều nghe bà con nông trang viên báo cáo. Thì quả đúng như vậy: cỏ bị chở trộm, cột mốc bị di chuyển. Chuyện ấy anh không trốn được với tôi đâu.

- Tôi cũng chẳng định trốn đi đâu cả! Cái thằng tôi đây, nó đây, ông cứ việc tay không mà bắt, nhưng… trước khi bắt nhớ bôi nhựa vào tay! Bôi kỹ nhựa vào tay, ông bạn ạ, không thì tôi sẽ tuột đi như con chạch đấy, ông lưu ý cho điều đó…

- Việc các nông trang viên Tubianxki các anh đã làm là cái việc được gọi là tự động chiếm đoạt, và anh, anh Pôlianhítxa, anh sẽ chịu trách nhiệm về việc đó.

- Cái đó, anh bạn ơi, còn cần phải có chứng cớ, đây là tôi nói chuyện di chuyển cột mốc. Anh bạn ạ, đó mới là lời khẳng định suông của anh thôi, không hơn không kém. Còn chuyện cỏ khô thì cỏ khô của anh làm gì có dấu.

- Con cừu có đánh dấu thì chó sói vẫn xơi như thường.

Pôlianhítxa khẽ nhếch mép cười và lắc đâu ra vẻ trách móc:

- Chà-chà-chà! Bây giờ anh lại ví chúng tôi với chó sói! Anh muốn nói gì thì nói, nhưng tôi không tin có ai lại đào cột mốc lên cắm đi chỗ khác.

- Thì anh cứ việc ra tận nơi, đích thân kiểm tra thì biết vết chôn cũ còn không? Vẫn còn đấy! Ở chỗ ấy đất xốp, cỏ thấp, và mấy cái lỗ tròn nom rành rành ra đấy như trên lòng bàn tay, thực tế thế! Anh sẽ ăn nói thế nào? Nếu muốn thì chúng ta cùng đi ra đó, đồng ý không? Không, đồng chí Pôlianhítxa ơi, đồng chí không chuội được với tôi đâu! Thế nào, ta đi chứ?

Đavưđốp lẳng lặng ngồi hút thuốc, đợi câu trả lời. Pôlianhítxa cũng ngồi lẳng lặng, miệng vẫn mỉm cười thản nhiên như không. Gian phòng bề bộn hoa ngột ngạt khó thở. Có tiếng ruồi bay vo ve và va đầu vào các ô kính bụi mờ của cửa sổ. Nhìn qua kẽ lá um tùm xanh bóng của một cây si, Đavưđốp thấy bước ra hiên một chị đàn bà trẻ, phát phì trước tuổi nhưng nom vẫn còn duyên dáng, mặc một chiếc váy đã tàng và một áo ngủ cộc tay giắt vào váy. Chị ta đưa tay lên mắt che nắng, nhìn dọc theo phố như tìm cái gì rồi bỗng bốc lên, tru tréo bằng một giọng the thé chối tai:

Phênia, con chết giẫm kia, lùa bê về! Mày không thấy bò đã về rồi à?

Pôlianhítxa cũng đưa mắt ra phía cửa sổ nhìn hai cánh tay trần đến tận vai, tròn trĩnh và trắng như trứng gà bóc của chị đàn bà, nhìn mớ tóc dày nâu nâu của chị ta loà xoà dưới mái khăn vuông và phất phơ trước gió rồi không hiểu sao, cắn môi thở dài:

- Chị lao công đấy, chị ta ở ngay tại trụ sở, làm công việc quét dọn. Chị ta cũng không đến nỗi nào, chỉ phải cái tội to mồm quá quắt lắm, bảo thế nào cũng không bỏ được cái tính to mồm… Còn chuyện ra đồng thì tôi chẳng ra làm gì đâu, Đavưđốp ạ! Anh đã ra, đã xem, thế là đủ rồi. Còn cỏ khô thì tôi không trả lại anh, không trả, trước sau chỉ thế thôi! Mảnh đồng ấy là chuyện còn đang tranh chấp giữa hai bên Tubianxki và Grêmiatsi. Việc phân chia đất đai tiến hành cách đây đã năm năm, và không phải tay anh với tay tôi mà có thể giải quyết được cuộc tranh chấp này.

- Thế thì tay ai?

- Tại huyện.

- Được, tôi đồng ý với anh. Nhưng tranh chấp đất đai là một chuyện, cỏ là một chuyện. Cỏ anh phải trả lại tôi. Cỏ do tay chúng tôi cắt thì là của chúng tôi.

Xem chừng Pôlianhítxa đã quyết định cắt đứt cái câu chuyện theo quan điểm của anh ta là vô bổ này. Lúc này anh ta không mỉm cười nữa. Mấy ngón bàn tay phải anh ta đang đặt hờ hững trên bàn, khẽ mấp máy rồi từ từ nắm lại, ngón cái đặt đút vào khe ngón trỏ và ngón giữa. Anh ta hất hàm chỉ cái nắm tay của mình, rồi sang sảng nói, không hiểu sao tự nhiên lại chuyển sang tiếng Ukraina mẹ đẻ của anh ta:

- Anh có hiểu thế này là thế nào không? Là tôi coi thường! Ý kiến tôi là như vậy! Bây giờ tôi có chút việc bận, xin chào anh thôi!

Đavưđốp cười khẩy.

- Tôi xem ra thì anh có cái lối tranh luận cũng kỳ lạ thật… Chẳng lẽ anh không đủ lời để nói hay sao mà phải giở quả đấm kiểu ấy ra với tôi, như một con mụ hàng tôm hàng cá vậy? Đó đâu phải là một lý lẽ, anh bạn ơi! Thế nào, có phải anh định buộc tôi vì cái chỗ cỏ khô khốn nạn kia mà phải kiện đến công tố uỷ viên hay sao?

- Anh muốn kiện đi đâu thì kiện, xin cứ việc! Công tố uỷ viên cũng được, huyện uỷ cũng được, còn cỏ khô thì tôi không trả lại và đất thì tôi cứ giữ, xin anh lưu ý cho điều đó, - Pôlianhítxa trở lại nói tiếng Nga, đáp.

Biết nói nữa thì cũng bằng vô ích, Đavưđốp đứng dậy, trầm ngâm nhìn chủ nhà:

- Đồng chí Pôlianhítxa ạ, tôi nhìn đồng chí và tôi cứ lấy làm lạ: đồng chí là một công nhân, một chiến sĩ bônsêvích, sao lại bị chìm nhập, lút đầu trong vũng bùn tiểu tư hữu nhanh chóng thế nhỉ? Lúc nãy anh khoe với tôi là anh cố giữ nguyên cái hình thức bề ngoài kiểu kulắc ấy, nhưng theo tôi, không phải anh chỉ giữ cái hình thức mà cả cái tâm địa kulắc nữa, thực tế thế! Nửa năm sống trong gian phòng này, anh đã tiêm nhiễm cái tâm địa kulắc ấy! Nếu anh sinh ra đời sớm hơn hai mươi năm trước, nhất định anh đã thành một tên kulắc chính cống trăm phần trăm, tôi nói thực với anh như thế!

Pôlianhítxa nhún vai, và đôi mắt sắc như dao của anh lại chìm xuống những nếp da mặt anh ta.

- Chẳng biết tôi có thành một tên kulắc hay không, nhưng anh, Đavưđốp ạ, anh lưu ý cho điều này là nhất định anh sẽ thành một cha cố, hoặc nếu không thì cầm chắc cũng là một lão thày cả nhà thờ.

- Sao lại thế? – Đavưđốp thực sự ngạc nhiên.

- Vì rằng anh là một lính thuỷ cũ, thế mà anh lại chìm ngập lút đầu trong mê tín dị đoan. Anh lưu ý cho rằng tôi mà là bí thư huyện uỷ thì anh đã phải đặt tấm thẻ Đảng của anh lên mặt bàn tôi vì những cái trò ấy của anh rồi.

- Trò nào? Anh nói gì vậy? – Đavưđốp sửng sốt quá rướn cả vai lên.

- Thôi anh đừng giả vờ giả vịt nữa! Anh thừa hiểu tôi nói gì rồi. Chi bộ chúng tôi ở đây dốc toàn lực ra đấu tranh chống tôn giáo, hai lần chúng tôi đã đưa ra hội nghị toàn nông trang và toàn ấp về vấn đề đóng cửa nhà thờ, còn anh thì làm cái gì? Anh làm cái việc chọc gậy bánh xe chúng tôi, anh làm cái trò ấy đấy, anh lưu ý cho điều đó!

- Hay lắm, anh nói tiếp đi! Tôi chọc gậy bánh xe các anh thế nào nhỉ?

- Thế nào à? – Pôlianhítxa đã phát cáu ra mặt, nói tiếp: - Các ngày chủ nhật, anh cho xe ngựa chở lũ mụ già đi sang bên tôi lễ nhà thờ, anh làm thế chứ thế nào! Anh lưu ý cho là các mẹ bên tôi thấy thế chỉ muốn nhảy xổ vào móc mắt tôi ra. Họ bảo “Anh là cái đồ quỷ quái, anh định đóng cửa nhà thờ chúng tôi để làm câu lạc bộ, anh hãy mở mắt ra mà nhìn ông chủ tịch bên Grêmiatsi kia kìa, ông ta rất là một sự kính trọng bà con đi đạo, thậm chí ngày lễ còn cho xe ngựa chở bà con đi nhà thờ nữa đấy”.

Đavưđốp bất giác cười phá lên:

- Ra là thế đấy! Tội mê tín dị đoan của tôi té ra là thế! Ồ, không có gì ghê gớm lắm đâu!

- Đối với anh có thể là không ghê gớm, nhưng anh lưu ý cho là đối với chúng tôi thì không còn gì tai hại hơn! – Pôlianhítxa nóng nảy nói tiếp: - Anh muốn lấy lòng nông trang viên của anh, muốn tỏ ra cho họ thấy là anh tốt, nhưng anh lại phá hoại công tác vận động chống tôn giáo của chúng tôi. Cộng sản thế mới đẹp mặt, khỏi nói! Anh buộc tội người ta đầu óc tiểu tư hữu, còn bản thân anh làm những trò gì thì có ma quỷ biết. Giác ngộ chính trị của anh để đâu rồi? Đâu là Đảng tính bônsêvích và tinh thần đấu tranh không điều hoà với tôn giáo của anh?

- Khoan đã, nhà tư tưởng ba hoa! Nói năng phải thận trọng tí chứ!... Anh bảo “muốn lấy lòng” là thế nào? Anh có biết tại sao tôi lại cho xe chở các mụ ấy đi không? Anh có biết tôi tính thế nào mà hành động thế không?

- Những sự tính toán của anh, thì tôi cứ nhổ toẹt vào! Anh muốn tính toán thế nào mặc anh, nhưng đừng phá sự tính toán của chúng tôi trong cuộc đấu tranh chống bọn thày tu. Muốn gì thì gì tôi cũng sẽ đặt vấn đề này ra trước ban thường vụ huyện uỷ, anh lưu ý cho điều đó.

- Thú thật với anh, anh Pôlianhítxa ạ, tôi cứ tưởng anh thông minh hơn kia, - Đavưđốp buồn rầu nói và bỏ đi ra, chẳng buồn chào.

--------------------------------
(*) Người đấu bò tót trong các ngày hội ở Tây Ban Nha. – ND.

(**) Lítvinốp: Bộ trưởng ngoại giao Liên Xô hồi đó. – ND.

(***) Tsembéclen: Bộ trưởng ngoại giao Anh. – ND.

CHƯƠNG XVI

Ngay trên đường trở về Grêmiatsi Lốc, Đavưđốp đã quyết định sẽ không đưa vấn đề bên Tubianxki chiếm đất và lấy trộm cỏ ra phòng tư pháp làm gì vội. Anh cũng không định kiện lên huyện uỷ. Trước hết cần phải làm sáng tỏ rõ ràng cái mảnh đất tranh chấp ở cuối cánh đồng Kim ngân trước kia thực tế thuộc về ai đã, rồi tuỳ theo kết quả điều tra ấy mà xác định nên hành động thế nào.

Nhớ lại cuộc trao đổi với Pôlianhítxa, Đavưđốp vẫn hậm hực trong lòng, và nghĩ bụng: “Chà, cái mê hoa và mê cảnh nhà cửa ấm cúng ấy khôn lỏi thật! Không thể nói hắn là người thông minh rất mực được, chuyện ấy rõ ràng khỏi nói, nhưng đúng là hắn ranh, cái lối ranh vặt của phần lớn những đứa ngu ngốc. Thằng ấy thì chớ có dại đưa ngón tay vào mồm hắn mà hắn nuốt chửng mất luôn cả cánh tay… Họ chở trộm cỏ tất nhiên là có sự đồng ý của hắn, nhưng vấn đề chính không phải chuyện cỏ, mà là chuyện cột mốc. Chẳng có lẽ hắn lại ra lệnh cho di chuyển cột mốc. Hắn chả dại mà làm thế đâu: mạo hiểm quá. Hay là hắn biết chuyện, nhưng nhắm mắt làm ngơ? Thế thì thật không ra cái chó gì! Nông trang thành lập mới vẻn vẹn nửa năm trời mà đã xoay ra đi chiếm đất hàng xóm và trộm cắp, thế thì làm hư hỏng nông trang viên đến tận xương tận tủy chứ còn gì? Thế có nghĩa là đẩy họ trở lại những lề thói cũ của cuộc sống cá thể: không từ một thủ đoạn nào, miễn là vơ vét được nhiều. Không, không thể để thế được! Mình mà xác minh được khoảnh đất ấy là thuộc chúng mình, mình sẽ phóng lên huyện ngay tắp lự, để các ông ấy cạo cho mình lẫn hắn một trận: mình, về chuyện hai mụ già kia, còn Pôlianhítxa, về chuyện dậy nông trang viên làm bậy”.

Nước kiệu nhong nhong của con ngựa như ru Đavưđốp thiu thiu ngủ gà, và qua màn sương mù nửa tỉnh nửa mê anh bỗng thấy nổi bật lên hình ảnh cái chị lao công to béo đứng trên bực thềm bên Tubianxki. Anh bĩu môi ghê tởm, trong đầu láng máng nghĩ: “Con mụ này thừa có biết bao nhiêu là mỡ, là thịt… Trời nóng bức thế này nó chắc phải mồ hôi mồ kê như tắm, thực tế thế!”. Và liền đó, dường như để anh dễ so sánh, cái trí nhớ quá ư mẫn cán của anh đã làm hiện lên trước mắt anh rõ mồm một cái dáng con gái thon thả của Luska, cái bước đi nhẹ tênh tênh của ả, và cái điệu bộ duyên dáng khó tả của ả khi ả đưa hai bàn tay xinh xắn lên vuốt lại mái tóc, kèm theo một cái liếc trộm tình tứ của đôi mắt giễu cợt, lọc lõi sự đời… Đavưđốp giật mình đánh thót, như bất thần bị ai xô. Anh ngồi thẳng người lên yên, nhăn mặt lại như bị đau lắm, rồi hầm hầm vung roi quất con ngựa, thúc cho nó phi nước đại…

Suốt những ngày này, cái trí nhớ tai ác của anh cứ chơi anh những vố đến khó chịu, vào những lúc thật là oái oăm: lần thì giữa lúc anh đang bàn bạc công tác, lần thì đang suy nghĩ, lần thì giữa giấc đang ngủ, nó lại làm hiện lên hình ảnh Luska, cái hình ảnh mà anh muốn quên đi nhưng chưa làm sao quên nổi…

Giữa trưa thì anh về đến Grêmiatsi. Ôxtơrốpnốp và lão kế toán đang sôi nổi nói với nhau chuyện gì, nhưng Đavưđốp vừa mới đẩy cửa thì trong phòng lắng bặt, như theo một hiệu lệnh.

Đường xa nóng bức, Đavưđốp thấm mệt, ngồi xuống bên bàn, hỏi:

- Các ông tranh luận cái gì vậy? Nagunốp có đến đây không?

Ôxtơrốpnốp liếc vội lão kế toán một cái rồi mới đáp:

- Không, anh Nagunốp không đến. Mà chúng tôi có tranh luận gì đâu, hả đồng chí Đavưđốp, đồng chí tưởng thế đấy thôi. Nói chung là chúng tôi chuyện trò linh tinh, chủ yếu là chuyện làm ăn. Thế nào, bên Tubianxki có trả lại ta cỏ không hả đồng chí?

- Họ còn yêu cầu cắt thêm nữa cho họ… Iakốp Lukits ạ, theo bác, khoảnh đồng ấy là thuộc ai?

Ôxtơrốpnốp nhún vai:

- Ai mà biết được! Chuyện này rắm rối lắm, đồng chí Đavưđốp ạ. Lúc đầu, đất ấy cắt sang cho bên Tubianxki, đấy là nói hồi trước cách mạng, nhưng dưới chính quyền xôviết thì phần trên của cánh đồng Kim ngân được phân cho ta. Lần quy hoạch cuối cùng, hồi năm hăm sáu, bên Tubianxki lại bị lấn thêm ít nữa, nhưng đường phân giới cụ thể là chỗ nào thì tôi chả rõ, vì ruộng tôi không ở phía ấy. Hai năm trước, Titốc đã ra đấy cắt cỏ. Hắn cứ cắt liều hay là hắn đã ngầm mua lại mảnh đất ấy của anh kiết xác nào thì tôi cũng chẳng rõ, chẳng biết nói thế nào. Nhưng có lẽ đơn giản nhất là cứ đi mời đồng chí Sportnôi, phụ trách địa chính huyện về. Đồng chí ấy cứ việc giở những bản đồ ngày xưa ra xem là biết ngay trước kia đường ranh giới chạy qua những quãng nào. Chính đồng chí ấy cũng là người chia lại đất hồi hăm sáu. Đồng chí ấy không biết thì chả còn ai biết?

Đavưđốp tươi tỉnh lên, vui vẻ xoa tay:

- Hay lắm! Đúng là Sportnôi hẳn phải biết đất ấy thuộc ai. Trước tôi cứ tưởng việc quy hoạch đất đai do một đội lưu động nào đó làm. Bác đi ngay đi, tìm bác Suka, bảo bác ấy đóng đôi ngựa giống vào xe lên huyện đón Sportnôi về đây. Để tôi viết cho anh ấy vài chữ.

Ôxtơrốpnốp đi ra, nhưng dăm phút sau lại trở lại, cười tủm trong hàng ria, và giơ ngón tay ra hiệu gọi Đavưđốp:

- Đồng chí vào kho cỏ đây mà xem, có cái này hay lắm…

Ngoài sân trụ sở, cũng như khắp nơi trong làng, là cái cảnh ắng lặng như tờ của buổi ban trưa, cái ắng lặng thường chỉ có trong những ngày hè oi ả nhất. Thoang thoảng mùi lá non héo nắng, và từ phía chuồng ngựa bay tới mùi phân ngựa khô. Và khi Đavưđốp bước tới nhà chứa cỏ thì xộc vào mũi anh mùi hương thơm gắt của lứa cỏ đang độ ra hoa, vừa mới cắt và mới khô tai tái, đến nỗi trong một khoảng khắc anh ngỡ mình đang đứng giữa thảo nguyên, bên một đụn cỏ thơm vừa mới đánh đống.

Iakốp Lukits thận trọng đẩy một bên cánh cửa, đứng lánh sang bên nhường bước cho Đavưđốp, hạ giọng nói nhỏ:

- Đồng chí nhìn mà xem đôi chim cu kìa! Có ai ngờ được là mới cách đây một tiếng chúng nó còn đánh nhau chí tử. Xem ra chỉ lúc ngủ khò chúng nó mới hoà được với nhau…

Thoạt đầu, mắt chưa quen với bóng tối, Đavưđốp chẳng trông thấy gì ngoài một tia nắng xuyên qua lỗ hổng trên mái đổ thẳng xuống chỏm đống cỏ chất lung tung giữa gian kho, rồi sau đó anh mới nhìn ra cái bóng bác Suka đang nằm ngủ trong đống cỏ với còn dê Tơrôphim cuộn tròn nằm bên.

- Suốt sáng hôm nay ông bố già cứ cầm roi đuổi theo con Tơrôphim lẵng nhẵng, thế mà bây giờ, đồng chí xem, lại ôm nhau nằm ngủ, - Iakốp Lukits, chẳng cần hạ giọng nữa, nói.

Thế là bác Suka tỉnh dậy. Nhưng bác chưa kịp chống tay nhỏm lên thì con Tơrôphim đã bật bốn cẳng như bốn cái lò xo nhảy tót từ trên đống cỏ xuống đất, cúi chúc đầu xuống và lắc lắc bộ râu dê với một vẻ hiếu chiến khiêu khích ra mặt.

- Đấy, bà con xem, khác gì quỷ sứ nhà giới chưa? – bác Suka lè nhè hỏi bằng một giọng yếu ớt, miệng nói, tay chỉ con Tơrôphim đang đứng ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. – Suốt đêm, nghĩa là từ xẩm tối đến sáng ngày, nó cứ tha thẩn trên đống cỏ, bới, hắt hơi, nghiến răng kèn kẹt. Nó không để cho lão chợp đi được một phút nào đâu, cái con trời đánh thánh vật ấy! Buổi sáng lão đã phải chiến đấu với nó biết bao trận chớ kể, thế mà bây giờ, rõ khéo chửa, ma quỷ lại xui khiến nó đến rúc vào nách lão mà ngủ. Và vừa mới đánh thức nó dậy, nó đã lại muốn gây sự đánh nhau rồi, cái quân phản Chúa! Thế thì bảo lão sống sao nổi với những sự hành hạ như vậy? Sự thể này nghe sặc mùi án mạng, hoặc là có ngày lão sẽ giải quyết đời nó, hoặc là nó sẽ húc lòi mạng mỡ lão ra, và thế là đi đời nhà ma bố già Suka! Tóm lại là với cái giống quỷ sứ có sừng này thì thế nào cũng xảy ra chuyện chẳng lành, và nhà này thế nào cũng có kẻ toi mạng…

Một cái roi hiện ra bất thần trong tay bác Suka, nhưng bác chưa kịp vung lên thì con Tơrôphim đã nhảy hai phát vào cái góc kho tối om, và đứng đó gõ móng cồm cộp với vẻ khiêu khích và giương đôi mắt xanh lè nhìn bác Suka. Bác đặt roi xuống cạnh, lắc đầu rầu rĩ:

- Đấy, nom cái giống sâu bọ ấy nó ba chân bốn cẳng có gớm không! Lão chỉ có nhờ cái roi mới thoát được nó, và chẳng phải lần nào cũng thoát được đâu, vì cái giống phản Chúa ấy, mả mẹ nó, nó cứ rình chơi mình vào những lúc mình chẳng ngờ tí nào! Bởi thế cho nên ngày đêm lão có dám rời cái roi ra đâu. Không còn làm sao quanh quéo được với cái con dê khỉ gió ấy! Cứ chỗ nào bất ngờ nhất là y như rằng nó hiện ra. Lấy xí dụ mới hôm qua đây thôi: hôm qua lão có việc đại tiện khẩn cấp, phải ra cái đống xa xa sau kho. Lão nhìn quanh: chả có dê diếc nào cả. Lão nghĩ bụng: “Tốt! Lạy Chúa, chắc là cái con quỷ sứ Tơrôphim ấy đang nằm mát ngủ khì chỗ nào đây, hoặc là mò đi đâu gặm cỏ rồi”. Lão yên trí lớn, đình huỳnh đi ra sau kho, nhưng tìm được chỗ kín vừa yên vị ngồi xuống thì mả mẹ nó, đã ở đâu dẫn xác đến, rón rén, rón rén tới gần, chúc sừng xuống, rồi lao đầu định húc cho lão một cái vào mạng mỡ. Thế là lão đành phải bật dậy… Lão cầm roi quật đuổi nó chạy, rồi vừa mới lại ngồi xuống thì nó đã lại từ góc nào xông ra… Nó cứ vậy, định mưu hại lão không biết đến bao nhiêu lần! Và thế là tịt mẹ nó cả mót! Sống thế thì sống làm sao nổi? Chân lão phong thấp, và lão cũng chẳng còn trẻ trung gì, hơi sức đâu mà đứng lên ngồi xuống hàng bao nhiêu lần, hệt như tập quân sự vậy. Kết quả là chân lão cứ run lẩy bẩy và ruột đau quặn ở ngang lưng. Cái con Tơrôphim ấy, có thể nói là nó, cướp của lão chút sức tàn còn lại, cho nên chẳng lấy gì làm lạ là có ngày lão sẽ chết bỏ xác bên hố xí cho mà xem! Trước kia lão có thể ngồi xổm thu lu như con đại bàng hàng nửa ngày giời ấy, nhưng bây giờ thì đành chỉ có nhờ ai xốc nách đỡ hộ cho thôi… Cái con Tơrôphim trời đánh thánh vật ấy đã đẩy lão đến cái nước khổ nhục thế đấy! Ối chao ôi!

Bác Suka giận dữ nhổ toẹt một bãi, rồi vừa sờ soạng lục bới cỏ vừa lẩm bẩm chửi rủa cái gì một hồi.

Đavưđốp cười, khuyên bác:

- Này bác ơi, bác nên sống văn minh một tí, vào nhà xí chứ ai lại phóng bậy sau kho thế bao giờ.

Bác Suka buồn bã nhìn anh, lắc tay thất vọng:

- Lão chịu thôi! Phần hồn lão không cho phép thế. Lão đâu phải dân thành thị. Cả đời lão chỉ quen tháo ruột ngoài giời, để cho có gió phe phẩy xung quanh mà, cái nghĩa nó là thế! Mùa đông, ngay cả những ngày đại hàn, cũng chả bảo được lão chui vào cái nhà xí của các anh. Nó nặng mùi quá quẳn, chỉ dòm vào lão cũng đã ngất, không khéo thì ngã quay lơ.

- Thế thì tôi cũng xin chịu, chả giúp gì bác được. Tuỳ bác xoay xở lấy. Còn bây giờ xin bác hãy đóng đôi ngựa vào xe, lên huyện tìm ông cán bộ trắc địa về đây. Chúng tôi đang cần đến ông ta ghê lắm. Bác Iakốp Lukits, bác biết nhà riêng Sportnôi chỗ nào không?

Không nghe thấy tiếng trả lời, Đavưđốp quay lại thì thấy Ôxtơrốpnốp đã biến đâu mất tăm: theo kinh nghiệm biết bác Suka nhúc nhắc được thì cũng còn lâu, lão ta đã ra chuồng ngựa đóng xe lấy.

- Lên huyện thì lão chỉ nháy mắt một cái là xong thôi, chuyện ấy đối với lão thì có thấm tháp gì, - bác Suka khẳng định. – Nhưng này, đồng chí Đavưđốp ơi, đồng chí hãy cắt nghĩa cho lão vấn đề này: duyên do làm sao mà tất cả những con vật nào xưa kia thuộc bọn kulắc, không trừ một con nào, đều giống tính chủ như đúc, nghĩa là độc địa kinh hồn và mưu mẹo thì không để đâu cho hết! Cứ tạm lấy cái con Tơrôphim bất nhân kia thôi: thử hỏi tại sao nó chả bao giờ chơi trò xỏ lá với, chậc, với Iakốp Lukits chẳng hạn, mà cứ độc nhè vào lão thôi? Đó là vì nó đánh hơi biết Iakốp Lukits là họ hàng máu mủ kulắc nhà nó, nó tránh không đụng đến, và cứ đầu lão mà trút tất cả cái xấu xa độc địa của nó.

Hoặc giả là ta lấy một con bò cái kilắc, con nào cũng được: có bao giờ nó lại cho chị vắt sữa của nông trang cũng nhiều sữa như cho con mẹ chủ kulắc yêu quý của nó xưa kia đâu. Chậc, kể ra nó cũng có lý của nó: cái con mụ chủ cho nó ăn củ cải đường này, nước vo này, hoa quả nọ kia này, còn chị vắt sữa nông trang ta thì chỉ quẳng cho nó một lượm cỏ khô không khốc để từ năm ngoái, rồi ngồi thiu thiu dưới cái vú nó, chờ sữa chảy. Hoặc giả ta lấy bất cứ cái con chó kulắc nào: tại sao mà nó chỉ xông vào người nghèo ăn mặc rách rưới? Nói xí dụ như lão đây chẳng hạn. Vấn đề quan trong đấy. Lão đã hỏi anh Maka về vấn đề này, và anh ấy bảo: “Đó là đấu tranh giai cấp”. Nhưng đấu tranh giai cấp là cái gì thì anh ấy chẳng giải thích, chỉ cười xoà rồi bỏ đi làm việc. Nhưng cái đấu tranh giai cấp ấy nó được tích sự khỉ gì cho lão, nếu như đi lại trong làng thấy con chó nào lão cũng cứ nơm nớp mắt trước mắt sau? Vì trên trán nó đâu có ghi rõ: con này là chó lương thiện, con kia là chó kulắc cũ? Thế nếu như nó là chó kulắc, kẻ thù giai cấp của lão, như anh Maka giải thích, thì lão phải làm thế nào? Tịch thu tài sản nó ư? Nói xí dụ như anh đây chẳng hạn, anh làm thế nào để tịch thu tài sản nó, nghĩa là tước sống của nó bộ lông? Có làm được cái chết tiệt! Nó sẽ xin khéo anh bộ da thì có. Nghĩa rằng là vấn đề rõ rành rành: cái tên kẻ thù giai cấp ấy, phải treo nó lên dây đã, rồi mới lột được lông nó. Có lần lão đã đưa ra cái đề nghị ấy với anh Maka, nhưng anh ta bảo: “Này, lão lẩm cẩm ơi, thế lão định treo cổ một nửa số chó trong làng ư?”. Nhưng giữa anh ta với lão, ai lẩm cẩm thì cũng chưa biết đâu, đó cũng là một vấn đề nữa. Theo lão, chính là Maka có tí lẩm cẩm, chứ không phải lão… Cửa hàng da thú có nhập da chó để chế biến không? Nhập chứ! Thế mà trên cả nước ta có bao nhiêu chó kulắc sống lang thang kiếp chó hoang vô chủ? Hàng triệu! Nếu giả dụ ta đem lột da tuốt, phần da đem thuộc, phần lông đem đan bít tất thì kết quả sẽ thế nào? Kết quả là một nửa nước Nga sẽ có ủng bóng lộn để đi, và những ai mang bít tất lông chó thì sẽ hết phong thấp cho đến mãn kiếp. Cái bài thuốc ấy lão nghe được của mồ ma bà nội lão cơ, và nếu anh muốn biết thì trên đời này không có phương thuốc nào thần hiệu bằng nó đâu. Và có gì mà phải nói lôi thôi nhỉ, chính lão đây đã khổ sở vì phong thấp, ấy thế mà chỉ có nhờ bít tất lông chó mà khỏi đấy. Không có bít tất lông chó thì lão đã đi ăn đất với giun từ lâu rồi.

- Này bác, thế bác định lên huyện hôm nay hay bao giờ? – Đavưđốp gặng hỏi.

- Tất nhiên là hôm nay, nhưng lão đang nói sao anh lại cứ cắt ngang, để yên lão nói tiếp cho mà nghe. Cái sáng kiến vĩ đại sử dụng da chó, lão nảy ra như thế này đây. Hai ngày hai đêm liền lão không chợp mắt, nghĩ nát óc xem lại cái sáng kiến vĩ đại của lão sẽ làm lợi cho nhà nước bao nhiêu tiền, và nhất là lão sẽ được bao nhiêu? Nếu lão không bị cái bệnh run tay, lão sẽ đích thân viết thư lên trung ương, nói anh biết thế, rồi thế nào lão cũng vớ được cái gì, cấp trên thế nào cũng có tí tỉnh gì cho lão, thưởng cái công lão đào sâu suy nghĩ. Thế rồi lão quyết định nói hết cho anh Maka nghe. Lão không phải là người tham mà. Lão đến, có gì trình bày cho anh ấy nghe hết, rồi bảo: “Anh Maka ạ, lão già rồi, chả thiết gì giàu sang danh vọng, lão chỉ muốn sao cho anh sung sướng suốt đời: anh hãy viết thư lên chính quyền trung ương trình bày sáng kiến của lão, thế nào anh cũng được gắn cái huân chương như các anh được gắn hồi chiến tranh ấy. À, mà nếu như thêm vào đó lại có món tiền thưởng nữa thì tất nhiên hai bác cháu mình sẽ chia nhau, mỗi người một nửa. Anh thích thì anh xin xỏ huân chương, còn lão thì chỉ cần vớ được món tiền đủ tậu con bò cái mới đẻ một lứa, hoặc con bò cái tơ thôi, lão cũng bằng lòng rồi”.

Kể như người khác ở vào địa vị anh ta thì sẽ cúi rạp đầu xuống đất mà cảm ơn lão. Nhưng cái anh Maka này cảm ơn người ta lạ lắm… Ôi, anh ta đang ngồi ghế thì nhảy cẫng lên, xỉa xói lão tối tăm mặt mũi: “Cái lão này càng già càng lẩm cẩm! Trên cổ lão không phải cái đầu mà là cái cà mèn rỗng!”. Và cứ mỗi câu lại một tiếng đồ này, đồ nọ, đồ kia, tới tấp con ruồi bay không lọt. Anh ta mà dám mở miệng chê lão lẩm cẩm! Thật là trứng đòi khôn hơn vịt! Miếng ngon đến miệng chẳng biết ăn, và lại còn đi ngăn người khác. Lão kệ, cứ ngồi, đợi cho anh ra quát chán mỏi mồm. Lão nghĩ bụng: “Cho anh ấy nhảy cẫng lên, trước sau anh cũng sẽ phải ngồi lại xuống chỗ anh vừa ngồi thôi”.

Quả y như rằng, quát chán mệt nhoài, cậu Maka nhà ta ngồi xuống, rồi hỏi lão: “Đủ chưa? Muốn nữa không?”. Thế là lão điên lên, mặc dầu lão đối với anh ta là chỗ bạn thân tình. Lão bảo: “Nếu anh mỏi mồm rồi thì nghỉ tí, rồi cứ việc tiếp tục. Lão chả bận gì, ngồi được. Có điều là, anh Maka ơi, anh chửi rủa lão thế là anh ngu. Lão muốn điều hay cho anh thôi. Cái sáng kiến ấy thì cứ gọi là báo chí toàn nước Nga này sẽ phải đăng tên anh!”. Thế là anh ta bỏ đi, đóng sập cửa lại, nhảy cẫng ra ngoài cứ như bị lão giội nước sôi vào đũng quần vậy!
Tối hôm ấy, lão đến gặp thầy giáo Spưn để hỏi ý kiến, vì dù sao ông ấy cũng là một người thông thái. Lão kể ông ta nghe đầu đuôi, lão phàn nàn với ông ta về anh Maka. Nhưng theo lão, các nhà thông thái đều có tí cám hấp cả, mà cũng chả phải một tí đâu! Anh biết ông ta bảo gì không? Ông ta cười ruồi, bảo: “Các vĩ nhân bao giờ cũng bị đời hắt hủi, bác cũng vậy, bác nên ráng chịu chờ xem”. Thế mà cũng gọi là động viên! Cái đồ ăn nói ba lăng nhăng chứ ông giáo gì lão ấy! Chờ thì còn nói chuyện làm quái gì nữa? Con bò cái trong tầm tay lão rồi, thế mà đến tí lông đuôi cũng chẳng xơ múi được.. và tất cả chỉ tại cái thằng Maka phản đối, trời hại hắn! Thế mà hắn dám tự xưng là bạn! Và cũng chính vì hắn mà lão tan cửa nát nhà… Lão đã trót khoe với bà lão ở nhà là Chúa có thể cho hai ông bà già mình con bò cái đấy, để thưởng công lão đào sâu suy nghĩ. Hoá ra là xôi hỏng bỏng không! Bây giờ bà ấy cứ đay nghiến lão: “Đâu, bò cái đâu? Chỉ được cái nói khoác thì không ai bằng!”. Thành thử là lão lại phải ráng chịu thêm đủ sự hành hạ của bà ấy nữa. Nếu các vĩ nhân đều phải ráng chịu cả, thì lão cũng đành vâng theo ý Chúa thôi…Cái sáng kiến rất chi là hay của lão rơi tõm như vậy đấy mà chẳng đem lại cho lão được tí gì cả… Nhưng biết làm thế nào? Không phải muốn gì được nấy…

Đavưđốp đứng tựa khung cửa cười rung lên không thành tiếng. Còn bác Suka thì nguôi nguôi đi được một chút, bắt đầu thủng thỉnh đi giày, và bây giờ thì không thèm để ý đến một tí gì nữa đến Đavưđốp, bác tiếp tục thao thao bất tuyệt:

- Trị bệnh phong thấp thì bít tất lông chó cứ gọi là thuôc tiên! Suốt mùa đông lão đi bít tất lông chó, không lúc nào rời nó ra, và mặc dù sang xuân chân lão có thum thủm, mặc dù bà ấy có bao nhiêu lần đuổi cổ lão ra đường vì cái mùi chó khắm thối, nhưng lão đã khỏi được cái bệnh phong thấp và suốt một tháng trời lão nhảy tưng tưng như chú gà sống choai quanh đàn gà mái vậy. Nhưng rồi thì có được cái tích sự gì không? Chả được tích sự gì cả! Bởi vì rằng là sang xuân lão nghĩ dớ dẩn thế nào mà lại đi rửa chân một cái. Thôi thế là công cốc, bệnh đâu lại hoàn đấy! Nhưng bây giờ lão không sợ cái bệnh ấy nữa, lão có cách trị nó rồi. Hễ gặp con chó xù nào lành lành là lão húi luôn lông, thế là hết ngay phong thấp, cứ như làm phép vậy? Lúc nãy đấy lão bò lê bò lết như thế nào anh thấy chứ gì? Chả khác nào con nghẽo già ních đầy bụng lúa đại mạch, nhưng cứ xỏ đôi bít tất chữa bệnh ấy vào chân là lão lại nhảy tưng tưng như hồi mười tám đôi mươi ngay. Chỉ khổ một nỗi là bà nhà lão không chịu xe lông chó đan bít tất cho lão. Ngửi thấy mùi lông chó là bà ấy hoa mắt váng đầu, ngồi vào xa quay là bà ấy lợm giọng. Thoạt đầu bà ấy nấc cứ ừng ực, rồi bà ấy nghẹn, rồi cuối cùng lục phủ ngũ tạng có cái gì thì nôn tháo ra hết như lộn cái bị. Thành thử, lạy Chúa, lão cũng chả ép bà ấy làm cái việc ấy. Lão tự tay giặt lông, tự tay phơi, tự tay xe sợi, và tự tay đan tất. Chú nó ạ, cái khó nó buộc mình, việc kinh tởm mấy cũng phải học mà làm… Nhưng như thế đâu đã phải là cực! Đấy mới là cực một nửa thôi, nói cực thì chính là ở chỗ bà nhà lão đúng là một con rắn mai hoa! Hồi năm kia, lão thấy đau ê ẩm trong ống chân. Làm thế nào được nhỉ? Và thế là lão nhớ đến bài thuốc bít tất lông chó. Rồi một buổi sáng, lão lấy bánh khô nhử ả chó cái bên hàng xóm vào nhà, rồi húi trụi luôn, khéo như một anh thợ cạo chính cống vậy. Lão chỉ để lại cho nó hai bên tai hai dúm lông, để cho đẹp mà, và một dúm ở cuối đuôi để nó xua ruồi. Nói thật khó tin, nhưng đúng là lão lấy của nó được đến nửa pút(*) lông!

Đavưđốp ôm mặt cười đến phát rên phát nghẹn:

- Thế có nhiều quá không?

Nhưng những câu hỏi hóc búa còn bằng mấy thế cũng chẳng bao giờ làm cho bác Suka cứng họng được. Bác khinh khỉnh nhún vai, rồi cũng vui lòng nhượng bộ với một thái độ đại lượng:

- Chậc, cũng có thể kem kém một tí, mươi, mười hai phuntơ(**) gì đó, lão cũng chả cân. Có điều là cái ả chó cái ấy, sao mà nó lại lắm lông thế, chả kém gì một con cừu giống Mêrinôx. Lão nghĩ là chỗ lông ấy của nó đủ cho lão có bít tất đi cho đến ngày mãn kiếp. Nhưng đâu có phải thế! Lão mới đan được có độc một đôi thì chỗ lông còn lại bị bà lão vớ mất, đem ra sân đốt sạch, không còn lấy một sợi. Không phải là một mụ già, mà là một con hổ cái! Về cái khoản xâm độc thì bà ấy chả có chịu thua con Tơrôphim ba lần trời đánh này tí nào đâu, bà ấy với nó là đầu mút, lạy Chúa, lão nói cấm ngoa đâu! Nói tóm lại là bà ấy đốt cháy sạch dự trữ lông chó của lão, làm lão hoàn toàn phá sản! Lão lại còn mất cho con chó ấy một bọc tướng bánh khô nữa chứ, để nó chịu đứng yên cho mình húi mà. Đấy, nó như thế đấy…

Lại nói chuyện con chó cái ấy, số nó thật không may! Lão húi cho nó xong, nó chạy đi, xem vẻ bằng lòng hể hả được lão trút đi hộ nó bao nhiêu lông thừa nhẹ xác nó. Nó lại còn ve vẩy cái đuôi có túm lông ở đầu mút ra vẻ mãn nguyện, rồi té chạy ra sông. Nhưng khi nó nhìn xuống sông thấy bóng mình dưới nước thì nó đâm ra xấu hổ kêu rống lên… Về sau lão nghe bà con nói nó cứ lang thang quanh quẩn bờ sông mãi: chẳng là nó thấy nhục quá, muốn tự vẫn mà. Nhưng cái sông ta đây thì con chim sẻ lội xuống chỉ đến đầu gối, mà cái ả chó cái kia lại không nghĩ ra chuyện nhảy xuống giếng. Nó đâu có đủ thông minh! Vả lại ta cũng không nên đòi hỏi nó nhiều quá. Dẫu sao nó cũng chỉ là con vật, có thể nói là một giống sâu bọ, nó khôn ngoan sao được bằng người…Nó chui vào kho thóc nhà hàng xóm lão, nằm đó mà rống ba ngày ba đêm liền, lão nghe thấy mà cứ nẫu ruột nẫu gan. Nó nằm lì đó, không ló mặt ra nữa, không muốn để ai thấy nó trong cái bộ dạng thểu não ấy. Thế rồi nó bỏ làng đi, không ai thấy bóng vía nó đâu cho đến tận mùa thu, rồi chỉ đến khi lông nó lại mọc ra, nó mới lại vác thân trở về nhà chủ. Cái con chó cái ấy hoá ra nó lại còn biết ngượng, hơn khối bà phụ nữ ta đấy, lão cấm nói điêu đâu, có Chúa chứng giám!

Từ đó lão quyết định: thảng hoặc có cần đến lông chó thì lão không sờ đến chó cái nữa, không tước của chúng bộ cánh che thân, khỏi đụng chạm đến cái tính đàn bà con gái cả thẹn của chúng nó. Lão sẽ chọn toàn lũ chó đực, lũ ấy thì còn biết ngượng là gì, cạo thế nào thì cạo, chúng nó cũng chẳng buồn vẫy tai đâu.

Đavưđốp ngắt lời bác:

- Chuyện sắp hết chưa bác? Bác phải đi mà. Nhanh lên tí chứ!

- Có ngay đây. Đi xong đôi giày là lão sẵn sàng thôi mà. Nhưng lạy Chúa, lão đang nói anh đừng có cắt ngang. Anh mà cứ cắt ngang là đầu óc lão sẽ rối tinh xoè, quên hết không biết đang nói chuyện gì cho mà xem. Vậy là lão đang nói với anh chuyện anh Maka: anh ấy coi lão là lẩm cẩm, thế là anh ấy lầm to! Đối với lão, anh ấy còn non choẹt, chưa đủ lông đủ cánh, nhưng lão, lão là con chim sẻ già biết hạt thóc nào lép hạt nào mẩy, anh ấy học lấy ít thông minh của lão cũng chẳng phải là thừa đâu. Chuyện nó là như vậy đấy.
Bác Suka đang giữa lúc lên cơn ba hoa xích đế. Bác ta đã “lên dây cót”, như Radơmiốtnốp thường nói, và bây giờ chặn bác lại không chỉ là chuyện khó, mà là chuyện hầu như không thể nào làm được. Đavưđốp xưa nay vẫn đối xử với ông lão có số phận hẩm hiu ấy với thái độ dễ dãi ân cần pha chút thương hại, lần này quyết định cắt đứt những lời dông dài của lão:

- Thôi, bác ơi, tôi nhắc cho bác nhớ là bác phải lên huyện đón đồng chí Sportnôi về, và việc ấy khẩn cấp đấy. Bác có biết anh ấy không?

- Lão lạ gì! Trên huyện không phải lão chỉ biết có đồng chí Sportnôi nhà anh, mà lão còn nhẵn mặt từng con chó.

- Về chó thì bác đúng là chuyên gia rồi, nhưng tôi cần đồng chí Sportnôi cơ, bác rõ chưa?

- Lão đã bảo anh là lão sẽ đưa anh ta về thì lão sẽ đưa về, và đúng giờ, như đưa cô dâu ra nhà thờ làm lễ cưới vậy. Nhưng anh đừng có cắt ngang lời lão. Anh Đavưđốp ạ, bây giờ anh lại đâm ra quá quẩn hơn cả anh Maka rồi, lạy Chúa! Cái anh Nagunốp ấy, ít ra anh ta cũng bắn chết được thằng Chimôphây, anh ta là một anh hùng kôdắc, anh ta có hay ngắt lời lão đi chăng nữa, lão vẫn kính trọng anh ấy. Còn anh thì có làm được cái gì anh hùng như thế không? Anh có cái gì mà lão phải kính trọng? Dứt khoát chẳng có cái gì cả! Anh cứ lấy thúng nục bắn chết cái con dê thổ tả nó làm cho lão không sống nổi kia đi thì từ nay đến chết lão sẽ cầu Chúa phù hộ cho anh, và sẽ kính trọng anh chả kém gì anh Maka. Còn anh Maka thì đúng là một anh hùng! Anh ta thông suốt các loại khoa học và nay thuộc tiếng Anh như cháo; cái gì anh ta cũng biết, chả kém gì lão đâu, thậm chí cả về cái môn nghe gà gáy anh ta cũng sành sỏi không ai bằng. Anh ta đã đuổi cổ con Luska đi, còn anh thì lại ngớ ngẩn mà đi tán tỉnh nó. Và cái thằng Chimôphây nguy hiểm kia, anh ta chỉ một phát là cho nó về chầu trời…

Đavưđốp không chịu nổi nữa, sốt ruột thốt lên:

- Thế nào, đi giày thì đi nhanh nhanh lên chứ!

Bác Suka miệng rên i ỉ trở mình trên đống cỏ khô, rồi làu bàu:

- Thì lão đang buộc giây giày đây, anh không thấy hay sao? Tối như hũ nút thế này thì quỷ sứ cũng không biết đường nào mà lần!

- Thì ra ngoài sáng kia!

- Ngồi đây buộc mãi rồi cũng phải xong. Ơ-ờ-ờ, lão bảo là cái anh Maka nhà ta anh ấy như vậy đấy. Anh ta không những học cho bản thân anh ấy tài giỏi, mà còn dạy lại cho lão nữa…

- Dạy những gì vậy? - Đavưđốp mỉm cười, hỏi.

- Các thứ khoa học, - bác Suka chỉ đáp lờ mờ thế. Rõ ràng bác không muốn đi sâu vào chi tiết, và nhắc lại với một vẻ miễn cưỡng: - lão bảo với anh là các thứ khoa học, anh có hiểu không? Bây giờ lão đã xâm nhập được cả tiếng ngoại quốc nữa cơ đấy. Ghê không?

- Tôi chả hiểu cái chết tiệt gì cả. Bác bảo tiếng ngoại quốc nào?

- Anh đã dốt đặc cán mai thế thì hỏi làm gì nữa, - bác Suka càu nhàu đã ra vẻ khó chịu, khịt khịt mũi công khai để lộ ra cái bực mình của mình trước những câu căn vặn dớ da dớ dẩn.

- Bác ạ, bác cần đến tiếng ngoại quốc cũng như người chết rồi cần đến lá thuốc cao vậy. - Đavưđốp vẫn tươi cười như thế, yêu cầu bác: - Nào, sửa soạn nhanh nhanh lên tí chứ!

Bác Suka phì ra như con mèo nổi cáu:

- Nhanh với lại chả nhảu! Cái khoản nhanh nhảu ấy thì chỉ cần cho ta khi ta bắt con bọ chét thôi, hoặc khi đêm hôm mò vào giường vợ người ta, rồi bị thằng chồng nó đuổi chạy, bám riết sau đít… Quái, cái roi đâu nhỉ, tay mình vừa mới cầm mà! Mới quanh đi quẩn lại mà nó đã bốc hơi đâu mất rồi? Mà roi không có thì chả còn dám đi đâu một bước vì cái con dê thổ tả kia… Đây rồi, lạy Chúa! Nhưng cái mũ của lão đâu nhỉ? Anh có thấy cái mũ của lão đâu không, hả anh Đavưđốp? Lão nằm ngủ còn gối đầu lên nó mà… Ôi, cái trí nhớ của lão bây giờ nó cứ như cái rây thủng… Đây, lạy Chúa, cái mũ của lão cũng tìm thấy đây rồi, bây giờ chỉ còn tìm cái áo dipun nữa là xong. Chà, cái con Tơrôphim quỷ tha ma bắt kia! Đánh cuộc là nó đã dúi cái áo của lão vào trong cỏ khô rồi, bây giờ có mà tìm đến đêm… À, lão nhớ ra rồi! Áo dipun lão để ở nhà… Mà nóng thế này thì cần gì đến áo dipun? Lão đem nó đến đây làm quái gì cơ chứ?

Đavưđốp đưa mắt nhìn ra cửa, thấy chiếc xe đã đóng ngựa có Ôxtơrốpnốp đứng bên đang buộc cương, mắt âu yếm nhìn đôi ngựa và miệng tỉ tê nói gì với chúng.

- Iakốp Lukits đã đóng xe rồi kia kìa, còn ông thì cứ dềnh dàng mãi! Bao giờ ông mới loay hoay xong, hả cái con rùa già?

Bác Suka văng luôn ra một hàng chửi rủa:

- Cái ngày phải gió này là không ra cái gì! Quả thật là chả nên xuất hành hôm nay. Toàn những điềm gở! Này đây nhá, anh thử nói lão nghe, lúc nãy thì tìm mãi mới thấy cãi mũ, bây giờ cái túi thuốc lá lại biến đâu mất rồi. Thế là lành ư? Có lành cái phải gió! Dọc đường thế nào cũng gặp chuyện rắc rối, chả thoát được… Thế có lạ không, lão mà không tìm thấy cái túi thuốc thì là bỏ mẹ đấy! Hay là con Tơrôphim lại nuốt chửng mất rồi! Chà, lạy Chúa, thế là cái túi thuốc lão cũng tìm thấy nốt, bây giờ thì lão có thể đi được rồi… Hay ta hoãn mai hẵng đi nhỉ? Vì điềm gở lắm… Mà trong kinh thánh, trong cái chương nào của thánh Mátphây ấy, lão quên mất rồi, chậc, chương nào thì chương, cần quái gì, nhưng đại để là có nói một câu cấm sai: "Nếu ngươi định xuất hành mà thấy điềm gở, thì hãy ở lại, ngồi tịt nhà, chớ ló mặt đi đâu". Thế bây giờ, đồng chí Đavưđốp ạ, đồng chí quyết định, và đồng chí chịu trách nhiệm: lão có nên đi bây giờ không?

- Đi, bác ạ, đi ngay bây giờ! - Đavưđốp nghiêm nghị ra lệnh.

Bác Suka thở dài đánh sượt một cái, nhưng không cãi lại. Bác trượt từ trên đống cỏ xuống, rồi lê chân lọm khọm, kéo cái roi lệt sệt sau lưng, và mắt lấm lét nhìn con dê đang nấp trong góc tối, bác lần ra cửa.

---------------------
(*)          Pút = 16,38kg. ND.

(**)        Phuntơ = 0,404kg. ND.

CHƯƠNG XVII

Chật vật lắm mới đẩy được bác Suka đi xong, Đavưđốp quyết định ra trường học để xác định tại chỗ xem có thể làm những gì nữa để đến chủ nhật này trường học có được cái không khí ngày hội. Ngoài ra anh còn muốn trao đổi với ông hiệu trưởng, cùng với ông ra ước tính xem cần bao nhiêu và những loại vật liệu xây dựng nào để sửa chữa ngôi trường; và đến bao giờ thì bắt đầu để vừa đảm bảo sửa chữa cẩn thận vừa không cập rập mà vẫn kịp trước lúc khai giảng.

Chỉ những ngày qua Đavưđốp mới có cái cảm giác rõ rệt mà anh đang bước vào một thời kỳ công tác căng thẳng nhất trong suốt cái thời gian anh về Grêmiatsi Lốc: chưa cắt xong cỏ thì đã sắp đến gặt; lúa tiểu mạch thu đang vàng trông thấy, đại mạch cũng chín rộ hầu như đồng thời; cỏ dại mọc tứ tung và những cánh đồng ngô và hướng dương, so với những mảnh ruộng cá thể ngày xưa thì nom thật bao la bát ngát, đang lặng lẽ đòi hỏi được dẫy cỏ vun gốc, và công việc thu hoạch lúa mì thì cũng đã sờ sờ trước mắt.

Từ nay cho đến gặt còn khối việc phải làm: chuyển vận cỏ khô về làng càng nhiều càng tốt, chuẩn bị sân đập, hoàn thành việc tập trung về một nơi các kho thóc của bọn kulắc cũ, sửa sang chiếc máy đập chạy bằng hơi nước độc nhất của nông trang. Ngoài ra còn một lô một lốc những việc lớn nhỏ nó đổ lên đầu Đavưđốp, và việc nào cũng co kéo bắt anh phải chú ý thường xuyên và chặt chẽ.

Đavưđốp bước lên mấy bậc thềm cũ kỹ ọp ẹp của cái hiên trường rộng thênh thang. Một con bé khoảng mười tuổi mũm mĩm tròn như củ khoai, chân đi đất, đang đứng ở cửa, lánh sang bên nhường lối anh đi.

- Cháu là học sinh phỏng? - Đavưđốp âu yếm hỏi.

- Vâng ạ, - con bé nhỏ nhẻ đáp và mạnh dạn ngước mắt lên nhìn Đavưđốp một cái nhìn từ dưới lên trên.

- Thầy hiệu trưởng của các cháu ở đâu?

- Thầy không có nhà ạ, thầy sang bên kia sông với cô, đi tưới bắp cải ạ.

- Chán quá nhỉ … thế trong trường có ai không?

- Có cô giáo chúng cháu, cô Liútmila Xergêyépna.

- Cô đang làm gì ở đấy?

Con bé tủm tỉm:

- Cô đang dạy thêm cho các bạn học kém. Ngày nào cơm chiều xong cô cũng dạy các bạn ấy ạ.

- Nghĩa là cô phụ đạo các bạn ấy hả?

Con bé im lặng gật đầu.

- Tốt lắm! - Đavưđốp tán thưởng và bước vào hành lang tối xâm xẩm.

Từ đâu đó trong lòng sâu của chiếc hành lang dài vọng lại những tiếng trẻ con. Đavưđốp lững thững đi ngang qua và đưa con mắt chủ nhân ông quan sát các phòng học bỏ không, và đến phòng cuối, nhìn qua cánh cửa hé mở, anh thấy khoảng mươi đứa nhỏ ngồi thênh thênh trên dãy bàn đầu kê nối liền nhau, và đứng trước mặt chúng là một cô giáo trẻ măng. Nhỏ người, gày gò, vai xuôi, mái tóc quăn vàng hoe và cắt ngắn, nom cô ta cứ như một đứa con gái mới lớn chứ không ra vẻ cô giáo.

Lâu lắm rồi Đavưđốp không bước qua ngưỡng cửa nhà trường và giờ đây, đứng trước cửa lớp học, chiếc mũ cát két bạc phếch vì nắng mưa nắm chặt trong bàn tay trái, anh thấy trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ. Một cái gì bắt nguồn từ tinh thần kính trọng lâu đời đối với nhà trường, một cảm giác bổi hổi bồi hồi êm ái trong chốc lát nhớ lại những năm tháng thơ ấu xa xôi, đã bừng dậy trong lòng anh vào những giây phút này…

Anh rụt rè đẩy cửa, húng hắng ho một tiếng mặc dầu trong họng chẳng ngứa tí nào, khẽ hỏi cô giáo:

- Cô cho phép vào?

- Xin mời vào, - một giong con gái thanh thanh đáp lại lời anh.

Cô giáo quay đầu lại, đôi lông mày ngạc nhiên rướn lên, nhưng rồi nhận ra Đavưđốp, cô lúng túng nói:

- Xin mời đồng chí vào.

Đavưđốp cúi chào ngượng ngập.

- Chào cô. Xin lỗi, tôi phiền cô một tí, một phút thôi ạ… Tôi muốn xem qua cái phòng này, tôi đến về chuyện sửa chữa trường. Nhưng tôi đợi tí cũng được.

Các em đứng dậy nhao nhao chào, và Đavưđốp nhìn cô giáo chợt nghĩ bụng: "Mình có vẻ cái ông nhà giàu nghiêm khắc làm cha đỡ đầu trường học… Đấy, cô giáo cũng đỏ mặt, cuống lên kia kìa. Rõ đến lúc nào chẳng đến, lại đến vào cái lúc này!".

Cô giáo bước tới trước Đavưđốp:

- Mời đồng chí vào, đồng chí Đavưđốp! Vài phút nữa là tôi dạy xong thôi. Mời đồng chí ngồi. Có cần đi gọi bác Ivan Nhikôlaêvits không ạ?

- Thưa, bác ấy là ai?

- Hiệu trưởng chúng tôi ấy mà, bác Ivan Nhikôlaêvits Spưn. Đồng chí không biết ư?

- Biết. Thôi khỏi phiền cô, tôi đợi cũng được. Tôi có thể ngồi đây trong khi cô giảng cho các em được không?

- Dạ được ạ, mời đồng chí cứ ngồi.

Cô gái nhìn Đavưđốp, nói chuyện với anh, nhưng không sao kìm nổi cơn bối rối; cô ta đỏ mặt lên một cách đau khổ, hai hõm vai cũng ửng hồng, còn tai thì chín rừ.

Đó là cái Đavưđốp không chịu nổi! Anh không chịu nổi chỉ vì một nỗi là hễ cứ thấy người phụ nữ nào nói chuyện với mình mà đỏ mặt thì không hiểu sao anh cũng đâm ra đỏ mặt, và vì thế mà càng thêm lúng túng ngượng nghịu.

Anh ngồi xuống chiếc ghế cô giáo chỉ cho anh, bên cái bàn nhỏ. Cô bước ra phía cửa sổ, cất giọng đọc rành rọt từng tiếng cho các em viết chính tả:

- Mẹ - nấu - bữa… Các em viết xong chưa? Nấu - bữa - cho - chúng - em - ăn. Sau chữ "ăn" chấm một cái. Cô đọc lại này…

Viết lại lần thứ hai câu ấy xong, bọn trẻ tò mò nhìn đổ dồn vào Đavưđốp. Anh làm bộ mặt quan trọng đưa ngón tay lên mép, ra vẻ như vuốt ria, và nháy mắt thân thiện với chúng. Chúng tủm tỉm cười; thế là quan hệ hữu nghị dường như đã đặt xong. Nhưng cô giáo lại đọc tiếp câu gì nữa, rành rọt từng tiếng như thường lệ, và bọn trẻ lại chúi đầu xuống vở.

Lớp học phảng phất mùi nắng, mùi bụi, mùi bí bí của căn phòng không thoáng khí. Những khóm tử dương và xiêm gai mọc chen chúc sát cửa sổ cũng không tạo nên cảm giác mát mẻ. Gió lay động cành lá, và những đốm nắng nhảy nhót trên ván sàn.

Đavưđốp nhíu đôi mày lại, tập trung tư tưởng, nhẩm tính: "Cần ít ra là hai mét khối gỗ ván thông thay vào những tấm mục. Khung cửa còn tốt, nhưng những cánh cửa đôi tháo ra hồi mùa xuân thì phải xem lại tình trạng nó thế nào, và có còn không nữa kia. Kính phải mua một hòm. Kho chắc cũng chẳng còn lấy một tấm, còn như bảo trẻ con đừng đập vỡ kính thì đó là chuyện không thể làm được, thực tế thế! Kiếm được tí sơn trắng thì tốt, và chả biết cần đến bao nhiêu để sơn đủ cho trần, các khung và cánh cửa? Hỏi lại cụ thể anh em thợ mộc. Thay mới lại mấy bậc thềm. Gỗ ván không cần mua: ngả hai cây liễu, xẻ ra là xong. Công việc sửa chữa sẽ ngốn khối tiền đây… Cái nhà kho củi cũng phải lợp rạ lại mới. Việc thế là đủ bù đầu rồi, thực tế thế! Xong mấy cái kho thóc là phải ném ngay vào đây toàn bộ đội mộc. Mái trường cũng phải sơn mới lại… Nhưng tiền đâu bây giờ? Chết thì chết, nhưng mình sẽ xoay ra tiền cho trường học! Thực tế thế! Mà cũng chẳng việc gì mà chết: ta sẽ bán một đôi bò già đi, tiền đấy chứ đâu! Bán bò thì thế nào cũng phải đấu đá một phen với Uỷ ban huyện, không thế không xong… Mà bán giấu thì mình sẽ khốn nạn… Mặc, cứ liệu. Lẽ nào Nextêrenkô lại không ủng hộ mình?".

Đavưđốp rút sổ tay ra, ghi: "Trường: ván, đinh, kính - một hòm. Bột sơn xanh cho mái. Bột sơn trắng. Dầu sơn…".

Anh đang đăm chiêu ghi chữ cuối cùng thì một viên giấy nhỏ từ một ống đồng nào bắn ra đập đánh bép một cái vào trán anh và dính chặt luôn vào đó. Đavưđốp bị bất ngờ, giật mình đánh thót một cái, và liền đó có tiếng một đứa trẻ nào bít miệng phì cười. Tiếng cười rúc rích lao xao lan đi các bàn học.

- Cái gì thế hả? - Cô giáo nghiêm nghị hỏi.

Đáp lại lời cô hỏi là một sự im lặng kín đáo.

Đavưđốp bóc viên giấy trên trán ra, mỉm cười đưa mắt lên quan sát lũ trẻ: những mái đầu tóc vàng, tóc nâu, tóc đen đang cúi gằm xuống vở, nhưng trong ngần ấy bàn tay nhỏ nhán rám nắng kia, chẳng bàn tay nào viết một chữ…

- Các em xong chưa? Bây giờ cô đọc viết tiếp câu sau…

Đavưđốp kiên nhẫn đợi, đôi mắt vui vui không rời khỏi những mái đầu đang cúi xuống. Và rồi một đứa trong bọn con trai từ từ trộm ngẩng đầu lên, và Đavưđốp nhận ra ở ngay phía trước mặt mình một anh bạn cũ: chẳng phải ai khác mà chính là thằng Phêđốt Usakốp mà hồi đầu xuân có lần anh đã gặp ngoài đồng, đang nhìn anh bằng đôi mắt híp tịt lại còn cái miệng đỏ chót thì cười ngoác ra đến tận mang tai. Đavưđốp nhìn bộ mặt láu tôm láu cá của thằng bé, và chính anh cũng xuýt phì cười ra tiếng, nhưng anh kịp nén được, rồi xé vội một tờ giấy trắng trong cuốn sổ tay, đút vào miệng nhai, mắt thì liếc vội cô giáo một cái rồi nhấm nháy ranh mãnh với thằng Phêđốt. Thằng bé giương tròn mắt nhìn anh, nhưng để khỏi lộ mình đang cười, nó đưa lòng bàn tay lên bịt miệng.

Tận hưởng cái khoái làm được thằng Phêđốt nhấp nhổm sốt ruột, Đavưđốp cứ thủng thỉnh vê vê kỹ viên giấy, đặt lên móng ngón cái của bàn tay trái, nheo nheo mắt trái lại như ngắm bắn. Thằng Phêđốt phồng má lên, sợ hãi rụt cổ lại: viên đạn to tổ bố, và nặng, chứ bỡn đâu… Chọn lúc thời cơ thuận lợi, Đavưđốp búng viên đạn đi. Thằng Phêđốt hụp vội xuống tránh và va trán đánh bốp một cái vào bàn. Rồi nó vội ngồi ngay ngắn lên, trố đôi mắt sợ hãi chằm chằm nhìn cô giáo, tay từ từ xoa cái trán đỏ ửng. Còn Đavưđốp thì nhịn cười người cứ rung lên bần bật. Anh quay mặt đi và theo thói quen úp hai bàn tay lên che mặt.

Dĩ nhiên hành động của anh là một trò trẻ con không thể tha thứ được, và cần hiểu rõ hiện anh đang ngồi ở đâu. Tự chủ được mình rồi, anh mỉm cười hối lỗi lấm lét nhìn cô giáo, nhưng thấy cô cũng đang cố nén cười, quay mặt ra phía cửa sổ. Đôi vai gầy của cô đang rung rung, còn một tay thì cầm chiếc mùi soa vo tròn đưa lên lau những giọt nước mắt trào ra vì cười.

Đavưđốp nghĩ bụng: "Đẹp mặt ông đỡ đầu nghiêm khắc chưa! Thế là mình đã phá quấy mất cả buổi học hôm nay. Phải chuồn đi thôi".

Đavưđốp làm vẻ mặt nghiêm trang đưa mắt nhìn thằng Phêđốt. Thằng bé ngó ngoáy như con choi choi, ngồi không yên chỗ; nó đưa tay chỉ lên miệng, rồi há mồm ra: ở chỗ hồi nào còn là cái lỗ hổng, thấy nhô ra hai chiếc răng bàn cuốc trắng hếu mọc chưa hết cỡ xen vào giữa hai hàng răng sữa, nom ngồ ngộ đến nỗi Đavưđốp không khỏi mỉm cười.

Nhìn những khuôn mặt trẻ thơ kia, nhìn những mái đầu đủ các màu tóc kia đang cắm cúi bên bàn, Đavưđốp cảm thấy trong lòng thư thái hẳn đi. Anh chợt thấy mình hồi nào, xa xưa lắm rồi, cũng giống hệt như thằng bé ngồi cạnh Phêđốt kia, cũng có cái thói khi viết hoặc vẽ, cứ cúi rạp đầu xuống và thè lè lưỡi, dường như cái lưỡi có thể đỡ mình trong công việc khó khăn ấy. Và một lần nữa, cũng như trong lần đầu tiên bắt quen với thằng Phêđốt hồi mùa xuân, anh thở dài nghĩ bụng: "Các con chim non ơi, đời các em rồi sẽ khá, và ngay bây giờ đây cũng đã khá rồi, nếu không thì anh chiến đấu để làm gì? Đâu phải để các em cũng lại bị trăm bề cay đắng như anh đây hồi nhỏ!".

Một lần nữa, cũng vẫn thằng Phêđốt ấy đã kéo anh ra khỏi dòng suy nghĩ: ngồi bên bàn, nó cứ múa may như con rối buộc Đavưđốp phải để ý đến nó, làm đủ điệu bộ để anh hiểu nó muốn biết tình hình cái răng của anh đến đâu rồi. Đavưđốp đón lúc cô giáo quay mặt đi, thất vọng giang hai tay, nhe răng cho nó xem. Thấy trong mồm Đavưđốp vẫn là cái răng sứt mà nó đã biết, Phêđốt rúc vào lòng bàn tay cười, nhưng sau đó nó tủm tỉm nom hài lòng ra mặt. Tất cả cái vẻ đắc ý của nó nói lên rõ hơn bất cứ lời lẽ nào: "Chú thua cháu rồi nhé! Răng cháu mọc lên rồi, còn chứ sứt vẫn hoàn sứt!".

Nhưng một phút sau đó đã xảy ra một chuyện mà mãi về sau này mỗi lần nghĩ đến, Đavưđốp không khỏi rùng mình. Một lần nữa thằng Phêđốt nghịch như ranh lại muốn Đavưđốp phải để ý đến nó. Nó gõ nhẹ xuống bàn, và khi Đavưđốp đưa mắt lơ đãng nhìn nó, nó ngửa người ra sau với một bộ dạng quan trọng, thò tay phải vào túi quần, rút ra một quả lựu đạn na, rồi đút vội lại ngay vào túi. Việc diễn ra nhanh quá đến nỗi lúc đầu Đavưđốp chỉ nheo mắt lại ngơ ngác, rồi sau đó mới tái mặt đi…

"Nó nhặt đâu thế nhỉ? Nhỡ còn kíp thì sao? Nó mà va vào ghế một cái… Trời, cha tiên nhân mày, làm thế nào bây giờ đây?!". Đavưđốp kinh hoàng nghĩ bụng, mắt nhắm nghiền, và không còn cảm thấy trán, cằm và má mình đang toát mồ hôi lạnh.

Phải xử lý thế nào đây ngay bây giờ. Nhưng xử lý thế nào? Đứng dậy, rồi đè nó ra mà lấy quả lựu đạn ư? Thế nhỡ nó hoảng lên, vùng vẫy, và rất có thể là ném quả lựu đạn đi, mà không biết rằng làm thế là nó tự giết nó và bao nhiêu người khác nữa… Không, thế không được. Đavưđốp gạt phăng ngay phương án ấy. Mắt vẫn nhắm, anh căng đầu óc ra tìm một giải pháp. Anh nghĩ rất lung, và trí tưởng tượng nhanh nhẩu của anh đã tự động phác ra trước mắt anh cái cảnh: một tiếng nổ toé lửa vàng, một tiếng kêu thét lên, những thân mình trẻ con thịt nát xương tan…

Đến bây giờ Đavưđốp mới cảm thấy mồ hôi hột trên trán anh đang từ từ lăn xuống hai bên gốc mũi, buồn buồn chảy vào đuôi mắt. Anh thò tay vào túi định lấy mùi soa và tay anh đụng vào con dao xếp, một tặng phẩm từ lâu lắm rồi của một anh bạn cũ. Đavưđốp loé ra một ý nghĩ: tay phải rút con dao ra, anh đưa ống tay áo trái lên lau mồ hôi lã chã trên trán rồi ngồi vân vê ngắm nghía con dao với một vẻ chăm chú đặc biệt, dường như mới nhìn thấy nó lần đầu. Trong khi đó mắt anh vẫn liếc theo dõi Phêđốt.

Con dao đã cũ, lưỡi mòn vẹt, nhưng được cái hai má xà cừ của nó cứ ánh biếc lên khi có nắng rọi vào,và ngoài hai lưỡi dao, cái tua-vít và cái mở nút chai ra lại có cả một cái kéo xinh xinh nom hay đáo để. Đavưđốp lần lượt biểu diễn các của báu ấy, mắt chốc chốc lại liếc vội theo dõi Phêđốt. Thằng bé nhìn con dao không rời mắt như bị thôi miên. Đó đâu phải một con dao, mà là cả một kho báu thật sự! Nó chưa từng thấy cái gì đẹp đến như thế! Nhưng đến khi Đavưđốp xé một tờ giấy trắng trong sổ tay ra, dùng cái kéo cắt luôn một hình đầu ngựa thì thằng Phêđốt cứ mê cu tơi lên!

Lát sau thì tan giờ học Đavưđốp bứớc tới chỗ Phêđốt thì thầm hỏi:

- Nom thấy con dao chưa?

Thằng Phêđốt nuốt nước bọt đánh ực, gật đầu chẳng nói chẳng rằng.

Đavưđốp ghé xuống, thì thầm:

- Đổi nào!

- Đổi cái gì cơ? - Thằng Phêđốt đáp lại, thì thầm còn nhỏ hơn anh.

- Đổi con dao lấy cục sắt trong túi quần cậu ấy.

Phêđốt gật đầu đồng ý một cách quá hăng hái đến nỗi Đavưđốp phải đưa tay giữ cằm nó lại. Anh dúi vào tay nó con dao và thận trọng đỡ lấy quả lựu đạn. Quả lựu đạn không có kíp! Đavưđốp đứng thẳng người lên, thở phào.

- Chú cháu có chuyện gì bí mật vậy? - Cô giáo đi ngang qua, mỉm cười hỏi.

- Chúng tôi là bạn quen biết cũ mà, lâu lắm chưa gặp nhau….Cô thứ lỗi cho, - Đavưđốp nói bằng giọng kính cẩn.

- Tôi rất sung sướng được đồng chí đến dự buổi học hôm nay. - Cô gái đỏ mặt nói.

Không để ý đến sự bối rối của cô, Đavưđốp đề nghị:

- Nhờ cô báo giùm đồng chí Spưn chiều nay đến gặp tôi ở trụ sở, và trước khi đến, đồng chí ấy hãy suy nghĩ xem trường cần sửa chữa những gì và dự trù chi phí cần bao nhiêu. Được không cô?

- Thưa được ạ, tôi sẽ báo đồng chí ấy. Mời đồng chí thỉnh thoảng ghé thăm trường chúng tôi.

- Vâng, rỗi rãi thế nào tôi cũng đến, thực tế thế! - Đavưđốp khẳng định dứt khoát, rồi hỏi tiếp theo luôn một câu nghe chẳng có liên quan gì với câu chuyện vừa nói: - Cô trọ ở nhà ai vậy?

- Nhà cụ Agphia Gavrilôpna. Anh biết bà cụ không?

- Biết. Còn gia đình cô thế nào?

- Còn bà cụ tôi và hai thằng em nhỏ, ở Nôvôtserkaxkơ. Nhưng đồng chí hỏi những cái ấy để làm gì?

- Tôi muốn biết qua về cô một tí, cô không cho là tôi thóc mách chuyện đời tư cô chú? - Đavưđốp nói đùa.

Ngoài thềm bọn trẻ đang vòng trong vòng ngoài xúm quanh Phêđốt xem con dao. Đavưđốp gọi ông chủ may mắn của con dao ấy ra một chỗ, hỏi:

- Ông nhỏ Phêđốt này, ông nhặt được cục sắt ấy ở đâu thế?

- Cháu chỉ cho chú nhớ?

- Thế thì tốt quá?

- Ta đi đi. Đi luôn bây giờ, không chốc nữa cháu bận, - Phêđốt khẩn trưong đề nghị.

Nó nắm lấy ngón tay trỏ của Đavưđốp và hãnh diện ra mặt được làm người dẫn đường cho đích thân ông chủ tịch nông trang chứ không phải một chú tầm xoàng nào khác, nó khệnh khạng bước trên đường cái, chốc chốc lại quay lại nhìn các bạn nhỏ.

Hai chú cháu cứ thong dong đi sóng đôi như vậy, thỉnh thoảng trao đổi với nhau một vài câu ngắn gọn.

- Chú có muốn đổi lại không? - Thằng Phêđốt chạy lên trước vài bước, lo ngại nhìn thẳng vào mắt Đavưđốp hỏi.

- Đổi lại là thế nào! Việc đã xong là xong, - Đavưđốp nói cho nó yên tâm.

Chú cháu đi với nhau dăm phút nữa trong một vẻ im lặng trầm ngâm, như hai người lớn, rồi Phêđốt không chịu nổi nữa lại dấn lên trước, tay vẫn không buông ngón tay Đavưđốp, và ngước mắt nhìn anh, hỏi bằng một giọng thông cảm: - Chú không tiếc con dao à? Đổi thế chú có xót không?

- Chả xót tí nào! - Đavưđốp đáp lại dứt khoát.

- Rồi lại lẳng lặng đi. Nhưng xem ra có cái gì cứ cắn rứt trái tim nhỏ bé của thằng Phêđốt thì phải, hình như nó cho rằng trong cuộc đổi chác này Đavưđốp bị thiệt, cho nên sau một hồi lâu im lặng, nó lại hỏi:

- Cháu các thêm cho chú cái súng cao su của cháu nhé? Chú lấy không?

Đavưđốp gạt phắt đi với một thái độ cao thượng thản nhiên mà thằng Phêđốt thấy khó hiểu quá:

- Không, chú lấy làm gì! Cháu cứ giữ lấy khẩu súng cao su mà chơi. Chúng mình đã trao đổi sòng phẳng chứ gì? Thực tế thế!

- "Sòng phẳng" là cái gì?

- Nghĩa là thoả thuận ấy mà, rõ chưa?

Không, Phêđốt thấy chẳng rõ gì cả. Một chú người lớn mà lại đổi hớ như thế thì làm cho Phêđốt ngạc nhiên hết sức, thậm chí làm nó cảnh giác nữa… Một con dao lịch sự, bóng nhoáng đổi lấy một cục sắt vớ vẩn, không, có cái gì đáng ngờ đây. Một lát sau, thằng Phêđốt có đầu óc thực tế ấy lại vừa đi vừa đưa ra một đề nghị mới:

- Thế, chú không thích súng cao su thì hay là cháu đưa cho chú cái vỏ ốc nhớ? Thêm cho chú ấy mà. Vỏ ốc của cháu ác lắm nhớ! Mới toanh cơ!

- Vỏ ốc chú cũng chả cần, - Đavưđốp thở dài một cái, mỉm cười đáp. - Nếu là hai mươi năm có lẻ về trước thì vỏ ốc chú cũng chả từ chối đâu, cháu ạ. Chú sẽ đè cháu ra mà lấy nữa ấy chứ. Nhưng bây giờ thì cháu cứ yên tâm. Ông Phêđốt ơi, ông đừng lo, con dao ấy đứt đuôi con nòng nọc là của ông rồi, thực tế thế!

Rồi lại im lặng. Và vài phút sau lại một câu hỏi nữa:

- Chú ơi, thế cái cục tròn tròn cháu cho chú ấy mà, nó ở cái gì ra thế hả? Ở cái quạt hòm phải không?

- Cháu thấy nó ở đâu?

- Ở cái kho cỏ ta đang đi đến đây, dưới gầm cái quạt hòm. Cái quạt hòm cũ ơi là cũ, nằm đổ nghiêng, bục tứ tung, dưới gầm có cái cục ấy. Chúng cháu chơi ú tim, cháu chui xuống gầm nó trốn, thấy cục ấy. Thế là cháu nhặt.

- Vậy thì nó là một bộ phận của cái quạt hòm. Thế quanh đấy cháu có thấy cái gì nom như cái que sắt không?

- Không, không có gì nữa cả.

"Phúc tổ! - Đavưđốp nghĩ bụng. - Phúc tổ là không có gì, chứ nếu có thì mày đã gây ra những chuyện kinh thiên động địa khổ các bố rồi".

- Thế cái bộ phận quạt hòm ấy, chú cần lắm hả? - Thằng Phêđốt thắc mắc hỏi.

- Cần quá đi chứ!

- Cần cho nông trang hả? Lắp vào cái quạt khác à?

- Đúng, thực tế thế!

Im lặng một lát, rồi Phêđốt nghiêm trang nói giọng trầm:

- À, nếu là chuyện cần cho nông trang thì đúng là là không xót, chú đổi thế là phải rồi, còn dao thì chú sẽ mua con mới, lo gì!

Thằng Phêđốt lý sự ông cụ non đi đến kết luận như vậy, và nó yên tâm mỉm cười. Rõ ràng bụng dạ nó đã thoải mái.

Đó, hai chú cháu đi đường nói chuyện đầu đuôi chỉ có thế, nhưng câu chuyện ấy là cần để kết thúc mỹ mãn cuộc đổi chác giữa hai người…

Bây giờ thì Đavưđốp đã biết chính xác trăm phần trăm là thằng Phêđốt sẽ dẫn anh đến đâu. Và khi phía bên trái đường ngõ hiện ra khóm nhà nguyên là cơ ngơi lão bố thằng Chimôphây Mũi toác, Đavưđốp liền trỏ vào cái nhà kho lợp cói, hỏi:

- Ở đó phải không?

- Chú đoán tài thật. - Phêđốt thốt lên phục lăn và buông ngón tay Đavưđốp nó đang nắm ra. - Thôi, bây giờ chú đi một mình được rồi, cháu chuồn đây, cháu đang bận lắm!

Đavưđốp lắc lắc bàn tay bé nhỏ của thằng bé, như bắt tay một người lớn, nói:

- Phêđốt ạ, cám ơn cháu đã chỉ cho chú. Thỉnh thoảng đến chơi chú nhá, chú nhớ cháu lắm. Chú sống có một mình…

- Được, hôm nào cháu sẽ đến, - Phêđốt hứa bằng một giọng kẻ cả.

Nó đằng sau quay, đưa hai ngón tay lên mồm theo kiểu dân anh chị huýt lên một tiêng, chắc là để gọi lũ bạn nó, rồi ù té chạy, nhanh đến nỗi qua lớp bụi mù chỉ còn trông thấy loang loáng hai cái gót chân đen đen bé nhỏ của nó.

Đavưđốp không rẽ vào khu nhà Đamaxkốp mà đi thẳng về trụ sở. Trong gian phòng xâm xẩm tối nơi ban quản trị thường họp, Iakốp Lukits và anh chàng thủ kho đang ngồi đánh cờ với nhau. Đavưđốp ngồi vào bàn, viết lên một trang sổ tay: "Ông quản lý I. L. Ôxtơrốpnốp. Giao cho cô giáo L.X. Egôrôva 32 kilô bột mì, 8 kilô kê và 5 kilô mỡ lợn, tất cả trích vào tiêu chuẩn tôi". Ký xong, Đavưđốp chống nắm tay lên cái cằm bạnh, ngồi trầm ngâm một lát, rồi hỏi Ôxtơrốpnốp:

- Cái cô giáo, cô Liútmila Egôrôva ấy mà, cô ta sống thế nào nhỉ?

- Bánh mì suông ạ. - Ôxtơrốpnốp tay đi nước cờ, miệng đáp gọn.

- Tôi vừa ở trường học về, tôi đến để xem cái việc sửa chữa trường, tôi có nhìn cô ấy… Gầy nhom, xanh như tàu lá, rõ ràng là thiếu ăn! Ông chuyển ngay hôm nay cho bà chủ nhà cô ấy trọ tất cả những thứ tôi ghi ở đây. Mai tôi sẽ kiểm tra. Rõ chưa?

Để lại tờ giấy trên bàn, Đavưđốp đi thẳng đến chỗ bác Salưi.

* * *

Anh vừa đi khỏi thì Iakốp Lukits xoá bàn cờ đi, đưa tay chỉ hất qua vai ra phía cửa:

- Chó dái ghê không! Đầu tiên là con Luska vợ Nagunốp, rồi thì anh ta làm cho con Varia Kharlamôva chết mê chết mệt, bây giờ lại chạy sang cô giáo. Và tất cả các con chó cái của anh ta, anh ta đều bắt nông trang è cổ ra nuôi… Anh ta làm nông trang sạt nghiệp vì phải nuôi gái cho anh ta.

- Anh ấy có lệnh phát cho con Kharlamôva cái gì đâu, còn cô giáo thì ăn vào tiêu chuẩn của anh ấy đấy chứ. - Anh chàng thủ kho cãi lại.

Nhưng Iakốp Lukits trịnh thượng cười mỉm:

- Con Varia thì chắc là anh chàng cho tiền, còn những thứ cho cô giáo thì nông trang phải chịu. Và con Luska thì theo lệnh mật của anh ta tôi đây đã phải tuồn cho nó biết bao nhiêu là lương thực, thực phẩm! Nó là thế đấy!

Kể cho đến ngày thằng Chimôphây bị bắn chết, Iakốp Lukits đã tiếp tế cho nó và Luska vô khối lương thực lấy ở kho nông trang ra, nhưng lão lại nói với thủ kho:

- Đavưđốp ra lệnh gắt gao cho tôi là con bồ Luska của anh ta đòi hỏi những gì thì phải phát cho đủ, và lại còn doạ: "Tôi báo ông biết, ông và cậu thủ kho mà bép xép một câu thôi thì sẽ không thoát được Xibia với tôi đâu!". Thế thì anh bạn ơi, xin anh bạn cứ việc câm cái mõm đi, và đưa mỡ, đưa mật, đưa bột đây, không phải cân kẹo gì cả. Việc phê phán đánh giá cấp trên đâu phải việc của cái thứ anh và tôi!

Và anh chàng thủ kho đã xuất cho Ôxtơrốpnốp tất cả những thứ gì lão đòi lấy, và theo lời lão khuyên, anh ta đã khéo léo cân ăn gian cho các đội để khỏi lộ chỗ lương thực hao hụt ấy.

Vậy thì lần này tại sao Iakốp Lukits lại không vớ lấy cơ hội thuận lợi để bôi nhọ Đavưđốp một chuyến nữa?

Ngồi buồn rỗi hơi, Ôxtơrốpnốp và anh chàng thủ kho còn "bôi bác" cả Đavưđốp, Nagunốp lẫn Radơmiốtnốp hồi lâu nữa.

Trong khi đó thì Đavưđốp và bác Salưi bắt tay vào hành động: để cho bên trong nhà kho của lão Phrôn Mũi toác sáng sáng được hơn một tí, Đavưđốp trèo lên mái lấy cào cào rơm ra cho hổng một lỗ. Cào xong, anh hỏi:

- Thế nào, ông lão ơi, nhìn đã rõ chưa?

- Đủ rồi, đừng dỡ mái nữa! Sáng như ngoài sân rồi. - Tiếng bác Salưi từ trong nhà kho vọng lên đáp.

Đavưđốp bước mấy bước trên cái xà ngang rồi nhảy tót xuống mặt đất mềm mục ải.

- Ta bắt đầu từ đâu, bác?

- Nhảy múa thì bao giờ cũng nhảy từ giữa phòng nhảy đi, còn cánh ta lục soát thì phải soát từ cái tường này soát đi, - bác phó rèn ồm ồm nói.

Tay cầm hai cái thuốn sắt to, đầu nhọn hoắt, vừa rèn vội ở lò ra xong, họ song song đi lần theo bức tường, vừa đi vừa thuốn thật lực xuống đất, từ từ tiến về phía cái quạt hòm đặt phía bờ tường bên kia. Đến cách cái quạt hòm mấy bước, thuốn của Đavưđốp bỗng thụt hẫng xuống đất đến tận gần chuôi và va vào kim loại kêu đánh cạch một tiếng.

- Cái kho tàng bí mật của anh đây rồi! - Bác Salưi cười khẩy và vớ lấy cái xẻng.

Nhưng Đavưđốp tranh lấy:

- Để tôi đào, tôi trẻ hơn bác.

Ở độ sâu một mét, anh đào thấy một cái bọc to tướng. Hai người đấu sức vào lôi cái bọc dưới hố lên, lẳng lặng cởi dây, rồi lẳng lặng đưa mắt nhìn nhau: đó là một khẩu đại liên Maxim bọc kỹ trong một tấm vải sơn. Họ lẳng lặng châm thuốc hút.

Rít hai hơi rồi bác Salưi lên tiếng:

- Cha con cái thằng Mũi toác này định nắn gân Chính quyền xôviết thực đấy chứ không bỡn đâu…

- Mà bác xem, chúng nó giữ khẩu súng giỏi thật đấy chứ: không một vết rỉ, không một vết va vấp, chỉ việc lắp băng vào là chơi luôn! Nào, tránh ra tôi nhảy xuống, may ra tìm được thêm cái gì nữa…

Nửa giờ sau, Đavưđốp thận trọng đặt rải quanh miệng hố bốn cuộn băng đại liên, một khẩu súng trường, một hòm đạn súng trường dùng dở và tám quả lựu đạn có đủ kíp, bọc trong một mảnh vải sơn đã mục. Trong hố, ăn ngoàm ra dưới chân bức tường đá còn có một bao súng không, tự tạo. Theo kích thước của nó thì trước đây nó dùng để bọc một khẩu súng trường.

Đavưđốp và bác Salưi ngồi trong gian lò rèn cho đến lúc mặt trời lặn, tháo khẩu súng máy ra, lau chùi cẩn thận, cho ăn dầu mỡ. Rồi trong bóng tối xâm xẩm, trong cảnh tịch mịch êm đềm của buổi hoàng hôn đang trùm xuống Grêmiatsi Lốc, khẩu đại liên lên tiếng, một tiếng nói đổ hồi, chinh chiến, đầy đe doạ. Một loạt dài, hai loạt ngắn, và một loạt dài nữa. Rồi im lặng lại trùm lên thôn xóm, lên thảo nguyên đang nghỉ ngơi sau một ngày nóng nực, lên thảo nguyên thơm ngát mùi cỏ héo, mùi hương đất đen dãi nắng.

Đavưđốp rời tay súng đứng dậy, nói nhỏ:

- Súng tốt thật đấy! Hết ý!

Đáp lại lời anh, bác Salưi cất giọng ồm ồm ống lệnh giận dữ nói:

- Bây giờ phải sang nhà lão Ôxtơrốpnốp, mang thuốn sang, xới tung cả sân trước sân sau, vuờn trong vườn ngoài nó lên. Còn trong nhà thì lộn tùng phèo tất cả lên mà lục soát. Gượng nhẹ với hắn thế là đủ rồi!

- Ông già ơi, ông điên rồi! - Đavưđốp đáp, lạnh như tiền. - Ai cho phép chúng ta tự tiện tiến hành lục soát nhà dân, làm xáo động cả nông trang? Không, ông điên rồi, thực tế thế!

- Nếu ở nhà thằng Mũi toác ta đã tìm thấy một khẩu súng máy thì ở nhà thằng Ôxtơrốpnốp tất sẽ đào được một khẩu bảy nhăm li chôn ở một nơi nào đó trong kho cỏ của nó! Và không phải lão điên đâu, mà anh là một thằng ngốc, lão cứ nói toạc móng heo với anh như thế! Anh cứ đợi đến lúc thằng Iakốp Lukits nó đào khẩu đại bác của nó lên, nó nã cả vào buồng anh, lúc ấy anh tha hồ mà "thực tế thế!".

Đavưđốp cười phá, muốn ôm hôn ông lão, nhưng ông lão quay phắt đi, nhổ toẹt một bãi, rồi chẳng thèm chào, lừng lững bỏ về làng, miệng lẩm bẩm chửi rủa.

CHƯƠNG XVIII

Ít lâu nay, - vả lại xưa nay bao giờ chẳng thế - bác Suka quả thực không may tí nào. Nhưng riêng cái ngày hôm nay thì dù là chuyện to hay chuyện nhỏ bác toàn gặp những chuyện xúi quẩy, tai vạ nữa là khác, đến nỗi về cuối ngày, chán đời trước một lô xúc xích những tai bay vạ gió nó trút xuống đầu bác, bác đâm ra càng mê tín hơn bao giờ hết… Không, lẽ ra bác không nên hấp tấp nhận lời Đavưđốp mà đánh xe lên phố như thế, khi mà sáng nay đã có những điềm rõ ràng là gở…

Lái xe từ sân trụ sở ra, bác Suka cho ngựa lững thững bước một qua được đúng hai phố ngang thì dừng xe lại giữa đường, và cứ ngồi nguyên trên xe như thế, bác ủ rũ cúi đầu, tư lự… Quả là bác có điều phải trầm ngâm suy nghĩ: "Lúc sắp sáng mình nằm mê thấy một con sói đen lang trắng nó đuổi theo mình. Tại sao lại là một con lang? Và tại sao nó lại nhè mình mà đuổi? Cứ làm như ngoài mình ra thì trần gian không có lấy một người nào khác nữa vậy! Ấy giá như là nó đuổi theo một anh nào trẻ trẻ một tí, chân cẳng khoẻ, còn mình cứ đứng ngoài mà nhìn thì cũng hay đấy, nhưng cái số mình là ngay cả nằm mê cũng cứ phải è cổ ra ăn đòn thay cho xiên hạ! Và những cái trò ấy đối với mình thật là chả được cái tích sự gì cả. Tỉnh dậy tim cứ đập thình thình, chỉ chực nhảy ra ngoài, nằm mê thế thì sướng cái nỗi gì, tiên sư nó! Vả lại còn cái nỗi là tại sao con sói ấy lại đen lang trắng, mà không xám như mọi con sói khác? May mắn gì cái chuyện ấy! Rành rành là chẳng may mắn gì cả. Điềm gỡ toét đi rồi, thành thử đi hôm nay thế nào cũng gặp chuyện thối tha gì đây, không thoát được. Và thực tế thì thế nào? Tìm mãi không thấy cái mũ, rồi lại đến cái túi thuốc, rồi lại đến cái áo dipun… Những cái đó là điềm gở hết sức… Lẽ ra mình không nên nghe Đavưđốp, không đi đâu sất!". Bác Suka buồn rầu nghĩ như vậy và lơ đãng nhìn con đường làng vắng tanh vắng ngắt, nhìn những con bê lông đủ màu đang nằm ẩn trong bóng râm các hàng rào, nhìn đám chim sẻ đang quần nhau trên mặt đường bụi bậm.

Bác đã dứt khoát có ý định quay trở về, nhưng chợt nhớ lại một cuộc va chạm mới đây với Đavưđốp, bèn thay đổi ý định. Lần ấy, cũng y hệt hôm nay đây, gặp những điềm gở đáng ngại, bác đã từ chối phắt, không chịu đi xuống đội một, vin cớ là đêm qua chiêm bao thấy một cơn mộng dữ. Và thế là đôi mắt Đavưđốp thường ngày hiền thế, dịu dàng nữa là khác, bỗng tối sầm lại, nom lạnh và sắc như gai. Bác Suka phát hoảng lên, chớp chớp mắt van lơn nói: "Anh Xêmiôn đáng thương ơi! Anh hãy bỏ những cái gai kia trong mắt anh đi! Mắt anh tự nhiên sao nom dữ và sắc như mắt con chó xích vậy! Mà anh biết rồi đấy, lão là chúa ghét cái giống sâu bọ ghê tởm ấy mà thường bị người ta xích lại và hay xồ vào cắn những người tử tế. Hai chúng mình lủng củng với nhau làm quái gì nhỉ? Nào, đi thì đi, nếu như anh đã cương quyết chống lại như thế. Có điều là nếu dọc đường gặp phải chuyện gì thì lão không chịu trách nhiệm đâu đấy!".

Đavưđốp nghe bác nói xong, cười ha hả, và lập tức đôi mắt anh lại trở lại như cũ, hiền và hóm hỉnh. Anh đưa đôi bàn tay nặng như cái cùm vỗ vào tấm lưng khô ngẳng và kêu bồm bộp của bác Suka và nói: "Thế mới gọi là biết ăn nói chứ, thực tế thế! Ta đi thôi, ông ơi, tôi xin đảm bảo sẽ trả lại ông nguyên xi cho bà lão, còn về tôi thì ông khỏi lo".

Nhớ lại chuyện ấy, bác Suka nhoẻn miệng cười, không do dự gì nữa giật cương thúc ngựa chạy: "Nào, lên huyện! Thây cha mấy cái điềm gở ấy, và nếu xảy ra chuyện gì thì mặc cho Đavưđốp chịu trách nhiệm. Chứ lão thì chả dại gì mà lại đi nhận trách nhiệm về những chuyện thối tha lão có thể gặp phải dọc đường! Vả lại anh Đavưđốp đối với mình cũng tốt, chả nên làm cho anh ta bực mình".

Sau bữa nấu ăn sáng, những bếp lò vẫn còn toả lên trên xóm làng một làn khói hăng hắc của than lửa phân khô; gió nhẹ lùa đi trên đường mùi hương lờn lợt của cây rau lê đang độ ra hoa và từ trong chuồng bò mà bác Suka lái xe đi qua phả ra cái mùi phân bò lẫn với mùi sữa tươi mà bác Suka đã quen lắm từ thuở còn bé tí. Hấp háy đôi mắt cận thị, bác Suka quen tay vuốt vuốt bộ râu dê rối bù, đưa mắt vòng quanh ngắm nhìn quang cảnh mộc mạc của thôn xóm biết bao thân tình đối với bác; một lần bác rũ cơn uể oải, thậm chí còn vung roi xua cái bọn chim sẻ đang quẩn dưới bánh xe bác mà ẩu nhau chí choé bậy. Nhưng khi xe đi qua cửa nhà Anchíp Gráts thì có cái mùi bánh mì mới nướng, cái mùi cháy sém rất hấp dẫn của lá bắp cải mà các bà nội trợ Grêmiatsi thường lót bánh đặt vào lò, xộc vào mũi lão. Và đến lúc ấy bác mới sực nhớ ra rằng từ trưa hôm qua bác chưa có miếng gì lót bụng. Bác cảm thấy đói cào đói cấu đến nỗi nước bọt lập tức ứa ra đầy cái miệng trụi hết răng của bác và dạ dày bác đau quặn. Quay ngắt vào cái ngõ, bác đánh xe trở về nhà, định bụng kiếm cái gì lót dạ đã rồi mới lên huyện. Từ xa bác đã để ý thấy ống khói nhà bác chả có tí khói nào toả ra; và mìm cười hể hả, bác nghĩ bụng: "Bà lão nhà mình đã bếp núc xong rồi rồi đây, bây giờ chắc đang kềnh cang nằm nghỉ. Từ ngày về ở với lão, bà ấy sống thật cứ như bà quận chúa vậy, vô lo vô nghĩ…".

Bác Suka chả cần phải cái gì nhiều nhặn lắm để có thể chuyển ngay tắp lự từ một tâm trạng buồn rầu chán ngán sang một trạng thái phấn khởi hể hả. Cái tinh thần bác vẫn bồng bột như tính trẻ con thế đấy. Hững hờ lắc lắc dây cương, bác lại miên man nghĩ: "Nhưng nhờ đâu mà bà ấy lại có thể sống như con chim trời thế được? Rõ ràng là nhờ lão! Hồi mùa đông lão thịt con bò cái tơ thật là đúng quá, lạy Chúa chứng giám, rất chi là đúng! Bây giờ bò chẳng còn nữa, bà nhà lão tha hồ vung vinh nhàn nhã! Bếp núc xong là kềnh cang luôn. Chứ nếu không thì con bò cái tơ đã thành bò sữa, và xin mời bà cứ dậy cho từ bảnh mắt, đâm đầu vào vắt sữa cái con khốn kiếp ấy, rồi dắt nó đi nhập đàn, nhưng đến trưa nó động cỡn lên, rồi bị mòng cắn nó lại lẻn về nhà, và thế là lại phải dắt nó đi. Rồi lại phải lo cái ăn cho nó mùa đông, rồi lại phải cọ cho nó cái chuồng, rồi lại phải kiếm cói kiếm rạ lợp cho nó cái mái… Trăm thứ tội nợ! Lại nói sang chuyện cừu: lão rũ đi hết cũng là rất phải! Cái giống tội giống nợ ấy, thả nó đi ăn là bụng cứ lo ngay ngáy: ngộ nhỡ nó lạc đàn, ngộ nhỡ chó sói cõng đi mất? Lão chả tội gì để đầu óc bị căng thẳng vì cái giống bẩn thỉu ấy nữa, một cuộc đời dài đằng đẵng của lão căng thẳng như thế là đã quá đủ rồi, cái đầu óc lão bây giờ nó tã lắm rồi, như chiếc bít tất rách vậy. Lợn lão cũng chẳng nuôi nữa, thế cũng là rất phải! Lão xin hỏi: con lợn thì được cái tích sự mẹ gì cho lão? Cái sự trước hết là thịt mỡ mà lão cứ chén đẫy vào thì y như rằng bụng đau quặn, thứ nữa là bây giờ lão biết lấy gì mà vỗ nó khi cái thùng bột của lão chỉ còn được độ hai vốc nắm tay? Còn đến bây giờ thì khéo nó đói nó kêu la làm mình rối ruột rối gan mất… Và con lợn là cái giống yểu tướng: hết toi dịch lại đến đủ các thứ bệnh giun sán. Rước cái của ấy về thì chỉ có nơm nớp chẳng nay toi thì mai toi. Thêm nữa cái mùi nó hôi thối khắp nhà, chịu sao nổi. Mà không có nó thì xung quanh không khí trong lành, thơm mùi cỏ này, thơm mùi rau quả ngoài vườn này, rồi cả thứ cây dại nữa. Cái tính lão lại cứ thích không khí trong lành! Thế thì lợn bột, hay lợn choai đi chăng nữa, cũng cho chết mẹ nó đi, để khỏi khổ cái lỗ mũi lão! Hai ả gà mái sạch sẽ đi tha thẩn ngoài sân cùng với một chú gà sống nom tươm tươm một tí, về phương diện gia súc thế là đủ để hai ông bà vui cho đến ngày về chầu tổ. Chuyện làm giàu xin nhường cho cánh trẻ, chứ cánh già chúng mình thì thiết gì tích của. Mà anh Maka cũng đồng ý với lão như vậy, anh ấy bảo: "Này, ông bây giờ chính cống là giai cấp vô sản rồi đấy, ông quẳng cha nó cái tiểu tư hữu đi thế là rất đúng". Nhưng nghe anh ấy nói thế, lão không khỏi thở dài từ ruột gan thở ra mà đáp: "Kể ra được liệt vào giai cấp vô sản thì cũng thích đấy, có điều là suốt đời chỉ chén độc có bắp cải luộc và uống nước lã thì lão chả đồng ý tí nào. Cầu Chúa phù hộ cho giai cấp vô sản, nhưng nếu công điểm mà không đem lại cho lão được tí thịt, hoặc tí mỡ chẳng hạn, để thả vào nồi xúp thì đến mùa đông này, lão cũng đến phải nằm thẳng cẳng nhắm mắt xuôi tay thôi. Lúc ấy được cái tiếng là giai cấp vô sản thì ăn bàn ăn giải quái gì nhỉ? Đợi đến sang thu lão xem công điểm có được khơ khớ không, nếu chẳng ra gì thì lão cứ xin là quay đầu trở lại ngay với cái tiểu tư hữu".

Bác Suka cau mày lại đăm chiêu, và lần này thì nói ra miệng:

- Sống mà cứ khốn khổ khốn nạn thế này thì đúng là tội nợ! Ta đang xây dựng đời sống mới đây, nhưng có những cái chả hiểu ra là thế nào cả, rối như mớ bòng bong…

Bác buộc ngựa vào hàng rào, đẩy cái cánh cổng xiêu vẹo, rồi thong thả, chững chạc, đúng như một ông chủ, bác đi theo lối mòn rậm rạp cây mã đề, bước tới hè.

Trong bếp tối nhá nhem, phòng giữa thì cửa đóng kín mít. Bác Suka đặt xuống tấm ghế dài cái mũ cáu bẩn, bẹp dúm như một chiếc bánh tráng, và cái roi mà nhờ con Tơrôphim đã trở thành vật bất ly thân của bác. Bác nhìn quanh, rồi réo lên đánh tiếng:

- Bà lão ơi! Chết dí đâu rồi?

Từ trong phòng vọng ra một tiếng nói yếu ớt:

- Đang chết đây… Liệt giường từ tối hôm qua, không ngóc đầu dậy được. Đau dần cả người, chân tay bải hoải, lại thêm cái rét nữa, đắp tấm da cừu mà chả ấm lên được tí nào… Đúng là ngã nước rồi, cấm sai đâu… Còn ông về làm gì thế?

Bác Suka mở toang cửa buồng, dừng lại trên ngưỡng:

- Tôi lên huyện bây giờ, tạt qua về xem có gì lót dạ tí đỡ đói dọc đường.

- Có việc gì cần thế mà phải lên huyện?

Bác Suka làm ra vẻ quan trọng, vuốt râu và dường như miễn cưỡng đáp lại:

- Công tác đặc biệt: triệu ông cán bộ trắc địa về. Đồng chí Đavưđốp bảo: "Này bác ơi, ngoài bác ra thì chả ai triệu nổi ông ta về đây đâu!". Trắc địa thì cả huyện có mỗi một ông, mà ông ta thì tôi lại quen, ông ta là ông Sportnôi, ông ta kính trọng tôi cho nên tôi đi mời thì thế nào ông ta cũng về, - bác Suka giải thích, và chuyển luôn sang cái giọng khẩn trương. - Nào, lấy cái gì cho tôi ăn đi, vội lắm.

Bà lão càng rên khoẻ:

- Ôi, khổ thân tôi! Biết lấy gì cho ông ăn bây giờ? Hôm nay có thổi nấu gì đâu, và lò tôi cũng chẳng nhóm. Hay ông ra vườn vặt mấy quả dưa chuột vậy, có sữa chua ở dưới hầm đấy, bà hàng xóm mới đem qua.

Bác Suka nghe bà phu nhân nói, tỏ vẻ coi khinh ra mặt, và cuối cùng nổi khùng lên:

- Dưa chuột xanh ăn với sữa chua à? Này, bà hoá rồ rồi hay sao ấy, hả cái đồ thiên văn? Có phải bà định làm tôi mất hết uy tín hay không thì bảo! Bà thừa biết bụng dạ tôi yếu, bà bảo tôi ăn thế để giữa đường nó giở quẻ à? Rồi lên đến huyện biết làm thế nào? Cứ khư khư ôm lấy quần ư? Mà ngựa lại là ngựa giống, không rời chúng nó đi đâu được một bước, lúc ấy biết xoay xở làm sao? Tháo luôn cái uy tín của mình ra giữa phố chắc? Xin cảm ơn bà cả nón! Dưa chuột của bà xin để mời bà mang ra mà chén với sữa chua, còn tôi thì đâu dám chơi dại! Chức vụ tôi đâu phải xoàng, tôi lái xe ngựa cho đích thân đồng chí Đavưđốp, tôi chả dại gì xơi liều cái món dưa chuột của bà. Rõ chưa, hả cái đồ trừu tượng?

Cái giường gỗ ọp ẹp bà lão đang nằm kêu cót két lên một cách đáng ngờ, và bác Suka lập tức cảnh giác. Bác chưa kịp kết thúc bài phát biểu của mình thì bỗng xảy ra một sự thay đổi rất ư là kỳ lạ cho bà già nhà lão: bà nhảy tót trên giường xuống, hai tay chống nạnh, nom đằng đằng sát khí. Bà kéo tấm khăn vuông nhầu nát trên đầu lệch sang một bên một cách ngang tàng, và giọng bà vừa mới rồi yếu ớt là thế, cất lên lanh lảnh:

- Thế ông muốn cái gì, đồ khỉ già, ông muốn tôi nấu cháo thịt cho ông ăn hả? Hay là mời ông xơi bánh tráng kem? Tôi bói đâu ra những của ấy, khi mà chạn nhà ông chỉ có độc chuột, mà ngay cả chuột cũng chết đói nhăn răng cả! Ông còn bôi bác tôi bằng những cái tiếng khốn nạn ấy đến bao giờ nữa mới thôi? Thế nào là đồ thiên văn, thế nào là đồ ruột tượng? Thằng Maka Nagunốp xui ông đọc những sách vớ sách vẩn, ông lấy thế làm hãnh diện lắm hả, đồ khọm già? Tôi là người phụ nữ tử tế, ăn ở với ông tử tế, suốt đời tôi chung thuỷ với ông, thế mà bây giờ đến lúc gần đất xa trời rồi, ông không biết gọi tôi bằng cái gì khác sao, hả cái đồ thò lò mũi kia?

Câu chuyện đã chuyển sang một hướng bất ngờ và tai hại đối với bác Suka, cho nên bác quyết định rút lui có trật tự vào góc bếp, và vừa lấm lét lùi, bác vừa tìm cách giảng hoà:

- Ô hay, làm sao thế hả bà! Đó đâu phải những tiếng bôi bác bà, mà là cách gọi âu yếm của người có học đấy! "Bà nó nhà tôi" với "thiên văn" chẳng qua cũng là một thôi… Bình thường ta nói "mẹ đĩ nó" thì trong sách người ta gọi là "trừu tượng" mà. Lạy Chúa, tôi cấm có nói điêu đâu, trong quyển sách to tướng mà anh Maka cho tôi mượn đọc có cắt nghĩa như vậy đấy, chính mắt tôi đọc đấy, thế mà bà cứ nghĩ thiên nghĩ thẹo. Chán mớ đời cái thanh toán tai nạn mù chữ của bà! Phải học đi, bà ơi, như tôi học ấy, rồi thì bà cũng vắt khẩu thành chương chả kém gì tôi đâu, thực tế thế!

Giọng nói bác Suka đầy sức thuyết phục đến nỗi bà lão dịu hẳn đi, nhưng mắt bà vẫn còn nhìn ông chồng với vẻ nghi ngại thăm dò. Rồi bà thở dài:

- Tôi học bây giờ thì muộn rồi, vả lại ích gì mà học? Và cả ông nữa, ông khọm già ạ, ông cũng nên ăn nói bằng cái tiếng của ông bà ông vải để lại thôi, chứ nói năng giọng ấy thì người ta cười cho thối mũi đấy.

- Cười hở mười cái răng, - bác Suka tự cao tự đại đáp lại, nhưng bác chẳng hơi đâu mà tranh luận tiếp nữa.

Bác thong thả và cẩn thận bẻ vụn một khoanh bánh mì ôi, thả vào bát sữa chua con con, ngồi nhai từ tốn, chăm chỉ, mắt nhìn ra cửa sổ và bụng nghĩ: "Mình đi đâu mà phải vội nhỉ! Ấy giả sử như là có cái người nào nó định ngoẻo và cần chịu lễ thì vội đã đành. Nhưng Sportnôi là anh đạc điền, chứ đâu phải cha đạo, và Đavưđốp thì cũng chả định ngoẻo tí nào, thế thì việc gì mình phải ba chân bốn cẳng cho mệt? Còn việc đi sang thế giới bên kia thì lão đủ thời gian chán, và cho tới nay cũng chưa có ai lại đi xếp hàng trước cửa Thiên đường cả… Thành thử là bây giờ ra khỏi làng, lão sẽ cho xe rẽ vào khe nào đó, để khỏi ma nào trông thấy lão, rồi lão khò khò một giấc đã mắt, còn ngựa thì trong khi đó cứ thả cỏ. Đến chiều lão sẽ tới đội của Đúpxốp, mẹ Kuprianốpna nhất định sẽ chiêu đãi lão bữa chiều, và tối mát mẻ lão lên huyện cũng vừa. Và nếu Chúa chẳng phù hộ, để cho Đavưđốp biết chuyện, lão sẽ nói toạc móng heo với anh ta thế này: "Anh cứ tiêu diệt cái con Tơrôphim ba lần trời đánh kia đi, khắc lão sẽ không ngủ dọc đường nữa. Suốt đêm nó cứ lục sục bới rơm quanh lão thì anh bảo có tài thánh nào mà ngủ được! Đến phát điên với nó!".

Phấn khởi trước viễn cảnh sắp được làm thượng khách của Đúpxốp, bác Suka nhoẻn miệng cười, nhưng bà lão đến lúc này vẫn còn tìm được cách làm lão cụt hứng:

- Ông nhai gì mà cứ như cái thằng liệt mồm thế hả? Người ta phái ông đi công tác, thế mà ông cứ loanh quanh như con bọ hung trong đống cứt vậy, có đi mau lên không? Và ông hãy vứt mẹ nó những tiếng vớ vẩn lôi trong sách ra ấy đi, và từ rày đừng có mở miệng nói những tiếng ấy với tôi, kẻo cái que cời nó gõ vào lưng đấy, tôi nói ông biết thế, đồ khọm già!

- Que nào thì cũng có hai đầu. - Bác Suka lẩm bẩm trong mồm.

Nhưng khi nhìn thấy trên mặt bà nội tướng hiện ra những đường nhăn nheo giận dữ, bác vội húp hết bát sữa, và cáo từ bà:

- Thôi, mình đi nằm nghỉ đi, chả có việc gì thì đừng dậy, cố mà nghỉ cho chóng khoẻ. Tôi đi đây.
Thay cho lời tiễn, bà lão buông ra một câu "Lạy Chúa!" không lấy gì làm dịu dàng lắm, và quay ngoắt đi.

* * *

Trên quãng đường sáu cây số từ làng đến khe Tservlenaia, bác Suka cho ngựa đi lững thững bước một. Bác thiu thiu đi một cách khoan khoái, thỉnh thoảng đầu lại gật một cái, rồi bã cả người vì cái nóng giữa trưa, có một lần bác suýt ngã lộn nhào xuống đất. "Cái kiểu này thì chả mấy chốc mà gãy cổ", bác lo lắng nghĩ bụng thế và lái xe rẽ vào khe.

Trong lòng khe, cỏ chưa cắt mọc cao đến thắt lưng và thơm man mát. Từ đâu đó phía trên, một mạch nước suối róc rách chảy dọc theo lòng đất sét. Nước mạch trong vắt và mát lạnh đến nỗi ngựa cũng phải uống từ từ từng hớp nhỏ, thận trọng chắt nước qua kẽ răng. Bên mạch nước suối rất râm mát và mặt trời lên cao trên đỉnh đầu cũng không đủ sức xuyên qua. "Thật là Chúa ban cho!" - bác Suka vừa tháo ngựa vừa thì thào như vậy. Bác tròng chân ngựa, thả cho gặm cỏ, trải tấm áo dipun tàng tàng của bác dưới bóng một bụi cây gai, ngả lưng nằm xuống, rồi ngửa mặt nhìn bầu trời xanh nhạt bạc phếch đi vì nắng cũng như đôi đồng tử xanh xanh của bác đã bạc phếch đi vì tuổi già, bác thả hồn mơ mộng:

"Tuyệt diệu thế này thì có lấy dùi chọc vào đít lão cũng chẳng cậy nổi lão ra khỏi đây trước chiều tối. Lão sẽ đánh một giấc thoải mái, sưởi nắng cái bộ khung già cỗi của lão, rồi đến thăm cậu Đúpxốp, chén món cháo của hắn. Lão sẽ bảo là lão đi vội chả kịp ăn uống gì thì thế nào hắn cũng thết lão, gì chứ cái ấy thì lão nắm chắc như cua gạch. Nói thực ra thì sao lại bảo dưới đội chuyên môn chỉ có món cháo suông hoặc món canh lõng bõng phải lấy thìa ngoáy tận đáy nồi mới kiếm được một miếng? Cậu Đúpxốp đâu phải hạng người đi làm vụ cỏ mà lại ăn khem. Cái thằng ma tịt rỗ hoa ấy một ngày không có thịt thì hắn chả sống nổi đâu. Bắt trộm một con trong đàn cừu hàng xóm, thế là có thịt cho thợ hắn chén rồi!... Bữa ăn mà được một khúc thịt cừu độ bốn phuntơ chẳng hạn mà quất thì cũng hay đấy! Đặc biệt là nếu đem quay mỡ! Hoặc xoàng ra thì món trứng tráng cũng được, nhưng phải cho đẫy mỡ vào… Bánh bột rán phết kem cũng là một món bánh thánh làm cho con người ta chắc dạ hơn mọi thứ lễ ban thánh thể đấy bà con ạ, nhất là khi người ta lại múc cho bà con một muôi tướng vào địa, rồi lại một muôi tướng nữa, nom cứ lù lù một đống, rồi người ta lắc nhẹ nhẹ tay, để cho kem lắng xuống đáy đĩa mà, và để cho mỗi cái bánh chìm ngập trong kem. Và tuyệt cú hơn nữa là người ta lại không múc cho bà con vào đĩa mà múc vào một cái bát đáy sâu nào đó để thìa của bà con có chỗ mà khoắng!".

Bác Suka không phải là người phàm ăn; chẳng qua chỉ là bác đói. Suốt cuộc đời dài đằng đẵng không chút sướng vui của bác, chả mấy khi bác được một bữa no và chỉ có trong chiêm bao bác mới được ăn thoả thích những món bác cho là ngon. Lần thì bác mê thấy mình chén lòng cừu luộc, lần thì là bánh tráng bác cuộn lại, chấm vào kem và cả cái bánh to tướng rỗ lỗ chỗ như thế bác tọng đầy mồm làm một miếng, lần thì mì thanh nấu với lòng ngỗng bác cứ xơi mãi không chán, nhồm nhoàm bỏng rộp cả mồm… Còn thiếu gì thứ bác không chiêm bao trong những đêm dài đằng đẵng, nhưng tỉnh dậy sau những giấc mơ ấy bao giờ bác cũng thấy buồn bã, đôi lúc cay cú hậm hực nữa, và nghĩ bụng: "Mơ cái đếch gì mà toàn những của ngon của lạ! Trêu ngươi nhau thế thì sống thế chó nào được; nằm mê thì mì ống chén đã miệng, bằng chán thì thôi, mở mắt tỉnh dậy thì bà lão dúi cho vào mũi cùi bánh hẩm trộn sữa chua, mả cha cái món bánh hẩm ba lần trời đánh ấy!".

Sau những giấc mơ như vậy, bác Suka cứ liếm hoài đôi môi khô khốc cho đến bữa ăn sáng, và ngồi vào ăn bữa sáng đạm bạc, bác thở dài não nuột, uể oải cầm cái thìa mẻ lơ đãng vớt mấy mẩu khoai tây nổi lềnh bềnh trong bát.

Nằm khểnh dưới bụi cây, bác Suka còn ngẫm nghĩ mãi hồi lâu, đoán xem xuống đội sẽ được thết món gì. Rồi bác nhớ lại một cách chả đúng lúc tí nào đến bữa cỗ đám ma mẹ Iakốp Lukits bác đã được chén lu bù, và lao theo mãi những kỷ niệm đánh chén ấy, bác bỗng lại cảm thấy lên cơn đói cào đói cấu đến nỗi cái buồn ngủ biến đâu mất, như có phép thần vậy. Bác hậm hực nhổ toẹt một bãi, đưa tay lên lau chòm râu lưa thưa, sờ nắn cái bụng lép kẹp, và nói bật lên thành tiếng:

- Một cùi bánh mốc với một bát sữa chua, thế mà dám gọi là nuôi sống một đấng nam nhi truyền chủng chính cống? Ăn thế thì khác nào ăn gió? Một giờ trước bụng mình còn căng như cái trống của thằng hát rong digan, vậy mà bây giờ? Bây giờ thì nó lép dính vào xương sống! Lạy Chúa tôi! Sao mà cả đời lão cứ phải nghĩ đến miếng ăn hàng ngày, đến những cái nhồi cho chặt dạ dày thế này, trong khi đời cứ trôi đi như nước chảy qua kẽ ngón tay và cái già xồng xộc đến lúc nào chẳng biết… Mình đến cái khe này lần trước cách đây đã lâu la gì đâu! Hồi ấy hoa mận gai đang nở rộ, trắng xoá cả khe! Hồi ấy có gió thổi, và hoa trắng thơm phức bay khắp khe, quay cuồng như bão tuyết. Con đường kia phủ toàn một màu trắng, và thơm hơn mọi thứ nước hoa đàn bà. Thế mà bây giờ cái màu mùa xuân ấy biến đâu mất rồi, nó đã biến thành màu đen, nó đã tiêu ma đi không quay trở lại nữa! Cuộc đời vô vị của lão về già nó cũng tối đen như vậy, và chẳng mấy nỗi nữa đâu mà lão Suka khốn khổ sẽ phải gửi lại nắm xương tàn bên vệ đường, mà chuyện ấy thì cũng phải đành chứ chả làm thế nào được…

Đến đây dòng triết lý đa sầu đa cảm của bác Suka chấm dứt. Bác thấy thương thân quá, thút thít khóc, khịt mũi, đưa ống tay áo lên lau đôi mắt đỏ hoe, rồi ngủ thiếp đi. Bao giờ cũng vậy, cứ nghĩ đến chuyện buồn là bác buồn ngủ.

Ngủ thiêm thiếp, và ngay cả trong giấc ngủ cũng vẫn trung thành với bản chất của bác, bác Suka nhoẻn miệng cười, hấp háy đôi mắt với vẻ sung sướng, và nghĩ bụng trong mơ: "Bữa chiều nay đội Đúpxốp thế nào cũng có thịt cừu tươi, những chuyện ấy thì dạ dày lão thính lắm! Nói chén một lúc hết bốn phuntơ thì tất nhiên là lão bốc lên nói hơi quá một tí, nhưng ba phuntơ, hoặc cứ cho là ba phuntơ rưỡi đi thì lão chỉ chép miệng làm một lèo! Cứ thử có thịt cừu trên bàn xem, Suka này sẽ múa thìa đưa lên miệng cấm trượt miếng nào đâu, bà con cứ yên chí!".

Khoảng ba giờ chiều thì trời nóng lên đến cực độ. Ngọn gió hanh nóng bỏng nổi lên từ đằng đông, lùa vào khe một luồng không khí hừng hực, và cái mát mẻ vừa mới đó đã biến mất tăm. Lại thêm cái anh mặt trời ngả xuống đằng tây cứ như bám riết lấy bác Suka: bác nằm sấp bụng ngủ, mặt úp vào chiếc áo dipun cuộn trọn, và khi tia nắng mặt trời bắt đầu cù cù vào bác, rồi xuyên qua cái áo sơmi rách mà nướng rát tấm lưng gầy guộc của bác thì bác mơ mơ màng màng cựa mình nhích tránh vào chỗ râm. Nhưng vài phút sau, cái ông mặt trời rắc rối kia lại bắt đầu nướng tấm lưng già của bác một cách không thương xót, và một lần nữa bác Suka lại phải sấp bụng bò trườn sang bên. Và sau ba tiếng đồng hồ thể dục bò lê, bác đã làm nửa vòng bụi cây mà không hề thức giấc. Cuối cùng nóng điên người lên, da bỏng rộp, và mồ hôi vã ra như tắm, bác Suka thức giấc, ngồi dậy, đưa tay lên che mắt ngó ông mặt trời, và hậm hực nghĩ bụng: "Quả thật là con mắt của Chúa, lạy Chúa xin tha tội cho con, rúc vào bụi mà cũng không thoát được nó! Nó bắt người ta suốt cả nửa buổi cứ nhảy choi choi quanh cái bụi như con thỏ rừng vậy. Ngủ nghê gì mà lại thế? Không phải là ngủ, mà là tra tấn! Lẽ ra mình nên chui xuống gầm xe mới phải, nhưng chui đấy thì con mắt khỉ gió kia của Chúa nó vẫn cứ tìm thấy mình. Trên thảo nguyên trụi thùi lụi này thì chạy đâu cho thoát con quỷ sục sạo ấy!".

Thở dài rền rĩ, bác thong thả cởi đôi giày tã mướp ra, xắn quần lên, và ngắm nghía hồi lâu đôi chân cẳng khô ngẳng của mình, miệng mỉm một nụ cười dè bỉu, đồng thời lắc đầu ngán ngẩm. Rồi bác ra suối để rửa ráy và lấy nước suối vỗ mát cái mặt đang nóng bừng bừng.

Từ đây bắt đầu trút xuống đầu bác một lô xúc xích những chuyện xúi quẩy…

Nhấc cao chân rẽ đám cỏ lác lúp xúp để lội ra giữa dòng, bác vừa mới bước được hai bước thì bỗng cảm thấy chân trái mình dẫm phải một cái gì ngọ ngoậy, nhầy nhầy và lành lạnh, rồi liền sau đó thấy phía trên mắt cá một tí khẽ nhói lên như kiến đốt. Bác vội co phắt cẳng trái lên khỏi mặt nước, và cứ đứng lò cò một chân như thế, chẳng khác gì con sếu đậu trong đầm. Nhưng khi bác trông thấy phía bên trái bác một vết ngoằn ngoèo lướt nhanh lộ ra, cỏ lác rung rinh thì mặt bác tái đi, xanh như màu cỏ lác kia, và đôi mắt bác, bắc đầu từ từ trợn lồi lên…

Và chẳng biết bác đã moi được ở đâu ra cái nhanh như cắt ấy! Tưởng đâu như cái tuổi son trẻ đã trôi đi từ đời nảo đời nào lại quay trở lại với bác vậy: chỉ nhảy hai bước là bác đã đứng trên bờ rồi, và sau khi ngồi phệt xuống một mô đất sét bác mới bắt đầu chăm chú xem xét hai cái chấm đỏ nhỏ xíu ở chân, trong khi mắt chốc chốc lại sợ sệt liếc ra phía dòng suối tai ác kia.

Qua khỏi cơn sợ lúc đầu, bác dần dần hoàn hồn lại, và khẽ lẩm bẩm:

- Lạy Chúa, thế là bắt đầu đây… Những cái điềm khốn kiếp kia thì ra nó nghĩa là như vậy đấy! Lão đã bảo thằng cha Đavưđốp ương bướng ấy là chớ nên liều lĩnh xuất hành lên huyện hôm nay mà dại. Nhưng cái hắn ấy chuyên môn vội, làm cái gì cũng muốn ngay, đi cũng đi ngay! Thì đấy lão đi, và đến cái nông nỗi này đây. Hắn ta lúc nào mồm cũng nói: “Tôi là giai cấp công nhân”. Nhưng cái giai cấp công nhân của hắn ấy sao mà nó hắc xì dầu thế? Nó mà nảy ra ý định làm cái gì thì bà con cứ yên chí, sống chết nó cũng đạt bằng được ý của nó! Anh đã đạt được ý anh rồi đấy, mẹ cha anh, nhưng lão đây, lão biết làm thế nào bây giờ?

Đến đây bác Suka bỗng nảy ra ý kiến: “Bây giờ ta phải hút máu chỗ vết thương ấy đi chứ nhỉ! Vì đúng là con rắn độc nó cắn ta rồi, cứ xem nó lượn ngoằn ngoèo trên cỏ lác thế thì biết! Con rắn thường, nói xí dụ là con rắn nước, nó bò từ từ cơ, chẳng vội chẳng vàng, đâu có như cái giống thổ tả kia nó lao vút như một tia chớp, ngoằn ngoằn ngoèo ngoèo nom gớm khiếp! Có khi là nó sợ lão nó chạy cũng nên! Vấn đề là ở chỗ ai sợ hơn ai: lão sợ hơn hay là nó?”.

Lúc này gấp lắm rồi, chả có thời giờ đâu giải đáp câu hỏi phức tạp ấy. Không chậm trễ một giây, bác Suka cúi gập người xuống, cong như con tôm, nhưng cố thế nào thì cố vẫn không làm sao với mồm tới chỗ vết thương được. Thế là, một tay nắm gót một tay nắm bàn chân, bác kéo giật thật mạnh lên mồm trong một cố gắng tuyệt vọng, thế nào mà đến nỗi trong mắt cá chân có cái gì kêu đánh rắc một tiếng, và đau điếng, bác ngã chổng kềnh. Năm phút bác nằm không động đậy. Hoàn hồn được rồi, bác khe khẽ ngọ ngoậy mấy ngón chân trái, hoang mang nghĩ bụng: “Tiền đầu là rắn cắn, rồi bây giờ là tiếp tục đây… Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ lão mới thấy một người lại tự tay vặn ngoéo chân mình đi thế này. Kể chuyện sẽ chả ai tin đâu, họ sẽ bảo: “Lão Suka lại bịa rồi!”. Đấy, cứ bảo là không tin điềm đi! Không tin thì khốn nạn thế này đây… Chà, tiên sư cái anh Đavưđốp! Lão đã nói điều hay lẽ phải với anh ta mà anh ta chả chịu nghe. Lão biết làm sao bây giờ? Đóng ngựa thế nào được đây?”

Nhưng không thể chậm trễ phút nào nữa. Bác Suka rón rén đứng dậy, thận trọng chống chân trái lên. Bác mừng rơn thấy té ra là cũng không đến nỗi đau lắm, đi được, tuy hơi khó một tí. Bác bóp vụn một cục đất sét nhỏ, nhào với nước bọt, rịt cẩn thận lên vết thương. Bác rón rén tập tễnh cái chân sái đi tìm ngựa thì bỗng trông thấy phía bên kia suối, cách bác độ bốn thước, một cái nó làm cho mắt bác nẩy lửa và đôi môi bác run lên trong một cơn giận dữ không kìm nổi: bên kia suối một con rắn nước nhỏ đang nằm cuộn tròn sưởi nắng thiêm thiếp giấc nồng. Nó là một con rắn nước, cái đó không còn chút gì nghi ngờ cả: chứng cớ là đôi “kính” vàng da cam nom ánh lên một cách hiền lành trên đầu nó…

Và thế là bác Suka nổi giận lôi đình. Chưa bao giờ lời ăn tiếng nói của bác nghe lại giận dữ, thống thiết xúc động đến thế. Cái chân đau tiến lên một bước, tay trịnh trọng giơ ra trước mặt, bác sang sảng cất giọng run run:

- Quân bò lê khốn kiếp kia! Quân máu lạnh đểu cáng kia! Quân đốn mạt đeo mục kỉnh kia! Có phải mày, đồ sâu bọ độc hại, vừa rồi đã làm ông đấy, nghĩa là một đáng nam nhi truyền chủng bị một phen hết hồn hết vía đấy không?! Thế mà tao ngớ ngẩn, cứ tưởng mày không phải là cái đồ mày, mà là chính cống rắn độc! Vậy mà phân tích vấn đề ra thì mày là cái gì? Hừ, một giống bò lê bò lết tanh tưởi, có thế thôi! Giẫm cho mày một cái thì mày sẽ thành cát thành bụi, không còn mảy may tí ti gì cả. Nếu không bị trẹo chân vì mày, thì ông sẽ cho mày biết tay ông, mày nên biết như thế, đồ quái vật!

Bác Suka dừng lại lấy hơi và nuốt nước bọt đánh ực một cái. Con rắn ngước cái đầu bé tí màu đen cẩm thạch của nó lên như lắng nghe: quả thực đây là lần đầu tiên nó được nghe người diễn thuyết cho nó. Nghỉ đã đỡ mệt, bác Suka tiếp tục:

- Mày trợn hai con mắt nhâng nháo nhìn ông không chớp hả, đồ ma bờ ma bụi?! Mày tưởng như thế là mày thoát hả? Không đâu, con ơi ông sẽ cho mày nhận ngay bây giờ đủ phần công điểm hôm nay của mày. Nom cái đồ pích cớp kìa! Ông sẽ xé xác mày ra, cho lục phủ ngũ tạng mày không còn một tí gì, thực tế thế!

Bác Suka cúi đôi mắt long lanh giận dữ xuống và trông thấy trong lớp sỏi do lũ xuân cuốn từ sườn cao thung lũng xuống có một hòn đá cuội to, mòn nhẵn. Quên cái chân đau, bác bước dấn lên. Mắt cá chân đau nhói dữ dội làm bác ngã vật xuống đất, miệng chửi rủa om sòm nhưng tay vẫn không buông hòn đá.

Trong khi bác ì ạch, rền rĩ lổm ngổm dậy thì con rắn nước đã biến mất tăm. Như là trước đây chẳng hề thấy nó. Cứ như là nó đã chui tọt vào ruột trái đất vậy! Bác Suka buông rơi hòn đá, ngơ ngác dang tay:

- Ố hay thật, cái số lão đen ơi là đen! Nhưng cái tên phản Chúa ấy nó rúc đâu nhanh thế nhỉ? Đúng là lại lỉnh xuống nước rồi. Đã xúi thì cứ xúi mãi, cho nên không phải đến đây đã hết đâu… Lão thật già mà dại, lẽ ra chả nên phát biểu ý kiến với nó làm gì mà cứ lẳng lặng nhặt hòn đá choang luôn cho một quả vào đầu, vì đánh rắn phải đánh dập đầu mà, vì có thể từ quả thứ hai lão sẽ ném trượt, thực tế thế. Nhưng cái quân ma mò ấy nó lỉnh mất rồi thì ta ném ai bây giờ đây? Vấn đề là thế đấy!

Bác Suka còn đứng lại bên suối gãi gáy một lát nữa, rồi khoát tay một cái chán đời, bác bỏ đi đóng ngựa. Khi còn chưa đi khỏi suối một quãng khá khá thì chốc chốc bác lại ngoái đầu lại nhìn, nói của đáng tội cũng chỉ vài lần thôi… Quân tử phòng thân, tội gì!

… Dưới làn gió thảo nguyên thở ra nhịp nhàng và mạnh mẽ từ lồng ngực bao la của nó cái hương ngây ngất và bao giờ cũng hơi buồn buồn của cỏ khô. Từ những khóm rừng sồi mà con đường chạy men qua, toả ra luồng khí mát rượi và cái mùi nhạt nhẽo những vẫn kích thích lòng người của lá sồi úa, và đây lá tần bì năm ngoái thì không hiểu sao vẫn thơm ngát hương tươi trẻ và hương xuân, và có lẽ cả chút hương viôlét nữa. Những mùi hương khác loại nhau ấy làm cho người ta thường là bao giờ cũng cảm thấy buồn buồn, nao nao thế nào đó, đặc biệt khi người ấy chỉ có độc riêng một mình mình mà thôi… Nhưng bác Suka thì đâu phải là người như vậy. Khi bác đã gác một cách thoải mái bàn chân đau lên cái áo dipun cuộn tròn lại và buông thõng chân phải ra ngoài xe, thì cái miệng móm mém của bác đã toe toét cười, đôi đồng tử bạc thếch vì năm tháng của bác lim dim mãn nguyện, và cái mũi nhỏ xíu đỏ hỏn và nứt nẻ của bác cứ đưa ngang đưa ngửa như cái đu, hít lấy hít để những mùi hương thân tình của thảo nguyên quê hương.

Làm sao bác lại không yêu đời được nhỉ? Cái chân sái của bác đã đỡ đau rồi; gió đưa mây đen từ một nơi xa xôi nào phía đằng đông tới che khuất mặt trời một lúc lâu, làm cho đồng bằng, gò đống, các ngôi mộ cổ, các khe hẻm rợp một bóng râm tim tím, và thở đã dễ chịu hơn; và trước mắt chẳng gì thì cũng là một bữa chén thịnh soạn đang đợi bác… Không, bà con thế nào thì tuỳ, nhưng bác Suka thì tạm thời cảm thấy cuộc sống cũng không đến nỗi khó nhọc lắm!

Tới một đỉnh gò, vừa trông thấy hiện lên xa xa bóng chiếc xe lều và cái lán đội hai, bác Suka đã cho dừng đôi ngựa đang lừng khừng đi bước một lại, và xuống xe. Mắt cá chân bác vẫn còn đau âm ỉ, nhưng bác đã có thể tàm tạm đứng vững bằng cả hai chân. Và bác quyết định: “Lão sẽ cho họ thấy đến với họ đây không phải là một anh đánh xe thồ, mà chẳng gì thì cũng là cụ xà ích của ban quản trị nông trang. Một khi đã lái xe cho đồng chí Đavưđốp, cho anh Maka và các đồng chí lãnh đạo quan trọng khác thì phải đến bằng một kiểu làm cho thiên hạ từ xa đã phải lác mắt!”.

Vừa chửi rủa và rền rĩ xuýt xoa, bác vừa kìm đôi ngựa đã đánh hơi thấy chuồng, rồi đứng thẳng ưỡn người trên xe, hai cẳng xoạc rộng, bác giật mạnh dây cương, miệng “huỳ” lên một tiếng can trường. Đôi ngựa lao đi theo nước kiệu rảo. Trên đà xuống dốc chúng phóngnhư bay, và chiếc áo sơmi không dây thắt của bác bị gió lùa vào căng phồng lên như một quả bóng tướng sau lưng bác. Nhưng bác vẫn thúc ngựa chạy nhanh hơn và, cắn răng chịu đau, bác vui vẻ vung roi, hét lên the thé: “Các con ơi, xung pho-o-ong!”.

Người trông thấy bác đầu tiên là Agaphôn Đúpxốp lúc ấy đang đứng bên lán:

- Thằng cha nào mà lại lái xe đứng, kiểu dân Tavria thế kia nhỉ? Prianhisnhikốp ơi, ra mà xem này, ai đến thăm anh em ta thế không biết?

Đứng trên đống cỏ đang đánh dở, Prianhisnhikốp vui vẻ reo lên:

- Đội tuyên truyền! Bác Suka đấy mà!

- Hay quá! – Đúpxốp cười khoái trí, nói. – Anh em đang buồn! Bố già sẽ ăn cơm tối với chúng ta, thế thì anh em ơi, thống nhất với nhau thế này nhá: ta giữ dịt bố ấy ở lại đến sáng…

Rồi tự tay anh lôi cái xắc của anh dưới gầm xe lều ra, hí húi lục lọi, rồi đút vào trong túi áo một chai vốtka phần tư lít đã uống vơi rồi.

CHƯƠNG XIX

Thanh toán hai bát cháo kê loãng đuểnh đoảng chạy qua hàng mỡ, bác Suka đã tới cái trạng thái hoàn toàn thoả mãn và buồn ngủ thiu thiu. Đưa mắt cảm tạ bà cấp dưỡng hậu hĩnh, bác phát biểu:

- Xin cám ơn tất cả các cô các chú về bữa rượu hôm nay, và riêng bác Kúprianốpna thì lão xin là một sự kính chào. Nếu bác muốn biết thì lão xin nói bác không phải là một chị phụ nữ đâu, mà là một hòm vàng, thực tế thế. Với cái tài nấu cháo của bác thì lẽ ra bác không phải nấu cho bọn dân ngu khu đen chúng tôi ăn đâu, mà nấu cho đích thân đồng chí Mikhain Ivanôvits Kanilin mới phải. Cứ đem đầu lão ra mà chặt nếu sau một năm phục vụ, trên ngực bác lại không lủng lẳng một chiếc huy chương nào đó do sự chuyên cần giỏi giang của bác, và biết đâu chẳng có cái dải danh dự gì đeo vào tay áo, lạy Chúa, lão không nói điêu đâu, thực tế thế! Lão thì cứ biết tới chân tơ kẽ tóc rằng ở đời cái gì là quan trọng nhất…

- Cái gì nào? – Đúpxốp ngồi cạnh bác hỏi luôn. – Theo như bác, cái gì là quan trọng nhất?

- Cái chén vào bụng! Lão nói thực đấy, không có gì quan trọng hơn cái chén vào bụng.

- Nhầm rồi, bác ơi, - Đúpxốp buồn rầu nói với một vẻ hết sức nghiêm trang, trong khi mắt thì liếc nhìn anh em. – Bác nhầm to rồi, và đó là vì cái óc của bác về già đã vữa ra như món cháo ta vừa ăn. Óc bác loãng toẹt, thế cho nên bác mới nhầm…

Bác Suka mỉm một nụ cười kẻ cả:

- Chưa biết óc anh với óc lão, óc ai loãng. Thế theo anh, ở đời cái gì quan trọng nhất.

- Tình yêu! – Đúpxốp không phải nói mà là thở dài ra tiếng ấy, và ngước đôi mắt mê ly lên.

Khuôn mặt rỗ nhằng rỗ nhịt của anh lúc này nom buồn cười đến nỗi bác Kúprianốpna là người đầu tiên không nén được nữa. Bác cười phá lên, sặc sụa như con ngựa đánh hơi thấy mưa, cười rung cả người, cười đỏ mặt tía tai phải đưa cánh tay áo lên che.

- Hà! Tình yêu! – Bác Suka khinh khỉnh cười ruồi. – Nhưng cái tình yêu của anh thì giá trị gì khi không có đếch gì lót vào bụng? Không bằng đồng xu! Anh cứ thử nhịn một tuần lễ xem, rồi không phải bà Kúprianốpna này, mà ngay cả vợ anh nữa cũng đấm thèm vào anh.

- Cái đó còn phải xem đã, - Đúpxốp cãi đến cùng.

- Trong chuyện này chả có gì phải xem cả. Lão biết hai năm rõ mười rồi. – Bác Suka cắt đứt lời anh, và trịnh trọng giơ ngón tay trỏ lên trời. – Lão sẽ kể bà con nghe một chuyện này, rồi thì mọi việc sẽ rõ như ban ngày, chả cần bàn cãi xem xiếc gì nữa.

Hiếm khi bác Suka vớ được một đám thính giả chăm chú hơn ba mươi con người này. Họ ngồi quanh đống lửa, và ai cũng chỉ lo bỏ sót mất một lời bác nói. Ít ra thì cũng là bác Suka cảm thấy vậy. Và cũng nên tha thứ cho bác. Trong các cuộc họp chả bao giờ người ta cho bác phát biểu cả; ngồi xe với bác, Đavưđốp cứ nín thinh, lúc nào cũng mải suy nghĩ những gì chẳng biết; bà lão thì ngay hồi còn trẻ cũng không phải là người thích chuyện. Vậy thì ông lão còn biết dốc bầu tâm sự với ai? Bởi thế cho nên bây giờ vớ được một đám thính giả vàng ngọc, và ăn uống no nê xong đang ở một tâm trạng phấn khởi cao độ, bác quyết định nói một bữa thoả can tràng. Bác co cẳng ngồi một cách thoải mái, đầu gối tới mang tai, đưa tay lên vuốt râu, nhưng vừa há miệng để ề à kể lể con cà con kê thì Đúpxốp cướp lời. Anh làm ra vẻ nghiêm khắc, nói:

- Bác kể đi, nhưng cấm nói khoác! Đội chúng tôi có cái lệ: anh nào nói khoác thì cứ roi ngựa đét đít.

Bác Suka thở dài đau khổ, tay xoa xoa bàn chân trái:

- Anh Agaphôn ơi, anh đừng doạ lão thế. Hôm nay lão đã bị mấy phen sợ gần chết rồi… Số là câu chuyện thế này. Mùa xuân vừa rồi, anh Đavưđốp một hôm gọi lão đến, bảo: “Bác Suka ơi, bác vào kho lấy hai bì lúa mạch, lĩnh lương ăn đường của bác, rồi dẫn đôi ngựa giống phóng thẳng một mạch tới cuối Lũng khô, chỗ ta đang thả đàn ngựa cái. Bác phải dẫn hai chú rể ngựa đến đấy an toàn. Chăm đàn ngựa cái là ông điếc Vaxili Bápkin. Hai ông sẽ chia đàn ngựa làm hai tốp, ông Vaxili trông một, và bác trông một. Nhưng hai cái con truyền chủng thì bác phải chịu trách nhiệm, vỗ chúng no bằng lúa mạch”. Thú thật lão chưa hề nghe thấy cái tiếng truyền chủng bao giờ, chả biết nó là cái gì. Vấn đề khó hiểu quá. Ngựa giống thì lão biết, ngựa cái lão cũng biết, và cả ngựa thiến là gì lão cũng biết thừa. Lão liền hỏi: “Truyền chủng là cái gì hả anh?”. Anh ta trả lời: “Là vật để làm ra con, thế gọi là truyền chủng”. Lão lại hỏi: “Thế con bò mộng cũng là truyền chủng à”. Anh ta nhăn mặt lại như khỉ, bảo: “Dĩ nhiên”. Lão lại hỏi nữa: “Thế anh với lão cũng là truyền chủng à?”. Anh ta cười, bảo: “Cái ấy thì ông ơi, còn tuỳ tài lẻ từng người”. Nói tóm lại thì ra là thế này: dù anh là con người, dù anh là con chim sẻ, hoặc bất cứ con vật gì, nhưng hễ anh là con đực thì đứt đuôi con nòng nọc anh là con truyền chủng. Lão nghĩ bụng: “Tốt lắm!”. Nhưng nó lại đẻ ra một vấn đề khác: “Thế người làm ra thóc lúa thì là gì? Có phải là truyền chủng không?”. Lão hỏi anh ta như vậy, và anh ta thở dài, nói: “Ông ơi, đầu óc ông chậm lắm!”. Lão đối đáp lại ngay: “Anh chậm thì có, anh Xêmiôn ạ, vì lão sinh ra đời trước anh bốn mươi năm cơ, thế nghĩa là anh chậm hơn lão”. Chuyện lão với anh ấy đến đây là chấm dứt.

Bác Kúprianốpna thều thào hỏi:

- Thế nghĩa là cụ cũng là truyền chủng đấy hả cụ nội?

- Thế theo nhà chị, không truyền chủng thì là cái gì? – Bác Suka đáp lại, đầy vẻ tự hào.

- Lạy Chúa tôi! – Bác Kúprianốpna rền rĩ thốt lên, rồi tuyệt không nói được tiếng nào nữa, vì mặt đã úp vào tạp dề, và giữa không khí im lặng chỉ còn nghe thấy một tiếng ằng ặc như ngạt thở.

- Ông nội ơi, để ý làm gì chị ấy, cứ kể tiếp đi nào, - Kônđrát Maiđanhikốp quay mặt tránh hơi lửa, ngọt ngào nói.

- Cái giống đàn bà ấy thì cả đời lão có bao giờ thèm để ý! Để ý thì lão đừng hòng thọ cao đến như bây giờ,  bác Suka đáp bằng một giọng quả quyết, rồi nói tiếp:

- Lại nói chuyện lão đến bãi thả ngựa, lão đưa mắt nhìn quanh, rồi lão cứ mê ly đi! Bốn bề xung quanh toàn là một cảnh hưng phấn đến nỗi không còn muốn tếch đi đâu nữa! Hoa thơm khắp cánh đồng này, cỏ non này, đàn ngựa tha thẩn gặm cỏ này, trời nắng ấm này, tóm lại toàn là một cảnh hưng phấn!

- Bác nói cái tiếng ấy nó nghĩa là gì? – Bexklépnốp thắc mắc hỏi.

- Hưng phấn ấy hả? À, nó nghĩa là xung quanh rất chi là đẹp. “Phấn” là son phấn, tức là rất đẹp, cảnh đẹp như là tô son vẽ phấn. Nó là cách nói của những nhà thông thái đấy. – Bác Suka nói chắc như đinh đóng cột.

- Thế những cái tiếng ấy bác kiếm ở đâu ra vậy? - Bexklépnốp muốn biết cặn kẽ, tò mò hỏi tiếp.
- Kiếm ở chỗ anh Maka Nagunốp đấy. Lão với anh ấy là đôi bạn lớn mà, đêm nào anh ấy cũng ngâm cứu tiếng Anh, còn lão thì ngồi cạnh. Anh ấy đưa cho lão một quyển sách to như chị Kúprianốpna đây này, gọi là quyển tờ điển. Quyển tờ điển chứ không phải quyển i tờ đâu. I tờ là của trẻ con, còn tờ điển là của người lớn. Anh ấy đưa cho lão và bảo: “Bác học đi, tác dụng cho tuổi già lắm đây!”. Thế là lão cứ từ từ lão học. Nhưng, anh Akim ơi, anh đừng có ngắt lời lão như thế, kẻo mà lão quên mất, không nhớ đang nói chuyện gì. Còn chuyện quyển tờ điển thì lão sẽ kể các anh nghe sau. Thế có nghĩa là lão đến cái nơi lão được bổ nhiệm cùng với đôi ngựa truyền chủng. Nhưng ngựa truyền chủng đấy, rồi lại hưng phấn đấy, thế mà rốt cuộc cũng chẳng mùi mẽ gì… Số là thế này, bà con ạ: cái lão Vaxili điếc đặc ấy mà, ai không phải va chạm với hắn, người đó sẽ thọ thêm được mười năm để hưởng mùi đời. Nghĩa là hắn cứ im như thóc, đến nỗi so với hắn thì anh chàng Đêmít Miệng hến còn là người bẻm mép nhất cái làng này. Lão đã phải chịu trăm bề cực khổ vì cái im thin thít của hắn giữa thảo nguyên. Chẳng lẽ lão lại đi nói chuyện với ngựa cái? Chứ lão Vaxili thì suốt ngày nọ sang ngày kia không lúc nào hắn mở miệng, trừ phi để chén; thời gian còn lại thì hoặc là hắn ngủ im thin thít, hoặc là hắn nằm đắp chăn nom như một cái gốc cây mục, và cũng lại im thin thít. Năm thì mười hoạ hắn mới hé hé mắt ra một tí, rồi lại im thin thít. Đó, hắn đã đặt ra cho lão một vấn đề không sao giải quyết nổi. Nói tóm lại, lão sống ở đấy ba ngày ba đêm mà cứ ngỡ mình ngồi ở bãi tha ma thăm người chết vậy, và có lúc đã lẩn thẩn nói chuyện một mình. Lão nghĩ bụng: “Chà, cơ sự này thì gay đây! Một người thích chuyện trò như mình mà phải sống thế này thì chả mấy chốc mà loạn óc mất!”…

Trong những ngày lễ, nghĩa là ngày mồng một tháng Năm và ngày mồng bảy tháng Mười một, khi phải nghe anh Maka Nagunốp nhà ta phát biểu dai như giẻ rách về cách mạng thế giới, tuôn ra hàng tràng những tiếng nghe chẳng hiểu là cái chết tiệt gì cả, sao mà lão khổ tai thế. Vậy mà trong mấy ngày ở đấy, lão chỉ ước gì được nghe anh ta nói suốt từ sáng đến tối, rồi lại suốt từ tối đến sáng, như nghe con sơn ca hót trong vườn, như nghe gà gáy nửa đêm vậy. Ờ mà bà con ơi, bà con thấy tiếng gà gáy nó thế nào? Lão thì thấy là nó nghe chẳng kém gì hát ở nhà thờ trong những buổi lễ cầu hồn cho kẻ chết đâu…

- Nói chuyện yêu không cần ăn đi chứ, cụ nội, chuyện gà gáy thì nói làm gì! – Anh chấm công đội sốt ruột ngắt lời bác.

- Bà con cứ bình tĩnh, đâu sẽ có đó, muốn chuyện yêu hay chuyện gì rồi cũng xong, không thành vấn đề. Nhưng lão đang nói chuyện Vaxili điếc đặc. Nếu hắn chỉ giở cái trò im thin thít thôi thì còn đỡ, nhưng hắn thêm cái tội ăn tham nữa mới hại lão chứ! Nấu được nồi cháo hoặc nồi bánh bột nặn thì rồi thế nào, bà con có biết không? Lão múc được một thìa thì hắn đã làm tới năm thìa. Mà cái thìa của hắn to tổ bố, nom cứ như cái càng xe lửa. Và cứ thoăn thoắt từ nồi lên mồm, rồi từ mồm xuống nồi, nom cứ chóng cả mặt, rồi đến khi mình nhìn xuống thì đã trơ cái đáy nồi ra rồi! Ăn xong lão đứng dậy cứ đói meo, còn hắn thì bụng trương phềnh, như cái bong bóng bò, hắn nằm phơi rốn ra và bắt đầu ợ nhá, ầm cả thảo nguyên! Hắn ợ hai tiếng đồng hồ liền, cái quân ôn dịch ấy, rồi chuyển sang ngáy. Mẹ cha hắn, chứ hắn ngáy khiếp đến nỗi ngựa ở quanh lều hết vía chạy bán xới cung mây cả. Hắn ngủ đến tận tối, về khoa ngủ thì hắn thật chả thua gì con cu ly ngủ mùa đông. Mấy ngày sống ở đấy, lão chết cay chết đắng như thế đó. Và đói rạc, như con chó hoang, và thèm nói chuyện, nhưng có đếch ai mà nói… Đến ngày thứ hai, lão đến ngồi bên hắn, khum hai tay làm loa, hét thật lực vào giữa lỗ tai hắn: “Đằng ấy vì sao điếc đấy? Vì chiến tranh, hay hồi bé bị tràng nhạc?”. Hắn gào trả lại to hơn: “Vì chiến tranh! Năm mười chín, xe lửa bọc sắt của Hồng quân bắn đại bác, nổ một quả cạnh chỗ tôi, con ngựa tôi cưỡi chết tươi, còn tôi thì bị chấn thương sinh ra điếc đặc”. Lão hỏi tiếp câu nữa: “Này, Vaxili ơi, tại sao đằng ấy chén như điên thế?”. Và hắn trả lời lão: “Ồ, mây kéo về thế là tốt đấy! Đang mong mưa!”. Đấy, bà con đi mà nói chuyện với một tên dấm dớ như vậy…

- Thế bao giờ mới nói sang cái tiết mục yêu đấy hả ông ơi? – Đến lượt Đúpxốp sốt ruột hỏi.

Bác Suka khó chịu cau mày lại:

- Yêu với chả đương, các anh chỉ được cái thế! Cái trò yêu đương ấy thì cả đời lão, cứ xin là tránh xa. Giá mà mồ ma ông cụ lão không ép thì mãn đời lão cũng chẳng thèm lấy vợ, thế mà bây giờ lại bảo lão nói chuyện yêu đương. Các anh thật là nhiễu sự!… Nhưng néu các anh muốn biết thì đây, lão kể các anh nghe yêu không cần ăn thì sẽ nên cơ sự gì…

Lão đến cái nơi lão được bổ nhiệm. Thế rồi đàn ngựa được chia làm hai tốp, nhưng mả mẹ nó, hai anh chú rể ngựa của lão chẳng thèm nhòm ngó gì đến các ả ngựa cái cả, độc suốt ngày gặm cỏ không biết mỏi răng… Không một mảy may ngó ngàng gì đến đám cô dâu! Lão nghĩ bụng: vấn đề rắc rối đây! Lão thật là khốn khổ nhục nhã vì hai cái con truyền chủng của lão. Lão cho chúng nó chén đầy đủ tiêu chuẩn lúa mạch đấy, nhưng mả mẹ chúng nó, chúng nó không đoái hoài gì đến lũ ngựa cái sất…

Ngày hôm sau cũng vẫn phớt lờ như thế. Lão đâm ra lúng túng ngượng nghiụ khi đi ngang qua chỗ bọn ngựa cái tội nghiệp kia, sượng mặt phải quay đi, không dám nhìn vào mắt chúng nữa, xin chịu thôi! Đời lão có bao giờ đỏ mặt đâu, nhưng ở đấy thì đã biết đỏ mặt là thế nào rồi: mỗi lần đến xua chúng ra đầm uống nước là y như rằng lão cứ đỏ dừ mặt như cô gái đồng trinh…

Lạy Chúa! Trong ba ngày đêm ấy, nhục nhã của lão vì hai con truyền chủng kia thì không sao kể xiết! Vấn đề hoàn toàn không giải quyết được. Sang ngày thứ ba đã diễn ra trước mắt lão cái cảnh như thế này: một ả ngựa cái tơ xán đến chàng màng con ngựa tía truyền chủng có sao trắng ở trán và cái vòng trắng ở cổ chân trái sau, mà lão gọi là con Hoa. Ả ngựa cái cứ ưỡn a ưỡn ẹo lượn quanh nó, đưa răng gặm gặm cù nó, giở đủ trò tán tỉnh. Cuối cùng, con Hoa ghếch đầu đặt lên lưng cô ả, lim dim mắt, rồi thở dài một tiếng nghe đến là não nuột… Ối Hoa ơi là Hoa, sao mà lại đến cái nông nỗi này! Lão giận phát run lên, nghĩ bụng: mấy con ngựa cái kia nó nghĩ về mình thế nào nhỉ? Chắc chúng nó bảo: “Cái lão già khỉ gió này dẫn đến cho chúng mình đúng là hai của nỡm”, và biết đâu chúng chả nói tệ hơn thế nữa ấy chứ…

Thế rồi ả ngựa cái khốn khổ kia mất hết kiên nhẫn, quay đít vào con Hoa của lão, phóng hai chân sau đạp cho cu cậu một qủa trời giáng vào mạng mỡ, đến nỗi nghe kêu đánh rắc một tiếng bên trong. Lão cũng chạy tới, vừa chạy vừa cay đắng vãi nước mắt ra, rồi quật cho con Hoa một roi ngựa vào lưng, quát ầm lên: “Mày mang danh là con truyền chủng sao lại bôi gio trát trấu vào mặt mày, và cả mặt tao nữa là người già lão!”.

Tội nghiệp cho nó, nó co cẳng bỏ chạy độ mươi xagien, rồi đứng lại, hí lên nghe thật là não nùng, làm lão đứt ruột, đứt gan, và thương nó quá, lão khóc. Lão quẳng cái roi đi, bước đến vuốt ve mũi nó, còn nó thì ghếch đầu lên vai lão mà thở dài.

Lão nắm lấy bờm nó dắt về lều, và bảo: “Thôi, Hoa ơi, thày trò ta về thôi, láng cháng ở đây chẳng được cái tích sự gì, lại chỉ chuốc thêm nhục vào thân…”. Nói xong lão thắng nó vào xe, lên đường quay về làng. Còn thằng Vaxili điếc đặc thì gào lên: “Ông ơi, sang năm lại ra đây nhá, ra húp cháo với nhau. Từ nay đến đó, đôi ngựa giống của ông nếu không ngẻo thì cũng đủ thời giờ hồi sức lại đấy”.

Lão về làng, báo cáo đầu đuôi cho anh Đavưđốp nghe. Anh ta ôm đầu, gắt lão: “Tại ông chăm chúng nó tồi!”. Lão cãi trả lại ngay: “Không phải lão chăm tồi, mà là các anh bắt chúng nó kéo xe cho các anh đi nhiều quá. Lúc thì anh, lúc thì anh Maka Nagunốp, lúc là Anđrây Radơmiốtnốp. Ngựa giống mà không lúc nào rời được càng xe, còn lúa mạch thì có quỳ mà lạy cũng không moi được của lão Iakốp Lukits. Đời thuở nhà ai lại bắt ngựa giống kéo xe bao giờ không? Khi nó đã là ngựa truyền chủng thì nó chỉ có việc chơi không rồi chén đẫy, không thế thì vấn đề hoàn toàn không giải quyết được”. Nhưng may quá, chắc bà con còn nhớ, trên huyện gửi về cho ta đôi ngựa giống khác, vấn đề ngựa cái thế là đã giải quyết được. Đấy, yêu mà không có đủ cái chén thì nó nghĩa là như thế đó. Rõ chưa, hả đồ ngốc các anh? Và có gì mà các anh cười, chuyện người ta là chuyện hết sức nghiêm chỉnh.

Bác Suka đưa con mắt đắc thắng nhìn cử toạ, nói tiếp:

- Các anh suốt ngày chỉ rũi đất, như bọ hung rũi đống phân thì còn hiểu cái quái gì ở trên đời này nữa? Còn lão đây thì tuần nào ít ra cũng lên huyện một lần, có khi nhiều hơn. Như chị, chị Kúprianốpna ạ, chị đã có lần nào được nghe đài nói chưa?

- Nào có đi đâu mà được nghe. Mười năm nay cháu có lên huyện đâu!

- Ấy đấy! Thấy chưa? Còn lão, lần nào lên huyện lão cũng được nghe chán thì thôi. Để lão kể bà con nghe cái đài nó là cái của khỉ gì. – Bác Suka ngó ngoáy đầu, cười khúc khích: - Nó là một cái ống đen đen treo trên một cái cột ở đối diện huyện uỷ, và lạy Chúa, nó nói oang oang lên nhá! Nghe mà dựng cả tóc gáy, và những hôm nóng nực hẳn hoi mà sống lưng cũng ớn lạnh, như kiến bò! Lão buộc ngựa bên cái ống ấy, lão nghe. Lúc đầu nghe nó nói về nông trang, về giai cấp công nhân, về những chuyện linh tinh khác nữa, cũng thấy hay hay. Nhưng rồi bỗng chỉ muốn rúc đầu vào thúng thóc: một anh chàng nào nó rống lên từ Mátxcơva, nghe ồm ồm như lệnh vỡ: “Rót nữa đi, rượu nồng ta cùng uống”, và lão nói bà con chả tin đâu, nhưng nghe hát thế mà tự nhiên lão thấy thèm tí chất cay quá, thèm khô cả họng! Thành thử về sau mỗi lần được cử đi công tác lên huyện, lão lại phải làm liều nẫng nhẹ của bà lão chục trứng gà, hoặc nhót được bao nhiêu thì nhót, và vừa đặt chân đến huyện, lão đảo ngay ra chợ, bán trứng đi, rồi lại đảo ngay ra quán. Ngồi rung đùi bên cốc vốtka mà nghe cái ống ấy nó hát đủ các thứ bài thì lão có thể đợi đồng chí Đavưđốp suốt ngày được. Những khi không nhót được trứng ở nhà, vì về sau bà lão cảnh giác theo dõi lão sát sao mỗi lần lão đi, thì lão vào huyện uỷ, rỉ tai đồng chí Đavưđốp: “Anh Xêmiôn ơi, chiêu đãi lão phần tư lít vốka đi, chứ ngồi vêu đợi đồng chí thì lão buồn chết mất”. Anh ấy là người rất chi là xông cảm, cho nên chả bao giờ từ chối, thế là lão lại ra thẳng quán, nhấm nháp một chút, rồi hoặc là tìm chỗ nắng ấm đánh một giấc thoải mái, hoặc là nhờ ai trông giùm hai con truyền chủng lão đi phố thanh toán mấy cái công tác chưa được giải quyết của lão.

- Ông thì còn có công tác gì trên huyện? – Akim Bexkhlépnốp hỏi.

Bác Suka thở dài:

- Một ông chủ gia đình thì thiếu gì công tác? Lần thì chai dầu tây, lần thì hai ba bao diêm. Hoặc nói xí dụ là: lúc nãy đồng bào hỏi lão những cái tiếng thông thái trong tờ điển, thế thì trong tờ điển người ta in như thế này: đầu tiên là một chữ in nét đậm, không có kính lão cũng nhận ra, nhưng liền ngay cạnh nó là những chữ li ti để giải thích, tức là để giảng cái nghĩa của nó. Thực ra có những chữ chả cần phải giảng nghĩa là gì lão cũng thừa hiểu. Xí dụ như chữ “độc quyền”, lão thừa biết nó là cái quán bán rượu, chữ “pích-cớp” thì nghĩa là một anh vô tích sự, một thằng ba que xỏ lá, có thế thôi. Còn “hội hoạ” là một cô gái đẹp ăn mặc theo lối tỉnh thành, ngược lại “đăng-ren” thì chẳng phải cái gì khác mà là một bà đang đi dạo mát, “hành lang” thì chính là cái tình yêu của anh đấy, anh Agaphôn ạ, cái tình yêu nó làm anh đâm ra hơi bị ngớ ngẩn, và nhiều chữ khác nữa. Nói thế thôi chứ lão vẫn cần có đôi kính. Một hôm lên huyện với anh Đavưđốp, lão đi kiếm ngay chỗ mua kính. Bà nhà lão cho lão tiền vì đây là một việc rất chi là quan trọng.

Lão đi đến một nhà thương, nhưng tới nơi thì té ra chẳng phải là nhà thương, mà là nhà đẻ; ở một phòng độc thấy những bà đang rên i ỉ, khóc mếu mỗi người một giọng, trong một phòng khác thì trẻ lóc nhóc bé bằng nắm tay đang ngheo ngheo như mèo con. Lão nghĩ bụng: mình nhầm chuồng rồi, đây thì người ta làm gì có kính bán cho mình. Lão đi đến một nhà thương khác thì thấy có hai anh chàng đang ngồi đánh cờ ngoài hiên. Lão chào và hỏi: “Ở đây bán kính chỗ nào đấy ạ?”. Hai anh chàng ấy co rúm người lại, và một anh nói: “Ông nội ơi, ở đây người ta bán cho ông cái loại kính ông đeo vào thì nổ con ngươi ra đấy, đây là nhà thương hoa liễu, ông có mau mau cao chạy xa bay đi không, không thì người ta sẽ đè ông ra chữa cho ông đấy”.

Tất nhiên là lão sợ gần chết và ù té nhá, ba chân bốn cẳng bán xới cho mau khỏi cái nhà thương ấy. Và hai cái thằng chết giẫm kia đuổi theo lão ra đến đường, một thằng huýt sáo the thé, còn một thằng thì kêu ầm hàng phố lên: “Chạy mau lên, ông già chơi trống bỏi ơi, kẻo họ tóm được bây giờ!”. Ối giời ơi, thế là lão phi như ngựa, tẩu như bay! Thành thử lão nghĩ bụng, trong lúc Chúa đi vắng, họ có thể bắt oan mình, rồi đứng trước mặt các ông bác sĩ anh tha hồ mà phân trần.

Chạy đến hiệu thuốc thì tim lão muốn nhảy ra ngoài. Nhưng hiệu thuốc cũng không có kính bán. Người ta bảo: cụ ơi, cụ phải đi Milêrôvô hoặc Rôxtốp, bác sĩ khoa mắt người ta cấp giấy cho cụ thì mới mua được kính. Lão nghĩ bụng: thế thì lão xin kiếu, hơi đâu đi vì cái chuyện vớ vẩn ấy!... Thành thử đọc tờ điển lão cứ đoán thôi, vấn đề kính thế là hoàn toàn không giải quyết được.

Chuyện xảy ra cho lão ở trên huyện thì có biết bao mà kể, vô thiên lủng!

- Ông ơi, ông phải kể cho thứ tự tí, không lại như con chim sẻ nhảy cành nọ sang cành kia, rồi không biết đâu là đầu, đâu là đuôi nữa, - Đúpxốp đề nghị.

- Thì chính là lão đang kể thứ tự đây, trọng tâm là anh đừng có ngắt lời lão. Anh mà ngắt lần nữa là đầu óc lão lẫn tiệt, rồi chuyện lão kể sẽ rối tinh lên, bà con xúm vào gỡ cũng chẳng gỡ nổi đâu. Là lão đang nói chuyện một hôm lên huyện, lão gặp một hội họa, nghĩa là một cô gái đẹp, xinh xắn như một con dê cõn, ăn mặc theo kiểu tỉnh thành, tay đeo ví. Cô ta đi giày cao gót, độc nghe thấy “cốp, cốp, cốp, cốp” cứ như con dê gõ móng xuống đất. Mà lão thì về già sao mà lão thích những cái mới lạ thế không biết, thích kinh lên được! Bà con ạ, lão cũng đã đi thử xe đạp rồi đấy. Một hôm thấy một cậu chàng đang cưỡi cái máy ấy, lão bèn hỏi: “Cháu ơi, cháu cho lão cưỡi thử cái máy của cháu tí xem sao”. Anh chàng ấy vui vẻ bằng lòng ngay, giúp lão leo lên cái máy chạy của anh ta, giữ cho lão đi, còn lão thì hai chân ra sức đạp loạn lên. Rồi lão đề nghị anh ta: “Đừng giữ nữa cháu, lạy Chúa, lão muốn đi một mình xem sao”. Nhưng anh ta vừa buông lão ra là tay lái lão ngoáy một cái, và lão ngã chúi vào bụi xiêm gai. Gai cây ấy đâm vào khắp người lão, và cả chỗ không tiện nói với bà con, nhiều không sao đếm xuể! Lão mất một tuần lễ mới nhổ hết, lại thêm cái quần móc phải gốc cây rách tan.

- Ông nội ơi, ông kể chuyện cô gái kia đi chứ, chuyện cái quần của ông kể làm gì! – Đúpxốp nghiêm trang ngắt lời bác. – Ông nghĩ mà xem, cái quần của ông thì anh em thiết gì?

- Đấy, anh lại ngắt lời lão rồi, - bác Suka rầu rĩ đáp. Nhưng rồi bác cũng vui lòng kể tiếp: - Lão đang nói chuyện cái con dê cõn xinh xắn ấy vừa bước đi vừa vung vẩy tay như một chú lính đi một hai, còn lão thì nghĩ bậy trong bụng: ước gì mình được khoác tay cô ấy đi dạo tí nhỉ! Cả đời lão chưa được khoác tay ai bao giờ, mà trên phố huyện thì thấy trai gái họ đi với nhau kiểu thế luôn: lúc thì cậu khoác tay cô, lúc thì cô khoác tay cậu. Lão xin hỏi bà con, ở nhà quê ta thì làm gì ra có cái thú ấy? Ở làng ta mà đi như thế thì người ta cười cho thối mũi, có phải không? Và đến đây nảy ra một vấn đề: làm thế nào để khoác được tay người đẹp kia nhỉ? Thế là lão nghĩ được một kế: lão còng lưng xuống rồi rên rỉ ầm cả hàng phố. Cô gái chạy đến, hỏi: “Cụ sao thế hả cụ?”. Lão đáp: “Cô ơi, lão ốm, lưng đau như gãy thế này thì làm sao tới nhà thương bây giờ…”. Cô ta bảo: “Để cháu dìu cụ đi. Cụ vịn vào tay cháu đây”. Lão đem hết can đảm ra khoác lấy tay cô ấy, cứ như lão với cô ấy khoác tay nhau đi dạo vậy. Khoái ơi là khoái! Vừa tới cửa hàng bách hóa huyện thì lão từ từ thẳng người lên, và trong khi cô ta còn ngơ ngác chưa hiểu, lão làm đánh chụt một cái lên mà cô ta rồi bỏ chạy vào cửa hàng, mặc dù lão chẳng có công tác gì trong ấy cả. Mắt long lên sòng sọc, cô ta chửi với theo: “Ông là người đê tiện, giả vờ giả vịt!”. Lão bèn đứng lại, nói: “Cô ơi, đói ăn vụng, túng làm liều! Cô xông cảm cho, từ thuở cha sinh mẹ đẻ lão chưa được khoác tay một cô gái đẹp bao giờ, và lão sắp về chầu trời đến nơi rồi”. Rồi lão chuồn vào trong cửa hàng, phòng cô ta gọi sảnh sát. Nhưng cô ta bật cười rồi bỏ đi đường cô ta, độc chỉ còn nghe thấy côm cốp cồm cộp. Lão chạy đâm đầu vào trong cửa hàng, miệng thở hổn hển. Người bán hàng hỏi: “Cụ cháy nhà sao đấy?”. Lão thở không ra hơi, nhưng cũng đáp: “Còn quá cháy nhà chứ. Anh bán cho lão bao diêm”.

Bác Suka còn muốn tiếp tục kể lể con cà con kê hồi lâu nữa, nhưng mệt mỏi sau một ngày lao động, các thính giả của bác bắt đầu lục tục giải tán. Bác khẩn khoản nài họ chịu khó nghe nốt vài chuyện nữa nhưng vô hiệu: chẳng mấy chốc quanh đống lửa tàn đã không còn lấy một bóng người.

Tự ái và ngán ngẩm hết sức, bác Suka lò mò ra chỗ máng cỏ, lăn vào đấy đắp áo dipun nằm co ro. Nửa đêm sương rơi nặng hạt. Bác Suka rét run cầm cập choảng tỉnh dậy, và quyết định: “Ta vào xe lều ngủ với anh em, chứ nằm đây thì mình run như con chó con vứt ngoài tuyết vậy”.

Cái lô những chuyện đen đủi lại tiếp tục đổ xuống đầu bác, từ từ, nhưng không tránh được… Bác nhớ là trong vụ cày xuân, anh em kôdắc vẫn ngủ trong lều còn cánh phụ nữ thì ngủ ngoài trời, và trong lúc mắt nhắm mắt mở không nghĩ ra là hai tháng qua sự đời đã có thể đổi thay, bác Suka lẳng lặng bò lổm ngổm vào trong xe, cởi giày ra, nằm ngay xuống bên cửa, rồi ngủ say tít cung mây giữa hơi người ấm sực. Nhưng một lát sau bác lại choàng tỉnh dậy vì tức thở. Sờ thấy có cái đùi ai phơi trần gác lên ngực mình, bác bực mình không chịu được, nghĩ bụng: “Cái dân cổ cày vai bừa này nó ngủ cũng không ra thế nào. Cưỡi lên người ta như cưỡi ngựa thế này bao giờ!”. Nhưng khi định gạt cái khối thịt nặng như tảng đá đè trên ngực ấy ra thì bác bỗng rụng rời chân tay: đó không phải cái đùi đàn ông mà là cánh tay để trần của bà Kúprianốpna. Và bác nghe thấy bà ta thở phì phò bên tai. Trong xe lều toàn chỉ có cánh phụ nữ ngủ…

Bác Suka nằm rã rời vài phút nữa, không dám cựa, hoảng sợ, mồ hôi vã ra như tắm. Rồi bác vơ vội đôi giày len lén bò ra khỏi xe như con mèo ăn vụng, và bước thấp bước cao đi ra xe của bác. Bình sinh chưa bao giờ bác thắng ngựa vào xe nhanh thoăn thoắt đến thế! Bác vung roi quất ngựa một cách không thương xót, cho xe phóng như bay rời khỏi chốn này, mắt chốc chốc lại ngoái lại nhìn chiếc xe lều đang in bóng tai ác của nó lên nền trời rạng đông.

“Phúc tổ mình đã kịp thời tỉnh dậy. Chứ nếu mình ngủ quá mắt đi, cánh phụ nữ sẽ trông thấy mình nằm cạnh mụ Kúprianốpna mất, và cái vòng tay hộ pháp của con mụ khốn kiếp ấy lại còn ôm choàng lấy mình nữa chứ!... Ối giời ơi, lạy Đức bà đồng trinh! Thiên hạ sẽ cười cho đến lúc mình xuống lỗ, và xuống lỗ rồi cũng chưa chắc đã thoát đâu!”.

Ngày hè bình minh lên nhanh. Chiếc xe lều đã khuất không còn trông thấy nữa. nhưng đi khỏi ngọn gò thì một chuyện đau đầu khác phục sẵn đợi bác ở đấy: vô tình nhìn xuống chân, bác bỗng phát hiện chân phải bác đi một chiếc giày phụ nữ hầu như mới toanh, đường khâu rất khéo và có dây da rất điệu. Nhìn cỡ thì rõ rành rành chỉ có thể là của bà Kúprianốpna thôi…

Sợ đến lạnh tóc gáy, bác Suka lên tiếng cầu nguyện: “Lạy Chúa lòng lành, con có làm gì trái ý Chúa mà Chúa trừng phạt con thế này?! Nghĩa rằng là lúc tối tăm mình đã xỏ nhầm giày. Thế này thì mình vác mặt về nhà với bà lão làm sao đây? Một chân giày đàn ông, một chân giày đàn bà, đó là một vấn đề không thể giải quyết được!”.

Nhưng rồi vấn đề vẫn được giải quyết: bác Suka lái ngoặt xe, cho rẽ vào con đường dẫn về làng. Bác đã quyết định một cách rất chí lý rằng bác không thể lên huyện đi chân đất, hoặc mỗi chân một kiểu giày được. “Mặc xác cha cái anh trắc địa ấy, không có anh ta thì vẫn cứ xong việc như thường. Đâu cũng là Chính quyền xôviết, đâu cũng là nông trang cả, vậy nông trang này lấn của nông trang kia tí đất đồng cỏ thì đã sao”, - trên đường về Grêmiatsi Lốc bác buồn bã lý sự một mình như vậy.

Về cách làng hai cây số, quãng con đường men theo một đoạn khe sâu, bác đã ra một quyết định nữa không kém phần táo tợn: bác cởi hai chiếc giày ra, lấm lét nhìn quanh, rồi vứt tòm xuống khe, miệng lẩm bẩm chửi vọng theo:

- Tiên nhân cha chúng bay chứ, tội gì ông chịu khốn nạn vì chúng bay!

Hể hả phấn khởi vì đã trút gọn được cái tang vật oan gia kia, bác Suka cười nụ khi mường tượng thấy cảnh bà Kúprianốpna sáng sớm tỉnh dậy sẽ kinh ngạc xiết bao khi thấy chiếc giày da của mình đã mất tích một cách bí hiểm như thế.

Nhưng bác mừng hơi sớm: hai đòn nữa của số mệnh, hai đòn cuối cùng, nhưng cũng là những đòn ác liệt nhất, chí tử, đang đợi bác ở nhà…

Vừa tới đầu ngõ bác đã trông thấy một đám các bà đang tụ tập, xôn xao vì chuyện gì chẳng biết. Bác giật mình nghĩ bụng: “Khéo bà nó nhà mình làm sao rồi?”. Bác chẳng nói chẳng rằng rẽ đám các bà đang có chuyện gì cứ tủm tà tủm tỉm kia ra, bước vào. Nhưng vừa vào tới bếp và đưa vội mắt nhìn quanh một cái, bác bỗng bủn rủn chân tay, rồi làm dấu phép, miệng thều thào không ra hơi: “Gì thế này?”.

Bà lão nhà bác đang nước mắt ngắn nước mắt dài lắc lắc ru một trẻ mới đẻ cuốn tã và đang khóc giật lên từng cơn…

- Cái gì mà lạ thế này? – Bác Suka sững sờ thều thào, nhưng tiếng bác nghe đã rõ hơn.

Thế là bà lão trợn ngược đôi mắt sưng húp lên nom đến dữ tợn, bù lu bù loa:

- Con ông người ta quẳng giả đây, chứ còn chuyện gì! Mẹ cha ông, chữ nghĩa lắm vào! Banh mắt ra mà đọc cái giấy trên bàn kia đi.

Bác Suka càng tối sầm mặt lại, nhưng rồi loay hoay cũng đọc được mấy dòng chữ nguệch ngoạc như gà bới viết trên một mấu giấy gói:

“Thưa cụ, cụ đã cho con đứa trẻ này thì xin cụ hãy nuôi lấy nó”.

……………………..

Đến chiều, giọng khản đặc vì xúc động và vì gào, bác Suka gần như đã thuyết phục được bà lão là bác chả có tham gia tí gì vào sự ra đời của đưa bé này cả, thì vừa đúng lúc ấy ở cửa bếp xuất hiện một thằng bé lên tám, con nhà Liubiskin.

- Ông ơi, hôm nay cháu đi chăn cừu, trông thấy ông đánh rơi giày xuống khe. Cháu xuống tìm, mang về cho ông đây. – Và nó chìa ra đưa bác Suka đôi giày tội nợ kia…

Sau đó đã xảy ra chuyện gì thì, theo cách nói của mồ ma bác thợ giày Lôkacheép là bạn con chấy cắn đôi của bác Suka, điều đó “còn bao phủ trong tấm màn bí mật”. Chỉ biết rằng trong suốt tuần lễ sau đó bác Suka phải băng kín má, và mắt bác húp híp thâm tím; và khi có ai tủm tỉm hỏi bác vì sao phải băng má thì bác quay mặt đi, trả lời là cái răng độc nhất còn lại của bác bị đau, đau lắm, đau không thể nói chuyện được…

CHƯƠNG XX

Sớm bảnh mắt, Anđrây Radơmiốtnốp đã đến trụ sở xôviết để ký và gửi hỏa tốc lên huyện bản tổng kết vụ cắt cỏ và bản báo cáo về công tác chuẩn bị vụ gặt. Anh đang tập hợp những con số báo cáo của từng đội thì có tiếng gõ mạnh ở cửa.

Vẫn chúi mũi vào đống giấy má anh lớn tiếng nói:

- Cứ vào!

Hai người lạ mặt bước vào, và lập tức gian phòng cứ như là chật ních người. Một trong hai người ấy, người mặc áo đi mưa vải sơn mới toanh, dáng người trùng trục đẫy đà, mặt tròn vành vạnh râu ria cạo nhẵn, chẳng có nét gì đặc biệt, bước tới bên bàn mỉm cười chìa cho Radơmiốtnốp một bàn tay rắn như sắt nguội:

- Tôi là Pôliakarpơ Pêtơrôvits Bôikô, cán bộ tiếp phẩm ban đời sống công nhân mỏ Sakhơtư, còn đây, - và anh ta khinh khỉnh hất ngón tay cái qua vai chỉ người cùng đi với mình đang đứng cạnh cửa, - đây là người giúp việc tôi, tên là Khigiơnhiắc.

Anh chàng này nom có vẻ một anh dắt bò hoặc một lái buôn gia súc. Chiếc áo đi mưa vải sơn lem luốc có mũ trùm đầu, đôi ủng da bò ống rộng, chiếc mũ kêpi xám bẹp dúm và cái roi sang trọng có hai tua da cầm tay, tất cả những cái đó đều thầm lặng chứng minh nghề nghiệp của anh ta. Nhưng vẻ mặt anh ta lại chẳng phù hợp chút nào với cách ăn mặc ấy: đôi mắt thông minh sắc sảo, một nét hóm hỉnh bên khóe môi mỏng, lông mày trái dướn lên như đang nghe ngóng, một cái gì có vẻ trí thức trên dáng mặt, đối với một người có con mắt nhận xét thì tất cả những cái đó nói lên một cách hùng hồn rằng anh chàng này hoàn toàn xa lạ với việc thu mua gia súc và với mọi nhu cầu của kinh tế nông thôn. Radơmiốtnốp nhận xét thầm trong bụng thấy ngay như vậy. Thực ra anh cũng chỉ nhìn nhác qua khuôn mặt của Khigiơnhiắc thôi, rồi nhìn ngay xuống đôi vai bè bè quá khổ của anh ta, rồi bất chợt mỉm cười nghĩ bụng: “Cán bộ thua mua gì những ông mãnh này! Tướng giặc thì có… Hai ông tướng này thì chỉ có đêm đêm phục dưới gầm cầu rình những anh cán bộ thương nghiệp xỉa cho một nhát là đúng thôi…”. Cố giữ vẻ mặt nghiêm trang, anh hỏi:

- Các đồng chí đến có việc gì?

- Chúng tôi đi thu mua gia súc riêng của bà con nông trang viên: đại và tiểu gia súc có sừng, và cả lợn nữa, còn gà vịt thì tạm thời chúng tôi chưa cần. Có thể sang mùa đông này sẽ thu mua cả gà vịt, nhưng trước mắt thì chưa. Chúng tôi mua theo giá của nông trang, và tùy từng con mà có thêm tiền thưởng công vỗ béo. Đồng chí chủ tịch ạ, đồng chí cũng thừa hiểu lao động thợ mỏ là lao động nặng nhọc, và phải nuôi công nhân mỏ chúng ta tử tế.

Radơmiốtnốp gõ nhẹ xuống bàn:

- Cho xem giấy.

Hai anh tiếp phẩm đặt lên bàn giấy công tác. Giấy tờ hợp lệ cả: tiêu đề, chữ ký, dấu má, đủ tất, nhưng Radơmiốtnốp cứ xem xét mãi hồi lâu một cách soi mói mấy tờ giấy, không để ý thấy anh chàng Bôikô quay lại nháy mắt với anh giúp việc của mình rồi cả hai mỉm cười vụng với nhau.

- Đồng chí tưởng giấy tờ giả mạo? – Bôikô hỏi, lần này đã mỉm cười cởi mở, và chẳng đợi mời, ngồi luôn xuống chiếc ghế đặt bên cửa sổ.

- Không, tôi không cho là giả… Nhưng tại sao các đồng chí lại chọn nông trang chúng tôi? – Radơmiốtnốp không ăn giọng nói đùa, vẫn giữ vẻ nghiêm trang.

- Đâu phải chúng tôi chọn nông trang các đồng chí. Chúng tôi không chỉ đến nông trang các đồng chí mà thôi. Chúng tôi đã đi sáu nông trang quanh vùng, đã thu mua được năm chục đầu con, trong đó có ba đôi bò già, bê, bò cái hết sữa, cừu và khoảng ba chục lợn…

- Ba mươi bảy, - anh chàng vai bè bè vẫn đứng bên cửa, đưa con số cụ thể nhắc thủ trưởng của mình.

- Đúng, ba mươi bảy đầu lợn, và với giá phải chăng. Xong ở đây, chúng tôi còn đi một số trang ấp khác.

- Trả tiền ngay chứ? – Radơmiốtnốp hỏi.

- Tiền trao cháo múc! Nói thực thì chúng tôi không đem theo nhiều tiền mặt đâu. Đồng chí Radơmiốtnốp ạ, đồng chí biết đấy, thời buổi nhiễu nhương, chả nêm đem mỡ nhử miệng mèo… Để thanh toán chúng tôi có tín phiếu.

Radơmiốtnốp ngả người ra lưng ghế, cười khà khà:

- Các anh mà cũng sợ bị móc túi à? Có các anh lộn túi và lột áo người ta thì có!

Bôikô kín đáo cười. Trên đôi má hồng hào như má con gái của anh ta hiện ra hai lúm đồng tiền. Khigiơnhiắc thì vẫn tỉnh bơ như không, lơ đãng nhìn ra cửa sổ, Radơmiốtnốp mới để ý thấy má trái của anh ta có một vết sẹo sâu, kéo dài từ cằm đến dái tai. Anh hỏi:

- Chiến tranh để lại cho anh cái dấu trên má ấy đấy à?

Khigiơnhiắc quay phắt lại, khẽ nhếch mép cười:

- Đâu phải chiến tranh! Sau chiến tranh tôi mới vớ được nó…

- Tôi cũng đoán thế, nom không có vẻ một nhát kiếm chém. Chắc là chị ấy cào hả?

- Không, cô ấy lành lắm. Đó là một lần say rượu, một ông bạn cố tri chơi cho một nhát dao găm…

- Điển trai như anh thì tôi nghĩ là anh bị chị ấy vạc mặt ra, nhưng nếu không phải chị ấy thì chắc cũng là do chuyện gái, phải không? – Radơmiốtnốp làm ra bộ ngây thơ hỏi tiếp, vừa hỏi vừa vuốt ria cười.

- Đồng chí đoán giỏi lắm, đồng chí chủ tịch ạ.. – Khigiơnhiắc mỉm cười châm biếm.

- Nghề của tôi là phải biết đoán… Và vết sẹo của anh không phải do dao đâm, mà do kiếm chém, chuyện này thì tôi có kinh nghiệm. Và tôi còn thấy là anh không phải một anh tiếp phẩm, cũng như tôi không phải một lão thầy cả vậy… Cái mặt mũi anh không phải mặt mũi dân đen, tay anh cũng vậy: hai bàn tay xem ra bình sinh chưa túm vào cái sừng bò, hai bàn tay quý phái.. Có rắn đấy, nhưng trắng nõn.. Lẽ ra anh nên đem nó ra phơi nắng, cho đen đen đi một tí, và trát tí phân bò vào, như thế may ra tôi mới tin được anh là một anh tiếp phẩm. Còn như anh chỉ vung vẩy cái roi thế thôi thì vô ích, cái roi làm sao che được mắt tôi!

- Đồng chí đoán giỏi thật đấy, đồng chí chủ tịch ạ, - Khigiơnhiắc nhắc lại, nhưng lần này thì không cười ruồi nữa. – Nhưng mới giỏi một nửa thôi: sẹo của tôi đúng là sẹo kiếm chém, có điều là thừa nhận như thế nó cũng hơi phiền phiền, tôi không muốn. Xưa kia tôi đi bạch vệ, và bị đánh cái dấu này vào mặt đây. Chuyện ấy ai còn muốn nhắc đến làm gì. Còn chuyện tay thì tôi không phải dân dắt bò, tôi chỉ đi mua bò thôi. Công việc của tôi là đếm giấy bạc xì ra, chứ không phải việc túm đuôi bò. Đồng chí thắc mặc về cái bộ dạng của tôi hả đồng chí Radơmiốtnốp? Thì tôi cũng chỉ mới đi là tiếp phẩm ít lâu nay thôi mà. Trước, tôi làm kỹ sư nông nghiệp, nhưng vì cái tính nát rượu nên bị cách chức, đâm ra phải đổi nghề… Bây giờ đồng chí đã rõ chưa, hả đồng chí chủ tịch? Đồng chí buộc tôi phải nói thật, thì tôi cũng đành phải xưng tội với đồng chí…

- Tôi cần đến lời xưng tội của anh cũng như con chó cần có thêm chân thứ năm vậy. Để rồi GPU họ sẽ bảo anh xưng tôi, và giải tội cho anh nếu họ muốn, còn tôi thì không dính dáng gì vào chuyện ấy. – Radơmiốtnốp nói, rồi vẫn ngồi nguyên như thế, réo gọi: - Maria! Ra đây tôi bảo!

Cô trực nhật đang ở phòng bên rụt rè bước ra.

- Chạy gọi cho tôi anh Nagunốp. Bảo anh ấy ba chân bốn cẳng đến ngay trụ sở Xôviết, có việc rất cần. – Radơmiốtnốp ra lệnh, mắt nhìn chằm chằm đầu tiên là vào Khigiơnhiắc, rồi nhìn sang Bôikô.
Khigiơnhiắc ra ý phân vân, và tự ái nhún đôi vai rộng bè bè, ngồi xuống tấm ghế dài quay mặt đi. Còn Bôikô thì cố nhịn cười, toàn thân rung bần bật như cái lò xo, rồi cuối cùng thốt lên bằng giọng nam cao:

- Thế mới gọi là cảnh giác cao! Cái lối ấy là mình rất ưa! Chết chửa, đồng chí Khigiơnhiắc ơi? Chết thẳng cẳng như gà nhảy vào nồi cháo nhá!

Anh ta vỗ đôm đốp lên hai cái đầu gối nần nẫn của anh ta, cúi gập người xuống mà cười, nom hồn nhiên đến nỗi Radơmiốtnốp nhìn anh ta mà không dấu nổi ngạc nhiên:

- Anh béo này cười cái gì? Cười vừa chứ kẻo rồi lên huyện lại khóc hết nước mắt đấy! Các anh bực thì cũng mặc xác các anh, tôi cứ cho giải các anh lên huyện để xác minh ngay gian. Tôi ngờ các anh lắm, các đồng chí tiếp phẩm ạ.

Gạt hai giọt nước mắt vì cười mà ứa ra, và đôi môi dày mọng vẫn còn méo xệch vì chưa hết buồn cười, Bôikô hỏi:

- Thế giấy tờ của chúng tôi, đồng chí đã kiểm tra rồi đấy, và thừa nhận không phải là giả mạo kia mà?!

- Giấy tờ là một chuyện, nhưng đội lốt giấy tờ lại là chuyện khác. – Radơmiốtnốp cau mặt lại nói, rồi lấy thuốc lá từ tốn cuốn một điếu.

Lát sau thì Nagunốp tới. Chẳng chào ai, anh hất hàm về phía hai anh tiếp phẩm, hỏi Radơmiốtnốp:

- Những người nào đây?

- Hỏi người ta ấy!

Nagunốp bảo họ đưa xem công lệnh, hỏi họ vài câu rồi quay sang Radơmiốtnốp:

- Thế thì có chuyện gì nhỉ? Cậu gọi mình sang đây làm gì? Những người này đến đây thu mua gia súc, thì cứ để người ta mua.

Radơmiốtnốp sôi lên, nhưng vẫn nói bằng giọng khá bình tĩnh:

- Không, không mua bán gì cả, trong khi tôi chưa xác minh được ngay gian. Có chuyện gì hả? Có chuyện là tôi nom mặt không ưa hai cái anh này lắm! Tôi cho giải lên huyện kiểm tra lại xem sao đã, rồi muốn mua bán gì thì mua.

Bấy giờ Bôikô mới khẽ nói:

- Đồng chí Radơmiốtnốp, đồng chí bảo cô nhân viên kia ra ngoài đi. Tôi có việc muốn nói.

- Các anh với tôi thì có chuyện gì bí mật cần nói với nhau nhỉ?

- Tôi bảo thì đồng chí cứ làm đi, - Bôikô nhắc lại vẫn khẽ như thế, nhưng đã bằng giọng ra lệnh.

Và Radơmiốtnốp chịu thua. Khi chỉ còn mình họ trong phòng, Bôikô rút ở túi trong tấm áo vettông ra một tấm thẻ đỏ nhỏ, mỉm cười đưa cho Radơmiốtnốp:

- Đọc đi, ông tổ sư ranh! Đóng kịch với ông không xong thì phải mở bài ra với ông vậy. Đầu đuôi là thế này, các đồng chí ạ: hai chúng tôi là nhân viên công anh của khu được phái về đây truy lùng một kẻ thù chính trị nguy hiểm âm mưu phiến loạn, một tên phản cách mạng điên cuồng. Để khỏi lộ, chúng tôi phải đóng vai nhân viên tiếp phẩm. Như thế hoạt động dễ hơn: chúng tôi cứ la cà các nhà, chuyện trò với bà con, và chúng tôi hy vọng sớm muộn sẽ phát hiện được tung tích tên phản cách mạng ấy.

- Đồng chí Glukhốp ơi, sao đồng chí không nói ngay từ đầu cho chúng tôi biết các đồng chí là ai? Như thế có phải đã tránh được hiểu lầm nhau không! – Radơmiốtnốp thốt lên.

- Nguyên tắc hoạt động bí mật, Radơmiốtnốp thân mến ạ! Nói cho anh, cho Đavưđốp và Nagunốp biết thì chỉ một tuần sau là toàn Grêmiatsi Lốc này sẽ biết chúng tôi là ai. Lạy Chúa, các anh đừng tự ái, đây không phải là vấn đề chúng tôi không tin anh, nhưng đáng tiếc là vẫn thường xảy ra như vậy. Chúng tôi không được phép hành động bất cẩn trong một nhiệm vụ có tầm quan trọng lớn đối với chúng ta như vậy. – Bôikô-Glukhốp đút tấm thẻ đỏ vào túi sau khi Nagunốp đã xem qua, và giải thích bằng một giọng bề trên.

- Các đồng chí có thể cho biết đang truy lùng tên nào không? – Nagunốp hỏi.

Bôikô-Glukhốp không đáp, lục tìm trong chiếc ví to tướng, rồi cẩn thận đặt vào lòng bàn tay chuối mắn của anh một tấm ảnh cỡ chứng minh thư.

Radơmiốtnốp và Nagunốp cúi xuống mặt bàn xem. Trên mảnh giấy nhỏ hình chữ nhật, một người đàn ông đứng tuổi, vai ngang chằn chặn, cổ bạnh như cổ bò, đang hiền lành mỉm cười với các anh. Nhưng cái nụ cười làm ra hiền lành ấy chẳng ăn nhập gì với cái trán như trán chó sói, với đôi mắt quằm quặm sâu hoắm, với cái cằm bạnh của hắn ta. Nagunốp xem chỉ cười khẩy một cái, còn Radơmiốtnốp thì lắc đầu nhận xét:

- Ông anh nom hắc gớm nhỉ!

- Chúng tôi đang lùng cái “ông anh” này đây, - Bôikô-Glukhốp trầm ngâm nói, rồi cũng cẩn thận như lúc giở ra, anh gói nó lại vào một tờ giấy trắng sờn mép và cất vào cái ví. Tên họ nó là Alếchxanđrơ Anhiximôvits Pôlốptxép. Nó nguyên là quan ba bạch vệ, trong đội quân tiễu phạt, đã tham gia trận tàn sát phân đội Pốtchenkốp và Krivôslưkốp. Sau này nó đội một tên giả, đi làm nghề dạy học, rồi về quê sống. Nó là một trong những phần tử hoạt động tích cực nhất chuẩn bị một cuộc nổi loạn chống Chính quyền xôviết. Theo các nguồn tin báo cáo của chúng tôi thì nó đang lẩn quất đâu đây trong huyện các đồng chí. Đây là tất cả những gì tôi có thể nói được với các đồng chí về tên ấy. Các đồng chí có thể truyền đạt lại cho Đavưđốp chuyện ta vừa nói, ngoài ra không được hé răng với ai điều gì. Tôi tin ở các đồng chí. Thôi, xin chào. Các đồng chí không nên gặp chúng tôi, tất nhiên là nếu không có việc gì cần, còn như nếu các đồng chí có tin gì hay cần báo cho chúng tôi thì cứ gọi tôi đến trụ sở xôviết vào lúc ban ngày, và chỉ ban ngày thôi, để bà con dân làng khỏi có ý gì nghi ngờ tôi. Một điều cuối cùng: các đồng chí nên mười phần cảnh giác! Nói chung là không nên đi đêm. Pôlốptxép không dám manh động, nó không muốn bị lộ, nhưng cảnh giác vẫn không phải thừa. Nói chung là các đồng chí không nên đi đêm, và nếu phải đi, không nên đi một mình. Vũ khí bao giờ cũng phải bất ly thân, tôi khuyên các đồng chí như thế mặc dù xem ra thì các đồng chí cũng chẳng để ly thân đâu. Đồng chí Radơmiốtnốp ạ, tôi nghe thấy đồng chí, trong khi lời đi tiếng lại với Khigiơnhiắc, hai lần quay ổ đạn khẩu súng lục đút trong túi quần, có phải không?

Radơmiốtnốp nheo mắt lại quay đi làm như không nghe thấy câu hỏi. Nagunốp đỡ lời anh:

- Sau lần tôi bị chúng nó bắn, chúng tôi luôn luôn sẵn sàng tự vệ.

Bôikô-Glukhốp mỉm cười tế nhị, nói:

- Chẳng những tự vệ mà tấn công nữa chứ nhỉ… Đồng chí Nagunốp ạ, tiện đây tôi nói đồng chí biết thằng Chimôphây Đamaxkốp tức Mũi toác mà đồng chí đã bắn chết, có một hồi cũng tham gia tổ chức của Pôlốptxép, và tổ chức ấy cũng có một số chân rết trong làng này. – Anh chàng “tiếp phẩm” cái gì cũng biết kia làm như tiện thể nói chơi. – Nhưng về sau chưa rõ vì lý do gì nó đã cắt đứt với bọn kia. Nó bắn đồng chí không phải theo lệnh Pôlốptxép, mà có lẽ vì lý do cá nhân thì đúng hơn…

Nagunốp gật gù tán thành, và Bôikô-Glukhốp nói tiếp một thôi dài, giọng đều đều và rành rọt như đọc thuyết trình:

- Việc việc thằng Chimôphây Đamaxkốp vì một lý do gì đã đã cắt đứt với nhóm của Pôlốptxép, biến thành một tên trộm cướp hoạt động lẻ, ta có một chứng cớ là nó đã không đưa cho bọn đồng đảng của Pôlốptxép khẩu đại liên mà nó đã giấu từ hồi nội chiến trong kho thóc nhà nó mà vừa rồi Đavưđốp đã phát hiện. Nhưng vấn đề không phải chuyện ấy. Tôi xin nói qua về nhiệm vụ của chúng tôi: chúng tôi có nhiệm vụ lùng bắt chỉ một thằng Pôlốptxép, và nhất thiết phải bắt sống. Trước mắt, ta đang cần một thằng Pôlốptxép còn sống. Cơ sở chân rết của nó ta sẽ chặt sau. Tôi phải nói thêm rằng Pôlốptxép chỉ là một khâu của cả một dây chuyền lớn, nhưng cái khâu ấy không kém phần quan trọng. Cho nên việc lùng bắt nó được giao cho chúng tôi chứ không giao cho anh em cơ quan an ninh huyện… Để các đồng chí khỏi còn điều gì bực với tôi, tôi xin nói rõ là việc chúng tôi về hoạt động ở huyện này chỉ có một mình đồng chí phụ trách GPU huyện được biết thôi. Ngay cả đồng chí Nextêrenkô cũng không biết. Đồng chí ấy là bí thư huyện ủy, và xét cho cùng thì hai anh tiếp phẩm tép riu có đáng gì cho đồng chí ấy phải bận tâm? Cứ để đồng chí ấy lo công việc của đảng bộ, còn chúng tôi sẽ lo công việc của chúng tôi… Và phải nói rằng tại các nông trang chúng tôi đã qua trước khi tới đây, chúng tôi đóng vai kịch của mình có kết quả mĩ mãn, và chỉ có mình anh thôi, Radơmiốtnốp ạ, đã nghi Khigiơnhiắc, và từ đó nghi cả tôi không phải nhân viên tiếp phẩm thực thụ. Và đó là một điều vinh dự cho anh đã có đầu óc nhận xét. Nhưng nếu chẳng xảy ra như vậy thì đằng nào cũng chỉ hai hôm nữa thôi, chúng tôi cũng phải để các đồng chí biết chúng tôi là ai, và lý do là: cái khiếu nghề nghiệp đã làm cho tôi đánh hơi thấy Pôlốptxép đang lẩn quất ở một xó xỉnh nào đó trong làng các đồng chí… Chúng tôi sẽ cố tìm cho ra những bạn đồng ngũ của hắn trong cuộc chiến tranh Nga – Đức và trong nội chiến. Chúng tôi biết rõ ngài Pôlốptxép trước kia là sĩ quan những đơn vị nào, và phần nhiều chắc chắn là ngài đang ẩn náu ở nhà những người lính cũ của ngài. Đó, tất cả tóm tắt là thế. Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau trước khi chúng tôi rút khỏi đây, còn bây giờ, ta chia tay!

Ra đến ngưỡng cửa rồi, Bôikô-Glukhốp còn quay sang nhìn Nagunốp:

- Cậu muốn biết tin cô ấy không?

Hai gò má Maka đỏ tía lên từng mảng và mắt anh tối sầm lại. Anh hắng giọng, hỏi nhỏ:

- Các anh biết hiện nó ở đâu à?

- Biết.

- Ở đâu?

- Ở thành phố Sakhơtư.

- Nó làm gì ở đấy? Nó chả có một mống bà con thân thuộc nào ở đấy cả.

- Cô ấy đi làm.

- Làm vương làm tướng gì thế không biết? – Maka chua chát cười khẩy.

- Làm mỏ, đẩy xe goòng. Cộng tác viên của chúng tôi đã giúp cho cô ấy kiếm được việc làm. Nhưng tất nhiên là cô ấy không hề ngờ ai đã kiếm giúp việc làm cho cô ấy… Và phải nói rằng cô ấy làm việc rất tốt, có thể nói là hết sức tốt mữa kia! Thái độ rất đúng mực, không bắt thêm một quan hệ mới nào, còn những người quan hệ cũ thì cho tới nay không thấy ai đến thăm.

- Còn ai là người đến thăm nó nữa? – Nagunốp khẽ nói.

Bề ngoài nom anh hoàn toàn thản nhiên, duy chỉ có mi mắt trái anh cứ rung rung.

- Thiếu gì ai… Hãy cứ nói bè cánh thằng Chimôphây thôi. Cậu định hoàn toàn loại trừ khả năng ấy sao? Mình thì mình cho là cô ấy đã suy nghĩ lại, đang làm lại cuộc đời, và Nagunốp ạ, cậu có thể yên tâm về cô ấy.

- Thế dễ anh tưởng tôi lo cho nó đấy phỏng? – Nagunốp hỏi vặn lại, giọng nghe càng nhỏ hơn, và đứng dậy, người hơi ngả về đằng trước và hai bàn tay dài chống xuống mép bàn.

Mặt anh tái nhợt như mặt người chết, hàm anh nghiến nổi cuộn lên dưới hai gò má. Chọn từng lời, anh nói chậm rãi hơn thường lệ:

- Này, anh đồng chí lắm lời ơi, anh đến đây làm nhiệm vụ phỏng? Vậy đi mà làm đi, không việc gì phải động viên an ủi tôi, tôi không cần đến những lời an ủi của anh. Và những lời dặn dò của anh nữa, chúng tôi cũng không cần: nên đi đêm hay đi ngày, đó là việc của chúng tôi. Chẳng cần những lời dạy bảo ngây ngô ấy và chẳng cần vú già, chúng tôi vẫn cứ sống được như thường! Anh rõ chưa? Anh xéo đi cho được việc. Anh mà còn cứ lẩm nhẩm, trong bụng có gì dốc ra sạch, thế mà cũng tự xưng với tôi là nhân viên GPU, tôi không hiểu nổi: anh có phải một cán bộ có trọng trách của cơ quan an ninh khu không, hay khéo lại đúng là một anh buôn bò thật, một anh mối lái, hoặc như chúng tôi ở đây thường gọi, một dân cò mồi…

Anh chàng Khigiơnhiắc ít nói cứ cười thầm trong bụng mà nhìn thủ trưởng của mình đứng ngây tán tàn. Còn Nagunốp thì rời khỏi bàn, sửa lại thắt lưng áo varơi rồi đi ra cửa, người ưỡn thẳng như thường lệ, và có lẽ anh đã làm điệu bộ hiên ngang nhà võ cũng hơi quá đáng một tí.

Anh đi rồi, trong phòng diễn ra một phút im lặng nặng nề.

- Có lẽ cũng không nên nhắc đến chuyện cô vợ với anh ta thì hơn, - Bôikô-Glukhốp gãi gãi sống mũi, nói. – Xem có vẻ anh ta vẫn còn đau vì chuyện cô ta bỏ đi…

- Đúng, không nên…, - Radơmiốtnốp đồng ý. – Cậu Maka chúng tôi là người dễ động lòng, và không thích bị ai giẫm chân bẩn vào trái tim trong sạch của cậu ấy…

- Không sao, rồi sẽ qua đi. – Khigiơnhiắc nói giàn hòa, miệng nói tay cầm lấy quả đấm cửa.

Để phá tan cái không khí nặng nề, Radơmiốtnốp hỏi:

- Đồng chí Glukhốp ạ, tôi thắc mắc muốn hỏi đồng chí: cái chuyện mua lợn bò thì thế nào? Đồng chí sẽ mua thật hay chỉ la cà các nhà, mặc cả xong bỏ đấy?

Câu hỏi thật thà quá làm Bôikô-Glukhốp tươi tỉnh lên và hai lúm đồng tiền lại hiện ra trên đôi má bánh đúc của anh:

- Đồng chí quả là một người có đầu óc làm ăn! Bò lợn chúng tôi cũng sẽ mua, và tiền cũng sẽ thanh toán sòng phẳng. Và về số phận của số bò lợn ấy, đồng chí có thể yên tâm: chúng sẽ được đưa về thành phố Sakhơtư, và thịt mổ ra anh em thợ mỏ sẽ chén thoải mái. Họ chén, và sẽ chẳng gửi lời cảm ơn chúng tôi đâu, vì họ sẽ chẳng rõ cơ quan cấp trên nào mà đã chạy cho họ được cái loại thực phẩm thượng hạng ấy. Vấn đề là thế đấy, người anh em ạ!

Tiễn khách xong, Ra còn ngồi hồi lâu bên bàn, xoạc rộng hai khuỷu tay chống lên má. Một ý nghĩ đã làm anh áy náy không yên: “Trong dân làng, kẻ nào mà lại đi bám đít cái thằng sĩ quan chó chết ấy nhỉ?”. Anh điểm qua lại trong đầu tất cả những dân kôdắc đứng tuổi trong ấp Grêmiatsi này, nhưng không có ai làm anh thấy đáng nghi cả…

Radơmiốtnốp rời bàn đứng dậy cho đỡ mỏi, đi đi lại lại ba lần từ cửa lớn đến cửa sổ, rồi bỗng đứng sững lại giữa phòng, cứ như va đầu vào một bức tường vô hình, và lo lắng nghĩ bụng: “Cái anh béo ấy tự nhiên lại đi khơi lại vết thương của cậu Maka! Việc đếch gì mà phải lôi chuyện con Luska ra nói với cậu ấy? Thế ngộ nhỡ hắn nhớ rồi lao đi Sakhơtư thăm ả thì sao? Ít lâu nay nom cậu ấy cứ bần thần, bề ngoài không để lộ ra, nhưng có vẻ là đêm nào cũng ngồi nốc rượu vụng một mình thì phải…”.

Liền mấy hôm Radơmiốtnốp cứ thấp tha thấp thỏm không biết rồi Maka sẽ giở trò gì? Rồi đến thứ bảy, vào buổi chiều, có mặt cả Đavưđốp, khi Maka cho biết đã báo cáo huyện ủy để đi đến làng Martưnốpxkaia tham quan một trong những trạm máy kéo đầu tiên của vùng sông Đông này thì Radơmiốtnốp kêu thầm trong bụng: “Hỏng to rồi! Hắn đi thăm con Luska! Ôi ông Maka ơi, lòng kiêu hãnh của ông để đâu mất rồi?..”.

CHƯƠNG XXI

Ngay từ hồi đầu xuân, khi mà ngay cả tuyết chất đống bên hàng giậu phía bắc đã bắt đầu lún xuống và tan chảy thành một lạch nước trong vắt, một đôi bồ câu trời đã tới chọn ngôi nhà của Radơmiốtnốp làm nơi trú ngụ. Chúng lượn hồi lâu trên trời, mỗi vòng lượn lại xuống thấp một chút, rồi hạ cánh xuống tận đất, chỗ cạnh nhà kho, rồi lại vỗ cánh bay vù lên mái đậu. Chúng đậu đó hồi lâu, ngó ngoáy hai cái đầu nhỏ xíu tò mò nhìn khắp bốn bề, như muốn làm quen với chỗ ở mới. Rồi với một điệu bộ khinh khỉnh đỏm dáng, con trống nhấc cao hai cái chân màu đỏ mận đi một vòng trên lớp vôi bẩn rắc xung quanh ống khói. Nó rụt cổ lại, đầu hơi ngả ra sau, cái ức nở phồng đùng đục ánh lên màu ngũ sắc, và cất giọng dè dặt gáy gù gù. Còn con mái thì buông cánh sà xuống; với hai lần vỗ cánh phành phạch nó lượn nửa vòng, rồi đậu lên cái gờ mái cửa sổ phòng Radơmiốtnốp. Hai lần vỗ cánh của nó còn có thể có ý nghĩa gì khác hơn là mời anh bạn tình hãy bay theo mình?

Nửa ngày Radơmiốtnốp về nhà ăn trưa thì từ ngoài cổng anh đã trông thấy đôi chim đậu bên ngưỡng cửa. Con mái đang thoăn thoắt đôi chân xinh xinh chạy quanh cái vũng nước tuyết tan, vừa chạy vừa mổ mổ đó đây. Con trống nhảy nhảy theo sau, dừng lại một tí, quay tròn một vòng, cúi rạp đầu chào, thấp đến nỗi mỏ và ức nó gần chạm đất. Rồi nó gù gù rối rít và lại đuổi theo con mái, đuôi xòe ra như cái quạt, bụng quét sát mặt đất ẩm ướt và giá lạnh như những ngày đông khắc nghiệt. Nó cứ nhất định đi bên trái, để đẩy con mái tránh vũng nước.

Radơmiốtnốp rón rén bước qua cách chúng hai bước, nhưng đôi chim cũng chẳng buồn cất cánh bay, chỉ né sang bên một tí. Đặt chân lên ngưỡng cửa, Radơmiốtnốp đã quyết định với một thái độ nhiệt tình và phấn khởi của trẻ thơ: “Đây không phải hai vị khách trọ đâu, đây là hai ông bà chủ đã về!”. Và với một nụ cười chua chát, anh nghĩ thầm, hay hình như thì thào ra miệng: “Chúng đến để mang chút hạnh phúc muộn màng cho mình đây, chắc thế chứ không thể khác được…”.

Anh vốc đầy một nắm thóc trong hòm, ném vãi ra trước cửa sổ.

Từ sáng Radơmiốtnốp cứ hậm hực bực dọc: công việc chuẩn bị vụ gieo, việc chọn giống tiến hành ì à ì ạch; ngày hôm nay Đavưđốp phải lên huyện; Nagunốp thì cưỡi ngựa ra đồng, để tận mắt kiểm tra lại những thửa ruộng sắp gieo, và Radơmiốtnốp thì cho đến trưa đã kịp đấu khẩu mấy trận kịch liệt với hai tay đội trưởng và lão thủ kho. Và bây giờ đây, ngồi bên bàn ăn, anh quên cả món xúp bắp cải đang nguội tanh trong bát, ngồi nhìn đôi chim bồ câu, và gương mặt xám gió xuân của anh như sáng lên, nhưng lòng anh lại nặng trĩu…

Nụ cười buồn bã trên môi, anh đưa hai con mắt như mờ sương nhìn con mái nhỏ nhắn xinh xắn đang mổ thóc hau háu trong khi anh chàng trống đẹp mã cứ lượn, lượn hoài quanh nó không biết mệt, chẳng thèm mổ lấy một hạt thóc.

Thì hai mươi năm về trước, chính anh, Anđrây, hồi ấy còn trẻ và cũng đẹp mã như anh chàng bồ câu trống kia, cũng đã từng lượn quanh người đẹp của anh như vậy. Rồi lấy vợ, đi quân dịch, chiến tranh… Cuộc đời đã trôi đi, nhanh một cách đáng sợ và tàn nhẫn lạ lùng! Nhớ đến vợ và mụn con nhỏ, Radơmiốtnốp buồn bã nghĩ bụng: “Vợ con còn sống mình chả mấy khi gặp, và bây giờ chết rồi, mình cũng chả mấy khi viếng thăm…”.

Vào cái ngày tháng Tư nắng ấm huy hoàng như thế này thì con bồ câu trống kia còn thiết gì nghĩ đến ăn? Và Anđrây Radơmiốtnốp cũng chẳng thiết ăn. Anh đưa đôi mắt rơm rớm ướt chứ không phải là mờ đục hơi sương nữa, vô tri vô giác nhìn ra cửa sổ. Qua khung cửa sổ, chẳng phải anh nhìn đôi chim bồ câu kia, chẳng phải nhìn cái màu xanh mơn mởn của mùa xuân, mà là thấy hiện lên trước mắt mình hình ảnh đau đớn của người anh đã một lần yêu và yêu suốt đời, có lẽ yêu còn hơn cả bản thân cuộc đời nữa, vậy mà đã không được yêu trọn vẹn và phải xa lìa nhau vì một cái chết thê thảm cách đây mười hai năm về trước, có lẽ vào một ngày xuân cũng huy hoàng như hôm nay đây…

Radơmiốtnốp ngồi nhai bánh, đầu cúi gằm xuống bát xúp: anh không muốn để mẹ trông thấy những giọt nước mắt đang lăn trên gò má anh, làm mặn thêm bát xúp chẳng thế cũng đã quá mặn rồi. Hai lần anh nhấc thìa lên, và cả hai lần cái thìa lại rơi xuống bàn, tuột khỏi bàn tay run rẩy bẩy và yếu dại đi một cách lạ lùng của anh.

Trong đời chúng ta thường có những lúc mà hạnh phúc bé nhỏ của một đôi chim thôi, chứ chưa nói của con người cũng gợi cho một trái tim yêu thương không phải là sự ghen tị, không phải là sự mỉa mai chua chát, mà là những ký ức đầy đau đớn xót xa không gì xoa dịu nổi… Radơmiốtnốp dứt khoát buông bát đứng dậy, quay lưng ra phía mẹ, khoác áo bông vào, cầm chiếc mũ lông nắm trong tay, nói:

- Giêsu lạy Chúa tôi, không hiểu sao hôm nay con ăn không thấy ngon, mẹ ạ!

- Không thích ăn xúp thì để mẹ nấu cháo ăn với sữa chua vậy?

- Thôi, con chả muốn ăn gì.

- Hay là lại có chuyện gì buồn? – Bà mẹ dè dặt hỏi.

- Có chuyện gì mà buồn. Buồn là chuyện ngày xưa, nó qua rồi.

- Anđrây ạ, từ hồi bé tính con cứ kín đáo thế… Chả bao giờ nói chuyện gì, chả bao giờ than thở với mẹ cả… Xem ra tim con là hòn đá thì phải…

- Mẹ đẻ ra con, mẹ lại còn trách gì con. Mẹ sinh ra con thế nào thì nó nên thế, biết làm sao được!

- Nói thế thì tôi cũng chịu anh! – Bà lão tự ái cắn đôi môi tái nhợt, nói.

Ra khỏi cổng, Radơmiốtnốp không rẽ phải, đi về trụ sở Xôviết, mà ngoặt trái, đi ra thảo nguyên. Anh sải chân, lững thững bước một tắt đường đi thẳng tới một làng Grêmiatsi Lốc khác, nơi từ ngày xửa ngày xưa chỉ có những người đã chết đến chen chúc trú ngụ với nhau trong cảnh thanh bình. Nghĩa địa đã bị nhổ hết rào giậu. Trong những năm tháng khó khăn này, người sống đâu có quan tâm lo lắng cho người đã chết… Những cây thập tự cũ kỹ, mốc đen đi với thời gian, cứ đổ xiêu đổ vẹo, một số nằm bẹp dưới đất, cái nằm sấp, cái nằm ngửa. Không một ngôi mộ nào được sửa sang và trên những gò đống đất sét, ngọn gió đông buồn bã lay động hàng cỏ dại mùa năm ngoái, sẽ sàng rung những bụi cây ích mẫu khô héo, bạc thế, cứ như có một bàn tay phụ nữ mềm mại nào đang lần lần sửa sang chúng. Một mùi mục rữa, hương cỏ héo và mùi đất đen đã tan băng quyện vào với nhau, phảng phất trên lớp mộ.

Bất cứ một nghĩa địa nào vào bất cứ mùa nào trong năm bao giờ cũng gieo buồn vào lòng người sống, nhưng vào những ngày đầu xuân và cuối thu thì cái buồn ấy càng đặc biệt day dứt, tê tái, gỡ không ra.
Lần theo lối mòn do vết chân bò giẫm, Radơmiốtnốp đi theo hướng bắc ra phía ngoài hàng rào, nơi xưa kia người ta chôn những người tự vẫn. Anh dừng chân bên một ngôi mộ quen thuộc, bốn góc đã sụt lở, bỏ mũ ra và cúi gập mái tóc hoa râm xuống. Chỉ có những con chim sơn ca khua động cảnh trầm lặng của mảnh đất bị con người quên lãng này mà thôi.

Trong cái ngày xuân rạng rỡ anh nắng, tràn đầy sự sống mới tỉnh dậy này, Anđrây đến đây để làm gì nhỉ? Phải chăng để đứng lồng mười ngón tay ngắn trùng trục vào với nhau, nghiến chặt răng, lim dim đôi mắt nhìn về phía chân trời mờ sương kia, như cố tìm lại đằng sau cái màn khói ấy cái thời tuổi trẻ không bao giờ quên được và cái hạnh phúc ngắn ngủi của anh? Có thể như thế lắm. Bởi vì cái quá khứ thân yêu đã chết đi bao giờ cũng hiện lên rõ ràng hơn cả hoặc vào lúc người ta đang đứng trong một nghĩa địa, hoặc giữa bóng tối thầm lặng của những đêm mất ngủ…

* * *

Từ ngày hôm ấy, Radơmiốtnốp trở thành ông thần hộ mệnh của đôi chim bồ câu đến trú ngụ ở nhà anh. Ngày hai lần, anh vãi một nắm thóc ra dưới cửa sổ rồi đứng canh, xua đi những ả gà mái láo xược cứ lăn xả vào, cho đến khi đôi bồ câu đã đầy diều mới thôi. Sáng sáng, từ tinh mơ, anh cứ ngồi hồi lâu trên ngưỡng cửa nhà kho hút thuốc, lặng lẽ xem đôi vợ chồng khách trọ mới tha rơm, tha những mẩu cành con, tha những sợi lông bò dính vào hàng giậu lên chỗ gờ mái cửa sổ. Chẳng bao lâu cái tổ đan sơ sài đã xong, và Radơmiốtnốp thở dài một cái nhẹ nhõm: “Định cư rồi! Bây giờ thì chúng sẽ chẳng bay đi đâu cả!”.

Hai tuần sau thì con mái không xuống ăn thóc nữa. Radơmiốtnốp cười nụ: “Ấp rồi. Cái hộ ấy sắp có thêm nhân khẩu”.

Từ ngày có đôi chim bồ câu anh thêm khối việc bận: đến bữa phải cho chúng ăn, thay nước uống ở bát, vì các vũng quanh hè đã cạn ráo, và ngoài ra còn có một việc tối ư cần thiết là phải canh phòng cẩn mật bảo vệ đôi bồ câu tội nghiệp không có khả năng tự vệ.

Một hôm ra đồng về, từ ngoài ngõ Radơmiốtnốp đã trông thấy con mèo già – con mèo cưng của mẹ anh – đang bò rạp mình trên mái tranh, rồi nhẹ nhàng nhảy xuống bám vào mép cánh cửa mở hé, ngoe nguẩy đuôi chuẩn bị vồ. Con bồ câu mái vẫn ngồi yên trong tổ, quay lưng về phái con mèo, rõ ràng không hề cảm thấy nó đang bị đe dọa. Nó đang cách cái chết cả thảy chỉ có bốn mươi phân.

Radơmiốtnốp nhón chân chạy tới. Anh rút phắt khẩu súng lục trong túi ra, nín thở, đôi đồng tử co lại nhìn con mèo không rời. Và khi còn mèo vừa lùi lại một tí, hai chân trước khẽ nhún nhún lấy đà, thì một phát súng nổ đanh, sượt mép trên cánh cửa sổ. Con bồ câu bay vù đi, còn con mèo thì bị viên đạn xuyên suốt, rơi chúc đầu xuống chân tường, nom như một cái bọc rơi.

Nghe tiếng súng nổ, bà mẹ Anđrây ở trong nhà chạy bổ ra.

- Cái xẻng đâu hả mẹ? – Anđrây nhanh nhảu hỏi, thản nhiên như không có việc gì xảy ra.

Anh đang xách cái đuôi mèo chết và nhăn mặt lại ghê tởm.

Bà lão chắp hai tay lại, kêu làng kêu nước:

- Cái thằng uống máu không tanh kia! Bay coi một sinh mạng thật không ra cái gì! Giết một con người hay giết một con mèo, đối với bay và thằng Maka thật chả khác gì nhau. Chúng bay đi lính giết người quen tay rồi, đồ khốn kiếp, bây giờ không được giết chóc thì ruột gan bần thần như thằng nghiện thèm thuốc vậy!

- Này, mẹ đừng có làm ỏm tỏi lên như vậy! – Ông con trai nghiêm khắc ngắt lời bà cụ. – Từ nay đến chết, mẹ hãy quên cái thú nuôi mèo đi! Và đừng nói động đến con và Maka. Con với cậu ấy bây giờ tính đâm ra rất dễ tự ái khi bị ai gọi là đồ nọ đồ kia. Chính vì lòng thương mà chúng con bắn chết tươi, không trượt phát nào, mọi giống nhơ bẩn, dù chúng hai chân hay bốn chân, nó không để cho người ta yên thân mà sống. Mẹ đã rõ chưa? Thôi, mẹ vào nhà đi. Muốn ầm ĩ gì thì vào trong nhà, chứ đứng đường mà làm huyên náo và chửi bới con thì con nhân danh chủ tịch Xôviết, cấm ngặt mẹ đấy.

Suốt tuần lễ bà lão không nói năng một lời với con, và anh càng lấy thế làm mừng: trong tuần lễ ấy anh đã bắn chết tất cả lũ mèo hàng xóm, cả đực lẫn cái, để bảo đảm an toàn lâu dài cho đôi bồ câu của anh. Một hôm đến trụ sở Xôviết, Đavưđốp hỏi:

- Cậu ngứa tay hay sao mà cứ bắn lung tung thế? Không ngày nào tôi không nghe thấy khẩu súng lục của cậu nổ. Tôi hỏi cậu: cậu làm dân hoang mang thế để làm gì? Nếu cần thử súng thì đi ra ngoài đồng cỏ, ở ngoài ấy tha hồ mà đì đoàng, Anđrây ạ, chứ ở đây thì không tiện tí nào, thực tế thế!

- Mình thủ tiêu mèo từng tí một, - Radơmiốtnốp lầm lầm đáp. – Bọn khốn kiếp ấy, không sống được với chúng nó!

Đavưđốp sửng sốt dương đôi lông mày bạc thếch đi vì nắng:

- Mèo gì?

- Mèo đen, mèo lang, mèo mướp! Vớ được con nào giải quyết con ấy.

Môi trên của Đavưđốp rung rung: đó là dấu hiệu đầu tiên chứng tỏ anh đang ráng hết sức nén trận cười nó cứ muốn phá ra. Radơmiốtnốp biết vậy càng sa sầm mặt xuống, lo ngại giơ tay ra như muốn ngăn.

- Ông lính thủy ơi, ông đừng cười vội! Hãy tìm hiểu đầu đuôi thế nào đã.

- Đầu đuôi thế nào? – Đavưđốp hỏi, mặt nhăn một cách đau khổ và muốn phát khóc lên vì cười. – Chắc là chưa hoàn thành được kế hoạch hợp đồng với Cửa hàng da thú phỏng? Thiếu da thú cho nên cậu…, cho nên cậu phải ra tay chứ gì? Ối giời ơi, Anđrây ơi! Ối giời ơi, mình không chịu nổi nữa…, nói mau lên không mình chết mất bây giờ, chết ngay bên bàn cậu đây…

Đavưđốp ôm đầu, và trên tấm lưng rộng như cánh phản của anh, hai bả vai cứ rung lên bần bật. Radơmiốtnốp chồm dậy như bị ong đốt, và làm om lên:

- Đồ ngu! Đồ dân thành thị ngu ngốc! Bồ câu của tôi đang ấp, chim non sắp nở, thế mà cậu cứ lải nhải “Cửa hàng da thú” với lại “ra tay” hoàn thành kế hoạch… Tôi thiết đếch gì cái cửa hàng da lông ấy? Nhà tôi có tổ bồ câu, tôi phải bảo vệ chúng nó chứ. Đấy, bây giờ cho cậu tha hồ mà cười, cười cho nó vỡ bố cái bụng đi.

Radơmiốtnốp tưởng sẽ bị cười cho một trận nữa, rất ngạc nhiên trước thái độ của Đavưđốp khi nghe anh nói. Đavưđốp chùi vội đôi mắt ướt nhòe, sôi nổi hỏi luôn:

- Chim bồ câu gì? Ở đâu ra thế?

- Mèo gì, rồi lại bồ câu gì, ở đâu ra… Xêmiôn ạ, sao hôm nay cậu độc hỏi tôi những câu dớ da dớ dẩn vậy?

Radơmiốtnốp bực mình nói. – Bồ câu chứ còn bồ câu gì. Bồ câu có hai chân, hai cánh, mỗi con một cái đầu, và đằng đít có một cái đuôi, cả hai đều mặc áo lông và chẳng con đếch nào đi giày cả, nghèo quá nên mùa rét cũng vẫn cứ đi đất. Thế đã đủ chưa?

- Mình không nói chuyện ấy. Mình muốn hỏi nó có phải loại chim nòi không kia. Hồi bé mình cũng chơi chim. Cho nên mình muốn biết chim của cậu thuộc giống gì: bồ câu rừng hay bồ câu gáy, hoặc có thể là giống thày tu hoặc hải âu. Cậu kiếm được đâu ra vậy?

Radơmiốtnốp đã hết cau có, vuốt ria mỉm cười:

- Nó ở kho rơm nhà ai đến ấy, cho nên có lẽ nó là giống bồ câu rơm, và vì nó là khách không mời mà đến cho nên cũng có thể gọi nó là giống bồ câu khách… tầm phơ, hoặc giống ăn chực cũng được, vì nó toàn chén vào tiêu chuẩn của mình, hoàn toàn không tự lực kiếm ăn được… Nói tóm lại, có thể xếp nó vào giống gì thì xếp, tùy cậu.

- Nhưng lông màu gì? – Đavưđốp gặng hỏi, hỏi thực, không đùa.

- Màu bồ câu.

- Nghĩa là thế nào.

- Nó như quả mận chín chưa ai đụng đến, pha thêm tí màu xanh, màu tro.

- À – à – à, bồ câu đá, - Đavưđốp thất vọng kéo dài giọng. Nhưng rồi lập tức lại vui vẻ xoa tay. – Nhưng cậu ạ, bồ câu đá cũng có những con khá ra phết! Phải xem mới biết. Rất thú đấy, thực tế thế!

- Ghé vào nhà mình chơi, rồi cậu sẽ thấy.

Vài hôm sau, Radơmiốtnốp đang đi ngoài đường thì bị một đám trẻ chặn lại. Thằng bạo nhất đám, đứng cách anh một khoảng cách khá xa, cất cái giọng the thé hỏi:

- Chú Anđrây ơi, có phải chú làm thịt mèo phải không?

- Cái gì?! – Radơmiốtnốp nạt nộ bước sấn tới đám trẻ.

Bọn chúng chạy tóe ra như một đàn chim sẻ, nhưng một phút sau lại tụ vón lại.

- Ai bảo với chúng mày tao làm thịt mèo? – Radơmiốtnốp tức không chịu được, gặng hỏi.

Nhưng bọn trẻ cứ đứng cúi đầu im lặng, và ngần ấy thằng như một, chúng đưa mắt nhìn nhau và lấy chân đi đất vẽ vẽ lên lớp bụi đường lành lạnh, lớp bụi đường đầu tiên sau mùa tuyết tan.

Cuối cùng vẫn là thằng bé vừa hỏi lúc nãy so vai rụt cổ đánh bạo trả lời:

- Mẹ cháu bảo là chú dùng súng lục bắn chết mèo mà.

- Đúng là tao bắn, nhưng đâu phải tao làm thịt! Hai cái khác nhau chứ, hả ông mãnh.

- Mẹ cháu cũng bảo: “Ông chủ tịch làng ta giết mèo đâu như để làm thịt thì phải. Giá ông ấy bắn hộ con mèo đực nhà ta đi thì hay quá, không có nó vồ hết bồ câu nhà mình mất”.

- À, thế lại là chuyện khác, con ơi! – Radơmiốtnốp thốt lên, tươi tỉnh ra mặt. – Nghĩa là con mèo nhà cháu vồ bồ câu hả. Thế cháu là con ai, hả thằng nhỏ? Và tên cháu là gì?

- Bố cháu là Êrôphây Vaxilits Tsêbakốp, còn tên cháu là Chimôphây.

- Ờ, thế Chimôphây dẫn chú về nhà đi. Ta đi khử con mèo nhà cháu cho nó hết làm hại, nhất lại là mẹ cháu yêu cầu thế.

Hành động cao quý tiến hành nhân danh bảo vệ tính mệnh cho bồ câu nhà Tsêbakốp đã chẳng đem lại được thành ích và vinh quang mới cho Radơmiốtnốp. Ngược lại là đằng khác… Với cả một bầy trẻ líu ríu đủ các giọng lẵng nhẵng theo sau, Radơmiốtnốp thủng thẳng đi đến nhà Tsêbakốp, trong bụng không hề ngờ rằng tai bay vạ gió đang chờ anh ở đó. Thận trọng lê đôi ủng, và lúc nào cũng cứ nơm nớp sợ xéo phải một bàn chân đi đất nhỏ xíu nào của đám trẻ bâu quanh anh, anh vừa rẽ vào đầu ngõ thì đã thấy một bà lão bước ra hiên nhà Tsêbakốp. Đó là bà nội thằng Chimôphây.

Bà lão cao lớn, dáng vĩ đại, đứng bên thềm mặt cứ hầm hầm và hai tay ôm trước ngực một con mèo nâu to tướng, béo tốt vì được ăn thoải mái.

Kính lão đắc thọ, Radơmiốtnốp khẽ đưa tay lên ve mũ theo kiểu quân sự, miệng ân cần chào:

- Chào cụ!

- Lạy Chúa! Ông ataman ấp ta đến chơi nhà chúng tôi có việc gì thế? Nói đi, - Bà lão đáp, giọng ồm ồm như lệnh vỡ.

- Tôi đến vì việc con mèo nhà ta đây. Các cháu bé bảo là nó vồ chim bồ câu. Cụ đưa nó đây cho tôi, tôi sẽ lập tòa án xử nó ngay tại chỗ. Cái tên hung ác ấy thì cứ ghi rõ: “Án chung thẩm cấm khiếu nại”.

- Luật lệ gì thế nhỉ? Chính quyền Xôviết ra sắc lệnh diệt hết mèo hay sao?

Radơmiốtnốp mỉm cười:

- Cần quái gì luật lệ? Một khi nó đã là một tên đầu trộm đuôi cướp gây án mạng sát hại loài chim thì chỉ có tử hình thôi, không ý kiến ý cỏ gì cả! Đối với bọn đầu trộm đuôi cướp, ta chỉ có một luật lệ: “Vì lợi ích cách mạng”, và pằng luôn! Thôi, cụ ơi, không cần dài dòng văn tự làm gì, cụ cứ đưa con mèo đây tôi, tôi sẽ giải quyết nó gọn…

- Thế chuột trong kho nhà chúng tôi, ai sẽ bắt cho? Anh nhận đảm đương nhiệm vụ ấy chắc?

- Tôi đã có nhiệm vụ của tôi, còn cụ chẳng có việc gì làm thì đi mà bắt chuột, không có nhàn cư vi bất thiện suốt ngày lại chỉ lầm rầm khấn khứa rồi sì sà sì sụp vái mấy cái tượng.

Bà lão liền nổi tam bành lên:

- Này, mày vắt mũi còn hơi sữa, không lên mặt dạy nổi bà đâu! Sao bọn kôdắc làng này lại đi bầu một thằng khốn nạn như thế làm chủ tịch nhỉ! Mày phải biết là ngày xưa cả đến các ông ataman cũng chẳng làm gì nổi tao, nữa là cái hạng mày! Mày thì bà chỉ cho một cái là bắn ra đến tận ngõ rồi mới tỉnh!

Nghe tiếng bà lão oang oang như lệnh vỡ, một con chó vàng con ở dưới gầm kho chạy bổ ra, sủa ăng ẳng chối tai. Đứng bên thềm, Radơmiốtnốp thản nhiên giở thuốc ra cuốn một điếu. Nhìn kích thước điếu thuốc thì có thể thấy là anh định trụ ở vị trí chiến đấu này không phải chỉ chốc lát. Điếu thuốc dài đủ mười phân và to bằng ngón tay trỏ ấy là để dành cho một trận đấu khẩu ra trò. Nhưng câu chuyện đã xoay vần kiểu khác…

Radơmiốtnốp thản nhiên và chững chạc lên tiếng:

- Cụ ơi, cụ nói rất chí lý! Anh em kôdắc bầu tôi làm chủ tịch thì thật là dở hết sức. Không phải bỗng dưng mà người ta lại bảo “anh kôdắc là anh trí khôn bị tắc”. Và cả tôi đây nữa, đi khoác cái ách ấy vào người thì cũng không phải là một hành động thông minh gì cho lắm… Nhưng cụ khỏi lo: tôi sắp xin từ chức chủ tịch rồi.

- Từ mẹ nó đi cho nó sớm.

- Thì tôi đã bảo cụ là tôi sắp từ đây mà, nhưng cụ ơi trong khi chờ đợi, cụ hãy từ cái con mèo của cụ đi và trao vào tay chủ tịch tôi đây.

- Mày bắn chết hết sạch mèo trong làng như vậy thì rồi chẳng mấy chốc mà chuột sẽ nhung nhúc, rồi đêm nó mò vào cắn chân mày trước.

- Không đời nào! – Radơmiốtnốp khẳng định dứt khoát. – Chân tôi thì cứng lắm, ngay cả chó nhà cụ cắn vào cũng gãy răng cơ. Thôi cụ cứ đưa mèo đây, tôi không có thời giờ đứng mặc cả với cụ đâu. Cụ ban phúc cho nó đi rồi đưa nó đây cho tôi tử tế, trao tay cẩn thận.

Bàn tay phải sần sùi màu da lươn của bà lão nắm lại thành quả đấm với ngón tay cái luồn qua khi hai ngón trỏ và ngón giữa một cách đầy ngụ ý, còn tay trái bà lão thì xiết chặt còn mèo vào ngực đến nỗi làm nó kêu chóe lên, cào đạp khịt khịt loạn xạ. Bọn trẻ đứng chắn sau lưng Radơmiốtnốp thành một bức tường, khoái trá cười ré lên. Rõ ràng là cảm tình của chúng ngả về phía Radơmiốtnốp. Nhưng bỗng chúng im bặt, như theo một hiệu lệnh, khi bà lão trị yên được con mèo rồi, quát tướng lên:

- Cút ngay đi cho khuất mắt tao, thằng quan ôn kia! Đồ khốn kiếp, muốn sống thì cút ngay, kẻo ốm ho với bà bây giờ!

Từ tốn và như mải miết với việc mình làm, Radơmiốtnốp thè đầu lưỡi ra nhấm nước bọt cái mép sờn sờn của mẩu giấy báo anh cuốn thuốc lá, trong khi mắt vẫn ranh mãnh lén nhìn bà lão đang sát khí đằng đằng, và miệng anh lại còn tủm tỉm trêu ngươi nữa. Chả cần phải dấu là không hiểu sao anh rất thích, thậm chí có một cái khoái đặc biết nữa khi được đấu khẩu với các mụ già trong làng, bất kể mụ nào, trừ mẹ anh ra. Mặc dầu tuổi tác, trong anh vẫn còn cái máu tếu của một anh thanh niên kôdắc với cái tính thích đùa dai nó không chịu mất đi với thời gian. Lần này cũng vậy tính nào anh vẫn tật nấy. Cuốn xong điếu thuốc và rít xong hai hơi liền, anh nói bằng một giọng thân ái, có vẻ như khoái trá nữa:

- Mẹ Igơnachiépna ơi, cái giọng mẹ sao mà nó tốt thế! Nghe mẹ nói suốt đời cũng không thấy chán đâu! Chả cần ăn, chả cần uống, chỉ cốt sao bắt được mẹ cứ quát tháo thế suốt từ sáng đến tối… Giọng tốt thật, khỏi nói! Mồm, quang quác, chà, hệt cái giọng lão thày trợ tế trên huyện ngày xưa, hoặc là hệt tiếng hí của con Hoa, con ngựa giống của nông trang ấy mà… Từ nay trở đi tôi sẽ không gọi mẹ là “mẹ Igơnachiépna” nữa đâu, mà gọi là “mẹ Hoa”. Tôi bàn với mẹ một việc như thế này nhé: bao giờ cần gọi bà con dân làng đến họp, tôi nhờ mẹ cứ đứng ra giữa làng mà gào tướng lên, mỗi lần như thế nông trang sẽ chấm cho mẹ hai công…

Radơmiốtnốp không kịp nói hết câu. Bà lão đã nổi điên lên, túm gáy con mèo ném vung ra thẳng cánh, như một anh kôdắc. Radơmiốtnốp hoảng hồn nhảy né sang bên, trong khi con mèo, bốn cẳng xoạc rộng, đôi mắt xanh lè trợn ngược, kêu lên một tiếng xé ruột, bay vèo qua sát người anh, nhún mình rơi xuống đất, rồi duỗi thẳng cái đuôi to tướng như đuôi cáo, nó ba chân bốn cẳng đâm bổ ra vườn rau. Con chó con dựng ngược tai lên, kêu ăng ẳng lao theo, và tiếp sau con chó, lũ trẻ cũng ùa theo, la ó đinh tai váng óc… Con mèo nhảy vọt qua hàng rào như viên đạn bay, còn con chó, không đủ khả năng vượt cái chướng ngại vật ghê gớm ấy, vắt chân lên cổ chạy vòng ra chỗ lỗ hổng nó đã quen thuộc từ lâu. Lũ trẻ xúm lại leo qua hàng rào làm nó gãy răng rắc đổ sập.

Bóng con mèo thấp thoáng qua những luống dưa chuột, những khóm cà chua và những cây bắp cải, loang loáng như một tia chớp màu nâu. Con Radơmiốtnốp thì sướng như điên, ngồi sụp xuống, vỗ đôm đốp vào đầu gối mà gào:

- Bắt lấy nó! Nó chạy mất kìa! Bắt lấy nó, con ấy gớm lắm!…

Radơmiốtnốp ngạc nhiên hết sức khi chợt quay lại nhìn lên thềm, thấy bà cụ Igơnachiépna đang cười ngặt nghẽo, hai tay ôm lấy bộ ngực to nặng đang rung lên bần bật. Bà lão đưa góc khăn vuông lên chùi mắt hoài, và vẫn chưa dứt cơn cười, bà khàn khàn nói:

- Này, anh Anđrây, hoặc là anh, hoặc là cái Xôviết của anh, phải bồi thường tôi về thiệt hại này! Để tối nay tôi tính xem bọn ôn con anh lôi tới đây xéo nát của nhà tôi mất bao nhiêu, rồi anh liệu mà xì tiền ra!

Anđrây bước tới bên thềm, ngước đôi mắt long lanh nhìn bà lão từ dưới lên trên:

- Cụ cứ yên trí, tôi sẽ bồi thường đầy đủ, dù là phải lấy vào lương chủ tịch, dù là phải bán rau nhà đi! Nhưng cụ hãy cho tôi xin đôi bồ câu mà cái con mèo kia đã phá tổ mất rồi. Đôi chim nhà tôi sắp nở, cộng với đôi cụ cho, tôi sẽ có hẳn một chuồng.

- Đấy cho anh mà vác về, lạy Chúa, vác tất về. Nuôi chúng chẳng được cái tích sự gì, chỉ tổ làm đàn gà nhà tôi chết đói thôi.

Radơmiốtnốp quay ra phía hàng rào, réo:

- Bọn nhóc kia, giải tán!

Và mười phút sau, anh đã trên đường về nhà, nhưng không đi theo các lối ngõ, mà men theo bờ sông để tránh con mắt tò mò của đám đàn bà rỗi hơi… Ngọn gió bắc thổi về, mát rượi, có phần lành lạnh. Đôi chim bồ câu âm ấm với cái cổ bồng to, đặt gọn trong chiếc mũ lông thủ vào sau vạt áo varơi, Radơmiốtnốp len lén bước đi, mắt nhớn nhác nhìn quanh, miệng mỉm cười ngượng ngập, và ngọn gió, ngọn gió lạnh từ phương bắc về, thổi phất phơ bờm tóc hoa râm của anh.

CHƯƠNG XXII

Trước hội nghị chi bộ thôn hai hôm, sáu chị em nông trang viên đã đến nhà tìm gặp Nagunốp. Trời còn sớm quá, các chị ngần ngại không muốn kéo nhau đông vào nhà. Họ nghiêm chỉnh ngồi xuống bậc thềm, xuống cái gờ đất. Rồi chị vợ Kônđrát Maiđanhikốp sửa lại mái khăn vuông tinh tươm hồ lơ xanh lè, ngỏ ý:

- Hay để tôi vào xem thử, các bà nhá?

- Bà xung phong thì bà vào đi, - chị vợ Agaphôn Đúpxốp. ngồi ở bậc cuối cùng đáp thay cho tất cả.

Trong gian phòng nhỏ, Maka đang ngồi lom khom cạo râu trước một mảnh gương vỡ nhỏ tí đặt tựa vào cái chậu hoa. Lưỡi dao cạo cùn, cùn trơ, cứ kêu tanh tách như dây dẫn phóng điện, quét dần đi đám râu đen cứng như chổi sể trên đôi má rám nắng của anh. Anh nhăn nhó một cách đau khổ, suýt soa, thỉnh thoảng hầm hừ lên một tiếng và đôi lúc lại đưa ống tay áo lên chùi nước mắt cứ ứa ra. Anh cạo thế nào mà đã cứa đứt da mấy chỗ rồi, và lớp bọt xà phòng trên má và cổ anh không còn trắng tuyền nữa, mà hồng loang từng đám. Trong mảnh gương mờ, sắc mặt anh cứ biến đổi luôn luôn: lúc thì nhẫn nhục cam phận, lúc là cố nén đau xót, lúc thì hầm hầm dữ tợn; và có lúc, nó thể hiện quyết tâm tuyệt vọng của một kẻ chán đời quyết dùng lưỡi dao cạo kết liễu phăng cuộc đời của mình đi cho rảnh nợ.

Chị vợ Maiđanhikốp, bước vào phòng, nhỏ nhẹ lên tiếng chào. Maka quay ngoắt lại, giơ ra phía chị một bộ mặt lầm lầm, máu me và méo xệch đi vì đau đớn, khiến người phụ nữ tội nghiệp kia hãi quá kêu ối lên một tiếng, lùi ra cửa:

- Ôi, Chúa bắt tội anh! Làm sao mà lại máu me thế kia? Thì cũng ra rửa qua đi một tí chứ sao lại để máu chảy như lợn chọc tiết thế?

- Đồ khỉ, có gì mà hãi thế, ngồi xuống đây, - Maka mỉm cười thân ái mời chào. – Lưỡi dao cùn quá, cứa đứt cả mặt. Cũng đáng quẳng nó đi từ lâu rồi, nhưng cứ tiếc, và cái của khốn nạn này tôi chịu đựng nó cũng đã quen. Nó đã đi theo tôi hai cuộc chiến tranh, mười lăm năm làm đỏm cho tôi, bảo làm sao từ bỏ nhau được. Kìa, ngồi xuống chứ chị, tôi xong bây giờ đây.

- Anh bảo lưỡi dao cùn hả? – Chị vợ Maiđanhikốp không biết nói gì, hỏi lại, vừa hỏi vừa rón rén ngồi ghé xuống tấm ghế dài và tránh không nhìn Maka.

- Cùn kinh lên được! Đến nỗi không cắt được cả cái… - Maka nuốt chửng câu đang nói dở, ho lên hai tiếng, rồi liến thoắng nói tiếp: - Nghĩa là có thể nhắm mắt lại nạo bừa đi! Nhưng mới bảnh mắt thế này chị đã đến có việc gì vậy? Có chuyện dữ gì không? Hay là cậu Kônđrát bị ngộ gió cứng lưỡi rồi?

- Không, nhà tôi vẫn khỏe. Mà tôi đến không phải một mình. Chúng tôi có cả thảy sáu chị em đến phiền anh một việc.

- Việc gì vậy?

- Ngày kia anh kết nạp các ông nhà chúng tôi vào Đảng, cho nên một cái ngày như thế thì chị em chúng tôi muốn sửa sang nhà trường lại một tí.

- Các chị tự nghĩ ra thế, hay là các anh ấy mách nước?

- Thế dễ anh cho là chúng tôi ngu ngốc đần độn lắm sao? Anh coi rẻ chị em chúng tôi quá thể, anh Nagunốp ạ!

- Có đâu, nhưng nếu là các chị tự nghĩ ra thì hay quá rồi!

- Chúng tôi định trát và quét vôi lại trong ngoài.

- Càng hay! Tôi tán thành cả hai tay, có điều là các chị nên hiểu việc ấy không được chấm công đâu. Đó là công tác xã hội mà.

- Chúng tôi đã gọi là tự nguyện tự giác thì cần công điểm gì nữa? Chỉ yêu cầu anh báo cho đội biết, để khỏi cắt chúng tôi vào việc khác. Chúng tôi có sáu người, tôi nói tên để anh biên vào giấy.

- Tôi sẽ báo đội biết, còn giấy tờ thì không cần. Chả cần tên các chị thì cũng đã phí khối giấy vì cái bệnh quan liêu giấy tờ rồi.

Chị Maiđanhikốpva đứng dậy, im lặng một lát, lé lé mắt nhìn Nagunốp, rồi tủm tỉm:

- Anh Maiđanhikốp nhà tôi về cái kỳ quặc thật chả thua gì anh, mà còn quá quẩn hơn ấy… Nghe bà con nói dạo này ở ngoài đồng, không ngày nào anh ấy không cạo râu, về nhà thì thử áo sơmi… Anh ấy vẻn vẹn chỉ có ba cái, cứ loay hoay ướm cái này, rồi lại thử cái khác, phân vân chả biết đến chủ nhật vào Đảng thì nên mặc cái nào… Tôi nói đùa anh ấy: “Mình cứ như cô con gái sắp về nhà chồng vậy”. Thế là anh ấy nổi điên lên khiếp quá! Anh ấy điên lên, nhưng cố không lộ ra ngoài mặt, nhưng cứ mỗi lần tôi định nói trêu anh ấy là lập tức mắt anh ấy lừ lừ. Thế là tôi biết anh ấy sắp văng tệ ra với tôi, và tôi vội lảng đi ngay, không muốn trêu gan anh ấy…

Maka mỉm cười, đôi mắt nom hiền đi.

- Chị ơi, đối với anh ấy thì việc này có quan trọng hơn việc con gái về nhà chồng một tí đấy. Lấy vợ lấy chồng là cái việc ba lăng nhăng! Kết hôn, rồi dắt nhau về, có thế thôi mà. Còn Đảng thì, chị chàng ơi, nó là một cái sự… nói tóm lại nó là một cái sự… Nói thế quái nào cho chị hiểu được nhỉ? Trong nhận thức về Đảng thì chị bơi như con gián bơi trong nồi xúp vậy, tôi cũng chẳng hoài hơi mà giảng giải cho chị, làm thế có khác gì đổ nước vào cối mà giã? Nói tóm lại Đảng là một cái rất là vĩ đại, tôi chỉ nói với chị thế thôi! Chị rõ chưa?

- Rõ rồi, anh Maka ạ, nhưng anh bảo anh em xe cho chúng tôi mươi xe đất sét.

- Tôi sẽ bảo.

- Vôi để quét tường nữa.

- Sẽ có.

- Thêm đôi ngựa và vài thằng bé để trộn vữa.

- Có lẽ phải mời cho các chị mươi anh thợ trát ở Rôxtốp về nữa chứ nhỉ? – Maka giơ xa lưỡi dao cạo ra, quay ngoắt toàn thân lại, kiểu như con chó sói, hỏi kháy chị vợ Maiđanhikốp.

- Thợ trát thì chúng tôi đảm nhiệm, còn ngựa thì đề nghị anh cho, kẻo chủ nhật này không xong đâu.
Maka thở dài:

- Các bà chỉ được cái thấy người ta hiền lành là cưỡi đầu cưỡi cổ liền… Thôi được rồi, sẽ có ngựa, muốn gì cũng có, những lạy Chúa, mời bà đi đi cho! Vì bà mà tôi cứa quá tiêu chuẩn mất hai nhát rồi đầy! Nói chuyện với bà hai phút nữa thì mặt tôi sẽ bị vạc ra hết mất. Rõ chưa?

Giọng nói rắn rỏi ngang tàng của Maka nghe đầy một vẻ van lơn đến nỗi chị vợ Maiđanhikốp quay vội đi, miệng nói “Thôi chào anh!”, và bước chân ra cửa. Nhưng chỉ một giây sau, chị lại đẩy cửa vào:

- Xin lỗi anh Maka…

- Lại gì nữa đấy? – Lần này thì giọng nói của Maka lộ rõ vẻ ngán ngẩm.

- Tôi quên chưa có lời cảm ơn anh.

Cánh cửa đóng sầm lại. Maka giật mình đánh thót và lưỡi dao lại cứa một nhát sâu nữa vào mặt anh.

- Xin cảm ơn bà, cảm ơn tất cả mấy bà, nghĩa là mấy cái đồ nỡm, chứ tôi đây thì chả có gì đáng cảm ơn cả!

Anh réo theo chị vợ Maiđanhikốp và cứ đứng một lúc cười không thành tiếng.

Và cái câu chuyện không đâu ấy đã làm cho anh chàng Maka nom lúc nào cũng khắc khổ ấy thấy trong lòng vui vui, và suốt ngày hôm ấy, mỗi lần nghĩ đến chuyện chị vợ Maiđanhikốp và câu cám ơn vớt của chị, anh lại cười thầm trong bụng.

* * *

Những ngày này thời tiết hết sức đẹp, nắng ráo và lặng gió. Đến chiều thứ bảy thì ngôi trường bên ngoài trắng xóa những bức tường vôi mới quét, còn bên trong thì sàn ván được cọ rửa tinh tươm như mới, đến nỗi ai bước vào cũng bất giác kiễng chân đi rón rén.

Hội nghị công khai của chi bộ được ấn định khai mạc vào sáu giờ chiều, nhưng mới bốn giờ đã có hơn trăm rưởi người lũ lượt kéo nhau đến, và lập tức tất cả các lớp học, mặc dầu các cửa đều mở toang, đã nồng nặc mùi đàn ông – mùi thuốc lá sừng bò và mùi mồ hôi rượu mạnh, - và mùi kem phấn và xà phòng rẻ tiền toát ra từ cái đám lúc nhúc các bà các cô trong những bộ cánh diện.

Đây là lần đầu tiên Grêmiatsi Lốc có một hội nghị công khai của Đảng để kết nạp đảng viên mới, và những đảng viên mới ấy lại là người làng, cho nên từ sáu giờ chiều thì toàn bộ Grêmiatsi Lốc, trừ trẻ con và những người ốm liệt giường, đều có mặt ở trong trường hoặc quanh trường. Các lều lán ngoài thảo nguyên đều vắng tanh vắng ngắt, không còn một bóng người. Mọi người đã mò về làng hết, và ngay cả ông lão chăn cừu Agây cũng quăng đàn cừu đấy, giao cho thằng bé giúp việc chăn, và tới trường học quần áo chỉnh tề, râu ria chải chuốt, chân đi đôi ủng đã tã, ống căng phình ra. Ăn vận như thế, chải chuốt như thế, không có cái roi cầm tay, không có cái bị đeo sườn, nom cụ khác quá đến nỗi nhiều ông kôdắc thoạt nhìn không nhận ra, và chào cụ như chào khách lạ ở đâu đến.

Đúng sáu giờ, Maka Nagunốp đang ngồi bên chiếc bàn phủ xatanh đỏ, đứng dậy, đưa mắt nhìn bao quát một lượt các hàng người ngồi chật như nêm trên các ghế dài và đứng chen chúc trên các lối đi. Tiếng người ồn ào vẫn chưa chịu lắng đi, lại thêm tiếng một chị nào cười ré lên ở hàng ghế cuối. Maka giơ cao tay:

- Thế nào, im lặng tí chứ hả, các vị to mồm kia, nhất là các bà! Tôi đề nghị giữ hết sức im lặng, và xin tuyên bố khai mạc hội nghị công khai chi bộ Grêmiatsi Lốc của Đảng cộng sản bônsêvích. Xin giới thiệu đồng chí Nagunốp, tức là chính tôi đây, phát biểu ý kiến. Chương trình nghị sự hôm nay chỉ có một mục: kết nạp đảng viên mới. Chúng tôi có nhận được một số đơn xin gia nhập Đảng trong đó có đơn của anh Kônđrát Maiđanhikốp mà bà con chúng ta đều biết rõ lắm rồi. Vậy tôi đề nghị tất cả các đồng chí đảng viên và đồng bào ngoài Đảng phát biểu ý kiến về trường hợp anh Kônđrát, xem ai có ý kiến gì, ai tán thành, và ai phản đối, nếu có. Ý kiến phản đối thì gọi là phiếu chống. Ví dụ, nói: “Tôi xin bỏ phiếu chống”, nhưng thế thì phải đưa ra lý do cụ thể tại sao anh Maiđanhikốp chưa xứng đáng được kết nạp. Chúng ta cần những khuyết điểm cụ thể, có thế thì mới thảo luận xem xét được, chứ gièm pha loanh quanh, đả kích suông, không có sự việc cụ thể, thì yếu lắm. Những ý kiến suông chúng tôi sẽ không chấp nhận. Trước tiên tôi sẽ đọc lá đơn của anh Kônđrát Maiđanhikốp, sau đó anh Kônđrát sẽ trình bày tiểu sử, nghĩa là kể về quá khứ, hiện tại và tương lai của anh ấy, rồi sau đó toàn thể bà con có ý kiến gì về phương diện đồng chí Maiđanhikốp của ta thì cứ phát biểu đi. Nhiệm vụ thế là rõ chưa? Rõ rồi. Vậy thì tôi bắt đầu tiến hành, tức là đọc hội nghị nghe lá đơn.

Nagunốp đọc xong lá đơn, để xuống bàn miết cho phẳng phiu rồi đè bàn tay dài và nặng chịch của anh lên. Trang giấy xé ở một cuốn vở học sinh này đã làm cho Kônđrát mất bao nhiêu đêm thao thức dằn vặt… Và giờ đây, anh cứ bổi hổi bồi hồi, khi thì liếc nhìn các đảng viên ngồi sau bàn chủ tọa, khi thì liếc nhìn mấy bà con ngồi cạnh bằng con mắt len lét xưa nay không thấy ở anh, và trán anh toát mồ hôi hột, mặt anh thì cứ như vừa dầm mưa về.

Anh kể vắn tắt về đời mình, ngập ngà ngập ngừng chọn mãi mới được một lời, mặt ỉu sìu sìu nhưng đồng thời lại cười, nụ cười nom đau khổ và thảm hại. Liubiskin không nén được nữa, nói tướng lên:

- Anh Kônđrát, việc gì mà phải xấu hổ về đời anh? Sao lại cứ lúng ta lúng túng như gà mắc tóc vậy? Đời anh rất là hay, cứ nói mạnh lên nào!

- Tôi nói hết rồi, - Maiđanhikốp đáp nhỏ và ngồi xuống, hai bả vai rùng rùng ớn lạnh.

Anh có cảm giác như vừa ở trong nhà ấm trần như nhộng bước ra ngoài trời băng giá.
Sau một phút im lặng Đavưđốp đứng dậy. Anh nói ngắn nhưng đầy nhiệt tình, biểu dương Maiđanhikốp đã biết lấy việc làm của mình mà lôi cuốn bà con nông trang, nêu anh ra làm gương cho mọi người noi theo, và cuối cùng tuyên bố bằng một giọng tin tưởng:

- Anh ấy hoàn toàn xứng đáng đứng trong hàng ngũ Đảng của chúng ta, thực tế thế!

Một số người nữa đứng dậy phát biểu, nhiệt liệt ủng hộ Maiđanhikốp. Và lời phát biểu của họ nhiều lần bị ngắt quãng bởi những tiếng kêu thốt lên tán đồng:

- Đúng lắm!

- Rất có tinh thần làm chủ!

- Anh ấy biết lo lắng đến lợi ích nông trang.

- Tay này thì một xu của tập thể cũng không để rơi, và nếu có rơi một thì sẽ lại nhặt lên hai.

- Có nói xấu anh ta cái gì cũng chả ai tin!

Kônđrát nghe những lời tán dương rào rào ấy mà mặt cứ tái mét đi vì cảm động. Và xem chừng hội nghị đã thống nhất ý kiến về anh thì bỗng bác Suka không phải là đứng dậy mà bật lên như cái lò xo, và bắt đầu phát: Thưa đồng bào và các lão bà thân mến! Lão xin là hoàn toàn bỏ phiếu chống! Lão không phải như người ta, đối với lão thì tình bạn là tình bạn, còn thuốc lá của ai thì người ấy hút. Đấy, lão là người như thế đấy! Bà con cứ tô vẽ cho anh Kônđrát như không phải là một con người mà là một ông thánh sống! Lão xin hỏi đồng bào: làm sao mà anh ta có thể thành một ông thánh được khi anh ta cũng chỉ là một kẻ tội lỗi như mọi người chúng ta đây thôi!

- Bác lại nói lảm nhảm rồi, bác ơi! Chúng tôi không phải là kết nạp anh ta vào thiên đường, mà vào Đảng, - Nagunốp chỉnh lại bác bằng một giọng hãy còn tử tế.

Nhưng bác Suka đâu phải người dễ cụt hứng hay bối rối vì một câu bắt bẻ. Bác quay lại phía Nagunốp, con mắt độc nhất long lên sòng sọc bởi vì con mắt kia băng kín bằng một chiếc khăn tay đỏ đã từ lâu không giặt.

- Ồ, anh Maka ơi, anh thì chỉ khỏe áp chế dân lành thôi! Dùng anh để làm cái máy ép dầu qùy thì không gì bằng… Sao anh lại bịt mồm lão, không cho lão nói? Lão có nói về anh đâu, và có bỏ phiếu chống lại anh đâu? Thế thì anh im đi, đừng nói nữa, vì Đảng dạy là phải ra sức phê bình và tự phê bình. Vậy tự phê bình là gì? Nói theo nghĩa tiếng Nga chính cống thì là tự do phê bình. Và tự do phê bình nghĩa là thế nào? Là phải cào cho người bị phê bình, vào chỗ nào tùy anh, nhưng phải cào cho nó vã mồ hôi muối ra ướt đầm từ đầu đến chân! Đấy, cái chữ tự phê bình lão hiểu nghĩa nó là như vậy.

- Thôi đi bác! – Nagunốp kiên quyết cắt đứt lời bác Suka. – Bác đừng có tùy tiện xuyên tạc chữ nghĩa! Tự phê bình là phê bình bản thân mình, nghĩa nó là như vậy. Ra hội nghị nông trang viên cho bác tha hồ phát biểu và lúc ấy bác tha hồ muốn cào muốn gãi bất cứ chỗ nào bác ngứa và muốn gãi kiểu nào thì gãi, nhưng ở đây thì bác im mồm đi, ngồi cho yên lành tử tế.

- Không, anh im mồm đi thì có, và lời lão phê bình, anh đừng có tọng nó trả lại vào mồm lão! – bác Suka bốc lên gào the thé. – Anh Maka ơi, anh thông minh gớm nhỉ! Tội vạ gì mà tự dưng lão lại đi bôi gio trát trấu vào mặt lão? Và tại sao lão lại tự đi nói xấu mình? Chính quyền Xôviết đã làm cho không còn những anh ngu ngốc nữa!... Những anh ngu ngốc cũ hết ngu ngốc đi, nhưng lại sinh biết bao nhiêu là anh ngu ngốc mới, nhiều vô kể! Cái giống ấy thì Chính quyền Xôviết không gieo, mà nó cứ tự mọc bừa phứa lên, như giống cỏ gà, không gì ngăn lại được! Lấy xí dụ như anh đấy, anh Maka ạ…

- Bác đừng có nói động đến tôi, hội nghị không thảo luận về tôi, - Nagunốp nghiêm nghị nói. – Bác nói vào đề đi, phát biểu về anh Kônđrát Maiđanhikốp, và nếu bác không có ý kiến gì thì ngậm miệng lại và ngồi yên lành tử tế.

- Nghĩa là anh tử tế, còn lão thì không hả? – bác Suka buồn rầu hỏi lại.

Có tiếng ai từ mấy hàng ghế cuối cất lên ồm ồm:

- Cụ tử tế ơi, thế thì cụ kể về cụ đi, xem về già rồi mà cụ còn ngủ với ai mà sinh ra được một tí nhau, và tại sao cụ chỉ nhìn bằng độc một mắt, còn mắt kia thì sưng u lên thế? Cụ láu lắm, nói về người khác thì cụ quang quác như con gà trống trên giàn, còn về mình thì cứ im thin thít!

Ngôi trường rền lên một trận cười như phá rạp, nhưng bỗng lại im bặt khi Đavưđốp đứng dậy. Mặt anh hầm hầm, và giọng anh nói có vẻ khó chịu:

- Các đồng chí, chúng ta đang họp hội nghị Đảng chứ không phải xem tuồng, thực tế thế! Ai thích đùa xin mời ra chỗ khác. Còn cụ, cụ có định phát biểu vào đề không hay còn định làm trò hề đến bao giờ nữa?

Đây là lần đầu tiên Đavưđốp nói với bác Suka bằng cái giọng lịch sự giết người ấy, và có lẽ vì vậy mà bác Suka đã thực sự lộn tiết lên. Đứng sau chiếc bàn học sinh, bác chồm chồm lên như anh gà sống choai sắp nhảy vào chọi, và chòm râu dê của bác cứ rung rung vì tức giận:

- Anh bảo ai làm trò hề? Lão đây hay cái thằng dở khôn dở dại nào ngồi đằng cuối và cứ hỏi lão toàn những câu ngu ngốc kia? Và hội nghị công khai quái quỷ gì mà lại không cho người ta nói công khai? Các anh coi lão là thế nào? Là mất quyền phát ngôn hay sao? Lão chính là đang phát biểu vào vấn đề anh Kônđrát đây, lão bỏ phiếu chống. Những kẻ như anh ta thì Đảng không cần đến đâu, lão có ý kiến, hết!

- Bác cho lý do tại sao? – Radơmiốtnốp cố nén cười, hỏi.

- Tại vì rằng anh ta không xứng đáng vào Đảng chứ sao. Nhưng anh cười cái gì, hả cái anh mắt trắng dã? Có phải anh nhặt được cái khuy dưới sàn rồi cười, hí hửng đã vớ được của mang về cho vợ không? Và nếu anh đã không hiểu tại sao Kônđrát không xứng đáng vào Đảng, lão sẽ dứt khoát giải thích cho anh rõ, và lúc ấy anh sẽ hết nhăn nhăn nhở nhở như con lừa trông thấy lúa mạch… Các anh đi làm thầy cho người khác, nhưng chính bản thân các anh thì thế nào? Anh là chủ tịch Xôviết, là một vai vế quan trọng, già trẻ lớn bé là phải lấy anh làm gương, vậy mà tư cách anh thế nào? Ngồi hội nghị mà anh cứ híp mắt lại một cách ngu ngốc, cười mà tái xanh tái xám như con gà tây! Chủ tịch cái kiểu gì anh, và kiểu đâu lại cười khi số phận của anh Kônđrát đang lắc la lắc lư ở đầu móc cân như thế? Anh hãy nghe cho thủng: anh với lão thì ai nghiêm chỉnh hơn ai? Đáng tiếc là anh Maka đã cấm lão nói chuyện không được đưa ra những tiếng ngoại quốc lão đã học thuộc lòng được trong quyển tờ điển của anh ta, chứ nếu không thì lão đã tuôn cho anh một tràng mà cho đến ngày xuống lỗ anh cũng chưa hiểu được là lão nói cái gì cơ! Lão phản đối việc kết nạp anh Kônđrát vào Đảng vì anh ta là một anh tiểu tư hữu, có đút anh ta vào máy ép thì cũng chẳng ép ra được cái gì hơn! Ép anh ta thì được cái bã thôi, cái mà các nhà bác học gọi là tàn dư ấy, chứ đời nào được người cộng sản!

- Tại sao tôi lại không thể trở thành người cộng sản được hả bác? – Kônđrát tự ái hỏi, giọng run run.

Bác Suka ranh mãnh nheo nheo mắt:

- Tự anh không biết à?

- Tôi không biết, đề nghị bác giải thích cho tôi và bà con đây rõ tại sao tôi không xứng đáng? Bác cứ nói nguyên sự thật thôi, đừng có thêm thắt vào.

- Thế lão có bao giờ nói điêu không? Hoặc, nói xí dụ, lão có thêm thắt gì bao giờ? – Bác Suka thở dài một cái cả trường nghe thấy, lắc đầu đau khổ. – Cả đời lão bao giờ lão cũng chỉ vạch ra độc cái sự thật, mở mắt cho bà con dân lành, và anh Kônđrát ạ, chính vì thế mà trên đời này có người đã coi lão là phần tử đáng ghét. Mồ ma ông cụ nhà anh ngày xưa thường nói: “Suka nói điêu thì còn ai nói thật nữa?”. Đấy, ông cụ đánh giá lão cao thế đấy! Tiếc là cụ đã chết rồi, thôi thì cũng chúc cụ mồ yên mả đẹp, nhưng nếu cụ mà còn sống thì hôm nay thế nào cụ cũng chứng thực lời lão nói là đúng.

Bác Suka làm dấu phép, toan rỏ một giọt nước mắt, nhưng nghĩ sao lại thôi.

- Bác hãy nói rõ về tôi đây, chứ lôi thôi dính dáng gì đến ông cụ tôi. Bác chê trách tôi cái gì nào? – Maiđanhikốp cứ ráo riết gặng hỏi.

Tiếng lao xao nổi lên trong phòng, đánh giá qua vài lời thổt lên thì rõ ràng là chĩa vào bác Suka, nhưng cũng chẳng hề làm bác bối rối. Như là một nhà nuôi ong có kinh nghiệm, quen với tiếng vo ve náo động của cả một đại gia đình ong, bác Suka lúc này vẫn giữ vẻ hoàn toàn bình tĩnh, chững chạc. Bác giơ tay nhè nhẹ vẫy để dẹp yên tiếng lao xao, nói:

- Lão sẽ nói rõ tất cả ngay bây giờ đây. Nhưng thưa đồng bào và các lão bà thân mến, xin bà con hãy tạnh cho cái tiếng ồn ào ấy đi, vì dù sao bà con cũng chẳng làm cho lão nghĩ lại đi được đâu. Đấy, sau lưng lão vừa mới có một con rắn độc nó rít lên bảo lão là nhàn cư vi bất thiện, rồi lại đủ các thứ bẩn thỉu xì xào sau lưng lão. Cái lời xì xào xâm độc ấy lão thừa biết là của ai rồi. Thưa đồng bào và các lão bà thân mến, chính là con rắn độc Agaphôn Đúpxốp nó đang phun phì phì vào lão đấy! Hắn định làm cho lão lú lẫn đi, ý nghĩ của lão rối tinh lên để lão không phát biểu được gì về hắn. Nhưng hắn đừng hòng lão tha cho hắn, lão đây chứ chẳng phải ai đâu! Agaphôn cũng lăm le chui vào Đảng như con rắn ráo chui vào kho hút trộm sữa, nhưng hôm nay lão bỏ phiếu chống hắn quyết liệt hơn cả đối với anh Kônđrát nữa kia. Lão biết về hắn những chuyện mà nếu bà con nghe thế ắt sẽ phải kêu trời kêu đất lên cơ, và có người ngã quay lơ ra ngất nữa ấy chứ.

Nagunốp cầm bút chì gõ canh cách vào chiếc cốc không, cáu kỉnh nói:

- Ông lão ơi, ông nói lăng nhăng những gì ông cũng chẳng còn biết nữa, thôi đi thôi! Một mình ông nói hết cả thời giờ hội nghị, ông thật là không biết ngượng!

- Anh Maka ơi, anh lại khóa miệng lão đấy hả? – bác Suka rống lên bằng một giọng mếu máo. – Có phải anh là bí thư chi bộ nên anh có quyền ép lão không? Đâu có chuyện! Điều lệ Đảng chả có câu nào cấm ông già bà cả phát biểu, điều ấy thì lão nắm chắc như cua gạch! Và cái lưỡi của anh quay quắt như thế nào mà dám bảo là lão không biết ngượng? Thì bản thân anh hãy biết ngượng về con Luska nhà anh ấy, khi nó chưa rũ váy tếch mẹ nó đi đến tận nơi chân trời góc bể nào chẳng rõ. Còn lão thì xưa nay cả đến bà nó nhà lão cũng chả bao giờ bảo lão là không biết ngượng. Anh Maka ơi, anh xỉ nhục lão muốn chết!

Bác Suka rốt cuộc đã để rơi xuống giọt nước mắt đã chực sẵn đó và đưa cánh tay áo lên quệt mắt, nhưng vẫn tiếp tục bằng cái giọng hăng hái như trước:

- Lão không phải là người anh có thể bắt im được đâu, và đến hội nghị chi bộ họp kín cho anh một mẻ, anh Maka ạ, thành thử anh đừng hòng thoát được tay lão, lão đây chứ không phải ai đâu! Lão mà đã bốc lên thì khiếp lắm nhá, ai thì chẳng nói chứ anh thì phải biết tỏng tong điều đó chứ, vì anh với lão là bạn chí thân với nhau mà, cả làng ai mà chẳng biết như vậy. Chúng ta là bạn với nhau lâu rồi, thế cho nên anh cứ phải dứt khoát coi chừng lão và cái phê bình tự phê bình của lão! Những anh nào cứ định lôi rác rưởi vào Đảng sẽ không xong với lão đâu!

Nagunốp trợn lông mày trái lên, quay sang rỉ tai Đavưđốp:

- Bố ấy phá hội nghị! Đuổi cổ ra nhá? Mà sao cậu chẳng nghĩ ra hôm nay cử bố ấy đi công tác đâu cho rảnh nhỉ! Bố ấy mà đã nổi cơn lên thì trưa mai họa chăng mới hãm phanh bố ấy lại được…

Nhưng Đavưđốp tay trái đang cầm tờ báo che mặt, tay phải chùi nước mắt. Anh buồn cười qúa không nói được một lời, chỉ lắc đầu. Nagunốp tức điên người lên, nhún vai, giận dữ nhìn chòng chọc vào bác Suka. Thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra, bác tiếp tục liến thoắng, lắp bắp tiếng được tiếng mất:

- Ta đã là họp hội nghị công khai thì anh Kônđrát ơi, anh cứ phải nói công khai ra: khi anh vào nông trang và dẫn đôi bò đực đến góp, anh có khóc chúng nó hết nước mắt hay không?

- Câu hỏi lạc đề rồi! – Đemka Usakốp nói tướng lên.

- Hỏi vô nghĩa lý! Lối đâu bới bèo ra bọ thế nhỉ? – Uxchin Rưkalin tiếp lời Usakốp.

- Ai bảo vô nghĩa lý, ai bảo bới bèo ra bọ? Lão hỏi vào đề đấy chứ! Xin các anh câm họng các anh đi! – bác Suka đỏ mặt tía tai gào lên cố át lời họ.

Đợi cho hội nghị lắng đi, bác lại nói, lần này thì nhỏ hơn và khôn khéo hơn:

- Có thể anh không nhớ đâu, anh Kônđrát ạ, nhưng lão thì lão nhớ là sáng hôm dắt bò đi đưa vào chuồng tập thể mắt anh sưng húp bằng nắm tay và đỏ hoe như mắt thỏ, hoặc nói là như mắt con chó già ngủ chưa đẫy giấc thì cũng được. Vậy anh hãy xưng ra đi, như xưng tội với cha vậy: có cái chuyện ấy không?
Maiđanhikốp đứng dậy, bồi hồi vuốt vuốt lại áo, đưa đôi mắt mờ đi nhìn vội bác Suka một cái, rồi đáp bằng một giọng rắn rỏi từ tốn:

- Có chuyện ấy. Tôi có khóc, tôi không giấu. Tôi đau lòng phải xa mấy con bò của tôi. Chúng không phải của ông cha để lại cho, mà do tôi tậu lấy, bằng mồ hôi nước mắt của tôi. Đôi bò ấy, tôi có được đâu phải chuyện dễ! Nhưng bác ơi, đó là chuyện đã qua. Và những giọt nước mắt tôi đã khóc ấy thì có hại gì cho Đảng.

- Lại còn không có hại! – bác Suka phẫn nộ thốt lên. – Thử hỏi: hôm ấy anh dắt bò của anh đi đâu? Đi lên chủ nghĩa xã hội đấy, chú nó ạ, chứ còn đi đâu nữa. Và hết chủ nghĩa xã hội thì sẽ là cái gì? Sẽ là chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn, lão cứ nói thẳng cho anh biết như thế! Lão ở nhà anh Maka Nagunốp có thể nói là cứ tự nhiên như ở nhà, mọi bà con ngồi đây đều biết lão với anh ấy cứ gọi là hàng vốc khoa học: đêm nào lão cũng ngồi đấy mà đọc những quyển sách dầy cộp, rất chi là đứng đắn, không có tranh ảnh gì cả, hoặc là đọc quyển tờ điển, cố nhập tâm lấy những chữ thông thái, nhưng mả mẹ nó, cái tuổi già của lão nó tệ lắm! Nó làm cho trí nhớ lão thành như cái quần thủng túi, bỏ cái gì vào đấy cũng rơi vãi đi đâu mất sạch! Nhưng nếu vớ được cuốn nào mỏng mỏng thì có mà quỷ sứ cũng không giằng được khỏi tay lão! Và sách ấy nói gì lão nhớ tuốt! Đấy, khi mà đã lao đầu vào sách vở là lão như thế đấy! Lão đã đọc khối những quyển mỏng mỏng ấy và hiểu vanh vách, và lão có thể tranh luận với bất kỳ ai cho đến lúc gà gáy canh ba là sau chủ nghĩa xã hội, ta sẽ lần tới chủ nghĩa cộng sản, lão tuyên bố dứt khoát với bà con như vậy. Chính vì thế mà lão ngờ anh lắm, anh Kônđrát ạ… Lên chủ nghĩa xã hội anh đã nước mắt ngắn nước mắt dài thì lên chủ nghĩa cộng sản anh sẽ ra sao? Thì nước mắt sẽ ngập đến đầu gối chứ không thoát được! Anh thì sẽ thế thôi, lão thấy trước thế hai năm rõ mười! Vậy thì thưa đồng bào và các lão bà thân mến, một cái anh mau nước mắt như vậy thì Đảng cần đến làm gì?

Ông lão thú vị cười khúc khích và đưa tay lên che cái miệng móm mém:

- Lão thì không chịu nổi những cái anh đạo mạo ở trong Đảng hay ở đâu cũng vậy! Những anh mặt cứ lầm lầm ấy thì ta cần làm cái khỉ gió gì nhỉ? Bộ mặt đưa đám của họ làm người ta buồn chết người đi được, xuyên tạc và bóp méo cả điều lệ Đảng. Lão thử hỏi bà con: vậy thì tại sao lại không kết nạp Đêmít Miệng hến vào Đảng? Có hắn đây, hắn có thể mang vào Đảng cái buồn đến chết người của hắn đấy! Trên đời này lão chưa từng thấy ai đạo mạo bằng! Cho nên theo lão thì phải kết nạp những người vui nhộn như lão đây mới phải, chứ độc chọn những anh đạo mạo, nom đã chán ốm thì được cái tích sự gì? Lấy xí dụ như anh Maka đây thôi. Từ năm mười tám anh ta đã cứng đuồn đuỗn như nuốt phải cái thước sắt vào bụng vậy, thế cho nên đến tận bây giờ lúc nào anh ta cũng đạo mạo, ngay đơ, lừ lừ như chó ăn vụng bột. Cấm nghe thấy anh ta pha trò hay nói vui một câu bao giờ. Thần sầu chứ không phải là người nữa!

- Này, đừng có động đến tôi, bôi bác tôi là tôi sẽ có biện pháp đấy, - Nagunốp cảnh cáo bác.

Nhưng ông lão cười tươi hớn hở và, không còn đủ sức kìm cái cơn ngứa hùng biện nữa, bác tiếp tục bằng một giọng sôi nổi:

- Nhưng lão có động gì đến anh đâu, chẳng động tí ti nào! Lão nói chuyện anh Kônđrát này, đừng hòng mà đụng đến đến anh ta. Anh ta cứ như cưỡi bút chì mà chui ở bụng mẹ ra vậy, độc thấy ghi ghi chép chép, không thì lại cộng cộng trừ trừ. Cứ làm như ngoài anh ta ra thì không ai biết viết lách nữa vậy. Mọi điều ở trên đời này đã được các nhà thông thái ở Mátxcơva người ta viết đi viết lại, viết tái viết hồi chán ra rồi, anh ta nát óc làm gì cho khổ cái thân đời? Việc của anh ta là túm đuôi bò, nhưng anh ta lại chỉ độc giở giói học đòi những nhà thông thái thủ đô… Vậy thưa đồng bào và các lão bà thân mến, theo lão thì anh ta như thế là do ý thức kém. Cho tới bây giờ anh Kônđrát chưa có trình độ thoát triển chính trị. Và đã chưa có, chưa đạt được trình độ thoát triển thì cứ nên ngồi nhà mà thoát triển lên tí đã, vào Đảng làm gì vội? Dù cho anh Kônđrát đây có tức nổ bụng ra thì lão vẫn cứ dứt khoát phản đối kết nạp anh ta và lão hoàn toàn bỏ phiếu chống!

Vừa lúc đó Đavưđốp bỗng nghe thấy từ lớp bên cạnh vang tới cái giọng thanh thanh và run run của Varia Kharlamôva. Lâu lắm rồi anh không gặp cô, không được nghe cái giọng ngực ấm ấm của cô…

- Xin có ý kiến ạ!

- Vào đây, cho hội nghị trông thấy mặt, - Nagunốp đề nghị.

Mạnh dạn lách qua đám đông đứng như chen nêm, cô Varia hẩm hiu bước tới bên bàn chủ tọa, đưa hai bàn tay rám nắng lên nhẹ vuốt lại mớ tóc sau gáy.

Đavưđốp nhìn cô mà thầm sửng sốt trong bụng. Anh mỉm cười, không tin mắt mình. Mới có mấy tháng mà Varia đã thay đổi không còn nhận ra nữa: không, không còn là cô bé xương xương hồi nào mà đã là một người con gái thân thể cân đối nở nang với cái dáng đầu kiêu hãnh, với cái búi tóc củ hành nặng trĩu bó trong tấm khăn vuông xanh lơ. Cô đứng hơi ngoảnh về phía bàn chủ tọa đợi cho hội nghị im lặng, đôi mắt trẻ đẹp lim dim nhìn qua đầu đám người ngồi chen chúc, như hướng về một nơi xa nào ngoài thảo nguyên xa xăm. Đavưđốp nghĩ bụng: “Mới có từ sang xuân đến nay mà con bé đã xinh ra hẳn!”.

Đôi mắt Varia ánh lên bồi hồi, và gương mặt hồng hào không hề biết mùi phấn sáp của cô cũng ánh lên ánh mồ hôi. Nhưng đến đây, trước bao nhiêu con mắt nhìn đổ dồn vào mình, cô đâm ra mất sạch can đảm; hai bàn tay khỏe mạnh của cô cứ vò vò chiếc khăn mùi soa thêu, mặt cô đỏ bừng lên, và cái giọng ngực âm ấm của cô run run xúc động khi cô quay sang phía bác Suka, phát biểu:

- Ông ơi, ông nói vậy là không đúng! Ông nói đồng chí Kônđrát Khrixtôphôrưis Maiđanhikốp thế thì quá đáng lắm, ở đây chả ai tin được là đồng chí ấy không xứng đáng vào Đảng! Từ hồi sang xuân đến nay cháu đi cày với chú ấy, cháu thấy chú ấy cày giỏi hơn tất cả cả mọi người! Chú ấy toàn tâm toàn ý với công việc nông trang, chả tiếc gì công sức, thế mà ông lại phản đối chú ấy… Ông già cả mà ăn nói cứ như trẻ con vậy!

- Varia ơi, rắc cho lão ấy dúm hạt tiêu vào mũi! Không thì lão cứ lải nhải mãi như chão rách, không để cho ai nói được một câu! – cái giọng trầm của Paven Liubiskin cất lên ồm ồm như lệnh vỡ.

- Cô Varia nói chí lí lắm. Anh Kônđrát làm được nhiều công nhất nông trang. Anh ấy là người chịu thương chịu khó! – Ông lão Bexkhlépnốp cũng tham gia ý kiến.

Và có tiếng ai đứng ngoài hiên the thé réo vào:

- Nếu những người như anh Kônđrát mà không kết nạp vào Đảng thì phải kết nạp bác Suka vào! Có bố ấy thì nông trang sẽ bốc lên tận mây xanh…

Nhưng bác Suka chỉ mỉm cười độ lượng trong chòm râu dê rối bù, từ đời tám hoánh nào không chải. Nghe thiên hạ phát biểu, bác cũng chẳng thèm quay lại, cứ đứng trơ trơ như cái cột cắm bên bàn. Và khi hội nghị đã trở lại im lặng, bác thản nhiên nói tiếp:

- Cái con bé Varia chưa đến tuổi thành liên này mà vào đây làm gì nhỉ? Con mỏ khoét ấy thì đi tìm cái kho nào ngồi đấy mà chơi búp bê, và nếu đã vào đây thì hãy vểnh tai lên mà nghe những lời dạy bảo của những bậc tuổi tác như lão đây. Thời buổi thật là nhố nhăng! Trứng lại đòi khôn hơn vịt… Và các ông kia nói cũng đến là hay. Có ông nào vừa bảo là anh Kônđrát làm được nhiều công đem xe ngựa đến chất không hết… Nhưng lão thử hỏi bà con: ngày công thì có nghĩa lý gì ở đây? Đó vẫn chỉ là lòng tham, là đầu óc tiểu tư hữu tham lam không đáy, nếu bà con muốn biết thì lão xin nói rõ đó là anh Maka đã giải thích cho lão bao nhiêu lần như vậy. Lại thêm cái ông ngu si đần độn nào dám mở miệng bảo là đưa bác Suka vào Đảng thì nông trang sẽ lên tận mây xanh… Chuyện này chả có gì đáng cười cả, và chỉ có những đứa dở người thì mới lúc nào cũng nhăn nhăn nhở nhở, toe toét cái mồm ra thế. Lão có phải là người học thức không? Rất chi là học thức! Lão đọc thông viết thạo. Lão có tán thành điều lệ Đảng không? Hoàn toàn tán thành! Có đồng ý với Cương lĩnh không? Đồng ý, không tí ti gì phản đối cả. Từ chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa cộng sản không phải lão chỉ có thể đi bước một, mà là lão phi như bay, tất nhiên là cũng phải tuỳ theo cái tuổi già của lão, nghĩa là không vội vàng quá, để con tim nó khỏi nhảy ra ngoài. Lẽ ra lão đã phải vung vinh ở trong Đảng từ lâu rồi và chưa biết chừng đi đâu cũng kè kè cái cặp da cắp nách. Nhưng thưa bà con và các lão bà thân mến, lão xin nói trước Chúa là ngay đến bây giờ đây lão cũng chưa xứng đáng vào Đảng… Bà con có biết tại sao không? Tại vì rằng là, mả mẹ nó, lão vẫn còn cái tội mê tín dị đoan! Cứ mỗi lần nghe thấy cao cao trên đầu sét đánh đến xoẹt một cái là y như rằng lão đã vội thì thầm: “Lạy Chúa tha tội cho con!”, rồi làm dấu phép, rồi cầu xin Đức Chúa Giêsu và Đức bà Maria, và Đức bà Đầy ơn phúc, tóm lại là vớ được thánh nào là lão cầu tất, cứ lần lượt từng vị một, và thậm chí nghe tiếng sét quái ác ấy lão còn rụng rời chân tay mà ngã xỉu đi nữa ấy chứ…

Nói đến đó, bị tác động của câu chuyện chính miệng mình kể, bác Suka định làm dấu phép, đã đưa tay lên trán rồi nhưng lại kịp tỉnh ra, giả vờ gãi trán, lúng túng cười khúc khích:

- Cái chuyện ấy thì biết nói thế nào nhỉ… Khi mà đã sợ xanh mắt ra rồi thì trong bụng ta nghĩ: “Có quỷ sứ biết được ông thiên lôi ông ấy rắp tâm cái gì! Nhỡ phải lúc, để làm trò cười, ông ấy lại chơi cho một lưỡi tầm sét vào giữa cái đầu hói thì đi đời nhà ma lão Suka chứ còn gì! Mà cái trò ấy thì lão chả thú tí nào! Lão còn muốn đi nốt quãng đường đến chủ nghĩa cộng sản, đến cái cuộc đời sướng như tiên, thế cho nên đôi khi, bí quá, là lão cầu kinh, rồi dúi cho lão thày cả tí tỉnh, độ hai hào bạc thôi, để Chúa khỏi trút cơn giận lên đầu lão. Lão nghĩ bụng cứ cẩn tắc vô áy náy thế là hơn, chứ còn bảo phải trái, xuôi ngược ra làm sao thì có ma mà biết được… Ta cứ tưởng là lão thày cả sẽ cầu nguyện sức khoẻ cho cái thằng ngốc là ta, nhưng nghĩ cho cùng thì lão ấy tha thiết đến ta chẳng khác gì cái anh chết rồi tha thiết đến con đĩ vậy, hoặc nói theo kiểu học thức, con đĩ hay con đăng-ten thì cũng chỉ là một thôi. Cái lão thày cả khốn kiếp ấy cầm tiền của ta, đâu phải để cầu nguyện Chúa, mà để đi làm một chầu vốtka… Thế cho nên lão mới giải thích cho bà con rõ nhẽ: lão còn mê tín dị đoan như vậy thì vào Đảng làm gì kia chứ? Để xuyên tạc cả Đảng thân yêu, xuyên tạc cả bản thân mình, xuyên tạc cả Cương lĩnh của Đảng ư? Không, bà con ạ, cầu Chúa tránh cho lão cái tội ấy! Cái trò ấy thì lão chẳng cần tí nào cả, lão tuyên bố dứt khoát như vậy!

- Cụ ơi, cụ lại loạng choạng ra ngoài rìa rồi! – Radơmiốtnốp nói lớn. – Trở lại mặt đường đi, sao cứ loanh quanh xuống bờ xuống bụi như vậy!

Để đáp lời, bác Suka giơ tay chặn anh lại:

- Lão phát biểu xong bây giờ đây, anh Anđrây ạ. Nhưng anh đừng có ngắt lời lão bằng những câu chêm ngang ngu ngốc của anh, kẻo rồi lão phát biểu chẳng đi tới cái bờ bến nào cả. Anh cứ ngồi yên vểnh tai mà nghe những lời hay lẽ phải của lão, cố mà nhập tâm lấy, sẽ có tác dụng cho anh ở đời lắm đó. Lão đâu có bao giờ nói ra ngoài rìa, chả bao giờ có chuyện ấy cả, nhưng anh với anh Maka chỉ được cái thay phiên nhau mà gào lão thôi, cứ như thày trợ tế trước giá kinh vậy, đâm ra lão không muốn nhưng vẫn cứ bị đi lạc ra ngoài dòng ý nghĩ của lão. Vậy là lão đang nói chuyện dù không ở trong Đảng lão vẫn cứ đi tới chủ nghĩa cộng sản như thường, vui vẻ tưng tưng mà đi chứ không phải nước mắt ngắn nước mắt dài như anh chàng Kônđrát kia đâu, bởi vì lão là vô sản trắng tay, chứ không phải dân tiểu tư hữu, lão nói thẳng bà con biết như vậy! Và lão đã đọc ở một chỗ nào lão không nhớ là anh vô sản thì chẳng mất gì cả ngoài xiềng xích của mình. Mà lão chẳng có cái xiềng xích gì cả, ngoài cái xích cũ xưa kia lão xích con chó khi lão còn sống trong cảnh giàu sang, nhưng có cái bà nhà lão thì anh em ạ, còn quá tệ hơn bất cứ mọi xiềng xích gông cùm nào của tù khổ sai… Nhưng ngay cả bà ấy lão cũng chẳng muốn để mất tí nào, lạy Chúa, cứ để cho bà ấy sống với lão! Nhưng nếu bà ấy ngăn cản lão, đứng chắn ngang đường đi lên chủ nghĩa cộng sản của lão thì lão sẽ phi tránh qua bên cạnh, làm bà ấy không kịp kêu ối lên một tiếng! Về cái khoản ấy thì bà con cứ yên trí! Lão mà đã phi thì khiếp lắm, đừng ai dại mà đứng chắn ngang đường lão! Hoặc là lão sẽ xéo cho chết toi, hoặc là lão lướt vòng sang bên, chưa kịp chớp mắt thì lão đã lỉnh qua rồi!

- Ông kết luận đi, không có tôi không cho nói nữa đấy! – Nagunốp đập tay xuống bàn, tuyên bố dứt khoát.

- Lão kết luận đây, anh Maka ạ! Nhưng anh đừng đập bàn, kẻo không lại long ốc tay ra đấy. Vậy là lão đang nói chuyện nếu như tất cả bà con đều tán thành anh Kônđrát thì lão cũng chẳng phản đối làm gì, lạy Chúa, xin bà con cứ việc kết nạp anh ta vào Đảng. Anh ta là kẻ chăm lam chăm làm, rất là đáng quý, xưa nay lão vẫn bảo như vậy. Phân tích cho đúng ra cặn kẽ chẻ sợi tóc ra làm tư thì anh Kônđrát nhất thiết phải có chân trong Đảng, lão xin tuyên bố dứt khoát như vậy. Nói tóm lại, anh ấy rất xứng đáng là đảng viên. Lão có ý kiến, hết!

- Thế là tiền đấm hậu xoa hả? – Radơmiốtnốp hỏi.

Tiếng cười nổi lên như sấm làm cho hầu như chả ai nghe được lời anh.

Vô cùng hể hả với bài phát biểu của mình, bác Suka mệt lử buông mình ngồi xuống ghế, đưa cánh tay áo lên quệt mồ hôi ướt đẫm cái đầu hói, rồi hỏi Anchíp Gráts ngồi cạnh bác:

- Lão… phê bình… thế có được không?

- Bố ơi, bố phải làm nghệ sĩ mới phải, - Anchíp không trả lời câu hỏi, mà thì thầm khuyên bác.

Bác Suka liếc nhìn anh ta một cái ngờ vực, nhưng không trông thấy cái nụ cười ẩn trong hàng râu đen như bồ hóng của anh ta, bác hỏi tiếp:

- Lão làm cái trò ấy để làm gì?

- Bác sẽ tha hồ hót của, mà không phải chỉ hót bằng xẻng thôi đâu, mang xe cút kít chở không hết nữa ấy! Bở ăn đến thế là cùng! Bác chỉ việc kể chuyện tếu mua vui cho thiên hạ, tán róc khỏe, làm trò khỉ mạnh vào, tất cả công việc chỉ có thế thôi, nhà, mà lại ra lắm tiền.

Bác Suka khoái ra mặt, ngó ngoáy ngồi không yên, cười:

- Anh Anchíp ạ, anh nên nhớ là lão Suka không phải tay xoàng đâu nhá! Nói câu nào là trúng câu ấy, cấm chệch câu nào đâu, lão đâu phải cái người nói vu vơ! Anh thấy thế nào? Bần cùng bất đắc dĩ, khi tuổi già sức yếu, mắt mờ chân chậm, lão có thể đi làm nghệ sĩ được đấy. Những cái trò ấy thì ngay hồi còn trẻ lão đã ác liệt lắm nhá, bây giờ lại còn ác liệt hơn! Lão coi dễ như bỡn.

Ông lão mơ màng nhai móm mém, ngồi lặng im một lát, ngẫm nghĩ cái gì trong đầu, rồi hỏi:

- Thế chẳng hay anh có nghe ở đấy người ta trả công thế nào không hả, cho nghệ sĩ ấy mà? Khoán hay công nhật? Tóm lại là xu nhập cá nhân có khá không? Tiền kôpếch thì dùng xẻng xúc cũng được, nhưng tiền kôpếch đối với lão thì chả nghĩa lý gì mặc dầu đối với anh keo kiệt thì một kôpếch cũng là quý đấy.

- Người ta trả tùy theo mồm mép, điệu bộ khi mình ra mắt khán giả, - Anchíp thì thào, giọng hội kín hội hở. – Càng bẻm mép, càng múa may quay cuồng thì lương càng cao. Bác ơi, đám ấy thì độc chỉ biết chén no kễnh bụng rồi hát hỏng, và đi lang thang hết tỉnh này đến tỉnh khác. Họ sướng lắm, có thể nói là như chim trời cá nước vậy.

- Anh Anchíp ạ, ta ra sân làm điếu thuốc đi, - bác Suka rủ, tự dưng không còn thiết tí gì đến hội nghị nữa.

Hai người vất vả mới lách được qua đám người dày đặc, bước ra sân. Họ ngồi xuống bên hàng giậu, trên nền đất còn ấm hơi nắng ban ngày, giở thuốc ra hút.

- Này anh Anchíp ơi, thế anh đã có dịp nào trông thấy bọn nghệ sĩ ấy chưa?

- Thấy vô khối rồi. Hồi đi quân dịch ở thành phố Grốtnô, tôi đã được xem họ chán mắt thì thôi.

- Họ thế nào?

- Như mọi người.

- Nom có béo tốt không?

- Như lợn vỗ để xuất chuồng!

Bác Suka thở dài:

- Thế nghĩa là ăn uống của họ mùa đông cũng không kém gì mùa hè à?

- Họ chén đến đứt dải rút quần!

- Xin vào đấy làm thì xin ở đâu nhỉ?

- Phải đi tận Rôxtốp, chứ gần thì làm gì có?

- Thế thì cũng chả xa lắm… Kiếm tiền ngon ơ thế mà sao anh chả mách lão biết sớm? Lão mà biết thì đã xin một chân ở đấy từ lâu rồi! Anh biết đây, làm công việc nhẹ, dù là việc nghệ sĩ đi nữa, thì lão có khả năng kinh lắm, còn việc đồng áng nặng nhọc thì lão chả làm được, vì cái bệnh lòi dom của lão. Lão mất món bở ấy là tại anh đấy! Anh là cái đồ khỉ gió chứ không phải là người! – bác Suka nói bằng giọng vô cùng ngán ngẩm.

- Thì cũng tại có bao giờ ta nói đến chuyện ấy đâu, - Anchíp phân trần.

- Lẽ ra anh phải khơi gợi lão nghĩ đến chuyện ấy chứ, và nếu thế thì có phải lão đã vung vinh làm nghệ sĩ từ lâu rồi không. Và mỗi lần lão về thăm bà nó nhà lão thì đây, có ngay nửa lít vốtka đặt trên bàn khao anh về lời khuyên phúc đức ấy! Lão thì no nê, mà anh thì say lúy túy, thế có phải hay không!... Chà, Anchíp, anh Anchíp ơi!... Hai ta đã bỏ lỡ mất một việc rất là béo bở. Lão phải về hỏi ý kiến bà nhà lão ngay hôm nay mới được, và có thể là mùa đông này lão sẽ lên trên ấy kiếm ăn. Anh Đavưđốp sẽ cho lão đi thôi, và tiền ăn tiêu không hết lão sẽ để sắm sửa việc nhà: tậu một con bò cái này, độ mươi con cừu này, một chú lợn con này, đời sẽ vui ra phết… - bác Suka cứ thế thả cửa mơ ước ra mồm, và phấn khởi trước sự im lặng đồng tình của Anchíp, bác nói tiếp: - Phải nói thật với anh là lão đã chán ngấy mấy con nghẽo này rồi, và những cuốc xe ngựa mùa đông thật chả thích hợp gì với tuổi tác của lão. Lão ọp ẹp lắm rồi, trời giá rét là cứ run cầm cập, tóm lại là sức khỏe xuống dốc ghê lắm. Ngồi xe ngựa độ tiếng đồng hồ là ruột gan lão bị lạnh cứ đóng băng lại thành một cục. Như thế thì chả mấy nỗi mà bị xoắn ruột nếu như cái rét nó làm cho ruột lão dính bết vào nhau, hoặc là viêm thần kinh bụng như mồ ma nhà ông Kharitôn vậy. Mà như thế thì lão chả muốn tí nào! Lão còn bao nhiêu việc phải làm, và đi lên chủ nghĩa cộng sản thì dù có phải gãy xương sống lão cũng cứ nhất định đi tới!

Anchíp trêu ông lão ngây thơ như trẻ con ấy một lúc đã chán, quyết định chấm dứt câu chuyện tếu:

- Bác ạ, trước khi ghi tên làm nghệ sĩ, bác phải nghĩ cho chín đi đã…

- Chả có cái gì phải nghĩ cả, bác Suka tuyên bố, đầy tự tin. – Đã là chuyện làm giả ăn thật thế thì mùa đông này nhất định lão sẽ đi. Kể chuyện linh tinh mua vui cho bà con thì có gì là khó!

- Tiền bạc không phải lúc nào cũng thích đâu…

- Sao lại thế được? – Bác Suka vểnh tai.

- Nghệ sĩ có khi bị họ choảng…

- Cho-o-oảng? Ai choảng?

- Dân mất tiền mua vé họ choảng.

- Nhưng vì sao mà choảng?

- Ấy, có khi anh nghệ sĩ nói hớ câu nào không hợp khẩu vị người ta, hoặc pha trò nhạt quá là họ giã liền.

- Nhưng… họ giã… thật, hay là giã đùa, để dọa thôi?

- Làm đếch gì có chuyện đùa! Có lần họ đánh cho đến nỗi phải khiêng anh chàng khốn khổ khốn nạn ấy rời khỏi sân khấu đưa đi bệnh viện ngay tắp lự, và có lần thì đưa thẳng ra nghĩa địa. Thời chế độ cũ chính mắt tôi trông thấy ở rạp xiếc một anh nghệ sĩ bị họ cắn cho toạc tai và bẻ ngoéo cái chân sau, gót ra đằng trước, ngón ra đằng sau. Anh chàng tội nghiệp ấy cứ thế mà đi về nhà…

- Khoan đã, lão hỏi, tại sao lại chân sau? Thế anh ta có bốn chân hay sao?

- Nghệ sĩ thì có những người như thế đấy… Cần đủ loại người để làm trò mà. Nhưng chuyện vừa rồi là tôi nói nhầm, ý tôi định nói là chân trái, đoạn trên ấy mà, tóm lại là họ vặn ngoéo cả cái cẳng trái, mông đít quay ra đằng trước, thành thử không còn biết anh ta đi về hướng nào nữa. Anh ta kêu cha kêu mẹ lên nhá! Kêu váng cả tỉnh nghe thấy, chẳng khác gì cái đầu tàu hỏa, làm tôi dựng tóc gáy!

Bác Suka nhìn Anchíp dò xét một lúc. Nhưng mặt anh ta nom nghiêm trang, có vẻ buồn nữa, chắc hẳn do nhớ lại những chuyện không vui ấy. Rốt cuộc bác Suka tin là chuyện có thật và bất bình hỏi:

- Thế cảnh sát đứng chết dí đâu? Chuyện thế mà họ đứng nhìn à?

- Chính cảnh sát còn tham gia ấy chứ. Mắt tôi trông thấy cảnh sát tay trái cầm còi thổi nhưng tay phải thì quai vào giữa mặt anh chàng nghệ sĩ ấy.

- Anh Anchíp ạ, dưới thời Sa hoàng mới có thể có chuyện ấy, còn dưới chính quyền xôviết anh em cảnh vệ đâu lại đánh người.

- Dân thường thì tất nhiên cảnh vệ không đụng đến đâu, nhưng nghệ sĩ thì họ vẫn đánh như thường, họ được phép đánh mà. Cái lệ ấy có từ thuở khai thiên lập địa cơ, chịu chứ biết làm thế nào?

Bác Suka nheo nheo mắt, không tin:

- Đồ khỉ gió anh chỉ nói liều! Lão chả tin anh tí nào… Anh làm sao biết được là cả bây giờ nữa người ta cũng vẫn đánh đập nghệ sĩ? Ba mươi năm nay anh có lên tỉnh lần nào đâu, có thò mũi ra khỏi làng bao giờ mà bảo biết rõ?

- Tôi có thằng cháu ở Nôvôtserkaxkơ, nó vẫn biên thư kể chuyện trên tỉnh cho tôi mà, - Anchíp khẳng định.

- Nếu quả là cháu anh… - một lần nữa bác Suka lại dao động và thở dài đánh sượt một cái, mặt ỉu xìu. – Thế thì cũng gay đấy, anh Anchíp ạ! Xem ra thì làm nghệ sĩ là một cái trò nguy hiểm… Xét cho cùng, nếu dân người ta đi đến chỗ thủ tiêu giết người như vậy thì lão chả thích cấi nghề ấy tí nào. Khoái mấy lão cũng thèm vào!

- Thì cũng nói trước cho bác biết thế. Trước hết bác cũng nên về hỏi qua bà lão tí đã rồi đi xin việc cũng vừa.

- Chả dính dáng gì đến bà nhà lão cả, - bác Suka đáp ráo hoảnh. – Nếu xảy ra chuyện gì thì đâu phải người ta bẻ gãy xương sườn bà ấy. Thế thì việc gì phải hỏi ý kiến bà ấy?

- Thì bác tự quyết định lấy vậy. – Anchíp đứng dậy, lấy chân di di cái đầu mẩu thuốc.

- Chả đi đâu mà vội, từ nay đến sang đông còn xa. Và cũng phải nói thật là bỏ đôi ngựa giống đấy mà đi thì cũng nhớ, và bà nhà lão ở lại nhà một mình cũng buồn… Thôi thôi, anh Anchíp ạ, cái nghề nghệ sĩ ấy chả có lão vẫn chả thiếu người. Mả cha những cái lối kiếm tiền ngon ơ ấy! Mà nghĩ cho kỹ thì cũng chả phải ngon ơ lắm đâu. Nếu ngày nào cũng bị thiên hạ giã cho như vậy, và cảnh vệ đáng lẽ phải bênh mình thì cũng lại thượng cẳng chân, hạ cẳng tay với mình thì lão xin vái cả nón! Cái món ấy xin để các ngài xực thôi! Từ bé đã chuyên môn bị hành hạ đủ vành rồi! Ngỗng ư, bò ư, chó ư, còn có cái giống gì mà nó không gây chuyện hại lão? Thậm chí còn đến cái nước là con cái đẻ ra người ta lại quẳng đến bắt lão nuôi. Anh bảo thế thì còn sung sướng nỗi gì? Thế mà về già đi làm nghệ sĩ lại bị người ta đánh chết toi hoặc vặn ngoéo mất cái bộ phận tứ chi nào thì lão xin vái cả nón! Chả tội gì, lão chỉ có một ý kiến thế! Ta đi thôi, anh Anchíp ạ, thà vào họp còn hơn, việc ấy không nguy hiểm mà lại vui, mặc cho đám nghệ sĩ việc họ họ làm. Họ xem ra anh nào cũng trẻ cả, và khỏe như vâm. Có đánh tuốt xác họ ra họ cũng chẳng làm sao, và có lẽ chính nhờ thế mà họ béo ra cũng nên. Lão già thì phải làm việc già. Đi với họ, đánh chén có linh đình bằng mấy mà bị người ta sửa cho độ hai trận thôi thì cũng đủ để lão trả linh hồn cho Chúa rồi. Mỗi bận như thế thì mẩu bánh còm kia đút vào miệng còn có nghĩa lý quái gì nữa? Cái bọn ngu ngốc chuyên môn đánh đập anh em nghệ sĩ nghèo khổ ấy, chúng nó tha gì mà không móc tươi mẩu bánh ấy trong họng lão ra? Lão không muốn làm nghệ sĩ đâu, và từ nay anh đừng rủ rê gì lão nữa, đồ quỷ rậm râu ạ, đừng làm lão lộn tiết lên mà không xong với lão đâu! Chỉ vừa mới nghe anh kể qua chuyện cái thằng mặt mẹt nào nó cắn toạc tai anh nghệ sĩ, rồi lại vặn ngoéo cẳng anh ta, rồi lại đánh đập anh ta, mà tai lão đã đau nhói lên, cẳng lão đã rụng rời, xương cốt nhức nhối khắp, cứ như chính lão bị cắn tai, bị đánh đập và lôi đi xềnh xệch vậy… Những chuyện man rợ ấy lão nghe mà cứ kinh cả người, chả khác gì bị dập thương chiến tranh. Thôi, anh vào hội nghị một mình thôi, lạy Chúa, lão phải ngồi đây nghỉ một tí lấy lại hồn vía, xong rồi lão sẽ vào bỏ phiếu chống Đúpxốp. Còn bây giờ thì anh Anchíp ạ, lão chịu, không thể phát biểu được, lão đang lạnh ớn sống lưng, đầu gối thì run lẩy bẩy, mả mẹ nó cứ như người bị sốt rét ngã nước vậy, đứng không vững nữa…

Bác Suka giở thuốc cuốn một điếu thứ hai. Và quả đúng là hai tay bác run lật bật thật, làm cho thuốc lá sừng bò thái to sợi cứ rơi vãi lả tả khỏi mẩu giấy báo cuộn sâu kèn. Và mặt bác nhăn nhó như muốn khóc. Anchíp làm ra vẻ thông cảm nhìn bác, nói:

- Bác ạ, tôi biết đâu bác yếu bóng vía thế, biết thì tôi đã chả kể bác nghe làm gì về cái kiếp cay đắng của nghệ sĩ… Đúng, bác ạ, bác chả làm được nghệ sĩ đâu! Bác cứ ngồi bên lò mà sưởi cho khỏe, đừng chạy theo đồng tiền làm gì. Và bỏ bà lão đấy mà đi biền biệt cũng không nên, phải thương bà lão chứ…

- Bao giờ lão kể bà ấy rằng vì bà ấy mà lão đã từ chối không đi làm nghệ sĩ thì bà ấy mừng rơn lên! Rồi thì là không ngớt cảm ơn lão rối rít cho mà xem!

Bác Suka mỉm một nụ cười dịu dàng, lắc lư đầu tận hưởng trước niềm vui của mình và niềm vui bác sẽ đem lại cho bà già khi báo bà biết cái tin đáng mừng kia. Nhưng bão táp đang lơ lửng trên đầu bác…

Bác biết đâu rằng nửa giờ trước đây ông bạn vàng Maka Nagunốp của bác đã cho người về phi báo bà lão, lệnh gắt gao cho bà phải ra trường ngay lập tức và bằng mọi cách lôi cổ ông lão về nhà.

- Bà lão thiêng thật, vừa mới nhắc đến xong! – Anchíp Gráts thú vị đằng hắng một cái nói, và bây giờ thì cười công khai.

Bác Suka ngẩng đầu lên. Tưởng đâu như có ai cầm miếng bọt bể ướt chùi sạch nụ cười tươi hơn hớn trên môi bác Suka đi vậy! Bà lão xông thẳng đến chỗ bác, mặt hầm hầm, đầy quyết tâm, nom như hiện thân của cường quyền.

- Lạy Chúa… - bác Suka hoảng hốt thều thào. – Mụ chết tiệt này ở đâu ra thế? Vừa mới rồi còn ốm liệt giường, đầu không cất lên được, thế mà đã lù lù dẫn xác đến đây rồi. Đến làm cái ma dại gì không biết?

Bác Suka ngồi dưới đất, ngây ra như bị thôi miên, và ngước mắt lên nhìn bà lão như con thỏ nhìn con trăn đói.

- Hội nghị chưa xong, bà nó ạ, và tôi còn phải phát biểu ý kiến. Các vị lãnh đạo khẩn khoản yêu cầu tôi phát biểu mà, - mãi rồi bác mới thều thào nói được, và nói đến đây thì nấc nghẹn.

- Không có ông cũng chẳng sao. Đi! Về nhà có việc.

Bà lão cao hơn ông chồng một đầu và nặng cân gấp đôi. Bà nắm nghiến lấy tay ông lão, khẽ kéo một cái là dựng đứng được ông lên rồi. Bác Suka đã hồi tỉnh lại, bực tức giậm chân bành bạch.

- Tôi không về đâu! Bà lấy quyền gì mà cấm tôi phát biểu! Bây giờ đâu phải thời chế độ cũ!

Chẳng cần nói thêm nửa lời, bà lão quay phắt đi, rảo bước trở về nhà, và, bị bà xềnh xệch lôi đi, bác Suka cứ lon ton chạy theo sau, đôi lúc cũng cố níu cưỡng lại. Nom bộ dạng bác Suka thì đúng là một bức tranh không lời về sự nhẫn nhục mù quáng của con người trước số phận.

Anchíp Gráts nhìn theo bác, lẳng lặng cười. Nhưng khi bước lên bực thềm, anh nghĩ bụng: “Nói đổ xuống sông xuống biển, ông lão mà chết thì làng xóm cũng mất vui!”.

CHƯƠNG XXIII

Bác Suka vừa ra khỏi lớp là hội nghị xoay hẳn chiều hướng. Bà con nông trang viên đã có thể phát biểu một cách nghiêm chỉnh, cân nhắc việc kết nạp Đúpxốp, không còn bị những trận cười chốc chốc lại rộ lên ngắt quãng nữa. Và khi bác phó rèn Ipôlít Salưi đứng lên xin phát biểu ý kiến, - một chuyện chẳng ai ngờ, - thì lần đầu tiên hội nghị đã ắng đi vài phút một cái ắng lặng báo bão…

Sau khi tất cả các đơn xin gia nhập Đảng đã được thảo luận xem xét cặn kẽ các mặt, và ba người đã được hội nghị bỏ phiếu theo lối giơ tay, nhất trí tán thành kết nạp vào Đảng với thời gian dự bị là sáu tháng, thì bác Salưi xin phát biểu. Đang ngồi ở bàn kê sát cửa sổ, bác đứng dậy, tựa tấm lưng bè bè vào khung cửa sổ, hỏi:

- Tôi muốn hỏi ông quản lý Iakốp Lukits một câu có được không ạ?

- Hỏi hai câu cũng được, - Maka Nagunốp chắc mẩm sẽ có chuyện, vui vẻ đồng ý ngay.

Iakốp Lukits miễn cưỡng quay sang phía bác Salưi. Gương mắt lão lạnh ngắt một vẻ chờ đợi căng thẳng.

Đôi mắt đen lồi ra nhìn Iakốp Lukits không chớp, bác Salưi cất giọng ồm ồm như lệnh vỡ phát biểu:

- Thế là có một số bà con đã vào Đảng, họ không muốn đứng ngoài, mà muốn vào để cùng chia xẻ vui buồn với Đảng. Vậy ông Iakốp Lukits ơi, sao ông lại không đưa đơn xin vào Đảng hả? Tôi rất thắc mắc, muốn hỏi ông: tại sao ông lại muốn đứng ngoài? Hay là việc Đảng vượt qua bao nhiêu gian lao nguy hiểm, như con cá bơi giữa băng trôi, để dẫn dắt chúng ta tới cuộc sống tốt đẹp hơn, là chuyện chẳng dính dáng gì đến ông? Còn ông thì thế nào? Ông không muốn đổ mồ hôi sôi nước mắt, muốn ngồi mát đợi khi có miếng thì người ta nhai sẵn đút vào mồm cho ông chứ gì? Hóa ra ông là người như thế đấy hả? Kể ra ông thế thì cũng hay đấy, và nhân dân thấy thừa đi rồi… Bà con dân làng này ai cũng thừa thấy thế, nói ông biết vậy!

- Miếng ăn của tôi, tôi tự kiếm lấy, chưa hề xin của ông bao giờ, - Ôxtơrốpnốp đối đáp lại ngay.

Nhưng bác Salưi vung mạnh tay, như gạt phắt câu bào chữa chẳng có giá trị gì ấy đi, nói tiếp:

- Kiếm ăn cũng có ba bảy đường: khoác cái bị rách lên vai, chống gậy đi ăn mày, đó cũng là một cách kiếm ăn chắc chắn không chết đói. Nhưng tôi không nói chuyện ấy, và ông, ông Iakốp Lukits ạ, ông đừng giẫy nẩy lên như con rắn bị đinh ba xỉa thế, ông thừa hiểu tôi định nói gì rồi! Trước đây, hồi còn cá thể, ông làm tợn lắm, như con chó sói, không ngơi tay, không nề hà việc gì, miễn sao vơ được nhiều tiền, nhưng bây giờ ông làm việc kiểu chẳng buồn xắn tay áo, chẳng qua để che mắt thiên hạ… Nhưng tôi cũng không nói chuyện ấy. Chưa đến lúc ông phải tính sổ trước bàn dân thiên hạ về cái lối kiếm ăn dễ dàng và về cuộc đời mờ ám của ông, bao giờ đến lúc ấy sẽ hay. Còn bây giờ ông hãy nói cho bà con nghe thử: tại sao ông không xin vào Đảng?

- Tôi kém văn hóa, không vào Đảng được. – Ôxtơrốpnốp đáp nhỏ, nhỏ đến nỗi trừ mấy người ngồi quanh ra cả trường chả ai nghe rõ lão nói gì.

Phía sau có tiếng ai réo lên đòi:

- Nói to lên! Lúng búng cái gì chả ai nghe rõ cả! Nói gì nhắc lại đi.

Iakốp Lukits ngồi im lặng lát lâu, dường như không nghe thấy lời người ta yêu cầu mình. Trong cái không khí im lặng chờ đợi ấy chỉ còn nghe thấy từ dòng sông âm thầm đang thiêm thiếp ngủ vọng lại bản hòa tấu vang vang muôn giọng của bọn ếch nhái. Xa xa đâu đó, chắc là ở đống cối xay gió cũ phía sau làng, một con cú mèo kêu lên sầu não, và phía bên ngoài sửa sổ líu lo tiếng hót đêm khuya của con chim sáo trong bụi xiêm gai um tùm.

Làm thinh mãi e không tiện, Ôxtơrốpnốp nhắc lại to hơn:

- Tôi kém văn hóa, vào Đảng không được.

- Làm quản lý thì ông có văn hóa, nhưng vào Đảng thì không chứ gì? – bác Salưi hỏi hỏi vặn.

- Một đằng là công việc sản xuất, một đằng là chính trị. Ông không phân biệt được hai cái khác nhau, nhưng tôi thì phân biệt, - đã bình tĩnh sau phút đầu tiên bị bất ngờ, Iakốp Lukits lớn tiếng đáp rõ ràng rành mạch.

Nhưng bác Salưi không buông tha, cười khẩy nói tiếp:

- Vậy mà anh em đảng viên vừa lo sản xuất, vừa lo cả chính trị đấy, và ông nên biết là họ làm tốt ra trò! Việc nọ có cản trở việc kia đâu,. Ông Iakốp Lukits ạ, ông đang quanh co cái gì đó, ông nói không đúng… ông muốn xuyên tạc sự thật, nên ông cứ quanh co.

- Tôi chẳng có gì mà quanh co, và để làm gì cơ chứ? – Ôxtơrốpnốp âm thầm đáp lại.

- Có, có! Chính vì ông có những ý đồ gì sâu kín trong đầu nên ông mới không làm đơn xin vào Đảng… Cũng có thể là tôi nhầm, nếu vậy thì ông bẻ lại tôi, cứ bẻ đi!

Hội nghị đã kéo dài hơn bốn tiếng. Mặc dầu về khuya mát mẻ, không khí trong trường ngột ngạt không chịu nổi. Ngoài hành lang và trong các lớp mấy ngọn đền dầu tù mù dường như làm cho không khí càng thêm ngột ngạt. Nhưng những con người nhễ nhại mồ hôi ấy vẫn ngồi không nhúc nhích, im lặng và căng thẳng theo dõi cuộc đấu khẩu vừa mới bất thần nổ ra giữa bác phó rèn già và Ôxtơrốpnốp, cảm thấy rằng đằng sau những câu bốp chát kia còn ẩn một cái gì chưa nói ra, nặng nề, mờ ám…

- Ông bảo tôi có những ý đồ sâu kín gì? Nếu mọi sự trên đời ông đều thông tỏ thì ông cứ nêu ra nghe, - Ôxtơrốpnốp đề nghị. Lão đã lấy lại được cái bình tĩnh vừa bị mất, và chuyển từ thế thủ sang thế công.

- Ông Iakốp Lukits ạ, chuyện ông thì để ông nói. Việc gì tôi phải nói hộ ông nhỉ?

- Tôi chả việc gì phải nói với ông cả!

- Không phải nói với tôi, mà nói với nhân dân… nói cho bà con nhân dân đây nghe!

- Chỉ thấy ông hỏi, bà con chả ai hỏi tôi gì cả.

- Mình tôi hỏi là đủ rồi. Nghĩa là ông không muốn nói chứ gì? Không sao, chúng tôi  sẽ đợi, chẳng nay thì mai, trước sau rồi ông sẽ nói thôi!

- Nhưng tại sao ông lại kiếm chuyện với tôi thế, hả ông Ipôlít? Bản thân ông sao không vào Đảng? Ông hãy sờ lên gáy ấy, quyền gì mà ông đòi tôi xưng tội, ông đâu phải cha cố!

- Nhưng ai bảo ông là tôi không vào Đảng? - bác Salưi vẫn giữ nguyên tư thế, chậm rãi, dằn giọng hỏi lại.

- Ông không có tên trong Đảng, thế nghĩa là ông không vào.

Đến đây bác Salưi đằng hắng một tiếng, đẩy vai rời khỏi khung cửa sổ. Bà con từ từ dãn ra trước mặt bác, và bác thong thả bước tới trước bàn chủ tọa, chân bước miệng nói:

- Trước đây tôi không vào, đúng, nhưng bây giờ tôi vào. Nếu ông, ông Iakốp Lukits ạ, ông không vào, thì nghĩa là tôi phải vào. Còn nếu như hôm nay ông nộp đơn thì tôi lại không vào. Tôi với ông thì không thể ở trong cùng một đảng được. Hai chúng ta là người của hai đảng khác nhau…

Ôxtơrốpnốp nín thinh, chẳng rõ tại sao lại mỉm một nụ cười mơ hồ. Còn bác Salưi thì tiến đến bên bàn chủ tọa, bắt gặp ánh mắt rạng rỡ một ý thầm biết ơn của Đavưđốp, rồi chìa ra lá đơn việc nguệch ngoạc trên một mảnh giấy cũ vàng ố, bác nói:

- Nhưng tôi không có người giới thiệu đâu. Phải tìm cách nào khắc phục vậy… Trong các anh, có anh em nào nhận đứng ra giới thiệu tôi không? Nếu có thì biên vào đây cho…

Nhưng Đavưđốp đã ký tên giới thiệu vào lá đơn bằng một nét chữ viết thoắng trong lúc vội vã. Rồi đến Nagunốp đón lấy cây bút ở tay anh.

Bác Ipôlít Salưi được nhất trí kết nạp làm đảng viên dự bị. Bỏ phiếu xong, các đảng viên chi bộ Grêmiatsi đứng dậy vỗ tay, và mọi người có mặt cũng bắt chước đứng lên, vụng về thưa thớt vỗ lốp bốp những bàn tay lao động sần sùi những chai.

Bác Salưi đứng đó chớp chớp mắt cảm động. Bác đưa đôi mắt rơm rớm nhìn những khuôn mặt quen thuộc từ bao năm nay của bà con dân xóm, và cách nhìn của bác hình như đã khác trước. Nhưng khi Radơmiốtnốp rỉ thầm tai bác: “Bác Ipôlít à, phát biểu câu gì với bà con đi chứ, câu gì cảm động vào…” thì ông lão lắc đầu một cách bướng bỉnh:

- Nói vớ nói vẩn thì nói làm gì! Mà cái vốn văn vẻ của lão cũng không có những câu ấy… Anh trông đấy, bà con vỗ tay khiếp thế kia… Nghĩa là bà con rõ cả rồi, chả cần lão dài dòng văn tự.

Nhưng trong những giây phút này, sự thay đổi vẻ mặt một cách kỳ lạ nhất diễn ra không phải là ở người nào trong đám đảng viên mới được kết nạp, mà lại là ở chính bí thư chi bộ Nagunốp. Đavưđốp chưa bao giờ thấy anh ta như vậy: Maka đang ngoác miệng ra cười thoải mái. Đứng sau bàn với tất cả dáng vóc cao lớn của anh, anh đưa hai bàn tay hơi run run xúc động vuốt sửa lại áo varơi, rồi bâng quơ nắm lấy cái khóa chiếc thắt lưng lính, đung đưa đổi chân nọ sang chân kia, và điều quan trọng nhất là anh cười, nhe ra hai hàm răng nhỏ đều sít. Đôi môi lúc nào cũng mím chặt của anh đã rung rung ở hai bên khóe, rồi bỗng nở ra thành một nụ cười trẻ thơ nom rất cảm động. Và nụ cười ấy trên khuôn mặt nghiêm nghị khắc khổ của anh trông lạ mắt quá đến nỗi Uxchin Rưkalin là người đầu tiên đã không kìm được, phải thốt lên hết sức kinh ngạc:

- Bà con ơi, nom kìa, anh chàng Maka nhà ta đang cười thì phải? Từ thuở bé đến giờ mới thấy cái chuyện lạ ấy…

Nagunốp vẫn cười thoải mái như thế, đối đáp lại:

- Lại có cái anh tinh mắt thế nhỉ! Tội gì mà tôi không cười? Phấn khởi thì cười chứ sao! Cười đâu có mất tiền. Vả lại ai cấm tôi cười nào? Thưa đồng bào thân mến, thưa bà con, tôi xin tuyên bố bế mạc hội nghị công khai của chi bộ. Chương trình nghị sự đến đây là hết.

Người càng ngay đuỗn ra, và ưỡn thẳng đôi vai chẳng cần ưỡn cũng đã ngang chằn chặn rồi, anh bước ra khỏi bàn, cất giọng sang sảng nói:

- Nhân danh bí thư chi bộ, tôi mời các đồng chí thân mến mới được kết nạp vào Đảng cộng sản vĩ đại của chúng ta lên đây để tôi chúc mừng các đồng chí về vinh dự lớn đó! – Đôi môi đã lại mím chặt và trở lại là anh chàng Maka thường ngày, bằng một giọng không cất cao nhưng là giọng hô hiệu lệnh, anh buông ra một tiếng:

- Từng người một, tiến lên!

Kônđrát Maiđanhikốp đứng dậy trước. Những bà con ngồi đằng sau anh trông thấy áo anh đẫm mồ hôi và dán chặt vào lưng từ bả vai tới thắt lưng. “Tội nghiệp chưa, cứ như vừa mới phát hết một đêxiachin cỏ vậy!” một bà lão phều phào thông cảm nói, và có tiếng ai cười khúc khích: “Anh chàng Kônđrát bị một trận toát mồ hôi!”.

Nagunốp nghiêng mình, đưa bàn tay dài và ướt xâm xấp vì cảm động nắm lấy bàn tay Kônđrát chìa cho anh, siết chặt, và trịnh trọng tuyên bố bằng giọng hơi run run:

- Xin chúc mừng đồng chí! Chúc mừng người anh em cùng giai cấp! Chúng tôi hy vọng, tất cả những người cộng sản chi bộ Grêmiatsi hy vọng rằng đồng chí sẽ là một người cộng sản gương mẫu. Thực ra đồng chí thì không thể thế nào khác được.

Và khi cuối cùng bác Ipôlít Salưi bướclên lừ lừ như con gấu, miệng mỉm cười rụt rè, vẻ bối rối trước mọi con mắt đổ dồn vào mình, và từ xa đã chìa ra bàn tay lao động sần sùi, to bè bè và đen cháy thì Nagunốp bước tới đón và ôm chặt lấy đôi vai to rộng và gù gù của bác:

- Chà, bác Ipôlít ơi, thật là quý hóa quá. Xin nhiệt liệt chúc mừng bác! Tất cả anh em đảng viên chúng tôi xin chúc mừng bác. Chúc bác sống lâu, đừng ốm đau gì hết để quai búa thêm một trăm năm nữa phục vụ Chính quyền xôviết và nông trang chúng ta. Bác ơi, bác hãy sống cho thật lâu, đó là tất cả những điều tôi muốn nói với bác! Bác sống lâu thì bà con chỉ có vui mừng mà thôi, tôi nói với bác đúng thế đấy!

Bốn đảng viên mới lóng ngóng chen chúc và xô đẩy nhau bắt tay các đảng viên cũ của chi bộ, và bà con nhân dân đã kéo ùa ra cửa, bàn tán náo nhiệt, thì chợt Đavưđốp lớn tiếng nói:

- Đồng bào ở lại cho một phút! Tôi có việc cần nói vài câu.

- Xin mời, nhưng ngăn ngắn thôi nhá, ông chủ tịch ơi, kẻo bà con chết ngạt cả đến nơi rồi đây! Nóng, và ngột ngạt như trong cái nhà tắm hơi nước vậy! – tiếng một ai trong đám đông vừa cười vừa giao hẹn trước.

Bà con nông trang viên lại lục tục trở về chỗ cũ. Trường lớp lao xao vài phút nữa rồi lặng hẳn.

- Thưa đồng bào, và nhất là chị em phụ nữ! Chưa bao giờ nông trang chúng ta họp mặt được đông đủ như hôm nay…- Đavưđốp bắt đầu nói, nhưng tới đó thì Đemka Usakốp từ ngoài hành lang réo vào ngắt lời anh:

- Anh Đavưđốp ơi, anh mở đầu cứ như bác Suka ấy! Bác ấy nói: “Thưa đồng bào và các lão bà thân mến!”. Mào đầu của anh thì cũng na ná thế.

Ông lão Ôpnôdốp đế thêm vào:

- Anh ấy với bác Suka học tập lẫn nhau đấy mà. Bác Suka nói thỉnh thoảng cũng chêm vào cái câu “Thực tế thế!” của anh Đavưđốp, còn Đavưđốp thì rồi cũng sắp nói: “Thưa đồng bào và các lão bà thân mến!” cho mà xem.

Thế là trường lớp ầm ầm lên một trận cười vui vẻ như phá rạp, làm rung rinh các ngọn lửa đèn dầu, thậm chí có một ngọn tắt phụt. Đavưđốp cũng cười và theo thói quen, đưa bàn tay to bè lên che cái miệng sứt răng. Riêng mình Nagunốp thì phẫn nộ kêu lên:

- Thế này là thế nào? Họp mà không có tí nghiêm chỉnh nào cả! Bao nhiêu nghiêm chỉnh để đâu cả? Hay là theo mồ hôi trôi sạch rồi?

Nhưng những lời quát lác của anh chỉ như dầu đổ thêm vào lửa. Tiếng cười càng bốc lên và lan đi tất cả cả lớp, chạy dọc theo hành lang, ầm ầm một sức mạnh mới, Maka thất vọng khoát tay một cái, quay bộ mặt ngán ngẩm ra phía cửa sổ.

Nhưng anh làm ra được cái vẻ lạnh như tiền ấy đâu phải chuyện dễ. Cứ nhìn những thớ thịt quai hàm của anh nổi cuộn lên dưới hai gò má và lông mày trái của anh cứ giần giật liên hồi thì đủ rõ!

Nhưng một phút sau, khi tất cả đã lặng, anh đang ngồi ghế thì tự nhiên nảy bật lên như bị ong đốt. Đó là vì từ những hàng ghế cuối lại cất vang lên cái giọng run run của bác Suka:

- Thưa đồng bào và các lão bà thân mến, lão xin hỏi bà con có biết tại sao lão lại gọi như thế không?

Ông lão chưa kịp nói hết câu thì tiếng cười lại ầm ầm lên như sấm, làm hai ngọn đèn nữa tắt phụt. Trong bóng tối tù mù, một anh chàng nào vô ý va vỡ một bóng đèn thứ ba và văng ra mấy câu chửi tục. Một bà nào dè bỉu:

- Không biết dơ! Anh tưởng tối không ai trông thấy thì có thể tha hồ chửi bậy hả, đồ mặt dày.

Tiếng cười lắng dần đi, và trong bóng tối tù mù lại vang lên cái giọng run run và bất bình của bác Suka:

- Một thằng lếu láo lợi dụng bóng tối chửi càn chửi bậy, còn những kẻ khác thì nhăn nhở cười, chẳng biết cười cái gì… Thời buổi đến là nhố nhăng! Thế thì đi họp làm gì? Để yên lão giảng giải cho mà nghe lý do tại sao lão lại nói “Thưa đồng bào và các lão bà thân mến”. Lý do vì giới lão bà là giới đứng đắn, đáng tin cậy hệt như Ngân hàng Nhà nước ta vậy. Mà cụ nào cũng thế, không hề mánh khóe xỏ xiên gì. Lúc tuổi tác già nua này, lão chả bao giờ lo bị các bà ấy giở ra với mình những trò thối tha đâu, ấy thế nhưng các bà trẻ và các cô bây giờ thì lão hoàn toàn không thể nào coi được! Lão xin hỏi tại sao lại như vậy? Tại vì cái con mẹ đẻ ra thằng bé rồi đem quẳng đến bắt lão nuôi không thể là ở trong giới các cụ bà đáng kính được. Việc đẻ đái đâu có phải việc của các lão bà? Cụ bà nào dù còn ngứa ngáy đến mấy cũng không thể nặn ra được một đứa con của Chúa, vì dạ con mỏng quá rồi. Cho nên chỉ có thể là một con đĩ nào còn trẻ đã đổ vạ lên đầu lão, vu cho lão là bố đứa bé thôi. Đó là lý do tại sao từ ngày xảy ra chuyện ấy, lão không tài nào chịu nổi bọn chó cái mặc váy ấy, không thèm ngoái nửa con mắt nhìn bất cứ con nào! Và nếu có vô tình nhìn phải một mụ nào đẹp đẹp là lão cứ buồn nôn buồn ọe như lúc quá chén vậy! Đấy, bọn ba lần trời đánh ấy đã xô đẩy lão đến nông nỗi ấy đấy!... Vậy sau chuyện đứa bé, chẳng lẽ lão lại nói “Thưa các bà trẻ và các cô tốt nết thân mến”, và bày ra đĩa đủ các thứ lời đường mật dâng lên tận miệng họ hay sao? Không đời nào!

Nagunốp không nén nổi sửng sốt, dướn cao lông mày hỏi:

- Ông chui ở đâu ra đấy hả ông nội? Bà lão đã lôi ông về nhà rồi cơ mà, sao còn mò được ra đây?

- Thế nào là lôi? – bác Suka vênh mặt lên đáp. – Việc gì đến anh mà anh hỏi? Đây là việc gia đình người ta, đâu phải việc của Đảng. Rõ chưa?

- Chẳng rõ gì cả. Bà lão đã lôi ông về thì nghĩa là có việc, ông phải ở nhà mà làm chứ.

- Ở rồi, rồi lại lỉnh! Nhưng anh Maka ơi, lão việc gì phải trình bày với ai nhỉ, kể cả anh, kể cả bà nhà lão. Lạy Chúa sao các người cứ bám riết lấy lão như đỉa đói thế, xéo đi với ma vương quỷ sứ cho rồi!

- Ông ơi, ông lập mưu thế nào mà trốn nhà đi được thế hả? – Đavưđốp cố hết sức nén cười, hỏi.

Ít lâu nay anh tuyệt nhiên không tài nào giữ được cái vẻ thủ trưởng nghiêm trang trước mặt bác Suka nữa, thậm chí cứ nhìn bác là anh không nhịn được mỉm cười; và lúc này, đợi câu trả lời của bác, anh nheo nheo mắt và đưa tay lên che miệng sẵn. Một hôm đang ngồi riêng với nhau, Nagunốp đã tỏ vẻ khó chịu ra mặt, phê bình anh không oan: “Dạo này cậu làm sao thế hả, Xêmiôn? Lúc nào cũng ngặt nghẽo như con gái bị cù vậy? Đàn ông đàn ang ai lại thế bao giờ”.

Được câu hỏi của Đavưđốp khuyến khích, bác Suka liền lao lên, huých loạn khuỷu tay, chen bừa qua những bà con đứng dọc lối đi, tiến sấn tới phía bàn chủ tọa.

Nagunốp la bảo bác:

- Này ông nội ơi! Sao lại xéo cả lên đầu người ta mà đi thế, đứng tại chỗ mà nói, cho phép ông phát biểu, nhưng ngắn thôi đấy!

Bác Suka dừng lại nửa đường, bốp chát lại:

- Anh về mà dạy bà cụ nhà anh cần đứng chỗ nào mà nói, còn lão thừa biết chỗ của lão rồi! Anh Maka ơi, anh độc leo lên diễn đàn hoặc ngồi trên ghế chủ tịch mà phán xuống đủ các thứ xằng bậy bắt bà con nghe, vậy thì tại sao lão lại phải đứng ở cái xó tối om này mà nói chuyện với bà con nhỉ? Đứng ở đây chả trông thấy mặt mũi ai cả, độc chỉ thấy gáy, thấy lưng, thấy những cái bà con dùng để ngồi xuống ghế thôi. Anh bảo lão nói chuyện với ai, thưa gửi với cái gì? Với những cái gáy à? Với những cái lưng và những chỗ còn lại khác của người ta à? Anh cứ xuống đây, đứng xó này mà phát biểu, còn lão thì khi nói chuyện lão muốn nhìn thẳng vào mặt bà con! Rõ nhiệm vụ chưa? Vậy thì anh im bớt cái mồm đi, đừng làm lão quên lú cả những ý lão đang nghĩ. Anh chuyên môn có cái thói lão chưa nói anh đã chặn trước. Lão cứ chưa kịp mở miệng thì anh đã la lên như đấm vào họng lão rồi. Không, anh bạn ơi, chỗ anh với lão làm thế thì không ổn tí nào!

Lúc này đã chen tới đứng ngay trước bàn chủ tọa, bác Suka chĩa con mắt độc nhất nhìn chòng chọc vào mắt Nagunốp, hỏi:

- Anh Maka ơi, trên đời này có bao giờ anh thấy một người đàn bà chồng đang bận công tác mà lại lôi về nhà vì có việc cần không? Anh cứ thật tình trả lời cho tôi xem nào.

- Kể cũng hiếm, nhưng vẫn có đấy, chẳng hạn như trường hợp cháy nhà, hoặc chuyện chẳng lành gì khác. Nhưng ông ơi, ông đừng kéo dài hội nghị ra nữa, để anh Đavưđốp phát biểu, rồi tan họp ông về nhà tôi, ta tán gẫu với nhau đến sáng cũng được.

Nagunốp, anh chàng Nagunốp cứng rắn rõ ràng đã phải đi đến nhượng bộ, nói ngọt với bác, cốt sao ngăn cho bác khỏi kéo dài hội nghị vô ích. Nhưng kết quả lại hoàn toàn ngược lại: bác Suka bỗng khóc nấc lên, đưa cánh tay áo lên chùi nước mắt, những giọt nước mắt thật chứ không phải giả vờ, và nói:

- Lão thấy là ngủ nhà anh hay ngủ chuồng ngựa thì cũng được cả, chẳng sao, miễn là hôm nay đừng có vác mặt về nhà. Vì chỉ cần lão đặt chân lên bậc cửa là sẽ bị bà nhà lão cho ngay một trận Thổ Nhĩ Kỳ thấy ông bà ông vải. Rất là đơn giản!

Bác Suka quay sang phía Đavưđốp một bộ mặt nhăn nhúm như một quả táo chín mõm, nói tiếp bằng một giọng bỗng dưng rắn rỏi hẳn lại:

- Anh Xêmiôn ơi, anh hỏi lão về ở nhà thế nào và chuồn khỏi nhà thế nào phỏng? Anh tưởng chuyện ấy đơn giản đấy hả? Lão phải giảng giải trong vòng đúng một giây thôi, để khỏi kéo dài hội nghị, cho bà con rõ về cái bà ác bá độc địa nhà lão, bởi vì lão cần có sự xông cảm của bà con, và nếu không được sự xông cảm ấy thì lão Suka này cũng đến xuôi tay nhắm nằm xuống đất ẩm về chầu trời cho rồi! Và rồi cuộc đời đen đủi của lão thực chẳng ra chó gì cả!... Thành thử là cách đây khoảng một tiếng đồng hồ, lão đang ngồi ngoài sân với anh Anchíp Gráts, hút thuốc, bàn chuyện nghệ sĩ và chuyện sự đời thì con mụ quỷ cái nhà lão dẫn xác đến. Cái mụ ba lần trời đánh ấy đến túm lấy tay lão, lôi xềnh xệch theo sau như con ngựa ăn no kéo chiếc bừa lật ngửa vậy. Mụ ấy kéo cứ nhẹ tênh tênh, chẳng ậm ạch gì cả, chẳng mất tí sức nào, mặc dù lão đã cố tì hai chân cố bám lại…

Nếu bà con muốn biết thì lão xin nói là có thể mắc ách cho mụ nhà lão kéo cày hoặc thắng vào xe kéo thay cho ngựa được, còn cái việc lôi lão xềnh xệch như thế thì mụ ấy coi dễ như bỡn, vì con mụ khốn kiếp ấy khỏe lạ lắm! Mụ ấy khỏe kinh người, khỏe như một con ngựa thồ, lạy Chúa, lão cấm nói điêu đâu! Về sức khỏe của mụ ấy ai không biết chứ lão thì lão biết tận chân tơ kẽ tóc, vì lão đã phải è lưng ra chịu rồi…

Vậy cho nên khi mụ ấy lôi lão xềnh xệch theo sau thì lão còn biết làm thế quái nào nhỉ? Mụ ấy lấy thịt đè người mà! Lão cứ chạy le te theo sau, miệng hỏi: “Có việc gì cần mà tôi đang họp bà lại đến lôi tôi đi như lôi đứa trẻ ra khỏi vú mẹ thế này? Hội nghị đang cần có mặt tôi”. Mụ ấy bảo: “Ông về nhà, có cái cánh sửa sổ bị long bản lề, ông chữa lại đi cho tử tế, kẻo đêm nay nhỡ Chúa nổi gió thì vỡ kính mất”. Chuyện thế thì có lạ không? Lão nghĩ bụng: một chuyện. Lão bảo mụ ấy: “Thế mai mặt trời không mọc nữa, không chữa được cửa sổ hay sao? Bà đúng là lẩn thẩn rồi, con bò cái già của tôi ạ!”. Mụ ấy lại bảo: “Tôi ốm. Ốm đau nằm một mình buồn lắm, ông về ngồi với tôi một tí cũng không gầy mất đi đâu mà sợ”. Thế là hai chuyện! Lão đáp lại mụ ấy: “Thì đi gọi bà nào sang ngồi với bà có được không, tôi phải quay lại hội nghị bỏ phiếu chống Đúpxốp đây”. Mụ ấy lại bảo: “Tôi muốn có ông cho vui, chứ tôi cần gì đến mụ nào”. Thế là ba chuyện, và toàn là những chuyện thối tha như thế cả!

Vậy thì nên tự nguyện tự giác chịu đựng cái sự hành hạ con người như thế, hay là nên di tản tránh xa những cái trò thối tha không thể xực được ấy đi? Lão đã làm như thế đó, nghĩa là lão đã tự động di tản. Bị mụ ấy lôi về đến nhà, lão chẳng nghĩ ngợi lôi thôi gì, hấp một cái, nhảy luôn ra gian ngoài, một cái nữa ra tới thềm, đóng sập luôn cái cửa, chặn chặt lại, rồi ù té nước kiệu ra trường đây! Cửa sổ nhà lão nhỏ, hẹp tí, mà mụ nhà lão thì bà con đều biết đấy, béo trương béo nứt ra, to đùng. Mụ ấy không thể nào lọt được, mà mắc kẹt, như con lợn béo chui lỗ hàng rào bị kẹt vậy, cái trò ấy thì mụ đã từng thử rồi, và đã bị, mà không phải chỉ bị có một lần đâu. Và thế là bây giờ mụ ấy đang ngồi nhà, khổ thân mụ ấy, như con quỷ ngày xưa bị nhốt trong bình nước, hồi trước cách mạng vậy! Ai có giỏi thì cứ đến mà giải phóng mụ ấy khỏi cảnh tù ngục, còn lão thì chả dám dẫn xác về trước mặt mụ ấy đâu, lão sẽ tìm nhà ai trọ nhờ vài ba bữa đợi cho cơn tam bành của mụ ấy đối với lão nguội nguội đi tí đã. Lão chả dại gì đem cái kiếp của mình ra mà liều, và lão hoàn toàn chả thiết gì nếm những trận Thổ Nhĩ Kỳ của mụ ấy cả. Điên lên, mụ ấy sẽ giải quyết đời lão mất, và rồi làm sao? Rồi ông công tố sẽ ghi vào bản thông cáo chiến sự là trên mặt trận Thổ Nhĩ Kỳ tình hình vô sự, thế là xong! Không đâu, lão xin vái cả nón, nhưng món bổ béo ấy xin nhường bà con xơi thử! Người khôn ngoan chẳng cần ai giảng giải cũng vẫn hiểu mọi nhẽ, còn thằng ngu thì có giảng giải mấy cho cũng vẫn là thằng ngu cho đến lúc chui vào sáu tấm!

- Ông nói xong chưa? – Radơmiốtnốp hỏi giọng bình tĩnh.

- Với các anh thì muốn hay không muốn cũng phải xong. Và cái anh Agaphôn lão bỏ phiếu chống thì cũng muộn rồi, đằng nào các anh cũng đã kết nạp anh ta vào Đảng, mà có lẽ thế lại là hơn, và có lẽ lão cũng đồng ý với bà con thôi. Về bà già nhà lão, lão đã giải thích rõ mọi chuyện, và cứ nhìn mắt bà con thì lão thấy tất cả các bà con ngồi đây đều có sự xông cảm với lão. Lão cũng chỉ cần có thế thôi! Lão cũng đã được nói chuyện thỏa thích với bà con, thế là dù sao lão không phải chỉ có nói chuyện với mấy con ngựa giống của lão mà thôi, lão nói vậy có đúng không? Sự hiểu biết của bà con không hơn mấy con ngựa bao nhiêu đâu, nhưng dẫu sao cũng vẫn là hơn…

- Thôi, ngồi xuống đi ông, không lại sắp nói, - Nagunốp ra lệnh.

Trái với dự đoán của mọi người, bác Suka lẳng lặng quay trở về chỗ, không đôi co như thường lệ, mà ngược lại, còn mỉm cười với một vẻ hể hả chưa từng thấy, và con mắt độc nhất của bác long lanh đắc thắng đến nỗi mọi người đều buộc phải nhìn thấy một điều rõ ràng hiển nhiên: bác bước đi không phải như một kẻ chiến bại, mà như một kẻ chiến thắng. Đưa đón bác là những nụ cười thiện cảm. Bà con Grêmiatsi dẫu sao cũng rất quý bác.

Duy chỉ có anh chàng Agaphôn Đúpxốp là đã không bỏ lỡ cơ hội làm bác cụt hứng. Khi bác Suka dương dương tự đắc bước qua chỗ anh ngồi, Agaphôn nhăn cái mặt rỗ lại thì thào bằng một giọng thê thảm:

- Ông lão ơi, ông sắp tịch đến nơi rồi… Xin vĩnh biệt ông!

Bác Suka đứng sững lại như hóa đá, lẳng lặng nhai móm mém một lúc, rồi tập trung tất cả sức lực còn lại, cố cất tiếng lên run run hỏi lại:

- Thế… thế tại vì do cái khoản gì mà lão lại phải vĩnh biệt anh?

- Do cái khoản ông còn sống ở hạ giới này chẳng mấy nỗi nữa đâu… Chỉ còn đủ thời gian nhìn quanh hai cái và thở dài bốn cái nữa thôi. Con gái tóc ngắn chưa kịp tết xong cái bím tóc thì ông đã nằm trong sáu tấm rồi…

- Sao... sao lại thế được, anh Agaphôn?

- Sao à, rất là đơn giản: có đứa sắp giết ông.

- Ai giết? – bác Suka thở không ra hơi.

- Còn ai nữa! Hai vợ chồng nhà Kônđrát Maiđanhikốp. Hắn đã sai vợ về nhà lấy cái rìu.

Hai cẳng chân bác Suka run lẩy bẩy. Bác buông phịch người xuống cái chỗ Đúpxốp lánh ra nhường cho bác, hoang mang hỏi:

- Nhưng vì sao mà hắn lại định giải quyết đời lão?

- Ông không đoán ra à?

- Vì lão bỏ phiếu chống hắn phải không?

- Đúng! Phê bình người ta thì bao giờ người ta cũng giết, hoặc là bằng rìu, hoặc là bằng súng. Ông thích đằng nào hơn: một viên đạn vào ngực, hay một nhát rìu vào sọ?

- Thích đằng nào hơn! Anh này nói đến hay! Sao lại có thể thích cái trò ấy được nhỉ?! – bác Suka phẫn nộ thốt lên. – Thà anh mách lão nên làm thế nào bây giờ có phải hơn không? Lấy ai che chở cho lão khỏi cái thằng ngu như lợn ấy bây giờ?

- Có mỗi cách là ông hãy tranh thủ lúc còn sống, gặp lãnh đạo mà báo cáo.

- Đúng, có mỗi cách ấy thật, - bác Suka ngẫm nghĩ một lát rồi đồng ý. – Lão đi khiếu nại với anh Maka ngay bây giờ. Thế cái thằng Kônđrát khốn kiếp kia nó không sợ giết lão thì đi tù à?

- Hắn bảo giết lão Suka thì mình chỉ xơi không quá hai năm đâu, cùng lắm thì hơn hai năm một tí, ngồi tù một hai năm thì mình ngồi được, chả sao… Hắn bảo là với những loại già cốc đế đại vương như bác thì cũng không phải trả giá đắt lắm đâu, vì những của ấy đem bán thì người ta cũng chỉ trả ba xu là cùng.

- Đừng hòng, đồ chó đẻ! Nó sẽ bị đủ mười năm, chuyện này lão biết rõ lắm! – bác Suka điên người gào tướng lên.

Và liền bị Nagunốp nghiêm khắc cảnh cáo:

- Ông lão kia, ông mà còn rống lên như lợn bị chọc tiết thế một lần nữa là tôi đuổi ngay ra khỏi phòng họp đấy!

- Ông ơi, ông cứ ngồi yên, tí nữa tôi sẽ đưa ông về, đi với tôi ông không sợ đâu! - Đúpxốp thì thầm hứa.

Nhưng bác Suka không hé răng đáp nửa lời. Bác ngồi tì khuỷu tay xuống đầu gối, đầu cúi gập. Bác ngẫm nghĩ điều gì lung lắm, trán nhăn lại đau khổ. Rồi bỗng bác chồm lên, xô dãn bà con ra, le te chạy lên bàn chủ tọa. Đúpxốp nhìn theo thấy bác cúi sát xuống Nagunốp, thì thào cái gì vào tai anh ta, giơ tay chỉ vào anh, Đúpxốp, rồi vào Kônđrát Maiđanhikốp.

Làm được cho Nagunốp cười là chuyện khó, hầu như là chuyện không thể làm được, nhưng lúc này anh ta cũng không nhịn nổi, phải nhếch mép mỉm cười và nhìn Đúpxốp, lắc đầu trách móc. Rồi anh kéo bác Suka ngồi xuống bên anh, rỉ vào tai bác: “Ngồi xuống đây, cấm cựa, không thì khốn đấy!”.

Một lát sau bác Suka – một bác Suka đã vững dạ trở lại và đắc chí – bắt gặp ánh mắt của Maiđanhikốp, hí hửng giơ ra về phía anh nắm đấm có đầu ngón cái chĩa ra. Kônđrát dướn đôi lông mày lên ngạc nhiên, và bác Suka ngồi bên Nagunốp cảm thấy hoàn toàn được bảo đảm an ninh, chĩa nốt với Kônđrát nắm đấm thứ hai.

- Sao ông lão lại giơ nắm đấm với cậu thế? – Anchíp Gráts hỏi Maiđanhikốp đang ngồi cạnh.

- Có trời biết bố ấy muốn bày ra cái trò gì, - Kônđrát ngán ngẩm đáp. – Mình nhận thấy dạo này bố ấy đâm ra lẩn thẩn rồi. Mà thế cũng phải thôi: tuổi cao rồi, và đời cũng lắm gian lao, cũng tội nghiệp. Mình với bố ấy xưa nay vẫn hòa hảo, bây giờ hình như bố ấy cáu mình cái gì đấy. Để phải hỏi bố ấy xem bố ấy phật ý về nỗi gì.

Kônđrát ngẫu nhiên đưa mắt về chỗ bác Suka vừa ngồi lúc trước, và lấy khuỷu tay khẽ huých Anchíp, khúc khích cười:

- Bố ấy vừa ngồi cạnh thằng cha Agaphôn, thế là rõ rồi! Lại cái thằng ba bị Agaphôn ấy đã rỉ tai ông lão cái gì về mình thôi, dựng đứng lên chuyện gì xúi bẩy ông ấy làm ông ấy nổi điên lên, chứ mình có làm gì cho ông ấy giận đâu. Bây giờ ông ấy đâm ra cứ như trẻ con, ai nói gì cũng tin.

Đavưđốp đứng bên bàn kiên nhẫn đợi cho bà con dân làng quen thói đủng đỉnh đã trở về chỗ ngồi yên vị đâu đấy và phòng họp yên lặng trở lại.

- Nói gì thì nói đi, anh Đavưđốp! Nói cho xong đi! – Đemka Usakốp sốt ruột réo lên.

Đavưđốp thì thầm cái gì với Radơmiốtnốp xong, vội vã bắt đầu:

- Tôi giữ bà con lại ít phút thôi, thực tế thế! Tôi phát biểu chủ yếu với chị em phụ nữ, vì vấn đề đặt ra hôm nay chủ yếu liên quan đến các bà. Hôm nay, toàn thể nông trang ta đã đến tham dự hội nghị chi bộ, và anh em đảng viên chúng tôi, sau khi trao đổi với nhau, muốn đề xuất với bà con một chuyện này: các nhà máy xí nghiệp của ta từ lâu đã tổ chức vườn trẻ và nhà bảo mẫu nhận gửi các cháu bé, sáng đi tối về, ở đó các cháu được các bà bảo mẫu, các cô nuôi dạy trẻ có kinh nghiệm săn sóc cho ăn, cho chơi, cho nghỉ. Đấy, thực tế thế đấy các đồng chí ạ. Trong khi đó thì các bà mẹ đi làm, không phải lo đến con mọn, chân tay cũng rảnh, đầu óc cũng thảnh thơi. Vậy tại sao nông trang ta lại không tổ chức vườn trẻ như thế? Ta có hai ngôi nhà kulắc còn bỏ không; sữa, bánh mì, thịt, kê và các thức khác, nông trang ta có đủ, thực tế thế! Ta có thể đảm bảo cho các công dân tí hon của chúng ta có đủ lương ăn, và được săn sóc tử tế, vậy thì ta còn chờ quái gì nữa nhỉ? Mùa màng đã kề tận mũi rồi. Về chuyện chị em thu xếp việc nhà như thế nào để đi làm đồng được thì tình hình gay go đấy, có thể nói là tình hình xấu, cái đó bà con rõ cả. Vậy chị em nông trang viên ta có nhất trí với ý kiến chúng tôi đề xuất không? Ta biểu quyết luôn, và nếu đa số tán thành thì ta quyết nghị ngay tại đây để khỏi mất công triệu tập hội nghị nữa. Ai đồng ý, xin giơ tay.

- Việc tốt như thế thì còn ai chống? – chị vợ Turilin nách một lũ con, nói bô bô. Chị ngó bà con ngồi quanh, rồi là người đầu tiên giơ lên bàn tay với cái cổ tay khẳng khiu.

Một rừng cánh tay mọc lên trên đấu các nam nữ nông trang viên kẻ đứng người ngồi. Không một ai biểu quyết chống. Đavưđốp xoa tay, cười hể hả:

- Ý kiến đề nghị thành lập vườn trẻ đã được nhất trí tán thành! Thưa đồng bào đồng chí thân mến, nhất trí thế này là rất hay, thực tế thế, nó chứng tỏ chúng ta đã đặt trúng vấn đề! Mai ta sẽ bắt tay vào làm. Sáng mai, cơm xong, khoảng sáu giờ các bà mẹ nào muốn gửi con thì đến trụ sở ban quản trị ghi tên. Các đồng chí phụ nữ nên trao đổi bàn bạc chọn lấy một bà cấp dưỡng, sạch sẽ và biết nấu nướng, và hai ba chị em nữa, loại người gọn gàng, sạch sẽ và biết quý trẻ, giao cho làm cô nuôi dạy trẻ. Còn người phụ trách thì ta sẽ đề nghị huyện cho một cô nào có trình độ văn hóa, làm được sổ sách, thực tế thế! Chúng tôi đã cân nhắc và quyết định công của chị em cấp dưỡng và cô nuôi dạy trẻ sẽ được tính mười điểm, nghĩa là ngang một công lao động bình thường, còn chị phụ trách thì sẽ được trả theo thang lương nhà nước. ta không lo sạt nghiệp đâu, thực tế thế! Vả lại một việc như thế ta không nên ngại phí tổn, những phí tổn ấy sau này được bù lại bằng số nhân công làm tăng lên, cái đó sau này tôi sẽ chứng minh cụ thể bà con rõ. Chúng tôi sẽ nhận những cháu từ hai đến bảy tuổi. Bà con có gì hỏi nữa không?

- Một công mười điểm thì có hơi cao quá không? Trông trẻ thì cũng chả phải vất vả gì cho lắm, so sao được với công cào cỏ ngoài đồng, - Êphim Krivôsêép, một trong những người làm ăn cá thể cuối cùng ở ấp mà mới vào nông trang gần đây thôi, phát biểu tỏ ý nghi ngờ.

Nhưng liền đó quanh anh tiếng la ó bất bình của chị em nổi lên như vỡ chợ, làm anh đinh tai váng óc. Lúc đầu anh chỉ nhăn mặt, xua tay, như xua một đàn ong, nhưng rồi cảm thấy mình có cơ bị khốn với các bà, anh nhảy lên bàn, vui vẻ kêu toáng lên:

- Lặng đã, các bà chị ơi! Lặng đã, Giêsu lạy Chúa tôi! Tôi lỡ mồm thôi mà! Tôi chót dại nói bậy thôi! Tránh cho tôi ra, và đề nghị các bà chị tha cho, đừng giơ đấm vào mõm tôi như thế này nữa! Đồng chí Đavưđốp ơi, đề nghị đồng chí cứu nguy cho nông trang viên mới chứ! Đừng bắt tôi phải hy sinh anh dũng trên bãi chiến trường! Các bà làng ta như thế nào đồng chí biết rồi đấy!

Các bà thi nhau gào lên:

- Cái thằng mặt  mẹt kia, mày đã trông con mọn bao giờ chưa mà mày nói!

- Cho thằng béo ị rậm râu ấy làm cấp dưỡng!

- Cho làm vú em!

- Suốt ngày đánh vật với lũ trẻ có trả hai công cũng đáng, thế mà nó còn giở giọng bủn xỉn, quân chó sói!

- Chị em ơi, ta phải dậy cho nó biết nói bậy cũng phải có mức độ chứ!...

Có lẽ câu chuyện đã kết thúc bình yên vô sự nếu như anh chàng Êphim không nói tếu một câu làm cho không khí căng thẳng dịu đi, nhưng lại làm cho câu chuyện xoay sang một hướng khác hoàn toàn bất ngờ đối với Êphim: các bà cười rú lên như nắc nẻ, rồi xông vào lôi anh từ trên bàn xuống. Một bàn tay ai da bánh mật túm lấy râu anh. Và chiếc áo sơmi xatanh mới toanh của anh bị kéo toạch các đường chỉ khâu, và cả ngoài các đường chỉ. Nagunốp gào vỡ cả giọng để lập lại trật tự mà không xong. Trận xâu xé tiếp tục một lúc nữa, và một phút sau, anh chàng Êphim mặt đỏ tía tai vì cười và cáu bị các bà hùa vào lôi xềnh xệch ra hành lang, để lại dưới sàn cả hai ống tay áo, và bản thân chiếc áo sơmi thì không còn lấy một chiếc khuy nào, bị rách toạc nhiều chỗ từ gấu đến cổ.

Sặc lên vì cười, và trong tiếng cười chung của đám anh em kôdắc đứng quanh, Êphim rút ra bài học:

- Các mẹ quỷ cái này khỏe khiếp! Không cái dại nào giống cái dại này! Mới có lần đầu tiên phát biểu chống lại các bà ấy mà đã thế này đây… - Anh ngượng ngùng kéo vạt áo rách bươm che cái bụng rám đen, than thân trách phận: - Đeo cái mớ giẻ rách này trên người thì tôi vác mặt về với bà ấy nhà tôi bây giờ thế nào đây? Bà ấy sẽ đuổi cổ tôi đi vì sự thiệt hại nghiêm trọng này mất! Đến phải rủ bác Suka tìm nhà bà góa nào ở trọ ít bữa thôi, tôi với bố ấy thì không còn lối thoát nào khác!

CHƯƠNG XXIV

Quá nửa đêm một lúc lâu hội nghị mới giải tán. Bà con tỏa ra trên các đường ngang ngõ dọc, bước lững thững và bàn tán sôi nổi. Cổng nhà nào cũng cót két; tiếng then cửa lách cách nổi lên trong cái tịch mịch của đêm khuya; thỉnh thoảng đây đó vang lên một tiếng cười và, chưa quen với cảnh đêm khuya mà lại đông người và ồn ào như thế, lũ chó đang ngủ bị đánh thức dậy sủa loạn lên khắp làng.

Đavưđốp là một trong những người cuối cùng rời khỏi trường học. Ra khỏi cái phòng họp ngột ngạt, nồng nặc hơi người ấy, anh cảm thấy không khí ngoài trời mát lạnh, và trong lành đến ngây ngất. Thậm chí trong khi hít lấy hít để, anh cảm thấy trong gió như có hượng rượu bã nho.

Phía đằng trước anh có một đôi đang đi. Nghe tiếng nói, anh bất giác mỉm cười:

Bác Suka đang nói rất hăng:

- … Lão thật là ngu mà đi tin cái thằng điêu xoen xoét ấy nó bảo Kônđrát định xử tử lão vì lão đã phê bình tự phê bình anh ta. Lão hết cả hồn vía, nghĩ bụng: “Một lưỡi rìu ở trong tay Kônđrát thì không phải chuyện bỡn đâu! Hắn ta cũng hiền thôi, nhưng biết đâu đấy… Lúc nổi cơn cục lên, hắn lại không choảng cho mình một nhát, bổ đôi đầu mình ra như bổ quả dưa vậy!”, làm sao mà lão lại có thể tin cái thằng quỷ sứ Agaphôn ấy được nhỉ? Hắn cứ đi một bước là lại bày ra một trò để bôi bác lão! Cái lưỡi hắn suốt đời lúc nào cũng ngó ngoáy như con lật đật. Chính hắn, cha đẻ ra con mẹ nó, đã dạy cho con Tơrôphim xông vào lão, húc bừa vào bất kể chỗ nào, chẳng đếm xỉa gì đến bệnh lòi rom của lão. Cái đó thì lão biết rõ đến tận chân tơ kẽ tóc! Chính mắt lão đã trông thấy hắn huấn luyện cho con Tơrôphim cái khoa thú vật ấy, nhưng hồi ấy lão nào có ngờ đâu hắn dạy con dê để chống lại lão và rút ngắn tuổi thọ của lão.

Nagunốp cất giọng rè rè khản đặc an ủi ông lão:

- Ông chớ tin hắn! Tuyệt đối không tin hắn một điều gì cả, và bao giờ cũng phải hết sức cảnh giác với hắn! Hắn có máu thích đùa dai, trẻ không tha già không thương, bạ ai cũng châm chọc.

Hai người cùng rẽ vào cổng nhà Nagunốp, vừa đi vừa tiếp tục câu chuyện hình như đã bắt đầu từ ở trường học ra. Đavưđốp định theo gót họ, nhưng nghĩ lại lại thôi.

Anh rẽ vào lối ngõ gần đấy, đi được mấy bước thì thấy Varia Kharlamôva đang đứng tựa bên một hàng giậu. Cô bước tới gặp anh.

Trăng cuối tuần chỉ chiếu sáng một cách dè xẻn, nhưng Đavưđốp vẫn nhìn thấy rõ trên môi cô nụ cười buồn buồn và bối rối.

- Em đợi anh mãi… Em biết anh về nhà bao giờ cũng đi lối này. Đã lâu lắm em không gặp anh, đồng chí Đavưđốp nhỉ…

- Ờ, Varia Hẩm hiu, quả là lâu rồi ta chưa gặp nhau! – Đavưđốp vui vẻ đáp.- Xa cô ít lâu mà nom cô lớn phổng lên, và xinh ra, thực tế thế! Thời gian qua cô biến đâu vậy?

- Lúc thì đi làm cỏ lúa, lúc thì đi cắt cỏ ngựa, rảnh thì làm việc nhà… Chả thấy anh lại chơi lần nào, chắc là anh quên đứt em rồi.

- Cô trách tôi ghê thật! Trách tôi làm gì hả cô, tôi cứ bù đầu, chả được lúc nào rảnh rỗi. Mùa màng đến nơi, cả tuần cạo râu được một lần, ngày ăn độc một bữa. Cô đợi tôi hả? Có việc gì vậy? Tôi không hiểu sao nom cô có vẻ buồn buồn thì phải? Hay là tôi nhầm?

Đavưđốp khẽ nắm lấy cánh tay tròn lẳn của cô, nhìn thẳng vào mắt cô với vẻ thông cảm:

- Cô có chuyện gì buồn hả? Thì kể đi tôi nghe!

- Anh về nhà bây giờ à?

- Khuya thế này cô bảo tôi còn đi đâu?

- Anh thiếu gì chỗ đi. Anh vào đâu mà chả là thượng khách… Nếu là anh về thì ta cùng đường. Hay là anh tiễn em về nhà nhá?

- Lại còn phải nói nhỉ! Cô đến là buồn cười! Có bao giờ một anh lính thủy, dù là phục viên chăng nữa, lại từ chối tiễn chân một cô gái đẹp không? – Đavưđốp làm ra vẻ bông phèng thốt lên, và khoác lấy tay cô. – Nào, đi đều… bước! Một, hây! Một, hây! Nhưng cô có chuyện gì buồn bực vậy? Thì cứ nói toạc ra. Chủ tịch là phải biết rõ mọi chuyện, thực tế thế! Tận chân tơ kẽ tóc!

Và Đavưđốp chợt cảm thấy dưới ngón tay anh cánh tay của Varia run run, chân cô bước loạng choạng, như bị vấp một cái, và liền đó anh nghe thấy một tiếng nấc nghẹn.

- Ô hay, chuyện gì mà buồn ghê thế, hả Varia? Cô làm sao thế? – Đavưđốp bỏ giọng bông phèng, lo lắng hỏi nhỏ. Anh dừng lại, dò nhìn vào mắt cô.

Varia úp luôn khuôn mặt đầm đìa nước mắt lên bộ ngực nở nang của anh. Đavưđốp đứng không cựa, lúc thì cau cau lại, lúc thì ngạc nhiên dướn đôi lông mày bạc nắng lên. Và anh nghe lõm bõm qua những tiếng nghẹn ngào:

- Nhà muốn gả em… cho Ivan Ốpnidốp… Mẹ em cứ nói ra rả, suốt ngày đêm: “Mày lấy nó đi! Nhà nó có của ăn của để!” – Và tất cả những nỗi đắng cay chồng chất trong trái tim cô gái, xem ra không phải mới ngày một ngày hai, bỗng nổ thành một tiếng kêu đau đớn: - Ôi, lạy Chúa, tôi biết làm thế nào bây giờ?!

Bàn tay cô vừa đặt lên vai Đavưđốp lại buông xuống, thõng thượt.

Quả thật là Đavưđốp hoàn toàn bị bất ngờ, và anh không hề bao giờ nghĩ rằng cái tin như thế lại có thể làm anh bối rối đến như vậy! Ngơ ngác, bàng hoàng không nói lên lời và trong lòng đau nhói, anh lẳng lặng nắm chặt hai tay Varia, và khẽ lùi lại, anh nhìn khuôn mặt đầm đìa nước mắt của Varia đang cúi xuống, không biết nói gì. Và chỉ đến lúc ấy, rốt cuộc anh mới vỡ nhẽ ra rằng anh tự dối lòng, chứ thực ra đã yêu Varia từ bao giờ rồi, yêu bằng mối tình rất mới lạ đối với một con người dãi dầu như anh, một mối tình trong trắng và không thể nào hiểu nổi, và đồng thời anh cũng thấy lù lù hiện ra hai bạn đường đáng buồn của bất cứ tình yêu chân chính nào: chia ly và mất mát…

Anh trấn tĩnh lại, cát giong hơi khàn khàn đi, hỏi:

- Vậy ý cô thế nào, hả con nai vàng của tôi?

- Em không muốn lấy hắn! Anh hiểu cho em, em không muốn!

Varia ngước lên anh đôi mắt giàn giụa và đôi môi vều lên của cô run run nom đến tội nghiệp. Và trái tim Đavưđốp rung động, như một tiếng đáp đồng điệu. Miệng anh khô đắng. Anh cố nuốt nước bọt, một thứ nước bọt bỏng rát, và nói:

- Nếu không muốn thì đừng lấy, thực tế thế! Ai ép được cô!

- Nhưng anh hiểu cho là nhà em có sáu chị em trong đó em là chị cả, mà mẹ em lại ốm quặt quẹo luôn, một mình em có làm đến vẹo xường sườn cũng không nuôi nổi một lô một lốc ấy! Anh ơi, chuyện ấy mà anh không hiểu sao?

- Thế nếu cô đi lấy chồng thì thế nào? Anh ta sẽ cáng đáng đỡ à?

- Giúp đỡ chị em em thì hắn ta chả tiếc cái gì! Hắn ta sẽ làm quần quật! Anh có biết hắn yêu em thế nào không? Hắn yêu em ghê lắm cơ! Có điều là em không cần đến hắn giúp, cũng chẳng cần đến hắn yêu! Em không yêu hắn tí ti nào! Em ghê tởm hắn. Khi hắn đưa hai bàn tay nhơm nhớp mồ hôi nắm lấy tay em, em cứ buồn nôn. Thà là em… Ôi, nói làm gì nữa nhỉ! Giá như thầy em còn sống thì chả phải lo nghĩ gì, và biết đâu bây giờ đã chẳng học hết cấp hai rồi…

Đavưđốp vẫn nhìn chằm chằm vào gương mặt đầm đìa nước mắt và nhợt nhạt ánh trăng của Varia. Hai nếp nhăn chua chát hằn xuống hai bên khóe đôi môi khóc sưng vều của cô, đôi mắt cô cụp xuống và đôi mi nom thâm quầng. Cô cũng đứng lặng thinh, tay vò vò chiếc khăn mùi soa nhỏ.

- Thế nếu tôi thu xếp được một sự giúp đỡ cho gia đình thì sao? – sau một phút suy nghĩ, Đavưđốp ngập ngừng hỏi.

Anh chưa kịp nói hết câu thì đôi mắt Varia dường như bỗng ráo hoảnh ngay đi, và long lanh, không phải vì nướcmắt, mà vì giận. Cô phồng lỗ mũi, thốt lên cục cằn như một người nam giới bằng một giọng nhỏ đanh:

- Tôi thèm vào sự giúp đỡ của anh! Rõ chưa?

Và lại im lặng một lát. Đavưđốp bị bất ngờ ngẩn người ra, rồi hỏi:

- Sao lại thế?

- Lại còn sao?

- Thì cứ nói xem nào?

- Tôi không cần anh giúp đỡ!

- Ai bảo cô là tôi giúp? Mà là nông trang giúp, theo chính sách giúp đỡ những bà mẹ góa bụa đông con. Cô rõ chưa? Tôi sẽ đặt vấn đề ra ban quản trị, rồi ra quyết định, Varia hiểu chưa nào?

- Tôi không cần nông trang giúp!

Đavưđốp hậm hực nhún vai:

- Cái cô này buồn cười thật, thực tế thế! Lúc thì rối lên cần được giúp đỡ và sẵn sàng vồ lấy bất cứ thằng cha căng chú kiết nào, lúc thì lại giãy nảy lên, không thèm sự giúp đỡ của ai… Tôi chả hiểu cô là thế nào cả! Cô với tôi, trong hai người phải có một người đầu óc đâm ra ngớ ngẩn rồi, thực tế thế! Rốt cuộc thì cô muốn cái gì?

Cái giọng lý sự, bình tĩnh của Đavưđốp – ít ra thì cũng là Varia thấy như thế - đã làm cô hoàn toàn thất vọng. Cô khóc nấc lên, hai tay ôm mặt, quay ngoắt lưng vào Đavưđốp, thoạt đầu bước đi bước một, rồi ù té chạy, người ngả dúi về đằng trước, hai bàn tay đầm đìa nước mắt vẫn ôm lấy mặt.

Đavưđốp đuổi theo ra đến đầu phố thì túm được vai cô, xẵng giọng nói:

- Varia, đừng giở trò nữa! Tôi hỏi cô nghiêm chỉnh: chuyện là thế nào?

Thế là cô Varia khốn khổ buông thả luôn cho cơn điên giận của một cô gái tuyệt vọng, oán hận kêu lên:

- Đồ ngốc! Đồ mù thảm mù hại! Không thấy gì cả sao? Tôi yêu anh, ngay từ dạo mùa xuân, thế mà anh… anh cứ như người bị bịt mắt vậy! Bạn bè con gái đứa nào cũng chế tôi, có lẽ cả làng này cười tôi! Anh phải mù mới không thấy! Tôi đã cạn hết nước mắt vì cái đồ chết giẫm nhà anh…, bao nhiêu đêm tôi không ngủ, thế mà anh chẳng thấy được cái chết tiệt gì cả! Tôi yêu anh, thế thì tôi nhận làm sao được sự giúp đỡ của anh hoặc sự bố thí của nông trang? Anh lại còn dám mở miệng nói với tôi thế hả, đồ trời đánh? Thà tôi chết đói nhăn răng còn hơn đi nhận một xu của các anh! Đấy, thế là tôi đã nói dốc hết ruột gan ra với anh rồi đấy. Thoả mãn chưa? Thôi bây giờ thì anh xéo đi, xéo đi với cái con Luska nhà anh, tôi không cần. Cái hạng người tim lạnh như đá, có mắt như mù, thì tôi không cần một tí nào?

Cô vùng ra khỏi tay Đavưđốp, nhưng bị anh giữ chặt. Anh giữ chặt cô, giữ khư khư, nhưng cứ nín thinh. Hai người đứng như thế vài phút, rồi Varia đưa góc khăn vuông lên chùi mắt, nói bằng giọng đã nguội lạnh, cái giọng nói thường ngày và mệt mỏi:

- Buông em ra, em đi về.

- Khẽ chứ, kẻo ai nghe thấy, - Đavưđốp khẩn khoản.

- Thì em vẫn nói khẽ.

- Phải biết giữ ý…

- Em giữ ý đã nửa năm nay rồi, em xin đủ, chả còn hơi sức đâu giữ mãi. Nhưng buông em ra! Sáng đến nơi rồi, em còn phải đi vắt sữa bò. Ơ hay, điếc à?

Đavưđốp vẫn đứng lẳng lặng, đầu cúi xuống. tay phải anh ôm chặt lấy đôi vai mềm mại của Varia, và anh cảm thấy dưới bàn tay anh cái thân thể trẻ trung của cô nóng hổi, anh hít thấy mái tóc cô thoang thoảng một mùi hương ngai ngái. Nhưng trong những giây phút này tâm trạng của anh sao mà lạ: chẳng bổi hổi bồi hồi, máu chẳng bốc lên, chẳng thèm muốn, chỉ thấy lòng man mác buồn, như phủ một màn sương, và không hiểu sao, thấy khó thở…

Rũ đi cơn bàng hoàng, Đavưđốp đưa tay trái đỡ lấy cái cằm tròn trĩnh của Varia khẽ nâng lên, mỉm cười nói:

- Cám ơn em! Em Varia Hẩm hiu của anh!

- Cám ơn cái gì cơ? – Varia thều thào không ra tiếng.

- Vì hạnh phúc mà em mang lại cho anh, vì em đã mắng mỏ anh là thằng mù… Nhưng em chớ tưởng anh hoàn toàn mù tịt! Em biết không, đôi lúc anh cứ nghĩ là hạnh phúc của anh, hạnh phúc riêng tư của anh, anh đã để lại nó đằng sau đuôi tàu rồi, nghĩa là để lại trong quá khứ… Mặc dầu là trong quá khứ nó đến với anh cũng chỉ nhỏ giọt…

- Em còn ít hơn thế! – Varia nói nhỏ. Rồi lớn giọng hơn một chút: - Hôn em đi, anh chủ tịch của em, hôn em lần đầu tiên và lần cuối cùng, rồi ta chia tay nhau, kẻo sáng rồi. Không nên để người ta thấy chúng mình đứng với nhau, ngượng lắm.

Cô kiễng lên như trẻ con, ngửa cổ, chìa môi ra. Nhưng Đavưđốp hững hờ hôn cô lên trán, như hôn trẻ nhỏ, và nói bằng giọng dứt khoát:

- Không lo, Varia ạ, rồi đâu sẽ vào đó! Anh không tiễn em về đâu, chả nên, thực tế thế. Mai ta sẽ gặp lại nhau. Em đã đặt ra cho anh một câu đố hóc búa… Nhưng đến sáng anh sẽ nhất định tìm ra câu giải đáp, thực tế thế! Sáng em hãy bảo mẹ ở nhà, đừng đi đâu, xẩm chiều anh sẽ đến nói chuyện, và cả em nữa cũng ở nhà. Thôi, chào con nai vàng của anh! Anh bỏ em về một mình, em đừng giận… Anh còn phải suy nghĩ về cuộc đời của em chứ, và cả của anh nữa. Có đúng không nào?

Anh không đợi câu trả lời. Anh lẳng lặng quay gót, và lẳng lặng đi về nhà, lững thững bước một như thường ngày.

Nếu họ cứ thế mà chia tay nhau thì giữa họ chẳng ra gắn bó, chẳng ra không. Nhưng Varia đã gọi giật anh lại, giọng thều thào không ra hơi. Đavưđốp miễn cưỡng dừng lại, hỏi nhỏ:

- Cái gì nữa thế?

Anh nhìn cô đang bước vội về phía mình mà trong bụng đâm lo: “Mới chia tay nhau chưa được một phút, con bé đã định giở trò gì nữa thế này? Nó đau khổ, nó có thể làm liều lắm, thực tế thế!”.

Varia bước sấn tới, nép sát vào anh, thở vào mặt anh, thều thào sôi nổi:

- Anh yêu, anh đừng đến nhà em, đừng nói gì với mẹ em cả! Nếu anh muốn, em sẽ đi lại chung đụng với anh, nghĩa là… nghĩa là như Luska ấy! Ta sẽ đi lại với nhau một năm, rồi anh bỏ em cũng được! Em sẽ đi lấy Ivan. Dù em thế nào, dù là lấy thừa của anh nó cũng vẫn lấy! Hôm kia nó đã bảo em: “Dù cô thế nào tôi cũng vẫn yêu cô!”. Anh bằng lòng không?!

Đavưđốp không còn kịp suy nghĩ gì nữa, phũ phàng đẩy Varia ra, mắng té tát:

- Đồ ngu! Ranh con! Lếu láo! Ăn nói cái kiểu gì thế? Cô hóa rồ hóa dại rồi, thực tế thế! Cô vứt ngay cái trò ấy đi, rồi về nhà đi ngủ. Nghe rõ chưa? Chiều tôi sẽ đến nhà, và cô đừng có nghĩ đến chuyện trốn mặt tôi! Cô có trốn đằng trời!

Nếu Varia giận dỗi im lặng bỏ đi thì đến đây là họ chia tay nhau, nhưng cô lại hỏi nhỏ, giọng hoang mang bối rối:

- Thế em biết làm thế nào, hả anh Xêmiôn thân yêu?

Và thế là một lần nữa, trái tim Đavưđốp lại rung động, nhưng không phải vì thương hại nữa, mà là đồng điệu. Anh ôm lấy Varia, đưa tay lên vuót vuốt mái đầu nghiêng nghiêng của cô, van xin:

- Em tha lỗi cho anh, anh đã quá nóng… Nhưng em cũng đến hay! Tự dưng em lại nghĩ ra cái trò nhẫn nhục kia… Thôi, về đi, em Varia ạ. Ngủ đi một tí, chiều tối ta sẽ gặp nhau, được không?

- Được ạ, - Varia ngoan ngoãn đáp. Rồi vùng ra, hốt hoảng: - Chết! Sáng toét ra rồi, lạy Chúa!...

Rạng đông lẻn đến lúc nào không biết, và bây giờ thì cả Đavưđốp nữa cũng như người vừa bừng tỉnh, và mới để ý thấy nổi lên rõ những nét đường viền của những ngôi nhà, những kho, những mái, những vòm cây xanh xẫm hòa lẫn với các khu vườn tịch mịch, và phía đằng đông, thoáng hiện ra lờ mờ cái dải bình minh màu đỏ thắm.

* * *

Không phải vô cớ mà trong lúc nói chuyện với Varia, Đavưđốp đã buột miệng nói rằng hạnh phúc của anh, anh đã để lại “đằng sau đuôi tàu”.

Nhưng trong cuộc đời nhộn nhạo của anh, anh đã từng có cái hạnh phúc ấy hay không đã chứ?

Nói thật ra là không, không có.

Sáng hồi lâu rồi mà anh vẫn cứ còn ngồi bên cửa sổ mở toang, hút liên chi hồ điệp hết điếu này đến điếu khác, lần giở lại trong ký ức những chuyện yêu đương xưa kia, và thực ra là đời anh tuyệt nhiên không có một chuyện gì làm anh bây giờ nhớ lại mà cảm thấy hàm ơn, hoặc buồn, hoặc thậm chí lương tâm cắn rứt… Đó chỉ là những cuộc trăng gió ngắn ngủi với những người đàn bà gặp gỡ tình cờ, không có một ai và không có một cái gì gắn bó cả, thế thôi! Hợp lại cũng dễ, và tan cũng chẳng khó khăn gì, chẳng đau khổ, chẳng một lời trách móc thở than, và một tuần lễ sau gặp nhau thì đã như người dưng nước lã, và nếu có trao đổi với nhau một nụ cười lạnh giá hoặc vài câu vô nghĩa thì chẳng qua cũng chỉ để cho phải phép mà thôi. Tình loài thỏ, chứ không phải tình của người! Ngồi nhớ lại chuyện xưa mà anh chàng Đavưđốp khốn khổ lấy làm xấu hổ lắm, và trong khi lần lại quãng đường yêu đương đã qua ấy, vấp phải đoạn đời như vậy là anh lại nhăn mặt ghê tởm, cố lướt vội cho qua đi những cái gọi là để tô điểm cuộc đời cũng giống như một vết dầu madút tô điểm cho một bộ quân phục lính thủy sạch tinh tươm mà thôi. Và để quên cái phiền muộn, anh bàng hoàng cuốn vội một điếu thuốc mới, nghĩ bụng: “Một bản tổng kết hay thật!... Độc những cái vô nghĩa và thối rích, thực tế thế! Tóm lại là anh lính thủy ơi, cho anh điểm số không, không thêm dấu cộng nào cả. Cũng đáng đời anh, chuyện trai gái của anh linh tinh lắm, không hơn gì một con chó!”.

Và đến gần tám giờ sáng thì Đavưđốp đã hạ quyết tâm: “Thôi, ta sẽ lấy Varia! Anh lính thủy ơi, đã đến lúc phải chấm dứt cái cuộc đời trai không vợ của anh đi thôi! Thế có khi lại tốt. Mình sẽ thu xếp cho cô ấy đi học kỹ thuật nông nghiệp. Đi hai năm cô ấy sẽ về làm cán bộ canh nông của nông trang, và ta sẽ cùng nhau gánh vác. Rồi lúc ấy sẽ hay!”.

Anh có thói quen một khi đã quyết định việc gì rồi thì không đút ngăn kéo để “ngâm cứu”. Cho nên rửa mặt xong, anh đến ngay nhà Kharlamôva.

Anh gặp bà mẹ của Varia ở ngoài sân, lễ phép chào:

- Chào mẹ! Thế nào, mẹ có khỏe không?

- Chào anh chủ tịch! Cũng nhì nhằng, anh ạ. Có việc gì cần mà anh đến chơi sớm vậy?

- Varia có nhà không mẹ?

- Nó đang ngủ. Các anh họp hành gì mà đến sáng bạch nhật mới tan vậy!

- Ta vào nhà đi. Mẹ gọi cô ấy dậy. Con có tí việc muốn nói.

- Mời anh cứ tự nhiên.

Hai người bước vào bếp. Bà cụ lo ngại liếc nhìn Đavưđốp, nói:

- Anh ngồi chơi, để tôi vào gọi nó.

Varia ở trong buồng bước ra ngay. Xem chừng sáng nay cô cũng chẳng ngủ được. Đôi mắt cô khóc sưng húp, nhưng gương mặt cô vẫn mơn mởn tuổi thanh xuân, và dường như rạng rỡ ngọn lửa tình ấp ủ trong lòng. Cô nhìn Đavưđốp cái nhìn dò hỏi, đợi chờ, hơi có vẻ lườm lườm, và nói:

- Chào đồng chí Đavưđốp! Đồng chí chủ tịch mà cũng đến thăm mẹ con em sớm vậy.

Đavưđốp ngồi xuống tấm ghế dài, liếc nhìn lũ trẻ ngủ chen chúc trên chiếc giường ọp ẹp, nói:

- Không phải tôi đến thăm, mà đến có việc. Việc thế này, mẹ ạ…

Anh ngừng lại một phút, lựa lời nói năng ra sao đây, và đưa đôi mắt mệt mỏi nhìn bà lão.

Bà đứng bên bếp lò, tay vuốt vuốt lại những nếp chiếc áo cũ rích trên bộ ngực lép kẹp và vẻ băn khoăn.

- Việc thế này mẹ ạ, - Đavưđốp nhắc lại. – Varia yêu con, và con cũng yêu cô ấy. Chúng con đã quyết định thế này: con sẽ đưa cô ấy lên khu, học trường canh nông, hai năm nữa cô ấy sẽ trở thành cán bộ canh nông, về Grêmiatsi ta công tác. Và mùa thu năm nay, mùa màng xong, chúng con sẽ làm lễ cưới. Ngoài con ra còn có nhà Ốpnidốp cũng dạm hỏi Varia, nhưng ép dầu mỡ chứ chả nỡ ép duyên, đời cô ấy là do cô ấy tự quyết định, thực tế thế!

Bà cụ nghiêm sắc mặt quay sang con gái:

- Đúng không, Varia?

Nhưng cô chỉ còn đủ sức thều thào:

- Mẹ! – và lao bổ tới mẹ, cúi gục đầu xuống, lã chã những giọt nước mắt hạnh phúc, và nắm lấy hai bàn tay răn rúm sần sùi vì bao nhiêu năm lam lũ vất vả của mẹ mà hôn.

Đứng quay ra phía cửa sổ, Đavưđốp nghe thấy cô thều thào qua tiếng nức nở:

- Mẹ ơi, mẹ thương con! Con sẽ theo anh ấy đến tận cùng trời cuối đất! Anh ấy bảo sao con cũng làm. Đi học cũng được, lao động cũng được, cái gì con cũng làm!... Mẹ đừng  bắt con lấy Ivan Ốpnidốp! Lấy hắn thì con chết mất…

Một phút im lặng, rồi Đavưđốp nghe thấy tiếng bà mẹ run run nói:

- Xem ra là hai anh chị đã đồng ý nhau cả rồi mà không cần hỏi ý kiến mẹ phải không? Thôi thì cũng cầu Chúa phù hộ cho hai anh chị. Con Varia nhà tôi, tôi không muốn nó khổ, nhưng anh bộ đội lính thủy ơi, xin anh đừng làm nhục đời con gái tôi! Tôi chỉ còn mình nó để trông mong nương tựa! Anh thấy đấy, nó là đứa con lớn trong nhà, nó sẽ phải quán xuyến tất cả, còn tôi, phần thì buồn khổ, phần vì con mọn, phần vì nghèo túng… Anh thấy đấy, tôi đâm ra thân tàn ma dại thế này… Chưa già mà đã lụ khụ! Lính thủy các anh, hồi chiến tranh tôi đã biết các anh thế nào rồi… Nhưng xin anh đừng làm tôi tan cửa nát nhà!

Đavưđốp quay ngoắt lại, nhìn chòng chọc vào mắt bà mẹ:

- Này mẹ, mẹ đừng nói động đến anh em lính thủy! Anh em lính thủy đã chiến đấu và tiêu diệt bọn nhãi ranh bạch vệ kôdắc như thế nào thì sử sách còn ghi, thực tế thế! Còn riêng về mặt danh dự và yêu đương thì anh em lính thủy chúng tôi đã là và sẽ là những người biết trọng danh dự và chung thủy bằng vạn lần bất cứ một thằng khốn nạn nào không phải lính thủy! Cho nên về Varia thì mẹ khỏi lo, không đời nào con lại làm hại đời cô ấy. Còn về chuyện hai chúng con, con chỉ đề nghị một điều thế này thôi: nếu mẹ đồng ý cho chúng con lấy nhau thì mai con sẽ đưa cô ấy đi Milêrôvô, xin cho cô ấy vào trường kỹ thuật, còn con, trong khi chờ ngày làm lễ cưới, con sẽ dọn đến ở trọ đây. Đối với con, như thế cũng thuận tiện hơn là ở nhà người ta. Nhưng còn có mặt khác: bây giờ con cũng phải giúp đỡ gia đình nhà ta thế nào chứ? Varia đi học, một mình mẹ xoay xở với lũ trẻ thì mẹ kiệt sức mất! Con sẽ đưa vai ra gánh vác việc nhà ta. Vai con rộng, mẹ cứ yên trí, nó gánh được, thực tế thế! Đó, việc ta sẽ thu xếp như vậy. Thế nào, mẹ đồng ý không?

Đavưđốp rộng cẳng bước tới và ôm lấy đôi vai gầy guộc của bà mẹ vợ tương lai, và khi bà đặt đôi môi ướt nhoèn nước mắt lên má anh, anh càu nhàu nói:

- Các bà đến là mau nước mắt! Kiểu này thì người lòng gang dạ sắt mấy cũng bị các bà làm mủi lòng. Thế nào, bà già ơi, liệu rồi ta sống được chứ hả? Nhất định sống được, con nói dứt khoát thế!

Đavưđốp hấp tấp rút trong túi ra một xấp tiền giấy nhàu nát, ngượng ngập dúi xuống chiếc khăn bàn tồi tàn, lúng túng cười, miệng ấp úng:

- Đây là tiền con tiết kiệm hồi làm ở nhà máy. Con cũng chỉ phải chi có món thuốc lá thôi… Rượu thì con ít uống. Mà nhà ta thì đang cần tiền chuẩn bị cho Varia lên đường và mua sắm cho bọn trẻ… Thôi, chuyện có thế thôi, bây giờ con đi, hôm nay con phải lên huyện. Chiều con về sẽ mang vali đồ lề lại đây, còn em, Varia, em chuẩn bị đi. Sáng mai tinh mơ là ta lên đường đi khu. Thôi, chào cả nhà. Đavưđốp dang rộng hai tay ôm choàng lấy Varia đang nép vào người anh và bà mẹ rồi quay gót bước dứt khoát ra cửa.

Bước chân anh đi chắc nịch, đầy tự tịn, vẫn cái bước chân lính thủy hơi chuệnh choạng của anh trước đây, nhưng ai đó đã từng biết anh thì có thể thấy trong cái chuệnh choạng ấy có một cái gì đó mới mẻ…

* * *

Ngay hôm ấy Đavưđốp lên huyện, và được Nextêrenkô đồng ý cho phép lên gặp đảng ủy khu. Nextêrenkô dặn anh:

- Cậu đi mau mau về, đừng nấn ná trên ấy.

- Xong việc là tôi về luôn, chỉ nhờ anh gọi giây nói trước cho đồng chí bí thư khu ủy, đề nghị đồng chí ấy cho tôi gặp và giúp cho về việc đưa cô Kharlamôva vào trường.

Nextêrenkô nhăn mặt lại một cái hóm hỉnh:

- Này, anh lính thủy ơi, anh có định cho tôi hố với anh không đấy hả? Liệu hồn đấy, nếu anh đánh lừa tôi, không lấy cô ấy thì đừng có trách! Chúng tôi không tha thứ cho anh cái trò Đông Gioăng (*) ấy một lần nữa đâu! Với cô Luska thì còn đỡ phức tạp, dẫu sao cô ta cũng là gái đã bỏ chồng, còn trường hợp này thì hoàn toàn khác!...

Đavưđốp cáu tiết nhìn Nextêrenkô, không đợi nghe hết câu, cắt ngang luôn:

- Đồng chí bí thư ạ, quái quỷ thật, đồng chí nghĩ về tôi tệ quá đấy, thực tế thế! Thì tôi đã bảo là tôi đã xin bà cụ hẳn hoi, ăn hỏi tử tế theo đúng tục lệ hôn nhân mà! Anh còn đòi gì nữa, và tại sao tôi nói anh không tin?

Nextêrenkô nhẹ nhàng hỏi:

- Hỏi cậu một câu cuối cùng nữa. Xêmiôn ạ, cậu đã ăn nằm với cô ta chưa? Nếu là rồi thì sao không cưới phăng đi trước khi cô ta đi học? Cậu có đợi ai ở Lêningrát về không, vợ cũ chẳng hạn? Đồ mặt nạc ạ, cậu nên hiểu cho mình lo lắng cho cậu là trên tình anh em, và nếu phải mất lòng tin ở đức tính anh đàn ông đứng đắn của cậu thì mình rất khổ tâm… Mình nhảy xổ vào chuyện riêng tư của cậu hoàn toàn không phải vì thóc mách mua vui đâu… Cậu đừng tự ái, hiểu không? Muốn hỏi cậu một câu chót này: cậu cho cô Kharlamôva đi học không phải để đánh tháo chứ? Tống đi cho rảnh tay… Liệu hồn ấy, chú em tôi ạ!

Đavưđốp mệt mỏi gập đôi cẳng chân đau nhừ vì phi ngựa nhanh, buông người ngồi phịch xuống chiếc ghế tồi tàn đặt đối diện với chiếc ghế bành Nextêrenkô đang ngồi. Anh bần thần nhìn đôi tay ọp ẹp của chiếc ghế bành đồ mây hàng mã, rồi vểnh tai nghe tiếng chiêm chiếp không ngừng của lũ chim sẻ trong khóm xiêm gai, và  nhìn khuôn mặt vàng vọt của Nextêrenkô, nhìn những miếng mạng rất khéo trên chiếc áo varơi cũ kỹ của anh. Rồi nói:

- Thú thật là lẽ ra tôi không nên kết bạn thân tình với anh, khi làm quen anh trên ruộng cày vào mùa xuân vừa rồi… không nên  bởi vì xem ra anh có cái thói không tin ai cả… Quỷ tha ma bắt anh đi, anh bí thư ạ! Hình như anh chỉ tin mình anh thôi thì phải, mà cũng chỉ tin vào những ngày nghỉ thôi, còn đối với mọi người khác, kể cả những người anh thề thốt là bạn thân, anh luôn luôn nhìn họ bằng con mắt nghi ngờ một cách ngu xuẩn… Tính anh thế thì anh làm thế nào mà lãnh đạo được huyện ủy nhỉ? Anh nên kiểm điểm mình đi đã, trước khi nghi ngờ người khác!

Nextêrenkô mỉm cười một nụ cười ốm yếu:

- Mình đã đề nghị cậu đừng tự ái, nhưng cậu vẫn tự ái hả?

- Tự ái hẳn đi chứ!

- Thế thì cậu xoàng lắm!

Đavưđốp đứng dậy, vẻ nom càng mệt mỏi tợn:

- Tôi đi đây, ngồi nữa thì khéo cãi nhau mất…

- Mình chả muốn thế làm gì, - Nextêrenkô nói.

- Tôi cũng vậy.

- Thế thì cậu nên ngồi lại dăm mười phút nữa, những điểm bất đồng ta thanh toán với nhau cũng xong thôi.

- Thì ở lại. – Đavưđốp lại ngồi phịch xuống ghế. – Tôi không có dã tâm gì đối với cô ta cả, thực tế thế! Cô ấy cần được đi học. Nhà đông con, cô ấy lại là chị nhớn phải gánh vác cả nhà… Anh hiểu chưa?

- Hiểu, - Nextêrenkô đáp nhưng vẫn nhìn Đavưđốp bằng đôi mắt nghiêm khắc lạnh như tiền.

- Chúng tôi sẽ cưới khi nào cô ấy được nhận vào trường xong xuôi đâu đấy, còn tôi thì thanh toán xong việc mùa màng. Tóm lại là gặt hái xong thì cưới, theo đúng phong tục nhà quê, - Đavưđốp cười chẳng vui vẻ tí nào. Và thấy Nextêrenkô hình như có dịu mặt đi và bắt đầu nghe chăm chú, anh nói tiếp bằng giọng đỡ miễn cưỡng hơn, tự nhiên hơn, và trong bụng không còn ngượng ngùng như lúc nãy nữa: - Tôi chả có vợ nào ở Lêningrát, hoặc ở bất cứ đâu cả. Bây giờ tôi mới liều một phen lấy cô Varia đây. Và cũng đến lúc rồi: sắp bốn mươi rồi còn gì.

- Từ ba mươi trở đi, mỗi năm cậu tính thành mười phải không? – Nextêrenkô mỉm cười.

- Anh không kể nội chiến à? Mỗi năm lăn lộn trong nội chiến không phải coi như mười năm hay sao?

- Thế thì hơi nhiều…

- Anh cứ nhìn vào anh đấy, rồi sẽ thấy thế cũng vừa.

Nextêrenkô đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, xoa tay bị gió lạnh, đáp lững lờ:

- Chả biết thế nào mà nói… Vả lại đâu có phải chuyện ấy. Xêmiôn ạ, nghe cậu giải thích xong, mình rất mừng thấy không phải cậu định tái diễn cái trò với Luska, mà lần này có vẻ là thực sự đây. Chuyện đứng đắn thì mình ủng hộ thôi, và chúc cậu hạnh phúc!

- Thu này anh về dự cưới chứ? – Đavưđốp trong lòng hồ hởi lên, hỏi.

- Mình sẽ là ông khách số một! – Nextêrenkô đáp, và nụ cười của anh trở lại tươi tỉnh như trước, không có tí gì giả tạo, và đôi mắt đùng đục của anh lại ánh lên những ánh tinh nghịch: - Khách số một không phải trên ý nghĩa tước vị, mà là khách đến sớm nhất, trên tình thần ăn cỗ đi trước.

- Thôi, tôi đi đây. Anh nhớ gọi giây nói cho đồng chí bí thư khu ủy hộ tôi.

- Mình sẽ gọi ngay hôm nay. Cậu đi đi, và về cho sớm.

- Tôi sẽ vắt chân lên cổ!

Họ bắt tay nhau thật chặt.

Bước ra đến đường phố bụi bặm và nắng rát, Đavưđốp nghĩ bụng: “Không phải vô cớ mà tính nết anh ta như thay đổi hẳn! Nom ốm lắm! Da vàng khè, má hóp, như người chết rồi, và mắt thì đục… Có lẽ vì thế mà hôm nay anh nói với mình gay gắt như vậy chăng?..”.

Đavưđốp đã ra tới chỗ con ngựa thì Nextêrenkô thò cổ ra ngoài cửa sổ gọi anh bằng giọng không được khỏe lắm:

- Xêmiôn ơi, quay vào đây tí đã.

Đavưđốp lại miễn cưỡng bước lên mấy bậc thềm ngôi nhà huyện ủy.

Nextêrenkô lúc này lưng càng còng hơn, nom như gục người xuống, nhìn Đavưđốp nói:

- Có lẽ mình đã hơi nặng lời với cậu một cách không cần thiết. Cậu bỏ quá cho mình, mình đang chán ghê lắm: đã sốt rét lại vớ thêm cái ho lao nữa, chả biết vớ phải ở đâu, và bây giờ nó đang hoành hành trong người mình một cách hết sức công khai. Hang hốc cả hai bên phổi. Mai mình đi điều dưỡng, khu cho đi. Mình không muốn đi trước mùa gặt, nhưng cũng đành vậy thôi, cứu bệnh như cứu hỏa mà. Nhưng mình sẽ cố gắng về dự cưới cậu. Cậu đừng nghĩ là mình muốn khóc lóc than thở với cậu, nhưng bị cái tai vạ nó trút lên đầu mình một cách bất ngờ như thế mà có bạn bè chia xẻ vài câu nó cũng đỡ…

Đavưđốp đi vòng bàn, lẳng lặng ôm chặt lấy Nextêrenkô, hôn lên đôi má nóng ran và xâm xấp ướt của anh. Rồi sau đó mới nói:

- Đi đi, anh ạ, đi chữa bệnh cho khỏi! Bệnh tật thì chỉ giết được những anh trai trẻ thôi, còn anh và tôi thì nó chả làm gì nổi.

- Cảm ơn cậu, - Nextêrenkô đáp nhỏ, gần như không thành tiếng.

Đavưđốp sải bước đi ra. Anh nhảy lên ngựa, và lần đầu tiên trong đời anh, anh thúc ngựa khởi hành bằng một cái roi quất mạnh. Lao ngựa qua phố huyện anh nghiến răng tức giận rít lên:

- Tiên sư đồ con lừa, suốt ngày ngủ!...

Đavưđốp về tới làng vào lúc sau giờ ăn trưa. Anh đến thẳng nhà Kharlamôva, xuống ngựa hai bên cổng, và lững thững bước một đi vào sân. Khi anh tới bên thêm, hai cẳng dạng háng ra bước khệnh khạng và mặt nhăn nhó vì bị phồng cả đít do không quen cưỡi ngựa đường trường, trong nhà chắc đã trông thấy anh, và bà mẹ vợ tương lai đã bước ra cửa đón anh với một vẻ khác hẳn, niềm nở, dường như nửa ngày là đã đủ để làm bà quen với anh con rể mới:

- Ô, sao thế hả con, đau bẹn hả? Vội về quá đấy mà! Từ đây lên huyện, rồi lại từ huyện về, có gần gì đâu cho cam! – Bà nói với giọng làm ra vẻ xuýt xoa. Nhìn anh con rể chính thức của mình vẫn vung vẩy cái roi ra vẻ oai lắm, trong thâm tâm chắc bà không nhịn được cười… Ai chứ một người phụ nữ kôdắc nhiều tuổi như bà thì còn lạ gì cái tài cưỡi ngựa của những “anh người Nga” ấy nữa!

Lộn ruột vì cái giọng xuýt xoa ấy, Đavưđốp đáp lại hơi xẵng:

- Thôi mẹ ơi, làm gì mà nhiều lời thế? Varia đâu rồi?

- Nó đi tìm thợ may, thì cũng phải chữa lại mấy cái đồ cũ chứ? Anh à, anh vớ được cô vợ chưa cưới thật là chán mớ đời! Ngoài cái váy cũ mặc trên người ra, không còn lấy cái chết tiệt gì nữa! Kén vợ gì mà lại kén thế?

- Sáng nay con đến đây hỏi lấy con gái cụ chứ không phải lấy cái váy, - Đavưđốp liếm đôi môi đi nắng khô nẻ, nói. – Nhà có nước lạnh uống không mẹ? Còn váy thì rồi sẽ kiếm ra được, cứ từ từ, vội gì! Varia đi bao giờ về?

- Nó đi thì có trời biết! Anh vào trong nhà! Thế nào, anh đã xin được cấp trên cho con Varia đi canh nông chưa?

- Tất nhiên là được. Mai chúng con đi khu, mẹ chuẩn bị cho cô ấy lên đường. Thế nào? Mới nói thế mà đã lại mưa rồi đấy hả mẹ? Đã muộn rồi đấy!

Quả là bà lão khóc thật, khóc cay đắng, nức nở, nhưng rồi bà cũng nén được ngay cơn yếu đuối ấy, cầm góc tạp dề không lấy gì làm sạch sẽ cho lắm chùi mắt, vừa thỉnh thoảng nấc lên một cái vừa nói bằng giọng chán chường:

- Khỉ gió nhà anh, thì cũng vào trong nhà đi chứ, việc quan trọng thế mà đứng ngoài sân bàn à?

Đavưđốp bước vào nhà, ngồi xuống tấm ghế dài, ném cái roi xuống gầm ghế.

- Còn bàn cái gì nữa hả mẹ? Việc đã rõ ràng và quyết định rồi. Bây giờ con đề nghị thế này, mẹ có đồng ý không: mấy ngày qua con mệt ghê lắm, mẹ cho con tí nước uống, rồi con nằm đây ngủ độ một tiếng, con ngủ dậy rồi ta sẽ nói chuyện. Còn ngựa thì mẹ bảo đứa nào nhà ta dắt ra chuồng ngựa nông trang cho con.

Bà mẹ đã tươi tỉnh lên, nói:

- Ngựa thì khỏi lo, bọn trẻ sẽ dắt, nhưng anh chờ tí đã, để mẹ đi lấy ít sữa lạnh cho mà uống. Xuống hầm lấy có ngay thôi mà.

Cơn mệt và mấy đêm liền không ngủ làm Đavưđốp lử cò bợ, chẳng còn đợi được nữa. Khi bà mẹ quay lại, rón rén bưng bình sữa đổ mồ hôi lạnh thì Đavưđốp đã ngủ rồi, nằm ngay trên chiếc ghế dài anh vừa ngồi, miệng he hé và cánh tay phải buông thõng xuống đất. Bà chẳng gọi anh dậy làm gì nữa. Bà khẽ nâng đầu anh lên, luồn chiếc gối nhỏ bọc áo xanh lơ vào.

Lả đi vì mệt và cái nóng hầm hập của gian nhà, Đavưđốp ngủ một mạch hai tiếng đồng hồ, rồi tỉnh dậy vì có tiếng trẻ con xì xào bên tai và có một bàn tay phụ nữ ấm áp vuốt ve mặt anh. Anh mở mắt và thấy Varia đang ngồi bên tấm ghế anh nằm, âu yếm mỉm cười nhìn anh, và vây quanh anh là cả lũ năm đứa trẻ nối dõi tông đường nhà Kharlamốp.

Đứa bé nhất, và xem ra cũng là đứa bạo nhất, tin cậy nắm lấy bàn tay to tướng của Đavưđốp trong hai bàn tay nhỏ xíu của nó, rồi nép vào người anh, rụt rè hỏi:

- Chú Xêmiôn ơi, có đúng là bây giờ chú đến ở nhà cháu không?

Đavưđốp thả hai chân xuống, mỉm cười với nó một nụ cười ngái ngủ:

- Đúng đấy, bé ạ! Nhất định phải thế rồi! Chị Varia sắp đi học xa, thế thì ai sẽ lo ăn lo mặc cho mấy đứa? Bây giờ là anh phải làm việc ấy đấy, thực tế thế! Và anh đặt tay lên cái đầu âm ấm và xoăn tít của thằng bé, ân cần như một người cha.

CHƯƠNG XXV

Hôm sau, còn lâu mới sáng, Đavưđốp đã đánh thức bác Suka nằm ngủ trong kho cỏ dậy, giúp bác thắng ngựa vào xe, rồi cho đánh xe đến nhà bà Kharlamôva. Qua cánh cửa khép không kín, anh thấy trong bếp có ánh đèn.

Bà Kharlamôva đang làm bếp; lũ trẻ đang ngủ, nằm ngang chiếc giường gỗ rộng, còn Varia thì quần áo đã chỉnh tề sẵn sàng lên đường, đang ngồi trên tấm ghế dài, và lúc này ngồi trong nhà mẹ đẻ, nom cô đã như không phải người nhà mà như khách đảo qua chơi.

Cô đón Đavưđốp với nụ cười đầy hạnh phúc và biết ơn:

- Em sẵn sàng từ lâu rồi, anh chủ tịch ạ, em đang đợi anh đây.

Bà cụ chào Đavưđốp, rồi thêm vào lời con gái:

- Gà gáy lần đầu nó đã dậy sắm sửa rồi đấy. Cứ háo hức như đứa trẻ con! Gì chứ về cái ngố rừng của cô ấy thì khỏi nói!... Bữa sắp được rồi đây. Vào đi, đồng chí Đavưđốp, ngồi chơi tí.

Ba bà con ăn vội ăn vàng món xúp bắp cải nấu từ hôm qua cùng mấy củ khoai tây rán, rồi uống sữa. Xong bữa, Đavưđốp đứng dậy, cám ơn bà chủ nhà, và nói:

- Nào, đi thôi. Varia từ biệt mẹ đi, nhưng phiên phiến thôi nhá. Chả việc gì phải mưa sướt mướt, có phải đi đời đi kiếp đâu. Có dịp lên khu, con sẽ đưa mẹ lên thăm con gái… Con ra xem qua lại ngựa. – Ra đến cửa, anh quay lại hỏi Varia: - Em có mang cái áo ấm nào đi không đấy?

Varia đáp, có ý ngượng ngập:

- Em có cái áo cánh bông, nhưng cũ lắm rồi…

- Cũ cũng được, đi dạ hội đâu mà diện, thực tế thế…

Một giờ sau họ đã khuất làng một quãng xa, Đavưđốp ngồi bên phải bác Suka, còn Varia thì ngồi bên trái. Thỉnh thoảng cô lại luồn tay qua lưng bác Suka, khẽ nắm lấy tay Đavưđốp một lát rồi lại thả mình nghĩ miên man. Trong cuộc đời con gái ngắn ngủi của cô, cô chưa xa làng lâu lần nào, mới chỉ có vài lần lên phố huyện, chưa trông thấy xe hỏa bao giờ, cho nên lần đầu tiên đi lên một thị trấn lớn, cô vừa hồi hộp phấn khởi, vừa bồn chồn lo lắng. Phải xa nhà, xa bạn dẫu sao cũng buồn, và chốc chốc mắt cô lại rơm rớm.

Qua phà sông Đông xong, trong lúc đôi ngựa bước một leo lên ngọn gò bên bờ sông, Đavưđốp nhảy xuống xe, vòng sang phía Varia ngồi, lững thững đi bộ bên xe. Đôi ủng anh bước quệt rụng những hạt sương bám hằng hà sa số trên những bụi ngải cứu thấp lè tè mọc bên đường, những hạt sương trong khi mặt trời chưa mọc nom vẫn còn nhợt nhạt, chưa long lanh đủ ngũ sắc cầu vồng như khi có những tia nắng đầu tiên rọi xuống. Chốc chốc anh lại nhìn Varia, mỉm cười động viên cô, nói:

- Kìa, Varia, tạnh mưa đi thôi chứ!

Hoặc: “Bêu! Con gái lớn tướng mà còn nhè!”.

Và Varia đang nước mắt ngắn nước mắt dài lại ngoan ngoãn kéo góc khăn vuông xanh lau đôi gò má ướt, thì thào câu gì nghe chẳng rõ, và bẽn lẽn mỉm cười với anh một nụ cười ngoan ngoãn.

Sương mù dày đặc trên vùng đồi núi đá vôi nhấp nhô của miền sông Đông này, và đỉnh ngọn gò còn bị mù che kín.

Vào cái giờ sớm tinh mơ này, kể cả cây mã đề thảo nguyên lẫn những cành nặng trĩu hoa vàng của cây kim hoa và lúa mọc từ chân gò ra sát tận đường đều chưa tỏa hương ban ngày của chúng. Ngay cả cây ngửi cứu thơm hắc như thế mà cũng không còn mùi gì nữa – mọi mùi hương đều đã bị sương nuốt chửng, một thứ sương đầm đìa ngọn cỏ, lá lúa, tưởng đâu như vừa mới có một trận mưa tháng bảy đổ xuống nơi đây. Cho nên vào cái lúc ban mai thanh bình phẳng lặng này, ngự trị toàn quyền trên thảo nguyên chỉ có hai mùi hương giản dị: của sương và của bụi đường thấm sương bết dí xuống.

Bác Suka, mặc chiếc áo mưa vải sơn cũ chẽn một thắt lưng vải đỏ còn cũ kỹ hơn, ngồi xo ro lạnh, và trái với lệ thường của bác, hồi lâu bác chẳng nói chẳng rằng, chỉ vung roi đen đét và huýt miệng giục đôi ngựa chẳng cần bác giục cũng đang chạy hăm hở rồi.

Nhưng mặt trời mọc lên thì bác như hồi tỉnh, và hỏi:

- Anh Xêmiôn ạ, làng xóm người ta tán là anh định lấy con bé Varia này đấy. Có đúng vậy không?

- Đúng đấy, bác ạ.

- Chậc, cái việc lấy vợ lấy chồng là việc chả chạy đâu cho thoát, sớm muộn rồi cũng phải lấy thôi, nghĩa là lão nói về giới đàn ông ta, - ông lão nói bằng một giọng triết lý cao siêu. – Mồ ma các cụ cố nhà lão cũng lấy vợ cho lão từ khi lão mới nứt mắt mười tám tuổi. Mà lão thì ngay từ hồi ấy cũng đã ranh kinh lắm cơ và đã hiểu cái trò lấy vợ lấy chồng là cái trò con tườu rồi… Thế cho nên lão mới vùng vẫy dãy dụa loạn lên nhá! Lão biết quá rõ lấy vợ chẳng phải là ngọt bùi gì đâu. Anh Xêmiôn ạ, thôi thì lão đã giả vờ đủ cách! Giả vờ điên này, giả vờ ốm này, giả vờ động kinh này. Để chữa cho lão bệnh điên, ông cụ lão, bình sinh là người già đòn non lẽ, đã lấy roi quật cho lão hai giờ đồng hồ liền, khi cái roi gãy đôi trên lưng lão mới thôi. Chữa bệnh động kinh thì cụ quất bằng dây cương ngựa. Còn khi lão giả vờ ốm thì thoạt tiên cụ quát thiên quát địa, bảo là ruột gan tim mề lão thối hết cả rồi, sau đó cụ chẳng nói chẳng rằng đi ra vác cái càng xe trượt tuyết vào. Nghĩa là cụ đã vào nhà kho, phá tan tành cái xe trượt tuyết để lấy độc chiếc càng mà chẳng biết xót ruột, cái cụ quỷ ấy! Đấy, mồ ma cụ tính như thế đấy, cầu Chúa cứu vớt linh hồn cụ! Cụ vác cái càng xe vào bảo lão, ngọt cứ như mía lùi: “Con ơi, con ngồi dậy, thày chữa cho con khỏi bệnh ngay đây…”. Lão nghĩ bụng: ối, cái càng xe cụ còn bẻ ngoéo đi không biết xót ruột thì cụ còn xót ruột gì mà không bẻ ngoéo cái cẳng của mình đi bằng lối chữa bệnh ấy của cụ. Cái càng xe trong tay cụ đâu phải chuyện bỡn. Hơn nữa ông cụ lão đôi lúc cũng hâm hâm, ngay từ hồi còn bé tẹo lão cũng đã thấy cái tật ấy của cụ rồi… Thế là lão nhảy phốc ngay trên giường xuống, cứ như có ai vẩy nước sôi vào đít vậy. và lão xin là lấy vợ. Phải ông bố lẩm cẩm thế thì lão cũng phải đành thế thôi chứ biết làm thế nào? Và từ đó cái đời lão nó rối tinh rối mù, nó khập khà khập khiễng, nó lộn tùng phèo, không ra thế nào! Nếu như bây giờ bà nhà lão nặng tròn tám pút thì hồi mười chín bà ấy cũng phải được là… - bác Suka ngẩng đầu lên, trầm ngâm nhai móm mém, rồi khẳng định dứt khoát: - ít ra là mười lăm pút, lão nói điêu lão chết!

Đavưđốp cười tưởng chết sặc, nói không ra hơi:

- Thế có nhiều quá không?

Bác Suka vặn lại anh một cách rất chí lý:

-Đối với anh thì có can hệ gì? Thêm một pút hay bớt một pút, đối với anh thì có gì là khác nhau nhỉ? Vì anh đâu có phải giơ lưng ra chịu những trận đòn của bà ấy, mà là lão đây cơ! Mẹ kiếp, chứ đa mang vợ vào, đời lão thật nhục như con chó, đến cái nước muốn treo cổ lên ấy chứ! Nhưng bà ấy đã vớ phải một tay chẳng vừa! Lão mà điên lên là lão liều! Mà lão liều là lão nghĩ bụng: bà cứ treo cổ trước đi, tôi sẽ treo sau…

Bác Suka vui vẻ ngó ngoáy đầu, cười khúc khích, vẻ như đang chìm đắm trong những ký ức linh tinh đủ các loại, và thấy chuyện mình nói được chăm chú nghe, bác cũng sẵn lòng kể tiếp:

- Chà, các đồng bào thân mến… và mày, Varia ạ! Hồi trẻ, lão và bà nhà lão yêu nhau ác liệt lắm nhá! Lão xin hỏi: tại sao lại bảo là ác liệt? Tại là vì suốt đời lão cái tình yêu ấy độc đưa vợ chồng lão đến những chuyện hung ác thôi, mà ác liệt và hung ác thì cũng chỉ là một, lão đã đọc trong quyển tờ điển dày cộp của anh Maka thấy nói như vậy.

Có những lần nửa đêm thức giấc, lão thấy bà ấy lần thì khóc rưng rức, lần thì cười, lão nghĩ bụng: “Cứ khóc đi, mình bé bỏng của tôi ơi, nước mắt đàn bà là những giọt sương rơi của Chúa, đời tôi sống với cô cũng chẳng phải ngọt bùi gì, nhưng tôi đâu có thèm khóc!”.

Và vợ chồng lão lấy nhau được năm năm thì xảy ra một chuyện như thế này: anh hàng xóm nhà lão tên là Pôlikarpơ đi lính cận vệ ở trung đoàn Atamanxki giải ngũ về. Thằng ma tịt ấy đi lính học được cái lối vuốt ria, và về nhà nó giở luôn cái trò vuốt ria ấy với vợ lão. Một buổi tối lão thấy nó cùng bà nhà lão đứng với nhau bên hàng giậu, nó một bên, bà nhà lão một bên. Lão cứ đi vào nhà, làm như đui mù, không trông thấy gì. Tối hôm sau lại vẫn thế. Lão nghĩ bụng: chà, cái trò bố láo đây! Ngày thứ ba lão cố tình vắng nhà tối mịt mới về: lại đứng thế! Quá thể lắm! Phải làm cái gì chứ nhỉ! Lão sáng kiến ra ngay: lão lấy một quả gang nặng ba phuntơ bọc vào trong cái khăn mặt, đi đất rón rén đến sau lưng thằng Pôlikarpơ, không để cho nó nghe thấy, rồi giữa lúc nó đang vuốt ria, lão choang cho nó một quả thật lực vào gáy. Nó quay cu lơ ra nằm thẳng cẳng dưới chân hàng giậu như một khúc gỗ.

Vài hôm sau thì lão lại gặp nó. Cu cậu đầu băng bó, cay cú bảo lão: “Bố tiên sư khỉ, mày oánh thế thì chết ông chứ còn gì!”. Lão liền bảo nó: “Cái thằng nằm quay cu lơ dưới chân hàng rào và cái thằng đứng hai chân đàng hoàng, trong hai thằng ấy chưa biết thằng nào khỉ”.

Từ hôm đó hai anh chị tịt hẳn cái trò đứng hàng rào, cứ như có phép tiên vậy. Có điều là chỉ ít lâu sau bà nhà lão học đâu được cái lối ban đêm cứ nghiến răng ken két. Một đêm, nghe thấy bà ấy nghiến răng lão giật mình choàng dậy, hỏi: “Mình bé bỏng của tôi đau răng hay sao đấy?!” Bà ấy đáp: “Mặc xác người ta, đồ khỉ!”. Lão nằm xuống, nghĩ bụng: “Cái người nghiến răng ken két và cái người ngủ say tít thò lò như thằng cu ngủ trong nôi, trong hai người ấy chưa biết ai khỉ!”.

Sợ chạm tự ái ông lão, Đavưđốp và Varia cứ ngồi im thin thít. Varia lẳng lặng cười, người rung lên bần bật, còn Đavưđốp thì quay đi, hai tay ôm mặt và không hiểu sao, cứ ho sặc sụa từng cơn. Bác Suka chẳng để ý gì, cao hứng kể tiếp:

- Đấy, yêu nhau ác liệt thì đôi lúc nó như thế đấy! Tóm lại là những cuộc lấy vợ lấy chồng hiếm khi đưa đến cái gì tốt đẹp, ấy là nói theo cái kinh nghiệm già đời của lão. Hoặc lấy xí dụ như trường hợp này: ngày xưa làng ta có một anh giáo trẻ. Anh ta có một cô vợ chưa cưới con một nhà buôn, cũng dân làng này. Cái anh giáo ấy rất chi là bảnh bao, rất chi là đẹp, ấy là lão nói về cách ăn mặc của anh ta, nom cứ như một chú gà sống choai, và chẳng cuốc bộ bao giờ, toàn đi xe đạp. Hồi ấy mới có xe đạp. Nếu như đối với bàn dân thiên hạ trong làng, cái xe đạp đầu tiên ấy đã là một của lạ thì đối với lũ chó lại càng khỏi phải nói. Anh giáo cứ ló mặt ra phố, hai bánh xe đạp sáng choang, là y như rằng bọn chó khốn kiếp kia làm cứ như điên như dại. Thế là để thoát khỏi bọn chó, anh ta cúi rạp người xuống xe mà phóng, hai chân đạp nhắng lên, nhanh đến nỗi không còn trông thấy cái gì nữa. Số chó con bị anh ta đè thì không biết bao nhiêu mà kể, nhưng phải nói là anh ta cũng khốn khổ khốn nạn với chúng nó!

Rồi một buổi sáng lão đi ra thảo nguyên tìm con ngựa cái. Lúc tắt qua quảng trường lão gặp ngay một đám cưới chó. Một ả chó cái chạy đầu, theo đuôi nó là cả một dây chó đực ít ra cũng ba chục con. Mà hồi ấy, mả mẹ cái dân làng ta, họ nuôi sao mà lắm chó thế! Con nào cũng dữ như cọp, và to không kém gì con bê. Chả là để chúng canh kho, canh hòm xiểng cho họ mà. Nhưng thế thì được cái tích sự gì? Chẳng được gì, chiến tranh đã làm cho họ còn có cái chết tiệt gì trong kho mà canh… Thế là cái đám cưới chó ấy, nó tiến về phía lão. Lão là người không đến nỗi đần độn cho nên lão quẳng luôn cái cương đi, và tót một cái lão đã leo lên đỉnh cột giây thép, nhanh như con mèo hạng chúa, lấy chân quặp lấy cột điện, ngồi đó nhìn. Vừa lúc đó thì anh chàng giáo học ở đâu đâm bổ ra, ngồi ngay đơ trên xe đạp với hai bánh và ghi đông sáng loáng. Chúng liền vây lấy anh ta. Anh ta quẳng xe, đứng giậm chân tại chỗ. Lão quát bảo anh ta: “Này, cái anh ngớ ngẩn kia, leo lên cột này mau lên, không chúng xé xác ra bây giờ!”. Khốn nạn cho anh ta, anh ta trèo lên, nhưng hơi muộn mất một tí: anh ta vừa túm lấy cái cột thì trong nháy mắt chúng đã lôi tuột của anh ta mất cái quần phăng mới toanh và cái áo đuôi tôm đại lễ có khuy đồng vàng chóe và tất cả bộ đồ lót. Và mấy con dữ nhất hình như đã ngoạm cả vào thịt ở cái chỗ kín nào đó của anh ta.

Chúng lấy anh ta làm trò mua vui chán chê rồi kéo nhau đi cái công việc cẩu trệ của chúng. Còn anh ta thì ở lại trên cột giây thép, may mắn còn giữ được trên người cái mũ kêpi có phù hiệu, nhưng đã gãy mất lưỡi trai trong lúc trèo vội.

Lão với anh ta ở trên chỗ trú ẩn ấy tụt xuống, anh ta xuống trước, lão xuống sau, vì lão leo cao lên tận gần chỗ các bình sứ mắc giây thép. Hai người nối đuôi nhau tụt xuống, anh ta nghĩa là trần như nhộng, còn lão thì mặc độc cái áo sơmi và cái quần vải gai. Anh ta đề nghị lão: “Chú ơi, chú cho cháu mượn tạm cái quần, nửa giờ cháu trả”. Lão bảo: “Anh bạn ơi, tôi cho anh mượn thế nào được, vì tôi không mặc quần lót. Anh lên xe anh đi, còn tôi giơ mông ra quay đèn cù quanh cái cột này giữa ban ngày ban mặt hay sao? Tôi có thể cho anh mượn tạm cái áo sơmi, còn quần thì xin lỗi anh, không được đâu”. Anh ta xỏ chân vào ống tay áo, lấy áo làm quần, khẽ đặt chân nọ lên trước chân kia mà nhích dần từng bước một. Lẽ ra thì anh ta phải ba chân bốn cẳng mà chạy thì mới phải, nhưng chân cẳng anh ta bị bó lại như ngựa bị tròng chân thế thì chạy sao được? Rồi cái cô con gái lão nhà buôn, là vợ chưa cưới của anh ta, đã trông thấy anh ta diện cái áo sơmi của lão như vậy… Và ngay hôm đó cuộc tình duyên của hai anh chị cũng chấm dứt luôn. Anh chàng vội vàng xin chuyển sang trường khác, phần vì xấu hổ, phần vì có ba hồn bảy vía thì bị chó làm cho mất sạch, phần vì bị vợ chưa cưới bỏ và cuộc tình duyên bị tan ra mây khói, anh chàng đã bị bệnh lao tẩu mã mà chết. Nhưng lão thì lão cho rằng anh ta chết vì sợ và xấu hổ thôi. Đấy, xem đấy thì biết cái chuyện yêu đương đáng nguyền rủa ấy dẫn người ta đến đâu, ấy là chưa nói đến những đám thành vợ thành chồng. Cho nên tội nghiệp anh, anh Xêmiôn ạ, anh nên suy đi nghĩ lại trăm lần cho kỹ đi đã rồi hãy lấy Varia. Giống đàn bà là đều ở cùng một lò ra cả, và chẳng phải vô cớ mà anh Maka với lão đều căm ghét họ.

- Được rồi, bác ạ, tôi sẽ nghĩ thêm, - Đavưđốp hứa, và lợi dụng lúc bác Suka châm thuốc lá, anh kéo vội Varia vào lòng, hôn lên thái dương cô, đúng cái chỗ có mớ tóc tơ đang lất phất trước gió.

Mệt vì kể chuyện và có thể là vì những ký ức gợi lại, chả mấy chốc bác Suka đã bắt đầu thiu thiu. Đavưđốp đỡ lấy dây cương ngựa từ bàn tay đã đờ đẫn của bác. Rũ ra vì buồn ngủ, bác lẩm bẩm:

- Lão cám ơn. Anh đánh ngựa hộ, để lão thiếp đi độ một tiếng. cái tuổi già đến là khổ! Cứ nắng lên một tí là buồn ngủ díp mắt… và mùa đông, càng rét lại càng buồn ngủ, có khi ngủ quên mà chết cóng cũng chưa biết chừng.

Loắt choắt và gầy guộc, bác nằm sóng soài giữa Varia và Đavưđốp, nom như cái roi ngựa vứt trên ghế, và chỉ lát sau đã ngáy o o như cây sáo diều.

Và thảo nguyên được ánh nắng mặt trời sưởi ấm lúc này đã tỏa ra tất cả các loại hương của muôn loài cây cỏ, quyện lẫn mùi cỏ khô với mùi bụi đường hâm hấp, và xa xa, đường chân trời chìm trong quầng ánh sáng đang mờ mờ hiện lên xanh ngát. Varia đưa mắt hau háu nhìn quanh, ngắm cảnh thảo nguyên xa lạ vùng bên kia sông Đông, xa lạ nhưng cũng lại vô cùng thân thiết.

* * *

Xẩm tối thì họ vượt được hơn một trăm cây số, và dừng xe lại nghỉ đêm ở chân một đống cỏ. Bữa tối là mấy thứ đồ ăn thức uống đạm bạc ở nhà mang đi; ăn tối xong, họ ngồi nghỉ một lúc bên xe ngựa, lẳng lặng nhìn trời sao. Đavưđốp nói:

- Mai ta lại phải dậy sớm đấy, liệu thu xếp chỗ ngủ đi thôi. Em Varia ạ, em lên xe nằm, lấy cái áo của anh mà đắp, còn hai bác cháu ta thì nằm dưới đống cỏ này.

- Quyết định rất chi là đúng, anh Xêmiôn ạ, - bác Suka vui vẻ hoan nghêng, rất hài lòng được ngủ chung với Đavưđốp.

Chả cần giấu rằng ông lão rất sợ phải ngủ một mình ở giữa nơi đồng đất xa lạ vắng tanh vắng ngắt này.

Đavưđốp nằm ngửa, hai tay vắt sau gáy, nhìn bầu trời xanh bàng bạc, thở dài một cái, rồi bất giác thấy mình mỉm cười bâng quơ.

Chỉ đến nửa đêm mặt đất ban ngày bị nắng thiêu mới nguội hẳn và trời mới thực mát mẻ. Dưới khe lũng, đâu đó, gần đây thôi, ắt hẳn phải có một cái hồ hoặc đầm lầy thảo nguyên gì đó, vì nghe thoang thoảng có mùi bùn, mùi cói. Một con cun cút kêu lên rất gần. Ếch nhái ộp oạp cất lên vài tiếng do dự. Một con cú mèo non nào ngái ngủ hú lên trong đêm khuya…

Đavưđốp vừa thiếp đi thì có một con chuột chạy sột soạt trong cỏ. Bác Suka nhảy chồm dậy nhanh như cắt lay Đavưđốp:

- Xêmiôn, anh nghe thấy gì không?! Chọn cái chỗ mả mẹ gì mà lạ thế này! Đống cỏ nhung nhúc những rắn. Anh nghe thấy không, đấy, cái giống khốn kiếp ấy nó đang bò sột soạt đấy! Rồi lại cú kêu, cứ y như ở nghĩa địa vậy… ta ra chỗ khác thôi, chỗ này đầy tử khí!

- Ngủ đi, đừng tưởng tượng nữa, - Đavưđốp ngái ngủ đáp.

Bác Suka lại nằm xuống và trằn trọc mãi. Bác nằm đắp chiếc áo mưa trùm kín đầu và dắt kỹ mép áo xuống xung quanh người, miệng lẩm bẩm:

- Lão đã bảo đem cái xe tải đi, nhưng anh cứ nằng nặc đòi mang cái xe con này đi để vấy cơ. Bây giờ mới sướng nhá! Mang cái xe tải đi thì đã có phải là chất được đầy xe toàn loại rơm tốt của nhà, đi cũng yên trí, và bây giờ cũng được ngủ cả ba người trên xe, chứ đâu đến nỗi phải chui rúc trong đống cỏ xa lạ như con chó hoang thế này. Varia nhà anh ngủ đàng hoàng trên xe, như cô tiểu thư ấy, còn chúng mình thì trên đầu sột soạt, hai bên sườn sột soạt, dưới chân cũng sột soạt, có ma biết con gì nó đang sột soạt? Được, anh cứ ngủ đi, cho con rắn nó bò vào, đớp cho anh một cái vào chỗ kín, rồi anh hết đường lấy vợ! Cái giống khốn nạn ấy nó mổ anh vào chỗ nào là chỗ ấy thối thịt ra mà chết ấy chứ. Đến lúc ấy thì cô Varia nhà anh sẽ đổ ra hàng thùng nước mắt, và như thế thì được cái tích sự gì nhỉ?... Lão thì chả con rắn nào cắn làm gì, lão già rồi, thịt dai, toàn những gân, hơn nữa lão lại sặc mùi dê đực, vì con Tơrôphim hay rúc vào bên lão mà ngủ ở trong kho cỏ, mà rắn thì nó kỵ mùi dê. Rõ ràng là nó sẽ cắn anh, chứ không cắn lão đâu… Nào, ta ra chỗ khác nằm đi!

Đavưđốp bực mình nói:

- Cái bố này hôm nay sao rắc rối thế? Nửa đêm thế này đi đâu?

Bác Suka buồn bã đáp:

- Anh đưa lão đến chỗ chết… Biết thế này thì lão đã vĩnh biệt bà nhà lão, chứ ai lại bỏ đi cứ như chưa hề là vợ là chồng với nhau bao giờ vậy. Anh Xêmiôn ơi, thế anh cứ nhất định không đổi chỗ à?

- Không. Ông ngủ đi.

Bác Suka thở dài đánh thượt một cái, làm dấu phép, rồi nói:

- Ngủ được thì đã sướng quá, anh Xêmiôn ạ, nhưng sợ xanh mắt thì ngủ sao được. Hết nghe thấy tim mình đập thình thịch lại đến cái con cú khốn kiếp kia nó hú, ồi, sao nó không câm cái họng nó đi…

Những lời ca cẩm nói bằng giọng đều đều của bác Suka đã ru Đavưđốp thiếp đi ngủ say như chết.

Trời hửng sáng thì anh thức giấc. Bên anh, Varia đang ngồi tựa vào đống cỏ, hai chân thu lại, và tay đang vuốt lại những mớ tóc rối lòa xòa trên trán anh. Và cái vuốt ve của những ngón tay con gái ấy nó nhẹ và dịu êm đến nỗi Đavưđốp đã tỉnh dậy rồi mà hầu như cũng không cảm thấy.

Còn ở trên xe thì bác Suka, nằm vào chỗ Varia và mình đắp chiếc áo bành tô của Đavưđốp, đang ngủ say tít cung mây.

Varia hồng hào như buổi rạng đông này, nhỏ nhẻ nói:

- Em đã chạy ra đầm rửa mặt rồi. Anh đánh thức ông  cụ dậy, ta đi thôi! – Cô khẽ áp đôi môi lên lên cái má lởm chởm râu ria của Đavưđốp rồi nhẹ nhàng bật đứng dậy. – Anh đi rửa mặt đi chứ, anh Xêmiôn? Em chỉ đường cho.

Đavưđốp đáp, giọng khê nặc:

- Đi rửa mặt bây giờ thì muộn quá, Varia , anh rửa dọc đường vậy. Con chuột đồng già kia đánh thức em dậy đã lâu chưa?

- Bác ấy có đánh thức em đâu. Tang tảng sáng em thức dậy thì thấy bác ấy đang ngồi bó gối hút thuốc cạnh anh. Em hỏi: “Bác không ngủ à?”. Bác ấy trả lời: “Cả đêm qua lão không ngủ cô em ạ, quanh đây toàn những rắn. Cô đi dạo chơi thảo nguyên một vòng, để lão nằm vào chỗ cô chợp đi độ tiếng đồng hồ, ngủ cho yên”. Thế là em dậy, đi ra đầm rửa mặt.

Buổi sáng hôm ấy, họ đã đến Milêrôvô. Đavưđốp vào trụ sở khu ủy độ nửa tiếng, rồi quay ra, vẻ phấn khởi, mỉm cười nói:

- Đồng chí bí thư đã giải quyết mọi việc cho ta theo đúng tác phong của một khu ủy, nghĩa là nhanh, gọn: chị em trong chi đoàn Kômxômôn cơ quan khu ủy sẽ đỡ đầu em đấy, em Hẩm hiu ạ. Và ta đi ngay bây giờ đến trường canh nông, anh sẽ đưa em vào nhận chỗ ăn ở. Đã thương lượng và thống nhất với đồng chí hiệu phó rồi. Từ nay cho đến ngày thi vào trường, anh em giáo viên sẽ bổ túc cho em, để đến sang thu là em đã được trang bị đến tận răng, thực tế thế! Chị em trên khu sẽ xuống thăm em, anh đã thảo luận với họ qua giây nói. – Theo thói quen, Đavưđốp xoa xoa mạnh hai bàn tay, hỏi: - Varia ạ, em có biết họ cử ai về chỗ ta làm bí thư chi đoàn Kômxômôn không? Em có ngờ được là ai không? Ivan Naiđênốp, cái anh chàng đội tuyên truyền về ta hồi mùa đông ấy mà! Một thằng cha rất năng nổ, hắn về thì anh mừng ghê lắm. Công tác chi đoàn của ta sẽ chạy băng băng, anh nói chắc chắn với em như vậy!

Hai giờ sau thì cả ở trường canh nông mọi việc cũng được thu xếp xong ổn thỏa. Phút chia tay đã đến. Đavưđốp nói bằng giọng cứng cỏi:

- Chào em Varia Hẩm hiu của anh! Đừng buồn, em hãy học cho tốt. Vắng em, ở nhà cũng chẳng xảy ra chuyện gì đâu.

Và lần đầu tiên anh hôn lên môi Varia. Rồi theo hành lang đi ra. Tới cửa, anh nhìn ngoái lại thì bỗng một niềm thương hại da diết làm lòng anh thắt lại, đến nỗi anh cảm thấy lớp ván sàn gồ ghề hình như tròng trành dưới chân anh, như mặt boong tàu: Varia đang đứng tì trán vào tường, hai tay ôm mặt, tấm khăn vuông xanh lơ tuột sã, sao mà đau khổ, cái đau khổ không còn trẻ dại nữa; Đavưđốp chỉ còn biết kêu lên một tiếng cắm cổ bước vội ra ngoài.

Rời làng ra đi, đến cuối ngày thứ ba thì anh trở về Grêmiatsi Lốc.

Khuya rồi mà Nagunốp và Radơmiốtnốp vẫn còn ngồi ở ban quản trị đợi anh. Nagunốp lầm lầm bắt tay anh, và cũng lầm lầm như thế, nói:

- Xêmiôn ạ, mấy hôm nay cậu làm gì mà mất mặt suốt: lên huyện chán rồi lại lên khu… Có việc gì quan trọng thế mà phải đi Milêrôvô?

- Khi nào cần mình sẽ báo cáo. Ở nhà có gì mới không?

Radơmiốtnốp không đáp, mà lại hỏi:

- Dọc đường cậu có để ý xem lúa không? Trên ấy đã chín chưa?

- Đại mạch có đám gặt được rồi, nhưng cũng còn chín lỏi, lúa mạch đen cũng vậy. Nhưng theo mình thì mạch đen có thể gặt đại trà được rồi, nhưng không hiểu sao các ông hàng xóm của ta vẫn lề mề.

Radơmiốtnốp như nói một mình:

- Thế thì ta cũng chẳng đi đâu mà vội. Nắng ráo thì xanh một tí cũng gặt được, nó sẽ chín tiếp khi còn để lại trên ruộng. Nhưng ngộ mưa thì sao? Mưa thì hỏng bét.

Nagunốp đồng ý với anh:

- Đợi ba ngày thì cũng được thôi, nhưng hết ba ngày thì liệu lăn xả vào mà gặt, bằng cả tay cả răng, không thì huyện ủy sẽ ăn thịt cậu đấy, Xêmiôn ạ Còn mình và Anđrây thì họ băm chả làm đồ nhắm… Nhân tiện, mình cũng có tin mới bảo các cậu: mình có một anh bạn đồng ngũ hiện công tác ở nông trang quốc doanh, và hôm qua mình đã đến thăm hắn. Từ lâu rồi hắn cứ mời mình đến chơi, nhưng chả lúc nào đi được. Hôm qua mình mới quyết. Mình nghĩ bụng: ta đến chơi hắn một hôm, vừa là thăm bạn, vừa là nhân thể xem cái máy cày nó thế nào. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa được thấy bao giờ, nên cũng tò mò muốn thấy! Họ đang cày đất hưu canh và ngày hôm ấy mình cứ lang thang ngoài đồng suốt. Chà, cái máy kéo Phorđxơn ấy, phải nói là hay ra phết, các cậu ạ! Đất hưu canh thì có cày nhanh như ngựa chạy nước kiệu ấy. Nhưng đất hoang ở chỗ vòng thì khổ thân nó, nó không đủ sức. Nó chồm lên như một con ngựa chưa thuần gặp chướng ngại vật. Nó dựng đứng lên một lúc, rồi lại buông phịch bánh xuống đất, vòng trở lại đi cày đất hưu canh, chứ đất hoang thì nó chịu… Nhưng nông trang ta có được đôi ngựa ấy thì dẫu sao vẫn cứ hay, mình nghĩ như thế và lúc nào đầu óc cũng lởn vởn cái ý nghĩ ấy. Một cơ sở sản xuất thì rất nên có cái của ấy! Mình mê mải với nó, chẳng còn lúc nào ngồi uống với ông bạn cốc rượu. Mình ở cánh đồng của họ về thẳng nhà.

- Nhưng cậu định đi tham quan Trạm máy kéo Martưnốpxkaia cơ mà? – Radơmiốtnốp hỏi.

- Trạm máy kéo với nông trang thì có gì khác nhau? Đâu thì cũng vẫn là cái máy cày ấy. Hơn nữa lại xa, mà mùa màng thì đến đít rồi.

Radơmiốtnốp nheo nheo mắt ranh mãnh:

- Thú thật là mình đã nghi oan cho cậu, Maka ạ, mình cứ tưởng cậu đi Martưnốpxkaia rồi tạt qua Sakhơtư thăm Luska…

- Mình đấm thèm vào! – Nagunốp nói dứt khoát. – Nếu là cậu thì chắc cậu đi đấy, mình đi guốc vào bụng cậu!

Radơmiốtnốp thở dài:

- Cô ấy mà là vợ cũ của mình, thì không những nhất định mình đến thăm mà còn ở lỳ với cô ta ít ra là một tuần lễ! – Rồi nói tiếp, bây giờ thì bằng giọng khôi hài: - Mình đâu phải loại anh hùng rơm như cậu!

- Mình đi guốc vào bụng cậu, - Nagunốp nhắc lại. Rồi ngẫm nghĩ một tí, anh nói tiếp: - Còn mình thì đâu phải loại lẵng nhẵng bám đít đàn bà như cậu, đồ quỷ mê gái!

Radơmiốtnốp nhún vai:

- Mình đã sống cảnh góa vợ mười ba năm nay. Cậu còn muốn gì mình nữa?

- Thế cho nên cậu mới lẵng nhẵng bám đít đàn bà chứ gì!

Sau một phút im lặng, Radơmiốtnốp nói nhỏ, và bây giờ thì bằng một giọng hoàn toàn đứng đắn:

- Mà có lẽ trong mười hai năm nay mình vẫn yêu một người, cậu không biết à?

- Cậu ấy ư? Còn lâu mình mới tin cậu!

- Chỉ một người thôi.

- Hay lại là Maria Poiarkôva?

- Là ai thì không việc gì đến cậu, và cậu cũng đừng nhảy chồm chồm vào đời tư người khác! Có thể là bữa nào say bí tỉ mình sẽ kể cậu biết ai là người mình đã yêu và đến bây giờ vẫn đang yêu, nhưng… Maka ạ, cậu là người lạnh như băng giá, chả hơi đâu mà tâm sự với cậu. Cậu đẻ vào tháng nào nhỉ?

- Tháng Chạp.

- Mình cũng đoán như vậy. Chắc là một hôm ra cái lỗ cuốc trên mặt băng lấy nước, bà cụ đã đẻ rơi cậu ngay trên mặt băng, vì thế cho nên suốt đời cậu lúc nào cậu cũng toát ra hơi băng. Vậy thì tâm sự với cậu làm gì cho hoài hơi?

- Còn cậu thì đẻ ra trên miệng hỏa lò đang cháy phải không?

Radơmiốtnốp nhận luôn:

- Có vẻ thế lắm! Vì vậy lúc nào mình cũng toát ra hơi ấm, như những hôm gió hanh nóng. Còn cậu thì khác.

Nagunốp ngán ngẩm nói:

- Chuyện chán bỏ mẹ! Xin đủ cái chuyện gái ấy thôi, thà để thời giờ mà bàn chuyện phân công ai xuống đội nào để đôn đốc chuẩn bị cho vụ gặt.

Radơmiốtnốp phản đối:

- Không được, chuyện đang nói dở thì cứ nói nốt, còn việc ai xuống đội nào thì thiếu gì lúc bàn. Maka ạ, chuyện như thế này, cậu thử bình tĩnh phân tích mình nghe: cậu bảo mình là mê gái, nhưng lúc này làm sao lại có thể mê gái được nếu như mình sắp mời cả hai cậu đến dự đám cưới mình?...

- Lại còn đám cưới gì nữa thế nhỉ? – Nagunốp nghiêm khắc hỏi.

- Đám cưới mình lấy vợ chứ còn đám cưới gì! Bà cụ mình già lắm rồi, lo việc nhà không nổi nữa và bắt mình lấy vợ.

- Và cậu nghe bà cụ chứ gì, đồ khỉ già? – Nagunốp không giấu nổi cơn phẫn nộ ghê gớm của mình.

Radơmiốtnốp làm vẻ nhũn như chi chi, đáp:

- Thì mình biết làm thế nào được, hả cậu ơi?

- Đồ ngu khổ khu sở! – Rồi trầm ngâm gãi gãi cuống mũi, Nagunốp kết luận: - Xêmiôn ạ, mình với cậu đến phải thuê chung một gian buồng, ở chung với nhau cho đỡ buồn. Và trước cửa ta sẽ viết: “Dành riêng cho những người không thèm lấy vợ”.

Đavưđốp vội đáp luôn:

- Ý đồ ấy thì không thành rồi, Maka ạ. Mình đã hỏi vợ và chính vì thế mà mình đi Milêrôvô đấy.

Nagunốp đưa con mắt dò xét nhìn hết Đavưđốp lại đến Radơmiốtnốp, cố hiểu xem hai người nói đùa hay nói thực, rồi anh từ từ đứng dậy, hai lỗ mũi nở phồng, thậm chí mặt hơi tái đi vì xúc động.

- Các cậu có hóa dại không đấy thì bảo? Mình hỏi các cậu lần cuối cùng: các cậu nói thế là nói thực hay là định nỡm tôi? – Nhưng chẳng đợi trả lời, anh quyết liệt nhổ toẹt một bãi xuống dưới chân, rồi chẳng chào ai, lừng lững đi ra.

CHƯƠNG XXVI

Buồn đến mụ mẫm người, và tinh thần mỗi ngày một sa sút vì cái cảnh ăn không ngồi rồi bắt buộc, Pôlốptxép và Liachépxki vẫn tiếp tục giết thời gian hết ngày này qua đêm khác trong gian phòng xép chật chội nhà Iakốp Lukits.

Thời gian gần đây không hiểu sao các chuyến liên lạc đã thưa hẳn đi, và các lời hứa hẹn tràn đầy hy vọng của tổng hành dinh khởi nghĩa gửi cho chúng trong những phong bì nom sơ sài nhưng niêm phong rất cẩn thận, từ lâu nay đã mất hết tác dụng đối với chúng…

Pôlốptxép xem ra chịu đựng khá hơn cái cảnh tù túng kéo dài thế này, thậm chí bề ngoài y có vẻ lại càng phớt tỉnh. Nhưng Liachépxki thì thỉnh thoảng lại lên cơn, mỗi lần một kiểu khác nhau. Lần thì suốt mấy ngày liền y không nói một câu, cứ ngồi nhìn bức tường trước mặt bằng con mắt mất hết thần sắc. Lần thì y trở nên đặc biệt ba hoa, nói nhiều đến chối tai, không chịu nổi, và những lúc ấy, mặc dầu nóng bức, Pôlốptxép lại lấy chiếc áo burka (*) trùm kín đầu, chốc chốc trong bụng lại sôi lên một ý muốn gần như không nén nổi, ý muốn đứng bật dậy, rút kiếm ra khỏi vỏ, thẳng cánh chém một nhát xuống cái đầu chải chuốt nắn nót của Liachépxki. Rồi một lần, trời vừa đổ tối Liachépxki đã biến đi đâu lúc nào không biết, gần sáng mới mò về, ôm theo một bó hoa tướng ướt đẫm sương.

Suốt đêm hôm ấy Pôlốptxép không chợp được mắt, trong bụng lo sốt vó vì tên đồng đảng mất tăm, tai vểnh lên nghe mỗi lần có tiếng động dù là rất nhỏ từ bên ngoài vọng vào. Liachépxki đi chơi về nom phấn khởi, vui vẻ, toàn thân toát ra cái tươi mát của đêm khuya. Y xách ở ngoài hiên vào một xô nước, thận trọng thả hoa vào đó. Gian phòng bí hơi sực lên hương thơm ngây ngất của những bông hoa pêtunhia (**), hoa thuốc lá, hoa đổng thảo và những hoa gì nữa Pôlốptxép không biết tên, và lúc ấy đã xảy ra một chuyện bất ngờ: Pôlốptxép, viên quan ba kỵ binh lòng gang dạ sắt ấy, sau khi hít mạnh đầy lồng ngực những hương hoa lâu ngày rồi đã quên, bỗng òa khóc… Nằm trên cái giường hôi hám, trong bóng tối trước lúc bình minh, y đưa hai bàn tay nhơm nhớp mồ hôi lên ôm mặt, và khi những cơn nức nở bắt đầu làm y nghẹt thở, y vùng mạnh quay phắt vào tường, cắn chặt răng vào góc gối.

Liachépxki đi chân đất, nhẹ bước đi đi lại lại trên mặt sàn âm ấm của gian phòng xép. Cái phong cách tế nhị lịch thiệp của thuở ngày xưa thức tỉnh lại trong con người y, và y huýt sáo rất nhẹ một khúc nhạc ôperetta, làm ra vẻ như không nghe, không trông thấy gì…

Mười một giờ trưa, choàng tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngắn nhưng nặng chĩu, Pôlốptxép định mắng cho Liachépxki một trận tàn nhẫn về chuyện tự ý bỏ đi chơi, nhưng lại chỉ nói:

- Phải thay nước trong xô đi… kẻo hoa héo mất.

Liachépxki vui vẻ đáp:

- Xin chấp hành ngay tắp lự.

Y xách vào một bình nước giếng mát lạnh, còn nước ấm trong xô thì đem vẩy sàn.

- Anh lấy hoa này ở đâu thế? – Pôlốptxép hỏi.

Ngượng ngùng vì cơn yếu đuối của mình, xấu hổ vì những giọt nước mắt y đã khóc lúc ban đêm, y quay mặt nhìn đi chỗ khác.

Liachépxki nhún vai:

- Nói “lấy” thì lịch sự quá, ngài Pôlốptxép ạ. Phải nói là “ăn cắp”, nghe chối tai đấy, nhưng đúng hơn. Tôi đang đi tha thẩn quãng trường học thì ngửi thấy đúng mùi thần tiên thơm ngào ngạt, tôi liền vượt hàng rào vào vườn nhà lão giáo Spưn, vặt trụi đi một nửa hai luống hoa đem về để phần nào làm cho cuộc sống khốn nạn của chúng ta đỡ tẻ nhạt. Tôi xin hứa từ nay sẽ cung cấp cho ngài đủ hoa tươi.

- Ấy chớ!

- Tôi nhận thấy ông cũng chưa hoàn toàn mất hết những tính người, - Liachépxki nói nhỏ, giọng ám chỉ, và nhìn Pôlốptxép chòng chọc.

Tên này nín thinh, làm ra vẻ không nghe thấy…

Hai đứa mỗi tên giết thời giờ một cách. Pôlốptxép thì ngồi bên bàn hàng giờ liền bói bài, mấy ngón tay chuối mắn sờ vào những quân bài cáu bẩn, mặt nhăn lại ghê tởm. Còn Liachépxki thì ngồi giường đọc lại lần thứ hai mươi rồi chứ không ít cuốn sách độc nhất y có trong tay, cuốn Qua vadis của Xienkêvits, thưởng thức từng chữ một của cuốn tiểu thuyết ấy.

Đôi lúc Pôlốptxép quẳng bài đấy, ngồi xếp bằng tròn dưới sàn, trải miếng bạt ra, lấy khẩu trung liên mà không cần lau lại cũng đã sạch bóng tháo ra, lau lại, chùi sạch từng bộ phận, rồi bôi mỡ, cái mỡ lau súng đã chảy ra vì nhiệt độ của căn phòng. Sau đó lại thủng thỉnh lắp khẩu súng vào, ngồi ngắm nghía, cái đầu trán dô nghiêng bên nọ, nghiêng bên kia. Rồi thở dài một cái, y bọc khẩu súng vào mảnh vải bạt ấy, đem cất cẩn thận dưới gầm giường, lấy băng đạn ra lau, lắp đạn trở lại, và ngồi vào bàn, rút ở dưới đệm ra cây kiếm sĩ quan, thử lưỡi kiếm vào móng tay cái, rồi cầm hòn đá mài khô thận trọng liếc qua vài cái vào lưỡi thép ánh lên một ánh mờ mờ. “Như lưỡi dao cạo!” – y hài lòng lẩm bẩm.

Những lúc như thế, Liachépxki lại gấp sách lại, nheo nheo con mắt độc nhỡn, mỉm một nụ cười cay độc:

- Tôi lấy làm lạ, hết sức lấy làm lạ vì cái bệnh tình cảm ngớ ngẩn của ngài! Việc gì mà ngài phải nâng niu con dao thái thịt của ngài như một thằng ngốc nâng niu một đồ cổ giả thế? Ngài nên nhớ rằng bây giờ là năm ba mươi rồi và thời đại của những thanh kiếm, xà mâu, gươm giáo và mọi thứ đồ sắt rèn khác đã vĩnh viễn qua rồi. Ngài thân mến ạ, trong cuộc chiến tranh vừa qua, quyết định hết thảy là pháo binh chứ không phải là lính tráng cưỡi ngựa hoặc không cưỡi ngựa. Và pháo binh cũng vẫn sẽ quyết định kết quả những trận đánh và những cuộc chiến tranh tương lai. Là một pháo thủ già đời, tôi xin khẳng định với ngài một cách hết sức dứt khoát như vậy!

Pôlốptxép, như thường lệ, le lé mắt nhìn Liachépxki, rít răng lại nói:

- Thế anh định khởi sự bằng gì? Ngay từ đầu bằng hỏa lực lựu pháo hay bằng lính tráng cầm kiếm? Anh cứ đưa tôi dù chỉ một khẩu đội bảy nhăm mà thôi, tôi cũng sẽ sẵn sàng trao ngay thanh kiếm của tôi cho mụ vợ Ôxtơrốpnốp. Nhưng nếu không có thì anh hãy im mồm đi, đồ quý tộc bẻm mép ạ! Nghe anh lải nhải mà tôi buồn nôn. Những chuyện về vai trò pháo binh trong chiến tranh vừa qua, anh hãy đem kể cho các cô tiểu thư quý tộc Ba Lan, chứ đừng kể với tôi. Và nói chung, anh luôn luôn kiếm cơ hội ăn nói với tôi bằng cái giọng ngạo mạn, nhưng thưa ngài đại diện của nước Ba Lan vĩ đại, tôi báo cho ngài biết là không xong đâu. Cái giọng của ngài, và những câu chuyện rông dài của ngài không ngửi được. Tiện đây, tôi nói cho ngài biết là những năm hai mươi người ta đã nói về cái tổ quốc của ngài như sau: “Nước Ba Lan chưa chết, nhưng đã thối hoắc mùi tử thi…”.

Liachépxki thốt lên bằng giọng làm ra bi đát:

- Lạy Chúa, một sự nghèo nàn về trí tuệ đến khủng khiếp! Hết quân bài lại lưỡi kiếm, hết lưỡi kiếm lại quân bài… Nửa năm nay không thấy ngài đọc được lấy một chữ in nào. Ngài đã trở lại mọi rợ rồi! Thế mà ngài đã có hồi nào cũng dạy trường trung học cơ đấy…

- Tôi đi dạy học là do tình thế bắt buộc, thưa ngài quý tộc Ba Lan yêu quý ạ! Ngậm đắng nuốt cay mà dạy học đấy!

- Hình như ông Tsêkhốp của các ngài có một mẩu chuyện về dân kôdắc như thế này: ở một ấp nọ có một tay địa chủ kôdắc vô học có hai anh con lớn đần độn suốt ngày chỉ làm có độc một việc là một anh bắt gà trống trong chuồng ra tung hê lên trời để anh kia cầm súng bắn. Và cứ như thế hết ngày này sang ngày khác. Chẳng đọc sách, chẳng có một nhu cầu văn hóa nào, chẳng một mảy may quan tâm gì đến các giá trị tinh thần… Đôi lúc tôi thấy hình như ngài là một trong hai anh con trai ấy thì phải… Hay tôi lầm?

Pôlốptxép chẳng buồn trả lời, hà hơi lên lưỡi thép ánh lên một màu chết chóc của thanh gươm, ngồi nhìn vệt hơi nước xanh xanh lan ra rồi tan dần đi. Rồi y lấy vạt áo Tônxtôi xám của y lau sạch lưỡi kiếm và thận trọng, thậm chí với một vẻ trìu mến, đút thanh kiếm vào trong cái vỏ đã sờn, nhẹ nhàng, không nghe thấy một tiếng cọ xát.

--------------

(*) Burka: Một kiểu áo bành tô dạ thường mặc  ở vùng Cápcadơ. ND.

(**) Pêtunhia: một giống hoa cánh to, nhiều màu. ND.

* * *

Nhưng không phải những cuộc chuyện trò nổ ra bất ngờ và những lời châm chọc lẫn nhau ấy bao giờ cũng kết thúc êm ả như thế. Gian phòng ít khi được mở cửa, bí hơi đến ngột ngạt; thời tiết ngày càng nóng bức làm cho cuộc sống khốn khổ khốn nạn của chúng tại nhà Ôxtơrốpnốp càng trở nên khó chịu. Và càng ngày càng có nhiều lúc Pôlốptxép đang nằm trên cái giường nhớp nháp và sặc mùi mồ hôi, nhảy bổ xuống đất, nén giọng lại mà gầm lên: “Như cái nhà tù! Ta đến chết rục trong cái nhà tù này mất!”. Rồi ngay cả ban đêm, ngủ mê y cũng luôn luôn nhắc đến cái tiếng nặng nề ấy, cho đến lúc Liachépxki phát sốt ruột, phải bảo y:

- Ngài Pôlốptxép ạ, nghe có thể tưởng như trong cái vốn từ vựng đã quá nghèo nàn của ngài chỉ còn giữ lại được có độc một tiếng “nhà tù”. Nếu ngài mê cái tổ chức từ thiện ấy thì tôi thực tình khuyên ngài: ngài hãy lên GPU huyện ngay hôm nay đi, và đề nghị họ cho vào tù nghỉ mát tối thiểu là hai chục năm gì đó. Tôi cam đoan với ngài đề nghị ấy sẽ không bị họ khước từ đâu!

- Cái ấy gọi là cái gì nhỉ? Tiếng Ba Lan gọi là một câu pha trò có duyên phải không? – Pôlốptxép mỉm cười méo xệch, nói.

Liachépxki nhún vai:

- Ngài thấy nó nhạt quá chăng?

- Tôi thấy anh là một con vật, - Pôlốptxép hờ hững nói.

Liachépxki lại nhún vai cười gằn:

- Có thể lắm. Tôi sống bên cạnh ngài lâu quá rồi cho nên nếu có mất hết tính người thì cũng chẳng lấy gì làm lạ…

Sau cuộc đụng chạm ấy, suốt ba ngày ba đêm chúng không nói với nhau một lời. Nhưng đến ngày thứ tư thì xảy ra một chuyện làm chúng bắt buộc phải nói…

Sáng sớm hôm ấy, Iakốp Lukits còn chưa ra trụ sở thì có hai người lạ mặt bước vào sân. Một người mặc áo mưa vải sơn mới tinh, còn người kia thì mặc chiếc áo choàng vải thô lem luốc, có mũ trùm. Người thứ nhất cắp nách một cái cặp to, phồng căng, còn người thứ hai thì vắt vai một chiếc roi ngựa, cán roi kết ngù có dây da nom rất sang. Theo đúng điều quy định với nhau từ lâu, Iakốp Lukits nhìn qua cửa sổ thấy có người đến, bước vội vào hiên trong gõ hai tiếng thong thả vào cửa phòng xép hai tên ở, rồi lững thững bước ra thềm, chân bước tay vuốt ria.

- Bà con đến tìm tôi phải không ạ? Cần lấy cái gì ở kho nông trang chăng? Các vị là ai? Người ở đâu đến?

Người béo mập cầm cặp mỉm cười niềm nở, hai má phinh phính lúm xuống hai đồng tiền như má đàn bà, đưa tay lên vành chiếc mũ cátkét đã sờn, nói:

- Bác là gia chủ đây phải không? Xin chào bác Iakốp Lukits. Bà con láng giềng nhà ta giới thiệu chúng tôi sang gặp bác. Chúng tôi đi thu mua gia súc, tiếp phẩm cho anh em thợ mỏ, để anh em bồi dưỡng, như người ta thường nói. Chúng tôi trả giá cao, cao hơn giá thu mua nhà nước quy định một chút. Chúng tôi trả giá cao là vì phải cho anh em thợ mỏ ăn tử tế một tí và không được gián đoạn. Bác là quản lý nông trang, chắc bác hiểu nhu cầu của chúng tôi… Nhưng chúng tôi không mua gia súc của nông trang đâu, chúng tôi chỉ mua gia súc riêng của nông trang viên thôi, và của bà con cá thể nữa. Chúng tôi nghe nói bác có con bò cái tơ. Bác có bán không? Về giá cả chúng tôi không cò kè đâu, và tiền nào của ấy.

Iakốp Lukits nín thinh một lát, đưa tay gãi gãi lông mày nghĩ ngợi, tính nhẩm trong bụng là nếu bán được cho những anh tiếp phẩm dễ tính thì hời đây, lại khỏi phải lê la ngoài chợ. Rồi lão trả lời như đa số những nông dân thạo mua bán thường trả lời:

- Bò cái tơ để bán thì nhà tôi chả có.

- Có lẽ bác cứ cho xem, may ra chúng ta đồng ý với nhau được giá đây. Tôi xin nhắc lại lần nữa, chúng tôi sẵn sàng trả giá hời một tí.

Iakốp Lukits lại im lặng một phút, đưa tay lên vuốt ria mép, rồi để cho có vẻ quan trọng, chậm rãi nói, như nói với mình:

- Kể ra bò cái tơ thì nhà tôi cũng có một con đấy, mà lại béo tốt, nom rất là mỡ màng! Nhưng chúng tôi cũng cần giữ nó, vì con mẹ già rồi, phải thay, mà giống này thì tốt sữa, tốt bơ, tốt lắm cơ. Không, các đồng chí tiếp phẩm ạ, nhà tôi không bán đâu!

Người béo mập cầm cặp thất vọng thở dài:

- Đành vậy, bán hay không là ở gia chủ… Thôi thế xin lỗi bác, chúng tôi đi mua nhà khác vậy, - và một lần nữa anh ta lại vụng về đưa tay lên chiếc lưỡi trai mũ nhàu nát, rồi đi ra.

Anh chàng dắt bò nom lực lưỡng, cổ cày vai bừa, cũng bước ra theo sau, tay vung vẩy cái roi, mắt lơ đãng nhìn đảo một lượt cái sân, mấy gian nhà ở, mấy cửa sổ, và khung cửa con đóng kín mít của gian buồng áp mái…

Đến đây thì máu tham của Iakốp Lukits không nén được nữa. Để cho hai ông khách ra đến cổng ngoài, lão lại réo gọi người béo mập:

- Này, đồng chí tiếp phẩm ơi. Quay lại tí đã! Đồng chí trả bao nhiêu một cân hơi.

- Cái đó ta sẽ bàn. Nhưng tôi đã nói với bác là giá cả thì chúng tôi không cò kè đâu, và chúng tôi được tự quyền chi. Tiền chúng tôi không nhiều đâu, nhưng cũng không đến nỗi thiếu, - người béo mập dừng lại ở cổng đợi và đưa bàn tay phốp pháp vỗ vỗ lên cái cặp nom cũng phốp pháp, có ý khoe.

Iakốp Lukits bước từ trên thềm xuống với vẻ dứt khoát:

- Nào ta đi xem bò, trong khi nó chưa đi nhập đàn. Nhưng xin các đồng chí nhớ cho là rẻ thì tôi không bán đâu đấy. Nể các đồng chí quá, vì thấy các đồng chí dễ dãi, không bủn xỉn như những tay con buôn. Những loại con buôn bủn xỉn ấy thì đừng hòng đặt chân vào nhà tôi!

Cả hai anh lái thịt xem xét và sờ nắn con bò rất kỹ lưỡng, xoi mói bới lông tìm vết, sau đó người béo mập mặc cả róng riết, còn người cầm roi xem vẻ chán ngấy cái trò ấy, miệng thổi sáo, chân bước lang thang sân trước sân sau, mắt thì đưa đảo ngó hết chuồng gà, đến cái chuồng ngựa bỏ không, ngó khắp, kể cả những chỗ không nên ngó đến… Và lúc ấy Iakốp Lukits mới như chợt bừng tỉnh: “Ôi, lạy Chúa, họ vào đây chưa chắc đã phải để mua bò đâu!”.

Lão lập tức đồng ý bớt bảy mươi lăm rúp, nói:

- Thôi được, để bồi dưỡng các đồng chí thợ mỏ thì tôi cũng sẵn lòng bán thiệt một chút vậy. Bây giờ xin lỗi các đồng chí, tôi phải ra trụ sở, không tiếp các đồng chí được. Các đồng chí dắt bò đi ngay bây giờ chứ? Thế thì cho xin tiền ngay đi!

Người béo mập đứng bên cửa nhà kho, nhấp nước bọt ngón tay, dềnh dàng đếm tiền, thêm mười lăm rúp vào số tiền đã ngã giá, rồi nháy mắt một cái bắt tay Iakốp Lukits đang nóng ruột như bào:

- Thế nào, mua bán xong xuôi rồi ta cũng phải làm một chai chứ hả bác Iakốp Lukits? Nghề mua bán của chúng tôi là lúc nào cũng phải có tí chất cay trong túi để khao mà! – Và vẫn dềnh dàng như thế, anh ta rút trong túi ra một chai vốtka còn nguyên tem ánh lên mờ mờ dưới nắng sớm.

Iakốp Lukits làm ra vẻ hồ hởi đáp:

- Để đến tối, các bác ơi, đến tối! Tối tôi rất lấy làm vui mừng được ngồi tiếp các bác một cốc. Cái chất tươi đóng chai bác vừa giơ ra ấy thì ở nhà chúng tôi đây cũng có, nhờ trời chúng tôi cũng chưa đến nỗi kiết xác, còn bây giờ thì các bác thứ lỗi cho: sức khỏe tôi bắt tôi phải kiêng rượu buổi sáng, thêm nữa công việc bận, tôi còn phải ra trụ sở. Xẩm tối mời các bác đến, ta sẽ chạm cốc mừng cho con bò nhà tôi.

- Ít ra thì bác cũng mời chúng tôi vào nhà nếm thử cốc sữa của con bò mẹ chứ nhỉ, - người béo mập cười tươi roi rói hai má lúm đồng tiền, nắm lấy khuỷu tay Iakốp Lukits nói như năn nỉ.

Nhưng Iakốp Lukits vẫn không đổi ý kiến. Toàn thân lão co lại trong một quyết tâm căng thẳng đến tột độ, và lão trả lời với nụ cười có phần nào khinh bỉ:

- Các ngài ạ, dân kôdắc chúng tôi có cái lệ là không phải khách muốn vào thăm lúc nào thì đến, mà khi được chủ mời mới vào. Ở chỗ các vị khác thế chăng? Nhưng nhập gia tùy tục, các vị ạ: tối ta sẽ gặp nhau, đồng ý chứ? Sáng sớm chả nên nhiều lời. Thôi, xin chào!

Quay lưng lại hai ông khách mua, và cũng chẳng thèm ngó đến con bò mà người to lớn lực lưỡng đang đủng đỉnh tròng dây, Iakốp Lukits lắc lư người, ì ạch bước lên thềm. Tay trái nắm lấy ngang lưng, lão ề à, giả vờ rên lên một tiếng, bước lên từng bậc một. Nhưng vào tới trong hành lang thì lão thôi hết mọi cái vờ vịt, tay ôm ngực đứng độ một phút, mắt nhắm lại, đôi môi tái nhợt thều thào: “Mả cha chúng bay!”. Rồi cơn đau nhói ở tim lão dịu đi, đầu cũng hết choáng váng. Iakốp Lukits đứng độ một lát nữa, rồi gõ cửa buồng Pôlốptxép, lễ phép nhưng kiên trì.

Bước qua ngưỡng cửa, lão mới kịp nói: “Khốn rồi, ngài ơi!...” – thì liền lúc đó như dưới một ánh chớp lóe lên giữa đêm dông bão, lão trông thấy một nòng súng lục chĩa vào lão, cái hàm răng bạnh và nhô ra đằng trước của Pôlốptxép, con mắt trừng trừng nhìn không chớp của y, và anh chàng Liachépxki ngồi trên giường trong một  dáng điệu vụng về, hai bả vai tựa chặt vào vách, với khẩu trung liên kê trên hai đầu gối hơi chồng lên, cái nòng súng chĩa ra cửa, ngay tầm ngực Iakốp Lukits… Tất cả những cái đó, Iakốp Lukits đã thoáng thấy như trong giây lát một quầng sáng lóe lên chói lòa, kể cả cái nụ cười của Liachépxki và cái ánh long sòng sọc trong con mắt độc nhỡn của y, trong khi đó thì tai lão nghe thấy như vọng từ xa lại:

- Ông chủ thân mến ơi, ông rước ai về nhà ông thế vậy?

Iakốp Lukits đang lúc rối bời, không nhận ra tiếng nói ấy của ai, cứ như đó là tiếng của một người thứ ba nào đó, vô hình, một tiếng nói hổn hà hổn hển, xen những tiếng rin rít. Một sức mạnh không lệ thuộc vào lão đã buộc lão biến đổi hẳn đi trong khoảnh khắc: hai cánh tay lão đang ở tư thế nghiêm buông thẳng cứng dọc theo nẹp quần bỗng trùng lại ở hai khuỷu, toàn thân lão mềm nhũn, rủ xuống. Nhưng lão cất tiếng nói, và lời lão nói, mặc dầu không mạch lạc gì và bị ngắt quãng, đã nghe là một giọng khác:

- Tự họ dẫn xác đến chứ tôi đâu có rước ai về. Và các ngài ơi, các ngài còn định quát tháo hành hạ tôi như quát tháo một thằng nhãi ranh thế này đến bao giờ nữa mới thôi? Tôi không thể chịu được nữa rồi! Tôi nuôi không các ngài ăn, mua rượu các ngài uống, hầu hạ các ngài đủ vành. Mẹ con nhà nó thì giặt rũ quần áo các ngài, thổi nấu các ngài xơi mà không đòi lấy một xu… Giết tôi thì các ngài có thể làm lúc nào cũng được, ngay lập tức cũng được, nhưng sống mà có các ngài ở trong nhà như thế này thì gay go quá chừng! Và con bò cái tơ tôi đã đành bán lỗ vốn đi vì cũng phải có cái gì mời các ngài xơi chứ? Chả lẽ quan lớn như các ngài mà tôi toàn mời xúp suông mãi, nhất thiết cũng phải có tí thịt mới coi được. Các ngài lúc nào cũng đòi rượu vốtka… Và khi mấy cái thằng khách không mời mà đến ấy dẫn xác vào nhà, tôi cũng đã báo trước các ngài rồi, và về sau, vừa mới phát hiện ra chúng chỉ là đóng giả khách mua thôi, tôi đã quay đít đi ngay: “Thôi được, con bò tôi biếu không các vị đấy, nhưng các vị hãy đi khỏi đây nhanh lên!”. Ấy thế mà các ngài lại còn… Ôi, nói với các ngài mà làm gì? – Iakốp Lukits khoát tay một cái tuyệt vọng, rồi áp ngực vào khung cửa, hai tay ôm mặt.

Pôlốptxép, từ lâu nay sinh ra có thái độ dửng dưng một cách lạ lùng, bỗng nói bằng một giọng mất hẳn thần sắc:

- Ông Liachépxki ạ, lão già nói có lý đấy. Xem chừng động rồi, chúng ta phải chuồn khỏi nơi này thôi, trong khi còn chưa muộn. Ý kiến ông thế nào?

- Phải đi ngay hôm nay, - Liachépxki phát biểu dứt khoát và thận trọng đặt khẩu trung liên xuống đống chăn gối nhàu nát.

- Nhưng còn liên lạc?

- Sau hẵng hay. – Liachépxki hất hàm chỉ Iakốp Lukits. Rồi quay sang phía lão, nói bằng giọng gay gắt: - Này, Iakốp Lukits, thôi cái trò đàn bà ấy đi! Ông hãy kể chúng tôi nghe xem đã nói chuyện gì với hai thằng lái buôn ấy. Chúng đã trả xong tiền chưa? Chúng có còn đến đây nữa không?

Iakốp Lukits khóc thút thít như trẻ con, xỉ mũi vào vạt chiếc áo sơmi buông thõng không thắt dây lưng, đưa mu bàn tay lên quệt mắt, quệt râu ria, rồi mắt chẳng nhìn lên, lão kể lại ngắn gọn đầu đuôi câu chuyện nói với hai người tiếp phẩm, về thái độ khả nghi của người dắt bò, không quên nhắc lại chuyện họ hẹn tối sẽ lại uống rượu ăn khao.

Pôlốptxép và Liachépxki nghe kể, cứ lẳng lặng đưa mắt nhìn nhau.

- Hay lắm! – Liachépxki cười bẳn, nói. – Nhà anh không nghĩ ra được cái trò gì khác là mời chúng nó đến chén à? Mả mẹ anh chứ sao ngu thế, tối như hũ nút!

- Tôi đâu có mời, tự chúng nó đến đấy chứ, mà lại còn định xộc vào nhà ngay lúc ấy nữa, tôi đã phải giở đủ trò để hoãn binh đến tối. Và thưa các ngài quan lớn, thật tôi cũng chả biết gọi các ngài thế nào, các ngài chửi mắng tôi, coi tôi là thằng ngu thế thì cũng không phải… Lạy Chúa, mả mẹ tôi dại gì mà lại mời chúng nó vào nhà trong khi các ngài còn ngồi lù lù ra đây? Để chúng nó treo cổ tôi lên cùng với các ngài à?

Đôi mắt rơm rớm của Iakốp Lukits ánh lên một ánh bực tức và lão nói tiếp bằng giọng đã hằn học ra mặt:

- Thưa các ngài sĩ quan, cho đến năm mười bảy, các ngài vẫn cho chỉ có các ngài là thông minh thôi, còn lính tráng và những dân lành kôdắc chúng tôi đều là những kẻ ngu ngốc cả. Bọn đỏ đã dạy cho các ngài một bài học, nhưng xem ra thì họ cũng chưa dạy được đến nơi đến chốn… Bài học và trận đòn ấy cũng chưa làm được cho các ngài mở mắt ra!

Pôlốptxép nháy mắt một cái với Liachépxki. Tên này cắn môi, lẳng lặng quay mặt ra phía khung cửa sổ buông rèm kín, còn Pôlốptxép thì bước tới sát người Ôxtơrốpnốp, đặt tay lên vai lão, cười đấu dịu:

- Này anh Iakốp Lukits, việc gì mà anh phải bực dọc vì những lời nói không đâu? Lúc nóng lên thì người ta bạ đâu nói đấy, ta cũng chả nên chấp nhặt từng câu từng lời. Anh nói cái này thì đúng này: hai thằng mua bò ấy là nhân viên tiếp phẩm thì chẳng khác nào tôi là giáo chủ vậy. Cả hai thằng đều là nhân viên công an cả. Ông Liachépxki đã nhận mặt được một thằng. Anh hiểu chưa? Chúng đang tìm chúng tôi, nhưng còn là tìm mò, cho nên chúng phải đóng giả cán bộ tiếp phẩm. Bây giờ thế này: từ giờ đến trưa, chúng tôi phải rời khỏi nơi đây, đi lẻ từng người một. Anh hãy đi tìm và giữ chân hai thằng ấy lại hai ba giờ gì đó tùy anh, và bằng cách nào cũng tùy anh. Anh có thể kéo chúng nó đến nhà một bà con nào đó trong đám chiến hữu của chúng ta hiện có mặt ở nhà, ngồi uống rượu và tán chuyện với chúng. Nhưng cầu Chúa giữ cho anh và anh chủ nhà kia là đừng có say lúy túy rồi mà phun ra hết! Tôi mà biết, tôi sẽ giết cả hai! Điều ấy anh nên nhớ cho kỹ! Và trong khi anh chuốc rượu kìm chân chúng thì chúng tôi bí mật theo đường khe sau nhà đây, luồn ra thảo nguyên. Và ra đến đấy rồi thì có thánh tìm được chúng tôi! Anh bảo thằng con anh ngay bây giờ đem thanh kiếm của tôi, khẩu trung liên, mấy băng đạn và cả hai khẩu súng trường của chúng tôi giấu kỹ trong kho chứa phân bò.

- Giấu khẩu súng trường của ngài thôi, khẩu của tôi tôi mang theo, - Liachépxki nói chen vào.

Pôlốptxép im lặng nhìn hắn, rồi nói tiếp:

-Tất cả những thứ ấy phải bọc kỹ trong cái chăn và bí mật đem vào trong kho, trước khi đem vào phải quan sát kỹ xung quanh đã. Tuyệt đối không được giấu một cái gì trong nhà. Có một yêu cầu này nữa với anh, nói cho đúng hơn là một mệnh lệnh: thư từ gửi đến đề tên tôi, anh cứ nhận, và nhận xong thì giấu ngay dưới cái cối đá đập lúa bên nhà kho. Ban đêm thỉnh thoảng chúng tôi sẽ rẽ qua xem. Rõ cả chưa?

Iakốp Lukits thều thào:

- Rõ.

- Thôi, anh đi đi, và đừng rời mắt hai cái thằng tiếp phẩm khỉ gió ấy! Đưa chúng nó đi đâu cách xa đây càng xa càng tốt, trong khoảng hai giờ là chúng tôi không còn đây nữa. Anh có thể mời chúng nó tối nay đến nhà. Giường này thì đem gác trên phòng áp mái, mở cửa buồng ra cho thoáng khí. Đem vài thứ đồ tầm tầm quẳng vào đây cho chúng khỏi ngờ, và nếu chúng yêu cầu, cứ cho chúng đi xem khắp nhà một lượt… và chắc chắn chúng sẽ kiếm cớ này cớ khác đòi đi xem nhà anh đấy… Chúng tôi đi độ một tuần rồi sẽ quay lại. Chuyện ăn uống vừa qua của chúng tôi anh đừng cằn nhằn! Tất cả chi phí của anh, tất cả những tốn kém anh phải chịu vì chúng tôi, sẽ được đền bù lại cho anh gấp bội khi sự nghiệp của chúng ta thắng lợi. Nhưng chúng tôi sẽ phải trở lại đây nữa, vì cuộc nổi dậy trong khu vực tôi phụ trách sẽ được khởi sự từ Grêmiatsi đây. Và giờ hành động sắp đến rồi! – Pôlốptxép trịnh trọng kết luận và ôm hôn Iakốp Lukits một cái vội vàng: - Thôi đi đi, anh bạn già, cầu Chúa phù hộ cho anh!

* * *

Cánh cửa vừa khép lại sau lưng Ôxtơrốpnốp thì Pôlốptxép ngồi vào bàn, hỏi:

- Ông đã gặp thằng nhân viên GPU ấy ở đâu? Ông có chắc chắn không nhớ nhầm không?

Liachépxki nhích ghế lại gần, cúi ghé vào Pôlốptxép và có lẽ đây là lần đầu tiên trong suốt thời gian chúng biết nhau, hắn nói bằng giọng không có chút mỉa mai châm biếm:

- Giêsu Maria! Tôi nhầm làm sao được! Cái thằng ấy thì tôi nhớ cho đến ngày xuống lỗ! Ngài có trông thấy má nó có cái sẹo không? Đó là tôi cầm dao găm xỉa cho nó khi nó đuổi bắt tôi đấy. Và mắt tôi, con mắt trái của tôi đây này, là tay nó đánh lòi ra trong khi tra hỏi tôi. Ngài có trông thấy nắm tay nó khiếp thế nào không? Chuyện đó xảy ra cách đây bốn năm, ở Kraxnôđa. Một con đàn bà đã làm phản, đi khai báo tôi, nhưng ơn bề trên, nó đã chết ngoẻo rồi! Tôi đang còn ngồi tù thì anh em ta đã phát hiện ra tội nó. Tôi vượt ngục được hai ngày thì nó đã phải đền tội. Con khốn nạn ấy, nó rất trẻ, và đẹp, một đứa con gái kôdắc Kuban, một con chó cái Kuban thì đúng hơn. Câu chuyện là như thế… Ngài có biết tôi đã vượt ngục thế nào không? – Liachépxki xoa xoa vào nhau hai bàn tay nhỏ khô khốc, mỉm cười mãn nguyện. – Trước sau đằng nào chúng cũng sẽ lôi tôi ra bắn. Tôi chẳng còn cái gì để mất nữa, cho nên tính kế liều, thậm chí phải dùng đến cái sách cũng hơi hèn hạ một tí… Đầu tiên tôi bịp bọn dự thẩm, khai mình là một tên lính tốt đen chẳng biết gì, thì chúng quẳng tôi vào xà lim cấm cố, giam rất nghiêm ngặt. Tôi bèn quyết định đi nước bài cuối cùng để mưu cách thoát: tôi khai ra một thằng kôdắc ở ấp Kôrênốpxkaia. Nó cũng ở trong tổ chức của ta, nhưng là khâu cuối của dây chuyền. Nó chỉ có thể khai thêm ba người nữa cùng làng mà thôi, vì ngoài ra nó không còn biết một ai khác trong chúng ta cả. Lúc ấy tôi nghĩ bụng: “Chúng sẽ đem bốn thằng ngu ngốc ấy ra bắn hoặc đưa đi đầy, nhưng mình sẽ thoát, và đối với tổ chức thì tính mệnh của riêng mình còn quan trọng bằng vạn lần tính mệnh của bốn con vật kia”. Phải nói ngài biết rằng trong tổ chức của ta ở Kuban, tôi đóng một vai trò không kém quan trọng. Có thể đánh giá vai trò ấy qua sự việc là từ năm hai mươi hai đến nay tôi đã vượt biên năm lần đi Pari gặp tướng Kuchêpốp. Thấy tôi khai ra bốn tên, lão dự thẩm đã nới tay với tôi: nó cho phép tôi được đi dạo tại sân trong cùng với các tù nhân khác. Tôi phải hành động ngay, không thể chậm trễ được. Điều ấy chắc ngài hiểu. Một buổi chiều, đi dạo chơi lẫn trong đám đầu trộm đuôi cướp Kuban bị án tử hình, ngay từ vòng đầu tôi đã để ý thấy có cái thang bắc tựa vào nhà chứa cỏ, có vẻ là mới được đặt đấy ít lâu gì đó thôi. Hồi ấy đang là mùa cắt cỏ và hàng ngày bọn công an vẫn chở cỏ về cho ngựa. Tôi đi một vòng nữa, hai tay chắp sau lưng, đúng như quy định. Sang vòng thứ ba, tôi điềm nhiên đi tới cái thang, mắt chẳng ngó nghiêng, rồi từ từ trèo lên thang, hai tay vẫn chắp sau lưng, như người làm xiếc… Tôi đã dự kiến rất chính xác, ngài Pôlốptxép ạ! Chính xác về mặt tâm lý. Ngẩn tò te trước sự táo tợn đến lạ lùng của tôi, bọn lính gác đã để cho tôi có đủ thời gian leo lên đến bậc thứ tám rồi mới có một đứa giật mình quát lên: “Đứng lại!”. Trong khi đó thì tôi đã bò rạp người chạy lên được hai bậc nữa, rồi như một con dê, nhảy phốc lên mái nhà kho. Súng bắn loạn xạ lên nhá, và gào thét, và chửi! Nhảy tiếp hai cái là đến mép mái nhà, và một cái nữa là xuống dưới đường. Thế là xong. Ngay sáng hôm ấy tôi đã có mặt ở Maikốp, trốn tại một cơ sở bí mật tin cẩn… Tên cái thằng hộ pháp đã làm tôi chột mắt ấy là Khigiơnhiắc. Hôm nay ngài đã trông thấy nó rồi đấy, cái tượng hộ pháp mặc quần ấy. Vậy thì ngài bảo làm sao tôi lại có thể để nó lọt khỏi tay tôi mà sống đàng hoàng được? Không, nó đã đánh tôi lòi một mắt thì tôi phải cho nó nhắm tịt cả hai mắt lại! Một đổi lấy hai!

- Ông điên rồi ư? – Pôlốptxép kêu thốt lên phản đối. – Vì tư thù mà ông định làm hỏng việc lớn hay sao?

- Ngài cứ yên trí. Tôi sẽ khử thằng Khigiơnhiắc và tên đồng chí của nó không phải ngay tại đây đâu, mà sẽ phục ở một quãng nào đó, cách ấp Grêmiatsi Lốc này xa. Tôi sẽ dựng lên một vụ giết người cướp của là xong thôi mà! Tiền của chúng tôi sẽ lấy. Anh lái buôn mà để bị cướp là anh lái buôn tồi… Khẩu súng của ngài cứ giấu, còn khẩu của tôi, tôi sẽ thủ vào áo đi mưa, mang theo. Ngài không nên nghĩ đến chuyện ngăn cản tôi. Ngài nghe ra chưa? Một khi tôi đã quyết là tôi làm! Tôi sẽ đi trước, ngài đi ra sau một lát. Thứ bảy này chúng ta sẽ gặp nhau vào lúc xẩm tối ở khu rừng cạnh ấp Tubianxki, bên bờ suối, nơi chúng ta đã gặp nhau lần trước. Xin chào ngài, ngài Pôlốptxép ạ! Những ngày ở đây chúng ta đã đi tới chỗ hơi quá đáng, hiểu theo nghĩa thần kinh bị mất thăng bằng, và phải thừa nhận là đôi lúc tôi đã đối xử với ngài không được xứng đáng.

- Thôi được rồi… Hoàn cảnh của chúng ta thì nên miễn những lời yếu đuối, - Pôlốptxép bối rối càu nhàu, tuy vậy vẫn ôm lấy Liachépxki, đặt môi lên cái trán tái nhợt của hắn với thái độ một người cha.

Liachépxki xúc động trước biểu hiện bất ngờ của tình bạn ấy, nhưng quay đi, không muốn để lộ ra là mình bồi hồi. Tay đã nắm lấy quả nắm cửa rồi, y nói:

- Tôi sẽ đem thằng Măcxim Kharitônốp bên Tubianxki đi theo. Nó có súng, hơn nữa nó là đứa có thể tin cậy được trong những lúc khó khăn. Ngài không phản đối chứ?

Pôlốptxép im lặng một lát, rồi đáp:

- Kharitônốp trước là hạ sĩ quan ở đại đội tôi. Chọn hắn là phải. Ông cứ đem hắn đi cùng. Không biết bây giờ hắn thế nào nhưng ngày xưa hắn là xạ thủ xuất sắc đấy. Tôi hiểu tâm trạng của ông. Ý ông thế, ông cứ tiến hành, nhưng tuyệt đối không được tiến hành ở lân cận Grêmiatsi Lốc, không tiến hành trong thôn xóm, mà phải chọn chỗ nào đó ngoài thảo nguyên…

- Xin vâng. Thôi, chào ngài.

- Chúc ông thành công.

Liachépxki bước ra hành lang, khoác lên vai chiếc áo dipun cũ của Ôxtơrốpnốp, ghé mắt nhìn qua khe cửa ra lối ngõ vắng tanh. Một phút sau y lững thững bước qua sân, khẩu cácbin kỵ binh kẹp bên sườn trái, rồi cũng lững thững như thế y đi khuất góc nhà kho. Nhưng vừa mới nhảy xuống cái kho sau nhà xong là lập tức y biến đổi hẳn: y xỏ tay mặc hẳn áo dipun vào, cầm khẩu cácbin ra tay, mở chốt an toàn, len lén men theo con đường lên dốc núi, dáng điệu như một con dã thú, mắt sắc sảo quan sát tứ phía, tai vểnh lên lắng nghe từng tiếng xào xạc nhẹ, và chốc chốc lại ngoái nhìn xuống cái xóm phía dưới kia còn đang chìm trong làn khói lam buổi sớm.

* * *

Hai ngày sau, vào buổi sáng thứ sáu, trên quãng đường giữa hai ấp Tubinaxki và Vôixkôvôi, cách khe Phong khoảng sáu chục mét, có hai nhân viên tiếp phẩm đã bị giết cùng với một con ngựa trong đôi ngựa kéo chiếc xe của họ. Người đánh xe, một anh kôdắc dân làng Tubianxki, đã chặt đứt dây thắng con ngựa còn lại, cưỡi lên nó chạy thoát về được Vôixkôvôi. Và anh ta đã đến Xôviết ấp trình báo sự việc.

Nhân viên cảnh vệ địa phương cùng với chủ tịch Xôviết, người đánh xe ngựa và mấy người làm chứng đã ra xem xét tại chỗ xảy ra vụ thảm sát, và đã xác định được diễn biến sự việc như sau: bọn cướp nấp ở trong rừng đã bắn ra khoảng mươi phát súng trường. Phát đầu tiên đã giết chết tươi người chăn bò cao lớn lực lưỡng có đôi vai rộng. Anh ta đã bị đạn bắn trúng tim và ngã sấp mặt từ trên xe xuống. Anh tiếp phẩm lùn mập đã hét lên bảo người đánh xe: “Phóng lên!” rồi giằng lấy roi ở tay anh ta, vung lên định quất con ngựa bên phải, nhưng chưa kịp quất thì bị phát đạn thứ hai quật ngã gục xuống xe. Viên đạn bắn trúng đầu anh ta, phía trên tai trái một chút. Hai con ngựa lồng lên, và xác anh ta rơi xuống đường, cách xác anh thứ nhất khoảng hai chục mét. Tiếp theo đó là vài loạt đạn nữa từ hai khẩu súng trường đồng thời bắn ra. Con ngựa gióng trái đang phi bị trúng đạn ngã lộn một vòng, làm gãy cái càng xe và kéo theo cái xe đổ lật nhào đè lên nó. Người đánh xe đã chặt đứt dây thắng của con ngựa còn sống, nhảy lên phi như bay. Bọn cướp đã bắn mấy phát đuổi theo anh ta nhưng chỉ là bắn dọa chứ không chủ tâm giết, vì theo lời anh ta kể lại, đạn bay vèo vèo qua đầu anh ta rất cao.

Túi quần áo hai tử thi được lộn trái ra, nhưng không thấy có giấy tờ gì. Chiếc cặp rỗng không của anh nhân viên tiếp phẩm nằm lăn lóc trong đám cỏ ven đường. Người dắt bò đã bị bọn cướp lật ngửa ra để lục soát, và căn cứ vào dấu vết hằn trên da mặt thì anh đã bị chúng dùng gót giày giẫm lòi mắt trái.

Chủ tịch Xôviết Vôixkôvôi, một anh kôdắc già đã tham gia hai cuộc chiến tranh, phát biểu ý kiến với anh nhân viên cảnh vệ:

- Xem này, Luka Nadarưts, cái thằng chó má nào người ta chết rồi nó còn hành hạ, không tha! Anh này đã chắn ngang đường nó đang theo chăng? Hay là tranh nhau một mụ đàn bà? Chứ nếu chỉ là cướp đường thôi thì không tàn ác với nhau đến như thế này đâu.. – Và cố tránh không nhìn cái hốc mắt rỗng hoác đỏ lòm kia và cái dòng máu chảy xuôi xuống má đã khô vón lại kia, đồng chí chủ tịch Xôviết lấy khăn tay của mình đắp lên mặt tử thi, rồi đứng thẳng dậy thở dài: - Cái bọn này táo tợn thật! Chắc chắn là chúng nó đã theo dõi hai anh này từ lâu, và tiền của các anh ấy chúng khoắng được rõ ràng phải đến hàng nghìn… Quân khốn kiếp! Chỉ vì đồng tiền mà chúng giết oan giết uổng những con người cường tráng như đại bàng thế này…

Ngay ngày hôm ấy, tin Khigiơnhiắc và Bôikô-Glukhốp bị giết đã loan về tới Grêmiatsi Lốc. Ngồi lại một mình  với Đavưđốp ở trụ sở ban quản trị, Nagunốp hỏi:

- Xêmiôn ạ, cậu có hiểu được câu chuyện này rồi sẽ ra thế nào không?

- Cũng tàm tạm hiểu được như cậu hiểu. Đây là bàn tay thằng Pôlốptxép hoặc đồng đảng của chúng nó đây, thực tế thế!

- Đích thị thế rồi. Có một điều mình không hiểu: nhưng làm sao mà chúng nó đã phát hiện ra hai anh này là ai, vấn đề là như vậy! Và kẻ nào đã làm công việc điều tra phát hiện ấy?

- Vấn đề ấy thì mình với cậu chả thể giải quyết nổi. Nó là một bài toán có hai ẩn số, mà chúng mình thì không cứng về số học và đại số học gì cho lắm. Cậu đồng ý không?

Nagunốp ngồi im lặng hồi lâu, chân vắt chữ ngũ, mắt nhìn đăm đăm vào mũi chiếc ủng bụi trắng mà thực ra để tâm tận đâu đâu, rồi anh nói:

- Một ẩn số mình giải được rồi…

- Cái nào vậy?

- Con chó sói không bao giờ bắt mồi ở gần hang nó…

- Thế nghĩa là thế nào?

- Nghĩa là những tên kia từ xa đến, chứ không phải từ Tubianxki, và cũng không phải từ Vôixkôvôi. Điều ấy thì chính xác!

- Vậy cậu cho là từ Sakhơtư hay từ Rôxtốp sao?

- Không nhất thiết. Biết đâu lại không từ làng ta?

- Rất có thể, - Đavưđốp ngẫm nghĩ một lát rồi nói. – Maka ạ, vậy cậu có ý kiến gì đề xuất không?

- Phải chỉ thị cho các đảng viên mở to mắt ra mà nhìn, ban đêm bớt ngủ đi và bí mật tuần tra khắp làng, quan sát kỹ. Biết đâu chúng ta lại chẳng vớ được ở ngay trong làng hoặc quanh làng chính cái thằng Pôlốptxép ấy, không thì cũng là một kẻ lạ mặt khả nghi nào đó. Sói thường xuyên lượn ban đêm…

- Thế cậu bảo chúng mình là sói à? – Đavưđốp khẽ nhếch mép mỉm cười.

Nhưng Nagunốp không cười. Anh ta cau mày lại, nói:

- Sói là chúng nó, còn chúng mình là người săn sói. Phải luận ra mà hiểu chứ.

- Đừng cáu. Mình đồng ý với cậu, thực tế thế! Bây giờ ta triệu tập các đảng viên tới họp ngay đi.

- Không nên ngay, mà muộn tí, chờ cho mọi người ngủ đi đã.

- Ý kiến ấy cũng đúng. – Đavưđốp đồng ý. – Nhưng không nên đi tuần, vì sẽ làm động dân làng ngay. Nên ngồi phục thì hơn.

- Biết chỗ nào mà phục? Phục chỉ uổng công vô ích! Mình phục thằng Chimôphây thì dễ: nó chỉ mò đến nhà con Luska thôi, ngoài ra nó không còn đường nào khác. Còn bọn này thì bảo đợi chúng nó ở đâu? Trời đất thì rộng, trang trại trong làng thì nhiều, người đâu mà rải ra nhà nào cũng canh?

- Việc gì phải nhà nào cũng canh.

- Biết chọn nhà nào?

- Ta hãy điều tra xem hai đồng chí tiếp phẩm đã vào nhà nào mua gia súc, rồi cứ những nhà ấy ta theo dõi. Hai đồng chí ấy chỉ quanh quẩn phần lớn các nhà những người khả nghi và vào mua gia súc các nhà ấy… Bọn giặc cỏ kia sẽ lần mò đến nhà một tên nào đó trong đám ấy… Cậu hiểu chưa?

- Cậu quả là cao kiến! – Nagunốp chịu phục. – Đôi lúc cậu cũng nảy ra được những ý kiến khá ra phết!

CHƯƠNG XXVII

Pôlốptxép và Liachépxki trở lại gian phòng xép nhà Ôxtơrốpnốp, và ở đây đã được ba hôm. Chúng đến vào lúc rạng sáng, khoảng nửa tiếng sau khi Radơmiốtnốp, suốt đêm hôm ấy ngồi phục ở góc vườn bên cạnh nhà lão Ôxtơrốpnốp để quan sát nhà lão, ngáp một cái cuối cùng rồi đứng dậy, rón rén trở về nhà, trong bụng nghĩ quẩn nghĩ quanh: “Thằng cha Xêmiôn bày ra cái trò quái gở không chịu được! Bao nhiêu đêm rồi ngồi mục ra trong xó xỉnh sân vườn nhà người ta, như những tên trộm ngựa, thậm chí như những thằng trộm cắp vặt, ngồi chết rũ ra đấy, chẳng đêm nào được ngủ, và vất vả như thế để rồi chẳng được cái tích sự mẹ gì cả! Nào có thấy bóng vía bọn gian phi ấy đâu? Độc mình rình bóng mình… Phải đi nhanh nhanh lên, kẻo có mụ nào quen dậy sớm vắt bò, trông thấy mình thì rồi chuyện lại sắp lan đi khắp làng như sóng lan đi trên mặt nước cho mà xem: “Radơmiốtnốp sáng bạch nhật mới được thả cho về! Con mụ nào mà gớm thế, nó khéo chiều, khéo ấp ủ làm sao mà sáng toét ra ông ấy mới bừng mắt tỉnh dậy?”. Rồi miệng lưỡi thiên hạ tha hồ mà thêu dệt, mình tha hồ mà mất uy tín… Phải chấm dứt cái trò này thôi! Mặc cho GPU đi mà lo việc bắt gian phi, mình không việc gì mà phải bao biện làm thay. Suốt đêm hôm qua mình ngồi trong vườn, căng mắt nhìn đến lòi cả con ngươi ra, thế thì hôm nay còn làm việc thế nào được nữa? Ngồi trụ sở mà ngủ gục xuống bàn hay thế nào? Giương đôi mắt đỏ ngàu mà nhìn người ta hay sao? Rồi người ta lại bảo: “Thằng ma bùn, nó đi lượn suốt đêm để rồi bây giờ ngồi ngáp như con chó ngáp ruồi vậy!”. Rồi đi tong hết uy tín của mình…

Ray rứt vì hoài nghi, bã người ra sau một đêm thức trắng và trong bụng đinh ninh việc theo dõi này là một việc làm vô tích sự, Radơmiốtnốp rón rén bước vào sân, và chạm trán ngay ở thềm với bà mẹ ở trong nhà đi ra.

- Con đây mẹ à, - Anđrây lúng túng nói và định lách vào nhà.

Nhưng bà lão chặn anh lại, nghiêm nghị nhận xét:

- Tôi nom thấy anh rồi, tôi đã mù đâu… Này Anđrây, anh thôi cái trò chó dái chạy nhông suốt đêm như thế đi được rồi đấy! Anh chả còn trẻ trung gì nữa, hết cái thời trai gái lăng nhăng lâu rồi, cũng phải biết xấu hổ với mẹ, với bà con thiên hạ chứ? Liệu lấy vợ và tu tỉnh con người đi, quá thể lắm rồi đấy!

- Lấy ngay bây giờ, hay là chờ mặt trời lên cao cao tí có được không hả mẹ? – Anđrây hỏi kháy.

- Tôi không thúc ép anh đến thế đâu. Cứ cho mặt trời lên cao xuống thấp ba lần đi, nhưng sang đến lần thứ tư anh phải lấy vợ, - bà mẹ tảng lờ, làm như không biết ý hỏi kháy của con, đáp lại hoàn toàn nghiêm trang. – Anh phải thương tôi già chứ! Tôi già nua sức yếu rồi mà hết vắt sữa bò lại thổi nấu, giặt rũ cho anh, lại lo vườn rau, làm mọi việc trong nhà như thế thì chịu sao nổi… Có thế thôi mà không hiểu được hả con? Việc nhà cửa là anh không hề mảy may sờ đến. Anh chả đỡ đần cho tôi được tí gì cả! Đến nước anh cũng chẳng gánh. Ăn xong lại ra trụ sở, cứ như người ở trọ, như khách lạ trong nhà vậy. Anh chỉ còn độc biết lo cho mấy con bồ câu, và cứ mê lên như đứa trẻ con vậy. Đấy đâu phải công việc của người lớn? Chơi cái trò trẻ con ấy thì anh phải biết xấu hổ với thiên hạ chứ! Nếu không có con Nhiurka đến đỡ đần tôi bấy lâu nay thì tôi đã nằm liệt giường từ lâu rồi! Anh có mù đâu mà không trông thấy con bé ấy ngày nào cũng chạy sang nhà ta, không làm việc này thì lại làm việc khác, lúc vắt sữa bò, lúc tưới rau, làm cỏ, thôi thì đủ mọi việc. Anh thử đi khắp cái vùng này tìm xem có đứa con gái nào tốt người tốt nết như nó không? Nó nhìn anh tha thiết, nhưng anh đi chơi lắm mờ cả mắt, chả trông thấy gì cả! Suốt đêm qua anh mò đi đâu? Thử soi gương mà xem kìa: cỏ bám đầy đầu đầy tóc, cứ như con chó hoang vậy! Cúi đầu xuống xem nào, thế này thì có chết không! Người ta lôi anh vào đâu người ta quần thế này hả?...

Bà lão đặt bàn tay lên vai anh, khẽ ấn bắt anh cúi xuống, rồi khó khăn mới gỡ ra được cả một nắm cỏ gai khô bám chắc vào mái tóc hoa râm của anh.

Anđrây đứng ngay người lên, cười chữa thẹn, rồi nhìn thẳng vào khuôn mặt đang nhăn lại kinh tởm của mẹ, nói:

- Mẹ đừng nghĩ xấu về con! Không phải con chơi bời bậy bạ đâu, mà công việc bắt con phải lăn lộn trong cỏ. Bây giờ thì mẹ chưa hiểu được, nhưng rồi bao giờ con nói được cho mẹ biết thì mẹ sẽ hiểu. Còn như cái chuyện lấy vợ, mẹ giao hẹn cho con ba ngày thì nhiều quá đấy: mai con sẽ dắt Nhiurka về cho mẹ. Có điều là mẹ cẩn thận đấy, mẹ ơi, chính mẹ đã kén nó về làm dâu thì mẹ liệu mà ăn ở với nó thế nào cho khỏi om sòm nhà cửa. Còn con thì có thể sống với ba bà trong cùng một nhà mà vẫn êm ru, mẹ biết rồi đấy, con rất dễ tính, đừng có ai đụng đến con là được rồi… Còn bây giờ thì mẹ tránh ra cho con vào, con ngủ tí cho đỡ cay mắt rồi đi làm.

Bà lão làm dấu phép rồi né ra.

- Ôi, nhờ ơn Chúa soi sáng cho anh biết thương mẹ già. Vào đi con, vào chợp mắt đi một tí, để mẹ đi làm cho ít bánh tráng mà ăn sáng. Mẹ để dành cho con cả một ít kem nữa đấy. Vui mừng thế này thì biết mời anh cái gì cho bõ bây giờ!

Anđrây vào đã khép chặt cửa lại rồi mà bà lão vẫn đứng đó nói, rất nhỏ, cứ như anh vẫn đang đứng sát bên bà:

- Tôi chỉ còn độc có mình anh trên đời này thôi! – rồi bà thút thít khóc.

Hôm ấy, cùng một lúc ở mấy góc làng, có năm người đến tảng sáng mới đặt lưng xuống ngủ. Ngoài Anđrây Radơmiốtnốp ra, còn có Đavưđốp đã ngồi suốt đêm dưới mái nhà kho Atamantsukốp, có Nagunốp đã không chợp mắt lúc nào, còn có cả Pôlốptxép và Liachépxki đã luồn được trót lọt vào nhà của Ôxtơrốpnốp.

Trong buổi sáng hè êm ả phơn phớt sương mù ấy, năm con người khác nhau về tính cách và niềm tin đến như thế chắc rằng đã mơ thấy những giấc chiêm bao rất khác nhau, nhưng họ đã ngủ thiếp đi cùng một giờ ấy…

Trong bọn họ, Anđrây Radơmiốtnốp là người thức dậy đầu tiên. Anh cạo râu nhẵn nhụi, gội đầu, mặc chiếc áo sơmi sạch tươm vào, xỏ chiếc quần dạ của anh chồng cũ của Marina Pôiarkôva được chuyển sang tay anh theo quyền thừa kế trực tiếp, rồi sau khi nhổ bao nhiêu nước bọt lên đôi ủng, anh ngồi đánh rất kỹ bằng mảnh dạ xé từ vạt chiếc áo capốt cũ. Anh sửa sang trang điểm lặng lẽ trầm ngâm, không vội vã.

Bà mẹ đoán biết anh trang điểm thế để làm gì rồi, nhưng không hỏi han gì cả, sợ lỡ mồm câu nào làm lung lay mất cái quyết tâm trịnh trọng của con trai. Bà chỉ lăng xăng bên cái bếp lò, tíu tít khác thường lệ, và thỉnh thoảng đưa mắt nhìn trộm anh một cái. Rồi hai mẹ con lẳng lặng ngồi ăn sáng.

- Con đi đến chiều mới về, mẹ đừng đợi con, - Radơmiốtnốp dặn mẹ bằng giọng ông chủ tịch.

- Cầu Chúa phù hộ cho con! – Bà mẹ chúc.

- Cứ đợi đấy rồi Chúa phù hộ… - Radơmiốtnốp đối đáp lại, giọng ngờ vực.

Khẩn trương chứ không dềnh dàng như Đavưđốp, anh chỉ mất vẻn vẹn có mười phút là hỏi xong vợ. Tuy nhiên, bước chân vào nhà hai cụ thân sinh ra Nhiurka, anh cũng làm đúng như phép tắc ở đời, nghĩa là anh đã để hai phút ngồi lẳng lặng hút thuốc, rồi trao đổi vài câu với ông bố cô Nhiurka về mùa màng, thời tiết, rồi tuyên bố luôn, cứ như việc ấy đã được quyết định từ lâu vậy:

- Mai tôi sẽ lấy cô Nhiurka nhà ta.

Ông bố cô dâu vốn không thiếu hóm hỉnh, hỏi:

- Lấy làm gì vậy? Làm thường trực trụ sở Xôviết à?

- Còn tồi tệ hơn thế ấy chứ. Lấy làm vợ.

- Cái ấy thì tùy nó…

Radơmiốtnốp quay sang phía cô dâu mặt đang đỏ như gấc, rồi không có một bóng nụ cười nào trên cái miệng bình thường hay cười của anh, anh hỏi:

- Cô đồng ý chứ?

- Tôi đồng ý từ mười năm nay rồi, - cô gái trả lời dứt khoát, và đôi mắt dũng cảm, tròn xoe và say đắm của cô nhìn Anđrây không rời.

- Vậy thế là xong, - Radơmiốtnốp hài lòng nói.

Thể theo phong tục xưa nay, hai ông bà cụ muốn thách cưới, nhưng Anđrây châm điếu thuốc thứ hai xong, dứt khoát gạt phăng mọi mưu đồ của hai ông bà đi:

- Tôi không đòi cô ấy của hồi môn, vậy hai bác còn muốn thách gì nữa nhỉ? Thách ít khói thuốc lá nhá? Hai bác sửa soạn cho cô ấy đi. Hôm nay tôi sẽ đưa cô ấy lên huyện làm giá thú, rồi về ngay, mai sẽ tổ chức đám cưới,  như vậy đấy!

- Gì mà anh làm sôi lên như cháy nhà vậy? – bà mẹ cô dâu tự ái hỏi.

Nhưng Radơmiốtnốp lạnh lùng nhìn bà, đáp:

- Sự đời tôi cháy hết từ mười hai năm trước cơ, cháy rồi và chỉ còn tro tàn thôi… Còn bây giờ tôi vội là vì mùa màng đến nơi rồi, và bên nhà tôi, các bác cũng biết đấy, bà cụ tôi đã đến lúc phải cho nghỉ hưu thôi. Vậy ta thỏa thuận với nhau thế này: rượu vốtka tôi sẽ tải trên huyện về, độ mươi lít, không có hơn nữa đâu. Còn cái nhắm thì cũng tùy rượu mà các bác chuẩn bị cho, và mời khách nữa. Bên tôi chỉ có ba người: bà cụ tôi, Đavưđốp và bác Salưi.

- Còn Nagunốp? – ông bố ngạc nhiên hỏi.

- Anh ta bị ốm, - Anđrây bịa phứa ra trả lời. Anh tin chắc chắn là Maka sẽ không đời nào chịu đặt chân đến dự đám cưới anh.

- Ngả một con cừu chứ hả, anh Anđrây Xtêpanưts?

- Tùy các bác, có điều là đừng làm gì quá đáng, ở cương vị tôi thì không nên, người ta sẽ hạ tầng công tác, cho ăn cái kỷ luật vi phạm chính sách của Đảng rồi thì lại ngồi hàng năm mà xuýt xoa, thổi phù phù vào mấy cái ngón tay nâng cốc ấy. – Rồi quay sang phía cô dâu, anh nháy mắt một cái hóm hỉnh, và mỉm một nụ cười nửa miệng, nói: - Nửa giờ nữa tôi sẽ quay lại, trong khi đó cô liệu đóng bộ diện cho ác vào, Nhiurka ạ. Cô lấy chồng là chủ tịch Xôviết, chứ không phải lấy anh cha căng chú kiết nào đâu đấy!

* * *

Đám cưới đã diễn ra tẻ ngắt, không hát hỏng, không nhảy múa, không cả những lời pha trò vui nhộn và những lời chúc mừng cô dâu chú rể thường thấy ở bất cứ đám cưới kôdắc nào đôi khi làm cho khỉ cũng phải ngượng đỏ mặt… Thái độ nghiêm trang của Radơmiốtnốp đã chi phối mọi người: anh giữ một vẻ nghiêm trang không hợp lúc, dè dặt ít nói, ít uống rượu. Anh hầu như không tham gia các câu chuyện trò, thường thường chỉ ngồi im, và thỉnh thoảng lắm một hai ông khách ngà ngà say có hò: “cay lắm” thì anh lại như miễn cưỡng, quay sang phía cô dâu mặt đang đỏ dừ, gượng gạo hôn cô với đôi môi giá lạnh. Và đôi mắt anh thường ngày linh lợi là thế, lúc này lại chẳng nhìn cô dâu, chẳng nhìn khách, mà lại nhìn tận đâu, và hình như đang nhìn vào cái dĩ vãng xa xăm, rất xa xăm và đau buồn.

CHƯƠNG XXVIII

Cuộc sống ở Grêmiatsi Lốc vẫn xuôi dòng, và cao cao bên trên thôn xóm vẫn là cái cảnh trôi xuôi lững lờ và oai nghi có tự ngàn xưa ấy: vẫn những đám mây trôi đi bên trên xóm làng, đôi lúc trắng điểm màu sương giá, đôi lúc chuyển màu sắc, từ màu xanh thẫm giông bão sang cái màu đùng đục không xác định; đôi khi, lúc mặt trời lặn, chúng bốc cháy lên một ánh sáng rực hoặc xỉn, báo hiệu hôm sau có gió, và những lúc ấy, trong tất cả các sân nhà, đám đàn bà con trẻ lại được nghe thấy từ miệng các ông chủ gia đình hoặc những người sắp thành chủ gia đình, những câu ngắn gọn có giá trị thuyết phục cũng từ ngàn xưa: “Gió ấy thì đánh rơm, chở cỏ cái gì?”. Rồi một ai trong đám người ngồi đó – ông già bà cả trong nhà hoặc người hàng xóm – đáp lại sau một phút im lặng: “Chả phải nói. Gió bẻ gãy sừng bò đấy”. Và trong cái gian trên trời gió đông thổi lồng lộn, dưới đất người người bị dồn vào cảnh ăn không ngồi rồi, thì tại tất cả ba trăm ngôi nhà trong thôn xóm, người ta lại kể lại vẫn cái câu chuyện về một chàng Ivan Ivanôvits Đechiarép nào đó chết từ  lâu rồi. Ngày xửa ngày xưa, anh chàng Ivan ấy đã nảy ra ý định đi chở lúa ngoài đồng về vào một hôm trời nổi gió đông, và khi thấy gió cuốn đi mất của anh từng bó lúa, từng lượm lúa chín vàng, thất vọng thấy mình chống lại gió không nổi, anh bèn cầm cây đinh ba xóc lên một bó lúa to tướng, rồi quay nhìn về hướng đông tức giận quát lên bảo gió: “Nào, mày đã khỏe thế thì mày cuốn nốt cả cái này đi này! Cuốn đi, đồ khốn kiếp!”. Rồi anh lật xe đổ hết những bó lúa xếp vuông vức ra, đi xe về không, miệng chửi vung tán tàn.

Cuộc sống ở Grêmiatsi Lốc vẫn đủng đỉnh xuôi dòng, nhưng mỗi ngày mỗi đêm lại mang đến cho mỗi một trong ba trăm ngôi nhà của thôn xóm những vui buồn, những niềm lo âu lớn nhỏ, những đau thương không phải chốc lát mà nguôi đi... Hôm thứ hai, cụ Agây, người chăn bò của làng từ bao năm nay, đã qua đời ở ngoài bãi thả vào lúc rạng đông. Cụ đuổi theo để lùa về một con bò cái non mất nết, nhưng mới lóc cóc chạy được một quãng thì bỗng đứng sững lại, ôm cái roi đè lên quãng tim, loạng choạng một phút, hai cẳng chân lòng khòng giẫm tại chỗ, rồi lảo đảo như người say rượu, cụ buông rơi cái roi, bước thấp bước cao từ từ quay trở lại. Người con dâu cụ Bexkhlépnốp đang dắt bò đi qua vội chạy lại nắm lấy hai bàn tay già lạnh giá của cụ, vừa hổn hển thở hơi thở nóng hổi của mình vào đôi mắt như sứ của ông lão, vừa hỏi:

- Cụ ơi, cụ khó chịu trong người hay sao thế?! – Và lấy lại được hơi, chị kêu lên: - Cụ ơi, cụ cần gì không để con giúp?!

Cụ Agây lắp bắp, lưỡi đã líu lại:

- Cháu ơi, đừng sợ… Đỡ lão tí, không lão ngã mất…

Rồi cụ ngã, đầu tiên là khuỵu đầu gối phải, rồi đổ nghiêng xuống. Và tắt thở. Tất cả chỉ có thế. Và vào lúc ăn trưa, hầu như cùng một giờ, có hai chị nông trang viên sinh nở. Một chị đẻ rất khó. Đavưđốp đã phải vơ quàng một chiếc xe ngựa phái hỏa tốc sang Vôixkôvôi mời thầy thuốc. Anh đi viếng cụ Agây, vừa mới ở chỗ gia đình côi cút của cụ trở về thì anh nông trang viên trẻ tuổi Mikhây Kudơnétxốp chạy xộc vào trụ sở nông trang. Tái xanh tái xám và hớt hơ hớt hải, chửa đặt chân đến cửa anh ta đã mở máy:

- Đồng chí Đavưđốp ơi, lạy Chúa, đồng chí giúp cho! Nhà tôi đau đẻ đã hai hôm nay rồi mà không làm sao rặn ra được. Ngoài cô ấy ra, tôi lại còn một nách hai đứa nhỏ, và nom cô ấy mà rớt nước mắt. Đồng chí giúp cho cái xe, phải tìm thầy thuốc, chứ các bà mụ nhà ta thì chịu rồi…

- Đi theo tôi! – Đavưđốp nói, và bước ra sân.

Bác Suka đã đi chở cỏ khô ngoài thảo nguyên. Ngựa đều đi có việc cả.

- Ta đi về nhà anh, anh cứ vào với chị ấy, tôi ở ngoài này vớ được cái xe nào tôi sẽ phái ngay sang Vôixkôvôi.

Đavưđốp thừa biết đàn ông không nên có mặt quanh chỗ đàn bà đẻ, nhưng anh vẫn rảo chân đi đi lại lại bên hàng giậu thấp của nhà Kudơnétxốp, mắt nhìn dọc từ đầu này đến đầu kia con đường làng vắng tanh, tai nghe những tiếng rên rỉ âm thầm và tiếng kêu kéo dài của người đẻ; miệng anh cũng hầm hè đau hộ cái đau đẻ của người chẳng thân thích gì với anh, và lẩm bẩm những câu chửi rủa tục tĩu nhất của ngôn ngữ lính thủy. Và khi thấy đủng đỉnh trên đường cái xe chở nước của thằng bé mười sáu tuổi Anđrây Akimốp, anh chạy đâm bổ ra chặn lại, lăng xăng như một đứa trẻ, rồi hì hục vần cái thùng đầy nước từ trên xe xuống, và vừa thở dốc vừa  nói:

- Này, mày ơi, ở đây có một bà đang gay go. Ngựa mày khỏe, mày phóng ngay sang Vôixkôvôi mời ông y sĩ, sống chết cũng chở về đây cho tao! Cứ cho ngựa phóng đi, tao chịu trách nhiệm, thực tế thế!

Và trong cái im lặng lắng đọng của buổi ban trưa, một lần nữa một tiếng kêu lại xé lên, rồi lắng xuống, nghẹn ngào, trầm trầm, rồi bặt, tiếng kêu của người quằn quại trong cơn đau đẻ rứt ruột. Đavưđốp nhìn chòng chọc vào mắt thằng bé, hỏi:

- Nghe thấy chưa? Thế thì đi đi!

Đứng thẳng người trên xe, thằng bé nhìn Đavưđốp một cái như người lớn:

- Chú Xêmiôn ạ, cháu hiểu rồi. Còn ngựa thì chú cứ yên tâm!

Đôi ngựa lao đi như tên bắn. Thằng bé đứng thẳng ưỡn trên xe, huýt miệng và vung roi một cách hiên ngang, còn Đavưđốp đứng nhìn bụi đường cuốn lên dưới cái bánh xe ngựa một lát rồi khoát tay một cái thất vọng, bước về trụ sở nông trang. Dọc đường anh còn nghe thấy một lần nữa cái tiếng đàn bà kêu thảm thương ấy. Anh nhăn mặt lại như chính mình bị đau, và đi quá được hai ngõ rồi anh mới hậm hực càu nhàu:

- Thế đấy! Đã định đẻ mà lại không biết đẻ cho ra hồn, thực tế thế!

Ngồi ở trụ sở, anh chưa kịp giở ra xem những cái gọi là công việc sự vụ hàng ngày thì một anh chàng trẻ nom vẻ bối rối, bước vào. Đó là anh con trai cụ nông trang viên Abramốp. Anh ta cứ đứng lắc lư đó, rồi ngượng ngịu nói:

- Báo cáo đồng chí Đavưđốp, hôm nay nhà chúng tôi có đám cưới, mời đồng chí đến dự với gia đình chúng tôi. Vắng đồng chí e không tiện.

Và thế là Đavưđốp xả hơi luôn. Đang ngồi, anh chồm bật dậy, kêu lên:

- Ô hay, cái làng này hóa rồ cả rồi hay sao đấy?! Họ bảo nhau chết, sinh đẻ, cưới xin, tuốt tuồn tuột cả vào một ngày! – Rồi trong bụng cười thầm mình nóng nảy, anh dịu giọng xuống hỏi: - Nhưng cậu đi đếch đâu mà vội thế? Đợi sang thu cưới có hơn không. Mùa thu mới đúng là mùa cưới.

Anh chàng như đứng trên than hồng, nói:

- Cái sự nó không đợi được ạ.

- Cái sự gì thế?

- Thưa đồng chí Đavưđốp, chắc đồng chí cũng tự hiểu được ạ…

- À ra thế… Cái sự ấy, chú nó ạ, phải nghĩ đến trước chứ! – Đavưđốp nói bằng giọng dạy đời. Và liền ngay đó, anh mỉm cười nghĩ bụng: “Mình chưa phải cái mặt dậy hắn, và hắn cũng chưa phải là cái đứa phải nghe mình”. Im lặng một lát cho có vẻ trịnh trọng rồi anh nói tiếp: - Thôi được, chiều chúng tôi sẽ lại qua, cả ba. Cậu đã nói với anh Nagunốp và Radơmiốtnốp chưa?

- Có mời cả rồi ạ.

- Được rồi, ba chúng mình sẽ đến, ngồi chơi độ một tiếng. Rượu thì chúng mình không uống nhiều được đâu, thời buổi này không tiện, gia đình cũng bỏ quá đi cho. Thôi, cậu về đi, tiện đây chúc cậu hạnh phúc. Lát nữa đến nhà chúng mình sẽ chúc cả đôi sau… À, thế bụng cô ấy đã to lắm chưa?

- Chưa to lắm, nhưng trông rõ ạ…

- Trông rõ thì càng hay, - Đavưđốp lại nhận xét với vẻ có chút dạy đời và nhận thấy cái giọng giả tạo của câu chuyện, anh lại mỉm cười.

Và một giờ sau, khi Đavưđốp đang ký giấy má thì ông bố Mikhây Kudơnétxốp tràn trề hạnh phúc xuất hiện, chạy đến ôm choàng lấy Đavưđốp, mừng quýnh tuôn ra một tràng:

- Thật là Chúa sai anh xuống làm chủ tịch cho chúng tôi! Thằng Anđrây đưa ông y sĩ về kịp thời quá: bu nó nhà tôi đã tưởng chết, thế rồi nhờ ông ta mà đã rặn ra được cho tôi một thằng cu hay ra phết, chà, phải bằng con bê, bế không nổi. Ông y sĩ bảo nó ra ngược thì phải. Nhưng theo tôi, ngược xuôi gì cũng mặc, cứ biết trong nhà thế là có thằng còn giai! Đồng chí nhận cho làm cha đỡ đầu nó đấy, đồng chí Đavưđốp nhá!

Đavưđốp đưa tay lên xoa trán, nói:

- Được, mình nhận. Mừng rất mừng thấy chị ấy thế là mẹ tròn con vuông. Ở nhà cần thứ gì, mai cậu cứ đến gặp Ôxtơrốpnốp, mình sẽ có lệnh cho lão ấy. Còn việc thằng bé ra ngược thì không sao: cậu nên biết rằng con giai thực sự là con giai thì ít khi ra xuôi… - Và lần này anh không cười nữa, không cảm thấy mình có cái giọng dạy đời mà lúc nãy anh thấy buồn cười.

Còn chối vào đâu được nữa, rõ ràng chàng lính thủy là anh đã đâm ra tình cảm ủy mị rồi, một khi mà niềm vui của người khác và một bà mẹ sinh nở được vuông tròn đã làm cho anh phải ứa nước mắt cảm động. Và cảm thấy mình rưng rưng, anh đưa bàn tay to bè lên che mắt, kết thúc câu chuyện bằng một giọng hơi thô lỗ:

- Thôi về đi, chị ấy đang chờ cậu ở nhà. Cần gì cậu đến sau, còn bây giờ thì về đi, mình không có thời giờ. Cậu nên hiểu là chẳng cần cậu quấy, mình cũng đã đủ bù đầu rồi.

Cũng ngày hôm ấy, chiều tối rồi, đã xảy ra một sự kiện đặc biệt có tầm quan trọng không nhỏ đến với Grêmiatsi Lốc và hầu như chẳng ai biết: vào khoảng bảy giờ tối, một chiếc xe nhỏ lịch sự đã tới đỗ trước cửa nhà Ôxtơrốpnốp. Chiếc xe do đôi ngựa rất đẹp mã kéo. Một người tầm thước mặc áo cổ đứng vải thô và quần cũng bằng vải thô bước trên xe xuống, đi vào cổng. Với cái vẻ đỏm dáng của một ông già sang trọng, lão phủi bụi gấu quần, rồi nhanh nhẹn bước lên thềm nhà Ôxtơrốpnốp, đường hoàng đi vào hành lang ở đó Iakốp Lukits đang đứng đợi lão, trong lòng thấp thỏm lo lắng trước cuộc viếng thăm chưa từng có này. Lão khẽ nhe hàm răng vàng khè khói thuốc lá, đưa bàn tay nhỏ nhắn khô khốc nắm chặt lấy khuỷu tay Iakốp Lukits, mỉm cười thân mật hỏi:

- Iakốp Lukits phải không? Nhìn dáng, tôi nhận ra ngay anh là gia chủ đây. Ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits có nhà không?

Nhìn hình dáng và điệu bộ của khách lạ, và qua kinh nghiệm của một người lính từng trải đánh hơi thấy đây là một thượng cấp, Iakốp Lukits vội rập đôi gót giầy mòn vẹt kêu đánh bốp một cái, luống cuống đáp:

- Bẩm quan lớn! Ngài đấy ạ? Lạy Chúa, các ông ấy ở đây chờ ngài mãi!

- Dẫn ta đi!

Với một sự nhanh nhẩu vốn không phải bản tính lão, Iakốp Lukits xun xoe mở rộng cánh cửa gian phòng xép của Pôlốptxép và Liachépxki.

- Thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits, xin ông thứ lỗi, tôi đã không bảo khách chờ, có thượng cấp đến gặp ông ạ!

Khách lạ bước vào khung cửa mở toang, giang rộng cánh tay với điệu bộ đóng kịch, nói:

- Xin chào các vị ẩn sĩ thân mến! Ở đây có thể nói to thoải mái được không đấy?

Pôlốptxép đang ngồi bên bàn và Liachépxki đang uể oải nằm ườn trên giường như thường lệ, bật cả dậy như có tiếng hô nghiêm.

Khách lạ ôm lấy Pôlốptxép hôn, còn Liachépxki thì chỉ được hắn đưa tay trái kéo sát vào người, và nói:

- Mời các ngài sĩ quan ngồi xuống. Tôi là đại tá Tóc bạc, người vẫn gửi lệnh cho các ngài, và do số phận xoay vần, hiện đang là cán bộ canh nông phòng nông nghiệp khu. Như các ông thấy, tôi đến với các ngài với danh nghĩa đi thanh tra. Thời gian của tôi có hạn. Tôi muốn cho các ngài biết qua tình hình.

Khách mời hai viên sĩ quan ngồi xuống, rồi vẫn với nụ cười để lộ hai hàm răng ám khói thuốc ấy, nói tiếp bằng giọng làm ra vẻ thân mật:

- Các ngài sống túng thiếu lắm nhỉ, chắc cũng chả có gì mà đãi khách… Nói thế thôi chứ không phải thết đãi gì đâu, tôi sẽ ăn tối ở chỗ khác. Chỉ yêu cầu cho ra mời anh xà ích của tôi vào bàn đây với chúng ta, và cho người vọng tiêu bảo đảm an toàn cho chúng tôi.

Pôlốptxép nhanh nhảu lao ra cửa, nhưng vừa lúc ấy, viên xà ích của ngài đại tá, một người dáng cao lớn, thân hình cân đối, đã bước vào. Hắn chìa tay ra bắt tay Pôlốptxép:

- Chào ngài đại úy! Theo phong tục Nga, không ai bắt tay nhau qua ngưỡng cửa… - Và quay sang phía tên đại tá, hắn kính cẩn đề nghị: - Ngài cho phép? Vọng tiêu tôi đã đặt rồi.

Lão đại tá vẫn mỉm cười như trước với Pôlốptxép và Liachépxki, nheo nheo đôi mắt xám trũng sâu:

- Giới thiệu với các ngài sĩ quan, đây là đại úy kị binh Kadantxép. Còn ngài Kadantxép ạ, các vị chủ nhà đây thì ngài biết rồi. Bây giờ ta vào việc. Ta ngồi quanh cái bàn của các vị độc thân này.

Pôlốptxép rụt rè đề nghị:

- Thưa ngài đại tá, có lẽ ngài cho phép chúng tôi mời ngài xơi tạm cái gì? Chả có gì đâu ạ, gọi là chút lòng thành.

Lão đại tá gạt phắt:

- Xin cảm ơn, không cần. Ta bàn việc ngay thôi, thời giờ tôi rất eo hẹp. Đại úy lấy cho tôi tấm bản đồ.

Viên đại úy Kadantxép rút ở túi ngực áo véttông ra tấm bản đồ gập tư vùng biển Adốp – Hắc Hải, tỷ lệ một phần năm trăm nghìn, trải ra trên bàn, rồi cả bốn tên châu đầu vào.

Lão đại tá sửa lại cái cổ đứng đang bẻ ra của chiếc áo vải bạt, rút trong túi ra cây bút chì xanh, gõ gõ xuống bàn, nói:

- Như các ngài biết, tên thật của tôi không phải là Tóc bạc… mà là Nhikônxki, đại tá ở Bộ tổng tham mưu quân đội Hoàng gia. Đây là một bản đồ phổ thông, nhưng với nhiệm vụ chiến đấu của các ngài thì cũng không cần bản đồ chi tiết hơn. Nhiệm vụ của các ngài là: với khoảng hai trăm lưỡi lê và kiếm các ngài có trong tay, đánh tan xong bọn cộng sản địa phương đừng để những trận đụng độ nhỏ lằng nhằng kìm chân lại, theo đội hình hành quân tiến thẳng tới nông trường quốc doanh “Vừng hồng”, dọc đường tiến cắt đứt hết mọi liên lạc của chúng. Tới nông trường, làm xong những việc cần thiết, các ngài sẽ thu được gần bốn chục súng trường với số đạn tương ứng và cái quan trọng nhất là với số súng trường và súng máy nắm được trong tay mà các ngài phải giữ gìn nguyên vẹn, với gần ba chục ôtô vận tải thu được ở nông trường, phải hành binh cấp tốc tới Milêrôvô. Còn việc quan trọng này nữa… Các ngài xem đấy, tôi giao cho các ngài biết bao nhiêu là nhiệm vụ quan trọng… Tôi ra lệnh cho ngài, ngài đại úy ạ, phải đánh một đòn bất ngờ vào trung đoàn đóng quân trong thành phố Milêrôvô, làm cho nó không kịp triển khai, đánh tan nó trên đường hành tiến, tước vũ khí, chiếm lấy toàn bộ phương tiện hỏa lực của nó, thu nạp những binh sĩ Hồng quân nào muốn theo ta, rồi tất cả lên xe, tiến về hướng Rôxtốp. Tôi chỉ vạch nhiệm vụ của các ngài trên những nét đại cương, nhưng nhiều điều sẽ phụ thuộc vào sự hoàn thành nhiệm vụ ấy. Nếu chẳng may cuộc tiến quân của các ngài về Milêrôvô gặp phải một sự đề kháng bất ngờ, các ngài sẽ vòng tránh Milêrôvô mà tiến thẳng về Kamenxcơ, đây, theo đường này. – Lão đại tá cầm bút chì xanh uể oải vạch một nét thẳng trên bản đồ. – Tôi với quân đoàn của tôi sẽ đợi ngài ở Kamenxkơ, ngài đại úy ạ.

Ngừng một lát rồi lão nói tiếp:

- Có thể là trung tá Xavachêép sẽ yểm hộ các ngài từ phía bắc. Nhưng các ngài không nên quá trông mong vào điều đó, và hãy độc lập tác chiến. Cần hiểu rõ thành công của các ngài sẽ quyết định rất nhiều cái. Đây là tôi nói về vệc tước vũ khí trung đoàn Milêrôvô và tận dụng các phương tiện hỏa lực của nó. Thế nào cũng có một đội pháo trợ chiến, những khẩu pháo ấy sẽ đỡ cho ta rất nhiều. Rồi từ Kamenxkơ chúng ta sẽ triển khai chiến sự, đánh chiếm Rôxtốp, vì biết rằng chúng ta sẽ được sự tiếp viện của các lực lượng quân ta ở Kuban và Chêrếch, sau đó ta sẽ có tiếp viện của quân đồng minh, và thế là toàn bộ miền Nam đã ở trong tay chúng ta. Các ngài sĩ quan ạ, các ngài thấy rõ rằng kế hoạch chiến dịch chúng tôi vạch ra như thế là khá mạo hiểm, nhưng chúng ta không còn đường nào khác! Nếu chúng ta không biết nắm lấy thời cơ mà lịch sử đã đem lại cho chúng ta vào năm ba mươi này thì thôi, vĩnh biệt nền đế chế, và chúng ta chỉ còn có chuyển sang hoạt động khủng bố lẻ tẻ mà thôi… Đó là tất cả những điều tôi cần nói với các ngài. Bây giờ ngài phát biểu đi, đại úy Pôlốptxép, nhưng nói ngắn thôi. Nên nhớ là tôi còn phải đến trụ sở Xôviết đây lấy dấu vào công lệnh rồi lên huyện. Tôi đã nói với các ngài, danh nghĩa tôi là cán bộ canh nông của phòng nông nghiệp, cho nên các ngài nên nói ngắn thôi.

Không nhìn viên đại tá, Pôlốptxép trầm trầm nói:

- Thưa ngài đại tá, ngài đã vạch ra cho chúng tôi nhiệm vụ chung, không có chi tiết cụ thể nào. Chúng tôi sẽ chiếm nông trường, nhưng tôi cho rằng sau đó chúng tôi phải đi lôi kéo dân kôdắc nổi dậy, nhưng ngài lại giao cho chúng tôi nắm một trung đoàn thường trực của Hồng quân mà chiến đấu. Ngài có thấy rằng với khả năng và lực lượng của chúng tôi thì đó là một nhiệm vụ không thể hoàn thành nổi không? Và chỉ cần một tiểu đoàn chặn đánh chúng tôi trên con đường tiến quân thôi… phải chăng ngài đã đặt chúng tôi vào tình thế chắc chắn là bị tiêu diệt?!

Lão đại tá Nhikônxki gõ gõ mấy ngón tay xương xẩu xuống bàn, cười khẩy:

- Tôi nghĩ rằng hồi người ta đề bạt ngài cấp đại úy là sai lầm. Nếu gặp phút khó khăn ngài do dự và không tin tưởng vào thắng lợi của kế hoạch tác chiến chúng tôi vạch ra thì ngài không xứng đáng là một sĩ quan của quân đội Nga chút nào! Ngài chớ có vỗ ngực ta đây rồi tự ý đặt ra kế hoạch của riêng mình! Tôi phải hiểu lời của ngài như thế nào đây? Ngài sẽ chấp hành mệnh lệnh hay là cần phải loại ngài ra?

Pôlốptxép đứng dậy, cúi nghiêng cái trán dô xuống, đáp nhỏ:

- Thưa ngài đại tá, tôi sẽ chấp hành mệnh lệnh. Có điều là… Có điều là trường hợp thất bại, ngài sẽ phải chịu trách nhiệm, chứ không phải tôi!

- Ô, ngài đại úy, điều ấy thì ngài khỏi lo! – Viên đại tá Nhikônxki mỉm cười không lấy gì làm vui vẻ lắm, vừa nói vừa đứng dậy.

Lập tức viên đại úy Kadantxép cũng đứng dậy theo:

Ôm hôn Pôlốptxép, Nhikônxki nói:

- Dũng cảm và dũng cảm hơn nữa! Đó chính là cái hiện đang thiếu cho đội ngũ sĩ quan của quân đội hoàng gia hùng mạnh ngày xưa! Họ đã bị mòn mỏi đi trong cái nghề giáo viên trung học và cán bộ canh nông. Truyền thống quân đội ta đâu cả rồi? Những truyền thống vẻ vang của quân đội Nga các ngài quên rồi sao? Nhưng không sao. Đầu tiên các ngài chỉ có việc chấp hành những cái người ta đã nghĩ thay cho các ngài, rồi sau đó… Rồi sau đó, càng ăn sẽ càng thấy ngon miệng! Ngài đại úy ạ, tôi mong sẽ được thấy ngài đóng lon thiếu tướng, ở Nôvôrôxixcơ, hoặc ở Mátxcơva chẳng hạn. Trông cái vẻ cô độc, ít cởi mở của ngài thì biết ngài là người dám làm nhiều việc! Thôi, hẹn gặp nhau ở Kamenxcơ! À, còn một điểm cuối cùng: lệnh phát hỏa nhất loạt ở tất cả các điểm nổi dậy sẽ được báo riêng cho các ngài sau, điều ấy thì các ngài hiểu. Tạm biệt, một lần nữa hẹn gặp nhau ở Kamenxcơ!

Lạnh lùng ôm hôn hai ông khách xong, Pôlốptxép mở tung cửa gian phòng xép và bắt gặp cái nhìn lo lắng của Iakốp Lukits đứng ngoài hành lang. Xong việc trở vào, Pôlốptxép không ngồi vào bàn mà lăn đùng xuống giường. Nằm một lát rồi y hỏi Liachépxki đang đứng tựa lưng vào cửa sổ:

- Ông có thấy con bọ hung nào như thế bao giờ chưa?

Liachépxki khinh bỉ khoát tay một cái:

- Giêsu Maria, ngài còn muốn đòi hỏi gì hơn nữa ở cái tay võ quan Nga ấy? Ngài Pôlốptxép ạ, lẽ ra ngài nên hỏi tôi ma quỷ nào xui khiến mà lại dây vào với các ngài?!

Và cũng trong ngày hôm ấy còn xảy ra một tấn thảm kịch: con dê Tơrôphim đã chết đuối dưới giếng. Tính nết thất thường và nhiều đêm cứ đi lang thang khắp làng, chắc là đêm qua nó đã vấp phải một đàn chó đi ăn sương, rồi bị bọn này đuổi, bức nó phải nhảy qua miệng giếng ở canh trụ sở ban quản trị. Do sơ xuất của bác Suka già lẫn cẫn chiều hôm trước quên không đậy nắp cho nên miệng giếng vẫn để mở tênh hênh. Chú dê già bị chó đuổi theo cắn, hoảng quá nhảy qua miệng giếng, đã trượt cái cẳng già và lăn tùm xuống giếng chết đuối.

Đến chiều bác Suka đi chở cỏ về, định cho ngựa uống nước, thả thùng xuống giếng múc thì thấy thùng chạm phải cái gì mềm mềm. Bác loay hoay hất dây gầu hết sang bên này lại đến bên kia cố múc lấy ít nước, nhưng mọi cố gắng của bác đều vô hiệu quả. Linh cảm thấy một chuyện gì kinh khủng, lão ngơ ngác đưa mắt nhìn khắp sân, hy vọng thấy tên kẻ thù truyền kiếp của mình đang đứng vắt vẻo quãng nào đó trên nóc nhà kho. Nhưng mắt bác đảo nhìn mọi chốn đều vô ích: chẳng thấy con Tơrôphim đâu cả. Bác Suka lật đật đi vào kho cỏ, rồi le te chạy ra cổng: vẫn chẳng thấy con Tơrôphim đâu… Thế là bác Suka mếu máo nom đến là tội nghiệp, bước vào phòng quản trị nơi Đavưđốp ngồi, buông phịch người xuống tấm ghế dài.

- Ôi anh Xêmiôn ơi, khốn to rồi, anh ơi! Con Tơrôphim nhà ta chết đuối dưới giếng rồi, không sai! Anh ơi, đi kiếm cái móc câu, phải cẩu nó lên.

- Bác xót nó à? – Đavưđốp mỉm cười hỏi. – Bác vẫn luôn mồm đòi thịt nó cơ mà?

- Nói chuyện đòi thì nói làm quái gì! – Bác Suka cáu sườn kêu lên. – Cũng tạ ơn Chúa là các anh không thịt nó! Không có thì lão sống thế nào đây bây giờ? Không ngày nào nó không làm lão sợ hết vía, từ sáng bảnh đến tối mịt không lúc nào rời được cái roi, phòng thủ nó, nhưng bây giờ thì lão biết sống ra sao đây? Chỉ độc có một nỗi buồn trơ trụi! Thôi thì bây giờ lão cũng đến đâm đầu xuống giếng chết nốt đi cho rồi… Lão với nó thì có tình nghĩa gì với nhau đâu! Không có tí ti nào! Lão và nó sống với nhau chỉ để chiến đấu với nhau thôi. Có lần, lão tóm lấy sừng nó, con khốn kiếp ấy, và bảo nó: “Này Tơrôphim ơi, cha đẻ ra con mẹ mày, mày là con dê chẳng phải non trẻ gì, vậy mà mày học được ở đâu cái thói độc địa ấy thế? Mày lấy ở đâu được lắm cái táo tợn thế đến nỗi không để cho tao được một phút yên thân? Lúc nào mày cũng cứ rình để húc tao vào đít hoặc vào bên sườn. Mày cũng phải hiểu tao hom hem ốm yếu và phải có tí xông cảm với tao chứ...”. Nó cứ giương mắt ếch nhìn lão, và chả thấy có tí gì nhân đạo trong con mắt nó cả. Lão không thấy có tí xông cảm nào trong đôi mắt nó. Thế là lão quất cho nó một roi vào lưng và quát theo nó: “Cút đi, trời đánh thánh vật mày, đồ quỷ sứ nhà giời! Tao với mày thì không nói được với nhau điều gì tử tế đâu!”. Nó cong đít chạy, cái quân mất dạy ấy, nhưng chỉ chạy độ mươi bước là lại nhởn nhơ gặm cỏ rồi, cứ làm như nó sắp chết đói không bằng, quân khốn kiếp! Trong khi đó thì hai con mắt trân trân của nó vẫn liếc lão, chắc là nó đang mưu mô hại gì lão đây. Không phải là lão sống với nó nữa, mà là làm trò hề với nó! Bởi vì cái đứa ngu ngốc như thế, nói đúng thì nó cũng chỉ là đứa ngớ ngẩn thôi, thì lão không tài nào mà hòa hảo được! Nhưng bây giờ nó chết đuối rồi thì lão thương nó, và đời lão thế là khốn nạn… - Bác Suka não nề khóc thút thít rồi đưa cánh tay áo cáu bẩn lên quệt nước mắt.

Mượn được bên nhà hàng xóm chiếc “cần cẩu”, Đavưđốp và bác Suka lôi ở dưới giếng lên các xác đã bắt đầu trương phềnh của con Tơrôphim. Đavưđốp quay mặt đi, hỏi ông lão:

- Ta làm thế nào bây giờ?

Bác Suka vẫn thút thít như thế, lau nước mắt đáp:

- Anh về đi, anh Xêmiôn ạ, về mà lo công việc quốc gia, còn việc chôn cất nó để đấy cho lão. Đây không phải việc thanh niên các anh, mà là việc ông già bà cả. Lão sẽ chôn cất nó đàng hoàng, cái đồ báo hại này, rồi theo đúng tục lệ, lão sẽ ngồi bên mồ nó khóc vài tiếng… Đội ơn Chúa đã cho anh đến giúp, chứ nếu không một mình lão thì chả thể nào kéo nổi nó lên đâu: con ngựa có sừng này, nó cũng phải ngót nghét ba pút chứ chẳng bỡn. Nó chẳng ăn không của người ta nhiều quá mà, thế nên nó mới chết đuối, cái đồ ngu ấy, chứ nếu nó nhẹ cân hơn, nó đã nhảy qua được cái giếng dễ như không rồi! Chắc là bọn chó kia đuổi rát quá, nó bấn tung đầu óc lên mới bay qua giếng như thế. Nhưng cái giống già mà ngu như nó thì có đầu óc sáng suốt làm sao được? Nhưng anh Xêmiôn ơi, anh phúc đức cho lão tiền mua phần tư lít vốtka, để tối nay lão vào kho cỏ ngồi uống gọi là tưởng nhớ nó một tí. Chứ về nhà với bà nhà lão mà làm gì, lão về thì được cái tích sự gì cơ chứ? Độc cái thần kinh căng thẳng thôi. Rồi lại chiến đấu nữa chứ! Vào ở tuổi lão thì cái đó hoàn toàn chẳng có lợi gì cả. Đằng này lão cứ thủng thỉnh lão uống ngồi tưởng nhớ đến kẻ đã qua đời, rồi lão đi cho ngựa uống nước, rồi lão ngủ, thực tế thế!

Đavưđốp cố hết sức nén cười, dúi vào tay bác Suka đồng mười rúp, và ôm lấy đôi vai gầy của bác:

- Thôi bác ạ, bác đừng thương tiếc nó quá. Cùng lắm thì chúng tôi sẽ mua cho bác một con dê khác mới tinh.

Bác Suka buồn bã lắc đầu, đáp:

- Một con dê như nó thì chả tiền nào mua được đâu, trên thế giới này nó có một không hai. Lão đành ôm hận suốt đời lão thôi! – Rồi bác đi tìm cái xẻng, dáng đi gù gù, nom thật thảm hại, thật tức cười và thật tội nghiệp trong nỗi đau đớn chân thật của bác.

Và đến đây là chấm dứt một ngày đầy những sự cố lớn nhỏ của làng Grêmiatsi Lốc.

CHƯƠNG XXIX

                Ăn tối xong, Đavưđốp trở về buồng, vừa ngồi vào bàn định xem qua mấy tờ báo bưu điện mới đưa tới thì nghe thấy một tiếng gõ nhẹ vào khung cửa sổ. Anh hé mở cửa sổ ra. Nagunốp bước một chân lên thềm, thì thào nói:

                - Chuẩn bị hành động! Nhưng mở cửa ra đã, mình vào kể cho mà nghe…

Gương mặt đen sạm của anh nom tái mét và căng thẳng. Anh nhẹ nhàng nhảy qua cửa sổ, tiện thể ngồi luôn xuống tấm ghế đẩu và đấm vào đầu gối.

- Mình đã bảo mà, Xêmiôn ạ, diễn ra đúng như ta dự đoán! Thế là mình đã phát hiện ra một thằng rồi. Mình nằm phục đến hai tiếng đồng hồ cạnh nhà Ôxtơrốpnốp thì bỗng thấy có một thằng, nom dáng thâm thấp, lò mò bước, nghe ngóng rất thận trọng, chắc đó là một trong những tên chó má ấy… Mình đến phục hơi muộn, lúc ấy đã tối rồi. Mình đến muộn vì phải ra đồng. Biết đâu trước nó chả đã có một thằng khác nữa đến rồi? Tóm lại, ta đi thôi, dọc đường sẽ lôi Radơmiốtnốp cùng đi, không nên chậm trễ. Ta sẽ bắt được chúng nó còn tươi nguyên, ngay tại nhà Iakốp Lukits! Không thì chí ít cũng tóm được một thằng ấy.

Đavưđốp thọc tay vào dưới gối lấy ra khẩu súng lục.

- Nhưng bắt bằng cách nào? Ta bàn qua trước đi.

Nagunốp rít một hơi thuốc lá, khẽ nhếch mép cười:

- Việc này mình làm quen lắm rồi. Cậu nghe mình bảo, thế này nhé; cái thằng thâm thấp ấy, nó không gõ cửa ra vào, mà lại gõ cửa sổ, như mình gõ vừa rồi. Nhà Iakốp Lukits có gian buồng xép có một cửa sổ nhỏ ăn ra sân. Cái thằng gian ấy, nó mặc áo dipun hoặc áo mưa cộc gì đó, tối quá mình nom không rõ. Nó gõ vào cửa sổ, rồi ai đó, hoặc là Iakốp Lukits, hoặc là thằng Xêmiôn con trai lão ấy, khẽ hé cửa ra, và nó lẻn vào nhà. Lúc bước lên thềm, nó ngó quanh một cái, lúc vào cửa, lại ngó cái nữa. Mình nằm sau hàng giậu nom rõ hết. Xêmiôn ạ, cậu phải biết là người lương thiện không ai lại đi đứng kiểu lấm la lấm lét như chó sói thế! Mình đề nghị kế hoạch như thế này nhá: mình với cậu sẽ gõ cửa, còn Anđrây sẽ nằm phục ngoài sân, bên cửa sổ. Đứa nào ra mở cửa cho chúng ta, chúng ta sẽ rõ, nhưng cái cửa gian phòng xép, mình nhớ, đi ở ngoài hành lang vào thì nó là cái cửa đầu tiên, bên phải. Cẩn thận, cửa sẽ khóa chặt đấy, có khi phải phá. Hai chúng mình sẽ vào, và nếu có thằng nào nhảy qua cửa sổ, Anđrây sẽ hạ nó. Ta sẽ bắt sống mấy ông khách đêm này, không khó lắm đâu! Mình sẽ phá cửa, cậu sẽ đứng lùi phía sau một tí, lôi thôi thì bắn luôn, không vớ vẩn gì hết!

Maka hơi nheo nheo mắt lại nhìn thẳng vào mắt Đavưđốp, và một lần nữa, bóng một nụ cười lại thoáng hiện trên đôi môi cương nghị của anh:

- Cái đồ chơi này cậu chỉ cầm trong tay, nên kiểm tra lại băng và cho đạn lên nòng đi, ngay tại đây. Ta ra bằng lối cửa sổ này, rồi khép lại.

Nagunốp xiết lại thắt lưng áo varơi, vứt mẩu thuốc lá xuống sàn, nhìn mũi và ống đôi ủng bê bết đất cát, rồi lại cười nụ:

- Vì mấy cái đồ rác rưởi khốn nạn ấy mà mình phải lăn lộn đất cát như con chó con, nằm sắp sạp, lê la khắp, đợi các vị khách quý… Một thằng đã xuất hiện rồi… Nhưng mình cho là ở đó chúng nó có khoảng hai ba thằng gì đó, không hơn. Chẳng có lẽ lại là cả một tiểu đội?

Đavưđốp kéo quy-lát, đẩy một viên đạn lên nòng, đút khẩu súng lục vào túi áo véttông, nói:

- Maka ạ, hôm nay sao cậu có vẻ phởn thế? Ngồi nhà mình có năm phút thế mà đã ba lần mỉm cười…

- Xêmiôn ạ, làm cái việc thích thú thì cười chứ sao.

Họ leo qua cửa sổ ra ngoài, khép cánh cửa chớp lại, đứng một lát. Đêm ấm áp, từ phía dưới sông thoảng lên hơi gió mát, xóm làng thiêm thiếp ngủ, những lo âu bận rộn thanh bình trong ngày đã chấm dứt. Đâu đó một ả bò cái tơ rống lên, đằng cuối làng mấy con chó sủa, bên hàng xóm một chú gà sống bàng hoàng tỉnh giấc, nhẩm sai giờ cất giọng gáy không phải lúc. Maka và Đavưđốp lẳng lặng đi tới nhà Radơmiốtnốp. Maka gập ngón tay trỏ gõ rất khẽ vào khung cửa sổ. Một lát sau, trông thấy khuôn mặt Anđrây hiện ra lờ mờ, anh vẫy tay ra hiệu gọi, chỉ trỏ khẩu súng lục.

Đavưđốp nghe thấy trong nhà vọng ra một tiếng nói nén giọng, nghiêm nghị:

- Mình hiểu rồi. Ra ngay đây.

Radơmiốtnốp hiện ra ở bậc cửa gần như liền sau đó. Trước khi khép cửa lại, anh ngoái vào trong nhà nói bằng một giọng hơi bực dọc:

- Cô rắc rối lắm, Nhiurka ạ! Xôviết triệu tập lên có việc chứ người ta đi chơi đâu! Thôi ngủ đi, đừng thở dài nữa, anh về ngay bây giờ đây.

Ba người đứng xúm lại bên nhau. Radơmiốtnốp phấn khởi hỏi:

- Tóm được chúng nó rồi à?

Nagunốp thì thầm kể qua đầu đuôi câu chuyện.

… Cả ba người lẳng lặng bước vào căn nhà Iakốp Lukits. Radơmiốtnốp ngồi xổm tựa lưng vào chân tường âm ẩm bên cửa sổ. Anh thận trọng đặt ghếch nòng súng lục lên đầu gối, khỏi mỏi cổ tay phải vô ích.

Nagunốp bước lên bậc thềm đầu tiên, tới trước cửa, lắc canh cách cái vòng khóa cửa.

Ngoài sân và trong nhà Ôxtơrốpnốp im lặng như tờ. Nhưng cái im lặng nặng nề ấy kéo dài không lâu: từ trong hành lang vọng ra giọng Iakốp Lukits, nghe vang to lạ lùng:

- Quái, ai đêm hôm còn mò đến thế nhỉ?

Nagunốp đáp:

- Ông Iakốp Lukits ơi, xin lỗi, khuya rồi còn đến đánh thức ông, nhưng có việc, tôi với ông phải đi sang nông trường ngay bây giờ. Việc gấp lắm, không hoãn mai được.

Một phút im lặng ngắc lại.

Nagunốp đã sốt ruột dục:

- Thế nào? Mở cửa ra!

- Đồng chí Nagunốp ạ, khuya khoắt thế này, tối mò mò… Mấy cái then này… khó mở quá, đồng chí đợi cho tí.

Bên trong nghe có tiếng chốt sắt nặng lách cách, rồi tấm cửa nặng nề chỉ mở hé ra.

Nagunốp lấy vai trái đẩy mạnh cánh cửa, xô Iakốp Lukits vào tường, bước sấn vào hành lang, nói với qua vai bảo Đavưđốp:

- Lôi thôi quất luôn!

Một mùi nhà ở ấm áp lẫn với mùi hạt hống bố tươi xộc vào mũi Nagunốp. Nhưng lúc này anh chả thời giờ đâu mà để ý đến mùi vị. Tay phải lăm lăm khẩu súng lục, anh đưa tay trái nhanh nhẹn lần sờ tìm cánh cửa gian phòng xép, rồi đạp một cái bật tung cánh cửa chỉ cài chốt sơ sài.

- Ai thì nói ngay, không tao bắn!

Nhưng anh không kịp bắn: tiếp theo tiếng quát của anh, một quả lựu đạn nổ gầm lên ngay bên ngưỡng cửa, rồi một loạt súng máy choang choang, nghe thật rùng rợn trong đêm khuya tĩnh mịch. Liền sau đó, tiếng cửa kính vỡ loảng xoảng, một tiếng súng nổ lẻ loi ngoài sân, một tiếng ai kêu…

Nagunốp ngã quật xuống chết ngay tại chỗ, người nát mảnh lựu đạn. Đavưđốp xông vào phòng, kịp bắn bừa hai phát vào bóng tối rồi hứng luôn một tràng súng máy.

Anh ngã ngửa xuống, bất tỉnh nhân sự, đầu ngửa ra sau một cách đau đớn, bàn tay trái nắm chặt một mảnh gỗ cánh cửa bị đạn xé văng ra.

* * *

Chao ôi, không phải dễ dàng gì mà sự sống rứt khỏi cái lồng ngực rộng bị bắn xuyên thủng bốn lỗ của Đavưđốp…từ cái lúc các bạn anh khiêng anh về, dọc đường vấp dúi dụi trong đêm tối nhưng cố hết sức để anh khỏi bị lắc, chưa có một lần nào anh hồi tỉnh lại, và cuộc chiến đấu gay go của anh chống lại thần chết đã kéo dài mười sáu tiếng đồng hồ rồi…

Tảng sáng, một đôi ngựa chạy sùi cả bọt mép đã đưa ông bác sĩ phẫu khoa trên huyện về, một con người còn trẻ nhưng nghiêm trang trước tuổi. Ông vào phòng Đavưđốp nằm, ở đó không quá mười phút, và trong thời gian đó các đảng viên chi bộ Grêmiatsi và bao nhiêu nông trang viên ngoài Đảng yêu quý Đavưđốp đứng ngóng ngoài bếp trong sự im lặng căng thẳng, chỉ nghe thấy một lần từ trong phòng vẳng ra một tiếng rên nhẹ âm thầm của Đavưđốp, như tiếng rên trong mê. Bác sĩ bước ra bếp, lấy khăn lau tay, ống tay áo xắn cao, mặt tái nhợt, nhưng vẻ ngoài nom bình tĩnh. Ông cầm khăn lau tay, trả lời câu hỏi lặng lẽ của bà con đứng đấy:

- Không hy vọng gì. Chẳng tài nào cứu được. Anh ấy còn sống đến bây giờ cũng là lạ! Để anh ấy nằm nguyên đấy, đừng chuyển đi đâu cả, và nói chung không nên đụng chạm đến bệnh nhân. Nếu kiếm được đâu nước đá… mà thôi, không cần. Nhưng cần có người luôn luôn túc trực bên anh ấy.

Radơmiốtnốp và Maiđanhikốp theo gót bác sĩ ở trong buồng bước ra. Môi Radơmiốtnốp cứ run run, và đôi mắt ngây dại của anh ngơ ngác đảo nhìn gian bếp mà chẳng trông thấy đám bà con dân làng đứng túm tụm đấy. Maiđanhikốp đi, đầu cúi gằm, hai đường gân xanh nổi phồng lên kinh khủng hai bên thái dương, và hai nếp nhăn vắt ngang trán, gần sát sống mũi, đỏ ửng lên như hai vết sẹo. Mọi người, trừ Maiđanhikốp, túm tụm bước ra thềm, tản xuống sân. Radơmiốtnốp đứng đè ngực lên cổng hàng giậu, đầu rũ xuống, và hình như có những lớp sóng dội lên rung mạnh đôi bả vai anh. Ông lão Salưi bước tới hàng giậu, nắm lấy một cái cột gỗ sồi đã nghiêng, lay như điên như dại. Đemka Usakốp thì đứng úp mặt vào tường nhà kho như một học sinh bị phạt, lấy móng tay cạo cạo lớp vữa tường bị nước mưa xói lở, nước mắt ròng ròng lăn xuống má cũng chẳng buồn lau. Mỗi người chịu đựng một cách sự mất mát này, nhưng cái tang lớn đang trút lên đầu mọi người này là một niềm đau chung…

Đavưđốp qua đời đêm hôm ấy. Trước khi chết anh có hồi tỉnh lại một lát. Ngước mắt nhìn bác Suka đang ngồi bên đầu giường một cái, anh ngạt thở, nói:

- Có gì mà khóc thế hả bác? – Nhưng liền đó đờm và máu trong mồm anh ứa ra. Anh nghèn nghẹn cổ nuốt vài cái, ngả cái má nhợt nhạt xuống mặt gối, rồi phều phào mấy lời cuối cùng: - Không nên thế… - và cố mỉm cười.

Rồi rên dài một tiếng, anh nặng nề ruỗi thẳng người, và tắt thở…

… Thế là Đavưđốp và Nagunốp, hai con người mà tôi yêu quý, không còn nữa. Con chim họa mi miền sông Đông không còn hót cho họ nghe nữa, ngọn lúa chín vàng không còn thì thầm chuyện trò với họ nữa, và dòng sông không tên từ đâu đó trên thượng nguồn lũng Grêmiatsi chảy về không còn reo vui trên lòng đá sỏi róc rách bên tai họ nữa… Thế là hết!

* * *

Hai tháng trôi qua. Trên đầu Grêmiatsi Lốc vẫn lững lờ như vậy những đám mây trắng giờ đây đã ngả sang đám mây thu trên nền trời cao bạc phếch đi vì nắng hạ, nhưng lá cây dương đã dát vàng hai bên bờ con ngòi Grêmiatsi mà dòng nước đã trong vắt và lạnh giá. Và trên hai ngôi mộ của Đavưđốp và Nagunốp được mai táng ở cái bãi cách trường học một quãng, đã xuất hiện một lớp cỏ xanh úa còi cọc dưới sự ấp ủ của của cái nắng hiếm hoi mùa thu. Thậm chí lại còn có một cánh hoa thảo nguyên không tên nào đó nép vào thanh gỗ hàng rào mà vươn lên, cố khẳng định một cách muộn màng cuộc sống lay lắt của nó. Ngược lại ba ngọn hướng dương mọc ra sau những trận mưa vào tháng Tám cách hai ngôi mộ không xa, đã vươn lên cao được chừng nửa thước và đã bắt đầu nhẹ nhàng đung đưa mỗi khi có ngọn gió là là thổi qua bãi.

Hai tháng qua bao nhiêu nước đã chảy xuôi đi dưới lòng con ngòi Grêmiatsi. Làng xóm cũng có nhiều sự đổi thay. Chôn cất hai người bạn xong, bác Suka đã đuối đi trông thấy, khác hẳn đi, nom không nhận ra nữa: bác tránh những chỗ đông người, lầm lì ít nói, và càng mau nước mắt hơn trước… Ma chay xong, bác về nhà, nằm liệt giường bốn ngày đêm, và khi bác dậy thì bà lão không dấu nổi kinh hoàng, thấy miệng bác méo xệch đi và cả nửa bên trái mặt bác như lệch vẹo.

- Ông làm sao thế này? – bà lão hoảng hốt chắp hai tay kêu thốt lên.

Lưỡi hơi líu lại, bác Suka thản nhiên đáp, và đưa mu bàn tay lên quệt nước rãi ở góc mép trái rớt xuống:

- Có gì là lạ? Những người trai trẻ như thế mà còn nằm xuống thì tôi cũng đã đến lúc về chầu trời từ lâu rồi. Nhiệm vụ rõ chưa?

Nhưng khi lững thững đi ra bàn thì bác nhận thấy cẳng tay trái bác như bị liệt. Và cuốn điếu thuốc, bác khó nhọc mới cất nổi tay trái lên…

- Thôi đúng rồi, bà nó ạ, tôi bị liệt rồi, mả mẹ nó! Tôi thấy trong người nó khang khác, không như ít lâu trước. – Bác Suka vừa nói vừa ngạc nhiên nhìn bàn tay nó không chịu nghe bác sai khiến nữa.

Tuần lễ sau bác đã kha khá hơn, dáng đi đã vững hơn, không cần cố gắng cũng điều khiển được tay trái, nhưng bác từ chối dứt khoát không nhận làm xà ích nữa. Đến trụ sở nông trang, bác đã tuyên bố như vậy với Kônđrát Maiđanhikốp, chủ tịch mới của nông trang.

- Tôi xin từ cái chân đánh xe ngựa thôi, anh Kônđrát ạ, chả còn sức đâu mà trị được ngựa.

- Tôi với anh Radơmiốtnốp đã nghĩ về trường hợp của bác, - Maiđanhikốp đáp. – Nếu phân công bác làm thường trực gác cửa hàng hợp tác thì bác nghĩ sao? Chúng tôi sẽ dựng cho bác cái chòi ấm áp, mùa đông sẽ đặt vào đấy cái lò sưởi gang, làm cái ổ, và sẽ cấp cho bác một chiếc varơi bông, chiếc áo ngoài và đôi ủng dạ. Sống thế nghe thế nào? Bác sẽ có lương này, công tác nhẹ này, và quan trọng nhất là có việc làm cho đỡ buồn. Thế nào, bác đồng ý chứ?

- Giêsu lạy Chúa tôi, lão nghe cũng thấy hợp đấy. Cám ơn các anh đã không quên lão. Dù sao thì đêm lão vẫn kém ngủ và dạo này thì hoàn toàn chả chợp mắt được tí nào. Nhớ hai anh ấy, anh Kônđrát ạ, thế rồi giấc ngủ nó như trốn mình hẳn… Thôi, lão đi chia tay với mấy con ngựa rồi về nhà đây. Lão phải giao ngựa cho ai bây giờ?

- Cho cụ Bexkhlépnốp.

- Ông cụ ấy cứng cáp đấy, còn lão thì đuối lắm rồi. Hai anh Maka và Đavưđốp đã làm lão kiệt sức, và lão có bao nhiêu vía thì các anh ấy mang đi theo hết sạch… Còn các anh ấy thì lão cũng cố sống dấn thêm một hai năm nữa đấy, nhưng các anh ấy đi rồi, phải lăng xăng trên đời này lão thấy phát ớn… - Bác Suka buồn bã nói và lau mắt bằng cái chỏm mũ lưỡi trai cũ kỹ.

Từ đêm hôm ấy bác bắt đầu thường trực gác cửa hàng.

Mộ của Đavưđốp và Nagunốp bao bọc một hàng rào thấp, ở đối diện cửa hàng, cách một quãng không xa, và ngay ngày hôm sau, bác Suka mang cưa và rìu ra đóng một tấm ghế dài nhỏ đặt bên hàng rào. Đêm đêm bác sẽ ra đấy ngồi gác.

- Thế này là lão được gần các anh ấy… Có lão, các anh ấy nằm đây cũng vui hơn, và lão ngồi bên các anh ấy cũng thấy đêm ngắn đi nhiều. Anh Anđrây ạ, đời lão không có con, ấy thế mà lão cảm thấy như mình đã mất luôn một lúc hai đứa con… Và cái tim lão, mả mẹ nó, ngày đêm nó cứ đau nhoi nhói, không để cho lão yên lúc nào! – bác nói với Radơmiốtnốp như thế.

Và Radơmiốtnốp, giờ đây là bí thư chi bộ, nói chuyện với Maiđanhikốp, tỏ vẻ lo lắng:

- Kônđrát à, cậu có thấy bác Suka nhà ta dạo này già đi tợn không? Ông lão sầu não về hai anh ấy thế nào mà nom người không còn nhận ra nữa. Xem có vẻ cũng sắp về đến nơi rồi… Đầu cứ lẩy bà lẩy bẩy, và tay thì đầy nốt đen. Lạy Chúa, ông lão đi thì sẽ là cái tang đau đớn cho bà con ta đấy! Ta đã quen có ông lão lẩm cẩm ấy rồi, ông ấy đi thì làng xóm sẽ cảm thấy có cái gì trống trống.

Ngày đã ngắn hơn, và khí trời trong trẻo hơn. Gió không đưa tới hai ngôi mộ mùi hương hăng hắc của cây ngải cứu ngoài thảo nguyên nữa mà là mùi rơm lúa mới đập la liệt ở sân kho phía sau làng.

Làng bắt đầu đập lúa thì bác Suka cảm thấy vui lên: cho đến tận khuya, máy quạt lúa chạy ầm ầm trong các nhà kho, trục đá lăn lục cục trên nền đất nện, tiếng người í ới xen lẫn với tiếng ngựa hí. Rồi tất cả lặng tờ. Đêm đã dài và tối hơn, và tiếng động ban đêm cũng khác hẳn: bây giờ đó là tiếng thở than của con sếu trên nền trời đen thẫm, tiếng gọi nhau buồn bã của con mòng mòng, tiếng kêu khàn khàn của ngỗng và tiếng cánh vù vù của đàn vịt giời bay qua.

- Chim kéo nhau đi tìm nơi ấm, - bác Suka lắng nghe tiếng chim lao xao từ trời cao vọng xuống như vẫy gọi và thở dài trong cảnh cô đơn của mình.

Một hôm, lúc trời đã tối, một người đàn bà trùm khăn đen nhẹ bước tới chỗ bác Suka rồi dừng lại, im lặng.

- Ai thế vầy, lạy Chúa? – bác hỏi, cố nhìn xem ra là ai, nhưng chịu.

- Cháu đây, ông ơi, Varia đây mà…

Bác Suka đem hết khả năng nhanh nhẹn còn lại của mình rời ghế đứng dậy:

- Ôi, cháu, cháu đã về đây à? Thế mà lão cứ tưởng cháu quên bà con làng xóm rồi đấy… Ôi, cháu Varia Hẩm hiu ơi, anh ấy đi, để lại hai bác cháu ta côi cút thế này! Vào đây, cháu ơi, mộ anh ấy đây, bên góc này… Cháu ngồi với anh ấy một tí, để lão đi xem lại cửa hàng đã khóa kỹ chưa. Lão canh cửa mà, lắm việc lắm, đủ cho cái tuổi của lão… Đủ, cháu ạ!

Ông lão lật đật bước thấp bước cao đi qua cái bãi và một tiếng đồng hồ sau mới trở lại. Varia đang quỳ bên mộ Đavưđốp, nhưng nghe thấy tiếng ho húng hắng tế nhị của bác Suka, cô đứng dậy, bước ra ngoài, loạng choạng, và sợ hãi vịn vào hàng rào. Cô đứng lặng thinh. Ông lão cũng lặng thinh. Rồi cô khẽ nói:

- Cháu cám ơn ông đã để cho cháu được ở lại một mình với anh ấy…

- Có gì đâu. Bây giờ định thế nào, hả cháu?

- Cháu về hôm nay là về hẳn. Cháu đi từ sáng sớm, khuya mới về đến đây để không ai trông thấy…

- Việc học hành thì thế nào?

- Cháu bỏ rồi. Cháu phải về kiếm ăn nuôi nhà.

- Anh Xêmiôn của chúng ta chắc sẽ không bằng lòng thế đâu, lão nghĩ như vậy.

- Cháu biết làm thế nào hả ông ơi? – Giọng Varia nói run run.

- Lão chả biết khuyên cháu thế nào đâu, cháu ạ, tự cháu xét thôi. Có điều là không nên làm anh ấy buồn, anh ấy yêu cháu lắm, thực tế thế!

Varia quay ngoắt người, và không phải đi, mà cắm cổ chạy qua bãi, vừa chạy vừa khóc nấc lên. Cô không đủ sức để chào ông lão nữa.

Và trên nền trời đen thăm thẳm, tiếng kêu rền rĩ và gọi tới nơi đâu của những đàn sếu bay qua vang lên cho tới lúc rạng đông, bác Suka không chợp mắt, cứ ngồi gù gù trên tấm ghế, thở dài, làm dấu và khóc…

* * *

Dần dần, ngày này qua ngày khác, cái mớ bòng bong của vụ âm mưu phản cách mạng chuẩn bị gây bạo loạn ở vùng sông Đông đã được gỡ ra.

Ba ngày sau khi Đavưđốp chết, các cán bộ công an khu từ Rôxtốp về Grêmiatsi Lốc, đã dễ dàng nhận diện tên bị Radơmiốtnốp bắn chết nằm trong sân nhà Ôxtơrốpnốp, là tên Liachépxki, nguyên thiếu úy đội bạch quân tình nguyện, một kẻ tội phạm đang bị truy nã từ lâu nay.

Ba tuần sau, một người mặc thường phục, dáng dấp không có gì đáng chú ý, đã đến một nông trường quốc doanh cách Tasken không xa, tìm gặp viên kế toán đã đứng tuổi, tên là Kalasnhikốp, mới xin vào làm ở đây ít lâu nay. Người ấy cúi xuống bên bàn viên kế toán, nói nhỏ:

- Ngài kiếm được cái chỗ hay quá nhỉ, thưa ngài Pôlốptxép… Im! Ta ra ngoài kia một phút, mời ngài đi trước!

Ngoài hiên, một người khác cũng mặc thường phục, tóc hoa râm, đã đợi họ sẵn ở đó. Người này không có thái độ rất mực lễ phép và từ tốn như anh bạn ít tuổi hơn kia, và vừa trông thấy Pôlốptxép đã bước sấn tới, mặt tái đi vì căm thù, chớp chớp mấy cái, nói:

- Đồ sâu bọ! Mày bò xa đấy… Mày tưởng chui vào cái hốc này thì thoát được tay chúng tao phỏng? Mày cứ đợi đấy, rồi về Rôxtốp ta sẽ nói chuyện với mày! Trước khi chết mày sẽ còn được múa may…

- Ôi, sợ quá! Ôi, ông anh làm tôi hãi quá! Tôi cứ run bắn cả người, như cầy sấy! – Pôlốptxép dừng lại trên thềm, mỉa mai nói, rồi châm một điếu thuốc lá rẻ tiền, hút. Y lừ lừ nhìn người cán bộ công an bằng đôi mắt cười cợt và căm thù.

Y bị khám ngay tại chỗ, trên thềm ấy. Y nhẫn nhục quay người cho khám, và nói:

- Tôi bảo các anh, đừng mất công vô ích! Súng tôi không mang theo: ở đây thì tôi tha nó theo mình làm gì? Khẩu Maude của tôi, tôi giấu nó trong buồng tôi. Về đấy mà tìm!

Trên đường về nhà, y nói năng thản nhiên, và lý sự với người cán bộ công an tóc hoa râm:

- Anh ngây thơ lắm, anh định lấy gì để làm tôi sợ? Lấy tra tấn ư? Không ăn thua, tôi đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng chịu đựng tất cả. Vả lại tra tấn tôi là một việc vô nghĩa, vì tôi sẽ không giấu giếm quanh co gì, sẽ kể hết, dứt khoát là kể hết những gì tôi biết! Tôi lấy danh dự sĩ quan hứa như vậy. Đằng nào các anh cũng chỉ giết chết tôi được một lần thôi, và chết thì tôi đã sẵn sàng từ lâu rồi. Chúng tôi đã thua, và sống đối với tôi không còn ý nghĩa gì nữa. Đó không phải là câu văn hoa mỹ miều đâu, tôi không phải kẻ hợm hĩnh thích làm ra vẻ, mà đó là sự thật cay đắng đối với tất cả chúng tôi. Trước hết đây là vấn đề danh dự: thua thì phải trả! Tôi thua, tôi sẵn sàng đem tính mạng mình ra để trả! Lạy Chúa, chả có gì đáng sợ!

- Im mồm, bỏ cái thói huênh hoang ấy đi, còn muốn trả thì mày sẽ được trả, - người mà Pôlốptxép vừa mới đọc bài diễn văn khoa trương ấy cho nghe, khuyên y.

Khám xét buồng y, ngoài khẩu Maude ra không thấy tang vật gì nữa. Trong chiếc vali gỗ dán của y không có một thứ giấy tờ nào. Nhưng trên mặt bàn lại có đủ hai mươi nhăm quyển Lênin toàn tập xếp ngay ngắn.

- Cái này của anh phải không? – anh cán bộ hỏi Pôlốptxép.

- Phải.

- Anh giữ những sách này làm gì?

Pôlốptxép mỉm cười  ngạo mạn:

- Muốn tiêu diệt kẻ thù thì phải biết vũ khí của nó…

Y đã giữ lời hứa: trong cái buổi hỏi cung ở Rôxtốp, y đã khai ra tên đại tá Nhikônxki – Tóc bạc, tên đại úy Kadantxép, và nhớ được tên những ai ở Grêmiatsi Lốc và các ấp lân cận đã tham gia tổ chức của y thì khai ra người ấy. Nhikônxki đã tố giác những người còn lại.

Một làn sóng bắt bớ lan ra khắp vùng biển Adốp – Hắc Hải. Hơn sáu trăm người kôdắc tham gia vụ âm mưu ấy, trong đó có hai bố con Ôxtơrốpnốp, đã bị đưa ra tòa án đặc biệt xử tù theo những hạn tù khác nhau. Trong bọn chúng chỉ có những kẻ trực tiếp thực hiện những hành động khủng bố giết người là bị đem ra bắn. Pôlốptxép, Nhikônxki, Kadantxép, tên trung tá Xavachêép ở tỉnh Xtalingrát cùng hai tên trợ thủ của y và, ngoài ra, chín tên sĩ quan và tướng tá bạch vệ nữa sống ở Mátxcơva dưới tên họ giả, đều bị xử bắn. Trong số chín tên bị bắt ở Mátxcơva và các thị trấn lân cận có cả một tên trung tướng kôdắc nổi tiếng trong hàng ngũ đội quân Đênhikin. Y trực tiếp lãnh đạo vụ âm mưu này và giữ liên lạc đều đặn với các tổ chức sĩ quan di cư ở nước ngoài. Chỉ có bốn tên trong trung tâm lãnh đạo là lọt được lưới vây bắt ở Mátxcơva và bằng đường này đường khác trốn được ra nước ngoài.

Thế là chấm dứt cái mưu đồ tuyệt vọng đã bị lịch sử lên án ngay từ trong trứng nước, cái mưu đồ phản cách mạng nổi dậy chống Chính quyền xôviết ở miền nam đất nước.

* * *

Varia trở về làng được mấy ngày thì Anđrây Radơmiốtnốp đi công tác ở Sakhơtư cũng trở về. Theo đề nghị của Maiđanhikốp anh lên đó để mua một đầu máy động cơ hơi nước cho nông trang. Tối hôm ấy ba người, là Maiđanhikốp, Radơmiốtnốp và Ivan Naiđênốp – bí thư chi đoàn Kômxômôn tổ chức ở Grêmiatsi Lốc – ngồi chơi rất khuya ở trụ sở nông trang. Radơmiốtnốp kể chuyện tỉ mỉ chuyến đi mua máy, rồi hỏi:

- Nghe nói Varia Kharlamôva đã bỏ học về làng, và hình như có đến gặp Đúpxốp xin vào đội cậu ấy, có đúng không?

Maiđanhikốp thở dài:

- Đúng. Bà cụ và lũ nhỏ nhà cô ấy lấy gì mà sống? Thế cho nên cô ấy mới phải bỏ học. Đáng tiếc, con bé có nhiều khả năng.

Xem ra Radơmiốtnốp đã nghĩ đâu ra đó về trường hợp Varia rồi, và lúc này anh phát biểu với một niềm tin chắc chắn sẽ được anh em đồng tình.

- Cô ấy là vợ chưa cưới của Xêmiôn. Cô ấy cần phải học. Xêmiôn muốn như vậy. Cho nên ta phải làm như vậy. Mai ta sẽ triệu cô ấy đến đây, giải thích cho cô ấy rồi trả cô ấy trở lại trường, còn gia đình cô ấy thì nông trang sẽ trợ cấp. Đavưđốp không còn sống với chúng ta nữa thì chúng ta phải nhận trách nhiệm chăm lo gia đình anh ấy. Đồng ý cả chứ?

Maiđanhikốp lặng lẽ gật đầu, còn anh chàng Ivan Naiđênốp sôi nổi thì nắm chặt lấy tay Radơmiốtnốp mà reo lên:

- Chú Anđrây ơi, chú hay lắm!

Đến đây, Radơmiốtnốp chợt nhớ ra:

- À, các cậu ạ, mình quên kể các cậu nghe… Các cậu có biết ở Sakhơtư, đi ngoài đường mình gặp ai không? Thử đoán xem ai nào? Luska Nagunôva, các cậu ạ! Mình đang đi thì thấy một mụ béo ị đi cạnh một người đàn ông đầu hói cũng béo ị… Mình nhìn, và đâm ra hoang mang: không biết có phải không nhỉ? Cái  mặt tròn vành vạnh, cái mắt húp híp, và muốn ôm thì phải nối thêm một cánh tay nữa. nhưng xem dáng đi thì đúng cô ả. Mình mới bước tới, chào, rồi hỏi: “Luska, có phải cô đấy không?!”. Ả ấy đáp: “Thưa ông, tôi không quen ông”. Mình cười, bảo ả: “Cô quên bà con làng xóm nhanh gớm nhỉ! Cô là Luska vợ cậu Nagunốp chứ gì?”. Mụ ấy cắn môi, theo cái lối tỉnh thành mà, và nói: “Phải, trước kia là vợ Nagunốp, trước kia là Luska đấy, nhưng bây giờ thì là Lukêria Nhikititsna Xviriđôva rồi. Xin giới thiệu, đây là nhà tôi, Xviriđốp, kỹ sư mỏ”. Mình bắt tay lão kỹ sư, lão ấy nhìn mình như nhìn một con quỷ: chắc lão ấy lấy làm lạ tại sao mình, lại ăn nói với vợ lão ấy tự nhiên như thế? Rồi hai vợ chồng mụ ấy bỏ đi, cả hai nom ục ịch, và có vẻ mãn nguyện lắm. Mình nghĩ bụng: “Các mẹ ấy mạnh thật! Chả trách mà cậu Maka suốt đời đã nổi dậy chống lại các mẹ ấy! Mẹ ấy chưa kịp chôn xong hai chàng Chimôphây và Maka mà đã vớ được ngay anh thứ ba rồi!”. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ nó vớ hay không vớ, mà là ở chỗ nó làm sao mà đắp được vào người lắm mỡ thế?! Mình cứ đứng giữa phố, ngẩn ngơ nghĩ mãi cái chuyện ấy. Và không hiểu sao trong bụng buồn buồn, tiếc cái ả Luska xưa, trẻ trung, chanh chua, xinh đẹp, không phải là cái ả mà mình sống cùng làng, va chạm hàng ngày đâu, mà cái ả ngày xưa đêm đêm mình vẫn nằm mơ thấy… - Và Radơmiốtnốp thở dài: - Thế đấy, các cậu ạ, cuộc đời xoay vần lắm lúc đến là oái oăm! Đôi khi nó xoay mà mình không thể nào tưởng tượng được! Thôi, ta về thôi chứ?

Họ bước ra hiên. Bên kia sông Đông, những đám mây dông đen kịt kéo ùn ùn, những tia chớp rạch xé bầu trời, sấm ầm ì vang động.

- Quái thật, năm nay dông muộn thật đấy, đến bâygiờ còn dông! – Maiđanhikốp nói. – Ta đợi xem dông tí chăng?

- Các cậu xem thì xem, mình về đây. Radơmiốtnốp bắt tay hai người rồi nhanh nhẹn chạy xuống thềm.

Anh đi ra sau làng, dừng chân một lát, rồi lững thững đi tới nghĩa địa ngoài xa kia, vòng qua những cây thập tự hiện lên mờ mờ, những ngôi mộ và bức tường rào bằng đá đã đổ nát mất một nửa. Anh đi tới cái chỗ lòng anh bắt anh phải đến. Anh ngả mũ, đưa tay phải lên vuốt lại mái tóc hoa râm, rồi nhìn ngôi mộ sụt lở, anh thì thầm nói:

- Em Épđôkia ơi, anh thật không phải với em, anh đã không biết chăm nom chu đáo nơi an nghỉ cuối cùng của em… - Anh cúi xuống, nhặt một hòn đất khô, bóp vụn trong tay, rồi lầm rầm nói: - Cho tới nay anh vẫn yêu em, người duy nhất anh yêu trong suốt cả đời anh và không bao giờ quên được… Nhưng bận quá, em ạ… Chả mấy khi chúng mình gặp được nhau… Em vui lòng bỏ quá cho mọi điều sơ suất của anh… Mọi điều anh ăn ở không phải đạo với em từ ngày em qua đời…

Đầu trần, lưng gù gù như ông lão, anh đứng đó hồi lâu không nhúc nhích, như lắng tai đợi một câu trả lời. Gió ấm phả vào mặt anh, lác đác rắc những hạt mưa âm ấm… Bên kia sông Đông, những ánh chớp nguồn bừng lên sáng rực, và đôi mắt nghiêm nghị và buồn buồn của Anđrây giờ đây không còn nhìn xuống nữa, không còn nhìn ngôi mộ thân yêu bốn bề sụt lở nữa, mà nhìn ra xa xa, phía chân trời mịt mùng kia, nơi một nửa bầu trời vừa mới bừng lên ánh bình minh đỏ rực; nơi đang có cơn dông cuối cùng trong năm nay, cơn dông hùng vĩ và sôi sùng sục như giữa những ngày hè nóng nực, lay tỉnh thiên nhiên đang thiêm thiếp ngủ.

1932 – 1959

HẾT

Không có nhận xét nào: