Thứ Tư, 12 tháng 10, 2016

Tên Tôi Là Đỏ :Tập I

clip_image002

Tên Tôi Là Đỏ

Orhan Pamuk

Nhà Xuất bản Văn Học 2008

Người dịch: Phạm Viêm Phương

Hình thức: Bìa mềm

Khổ: 15 x 24

Số trang: 580

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1TÔI LÀ MỘT TỬ THI

CHƯƠNG 2TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

CHƯƠNG 3TÔI LÀ MỘT CON CHÓ

CHƯƠNG 4TÔI SẼ BỊ GỌI LÀ KẺ SÁT NHÂN

CHƯƠNG 5TÔI LÀ DƯỢNG YÊU QUÝ CỦA CHÁU

CHƯƠNG 6TÔI LÀ ORHAN

CHƯƠNG 7TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

CHƯƠNG 8TÔI LÀ ESTHER

CHƯƠNG 9TÔI, SHEKURE

CHƯƠNG 10TÔI LÀ MỘT CÁI CÂY

CHƯƠNG 11TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

CHƯƠNG 12TÔI ĐUỢC GỌI LÀ “KELEBEK”

CHƯƠNG 13TÔI ĐUỢC GỌI LÀ “LEYLEK”

CHƯƠNG 14TÔI ĐUỢC GỌI LÀ “ZEYTIN”

CHƯƠNG 15TÔI LÀ ESTHER

CHƯƠNG 16TÔI, SHEKURE

CHƯƠNG 17TÔI LÀ DƯỢNG YÊU QUÝ CỦA CHÁU

CHƯƠNG 18TÔI SẼ BỊ GỌI LÀ KẺ SÁT NHÂN

CHƯƠNG 19TÔI LÀ MỘT ĐỒNG TIỀN VÀNG

CHƯƠNG 20TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

CHƯƠNG 21TÔI LÀ DƯỢNG YÊU QUÝ CỦA CHÁU

CHƯƠNG 22TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

CHƯƠNG 23TÔI SẼ ĐƯỢC GỌI LÀ MỘT KẺ SÁT NHÂN

CHƯƠNG 24TÔI LÀ THẦN CHẾT

CHƯƠNG 25 TÔI À ESTHER

CHƯƠNG 26TÔI, SHEKURE

CHƯƠNG 27TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

CHƯƠNG 28TÔI SẼ BỊ GỌI LÀ TÊN GIẾT NGƯỜI

CHƯƠNG 29TÔI LÀ DƯỢNG YÊU QUÝ CỦA CHÁU

CHƯƠNG 30TÔI, SHEKURE

CHƯƠNG 31TÔI LÀ ĐỎ

CHƯƠNG 32TÔI, SHEKURE

CHƯƠNG 33TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

CHƯƠNG 34TÔI, SHEKURE

GIỚI THIỆU

Orhan Pamuk, “một trong những tiếng nói mới mẻ và độc đáo nhất trong văn chương đương đại” như lời Independent on Sundaynhận xét, đã viết nhiều cuốn sách, trong đó có Pháo đài trắng và Cuộc đời mới.

Năm 2003, ông nhận giải International IMPAC Dublin cho cuốn Tên tôi là Đỏ, và năm 2004, Faber ấn hành bản dịch tiếng Anh cuốn Tuyết của ông, được Margaret Atwood ca ngợi là “cuốn sách không thể thiếu của thời đại chúng ta”.

Istanbul, một ghi chép của ông về cuộc sống nơi thành phố này, đã được đề cử giải Samuel Johnson của BBC4, được Kate Hickman trong New Statesman gọi là “đẹp đẽ một cách phi thường và siêu việt”, Orhan Pamuk hiện đang sống ở Istanbul.

Tác phẩm của ông có sự phức tạp tinh tế của tấm hoa văn Hồi giáo trung cổ, một hiệu quả đã được đánh giá xứng đáng, bởi hiểu biết của Pamuk về quá khứ văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ thì chỉ có sự quan tâm của ông đối với triển vọng của các hình thức truyện kể hiện đại mới sánh nổi... Chỉ riêng với tư cách một suy ngẫm về nghệ thuật Tên tôi là Đỏ đã tinh tế một cách điêu luyện, đòi hỏi sự chú tâm sát cao nhất và cũng đáp đền xứng đáng.”

Tom Holland, Daily Telegraph.

“Nó bao hàm cả tiểu thuyết trinh thám,khảo luận nghệ thuật và thriller tâm lý. Trên hết người đọc được tiếp xúc với một lời than khóc bi thương và siêu phàm dành cho tài nghệ truyền thống đã bị lịch sử chôn vùi và bị thời thượng coi rẻ.”

Murrough O'Brien, Independenton Sunday.

“Đọc cuốn sách này cũng giống như đang ở trong một giấc mơ phương xa thần diệu. Nhưng nó cũng bao hàm tính trí tuệ thực tế. Pamuk đã viết với niềm vui to lớn... Đó là một cuốn sách bạn có thể chìm đắm vào trong, và ai làm vậy sẽ được nếm trải sự sung sướng.”

Alan Massie, The Scotsman.

“Thuyết phục một cách đau lòng... Cuốn sách này về hình thức vừa thông minh, vừa dí dỏm và nói về những vấn đề nghiêm túc. Nhưng ngay có lời mô tả này cũng chưa nói hết được điều theo tôi đã làm nên sự lớn lao đích thực của cuốn tiểu thuyết, vốn nằm ở chỗ nó thực hiện được một cách thoải mái những gì các tiểu thuyết gia vẫn luôn cố gắng vươn tới nhưng rất ít người làm được. Nó truyền đạt lại đời sống hàng ngày giữa vấn vít xúc cảm, óc não và thể xác một cách đầy thuyết phục, và nó thực hiện điều đó với đầy trắc ẩn, rộng lượng, nhân tình.”

Dick Davis, Times Literary Supplemen

“Một cuốn thriller triết học xây dựng xung quanh sự va chạm giữa hai quan niệm về ý nghĩa nghệ thuật, cũng là một vực thẳm giữa hai nền văn minh khác biệt. Những tác phẩm lớn luôn nói về thời đại của mình, trong tuần lễ đầy những vụ đánh bom tự sát ở Mỹ, tiểu thuyết  xuất sắc này lớn tiếng đòi ta phải chú ý... Đó là một tác phẩm thâm thúy với căn rễ sâu xa. Vượt xa một 'tiểu thuyết lịch sử' thông thường, nó có một động lực tự sự khó quên thống nhất cả quá khứ lẫn hiện tại, cũng như tài năng nghệ thuật đỉnh cao với tự hấp dẫn đại chúng đã biến Pamuk thành tác giảđương đại lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ... Kinh Koran có nói, “Cả miền đông lẫn miền tây đều nằm trong Thượng đế”. Trong tác phẩm hiếm có và tuyệt diệu này, Pamuk đã đưa ra được lời khẳng định tương tự về sự cảm thông thống nhất khi biên giới đó.”

Hywel Williams, Guardian.

“Một hỗn hợp sắc bén giữa truyện vụ án, ngụ ngôn hậu hiện đại và tiểu thuyết lãng mạn lịch sử. Tất sẽ gợi ra so sánh với Tên của đóa Hồng của Umberto Eco và quả chúng có những tương đồng rộng lớn, cho dù phong cách mãnh mẽ và cách xây dựng cá tính nhân vật tinh tế của Pamuk là hoàn toàn của riêng ông... Tên tôi là Đỏ với những câu chuyện lồng trong chuyện, tự biện triết học và những nhân vật phức tạp là một minh chứng tuyệt vời về những gì tiểu thuyết có thể làm được...Mê hồn.”

S.B.Kelly, Scotland on Sunday

“Kỳ vĩ…Trong cái thế giới toàn hàng giả dễ khiến con người mất lòng tin vào văn học này, Pamuk là thực chất, và cuốn sách này có lẽ cũng thuộc vào số ít những tác phẩm văn chương ra đời gần đây sẽ còn được nhớ đến vào cuối thế kỷnày.”

Avkat Altinel, Observer.

“Hơn tất cả mọi muốn sách khác mà tôi còn nhớ được, nó không chỉ tóm tắt được những mâu thuẫn quá khứ và hiện tại của Istanbul, mà cả cái đẹp kinh hồn, vĩnh hằng của đô thành này. Nói cách khác, nó gần như hoàn thiện. Tất cả nhũng gì nó cần có là một giải Nobel.

Maureen Freely, New Statesman.

“Huyền hoặc, điên đầu, kích thích... khác hoàn toàn so với thể loại thriller lịch sử truyền thống phương Tây... Đây là một cuốn tiểu thuyết tuyệt diệu, mơ màng, nồng nàn và tráng lệ, mang chất phương xa một cách độc đáo và lôi cuốn nhất.”

Philip Hensher, Spectator.

“Nguời phương Tây chúng ta chỉ còn biết tạ ơn trời rằng trên đời có một tiểu thuyết gia như Orhan Parmuk tồn tại, để làm cầu nối giữa chúng ta với một nền văn hóa khác, thuộc một di sản cũng giàu có như của chúng ta vậy.”

Tom Holland, Daily Telegraph.

“Pamuk đã chứng tỏ sự kiên nhẫn và khả năng xây dựng của những người kể chuyện thế kỷ 19 và các truyền nhân của họ, Proust và Mann... và năng lực tưởng tượng của ông dược gắn kèm với một cảm quan sâu xa về bí ẩn và song nghĩa.”

John Updike, The New Yorker.

Istanbul cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XVI. Vua Thổ Nhĩ Kỳ bí mật cho khởi thảo một cuốn sách vĩ đại để ca tụng sinh bình và đế quốc của mình, được trang trí bởi những họa sĩ giỏi nhất thời bấy giờ - theo lối Tây phương. Nhưng khi một trong những nhà tiểu họa bị giết chết, sư phụ của họ đã buộc phải tìm đến sự giúp đỡ từ bên ngoài. Cái chết của người họa sĩ là do kình địch nghề nghiệp, ghen tuông luyến ái hay là khủng bố tín ngưỡng?

Là một tiểu thuyết vụ án ly kỳ, Tên tôi là Đỏ còn là một chiêm nghiệm  tuyệt diệu về tình yêu, đam mê nghệ thuật và những căng thẳng giữa Đông và Tây.

ĐÔI LỜI CỦA NHŨNG NGƯỜI DỊCH

Lời đầu tiên mà chúng tôi muốn thưa cùng bạn đọc là một lời tạ lỗi, vì chúng tôi đã không thể dịch từ tiếng Thổ, ngôn ngữ sáng tác đích thực của tác giả, mà phải dịch qua bản tiếng Anh, nghĩa là chúng tôi không thể uống nước tận nguồn, và như thế chắc chắn đã không thể thấu hiểu và chuyển tải được mọi ý nghĩ tinh tế và thâm trầm (mà chúng tôi có thể mường tượng được cho dù chỉ đọc qua bản tiếng Anh), của tác giả. Tuy nhiên, chúng tôi cũng mong các bạn chia sẻ niềm tin vào độ trung thực trong bản tiếng Anh của Erdag M. Goknar, vì bản dịch này đã đem về cho tác giả nhiều giẢi thưởng văn học giá trị của nhiều nước châu Âu và giúp tác giả tiếp cận với độc giả thế giới cũng như ban giám khảo của giải Nobel.  Điều thứ nhì, để cứu vãn phần nào khuyết điểm nói trên, chúng tôi đã cố gắng giữ lại không khí Istanbul cũng như sắc thái Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách trả nhiều địa danh và nhân danh về tiếng Thổ (dĩ nhiên là dưới dạng phiên âm La tinh hóa). Trong bản tiếng Anh, với mục tiêu tạo dễ dàng cho người đọc phương Tây, dịch giả E . Goknar đã chuyển hầu hết địa danh và nhân danh, cũng như các tên tựa của nhiều cổ thư Thổ Nhĩ Kỳ được đề cập trong tác phẩm, sang tiếng Anh. Chúng tôi cho rằng làm như thế là thiếu tôn trọng bản sắc Thổ Nhĩ Kỳ (nghĩa là thiếu tinh thần dân chủ) của nguyên tác. Để làm công việc này, chúng tôi dựa hoàn toàn vào thông tin trên Internet, qua rất nhiều trang web mà chúng tôi không thể liệt kê hết ở đây. Có nhiều tên tựa cổ thư và địa danh không hề có trên Internet, điều này khiến chúng tôi nghĩ rằng chúng là sản phẩm hư cấu của Pamuk, do đó không thể truy nguyên được tên gọi bằng tiếng Thổ ra sao. Với những trường hợp này, chúng tôi đành dịch ra tiếngViệt (theo bản tiếng Anh) và không thể chú thích gì cả.

Ví dụ, trong truyện, có năm nhà tiểu họa được đặt nghệ danh riêng. Vì họ là sản phẩm hư cấu nên không thể có thông tin trên Internet.

Những nghệ danh ấy đã được dịch sang tiếng Anh, chúng tôi không thể biết nguyên gốc tiếng Thổ là gì và do đó đành trả về tiếng Thổ bằng cách sử dụng Tự điển Anh-Thổ một cách tương đối mà không thể biết đích xác cách trả về ấy có đúng nguyên tác không vì như ta biết trong ngôn ngữ nào cũng có nhiều từ đồng nghĩa. Những nghệ danh ấy trong bản tiếng Anh, là Black (Siyah; nghĩa là “Đen”), Butterfly (Kelebek:“Bướm”), Olive (Zeytin: Cây Ô liu), Elegant (Zarif:“Tao nhã” và Stork (Leylek:“Con cò”). Rất mong độc giả lượng thứ cho việc này vì mục tiêu gìn giữ không khí lstanbul của tác phẩm. Những chi tiết nào có thông tin trên mạng, chúng tôi đều đưa vào chú thích để độc giả có thể hiểu tác phẩm rõ hơn. Và như đã nói trên, chúng tôi không muốn làm rườm rà cuốn sách qua việc liệt kê các nguồn thông tin đã sử dụng, tuy rằng việc này có nghĩa là vi phạm tác quyền.

Một chi tiết thú vị mà chúng tôi biết được khi truy nguyên các chi tiết trong tác phẩm là: tên nhân vật Shekure là tên mẹ ruột của tác giả, còn tên Orhan và Shevket (hai đứa con của Shekure) chính là tên của tác giả và người anh của ông, một nhà sử học đang giảng dạy tại Đại học Bogazici ở Istanbul.

Và điều sau cùng, vốn là hệ quả của dòng suy nghĩ nói trên, mà chúng tôi muốn thưa với độc giả bản dịch này là: những điều lý thú mà quí vị cảm nhận được qua bản dịch đều là của tác giả Pamuk, còn những hạt sạn tức những điều khó chịu, trong tiểu thuyết này, chắc chắn là do lỗi của chúng tôi, những người dịch.

CHƯƠNG 1
TÔI LÀ MỘT TỬ THI

Bây giờ tôi chẳng là gì cả ngoài một tử thi, một cái xác ở dưới đáy một cái giếng. Tuy tôi trút hơi thở cuối cùng đã lâu rồi và tim tôi đã ngừng đập, nhưng không một ai, ngoài tên sát nhân xấu xa ấy, biết được chuyện gì đã xảy ra cho tôi. Còn với tên đê tiện đó, nó đã sờ tìm cái ví của tôi và lắng nghe hơi thở của tôi để chắc rằng tôi đã chết, rồi đá vào bụng tôi, vác tôi đến mé giếng, nâng tôi lên và thả tôi xuống dưới. Khi rơi, cái đầu tôi vốn bị hắn đập bằng một hòn đá, đã vỡ toác; khuôn mặt tôi, cái trán và hai má, bị giập nát; nhiều xương bị vỡ vụn, và miệng tôi đầy máu.

Trong gần bốn ngày tôi mất tích: vợ và các con tôi hẳn đã cố tìm tôi; con gái tôi, rũ liệt vì than khóc, hẳn đang rầu rĩ nhìn ra cổng trước sân. Phải, tôi biết cả nhà tôi đang ở bên cửa sổ hy vọng thấy tôi trở về.

Nhưng họ có thực sự chờ đợi không? Tôi thậm chí không chắc được điều đó. Có lẽ họ đã quen với sự vắng mặt của tôi - buồn thay! Vì ở đây, phía bên kia, người ta có cảm giác rằng cuộc sống trước đây của mình vẫn tiếp diễn. Trước khi tôi ra đời, đã có thời gian vô định, và sau cái chết của tôi, thời gian bất tận. Tôi chưa từng nghĩ về điều này trước đây: tôi đã sống một cách rực rỡ giữa hai khoảng vô tận của bóng đêm.

Tôi hạnh phúc; bây giờ tôi nhận ra rằng mình đã hạnh phúc.

Tôi đã làm được những họa tiết trang trí đẹp nhất trong xưởng của Đức vua; không ai sánh được với tay nghề bậc thầy của tôi.

Qua công việc làm riêng ấy, tôi đã kiếm được chín trăm đồng bạc một tháng. Điều đó, dĩ nhiên, chỉ khiến toàn bộ sự vụ này càng khó chịu đựng hơn.

Tôi đảm nhiệm việc vẽ hình và trang trí cho những cuốn sách.Tôi tô dát mép trang giấy, sơn vẽ các khoảng lề bằng những họa tiết lá, cành, hoa hồng, các loài hoa khác và chim giống y như thật. Tôi vẽ những đám mây vân vi kiểu Trung Hoa, những đám lá nho chồng lên nhau và những cánh rừng đầy màu sắc che khuất lũ nai, những thuyền buồm, các tiểu vương, cây cối, cung điện, bọn ngựa và các thợ săn. Lúc còn trẻ, tôi có thể trang trí một cái đĩa bàn, hay mặt lưng một chiếc gương, hay một cái rương, hoặc đôi khi trần nhà của một dinh thự hay một tòa nhà nông thôn ở Bosphorus, hoặc thậm chí một cái muỗng gỗ. Tuy nhiên, trong những năm sau này, tôi chỉ chuyên chú vào những trang bản thảo bởi vì Đức vua của chúng ta trả công hậu hĩnh cho những thứ đó. Bây giờ tôi cũng không thể nói điều đó có vẻ vô nghĩa. Anh vẫn hiểu giá trị của tiền bạc ngay cả khi anh đã chết mà.

Sau khi nghe được tiếng nói như phép lạ của tôi, các vị có thể nghĩ, “Ai thèm quan tâm chuyện ông kiếm được bao nhiêu khi còn sống? Hãy nói cho chúng tôi biết ông nhìn được gì? Có cuộc sống sau cái chết không? Linh hồn của ông ở đâu? Còn Thiên đàng với Địa ngục thì thế nào? Cái chết nó ra làm sao? Ông có đau đớn không?” Các vị nói đúng, người ta cực kỳ tò mò về Kiếp sau. Có lẽ các vị đã nghe được câu chuyện về một người bị thôi thúc bởi nỗi tò mò này đến độ ông ta lang thang giữa các binh sĩ trên trận địa. Ông ta tìm kiếm một người đã từng chết đi và sống lại giữa những lính bị thương đang cố bám lấy cuộc sống, một người lính nào đó có thể nói cho ông ta biết về những bí mật của Thế giới bên kia. Nhưng một trong các chiến binh của Tamerlane([1]), vì tưởng ông ta là người của phía quân thù, đã xả ông ta làm hai bằng một nhát đao ngọt xớt, khiến ông ta đi tới kết luận rằng trong Cõi mai hậu con người luôn bị chẻ làm hai mảnh.

Nhảm nhí! Hoàn toàn ngược lại, tôi còn thậm chí tin rằng những linh hồn bị chia lìa trong cuộc sống sẽ hòa nhập lại ở Cõi mai hậu. Ngược với những tuyên bố của bọn ngoại đạo đầy tội lỗi vốn đã rơi vào tầm khống chế của Quỷ sứ, quả thực là có một thế giới khác, tạ ơn Thượng đế, và bằng chứng là tôi đang nói chuyện với quí vị từ thế giới ấy đây. Tôi đã chết, song như quí vị có thể nói rõ ràng, tôi không hề ngừng tồn tại. Đương nhiên tôi phải thú thật, tôi không hề thấy những dòng sông chảy bên những hàng cột vàng và bạc của Thiên đàng, những cội cây có lá to bản trĩu quả no tròn và những trinh nữ xinh đẹp đã được đề cập trong kinh Koran Vinh quang - tuy tôi nhớ rất rõ mình đã tô vẽ thường xuyên và hăng say thế nào những bức tranh về các trinh nữ mắt to tròn như được mô tả trong chương “Những gì sẽ đến.” Cũng chẳng hề có dấu vết nào của những dòng sông sữa, rượu vang, nước trong và mật từng được mô tả với xiết bao hoa mỹ, không phải trong kinh Koran, mà bởi những vị chiêm bao thấu thị như Ibn Arabi([2]). Nhưng tôi không có ý định thu phục niềm tin của những người vốn đã trải qua một cách công chính những hy vọng và viễn kiến của họ về Thế giới bên kia, nên hãy cho phép tôi tuyên bố rằng tất cả những gì tôi thấy chỉ liên quan cụ thể đến những tình huống rất riêng tư của tôi thôi. Bất kỳ tín hữu nào dù chỉ có rất ít kiến thức về cuộc sống sau cái chết cũng có thể biết rằng một kẻ bất mãn trong tình trạng của tôi cũng rất khó mà nhìn thấy được những con sông ở Thiên đàng.

Tóm lại, tôi, kẻ được gọi là Thợ cả Zarif Effendi([3]), đã Chết, những chua được chôn cất, do đó linh hồn tôi chưa hoàn toàn lìa khỏi thân xác. Tình cảnh khác thường này, tuy rằng dĩ nhiên trường hợp của tôi chẳng phải là trường hợp đầu tiên, đã gây ramột nỗi đau khổ kinh hoàng cho cái phần bất tử trong tôi. Tuy chẳng sờ được cái sọ giập nát của mình hay cái thân thể đang thối rữa đầy những vết thương, toàn các xương gãy và ngập một nửa trong nước lạnh giá, nhưng tôi vẫn cảm nhận được nỗi đau khổ sâu xa của linh hồn tôi trong cơn vật vã tuyệt vọng hòng thoát khỏi vòng trói buộc phàm trần của nó. Điều đó tựa như toàn thể thế giới, cùng với thân xác tôi, đã rút gọn lại thành một khối đau thương.

Tôi chỉ có thể so sánh sự rút gọn này với cảm giác kỳ lạ về sự giải phóng mà tôi nhận thấy được trong giây phút vô song của cái chết. Vâng, tôi lập tức hiểu rằng tên đê tiện đó muốn giết tôi khi hắn bất ngờ đập tôi bằng một hòn đá và làm vỡ sọ tôi, nhưng tôi không tin rằng hắn có thể đi tới cùng. Tôi đột nhiên nhận ra rằng mình là một kẻ đầy hy vọng, một điều tôi không ý thức được khi còn sống cái đời mình trong những khoảng tối giữa xưởng làm việc và gia đình. Tôi bấu lấy cuộc sống một cách quyết liệt với tất cả móng tay, ngón tay và hàm răng vốn đã ngập sâu vào da thịt hắn. Tôi sẽ không làm các vị phát chán với những chi tiết đau đớn về những cú đấm đá mà kế đó tôi đã nhận lãnh.

Trong cảnh thống khổ này khi tôi biết mình sẽ chết, một cảm giác nhẹ nhõm không tin được tràn ngập trong tôi. Tôi cảm thấy sự nhẹ nhõm này trong giây phút lìa đời; việc tôi đến được phía bên này thật dịu êm, giống như giấc mơ thấy mình đang ngủ vậy.

Đôi giày bám đầy tuyết và bùn của kẻ giết tôi là điều cuối cùng tôi ghi nhận được. Tôi khép mắt lại cứ như sắp ngủ, và tôi nhẹ nhàng lướt đi.

Điều phàn nàn lúc này của tôi không phải là chuyện những chiếc răng đã rụng như hạt cây vào cái miệng đầy máu của tôi, hoặc ngay cả cái mặt tôi bị giập nát đến không thể nhận ra, hoặc cảnh tôi bị bỏ mặc dưới đáy một cái giếng - mà lại là chuyện mọi người cứ cho rằng tôi còn sống. Tấm linh hồn bối rối của tôi đau khổ vì gia đình và bạn bè thân thiết của tôi, những người, vâng, dẫu thường xuyên nghĩ đến tôi lại tưởng tượng tôi bị vướng vào công việc lặt vặt nào đó, ở đâu đó tại Istanbul, hoặc thậm chí đang theo đuổi một phụ nữ khác. Đủ rồi! Hãy tìm ra xác tôi ngay lập tức, cầu nguyện cho tôi và đưa tôi đi chôn. Trên hết, hãy tìm ra kẻ giết tôi! Vì cho dù quí vị có chôn tôi trong ngôi mộ huy hoàng nhất nhưng chừng nào tên khốn nạn đó còn được tự do thì tôi vẫn còn lăn lộn không yên trong huyệt mộ chờ đợi, gây cho tất cả quí vị cảm giác không đáng tin cậy. Hãy tìm cho ra kẻ sát nhân con-nhà-đĩ-điếm ấy và tôi sẽ kể tỉ mỉ cho quí vị nghe tôi đã nhìn thấy gì trong cái Kiếp sau này - nhưng hãy hiểu điều này: khi bắt được hắn, hắn phải bị tra tấn bằng cách chậm rãi bẻ gãy tám hay mười cái xương của hắn, tốt nhất là bẻ xương sườn bằng một cái ê-tô trước khi chọc thủng da đầu của hắn bằng những cái xiên được các thợ tra tấn chế riêng cho công việc này, và nhổ mái tóc nhơm nhớp ghê tởm của hắn từng sợi một, để mỗi lần nhổ hắn lại rú lên.

Kẻ sát nhân đó là ai mà chọc giận tôi đến thế? Tại sao hắn giết tôi theo kiểu đầy bất ngờ như vậy? Hãy quan tâm và chú ý những chuyện đó. Quí vị nói cuộc đời này đầy rẫy bọn tội phạm đê tiện và đốn mạt sao? Có lẽ đứa này làm, có lẽ đứa kia làm hả? Nếu thế thì cho tôi cảnh báo quí vị: Cái chết của tôi ẩn chứa một âm mưu ghê rợn nhắm vào đạo giáo của chúng ta, nhắm vào các truyền thống và thế giới quan của chúng ta. Hãy mở to mắt, hãy phát hiện ra tại sao những kẻ thù đối với cuộc đời mà quí vị tin tưởng, cuộc đời mà quí vị đang sống, và đối với đạo Hồi lại hủy diệt tôi. Hãy tìm hiểu tại sao một ngày kia chúng có thể gây ra chuyện tương tự cho quí vị. Từng thứ một, tất thảy các thứ đã được tiên đoán bởi đức thầy vĩ đại Nusret Hoia xứ Erzurum([4]), người mà tôi đã lắng nghe trong nước mắt, đều đang diễn ra đây.

Hãy cho tôi nói luôn rằng nếu tình cảnh chúng ta rơi vào đã được mô tả trong một cuốn sách, thì ngay cả chuyên gia giỏi nhất trong những tay vẽ tiểu hoạ ([5]) cũng không bao giờ mong được minh họa cho nó. Giống như với kinh Koran - Cầu Thượng đế đừng để tôi bị hiểu lầm - sức mạnh kinh thiên của một cuốn sách như thế xuất phát từ tính chất bất khả mô tả của nó. Tôi e rằng quí vị không hiểu thấu được điều này.

Hãy nghe tôi. Khi còn là đứa học việc, tôi cũng sợ hãi và do đó cũng phớt lờ những sự thật nền tảng này và các tiếng nói từ cõi bên kia. Tôi đã chế giễu những chuyện như vậy. Nhưng tôi đã kết liễu đời mình ở đáy sâu của cái giếng tồi tệ này! Chuyện đó có thể xảy đến cho quí vị, cẩn thận đấy. Còn bây giờ, tôi chẳng còn biết làm gì ngoài chuyện trông đợi được mục rữa hoàn toàn, để quí vị có thể tìm thấy tôi nhờ lần theo cái mùi nồng nặc đó. Tôi chẳng còn biết làm gì ngoài trông đợi - và tưởng tượng đến cảnh tra tấn mà một người nhân từ nào đó sẽ gây ra cho tên sát nhân đốn mạt ấy một khi hắn bị bắt.

CHƯƠNG 2
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

Sau mười hai năm vắng bóng tôi trở về Istanbul như kẻ mộng du. “Đất đã gọi anh ta,” họ nói thế về những người sắp chết, và trong trường hợp của tôi, cái chết đã kéo tôi trở lại thành phố này, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Khi ban đầu trở lại, tôi nghĩ ở đây chỉ có cái chết; về sau, tôi cũng sẽ gặp tình yêu. Tuy nhiên tình yêu là một điều xa vời và đã bị lãng quên, giống như ký ức về việc đã từng sống ở thành phố này của tôi vậy. Chính ở Istanbul này, cách nay mười hai năm, tôi đã vướng vào tình yêu vô vọng với cô em họ của mình.

Bốn năm sau khi tôi rời Istanbul, trong khi băng qua những thảo nguyên vô tận. những ngọn núi phủ tuyết và những thành phố u buồn xứ Ba Tư để phát thư và thu thuế, tôi tự thú nhận rằng mình đã dần quên đi khuôn mặt của mối tình thời niên thiếu mà tôi đã bỏ lại phía sau. Với nỗi kinh hoàng ngày càng tăng. tôi cố gắng một cách tuyệt vọng để nhớ lại nàng, để rồi nhận ra rằng bất chấp tình yêu, một khuôn mặt lâu ngày không gặp cuối cùng sẽ mờ phai. Trong năm thứ sáu sống ở phương Đông, du hành hoặc làm thư ký phục vụ cho những tổng trấn, tôi biết rằng khuôn mặt mà tôi hình dung không còn là khuôn mặt của người tôi yêu dấu. Sau đó, vào năm thứ tám, tôi đã quên những gì tôi từng gợi lại trong tâm trí một cách sai lầm hồi năm thứ sáu, và lại mường tượng một nét mặt hoàn toàn khác hẳn. Theo cách này, vào năm thứ mười hai, khi tôi trở lại thành phố này ở tuổi ba mươi sáu, tôi đau đớn nhận ra rằng khuôn mặt người tôi yêu từ đấy đã biến mất khỏi tôi rồi.

Nhiều bạn bè và họ hàng tôi đã chết trong mười hai năm biệt xứ của tôi. Tôi đến thăm nghĩa trang nhìn xuống cửa sông Halic([6]) cầu nguyện cho mẹ và các cậu tôi, những người đã chết khi tôi vắng mặt. Mùi bùn đất hòa quyện vào ký ức tôi. Ai đó đã làm vỡ một chiếc bình gốm bên mộ mẹ tôi. Chẳng hiểu vì sao, nhìn những mảnh gốm vỡ, tôi bật khóc. Tôi khóc cho người chết hay bởi vì tôi, thật kỳ lạ, chỉ mới bắt đầu cuộc đời mình sau ngần ấy năm? Hay bởi tôi đã đến chỗ kết thúc của chuyến hành trình cuộc đời mình? Tuyết nhẹ rơi. Bị mê hoặc bởi những bông tuyết bay khắp nơi, tôi chìm đắm trong những biến đổi của cuộc đời tôi đến độ không nhận ra con chó mực đang chằm chằm nhìn tôi từ góc tối nghĩa trang.

Nước mắt ngớt, tôi chùi mũi. Tôi thấy con chó mực vẫy đuôi thân thiện khi tôi rời nghĩa trang. Sau này, tôi chuyển đến sống giữa những láng giềng của chúng tôi, thuê một trong những ngôi nhà mà một người họ hàng bên nội của tôi từng sống. Có vẻ như tôi gợi cho bà chủ nhà nhớ lại đứa con trai bà đã bị lính Ba Tư của triều Safavid giết ngoài mặt trận nên bà đã đồng ý lau dọn nhà cửa và nấu ăn cho tôi.

Tôi bắt đầu những chuyến đi bộ dài và thú vị khắp các con đường như thể tôi chưa từng ở Istanbul, mà tạm thời ở một trong những thành phố Ả Rập tận đầu kia trái đất. Đường phố trở nên hẹp hơn, hoặc chúng có vẻ như thế với tôi. Ở nhiều nơi, trên những con đường len lỏi giữa những ngôi nhà san sát, tôi buộc phải nép vào tường hoặc các cửa nhà để tránh bị những con ngựa thồ cồng kềnh va phải. Có nhiều người khá giả hơn, hoặc có vẻ như thế với tôi. Tôi thấy một chiếc xe ngựa lộng lẫy, cứ như một tòa thành do những con ngựa kiêu hãnh kéo, những con vật như thế không thể thấy ở Ả Rập hay Ba Tư. Gần “Cột Cháy”, tôi thấy một số ăn mày quần áo rách rưới xúm xít vào nhau khi mùi của lòng gà từ khu chợ gà phất qua chỗ họ. Một người bị mù trong số họ mỉm cười khi ông ta theo dõi tuyết rơi.

Nếu có ai nói với tôi Istanbul từng là một thành phố nghèo hơn, nhỏ hơn và hạnh phúc hơn, có thể tôi đã không tin, nhưng đó là những gì con tim tôi nói với tôi. Dù ngôi nhà của người yêu tôi vẫn ở chỗ cũ giữa đám cây đoạn và cây dẻ, nhưng nay những người khác đang sống trong đó, như tôi được biết khi hỏi thăm tận nơi. Tôi phát hiện rằng mẹ của người yêu tôi, tức dì tôi, đã chết, và chồng bà, Enishte([7]) của tôi cùng con gái ông đã dọn đi.

Cũng nhờ thế tôi biết được rằng người cha và cô con gái ấy là nạn nhân của những nỗi bất hạnh nào đó, qua lời của những người lạ trong nhà, những người mà trong những tình huống như thế luôn nhiệt tình, không mảy may biết rằng họ đang bóp nát trái tim và hủy hoại giấc mơ của bạn một cách tàn nhẫn đến thế nào. Giờ thì tôi sẽ không mô tả tất cả điều này với bạn, nhưng hãy cho phép tôi nói rằng khi nhớ lại những ngày hè đầy nắng ấm xanh tươi trong khu vườn cũ đó, tôi cũng nhận thấy những nhũ băng to bằng ngón tay út tôi đang bám đầy những nhánh cây đoạn ở một nơi mà nỗi đau khổ, tuyết và sự quên lãng giờ chẳng gợi lại điều gì ngoài cái chết.

Tôi đã biết về một số chuyện xảy ra cho họ hàng của tôi thông qua lá thư Enishte của tôi gửi cho tôi ở Tabriz. Trong thư đó ông rủ tôi trở lại Istanbul, giải thích rằng ông đang chuẩn bị một cuốn sách bí mật cho Đức vua và rằng ông cần tôi giúp đỡ. Ông từng nghe rằng có một thời gian ở Tabriz tôi đã làm sách cho những tổng trấn Ottoman, các thống đốc và người dân Istanbul.Những việc tôi làm hồi đó là dùng tiền tạm ứng của khách hàng, những kẻ đặt hàng làm bản thảo ở Istanbul, để tìm ra những nhà tiểu họa và những nhà thư pháp, họ vốn chán đời vì chiến tranh và sự hiện diện của binh lính Ottoman, nhưng không bỏ đi đến Kazvin hay một thành phố Ba Tư nào khác, và chính những bậc thầy này - luôn phàn nàn về cảnh nghèo túng và bị quên lãng - là những người tôi giao nhiệm vụ sao chép, minh họa và khâu lại các trang bản thảo mà sau đó tôi sẽ gửi trở về Istanbul. Nếu không vì lòng đam mê những cuốn sách đẹp và có minh họa mà Enishte của tôi đã gieo vào lòng tôi thời trẻ tuổi thì có lẽ tôi đã chẳng bao giờ dính dáng vào những đeo đuổi như thế này.

Tại khu chợ cuối con đường, nơi mà Enishte của tôi từng sống, tôi nhận ra người thợ cắt tóc, một bậc thầy trong nghề, tại cửa hàng của y vẫn ở giữa những tấm gương, những dao cạo tinh tươm, bình đựng nước và bàn chải xà phòng ấy. Tôi nhìn vào mắt y nhưng không chắc y nhận ra tôi. Tôi thích thú khi thấy chiếc chậu gội đầu, vốn được treo bằng sợi dây xích thòng từ trần xuống, vẫn đong đưa theo đường vòng cung như xưa, lắc tới lắc lui khi y đổ đầy nước nóng vào.

Một số khu xóm và đường phố tôi từng lui tới thời trẻ đã biến thành khói và tro, thay vào đó là những tàn tích cháy rụi nơi bọn chó hoang tụ họp và nơi những kẻ trú ngụ điên khùng làm kinh hoàng bọn trẻ con trong vùng. Ở những nơi bị lửa thiêu rụi khác những ngôi nhà tráng lệ đã được xây lên,và tôi kinh ngạc trước vẻ xa hoa của chúng, trước những cửa sổ kính màu Venice đắt tiền nhất, và trước những dinh thự hai tầng lộng lẫy với những cửa sổ nhô ra lơ lửng bên trên những bức tường cao.

Như trong nhiều thành phố khác, tiền không còn chút giá trị nào ở Istanbul. Vào lúc tôi từ phương Đông trở về, những hiệu bánh mì từng bán những ổ bánh lớn một trăm đồng drachma([8]) lấy một đồng xu bạc nay lại nướng những ổ bánh chỉ bằng phân nửa kích cỡ với giá y như cũ, và chúng không còn mùi vị giống như hồi tôi còn nhỏ. Nếu người mẹ quá cố của tôi chứng kiến ngày bà phải bỏ ra ba đồng bạc để mua một tá trứng, bà sẽ nói “Mình phải bỏ đi trước khi bọn gà trở nên hư hỏng đến độ chúng ỉa lên chúng ta thay vì dưới đất.” Nhưng tôi biết là vấn đề tiền mất giá ở đâu cũng vậy. Người ta đồn rằng những tàu buôn của xứ Venice và Flanders chở đầy những rương tiền giả. Tại sở đúc tiền hoàng gia, nơi một trăm đồng drachma bạc từng được đúc thành năm trăm đồng xu, nay do chiến tranh liên miên với người Ba Tư, nên cùng số đồng drachma bạc đó nay được đúc thành tám trăm đồng xu. Khi binh lính Thổ Nhĩ Kỳ phát hiện những đồng tiền họ được trả lương thực sự nổi trên cửa sông Halic như những hạt đậu khô rơi từ cầu tàu của chợ đầu mối rau cải, họ đã nổi loạn, bao vây lâu đài của Đức vua như thể nó là pháo đài của kẻ thù.

Một giáo sĩ có tên là Nusret, người giảng đạo tại Thánh đường Bayazid và tự nhận là dòng dõi đấng tiên tri Muhammad vinh quang của chúng tôi, đã nổi danh trong thời kỳ đồi bại, lạm phát, tội phạm và trộm cắp này. Vị hoja xuất xứ từ thị trấn Erzurum nhỏ bé này, cho rằng những thảm họa giáng xuống Istanbul trong mười năm rồi - kể cả những vụ hỏa hoạn ở quận Kazanjilar và Bahcekapi, những cơn dịch bệnh khiến mười ngàn người chết, những cuộc chiến tranh liên miên với người Ba Tư gây tổn thất vô vàn sinh mạng, cũng như việc mất những pháo đài nhỏ Ottoman ở phía Tây cho người Thiên chúa giáo trong cuộc nổi dậy - là do chúng ta đã lạc khỏi con đường của đấng Tiên tri, do coi thường những răn dạy nghiêm khắc của kinh Koran vinh quang, do việc dung dưỡng bọn Thiên chúa giáo, do buôn bán thoải mái rượu vang và do chơi những nhạc cụ trong nhà nguyện của dân khổ tu ([9]).

Người bán dưa chua, kẻ nhiệt tình cho tôi biết về vị giáo sĩ từ Erzurum đã nói rằng những đồng xu giả này - những đồng ducat mới, những đồng florin giả có in hình sư tử và những đồng xu Ottoman với hàm lượng bạc ngày càng giảm - vốn tràn ngập các chợ búa và khu bán hàng, giống như người Circassia, Abkhazia, Mingaria, Bosnia, Georgia và Armenia vốn đầy trên phố xá, đang kéo chúng tôi xuống cảnh suy thoái cùng cực khó mà thoát ra được. Tôi cũng nghe nói rằng bọn vô lại và phiến loạn tụ tập trong các quán cà phê và kết bè lũ đến sáng; rằng bọn cùng khổ có tính cách đáng ngờ, những kẻ điên khùng nghiện thuốc phiện cùng những kẻ theo phái khổ tu Kalenderi sống ngoài vòng pháp luật, đều khẳng định đi theo con đường của thánh Allah, đã nhảy múa thâu đêm trong những viện khổ tu theo tiếng nhạc, tự dùng xiên đâm mình và sẵn sàng tham gia vào mọi trò đồi bại trước khi giao cấu một cách man rợ với nhau và với bất kỳ cậu trai nào chúng tìm thấy.

Tôi không biết liệu có phải âm thanh du dương của đàn luýt đã cuốn hút tôi theo, hay phải chăng trong trạng thái rối bời của những ký ức và khao khát, tôi không còn có thể chịu đựng được người bán dưa độc địa ấy nữa và bấu lấy tiếng nhạc như một cách để thoát khỏi cuộc nói chuyện. Tuy nhiên tôi biết rõ điều này: Khi bạn yêu một thành phố và thường xuyên đi bộ thám hiểm nó, thì thể xác, chưa nói đến linh hồn bạn, sau một số năm dần sẽ biết rõ những con phố đến độ trong một cơn u sầu, có lẽ bị khuấy động bởi một trận tuyết rơi nhẹ đầy muộn phiền như thế này, anh sẽ phát hiện đôi chân tự ý đưa anh về phía một trong những mũi đất ưa thích của mình.

Đấy là cách tôi tình cờ rời khỏi Chợ Thợ Rèn và cuối cùng đứng ngắm tuyết rơi xuống cửa sông Halic từ một nơi cạnh Thánh đường Suleymaniye. Tuyết đã bắt đầu tích tụ lại trên những mái nhà quay về hướng bắc và trên những phần mái vòm phơi trước làn gió đông bắc. Một con tàu đang tiến vào, với những cánh buồm đang hạ xuống vẫy chào tôi bằng tấm vải bạt phất phơ. Màu cánh buồm hòa với sắc đẫm sương và xám xịt của mặt sông Halic. Những cây bách và cây tiêu huyền, các mái nhà, nỗi buồn của buổi hoàng hôn, những âm thanh đến từ vùng lân cận bên dưới; tiếng rao của những người bán rong và tiếng la của trẻ con đang chơi trong sân thánh đường trộn lẫn trong đầu tôi và tuyên bố rõ ràng rằng, kiếp sau, tôi sẽ không thể sống ở bất cứ nơi nào ngoại trừ thành phố này. Tôi có cảm giác rằng khuôn mặt của người yêu tôi, vốn đã mất hút trong tôi bao năm qua, có thể bất ngờ hiện ra với tôi.

Tôi bắt đầu thả bộ xuống đồi và hòa vào đám đông. Sau buổi cầu kinh tối, tôi lấp đầy dạ dày tôi tại một cửa hàng bán gan.Trong cửa hàng trống trơn, tôi chăm chú lắng nghe ông chủ, người đang trìu mến nhìn tôi ăn từng miếng như thể ông đang cho một con mèo ăn. Theo những chỉ dẫn và hướng đi ông vẽ ra tôi nhận ra mình rẽ vào một trong những con ngõ hẹp đàng sau chợ nô lệ - sau khi đường phố đã sụp tối - và tìm ra quán cà phê.

Bên trong thật đông và ấm. Người kể chuyện, giống những người tôi từng thấy ở Tabriz và các thành phố Ba Tư, và người được dân ở đó gọi là “người cổ vũ,” ngồi trên một chiếc bục cao bên cạnh lò củi. Y mở ra và treo trước mặt đám đông một bức tranh hình một con chó được vẽ vội vã trên tờ giấy thô nhưng có một vẻ tao nhã nào đó. Y đang nói về con chó và thỉnh thoảng chỉ vào bức vẽ.

CHƯƠNG 3
TÔI LÀ MỘT CON CHÓ

Như các vị có thể nói một cách chắc chắn, các vị thân mến, những chiếc răng nanh của tôi quá dài và nhọn đến độ chúng hầu như không nằm lọt trong miệng tôi được. Tôi biết điều này tạo cho tôi một vẻ đe dọa, nhưng lại làm tôi khoái trá. Thấy cỡ răng tôi, một tay bán thịt có lần dám nói rằng, “Thánh thần ơi, nó đâu phải chó, lợn rừng thì có!” Tôi ngoạm hắn một cái ra trò đến độ mấy cái răng nanh của tôi thấu qua lớp mỡ đến tận xương đùi hắn. Các vị biết đấy, đối với một con chó, chẳng có gì hài lòng bằng phập răng vào kẻ thù khốn khổ của nó trong một cơn phẫn nộ theo bản năng. Khi một cơ hội như thế xuất hiện, đó là, khi nạn nhân của tôi, kẻ đáng bị cắn, ngốc nghếch và không hay biết đi ngang qua, răng của tôi nhức nhối trong tư thế sẵn sàng, đầu tôi quay cuồng với khao khát và thậm chí không cố ý, tôi đã phát ra một tiếng gừ dựng tóc gáy.

Tôi là một con chó, và bởi vì con người các vị là những động vật không sáng suốt bằng tôi, nên các vị tự nhủ:“Chó không biết nói.” Tuy nhiên các vị lại có vẻ tin một câu chuyện trong đó các xác chết nói được và các nhân vật sử dụng ngôn từ mà có thể họ không hiểu. Chó quả thực biết nói, nhưng chỉ nói với những người biết cách lắng nghe.

Ngày xưa, lâu lâu lắm rồi, ở một vùng đất xa xôi, một giáo sĩ ngạo mạn từ một thị xã tỉnh lẻ đến một trong những thánh đường lớn nhất ở một thủ đô; chúng ta cứ gọi nó là Thánh đường Bayazid đi. Thật thích hợp khi tạm giấu tên ông này, vì vậy ta cứ gọi ông ấy là “Husret Hoja.” Nhưng sao tôi lại phải che giấu thêm nữa: ông này là một giáo sĩ đần độn. Y bù đắp cho trí thông minh khiêm tốn của mình bằng sức mạnh của miệng lưỡi. Cầu Thượng đế ban phúc cho nó. Mỗi thứ Sáu, y làm cho cả giáo xứ bị kích thích, xúc động rơi nước mắt đến độ một số trong bọn họ có thể khóc đến ngất đi hoặc héo khô và tàn úa. Xin đừng hiểu lầm tôi, không như những giáo sĩ có khiếu giảng đạo khác, bản thân y không khóc. Trái lại, trong khi mọi người khác khóc, y nhấn mạnh bài thuyết giảng của y không hề chớp mắt như thể để trừng phạt giáo xứ. Rất có thể, những kẻ làm vườn, những thư đồng trong hoàng tộc, những người làm kẹo, tiện dân và các giáo sĩ giống y đã trở thành những đầy tớ của y bởi vì họ thích cái lưỡi đang múa may đó. Phải, rốt cuộc y không phải là chó, không thưa các vị, y là một con người - mà nhân vô thập toàn - và trước những đám đông bị mê hoặc đó, y quên hết mọi sự khi thấy việc dọa dẫm đám đông cũng thích thú như việc làm họ khóc vậy. Khi y hiểu rằng y sẽ kiếm được nhiều bánh mì hơn trong công cuộc mới mẻ này, y tiến tới chỗ quá lố và cả gan nói những lời sau:

“Lý do duy nhất khiến xảy ra sự tăng giá, dịch bệnh và thất bại quân sự là bởi chúng ta quên đạo Hồi của thời đấng Tiên tri vinh quang của chúng ta mà xuôi theo những lời giả dối. Liệu bài sử thi giáng thế của đấng Tiên tri hồi đó có được đọc để tưởng nhớ người chết không? Liệu nghi lễ ngày thứ bốn mươi ([10]) khi các món ngọt như kẹo mè và bột chiên được đưa ra để tỏ lòng kính trọng người chết, có được tiến hành không? Khi Muhammad còn sống, kinh Koran vinh quang có được đọc to du dương giống như bài hát không? Liệu lệnh cầu kinh có được truyền đi một cách khoa trương và cao ngạo để chứng tỏ tiếng Ả Rập của ai đó gần gũi thế nào với tiếng Ả Rập của một người Ả Rập không? Có hay không chuyện hô lệnh cầu kinh một cách rụt rè, với vẻ hoa mỹ của một người đàn ông bắt chước đàn bà không? Ngày nay, người ta cầu khẩn trước những nấm mồ, van xin những bù đắp. Họ hy vọng người chết can thiệp giúp đỡ cho họ. Họ viếng thăm mộ các vị thánh và thờ phượng trước những nấm mồ này giống như bọn ngoại giáo trước những phiến đá. Họ buộc những miếng vải tạ ơn khắp nơi, và đưa ra những hứa hẹn cúng tế để đáp lại sự cứu rỗi. Có phải những tín đồ dòng khổ tu là kẻ truyền bá những niềm tin như thế trong thời đại của Muhammad không? Ibn Arabi, kẻ hướng dẫn tinh thần của những tín đồ này, đã trở thành một tội đồ bởi đã quả quyết rằng Pharaoh ngoại đạo đã chết như một tín hữu. Những tín đồ khổ tu này, theo dòng Mevlevi, Halveti, Kalenderi và những kẻ hát kinh Koran có nhạc đệm hoặc biện minh cho việc nhảy múa với trẻ con và trẻ vị thành niên bằng cách nói rằng ‘dù gì chúng tôi cũng cầu nguyện với nhau, tại sao không?’ đều là lũ mọi đen. Nhà cửa bọn khổ tu này phải bị phá hủy, móng của chúng phải được đào sâu bảy sải tay và đất đào lên phải đem đổ xuống biển. Chỉ có vậy thì những buổi cầu kinh theo nghi thức mới có thể tiến hành lại ở đó được.”

Tôi nghe nói rằng Husret Hoja này, thậm chí còn đưa vấn đề đi xa hơn, đã tuyên bố văng cả nước bọt, “A, những tín đồ thuần thành của ta! Uống cà phê dứt khoát là một tội lỗi! Đấng Tiên tri vinh quang của chúng ta không dùng cà phê bởi vì ngài biết nó làm trí tuệ mù mờ, gây lở loét, thoát vị và vô sinh; ngài hiểu rằng cà phê chẳng là gì ngoài trò mưu mẹo của Quỷ sứ. Quán cà phê là nơi những kẻ truy hoan và bọn rong chơi giàu có ngồi gối kề gối, tự dấn mình vào mọi kiểu cư xử thô tục; thực tế, thậm chí trước khi niêm phong nhà cửa của bọn tín đồ khổ tu thì phải cấm các quán cà phê. Người nghèo có đủ tiền để uống cà phê không?

Những người thường xuyên lui tới những nơi đó, đã trở nên nghiện cà phê và không còn kiểm soát được đầu óc đến mức họ thực sự lắng nghe và tin vào những gì bọn chó nòi và chó lai nói.Nhưng những ai nguyền rủa ta và tôn giáo của chúng ta, chúng mới là bọn chó lai thực sự.”

Nếu các vị cho phép, tôi muốn đáp lại lời phê phán cuối cùng của vị giáo sĩ đáng kính này. Dĩ nhiên, ai cũng biết rằng những vị haji, hoja, giáo sĩ và nhà thuyết giáo đều khinh miệt bọn chó chúng tôi. Theo quan điểm của tôi, toàn bộ vấn đề có liên quan đến đấng Tiên tri Muhammad đáng kính của chúng ta, cầu bình yên và những điều tốt đẹp đến với ngài, người đã thà cắt đứt một mảnh áo choàng của mình mà trên đó một con mèo đang nằm ngủ hơn là đánh thức con vật. Bằng việc nêu ra lòng yêu thương đối với con mèo, thứ tình cảm mà lũ chó chúng tôi bị khước từ, và vì mối cừu hận muôn thuở của chúng tôi với con thú thuộc giống leo trèo này, con vật mà thậm chí một người ngu ngốc nhất cũng công nhận là một kẻ bạc bẽo, người ta đã cố hàm ý rằng bản thân đấng Tiên tri không hề ưa lũ chó. Họ tin chắc rằng chúng tôi sẽ làm ô uế những người đã tiến hành những tẩy rửa theo nghi thức, và kết quả của niềm tin sai lầm và có tính vu khống này là chúng tôi bị ngăn không cho vào các thánh đường trong nhiều thế kỷ và bị các lao công quét dọn cho ăn gậy trong sân của họ.

Cho phép tôi nhắc các vị về “Al-kahf” ([11]), chương hay nhất trong kinh Koran. Tôi nhắc các vị nhớ không phải vì tôi nghi ngờ rằng trong số chúng ta tại quán cà phê tốt đẹp này có thể có những người không bao giờ đọc kinh Koran, mà bởi vì tôi muốn gợi cho các vị nhớ lại: Chương này kể câu chuyện về bảy người trẻ tuổi vốn đã phát mệt vì phải sống giữa những kẻ ngoại giáo nên lánh mình trong một cái hang nơi họ đi vào một giấc ngủ sâu. Đấng Allah sau đó bịt tai họ lại và làm cho họ ngủ suốt ba trăm lẻ chín năm. Khi thức dậy, họ chỉ biết được bao nhiêu năm đã trôi qua sau khi một người trong bọn họ bước vào xã hội con người và thử xài một đồng bạc đã trở thành đồ cổ. Tất cả họ đều kinh ngạc khi biết được những gì đã xảy ra. Chương này mô tả một cách tinh tế sự gắn bó của con người với đấng Allah, những phép lạ của Người, bản chất phù du của thời gian và niềm vui của giấc ngủ sâu, và dù không phải tình huống của tôi, nhưng hãy cho phép tôi nhắc các vị nhớ về khổ thơ thứ mười tám vốn đề cập đến một con chó nằm tại miệng hang nơi bảy chàng trẻ tuổi đang ngủ. Rõ ràng là ai cũng lấy làm tự hào khi được xuất hiện trong kinh Koran. Là một con chó, tôi rất quan tâm đến chương này, và qua nó tôi có ý định làm cho những người Erzurum, những người gọi kẻ thù của họ là bọn chó lai bẩn thỉu, phải suy nghĩ lại.

Vậy thì, lý do thực sự cho việc thù hận bọn chó là gì? Tại sao các vị cứ nhất quyết cho rằng bọn chó là ô uế, và lau chùi, tẩy uế nhà các vị từ trên xuống dưới nếu có một con chó ngẫu nhiên bước vào? Tại sao các vị tin rằng những ai đụng vào chúng tôi là đã làm hỏng nghi thức tắm rửa của họ? Nếu áo chùng của các vị chạm phải bộ lông ẩm của chúng tôi, tại sao các vị nhất quyết giặt chiếc áo đó bảy lần giống như một phụ nữ rồ? Chỉ cái bọn thợ thiếc phải chịu trách nhiệm cho lời vu cáo rằng cái nồi bị chó liếm thì phải vứt đi hoặc gò mới lại. Hoặc có lẽ, phải, cả bọn mèo...

Khi người ta rời bỏ làng mạc để đổi lấy cuộc sống quanh quẩn nơi thành thị, bọn chó chăn cừu vẫn ở lại các tỉnh; đó là khi những lời đồn đại về sự ô uế của bọn chó như tôi bắt đầu lan truyền. Nhưng trước khi đạo Hồi xuất hiện thì hai trong số mười hai tháng mỗi năm là “tháng của chó.” Nhưng bây giờ mỗi con chó đều bị coi là một điềm gở. Tôi không muốn các vị ưu tư về vấn đề của riêng tôi, hỡi những người bạn thân mến của tôi, các vị đến đây để nghe một câu chuyện và suy gẫm về bài học của nó - thật lòng mà nói, cơn giận của tôi xuất phát từ nhũng công kích của vị giáo sĩ đáng kính này đối với các quán cà phê của chúng ta.Các vị sẽ nghĩ gì nếu tôi nói rằng Husret xứ Erzurum này thuộc dòng dõi đáng ngờ? Nhưng họ cũng nói với tôi rằng, “Ngươi tưởng ngươi là giống chó gì chứ hả? Ngươi đang công kích vị giáo sĩ đáng kính bởi vì chủ của ngươi là người kể chuyện theo tranh chuyên kể chuyện tại một quán cà phê và ngươi muốn bảo vệ y. Cút xéo đi!” Cầu thần thánh tha thứ, tôi không chê bai bất kỳ ai. Nhưng tôi là kẻ rất ngưỡng mộ những quán cà phê của chúng ta. Các vị biết đấy, tôi không quan tâm đến việc chân dung của tôi được vẽ trên tờ giấy rẻ tiền như thế hoặc việc tôi là một con thú bốn chân, mà tôi lấy làm tiếc rằng tôi không thể ngồi giống như một con người và uống cà phê với các vị. Chúng ta sẽ chết vì cà phê của chúng ta và những quán cà phê của chúng ta - chuyện gì thế này? Xem kìa, ông chủ của tôi đang rót cà phê cho tôi từ một bình cà phê nhỏ. Chắc các vị nói một bức tranh không thể uống cà phê chứ gì? Làm ơn nhìn đi! Con chó này đang sung sướng táp cà phê đây.

A, vâng, thế là đúng, nó làm tôi ấm lên, cái nhìn của tôi sắc sảo hơn và ý nghĩ của tôi nhậm lẹ hơn. Giờ hãy nghe những gì tôi muốn nói với các vị. Bên cạnh những súc vải lụa Trung Hoa và những đồ gốm Trung Hoa được trang trí bằng những bông hoa màu xanh lam, thì viên pháp quan Venice gửi đến cái gì cho Nurhayat, cô con gái yêu quý của Đức vua đáng kính của chúng ta? Một con chó cái Venice mềm mại đáng yêu với một cái áo khoác bằng lụa và lông chồn. Tôi nghe nói rằng con chó cái này được cưng chiều đến độ nó có cả một cái váy lụa đỏ nữa. Một trong những đứa bạn của tôi thực sự đã giao cấu với nó, theo chỗ tôi biết, và nó thậm chí không thể tham gia làm chuyện này mà không mặc cái váy kia của nó. Ở xứ Tây vực của nó, con chó nào cũng mặc quần áo như vậy cả. Tôi từng nghe kể ở đó có một phụ nữ Venice được gọi là tao nhã và có giáo dục, khi bà ta thấy một con chó trần truồng - hoặc có thể bà ta thấy cái đồ của nó, tôi không chắc -, bà ba đã rú lên, “Ôi Chúa ơi, con chó trần truồng!” và bất tỉnh ngay lập tức.

Ở những vùng đất của bọn Tây vực vô thần, được gọi là người Âu đấy, con chó nào cũng có chủ. Những con vật đáng thương này bị người ta dắt trên đường phố, xích tròng quanh cổ, bị ràng buộc như những tên nô lệ cùng khổ nhất và bị lôi đi khắp nơi mà lúc nào cũng chỉ một mình. Bọn người Tây vực ấy buộc những con vật khốn khổ này phải vào ở trong nhà họ, thậm chí vào tận giường của họ. Bọn chó không được phép đi dạo với nhau, chứ đừng nói đến chuyện được ngửi và đùa giỡn cùng nhau. Trong tình cảnh khốn khổ đó, bị buộc xích, chúng không thể làm gì khác ngoài tuyệt vọng nhìn nhau từ xa mỗi khi chạm mặt nhau ngoài phố. Bọn chó chạy rông khắp đường phố Istanbul thoải mái cả bầy cả lũ, theo kiểu chúng tôi sống, bọn chó dám đe dọa con người nếu cần, có thể nằm khoanh tròn trong một góc ấm áp hoặc nằm dài trong bóng râm yên bình ngủ, có thể ỉa bất cứ nơi nào chúng muốn và cắn bất kỳ ai chúng muốn, những con chó như thế không có trong khái niệm của bọn vô thần. Không phải tôi không nghĩ rằng đây có thể là lý do khiến những tín đồ của tay Erzurum kia chống đối việc cầu nguyện cho bọn chó cũng như việc cho chúng ăn thịt trên đường phố Istanbul để được thánh thần ban ơn và cũng là lý do tại sao họ phản đối việc thành lập nhưng hội từ thiện nhằm thực hiện những dịch vụ như thế.

Nếu họ có ý định vừa đối xử với chúng tôi như kẻ thù vừa biến chúng tôi thành lũ vô thần, thì hãy để tôi nhắc họ rằng việc làm kẻ thù của lũ chó và việc làm một kẻ vô thần, hai chuyện là một và y hệt nhau. Tôi hy vọng, tại những cuộc hành hình không còn xa cho những con người tồi tệ này, tôi thỉnh cầu những người bạn đao phủ của chúng tôi hãy mời chúng tôi tới cắn một phát, như đôi khi họ làm để nêu một tấm gương răn đe.

Trước khi tôi dứt lời, hãy cho tôi nói điều này: ông chủ trước của tôi là một người rất công bằng. Khi chúng tôi rời nhà ban đêm để đi ăn trộm, chúng tôi đã hợp tác: Tôi có thể bắt đầu sủa, và y có thể cắt cổ họng nạn nhân của chúng tôi và tiếng rú của hắn sẽ bị tiếng sủa của tôi át mất. Để trả công tôi trợ giúp, y sẽ chặt nhỏ những kẻ có tội mà y đã trừng phạt, luộc lên cho tôi ăn. Tôi không thích thịt sống. Cầu thần thánh phù hộ, cho tay đao phủ tương lai của vị giáo sĩ từ Erzurum đó sẽ lưu ý chuyện này để bao tử tôi không bị khó chịu vì thứ thịt sống của tên vô lại đó.

CHƯƠNG 4
TÔI SẼ BỊ GỌI LÀ KẺ SÁT NHÂN

Không, tôi hẳn không tin rằng mình có thể giết bất kỳ ai cho dù người ta nói với tôi như thế nhiều lần trước khi tôi giết tên ngu ngốc đó; và vì thế hành vi phạm tội của tôi đôi khi lùi xa tôi giống như một chiếc thuyền buồm nước ngoài biến mất ở chân trời. Thỉnh thoảng, thậm chí tôi cảm thấy như thể tôi chưa phạm bất cứ tội ác nào. Bốn ngày đã trôi qua từ khi tôi buộc phải thủ tiêu gã Zarif bất hạnh, một người anh em với tôi thế mà chỉ đến bây giờ, ở một chừng mực nào đó, tôi mới chấp nhận tình cảnh của mình.

Lẽ ra tôi nên chọn cách giải quyết tình trạng khó xử và bất ngờ này mà không phải thủ tiêu bất cứ ai, nhưng tôi biết không có chọn lựa nào khác. Tôi đã xử lý vấn đề này ngay tại chỗ, nhận lấy gánh nặng trách nhiệm. Tôi không thể để cho những cáo buộc sai trái của một kẻ dại dột gây nguy hiểm cho cả cộng đồng những nhà tiểu họa.

Tuy nhiên, phải mất một thời gian tôi mới quen với việc mình là tên giết người. Tôi không thể chịu đựng được việc cứ ở trong nhà, vì vậy tôi ra đường. Tôi không thể chịu đựng con phố của tôi, vì vậy tôi tới một con phố khác, rồi một con phố khác nữa.

Khi tôi nhìn vào khuôn mặt người khác, tôi nhận ra rằng nhiều người trong số họ tin rằng họ vô tội bởi vì họ chưa có cơ hội kết liễu một sinh mạng. Thật khó mà tin rằng hầu hết người ta đều đạo đức hơn hoặc tốt hơn tôi chỉ vì một biến đổi nhỏ nhặt nào đó của số phận. Ít nhất, họ có vẻ mặt ít nhiều ngốc nghếch hơn bởi họ chưa từng giết người, và giống như tất cả lũ ngốc, họ làm như có những hảo ý. Sau khi tôi giải quyết thằng cha đáng khinh đó, việc lang thang khắp đường phố Istanbul trong bốn ngày là đã đủ cho tôi khẳng định rằng bất kỳ ai với một tia thông minh trong mắt và mảng tối của tâm hồn hắt trên khuôn mặt đều là một kẻ sát nhân ẩn mình. Chỉ những kẻ đần độn mới vô tội.

Chẳng hạn như tối nay, trong khi đang làm ấm người lên với một tách cà phê bốc khói tại quán cà phê nằm ở những con phố nhỏ sau khu chợ nô lệ, nhìn vào bức vẽ con chó treo trên bức tường cuối phòng, tôi dần dần quên mất tình trạng khốn khổ của mình và cùng những người khác bật cười trước mọi điều con chó thuật lại. Rồi tôi có cảm giác một trong số những người ngồi cạnh tôi là một tên giết người tầm thường giống như tôi. Dù hắn ta cũng chỉ cười nhạo người kể chuyện giống như tôi, nhưng trực giác của tôi bị đánh động, hoặc bởi cách cánh tay hán nằm gần cánh tay tôi hoặc do cách hắn bồn chồn gõ mấy ngón tay vào tách hắn. Tôi không chắc làm cách nào tôi biết, nhưng bất ngờ tôi quay sang nhìn thẳng vào mắt hắn. Hắn giật mình và mặt hắn nhăn nhó. Khi đám đông giải tán, một người quen của hắn nắm lấy cánh tay hắn mà nói, “Bọn người của Nusret Hoja chắc chắn sẽ bố ráp chỗ này.”

Nhướng mày, hắn ra dấu cho người đó im lặng. Nỗi sợ hãi của họ lan sang tôi. Không ai tin bất cứ ai, mọi người đều có cơ bị người ở kề bên giết bất cứ lúc nào.

Trời đã lạnh hơn, tuyết rơi đã đóng dày các góc phố và chân tường. Trong cái dày đặc của đêm tối, tôi chỉ có thể lần ra đường đi dọc theo các con phố hẹp bằng cách sờ soạng hai tay. Thỉnh thoảng, ánh sáng mờ của một ngọn đèn dầu vẫn còn cháy đâu đó trong một ngôi nhà gỗ hắt ra từ những cửa sổ tối đen và những tấm rèm đã kéo xuống, phản chiếu trên tuyết; nhưng hầu như tôi không thể thấy gì, và tìm đường bằng cách lắng nghe âm thanh của những lính gác đang gõ gậy trên mặt đá, lắng nghe tiếng sủa của bọn chó điên, hoặc tiếng động phát ra từ các ngôi nhà. Thỉnh thoảng những con phố hẹp và đáng ngại của thành phố này có vẻ bừng lên bởi thứ ánh sáng kỳ lạ phát ra từ chính mặt tuyết; và trong bóng tối, giữa những đổ nát và cây cối, tôi nghĩ mình đã trông thấy một trong những con ma từng làm cho Istanbul trở thành một nơi đáng sợ cả ngàn năm nay. Thỉnh thoảng từ bên trong các ngôi nhà tôi nghe tiếng những con người khốn khổ đang lên cơn ho hoặc thở phì phì hoặc rên rỉ nói mớ trong cơn mơ, hoặc tôi nghe tiếng la của những ông chồng và bà vợ khi họ cố bóp cổ lẫn nhau, tiếng bọn trẻ đang khóc lóc dưới chân họ.

Suốt hai đêm liên tục, tôi đến quán cà phê này để sống lại niềm hạnh phúc tôi cảm thấy trước khi trở thành kẻ sát nhân, để nâng tinh thần và để lắng nghe người kể chuyện. Hầu hết những người bạn vẽ tiểu họa của tôi, lũ huynh đệ mà tôi đã sống chung cả đời vẫn đến đây mỗi đêm. Vì tôi đã làm im miệng cái tên lỗ mãng vốn đã cùng tôi thực hiện những tranh minh họa từ thời niên thiếu, nên tôi không muốn gặp mặt bất cứ ai trong bọn họ.

Tôi rất xấu hổ về cuộc sống của những huynh đệ của tôi, những kẻ không thể làm gì mà không ngồi lê đôi mách, và về bầu không khí vui vẻ đáng ghét ở nơi này. Thậm chí tôi còn phác họa vài bức tranh cho người kể chuyện để họ không buộc tội tôi là phách lối, nhưng chuyện đó cũng không chấm dứt được lòng đố kỵ của họ.

Họ có lý do để ghen tỵ. Không ai trong số họ có thể qua mặt tôi trong việc pha màu, trong việc tạo ra và tô điểm phần lề trang giấy, bố trí các trang, chọn đề tài, vẽ các khuôn mặt, dàn xếp cuộc chiến tranh hối hả và những cảnh đi săn, vẽ các con thú, các vị vua, tàu bè, ngựa, chiến binh và những tình nhân. Không ai có thể giỏi bằng tôi trong việc làm những bức tranh minh họa mang đầy hồn thơ cả trong việc mạ vàng. Tôi không khoác lác, nhưng tôi giải thích điều này với các vị để các vị có thể hiểu tôi một cách đầy đủ.Qua thời gian, sự ghen tỵ đã trở thành một yếu tố không thể thiếu được như thuốc màu trong cuộc đời của người họa sĩ bậc thầy.

Trong những chuyến đi bộ của tôi, vốn ngày càng kéo dài hơn do trạng thái bồn chồn, thỉnh thoảng tôi đối mặt với những người nông dân sùng đạo thuần khiết và trong trắng và một ý niệm kỳ lạ bất ngờ nảy trong đầu tôi: Nếu tôi đang nghĩ về chuyện tôi là kẻ giết người, người đối diện tôi sẽ đọc được điều đó trên gương mặt tôi. Vì thế tôi buộc mình phải nghĩ đến những điều khác, cũng như, dằn vặt trong nỗi lúng túng, tôi đã buộc mình phải xua đuổi những ý nghĩ về phụ nữ trong khi cầu kinh như một thanh niên mới lớn.Nhưng không như những ngày trai trẻ khi tôi không thể gạt hành động giao phối ra khỏi ý nghĩ của mình, giờ thì tôi thực sự có thể quên vụ giết người mà tôi đã phạm.

Các vị thấy rằng, thục ra, tôi giải thích tất cả việc này bởi vì chúng liên quan đến tình trạng khó xử của tôi. Nhưng nếu tôi định tiết lộ dù chỉ một chi tiết liên quan đến chính vụ giết người, các vị sẽ hình dung ra tất cả và điều này sẽ khiến tôi không còn là một tên giết người vô danh. không nhân diện, đang lang thang giữa các vị như một hồn ma nữa mà hạ tôi xuống địa vị một tên tội phạm bình thường, đã tự thú, tự nộp mạng, rồi sớm trả giá cho tội ác bằng cái đầu của hắn. Tôi xin phép không dừng lại ở một chi tiết đơn lẻ nào, hãy để tôi giữ lại một số manh mối cho riêng mình: Hãy cố khám phá tôi là ai qua cách chọn lựa từ ngữ và màu sắc của tôi, vì những người cảnh giác giống các vị có thể nghiên cứu dấu chân để bắt một tên trộm. Việc này đến lượt nó, lại đưa chúng ta đến vấn đề “phong cách,” vốn đang là mối quan tâm phổ biến: Liệu một nhà tiểu họa, bất kỳ nhà tiểu họa nào, cũng có phong cách riêng của anh ta không? Một cách sử dụng màu, một tiếng nói hoàn toàn riêng của anh ta không?

Chúng ta hãy xem một bức của Bihzad, bậc thầy của những bậc thầy, thánh bảo trợ cho mọi nhà tiểu họa. Tôi tình cờ bắt gặp kiệt tác này, vốn cũng liên quan mật thiết đến hoàn cảnh của tôi bởi vì nó mô tả một vụ giết người, trong số những trang của một cuốn sách tuyệt đẹp của trường phái Herat ra đời cách nay chín mươi năm. Nó xuất hiện từ thư viện của một ông hoàng Ba Tư bị giết trong một trận chiến giành quyền kế vị tàn khốc và kể lại câu chuyện về Husrev và Shirin. Dĩ nhiên là các vị biết rõ số phận của Husrev và Shirin, tôi muốn nói đến phiên bản của Nizami([12]), chứ không phải của Firdusi.

Cặp tình nhân này cuối cùng lấy được nhau sau vô vàn thử thách và khổ ải; tuy nhiên Shiruye trẻ tuổi và độc ác, con trai của Husrev với vợ trước của ông ta, sẽ không để họ yên. Hoàng tử này không chỉ nhòm ngó ngai vàng của cha mình mà còn để ý cả người vợ trẻ Shirin của cha mình nữa. Shiruye, người được Nizami tả “Hơi thở của y có mùi thối của miệng con sư tử” tìm đủ mọi cách để bỏ tù cha y và kế vị ngai vàng. Một đêm, bước vào phòng ngủ của cha y và Shirin, y sờ soạng tìm đường trong bóng tối và khi nhận ra hai người trên giường, y dùng dao găm đâm vào ngực cha y. Vì vậy máu người cha chảy cho đến bình minh và ông chết từ từ trên chiếc giường ông nằm cùng nàng Shirin xinh đẹp, trong khi nàng vẫn ngủ bình yên cạnh ông.

Bức tranh này của bậc thầy vĩ đại Bihzad, cũng như bản thân câu chuyện trình bày nỗi sợ hãi khủng khiếp mà tôi đã mangtrong lòng suốt nhiều năm: Nỗi kinh hoàng khi thức dậy trong đêm đen mà nhận ra có một người lạ đang gây những tiếng động nhỏ khi hắn bò loanh quanh trong bóng tối căn phòng! Hãy tưởng tượng kẻ xâm nhập đó một tay cầm con dao găm còn tay kia bóp cổ quí vị. Mọi chi tiết, bức tường trang trí đẹp mắt, hoa văn trang hoàng cửa sổ và cái khung, những thiết kế hình tròn và uốn lượn trên tấm thảm đỏ, màu sắc của tiếng rú câm lặng phát ra từ cổ họng bị bóp chặt của quí vị, những bông hoa màu vàng và tía được thêu với sự khéo léo và sinh động đến kinh ngạc trên chiếc mền bông lộng lẫy mà bàn chân trần đáng tởm của kẻ sát nhân kia đang tàn nhẫn giẫm lên khi hắn kết liễu mạng sống của quí vị, tất cả chi tiết đó phục vụ cho cùng một mục đích: Trong khi làm tăng vẻ đẹp của bức tranh, chúng cũng nhắc quí vị nhớ rằng căn phòng trong đó quí vị sẽ sớm chết đi và thế giới mà quí vị sẽ sớm lìa bỏ đẹp đến thế nào. Thái độ thờ ơ của cái đẹp trong tranh và của thế giới trước cái chết của quí vị, tình trạng hoàn toàn cô đơn trong cái chết của quí vị bất chấp sự có mặt của vợ quí vị, đây là ý nghĩa tất yếu xộc thẳng vào tâm thức quí vị.

“Bức này của Bihzad,” bậc thầy lão thành đã nói cách nay hai mươi năm khi chúng tôi xem xét cuốn sách mà tôi cầm trên đôi tay run rẩy. Khuôn mặt ông được chiếu sáng không phải bằng ngọn nến gần đó, mà bằng niềm vui của chính điều quan sát được “Bức tranh này quá Bihzad đến độ không cần chữ ký.”

Bihzad ý thức quá rõ về điều này đến độ ông không cần giấu chữ ký của ông ở bất kỳ chỗ nào trên bức tranh. Và theo bậc thầy có tuổi này, có một cảm giác lúng túng và xấu hổ trong quyết định này của ông. Nơi nào có sự điêu luyện đích thực và nghệ thuật thực sự thì người họa sĩ có thể vẽ một kiệt tác vô song mà không để lại dù chỉ một dấu vết về lai lịch của họ.

Lo sợ cho mạng sống của mình, tôi đã giết nạn nhân bất hạnh của mình theo một cách thô sơ và bình thường. Khi tôi trở lại vùng bị hỏa hoạn tàn phá này mỗi đêm để xác minh xem liệu tôi có để lại bất cứ dấu vết nào có thể tố giác mình không, thì những vấn đề về phong cách ngày càng lộ rõ trong đầu tôi.Những gì được tôn sùng như một phong cách thì chẳng là gì hơn một sự bất toàn hoặc sai sót có thể tố giác bàn tay tội lỗi.

Tôi có thể xác định được chỗ này mà thậm chí không cần ánh sáng của tuyết đang rơi, vì vùng này, đã bị hỏa hoạn san bằng, là nơi tôi kết thúc cuộc đời của người bạn suốt hai mươi lăm năm của tôi. Giờ đây tuyết đã che lấp và xóa hết mọi manh mối vốn có thể được xem như chữ ký, chứng tỏ rằng đấng Allah đã đồng tình với Bihzad và tôi về vấn đề phong cách và chữ ký. Nếu thực sự chúng tôi đã phạm phải một tội lỗi không thể tha thứ qua việc minh họa cho cuốn sách đó - như gã ngớ ngẩn đó đã khẳng định cách đây bốn ngày - cho dù chúng tôi đã làm thế một cách vô ý thức, thì chắc đấng Allah đã không ban tặng đặc ân này cho những nhà tiểu họa chúng tôi.

Đêm đó, khi Zarif kính mến và tôi đến đây, tuyết chưa bắt đầu rơi. Chúng tôi có thể nghe tiếng tru của bọn chó lai vọng từ xa.

“Nào, tụi mình đến đây làm gì?” Kẻ không may đó hỏi. “Anh định chỉ cho tôi cái gì ở đây lúc đêm hôm khuya khoắt thế này?”

“Ngay phía trước có một cái giếng, cách đó mười hai bước chân tôi có chôn mớ tiền tôi dành dụm mấy năm nay,” tôi nói. “Nếu anh giữ bí mật mọi chuyện tôi đã giải thích với anh, Enishte kính mến và tôi sẽ bảo đảm rằng anh được tưởng thưởng hậu hĩ.”

“Tôi phải hiểu rằng anh đang thừa nhận mình biết rõ những việc đang làm ngay từ đầu, đúng không?” hắn bồn chồn hỏi.

“Tôi thừa nhận,” tôi miễn cưỡng nói dối.

“Anh thừa nhận bức tranh anh làm mang tính báng bổ, đúng không?”Hắn nói một cách ngây thơ. “Nó dị giáo, một sự phạm thượng mà không một kẻ đứng đắn nào có gan phạm phải. Anh sẽ bị thiêu trong vực Hỏa ngục. Nỗi thống khổ và đớn đau của anh sẽ không bao giờ vơi bớt - và anh đã biến tôi thành tòng phạm.l, Khi nghe hắn nói, với nỗi khủng khiếp tôi cảm thấy những lời của hắn có sức mạnh và sự nghiêm trọng đến độ, dù muốn hay không, người ta sẽ lưu ý đến chúng, hy vọng rằng chúng sẽ chứng thực về những kẻ khốn khổ khác ngoài bản thân họ. Nhiều lời đồn đại giống thế này về Enishte kính mến bắt đầu lan nhanh do sự bí mật quanh cuốn sách ông ta đang làm và số tiền ông ta sẵn lòng trả - và bởi thầy Osman, Trưởng ban Trang trí, coi thường ông ta. Tôi chợt nghĩ rằng có lẽ tay thợ mạ vàng anh em của tôi, Zarif, với ý định xảo quyệt đã sử dụng những sự kiện này để hỗ trợ cho những lời buộc tội dối trá của hắn. Hắn ta trung thực tới mức nào?

Tôi đã để cho hắn lặp lại những lời khẳng định vốn khiến chúng tôi gây gổ với nhau, và trong khi nói, hắn chẳng lựa lời gì cả. Hắn có vẻ muốn khiêu khích tôi để che đậy một lỗi lầm, như trong suốt những năm học nghề của chúng tôi, khi mục tiêu là tránh sự trừng phạt của thầy Osman. Hồi đó tôi nhận ra sự thật thà của hắn đầy sức thuyết phục. Là thợ học việc, đôi mắt hắn thường mở to giống như bây giờ vậy, những hồi đó chúng chưa lòa dần vì công việc tô điểm. Nhưng sau cùng tôi quyết không chùn tay; hắn đã sẵn sàng thú nhận mọi chuyện với mọi người.

“Nghe tôi nói này,” tôi nói với vẻ bực tức. “Chúng ta trang trí sách, tạo ra những họa tiết cho lề trang, vẽ khung trên các trang giấy, mình trang trí rực rỡ từng trang với những sắc vàng, mình làm ra bức tranh tuyệt vời nhất trong các bức tranh, mình trang trí những cái tủ cái hộp. Suốt bao năm rồi bọn mình chẳng làm gì khác. Đó là nghề của chúng ta. Họ yêu cầu chúng ta làm tranh, đặt hàng chúng ta sắp xếp một con tàu, một con sơn dương, hoặc một ông vua trong phần viền của cái khung nào đó, đòi hỏi một kiểu chim cụ thể, một loại hình ảnh cụ thể, chọn cảnh cụ thể kia trong câu chuyện, bỏ qua cái này cái nọ. Bất cứ điều gì họ đòi hỏi, chúng ta đều thực hiện. ‘Nghe này’ Enishte kính mến đã nói với tôi, ‘Hãy vẽ một con ngựa theo trí tưởng tượng của riêng anh, ngay chỗ này.’ Trong ba ngày, giống những họa sĩ vĩ đại thời xưa, tôi đã phác thảo hàng trăm con ngựa đến độ tôi có thể biết chính xác ‘một con ngựa theo trí tưởng tượng của riêng tôi’, là như thế nào. Để quen tay, tôi đã vẽ hàng lô ngựa trên một tờ giấy thô Samarkand.”

Tôi mang những bức phác thảo này ra cho Zarif xem. Hắn ta nhìn chúng với vẻ thích thú và, cúi sát vào tờ giấy, bắt đầu nghiên cứu những con ngựa đen và trắng trong ánh trăng mờ mờ. “Những họa sư lão thành của phái Shiraz và Heart” tôi nói, “khẳng định rằng một nhà tiểu họa phải phác thảo liên tục những con ngựa trong suốt năm mươi năm để có thể vẽ được con ngựa mà đấng Allah mường tượng và ao ước. Họ khẳng định rằng bức tranh tuyệt hảo nhất về ngựa phải được vẽ trong bóng tối, vì một nhà tiểu họa thực sự sẽ bị mù khi làm việc suốt thời kỳ năm mươi năm đó, nhưng trong quá trình đó, tay anh ta sẽ nhớ được con ngựa.”

Vẻ ngây thơ trên gương mặt hắn, một khuôn mặt tôi từng thấy rất lâu trước đây, khi chúng tôi còn nhỏ, cho tôi biết rằng hắn hoàn toàn bị những con ngựa của tôi thu hút.

“Họ thuê chúng ta, và chúng ta cố tạo ra con ngựa kỳ diệu nhất khó đạt tới nhất, như những lão sư phụ đã làm. Chẳng có gì hơn. Họ không công bằng khi bắt chúng ta chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì ngoài việc minh họa.”

“Tôi không chắc điều đó đúng,” hắn nói. “Chúng ta cũng có những trách nhiệm và ý chí của riêng mình. Tôi không sợ ai trừ đấng Allah. Chỉ có Người mới cho chúng ta lý trí để chúng ta phân biệt được cái Thiện với cái Ác”.

Đó là một câu trả lời thích hợp.

“Đấng Alllah thấy và biết tất cả...” Tôi nói bằng tiếng Ả Rập. “Người sẽ biết rằng anh với tôi, chúng ta đã làm việc này mà không ý thức về những gì chúng ta đang làm. Anh sẽ báo cáo cho ai biết về Enishte kính mến? Chẳng lẽ anh không biết đằng sau việc này là ước muốn của Đức vua đáng kính của chúng ta sao?”

Im lặng.

Tôi tự hỏi liệu hắn thực sự là một tên ngớ ngẩn như thế hay sự mất bình tĩnh và thói thuyết giảng hùng hổ của hắn quả là xuất phát từ lòng thành thực kính sợ đấng Allah.

Chúng tôi dừng lại bên miệng giếng. Trong bóng tối, tôi mơ hồ bắt gặp ánh mắt của hắn và có thể thấy rằng hắn đang sợ. Tôi thương hại cho hắn. Nhưng điều đó đã quá trễ. Tôi cầu xin Thượng đế cho tôi thêm một dấu hiệu nữa chứng tỏ rằng người đang đứng trước mặt tôi không chỉ là một tên hèn nhát ngu đần mà còn là một kẻ tệ hại vô phương cứu chữa.

“Đếm mười hai bước rồi đào” tôi nói.

“Rồi anh sẽ làm gì?”

“Tôi sẽ giải thích tất cả với Enishte kính mến, và ông ta sẽ đốt tất cả tranh. Còn có giải pháp nào khác nữa? Nếu một trong những đồ đệ của Nusret Hoja nghe được luận điệu quy kết như thế, cả chúng ta lẫn xưởng làm sách nghệ thuật sẽ tan thành tro bụi. Anh có quen biết bất kỳ tay Erzurum nào không? Hãy nhận số tiền này để chúng tôi tin chắc rằng anh sẽ không khai chúng tôi ra.”

“Tiền được đựng trong cái gì?”

“Có bảy mươi lăm đồng vàng Venice trong một chiếc bình gốm.”

Những đồng tiền Venice thì nghe dễ hiểu, nhưng ở đâu tôi lại nảy ra ý tưởng về chiếc bình gốm vậy? Thật là ngốc mới thấy nó đáng tin. Vì thế tôi lại càng tin chắc rằng Thượng đế phù hộ tôi và đã cho tôi một dấu hiệu. Người bạn học nghề cũ của tôi, kẻ mà mỗi năm qua đi lại càng tham lam hơn, đã bắt đầu hào hứng đếm mười hai bước theo hướng tôi đã chỉ.

Lúc đó trong đầu tôi có hai điều. Đầu tiên là không hề có nhũng đồng tiền Venice hay bất cứ thứ gì tương tự được chôn ở đó cả! Nếu tôi không nảy ra ý nghĩ về món tiền ấy thì tên ngớ ngẩn này sẽ hủy diệt chúng tôi. Bất chợt tôi cảm thấy muốn ôm hôn lên má tay đại ngốc này như đôi khi tôi vẫn làm khi chúng tôi còn học việc, những năm tháng đã làm chúng tôi xa cách. Thứ hai, tôi lo hình dung ra chuyện chúng tôi sẽ đào đất thế nào đây.Bằng móng tay à? Nhưng sự trầm tư này, nếu các vị có thể gọi nó như vậy, kéo dài chỉ trong nháy mắt.

Kinh hoàng, tôi chộp một cục đá bên cạnh giếng. Trong khi hắn bước đến bước thứ bảy hay thứ tám gì đó, tôi theo kịp hắn và dùng hết sức bình sinh đập vào gáy hắn. Tôi đập hắn mau lẹ và tàn bạo đến độ nhất thời tôi hoảng hốt, như thể cú đánh ấy đã giáng xuống đầu chính tôi vậy. Ôi, tôi cảm thấy được cơn đau của hắn.

Thay vì đau khổ vì những gì tôi đã làm, tôi lại muốn kết thúc nhanh chóng việc này. Hắn bắt đầu giãy giụa trên mặt đất và nỗi kinh hoàng của tôi sâu thêm.

Rất lâu sau khi tôi thả hắn xuống giếng, tôi đã ngẫm nghĩ xem sự tàn bạo trong hành động của mình hoàn toàn không phù hợp đến thế nào với vẻ trang nhã của một nhà tiểu họa.

CHƯƠNG 5
TÔI LÀ DƯỢNG YÊU QUÝ CỦA CHÁU

Tôi là dượng của Siyah, enishte của nó, nhưng những người khác cũng gọi tôi là “Enishte.” Có một thời gian mẹ của Siyah khuyến khích nó gọi tôi là “Enishte kính mến,” và sau đó, không chỉ mình Siyah, mà mọi người đều gọi tôi theo kiểu đó. Ba mươi năm trước, sau khi chúng tôi chuyển đến con đường ẩm ướt và tối tăm núp dưới hàng cây đoạn và cây dẻ phía bên kia quận Aksaray, Siyah bắt đầu thường xuyên đến thăm nhà chúng tôi. Đó là chỗ ở của chúng tôi trước khi có ngôi nhà này. Nếu tôi ra đi trong chiến dịch mùa hè với Tổng trấn Mahmut, tôi hẳn sẽ trở về vào mùa thu để thấy rằng Siyah với mẹ nó đến lánh ở nhà chúng tôi. Mẹ của Siyah, cầu mong cho bà được yên nghỉ, là chị của người vợ quá cố của tôi. Có nhiều lần vào những tối mùa đông, tôi về nhà và thấy vợ tôi với mẹ của Siyah ôm nhau và an ủi nhau trong nước mắt.

Cha của Siyah, vốn không còn giữ được chỗ dạy tại những ngôi trường tôn giáo nhỏ bé xa xôi nơi ông từng dạy nữa, có tính tình cục cằn nóng nảy và một điểm yếu là rượu chè. Lúc đó Siyah lên sáu; nó khóc khi mẹ nó khóc, bình tĩnh lại khi mẹ nó im lặng và nghĩ về tôi. Enishte của nó, với sự sợ hãi.

Tôi thấy vui khi thấy nó trước mặt tôi lúc này. một đứa cháu trai cương cường, chín chắn và lễ phép. Sự tôn trọng nó dành cho tôi sự ân cần trong cách nó hôn tay tôi và ép tay tôi vào trán nó, cái cách nó nói chẳng hạn như “Thuần túy dành cho màu đỏ,” khi nó đưa cho tôi lọ mực Mông Cổ như một món quà, cùng vẻ lễ phép và thói quen khép nép của nó cứ chụm hai đầu gối lại khi ngồi trước mặt tôi, tất cả chuyện đó không chỉ cho thấy nó là một người đàn ông trưởng thành đầy hiểu biết như nó khao khát trở thành, mà còn nhắc cho tôi nhớ rằng tôi thực sự là một người lớn đáng kính như tôi từng ao ước.

Nó giống cha nó, người tôi từng gặp một hai lần: Nó cao gầy, hai cánh tay và bàn tay của nó có những cử chỉ hơi bồn chồn nhưng phù hợp. Thói quen đặt hai tay lên gối hoặc nhìn sâu và chăm chú vào mắt tôi như thể muốn nói, “Cháu hiểu, cháu đang nghe dượng với lòng tôn kính” khi tôi nói với nó một điều gì quan trọng, hoặc cách nó gật đầu với một nhịp điệu tinh tế theo chừng mực những lời nói của tôi, thảy đều rất thích hợp. Bây giờ, khi đến từng tuổi này, tôi biết rằng lòng tôn kính thật sự không xuất phát từ trái tim, mà từ lòng tôn trọng và những nguyên tắc riêng biệt.

Trong suốt những năm mẹ Siyah thường xuyên dẫn nó đến nhà chúng tôi với mọi lý do vì bà đã tiên liệu một tương lai cho nó tại đây, tôi hiểu những cuốn sách làm nó vui thích, và điều này mang chúng tôi lại gần nhau. Như những người trong nhà này thường nói, nó sẽ làm  “thợ học việc” cho tôi. Tôi giải thích cho nó biết cách những nhà tiểu họa ở Shiraz tạo ra một phong cách mới bằng việc nâng đường chân trời lên đến đỉnh của lề giấy, và rằng trong khi mọi người mô tả Mejnun trong tâm trạng đau khổ tại sa mạc, điên lên vì yêu nàng Leyla ([13]) của anh ta, thì bậc thầy vĩ đại Bihzad lại có thể truyền đạt tốt hơn nhiều nỗi cô đơn của Mejnun bằng việc vẽ y lang thang giữa những nhóm phụ nữ đang nấu nướng, cố gắng nhen lửa để đun củi bằng cách thổi vào chúng, hoặc đi loanh quanh giữa những lều bạt. Tôi nhận thấy thật ngớ ngẩn khi hầu hết những người vẽ minh họa muốn mô tả cảnh Husrev rình nàng Sharin trần truồng đang tắm trong hồ lúc nửa đêm đã tô màu một cách kỳ cục những con ngựa và quần áo của cặp tình nhân này mà không hề đọc bài thơ của Nizami, quan điểm của tôi là, nhà tiểu họa nào cầm cọ lên mà không có đủ quan tâm và chu đáo để đọc văn bản mà anh ta đang minh họa thì kẻ đó chẳng bị thúc đẩy bởi cái gì ngoài lòng tham.

Hiện giờ tôi rất hài lòng khi thấy rằng Siyah có được một đức tính quan trọng khác: Để tránh sự chán nản trong nghệ thuật, người ta phải coi nó như một sự nghiệp. Cho dù người ta có tài năng và ý thức nghệ thuật lớn cỡ nào đi nữa, anh ta vẫn phải kiếm tiền bạc và quyền lực ở chỗ khác để tránh bỏ rơi nghệ thuật của mình khi không nhận được sự đền bù xứng đáng cho tài năng và nỗ lực của anh ta.

Siyah kể lại chuyện nó đã gặp từng người một trong số những nhà minh họa và thư pháp bậc thầy ở Tabriz khi nó làm sách cho các tổng trấn, những người Istanbul giàu có và những mạnh thường quân tại các tỉnh như thế nào. Tôi hiểu ra, tất cả các nghệ sĩ này đều nghèo khó và bị gục ngã trước sự vô nghĩa trong số phận của họ. Không chỉ ở Tabriz, mà ở Mashhad và Aleppo, nhiều người vẽ tiểu họa đã bỏ việc làm sách mà bắt đầu làm những bức tranh rời riêng lẻ - những món lạ mắt có thể làm vui lòng du khách châu Âu - thậm chí những bức tranh khiêu dâm.

Người ta đồn rằng bản thảo có minh họa mà Vua Abbas tặng cho Đức vua của chúng ta trong Hòa ước Tabriz đã bị người ta tháo rời để sử dụng các trang trong đó cho một cuốn sách khác. Người ta cho là Akbar, hoàng đế của người Hindustan đã vung tiền để làm một cuốn sách mới với khổ lớn hơn đến độ hầu hết các nhà minh họa tài năng xứ Tabriz và Kazvin dừng ngay những gì họ đang làm mà kéo nhau đến lâu đài của ông.

Khi kể cho tôi nghe các chuyện này, nó cũng vui vẻ xen vào những câu chuyện khác; chẳng hạn nó mỉm cười mô tả một câu chuyện thú vị về vụ giả mạo đấng cứu thế Mehdi hoặc việc người Uzbek đột ngột nổi cơn thịnh nộ khi ông hoàng ngu ngốc mà người Safavid gửi sang làm con tin để cầu hòa đã ngã bệnh bất ngờ và chỉ trong ba ngày là chết. Tuy nhiên, qua vẻ u ám phảng phất trên khuôn mặt nó, tôi có thể thấy rằng tình trạng khó xử mà không ai trong chúng tôi nhắc đến, nhưng lại gây rắc rối cho cả hai chúng tôi, vẫn chưa được giải quyết.

Một cách tự nhiên, Siyah, cũng như mọi thanh niên vốn thường xuyên lui tới nhà tôi hoặc nghe người khác nói về chúng tôi hoặc biết về Shekure, đứa con gái xinh đẹp của tôi qua lời đồn, đã yêu con bé. Có lẽ hồi đó tôi đã không xem chuyện này là đủ nguy hiểm đáng để quan tâm, nhưng mọi người - kể cả những kẻ chưa từng trông thấy con gái tôi - cũng đã phải lòng nó, người đẹp của những người đẹp. Nguồn cội đau khổ của Siyah chính là niềm đam mê quá lớn của một chàng trai trẻ xấu số vốn được tự do đến nhà chúng tôi, người được chấp nhận và được yêu thích trong nhà chúng tôi và là người thực sự có cơ hội gặp Shekure. Nó không hề giấu giếm tình yêu của nó, như tôi hy vọng, mà đã phạm sai lầm là để lộ ra niềm đam mê dữ dội của nó với con gái tôi.

Kết quả là nó bị buộc phải rời khỏi nhà chúng tôi mãi mãi.

Tôi cho rằng hiện giờ Siyah đã biết ba năm sau khi nó rời khỏi Istanbul, con gái tôi đã cưới một kỵ binh, đang lúc tuổi thanh xuân đẹp nhất của nó, và rằng người lính đó, đã là cha của hai đứa con trai nhưng vẫn thiếu sự hiểu biết thông thường, đã tham gia một chiến dịch và không trở về. Trong bốn năm không ai nghe tin gì về người kỵ binh này. Tôi suy ra rằng nó đã biết hết, không chỉ vì những chuyện đồn đại như thế lan truyền nhanh ở Istanbul, mà còn bởi trong những lần im lặng trôi qua giữa hai chúng tôi, tôi cảm thấy nó đã biết toàn bộ câu chuyện từ lâu, qua cách nó nhìn vào mắt tôi. Thậm chí vào lúc đó, khi nó liếc nhìn cuốn Kitab al-Ruh ([14]) vốn đang để mở trên giá đọc hình chữ X, tôi biết nó đang chú ý lắng nghe tiếng con cái Shekure chạy chơi khắp nhà; tôi biết nó biết rằng con gái tôi cùng hai con trai của con bé đã quay về nhà tôi.

Tôi quên đề cập đến ngôi nhà mới tôi đã xây trong khi Siyah vắng mặt. Rất có khả năng là Siyah, giống như bất cứ chàng trai nào vốn quyết tâm trở thành người giàu có và uy tín, cũng cho rằng thật bất lịch sự khi bàn về một vấn đề như thế. Tuy nhiên, khi chúng tôi bước vào, tôi nói với nó trên cầu thang rằng tầng hai luôn đỡ ẩm hơn, và nhờ chuyển lên lầu mà các khớp của tôi bớt đau nhức. Khi tôi nói “tầng hai,” tôi cảm thấy bối rối kỳ lạ. nhưng để tôi nói cho các vị biết: Những người có ít tiền hơn tôi, thậm chí chỉ là một anh kỵ binh có chút ít đất đai, cũng sớm có thể xây nhà hai tầng.

Chúng tôi ở trong căn phòng có cửa chính màu xanh mà tôi dùng làm xưởng vẽ vào mùa đông, và tôi có cảm giác rằng Siyah ý thức về sự có mặt của Shekure trong căn phòng kế bên. Tôi lập tức tiết lộ cho nó vấn đề đã khiến tôi viết lá thư gửi đến Tabriz mời nó về Istanbul.

“Giống như cháu đã hợp tác với những nhà thư pháp và vẽ tiểu họa Tabriz, ta cũng đang chuẩn bị một bản thảo có minh họa,” tôi nói. “Khách hàng của ta, nói thực, chính là Đức vua vinh quang của chúng ta, Nền móng của thế giới. Bởi vì cuốn sách này là một bí mật, Đức vua đã mượn danh Trưởng ngân khố để trả lương cho ta. Và ta đã thỏa thuận với từng họa sĩ tài hoa và lừng danh nhất trong xưởng làm việc của Đức vua. Ta đang tiến hành giao cho người này việc minh họa một con chó, người khác một cái cây, người thứ ba ta ra lệnh làm các họa tiết phần lề và những đám mây trên chân trời, một người khác nữa thì chịu trách nhiệm về những con ngựa. Ta muốn những thứ ta vẽ tiêu biểu cho toàn bộ thế giới của Đức vua, giống như trong tranh của những bậc thầy Venice. Nhưng không như người Venice, công việc của ta không chỉ là vẽ những đối tượng vật chất, mà tất nhiên còn mô tả sự phong phú nội tại, những niềm vui và sợ hãi trong vương quốc mà Đức vua trị vì. Nếu cuối cùng ta đưa vào bức tranh vẽ một đồng vàng, thì đó sẽ là xem nhẹ đồng tiền; ta đã đưa Thần chết và quỷ Satan ([15]) vào bởi chúng ta sợ chúng. Ta không biết những lời đồn đại nói về điều gì. Ta muốn sự bất tử của một cội cây, sự mệt mỏi của một con ngựa và sự thô tục của một con chó biểu trưng cho Đức vua vinh quang của chúng ta và vương quốc trần thế của người. Ta cũng muốn lực lượng các nhà minh họa nòng cốt của ta, biệt danh “Leylek”, “Zeytin”, “Zarif” và “Kelebek” được chọn những đề tài theo ý họ. Cả trong những tối mùa đông lạnh nhất, đáng sợ nhất, một trong những nhà minh họa của Đức vua vẫn bí mật đến để cho ta biết anh ta đang chuẩn bị gì cho cuốn sách.

“Chúng ta đang làm loại tranh gì? Tại sao chúng ta minh họa chúng theo cách đó? Lúc này ta thực sự không thể trả lời cháu. Không phải vì ta giữ bí mật với cháu, và không phải vì rốt cuộc ta sẽ không nói cho cháu biết. Cứ như bản thân ta cũng hoàn toàn không biết những bức tranh có ý nghĩa gì. Tuy nhiên chắc chắn ta biết những bức tranh này phải thuộc dạng gì.”

Bốn tháng sau khi tôi gửi lá thư, tôi nghe tay thợ cắt tóc ngụ trên con đường ngày xưa tôi từng sống nói rằng Siyah đã trở lại Istanbul, và đến lượt tôi mời nó đến nhà chúng tôi. Tôi ý thức rõ ràng câu chuyện của tôi hứa hẹn nỗi buồn lẫn niềm vui mà chúng sẽ nối kết chúng tôi với nhau.

“Mỗi bức tranh nói lên một câu chuyện,” tôi nói. “Nhà tiểu họa, để làm đẹp cho bản thảo chúng ta đọc, đã mô tả những những cảnh sinh động nhất: lần đầu những tình nhân gặp nhau; Rustem anh hùng cắt đầu con quái vật hung ác; nỗi thống khổ của Rustem khi nhận ra kẻ lạ mà ông hạ sát chính là con trai ông; gã Mejnun cuồng tình lang thang ở nơi hoang dã, cô độc giữa đám sư tử, hổ, hươu và chó rừng; nỗi thống khổ của Alexander người đã đến khu rừng trước trận đánh để tiên đoán hậu quả từ lũ chim, chứng kiến con chim ưng khổng lồ xé xác con chim săn của ông. Mắt chúng ta, mệt mỏi khi đọc những câu chuyện này, sẽ nhìn vào những bức tranh. Nếu có điều gì đó trong văn bản mà sức tưởng tượng và trí tuệ của chúng ta phải cực nhọc lắm mới hình dung được, thì tranh minh họa lập tức trợ giúp chúng ta. Những hình ảnh này là câu chuyện nảy nở thành màu sắc. Nhưng bức tranh mà không có câu chuyện của nó đi kèm là điều bất khả.

“Hoặc ta từng nghĩ thế,” tôi nói thêm, như thể hối tiếc. “Nhưng điều này thực tế hoàn toàn có thể xảy ra. Hai năm trước ta lại một lần nữa du lịch đến Venice trong vai trò đại sứ của Đức vua. Ta đã quan sát rất kỹ những chân dung mà các bậc thầy Venice đã thực hiện. Ta quan sát mà không hề biết các bức tranh ấy liên quan đến câu chuyện và bối cảnh nào, và ta đã cố gắng rút ra câu chuyện từ hình ảnh. Một ngày nọ, ta đi ngang một bức tranh treo trên tường một tòa lâu đài và ta chết lặng.

“Hơn cả mọi thứ, bức đó vẽ một người, một ai đó giống như ta. Dĩ nhiên, đó là một kẻ ngoại giáo, không phải là một người trong chúng ta. Thế nhưng, khi ta chăm chú nhìn nó, ta có cảm giác như thể ta giống hệt nó. Nhưng nó hoàn toàn không giống ta chút nào. Nó có khuôn mặt tròn trịa đến độ có vẻ như không có xương gò má, và hơn nữa, nó không có dấu vết gì của chiếc cằm tuyệt vời của ta. Dù nó trông tuyệt không giống ta chút nào, nhưng khi nhìn vào bức tranh, tim ta đập liên hồi như thể đó là chân dung của chính ta vậy.

“Qua quý ông Venice, người dẫn ta đi khắp tòa lâu đài này, ta biết được rằng bức chân dung đó vẽ một người bạn, một tay quý tộc như ông ta. Ông ta đã đưa mọi thứ quan trọng trong cuộc đời ông ta vào bức chân dung này: Trong bối cảnh có thể thấy được qua khung cửa sổ mở là một nông trại, một ngôi làng và một sự kết hợp màu sắc tạo thành một khu rừng trông rất thực. Nằm trên chiếc bàn trước mặt tay quý tộc này là một cái đồng hồ, những quyển sách, Thời gian, Cái ác, Cuộc sống, một cây bút viết thư pháp, một bản đồ, một la bàn, những chiếc hộp đựng tiền vàng, đồ vặt vãnh, những thứ không giá trị, những vật bí hiểm nhưng dễ nhận ra vốn thường có mặt trong nhiều bức tranh, bóng dáng các hồn ma và quỷ sứ và cả bức hình cô con gái xinh đẹp tuyệt trần của người đàn ông này đang đứng cạnh cha mình.

“Câu chuyện mà bức tranh này muốn tô điểm và làm hoàn chỉnh là gì? Trong khi xem xét tác phẩm, dần dần ta ý thức rằng câu chuyện nằm bên dưới là chính bức tranh. Bức vẽ này hoàn toàn không phải là phần triển khai của một câu chuyện nào cả. tự thân nó đã là một cái gì riêng biệt rồi.

“Ta không bao giờ quên bức tranh đã làm ta lúng túng như thế. Ta rời tòa lâu đài, trở về nhà khách và nghĩ về bức tranh đó suốt đêm. Ta cũng muốn được vẽ chân dung theo kiểu này. Nhưng không, điều đó không thích hợp, chỉ có Đức vua mới được vẽ chân dung như thế! Đức vua phải được vẽ cùng với mọi thứ Ngài sở hữu, những thứ tượng trưng cho Ngài và tạo thành vương quốc của Ngài. Ta đi tới quyết định rằng một bản thảo có thể được minh họa theo ý tưởng này.

“Người nghệ sĩ bậc thầy Venice đã vẽ chân dung vị quý tộc này theo một cách mà cháu có thể lập tức nhận ra vị quý tộc cụ thể đó là ai. Nếu cháu chưa từng gặp người đó, và nếu họ bảo cháu chỉ ra ông ta trong đám đông hàng ngàn người, cháu có thể chọn ra đúng người này nhờ vào bức chân dung đó. Những bậc thầy Venice đã khám phá ra những kỹ thuật hội họa mà qua đó họ có thể làm nổi bật bất cứ ai ra khỏi những người khác - không dựa vào quần áo hay huy chương của người đó, mà bằng đường nét đặc thù của khuôn mặt. Đây là cốt tủy của “nghệ thuật chân dung.”

“Nếu khuôn mặt cháu được vẽ kiểu này dù chỉ một lần, không ai có thể quên được cháu, và nếu cháu đi xa, những ai đã từng nhìn thấy bức chân dung của cháu sẽ cảm thấy sự hiện diện của cháu như thể cháu thực sự đang ở gần bên. Những ai chưa từng gặp cháu khi còn sống, thậm chí nhiều năm sau khi cháu qua đời, họ vẫn có thể thấy rõ cháu như thể cháu đang đứng trước mặt họ vậy.”

Chúng tôi im lặng hồi lâu. Ánh sáng lạnh lẽo mang màu băng giá bên ngoài lọt vào qua phần trên của cửa sổ hành lang dẫn ra đường; đây là của sổ mà phần bên dưới không bao giờ được mở ra, tôi vừa mới dùng một mảnh vải nhúng sáp ong dán kín lại.

“Có một nhà tiểu họa,” tôi nói. “Anh ta vẫn đến đây như những họa sĩ khác vì cuốn sách bí mật của Đức vua, và dượng với anh ta có thể làm việc với nhau đến bình minh. Anh ta rất giỏi mạ vàng. Zarif kính mến không may đó, một đêm nọ anh ta đã rời khỏi đây và chẳng bao giờ về đến nhà. Ta e rằng họ đã giết anh ta, tay thợ cả mạ vàng tội nghiệp của ta.”

CHƯƠNG 6
TÔI LÀ ORHAN

Siyah hỏi: “Có thực là họ đã giết anh ta không?”

Siyah này thì cao, gầy, và hơi hoảng sợ. Tôi đang đi về phía chỗ họ ngồi nói chuyện trong xưởng họa ở tầng hai có cửa màu xanh thì ông ngoại tôi nói, “Có thể họ đã giết anh ta.” Rồi ông nhìn thấy tôi. “Con làm gì ở đây vậy?”

Ông nhìn tôi theo một cách khiến tôi chỉ biết trèo lên đùi ông mà không dám trả lời. Sau đó ông đặt tôi xuống ngay.

“Hôn tay Siyah đi,” ông bảo.

Tôi hôn mu bàn tay Siyah và áp nó vào trán tôi. Nó không có mùi khó chịu.

“Nó duyên thế nhỉ.” Siyah nói và hôn lên má tôi. “Mai mốt nó sẽ trở thành một chàng trai dũng cảm.”

“Nó là Orhan, sáu tuổi. Nó có một đứa anh nữa, Shevket, bảy tuổi. Thằng nhóc đó bướng ghê lắm.”

“Cháu đi ngược tới con phố cổ ở Aksaray”, Siyah nói. “Trời thật lạnh, mọi thứ phủ đầy tuyết. Nhưng có vẻ như chẳng có gì thay đổi cả”

“Ôi! Mọi thứ đều thay đổi, mọi thứ đã trở nên tồi tệ hơn”, ông ngoại tôi nói. “Hết sức tồi tệ.” Ông quay sang tôi. “Anh con đâu?”

“Anh ấy ở với ông thầy nhà mình, ông thầy đóng sách ấy.”

“Vậy con làm gì ở đây?”

“Thầy ấy bảo con, làm tốt đấy, giờ cháu đi chơi được rồi.”

“Rồi con về đây một mình à?” Ông tôi hỏi. “Anh con phải đi với con chứ?” Rồi ông nói với Siyah. “Có một thợ đóng sách bạn của ta, tụi nhỏ làm việc với ông ấy một tuần hai lần sau buổi học kinh Koran. Tụi nó là thợ học việc của ông ta. học nghề đóng sách.”

“Cháu có thích vẽ tranh minh họa giống ông ngoại không?” Siyah hỏi.

Tôi không trả lời chú ấy.

“Vậy được rồi,” ông tôi nói. “Giờ con đi chỗ khác chơi đi.”

Hơi nóng từ lò than để sưởi căn phòng quá dễ chịu đến độ tôi không muốn rời đi. Tôi đứng yên một lát hít mùi sơn và keo. Tôi ngửi thấy cả mùi cà phê nữa.

“Những việc minh họa theo cách mới có biểu hiện một cách nhìn mới không?” ông tôi bắt đầu. “Đây là lý do khiến họ giết tay thợ mạ vàng đáng thương đó bất chấp chuyện anh ta vẫn làm việc theo phong cách cũ. Thậm chí ta chưa dám chắc rằng anh ta đã bị giết, chỉ chắc rằng anh ta hiện mất tích thôi. Họ đang minh họa một câu chuyện tưởng niệm bằng thơ, cuốn Sur-nama ([16]), cho Đức vua theo lệnh của thầy Osman Trưởng ban Trang trí. Mỗi nhà tiểu họa làm việc tại nhà riêng của họ. Tuy nhiên thầy Osman chiếm một chỗ trong xưởng làm sách nghệ thuật của cung điện. Để bắt đầu ta muốn cháu đến đó quan sát mọi thứ. Ta lo rằng những người kia, những tay vẽ tiểu họa ấy, đã đi tới chỗ cãi cọ và giết lẫn nhau. Họ có nghệ danh được thầy Osman đặt cho cách nay nhiều năm: “Kelebek”, “Zeytin,” “Leylek”... Cháu cũng nên đi quan sát khi họ làm việc tại nhà.”

Thay vì xuống cầu thang, tôi vòng lại. Có tiếng động phát ra từ phòng kế cạnh, có tủ âm tường, nơi Hayriye ngủ. Tôi bước vào. Trong phòng không có Hayriye, chỉ là mẹ tôi. Bà bối rối khi thấy tôi. Bà đang đứng nửa người trong tủ.

“Nãy giờ con ở đâu?” bà hỏi.

Nhưng bà biết tôi ở đâu. Ở lưng tủ có một lỗ nhỏ qua đó người ta có thể nhìn thấy xưởng làm việc của ông ngoại tôi, và nếu cửa xưởng mở thì thấy được cả hành lang rộng và phòng ngủ của ông tôi bên kia hành lang cạnh cầu thang - dĩ nhiên là nếu cửa phòng ngủ của ông tôi cũng mở.

“Con ở chỗ ông ngoại.” tôi nói. “Mẹ ơi mẹ đang làm gì trong đấy vậy?

“Mẹ chưa nói với con là ông ngoại có khách và con không được quấy ông sao?” Bà rầy tôi, nhưng không lớn tiếng, bởi bà không muốn khách nghe. “Họ đang làm gì vậy?” sau đó bà hỏi, giọng ngọt ngào.

“Họ ngồi. Nhưng không bày thuốc màu ra. Ông thì nói, còn người kia nghe.”

“Ông khách ngồi kiểu nào?”

Tôi ngồi xuống sàn và bắt chước dáng điệu của vị khách: “Giờ con là một người nghiêm trang lắm đây nghe, mẹ nhìn nè. Con nhíu mày nghe ông ngoại nói, cứ như con đang nghe đọc sử thi giáng thế ấy. Lâu lâu con lại gật đầu, rất nghiêm trang giống y như ông khách đó.”

“Xuống nhà đi”, mẹ tôi nói, tìm Hayriye lập tức.”

Bà ngồi xuống và bắt đầu viết vào một mẩu giấy nhỏ trên cái bàn bà đã bày ra.

“Mẹ ơi mẹ viết gì vậy?”

‘Nhanh lên. Mẹ bảo con xuống nhà tìm Hayriye mà?”

Tôi xuống nhà bếp. Anh tôi, Shevket, đã về. Hayriye đặt trước mặt anh ấy một đĩa cơm làm sẵn định dành cho khách.

“Thằng phản thùng,” anh tôi nói. “Mày bỏ đi để tao ở lại với ông thầy. Tao phải một mình làm hết việc gấp giấy để đóng sách. Mấy ngón tay tao bầm tím hết rồi.”

“Hayriye, mẹ em kêu chị kìa.”

“Chừng nào ăn xong tao sẽ cho mày một trận”, anh tôi nói. “Mày phải đền cái tội lười biếng và phản bội của mày.”

Khi Hayriye đi khỏi, anh tôi đứng lên bước về phía tôi với vẻ đầy đe dọa, anh thậm chí còn chưa ăn xong đĩa cơm. Tôi bỏ chạy không kịp. Anh ấy chộp lấy cổ tay tôi mà vặn.

“Thôi đi, Shevket, đừng, anh làm em đau.”

“Mày còn trốn việc rồi bỏ đi chơi nữa không?”

“Không, em không bỏ đi nữa.”

“Thề đi.”

“Em thề.”

“Thề trên kinh Koran.”

“Trên kinh Koran.”

Anh ấy không buông tay tôi ra. Anh ấy lôi tôi đến trước cái mâm lớn bằng đồng mà chúng tôi dùng làm bàn ăn và bắt tôi quỳ xuống. Anh ấy đủ khỏe để ăn đĩa cơm trong khi vẫn tiếp tục vặn cánh tay tôi.

“Dẹp trò hành hạ em đi, đồ bạo chúa,” Hayriye nói. Chị ta khoác áo ấm rồi đi ra ngoài. “Để nó yên.”

“Lo việc của chị đi, cô tớ gái,” anh tôi nói. Anh ấy vẫn vặn cánh tay tôi. “Chị đi đâu vậy?”

“Mua chanh,” Hayriye nói.

“Chị nói dối,” anh tôi nói. “Trong tủ còn đầy nhóc chanh.”

Khi anh ấy thả lỏng tay tôi, tôi đột nhiên vùng thoát ra được.

Tôi đá anh ấy và chộp lấy chân giá cắm nến, nhưng anh ấy bổ nhào lên tôi, làm tôi nghẹt thở. Anh ấy đá văng giá cắm nến, và cái mâm đồng rơi xuống.

“Hai đứa bay là tai họa Thượng đế giáng xuống!” mẹ tôi nói. Bà hạ thấp giọng để khách không nghe. Làm thế nào bà băng qua cánh cửa mở của xưởng vẽ, qua hành lang, và xuống cầu thang mà không bị Siyah thấy?

Bà tách chúng tôi ra. “Hai đứa tiếp tục làm khổ mẹ, phải không?”

“Orhan nói dối thầy đóng sách,” Shevket nói. “Nó bỏ con ở lại làm hết mọi chuyện.”

“Sụyttt!” mẹ nói, tát anh ấy một cái.

Bà đánh anh ấy nhẹ hều. Anh không khóc. “Con muốn ba về”, anh ấy nói. “Chừng nào ba về ba sẽ lấy lại cây gươm có chuôi nạm ngọc của chú Hasan, rồi nhà mình lại dọn về sống với chú Hasan.”

“Im mồm”' mẹ tôi nói. Bất ngờ bà nổi giận đến độ bà nắm cánh tay Shevket và lôi anh ngang nhà bếp, qua cầu thang tới căn phòng quay ra phía có bóng mát của khoảng sân. Tôi đi theo. Mẹ tôi mở cửa. Khi thấy tôi, bà nói, “Vào trong, cả hai đứa”.

“Nhưng con có làm gì đâu,” tôi nói. Nhưng tôi cũng bước vào. Mẹ đóng cửa lại sau lưng chúng tôi. Dù trong phòng không tối đen - có ánh sáng yếu ớt len qua những khe cửa chớp đối diện với cây lựu ở sân sau - nhưng tôi thấy sợ.

“Mở cửa ra đi mẹ,” tôi nói. “Con lạnh.”

“Dẹp cái trò rên rỉ đi, thằng nhát gan,” Shevket nói. “Chút xíu mẹ mở liền mà.”

Mẹ mở cửa. “Các con có chịu ngoan ngoãn đàng hoàng cho đến khi khách về không?” bà nói. “Được rồi, tụi con sẽ ngồi trong bếp cạnh bếp lò cho đến khi ông Siyah về, mà các con không được lên lầu, hiểu không?

“Trong đây chán lắm,” Shevket nói. “Hayriye đi đâu vậy mẹ?”

“Đừng có xen vào chuyện người khác đi ngoài”, mẹ nói.

Chúng tôi nghe một con trong lũ ngựa hí ngoài chuồng. Con ngựa lại hí. Nó không phải là con ngựa của ông ngoại tôi, mà của Siyah. Chúng tôi mệt vì vui đùa, như thể đó là một ngày đẹp. Mẹ mỉm cười, và muốn chúng tôi cũng mỉm cười. Bước tới hai bước, bà mở cửa chuồng ngựa vốn đối diện với cầu thang bên ngoài nhà bếp.

“Xuỵt”, bà kêu chõ vào chuồng ngựa.

Bà quay qua dẫn chúng tôi vào nhà bếp đầy chuột và mùi dầu mỡ của Hayriye. Bà bắt chúng tôi ngồi xuống. “Ngồi yên đây cho tới khi khách ra về. Mà cũng đừng đánh nhau kẻo người ta lại nghĩ là tụi con hư.”

“Mẹ ơi,” tôi nói với bà trước khi bà đóng cửa nhà bếp. “Con muốn nói cái này cho mẹ nghe: Người ta giết ông thợ mạ vàng của ông ngoại rồi.”

CHƯƠNG 7
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

Khi lần đầu nhìn thấy con nàng tôi biết ngay rằng lâu nay tôi nhớ về khuôn mặt Shekure một cách sai lầm. Giống như khuôn mặt của Orhan, mặt nàng gầy, dù cằm nàng dài hơn hình ảnh tôi còn nhớ. Do đó miệng của người tôi yêu chắc chắn nhỏ và hẹp hơn tôi hình dung. Trong mười hai năm, khi lang bạt hết thành phố này đến thành phố khác, tôi đã mở rộng miệng của Shekure vì khao khát và đã tưởng tượng đôi môi của nàng khêu gợi hơn, đầy đặn và hấp dẫn hơn giống một quả dâu tây to chín mọng.

Giá tôi mang theo bên mình chân dung của Shekure được vẽ theo phong cách của những bậc thầy Venice, thì chắc tôi đã không cảm thấy mất mát đến thế trong những chuyến đi dài khi tôi hầu như không thể nhớ lại người mình yêu dấu, người mà khuôn mặt tôi đã để lại ở đâu đó phía sau. Vì nếu khuôn mặt của người yêu còn ghi khắc mãi trong trái tim anh, thì thế giới này vẫn là nhà của bạn.

Việc gặp đứa con út của Shekure rồi nói chuyrện với nó, nhìn sát khuôn mặt nó và hôn nó, đã dấy lên trong tôi một cảm giác bồn chồn đặc trưng của vận rủi, của những kẻ giết người và những kẻ có tội. Một giọng bên trong thôi thúc tôi, “Nhanh lên, đi gặp nàng đi.”

Trong chốc lát, tôi thầm nghĩ đến việc rời khỏi chỗ của Enishte của tôi và mở tung cánh cửa dọc theo hành lang rộng này, tôi đã đếm chúng qua khóe mắt, năm cánh cửa tối, một trong số đó dĩ nhiên mở ra cầu thang - cho đến khi tôi tìm thấy Shekure. Nhưng, tôi đã bị xa cách người tôi yêu trong suốt mười hai năm vì tôi đã bất cẩn để lộ những gì trong tim mình. Tôi quyết định thận trọng chờ đợi, lắng nghe Enishte của tôi trong khi chiêm ngưỡng những đồ vật mà Shekure đã đụng vào và chiếc gối lớn mà ai biết cô ấy đã nằm lên bao nhiêu lần.

Dượng kể với tôi rằng Đức vua muốn cuốn sách được hoàn tất đúng hạn cho lễ kỷ niệm một ngàn năm Hegira ([17]). Đức vua của chúng tôi, Người che chở thế giới, muốn chứng tỏ rằng trong năm thứ một ngàn của lịch Hồi giáo, Ngài và đất nước của Ngài có thể sử dụng những phong cách của người Tây vực như chính dân Tây vực. Bởi vì Ngài cũng đã cho làm một cuốn Sur- nama, Đức vua chuẩn y rằng những nhà tiểu họa bậc thầy, những người mà Ngài biết là hết sức bận rộn, được phép rút về làm việc ở nhà riêng cho yên tĩnh thay vì làm việc giữa đám đông tại xưởng vẽ. Dĩ nhiên Ngài cũng biết rõ rằng tất cả bọn họ đều thường xuyên bí mật đến thăm Enishte của tôi.

“Cháu nên đến thăm thầy Osman Trưởng ban Trang trí”, Enishte nói. “Một số người nói rằng ông đã mù, người khác cho rằng ông đã lẫn. Ta thì cho là ông vừa mù vừa lẫn.”

Bất chấp thực tế rằng Enishte của tôi không có danh tiếng là nhà minh họa bậc thầy và đây hoàn toàn không phải là lãnh vực sở trường của ông, ông vẫn điều hành được một bản thảo có minh họa. Trên thực tế điều này là do sự cho phép và khích lệ của Đức vua, một tình huống mà dĩ nhiên gây căng thẳng cho mối quan hệ giữa ông với lão sư phụ Osman.

Nghĩ về thời thơ ấu, tôi để cho tâm trí mình bị hút vào đồ đạc và vật dụng trong nhà. Từ mười hai năm trước tôi vẫn nhớ tấm thảm trải sàn bằng len xanh xứ Kula, chiếc bình đựng nước bằng đồng, khay và bộ tách uống cà phê, cái xô bằng đồng và những tách uống cà phê thanh tú chắc là được mang về từ tận Trung Hoa qua đường Bồ Đào Nha, như bà dì quá cố của tôi đã khoe nhiều lần. Những món đồ này, như chiếc bàn thấp để đọc sách có chân hình chữ X khảm xà cừ, cái giá máng khăn xếp được đóng đinh vào tường, chiếc gối nhung đỏ mà ngay khi chạm vào là tôi nhớ lại được sự mượt mà của nó, đều từ ngôi nhà ở Aksaray nơi tôi trải qua thời thơ ấu với Shekure, chúng vẫn mang điều gì đó của niềm hạnh phúc lớn lao từ những ngày tôi còn vẽ tranh trong ngôi nhà đó.

Vẽ tranh và niềm hạnh phúc. Tôi muốn các độc giả yêu quý của tôi, những người quan tâm đến câu chuyện và số phận của tôi hãy ghi nhớ hai điều này, vì chúng là khởi đầu cho thế giới của tôi. Có lúc, tôi được toại nguyện ở đây, giữa những cuốn sách, những cây cọ để viết thư pháp và những bức tranh. Sau đó tôi vướng vào tình yêu và bị trục xuất khỏi Thiên đàng này. Trong những năm chịu đựng sự đày ải vì tình, tôi thường nghĩ mình phải thực sự mang ơn Shekure và tình yêu tôi dành cho nàng sâu nặng như thế nào bởi vì chúng đã giúp tôi thích nghi một cách lạc quan với cuộc đời và thế giới. Bởi vì, với sự ngây thơ trẻ con của mình, tôi tin chắc rằng tình yêu của tôi sẽ được đáp trả, do vậy mà tôi trở nên quá yên tâm và xem thế giới này là một nơi tốt đẹp. Bạn thấy đó, chính với thái độ nghiêm túc này mà tôi gắn bó mình với những cuốn sách và yêu chúng, yêu việc đọc mà hồi đó Enishte đòi hỏi ở tôi, những buổi học giáo lý cùng việc vẽ tranh và minh họa của tôi. Nhưng nếu sở dĩ tôi có được nửa đầu nền giáo dục vui tươi, tốt đẹp và nhiều trái quả là nhờ tình yêu của tôi dành cho Shekure, thì tôi có được cái kiến thức đen tối vốn đầu độc tôi suốt thời gian sau đó là bởi tôi bị cự tuyệt; nỗi thèm khát của tôi vào những đêm giá rét muốn được phun ra và biến mất như những ngọn lửa đang tàn dần trong lò sắt của một quán trọ, cứ mơ đi mơ lại sau một đêm yêu đương thấy mình đang lao xuống một vực thẳm cô đơn cùng với bất cứ người đàn bà nào nằm bên cạnh tôi, và ý niệm rằng tôi chỉ là thứ vô giá trị - tất cả thứ đó là do Shekure mang tới.

“Cháu có biết rằng,” Enishte của tôi rất lâu sau này có nói, sau khi chết linh hồn chúng ta có thể gặp linh hồn của những đàn ông và đàn bà trong thế giới này, nhũng người vốn đang ngủ bình yên trên giường của họ không?”

“Không, cháu không biết.”

“Chúng ta thực hiện một chuyến hành trình dài sau khi chết, vì vậy ta không sợ chết. Cái ta sợ là chết mà chưa hoàn tất cuốn sách này cho Đức vua.”

Một phần trong tôi cảm thấy tôi mạnh hơn, hợp lý hơn và đáng tin cậy hơn Enishte của tôi, và một phần khác lại đang nghĩ về giá của chiếc áo trùm mà tôi đã mua trên đường đến đây để gặp con người từng ngăn không cho tôi hỏi cưới con gái ông ấy, và cũng nghĩ đến cái khớp bạc với bộ yên làm thủ công cho con ngựa mà ngay sau khi xuống nhà, tôi đã dắt ra khỏi chuồng cưỡi đi.

Tôi nói với ông, tôi sẽ báo lại cho ông mọi thứ tôi học được trong những cuộc viếng thăm các nhà tiểu họa. Tôi hôn tay ông và áp nó lên trán. Tôi đi xuống nhà, bước ra sân, cảm được cái lạnh của tuyết trùm lên tôi, chấp nhận rằng tôi không phải một đứa trẻ mà cũng không phải một ông già: Tôi vui sướng cảm nhận được thế giới trên da thịt tôi. Khi tôi đóng cửa chuồng ngựa, một cơn gió nhẹ thổi qua. Tôi cầm cương dẫn con ngựa trắng bước theo lối đi lát đá đến phần sân đất, và cả hai chúng tôi cùng rùng mình: Tôi cảm thấy như thể những đôi chân săn chắc, mạnh mẽ của nó, sụ bồn chồn và tính bướng bỉnh của nó là của chính tôi. Ngay khi chúng tôi ra đến đường tôi sắp lẹ làng nhảy lên lưng ngựa và biến mất ở cuối con đường hẹp như một kỵ sĩ trong truyền thuyết, không bao giờ quay lại nữa, thì một phụ nữ to lớn, một chị Do Thái mặc toàn màu hồng và mang một cái bị lớn, chẳng biết từ đâu hiện ra và bắt chuyện với tôi. Chị ta to lớn dềnh dàng như một cái tủ đứng. Những chị ta vui nhộn, sống động, thậm chí còn nhí nhảnh.

“Chàng trai dũng cảm, người hùng trẻ tuổi, tôi thấy anh đúng là đẹp trai như người ta đồn đại,” chị ta nói. “Anh có vợ chưa? Hay còn độc thân? Anh có thể hạ cố mua từ Esther, người bán rong ưu tú của Istanbul một chiếc khăn tay lụa để tặng người yêu bí mật của anh không?”

“Không.”

“Một khăn quàng vai đỏ bằng lụa Atlas?”

“Không.”

“Đừng có cứ quát “không” với tôi như thế! Làm sao mà con người quả cảm như anh lại không có một người yêu hay người tình bí mật nào? Ai mà biết có bao nhiêu trinh nữ mắt long lanh đang khao khát anh kia chứ?”

Thân hình chị ta kéo dài giống như vóc dáng mảnh dẻ của một nghệ sĩ nhào lộn và chị ta nghiêng mình về phía tôi trong một động tác duyên dáng. Đồng thời, với sự khéo léo của một nhà ảo thuật có thể đột nhiên lôi ra từ khoảng không đủ thứ, chị ta làm cho lá thư xuất hiện trên tay. Tôi lén chộp lấy nó, và cứ như tôi đã tập dượt cho giây phút này trong nhiều năm, tôi vội vàng và khéo léo nhét nó vào chiếc khăn quàng quấn từ vai xuống hông. Đó là một lá thư dày, có cảm giác giống như lửa áp vào làn da lạnh buốt bên hông, giữa lưng và bụng tôi.

“Đi nước kiệu,” chị hàng rong Esther nói. “Tới góc đường rẽ phải, đi theo vòng cung của bức tường và cứ đi nước kiệu, nhưng khi đến chỗ cây lựu thì quay lại và nhìn vào ngôi nhà anh vừa rời khỏi, ngay cửa sổ bên phải anh.” Chị ta đi tiếp con đường của mình và khuất dạng trong chốc lát.

Tôi leo lên lưng ngựa, nhưng lóng ngóng như người mới cưỡi ngựa lần đầu. Tim tôi đập thình thịch, đầu óc tôi đầy kích động, hai bàn tay tôi quên cách điều khiển dây cương, nhưng khi hai chân tôi kẹp chặt mình ngựa, lý trí lành mạnh và kỹ năng đã điều khiển được cả con ngựa lẫn bản thân tôi, và như Esther đã chỉ dẫn, con ngựa khôn ngoan của tôi đi nước kiệu đều bước và, đáng yêu làm sao, chúng tôi rẽ phải vào một con phố nhỏ!

Chính lúc đó tôi cảm thấy có thể tôi đẹp trai thực. Như trong những câu chuyện cổ tích, từ sau mỗi tấm rèm và mỗi cửa sổ mắt cáo một phụ nữ bẽn lẽn đang dõi theo tôi và tôi cảm thấy mình có thể bốc cháy lần nữa với cùng ngọn lửa từng thiêu hủy tôi ngày trước. Đây có phải là điều tôi từng khao khát? Có phải tôi lại ngã gục lần nữa trước căn bệnh mà tôi đã chịu đựng trong từng ấy năm không? Ánh mặt trời thình lình xuyên qua đám mây khiến tôi giật mình.

Cây lựu nằm chỗ nào? Nó có phải là cái cây mảnh mai, ủ rũ này không? Đúng rồi! Tôi hơi xoay người sang phải trên yên ngựa. Tôi thấy một cửa sổ đàng sau tàng cây, nhưng không có ai ở đó. Tôi đã bị cái chị Esther đó lừa rồi!

Ngay khi tôi nghĩ thế thì những cánh cửa rèm bám đầy băng của ô cửa sổ mở tung ra với một tiếng bật lớn như đang phát nổ, và sau mười hai năm, tôi lại thấy khuôn mặt tuyệt vời của người tôi yêu dấu sau những nhánh cây phủ tuyết, giữa khung cửa sổ đóng đầy băng tuyết phản chiếu lấp lánh trong nắng đó.

Người yêu dấu mắt đen của tôi đang nhìn tôi hay nhìn vào cuộc sống khác đằng sau tôi? Tôi không xác định được nàng đang buồn hay mỉm cười hay mỉm cười một cách buồn rầu. Con ngựa ngu ngốc, không quan tâm đến nỗi lòng tôi, đi chậm lại nào! Tôi bình tĩnh xoay người trên yên lần nữa, dán chặt tia nhìn khao khát lâu hết mức có thể vào khung cửa đó cho đến khi khuôn mặt bí ẩn, thanh tú và hốc hác của nàng biến mất đằng sau những nhánh cây.

Rất lâu sau, sau khi mở lá thư của nàng và nhìn bức minh họa bên trong, tôi nghĩ việc tôi gặp nàng tại cửa sổ trên lưng ngựa lại giống làm sao cái giây phút đó, đã được vẽ cả ngàn lần, trong đó Husrev đến gặp Shirin dưới cửa sổ phòng nàng - riêng trong trường hợp của chúng tôi thì có cây lựu u sầu chen vào giữa. Khi tôi nhận ra sự tương đồng này, ôi, tôi đã bùng cháy đến thế nào vì tình yêu như họ mô tả trong những cuốn sách mà chúng ta nâng niu và yêu thích làm vậy.

CHƯƠNG 8
TÔI LÀ ESTHER

Tôi biết tất cả các vị đều tự hỏi Shekure đã viết những gì trong lá thư tôi chuyển cho Siyah. Vì đây cũng là điều tò mò của tôi, tôi đã học được mọi thứ cần biết. Vậy nếu các vị muốn biết, hãy giả vờ như đang lật ngược những trang của câu chuyện và để tôi kể cho các vị nghe những gì xảy ra trước khi tôi giao lá thư đó.

Bây giờ, trời đang tối dần, tôi đã trở về nhà chúng tôi ở khu Do Thái nhỏ bé cổ kính ở cửa sông Halic với ông chồng Nesim của tôi, hai người già đang hồng hộc thở, cố giữ ấm bằng việc đút thêm củi vào lò. Đừng để ý chuyện tôi tự gọi mình “già”. Khi tôi chất những món hàng của tôi - cả những món rẻ tiền lẫn quý giá, chắc chắn là để dụ dỗ các bà như nhẫn, bông tai, dây chuyền và đồ trang sức rẻ tiền - vào những chồng khăn tay lụa, găng tay, khăn trải giường và vải may áo sơ mi đủ màu được gửi qua những con tàu Bồ Đào Nha, khi tôi khoác lên vai cái bị đó, thì Esther là một cái muôi và Istanbul là một cái ấm đun nước, không có một con phố nào tôi không qua. Không có một chuyện ngồi lê đôi mách hay một lá thư nào mà tôi không mang từ nhà này sang nhà khác, và tôi đã đóng vai bà mối cho phân nửa các cô gái chưa chồng ở Istanbul, nhưng tôi không bắt đầu vụ kể lể dài dòng này để khoác lác đâu. Như tôi nói, chúng tôi đang nghỉ ngơi vào buổi tối và cốc cốc ai đó đang đứng ngoài cửa. Tôi đi ra mở cửa và thấy Hayriye, cô gái nô lệ ngờ nghệch đó, đang đứng trước mặt. Cô ta cầm một lá thư trên tay. Tôi không dám chắc là do lạnh hay do kích động, nhưng cô ta run cả người khi giải thích những ý muốn của Shekure.

Thoạt tiên tôi cho rằng lá thư này sẽ được gửi cho Hasan, điều đó giải thích vì sao tôi quá kinh ngạc. Các vị đã biết về ông chồng của Shekure xinh đẹp mà, anh ta không trở về sau chiến tranh - theo tôi cái mạng anh ta đã kết thúc từ lâu rồi. Các vị cũng biết, người chinh phu không bao giờ trở về đó cũng có một đứa em trai si tình, nồng nhiệt tên là Hasan. Vì vậy hãy hình dung sự ngạc nhiên của tôi khi thấy rằng lá thư của Shekure không có ý dành cho Hasan, mà cho một người khác. Lá thư này nói gì? Esther điên lên vì tò mò, và cuối cùng tôi đã xoay xở đọc được nó.

Nhưng chao ôi, chúng ta không biết rành nhau đến thế, đúng không? Thật lòng mà nói, tôi hết súc lúng túng và lo lắng. Các vị sẽ chẳng bao giờ biết tôi đã đọc lá thư này như thế nào đâu. Có lẽ các vị sẽ chê cười và xem thường tôi vì thói chộn rộn - như thể chính quí vị không hề thóc mách như những bác phó cạo vậy. Tôi chỉ kể lại cho các vị những gì tôi biết qua việc đọc lá thư. Đây là những gì Shekure ngọt ngào đã viết:

Siyah kính mến, anh là vị khách đến chơi nhà em vì có quan hệ thân thiết với cha em Nhưng đừng mong đợi em gật đầu. Nhiều việc đã xảy ra từ khi anh ra đi. Em đã lấy chồng, và có hai con trai mạnh khỏe, dũng cảm. Một đứa là Orhan, là đứa anh thấy vừa mới đến xưởng vẽ. Trong khi em chờ đợi chồng em trở về trong suốt bốn năm qua, em chẳng nghĩ đến gì khác. Có thể em cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng và yếu đuối khi sống với hai đứa con và người cha già. Em thấy thiếu vắng sức mạnh và sự che chở của người đàn ông, nhưng không cho phép ai nghĩ rằng họ có thể lợi dụng hoàn cảnh của em. Vì thế em sẽ rất vui nếu anh đừng đến thăm chúng em nữa. Trước đây anh đã từng làm em khó xử, và sau đó em đã phải chịu nhiều đau khổ để lấy lại danh dự trong mắt cha em! Cùng với lá thư này, em cũng gửi lại bức tranh anh đã vẽ và gửi cho em khi anh còn là một chàng trai bốc đồng nhưng còn thiếu khôn ngoan. Em làm điều này để anh không còn ấp ủ bất kỳ hy vọng sai lầm nào hoặc hiểu sai bất cứ giấu hiệu nào. Quả là sai lầm khi tin rằng người ta có thể yêu khi nhìn một bức tranh. Tốt nhất là anh nên thôi hẳn đừng đến nhà chúng em nữa.

Shekure tội nghiệp của tôi, em không phải một nhà quý tộc mà cũng không phải là tổng trấn với một con dấu ly kỳ để đóng lên lá thư của em! Ở cuối trang, cô ấy ký mẫu tự đầu của tên cô, nó trông như một con chim nhỏ bé sợ hãi. Không có gì hơn.

Tôi vừa nói tới con dấu ([18]). Có lẽ các vị đang tự hỏi làm cách nào tôi mở và dán lại những lá thư niêm bằng sáp này. Nhưng thực tế lá thư hoàn toàn không được niêm gì cả. “Mụ Esther đó là một người Do Thái mù chữ,” Shekure thân mến của tôi đã nghĩ như vậy. “Mụ ấy không bao giờ hiểu được ta viết gì đâu”. Quả thực tôi không đọc được những gì viết trong đó, nhưng tôi luôn luôn có thể nhờ người khác đọc giùm. Và đối với những gì không được viết ra, tôi vẫn có thể sẵn sàng tự “đọc” được. Các vị bối rối, đúng không?

Hãy để tôi trình bày theo kiểu này, như thế thậm chí kẻ ngu đần nhất cũng sẽ hiểu:

Một lá thư không chỉ được truyền đạt bằng các con chữ. Một lá thư, giống như cuốn sách, có thể đọc được bằng cách ngửi, sờ mó, vuốt ve. Vì thế người thông minh sẽ nói, “Vậy tiếp tục đi, đọc coi thư nói gì với bạn!” trong khi kẻ chậm hiểu sẽ nói, “Vậy tiếp đi đọc coi hắn viết gì trong đó” Giờ hãy lắng nghe những điều khác mà Shekure đã nói:

1. Dù em đã bí mật gửi lá thư này bằng cách nhờ Esther, người đã biến việc phát thư thành một vấn đề thương mại và thói quen, nhưng em cho thấy rằng em không có ý định che giấu điều đó một chút nào.

2. Việc em đã gấp nó lại như một cái bánh nướng quả thực ngụ ý bí mật và huyền bí. Nhưng bức thư không bị niêm kín và có một bức tranh to gửi kèm. Hàm ý rõ ràng là, “Xin hãy giữ bí mật của chúng ta bằng mọi giá,” vốn phù hợp với một lời mời gọi tình yêu hơn là một lá thư cự tuyệt.

3. Hơn nữa, mùi của lá thư khẳng định lối giải thích này. Hương thơm này đủ nhẹ để tạo sự mơ hồ - phải chăng cô ta đã cố tình tẩm nước hoa cho lá thư? - nhưng đủ cám dỗ để thổi bùng lên sự tò mò của người đọc - đây là mùi thơm của nước hoa hay mùi của bàn tay nàng? Và một mùi thơm vốn đủ để làm hài lòng người đàn ông tội nghiệp đã đọc lá thư này cho tôi nghe, chắc chắn sẽ có cùng tác động đối với Siyah.

4. Tôi là Esther, người không biết đọc mà cũng không biết viết, nhưng đây là điều tôi biết: dù dòng chữ và nét chữ có vẻ nói rằng “Ôi, tôi đang vội, tôi viết cẩu thả và không chú ý cẩn thận,” song những chữ này vốn ríu rít một cách tao nhã như thể đang chìm vào làn gió nhẹ, lại truyền đạt một thông điệp hoàn toàn trái ngược, thậm chí cụm từ của cô ấy “vừa mới đến” khi nói tới Orhan ngụ ý rằng lá thư đã được viết ngay giây phút đó, để lộ một mánh khóe rõ ràng như sự cẩn thận chứa trong mỗi dòng.

5. Bức tranh được gửi kèm lá thư mô tả nàng Shirin xinh đẹp nhìn hình ảnh chàng Husrev đẹp trai và yêu ngay, như được kể trong câu chuyện mà thậm chí tôi, Esther người Do Thái, cũng biết rõ. Mọi cô gái bị tình phụ ở Istanbul đều thích câu chuyện này, nhưng tôi chưa từng thấy ai gửi đi một bức tranh minh họa liên quan đến nó.

Điều này lúc nào cũng có thể xảy ra với các vị, những người may mắn biết chữ: Một thiếu nữ vốn không biết chữ nhờ các vị đọc một lá thư tình cô ấy nhận được. Lá thư quá gây ngạc nhiên, linh động và bối rối đến độ chủ nhân của nó, dù lúng túng trước việc bị các vị chia sẻ bí mật về những chuyện tình cảm riêng tư nhất của cô ta, xấu hổ và lo lắng, nhưng vẫn yêu cầu các vị đọc lại lá thư một lần nữa. Các vị đọc nó lần nữa. Cuối cùng, các vị đọc lá thư quá nhiều lần đến độ cả hai thuộc lòng nó. Rồi ngay sau đó cô ta sẽ cầm lá thư và nói, “Anh ấy nói câu đó ở chỗ này hả?” và “Anh ấy nói câu đó chỗ kia sao?” Khi các vị chỉ ra những chỗ tương ứng, cô ta sẽ nghiền ngẫm những đoạn đó, tuy vẫn không thể hiểu những chữ viết ở đó. Khi cô ta nhìn vào những con chữ cong cong, đôi khi tôi quá xúc động đến độ quên rằng mình cũng không biết đọc hoặc viết và cảm thấy nỗi thôi thúc muốn ôm chặt những cô gái mù chữ đang rỏ nước mắt xuống trang giấy đó.

Rồi cũng có những người đọc thư thật sự đáng ghét; cầu mong các vị đừng giống ai trong số đó: Khi cô gái cầm lá thư trong tay để được sờ nó lần nữa, ước ao nhìn ngắm nó mà không hiểu chữ nào nằm ở đâu. những kẻ khó ưa này thường nói với cô, “Cô định làm gì nữa? Cô không biết đọc, cô muốn coi cái gì nữa?” Một số họ thậm chí còn không trả lại lá thư, rồi cư xử với nó cứ như nó là của họ. Nhiều lần, nhiệm vụ bắt chuyện với họ và đòi lại lá thư lại rơi vào tôi, Esther. Tôi là loại phụ nữ tử tế như vậy đó. Nếu Esther thích các vị, cô ấy cũng sẽ đến giúp đỡ các vị.

CHƯƠNG 9
TÔI, SHEKURE

Ồ, tại sao tôi lại ở đó bên cửa sổ ngay khi Siyah cưỡi con ngựa trắng của anh ấy phóng qua? Tại sao tôi mở cánh cửa rèm theo trực giác đúng giây phút ấy và đăm đăm nhìn anh ấy hồi lâu như vậy từ phía sau những cành lựu phủ tuyết đó? Tôi không thể nói chắc với bạn. Tôi đã nhờ Hayriye nhắn cho Esther. Dĩ nhiên tôi biết rõ rằng Siyah sẽ đi theo lối đó. Trong khi đó, tôi một mình lên phòng có tủ chìm và cửa sổ nhìn ra cây lựu để kiểm tra những khăn trải giường trong rương. Trong cơn bốc đồng, và ngay đúng giây phút đó tôi đẩy bật cánh cửa rèm bằng hết sức mình và ánh nắng tràn ngập căn phòng: Đứng nơi cửa sổ, tôi mặt đối mặt với Siyah, người giống như mặt trời làm lóa mắt tôi. Ôi, điều đó thật đáng yêu.

Anh ấy đã lớn và chín chắn, đã mất đi vẻ khẳng khiu vụng về thời trẻ, anh ấy đã trở thành một người đàn ông quyến rũ. Nghe này Shekure, trái tim tôi đã thực sự bảo tôi, anh ấy không chỉ đẹp trai, hãy nhìn vào mắt anh ấy, anh ấy có trái tim của một đứa trẻ, tinh khiết như thế, cô đơn như thế: Hãy cưới anh ấy đi, tuy nhiên tôi đã gửi anh ấy một lá thư trong đó tôi cho anh ấy một thông điệp hoàn toàn ngược lại.

Dù anh ấy lớn hơn tôi mười hai tuổi, nhưng khi mới mười hai, tôi đã chín chắn hơn anh ấy. Hồi đó, thay vì đứng thẳng và đường hoàng trước mặt tôi theo kiểu thích hợp với một người đàn ông và thông báo rằng anh ấy sẽ làm điều này điều nọ, nhảy từ chỗ này hoặc leo vào thứ kia, thì anh ấy chỉ vùi mặt vào cuốn sách hoặc bức tranh nào đó, ẩn mình như thể mọi thứ đều làm anh lúng túng. Rồi anh ấy cũng đem lòng yêu tôi. Anh vẽ một bức tranh thổ lộ tình yêu của anh. Lúc đó cả hai chúng tôi đều đã chín chắn. Khi tôi mười hai, tôi có cảm giác Siyah không còn có thể nhìn vào mắt tôi được nữa, như thể anh ấy sợ tôi phát hiện ra rằng anh yêu tôi. Chẳng hạn, anh ấy có thể nói “Đưa cho anh cái dao cán ngà đó,” mắt nhìn con dao mà không nhìn tôi. Ví dụ, nếu tôi hỏi anh ấy, “Anh thích nước quả anh đào không?” Anh ấy không thể đơn giản ra hiệu đồng ý bằng một nụ cười dịu dàng hay cái gật đầu, như chúng ta thường làm khi miệng còn đầy thức ăn. Thay vì thế anh ấy lại gào lên “Phải” hết sức mình, như thể đang cố nói chuyện với một người điếc. Anh ấy sợ nhìn vào mặt tôi. Tôi là một thiếu nữ đẹp cực kỳ. Bất cứ người đàn ông nào nhìn thấy tôi, thậm chí chỉ một lần, từ xa, hoặc qua tấm màn hé ra hay cánh cửa mở toang, hay thậm chí qua những lớp khăn trùm đầu bình thường của tôi, đều lập tức yêu tôi. Tôi không phải là kẻ khoe khoang, tôi giải thích điều này để bạn hiểu câu chuyện của tôi và có thể chia sẻ nhiều hơn nỗi sầu muộn của tôi.

Trong chuyện kể nổi tiếng về Husrev và Shirin, có một phút giây mà Siyah và tôi tranh luận rất chi tiết. Bạn của Husrev, Shapur, có ý làm cho Husrev và Shirin yêu nhau. Ngày nọ Shirin tháp tùng một chuyến du ngoạn miền quê với các công nương trong triều, khi đó nàng thấy một bức tranh vẽ Husrev mà Shapur bí mật treo trên một cành cây mà nhóm du ngoạn dừng lại nghỉ chân ngay bên dưới. Nhìn bức tranh vẽ chàng Husrev tuấn tú trong khu vườn xinh đẹp đó, Shirin đem lòng yêu ngay. Nhiều bức tranh đã mô tả phút giây này - hoặc “cảnh” như các nhà tiểu họa thường gọi - trong đó đặc tả cái vẻ chiêm ngưỡng và lúng túng của Shirin khi nàng ngước nhìn hình ảnh Husrev. Khi Siyah còn làm việc với cha tôi, anh ấy đã thấy bức tranh này nhiều lần và đã hai lần sao chép chính xác bằng cách nhìn nguyên bản để vẽ lại. Sau khi yêu tôi, anh ấy sao thêm một bức cho riêng mình.

Nhưng lần này, thế vào chỗ của Husrev và Shirin, anh vẽ chính anh và tôi, Siyah và Shekure. Nếu không có những chú thích bên dưới các nhân vật thì chắc chỉ có tôi mới biết người đàn ông và thiếu nữ trong bức tranh là ai. Bởi vì thỉnh thoảng khi chúng tôi vui đùa loanh quanh, anh ấy đã vẽ chúng tôi trong cùng cách thức và màu sắc: Tôi toàn màu xanh, anh ấy toàn đỏ. Và nếu điều này chưa đủ biểu lộ, anh ấy sẽ ghi tên chúng tôi bên dưới hình vẽ. Anh ấy để bức tranh ở chỗ tôi sẽ nhìn thấy rồi bỏ đi. Anh ấy theo dõi xem tôi phản ứng ra sao trước tác phẩm của anh ấy.

Tôi biết rõ rằng tôi không thể yêu anh ấy như Shirin, nên tôi giả như không biết. Vào buổi tối cái ngày hè Siyah đưa cho tôi bức tranh, trong lúc chúng tôi cố giải khát bằng nước quả anh đào chua ướp nước đá được cho là mang suốt từ núi Ulu băng tuyết về tôi nói với cha tôi rằng anh đã tỏ tình với tôi. Vào lúc đó Siyah vừa tốt nghiệp trường giáo lý. Anh đi dạy ở những khu xa xôi và vì thái độ cương quyết của cha tôi hơn là vì mong muốn của anh, Siyah đã nỗ lực để có được sự đỡ đầu của Tổng trấn Naim đầy quyền lực và đáng kính. Nhưng theo cha tôi, Siyah chưa đủ khôn ngoan. Cha tôi, người đã dồn hết tâm trí để Siyah có được một chỗ trong nhóm hầu cận của Tổng trấn Naim, ít nhất là khởi đầu trong vai trò một thư ký, đã phàn nàn rằng anh không nỗ lực để đẩy sự nghiệp của mình tiến xa hơn; nói cách khác Siyah là một kẻ hoàn toàn ngốc nghếch. Và đúng cái đêm nói chuyện về Siyah với tôi cha tôi đã tuyên bố, “Ta nghĩ đứa cháu trai nghèo khổ này có tham vọng rất cao”, và không để ý đến sự có mặt của mẹ tôi ông thêm, “nó thông minh hơn chúng ta nghĩ.”

Tôi khổ sở nhớ lại những gì cha tôi đã làm trong những ngày sau đó, cách tôi tránh né Siyah thế nào, anh thôi đến nhà chúng tôi ra sao, nhưng tôi sẽ không giải thích tất cả chuyện này vì tôi sợ rằng bạn sẽ đâm ra không thích tôi và cha tôi mất. Tôi thề với bạn, chúng tôi chẳng có chọn lựa nào khác. Bạn biết trong những tình huống như thế những người có lý trí lập tức cảm thấy rằng tình yêu không có hy vọng chỉ là vô vọng đến thế nào và hiểu những giới hạn quanh khu vực phi lý của con tim, đã kết thúc nó mau lẹ bằng một phát biểu lịch sự, “Họ thấy hai đứa không xứng đôi vừa lứa. Chỉ có vậy thôi.” Nhưng tôi sẽ cho bạn biết rằng mẹ tôi đã nhiều lần nói. “Ít nhất là đừng làm tan nát trái tim thằng bé.” Siyah, người mà mẹ tôi thường gọi là “thằng bé”, đã hai mươi bốn, và tôi bằng nửa tuổi anh. Bởi cha tôi xem lời tỏ tình của Siyah là một hành vi thô lỗ, nên ông không tán đồng những ước muốn của mẹ tôi.

Dù chúng tôi chưa quên hẳn anh lúc chúng tôi nghe tin anh rời khỏi Istanbul, nhưng chúng tôi đã để anh hoàn toàn tuột khỏi vòng tình cảm của chúng tôi. Bởi trong nhiều năm chúng tôi không nhận được tin anh từ bất cứ thành phố nào, tôi nghĩ rằng cất kỹ bức tranh anh đã vẽ tặng tôi thì cũng phải, coi như là một dấu vết cho những kỷ niệm và tình bạn ấu thời của chúng tôi. Để ngăn không cho cha tôi, và sau đó là người chồng chiến binh của tôi phát hiện ra bức tranh rồi giận dữ hay ghen tuông, tôi đã khéo léo che đậy cái tên “Shekure” và “Siyah” bên dưới các hình vẽ bằng cách làm cho trông như có ai đó đã vô ý đánh đổ mực Hasan Pasha của cha tôi lên đấy, rồi sau được sửa lại cho giống những bông hoa. Vì hôm nay tôi đã trả lại bức tranh đó cho anh ấy, có lẽ những ai trong số các bạn vốn không tán thành việc tôi xuất hiện trước mắt anh ấy nơi cửa sổ sẽ cảm thấy xấu hổ mà xét lại những thành kiến của mình ở mức nào đó.

Sau khi cho anh ấy thấy mặt, tôi vẫn còn đứng nơi cửa sổ thêm một lát, tắm mình trong màu đỏ sẫm của mặt trời chiều, và sững sờ trước cảnh khu vườn ngập trong ánh sáng đỏ cam, cho đến khi tôi cảm thấy cái lạnh của trời đêm. Không hề có gió. Tôi không quan tâm việc có ai đó đi trên đường sẽ nói gì khi thấy tôi ở khung cửa sổ mở đó. Một trong những con gái của Tổng trấn Ziver, Mesrure, người luôn cười to và vui hơn hớn khi nói ra những điều gây ngạc nhiên nhất vào những thời điểm thiếu thích hợp nhất khi chúng tôi vui vẻ và cười đùa đi đến nhà tắm công cộng mỗi tuần, đã có lần bảo tôi người ta không bao giờ biết chính xác cô ấy đang nghĩ gì. Còn tôi thì biết thế này: Đôi khi tôi nói một điều gì đó mà vừa nói xong đã nhận ra ngay rằng đó là suy nghĩ của riêng mình; nhưng khi vừa đi đến nhận thức như vậy thì tôi cũng tin chắc chính điều ngược lại mới là sự thực.

Tôi lấy làm tiếc khi Zarif Kính mến tội nghiệp, một trong những nhà tiểu họa cha tôi thường mời đến nhà - và tôi sẽ không giấu giếm chuyện tôi đã theo dõi từng người trong bọn họ - đã mất tích, giống như người chồng xấu số của tôi. “Zarif” là người xấu xa nhất trong bọn họ và có tâm hồn tồi tệ nhất.

Tôi đóng cánh cửa rèm lại, rời phòng và đi xuống nhà bếp.

“Mẹ ơi Shevket không nghe lời mẹ,” Orhan mách. “Khi chú Siyah dắt ngựa khỏi chuồng, anh Shevket đã ra khỏi bếp rồi theo dõi chú ấy qua lỗ nhìn trộm.”

“Xạo!” Shevket nói, vung tay khỏi đầu. “Mẹ theo dõi chú ấy qua cái lỗ trong tủ.”

“Hayriye” tôi nói. “Chiên bánh mì với chút bơ rồi cho bọn trẻ ăn với bột hạnh nhân và đường.” Orhan nhảy tưng tưng đầy vui sướng dù Shevket im lặng. Nhưng khi tôi đi trở lên lầu, bọn trẻ chạy theo tôi, la hét, xô đẩy nhau cạnh tôi đầy kích động. “Thôi từ từ, từ từ nào,” tôi vừa nói vừa bật cười. “Lũ ranh.” Tôi vỗ nhẹ lên hai cái lưng mảnh khảnh của chúng.

Thú vị làm sao khi được ở nhà với bọn trẻ lúc trời dần tối! Cha tôi đã lặng lẽ đắm mình với cuốn sách.

“Khách của cha về rồi,” tôi nói. “Con hy vọng anh ta không quấy rầy cha lắm.”

“Trái lại kìa,” ông nói.”Nó làm ta vui. Nó luôn hết sức kính trọng Enishte của nó.”

“Tốt quá.”

“Nhưng bây giờ nó cũng cẩn thận và khôn ngoan.”

Ông nói điều đó để quan sát phản ứng của tôi thì ít mà chủ yếu là để khép lại đề tài này theo một cung cách coi thường Siyah. Vào bất cứ dịp nào khác, tôi hẳn sẽ trả lời ông với giọng lưỡi cạnh khóe, như tôi thường làm. Tuy nhiên lần này, tôi chỉ nghĩ đến Siyah đang rong ruổi trên lưng con ngựa trắng của anh, và tôi rùng mình.

Tôi không chắc chuyện đó xảy ra như thế nào, nhưng sau đó trong căn phòng có cái tủ, Orhan và tôi ôm lấy nhau, Shevket cũng tham gia; có một cuộc đụng độ ngắn giữa hai đứa. Khi chúng vật nhau, tất cả chúng tôi lăn xuống dưới sàn. Tôi hôn vào gáy và tóc chúng, tôi ép chúng vào ngực, tôi và cảm thấy sức nặng của chúng trên bộ ngực tôi.

“Aaa,” tôi nói. “Tóc tụi con hôi rình. Ngày mai mẹ sẽ cho tụi con đi nhà tắm với Hayriye.”

“Con không muốn đi nhà tắm với Hayriye nữa,” Shevket nói.

“Sao vậy? Con lớn quá rồi hả?” tôi hỏi.

“Mẹ ơi sao mẹ không mặc cái áo khoác đỏ tía đẹp của mẹ?” Shevket hỏi.

Tôi đi sang phòng khác và lấy ra chiếc áo khoác đỏ tía. Tôi khoác lên chiếc áo xanh nhạt tôi thường mặc. Trong khi thay áo, tôi cảm thấy lạnh và run, nhưng tôi có thể cảm thấy làn da mình nóng bừng, cơ thể tôi mạnh mẽ và tràn đầy sức sống. Tôi đã thoa một chút phấn hồng lên má, vì má tôi chắc đã bị hoen khi tôi lăn tròn với bọn trẻ, nhưng tôi xoa đều bằng cách liếm lòng bàn tay rồi chà xát má. Bạn có biết rằng những họ hàng của tôi, những phụ nữ tôi gặp ở phòng tắm và bất cứ ai đã gặp tôi, đều khẳng định rằng tôi trông giống một thiếu nữ mười sáu hơn là một bà mẹ hai mươi bốn tuổi có hai con và đã qua hết thời xuân sắc nhất không? Hãy tin họ, tin thực sự nếu không tôi sẽ không kể cho bạn nghe nữa.

Đừng ngạc nhiên rằng tôi đang nói chuyện với bạn. Trong nhiều năm tôi đã lục những bức tranh trong mớ sách của cha tôi để lùng kiếm hình ảnh về những phụ nữ và những đại mỹ nhân. Họ quả thực tồn tại, nhưng hiếm có, và luôn luôn có vẻ e lệ, lúng túng, chỉ nhìn nhau, như muốn phân trần. Họ không bao giờ ngẩng đầu lên, đứng thẳng và đối diện với con người ở thế giới này như những người lính và các vị vua chúa. Chỉ trong những cuốn sách được minh họa vội vàng, rẻ tiền bởi những họa sĩ cẩu thả thì đôi mắt của một số phụ nữ mới không hướng xuống đất hay nhìn vào vật gì đó trong tranh - ồ, tôi không chắc, một người tình hay chiếc cốc chẳng hạn - mà nhìn thẳng vào độc giả. Từ lâu tôi đã băn khoăn về độc giả đó.

Tôi rùng mình vui sướng khi nghĩ về những cuốn sách hai trăm tuổi, có từ thời Tamerlane, những cuốn mà vì chúng những người Thiên chúa giáo ham sưu tập đã hân hoan đổ ra những đồng vàng và mang theo suốt con đường trở về đất nước mình: có lẽ một ngày kia một ai đó từ vùng đất xa xôi sẽ lắng nghe câu chuyện này của tôi. Đây chẳng phải là điều nằm đằng sau nỗi khao khát được ghi lại trên các trang sách ư? Chẳng phải vì chính niềm vui này mà các vua chúa và tể tướng ban tặng hàng túi vàng để người ta viết sử về họ sao?

Khi tôi cảm thấy niềm vui sướng này, giống như những giai nhân đó mà một mắt nhìn vào cuộc đời trong cuốn sách còn một mắt để vào cuộc sống bên ngoài, tôi cũng khao khát muốn nói với các bạn, những người đang ngắm nhìn tôi từ không gian và thời gian xa xôi nào có ai biết được. Tôi là một phụ nữ thông minh và hấp dẫn, và tôi thấy vui khi mình được người ta nhìn ngắm. Và nếu đôi lúc tôi có ngẫu nhiên nói dối một hai câu, bạn cũng đừng vì thế mà có những kết luận sai về tôi.

Có lẽ bạn đã nhận thấy rằng cha tôi rất yêu thương tôi. Trước tôi ông có ba người con trai, nhưng Thượng đế đã lần lượt mang họ đi, chỉ để lại mình tôi, con gái ông. Cha tôi cưng chiều tôi dù tôi cưới một người không phải do ông chọn lựa. Tôi được gả cho một lính kỵ binh chuyên nghiệp, người tôi đã để ý và mơ tưởng. Nếu giao cho cha tôi quyết định thì chồng tôi không những phải là người vĩ đại nhất trong các học giả, anh còn là một người am hiểu về tranh và nghệ thuật, có sức mạnh và quyền thế, và giàu như Karun, người giàu có nhất trong những người được kinh Koran nhắc tới. Ý niệm mơ hồ về một người đàn ông như thế thậm chí không thể tìm thấy được trong những trang sách của cha tôi, và vì thế ắt hẳn tôi đã bị buộc phải chết mòn trong nhà mãi mãi.

Vẻ đẹp của chồng tôi mang tính huyền thoại, và tôi đã ưng anh thông qua những người trung gian. Anh ấy đã tìm được cơ hội xuất hiện trước mặt tôi khi tôi từ nhà tắm công cộng trở về. Đôi mắt anh ấy rực sáng như lửa, và tôi lập tức yêu anh ấy. Anh ấy có đôi mắt xanh, da sáng, tóc đen và đôi tay mạnh mẽ; nhưng về cơ bản anh ấy ngây thơ và lặng lẽ như một đứa trẻ đang ngủ. Tuy nhiên ít nhất với tôi, có vẻ như ở anh ấy cũng có mùi máu, có lẽ vì anh ấy đã dùng trọn sức mạnh cho việc tàn sát người khác trong trận chiến và tích góp chiến lợi phẩm, tuy rằng ở nhà anh dịu dàng và lặng lẽ như một cô gái. Người đàn ông này - người mà cha tôi coi như một anh lính không đồng xu dính túi, và vì thế đã phản đối - sau đó được phép cưới tôi vì tôi dọa tự tử. Và sau khi quân đội cấp cho anh một thái ấp trị giá mười ngàn đồng bạc, một phần thưởng cho chủ nghĩa anh hùng trong hết trận đánh này đến trận đánh khác mà ở đó anh đã có những thành tích cực kỳ dũng cảm thì quả thật mọi người đều ghen tỵ với chúng tôi.

Bốn năm trước khi anh không trở về cùng những người lính khác sau cuộc chiến với người Safavid, thoạt tiên tôi không thấy lo lắng. Bởi, càng có nhiều kinh nghiệm trên chiến trường, anh lại càng trở nên khôn ngoan và khéo léo hơn trong việc tạo ra cơ hội cho chính mình, trong việc mang về nhà những bổng lộc lớn hơn, kiếm được thái ấp lớn hơn, thu nhận nhiều binh lính dưới quyền hơn. Có những nhân chứng nói rằng anh đã trốn vào núi cùng binh lính của mình sau khi bị cắt rời khỏi một cánh quân. Ban đầu tôi e rằng anh có một kế hoạch và hy vọng anh sẽ trở về, nhưng sau hai năm tôi dần quen với sự vắng mặt của anh, và khi nhận ra có bao nhiêu phụ nữ cô đơn ở Istanbul giống tôi cũng có chồng là lính trận mất tích, tôi đã cam chịu số phận mình.

Ban đêm, trên giường ngủ, tôi ôm lũ con của chúng tôi và đau buồn mà khóc. Để dỗ yên chúng, tôi đã nói với chúng những lời dối trá đầy hy vọng; chẳng hạn người này người nọ có chứng cớ rằng cha chúng sẽ về trước mùa xuân. Về sau, khi lời nói dối của tôi truyền đi, thay đổi và lan tỏa cho đến khi nó tìm đường trở lại với tôi thì tôi là người đầu tiên tin vào tin tức tốt lành đó.

Khi nguồn bảo bọc chính của gia đình biến mất, chúng tôi rơi vào những giai đoạn khó khăn. Chúng tôi sống trong một ngôi nhà thuê ở Charshikapi với ông cha chồng lịch thiệp người Abkhazia, người chưa bao giờ sống một cuộc đời thoải mái, và em trai anh ấy, người cũng có đôi mắt xanh. Cha chồng tôi, người từng bỏ công việc chế tạo gương sau khi con trai cả của ông khá lên nhờ binh nghiệp, đã trở lại nghề cũ của ông ở tuổi bóng xế. Hasan, người em chồng độc thân của tôi, làm việc trong ngành hải quan, và khi phát đạt chú ấy đã lên kế hoạch đảm nhiệm vai trò của “người đàn ông trong nhà”. Một mùa đông nọ, vì sợ không trả được tiền thuê nhà, họ vội mang người nô lệ chuyên làm việc nhà ra chợ nô lệ mà bán cô ấy đi, sau đó họ muốn tôi làm công việc bếp núc, giặt quần áo và thậm chí đi chợ để mua sắm thay cho cô ấy. Tôi không phản kháng bằng cách nói. “Bộ tôi là hạng đàn bà đảm nhiệm việc lao dịch như thế sao?” Tôi nén lòng tự ái xuống mà làm việc. Nhưng khi Hasan, em chồng tôi, nay không còn cô nô lệ để chú ấy đêm đêm kéo vào phòng nữa, bắt đầu phá cửa vào phòng tôi, tôi không biết phải làm gì.

Dĩ nhiên tôi có thể quay về nhà cha tôi ngay, nhưng theo quan tòa Hồi giáo chồng tôi vẫn còn sống về mặt pháp lý, nếu tôi giận những người bên chồng, họ có thể không dừng lại ở việc buộc con tôi với tôi trở về nhà chồng tôi mà có khi còn làm nhục chúng tôi hơn nữa bằng việc khiến tôi và cha tôi, người đã “giam giữ” tôi, bị trừng phạt. Nói thật, lẽ ra tôi có thể yêu Hasan, người mà tôi thấy nhân hậu và thuần lý hơn chồng tôi, và rõ ràng rất yêu thương tôi. Nhưng nếu tôi làm điều này mà không suy nghĩ cẩn thận, tôi đã có thể cầu Thượng đế che chở, trở thành nô lệ của chú ấy thay vì là vợ. Dù gì đi nữa, bởi vì họ sợ tôi sẽ đòi phần thừa kế của mình rồi sau đó bỏ họ để trở về với cha tôi cùng bọn trẻ, nên họ cũng không hăm hở chờ quan tòa quyết định công nhận cái chết của chồng tôi. Nếu theo quan tòa chồng tôi chưa chết, tôi đương nhiên không thể cưới Hasan, mà cũng không thể cưới bất kỳ ai khác. Bởi tình huống khó xử này đã buộc chặt tôi vào ngôi nhà đó và cuộc hôn nhân đó, nên những người bên chồng tôi thích việc tôi có một người chồng “mất tích” và tiếp tục duy trì tình trạng mơ hồ này hơn. Để bạn khỏi quên tôi muốn nhắc lại rằng tôi lo hết mọi việc trong nhà họ, tôi làm mọi chuyện từ nấu ăn đến giặt giũ cho họ, và hơn thế nữa, một người trong bọn họ còn yêu tôi điên cuồng.

Khi cha chồng tôi và Hasan ngày càng không hài lòng với tình trạng này và quyết định đã đến lúc tôi phải lấy Hasan, điều cần thiết đầu tiên là chuẩn bị các nhân chứng để thuyết phục quan tòa rằng chồng tôi đã chết. Vì vậy nếu những người ruột thịt nhất của ông chồng mất tích của tôi, cha chồng và em trai chồng tôi, chấp nhận cái chết của anh ấy, nếu không còn ai nữa phản đối việc tuyên bố chồng tôi chết, và nếu, với cái giá vài đồng bạc, các nhân chứng chịu xác nhận rằng họ đã thấy thi hài người này trên chiến trường, thì quan tòa cũng buộc lòng phải theo ý họ. Khó khăn nhất là thuyết phục Hasan một khi tôi được công nhận là quả phụ, rằng tôi sẽ không rời khỏi gia đình đó, không đòi hỏi phần thừa kế của tôi hoặc đòi tiền để cưới chú ấy; và hơn thế nữa, thuyết phục chú ấy rằng tôi lấy chú ấy theo ý muốn tự do của tôi.

Dĩ nhiên tôi biết rằng để đạt được sự tin tưởng của chú ấy về mặt này, tôi phải ngủ với chú ấy với một thái độ hoàn toàn tự nguyện để chú ấy tin chắc rằng tôi hoàn toàn ưng thuận chú ấy, không phải để chú cho phép tôi ly dị chồng tôi, mà bởi vì tôi thực lòng yêu chú ấy.

Nếu cố gắng ít nhiều thì lẽ ra tôi đã yêu được Hasan. Chú ấy trẻ hơn ông chồng mất tích của tôi tám tuổi, và khi chồng tôi còn ở nhà Hasan giống như đứa em trai bé bỏng của tôi, và tình cảm đó khiến tôi yêu mến chú ấy. Tôi thích thái độ nồng nhiệt và nhún nhường của chú, niềm vui của chú khi chơi với các con tôi và cả cái cách chú nhìn tôi thèm muốn như thể chú đang chết khát còn tôi là một ly nước quả anh đào mát lạnh. Mặt khác, tôi cũng biết mình thực sự phải tự ép lòng yêu một người đàn ông vốn bắt tôi giặt quần áo và không quan tâm đến việc tôi phải lang thang khắp các chợ như một con nô lệ tầm thường. Trong suốt những ngày đó, mỗi khi tôi có dịp ghé nhà cha tôi và khóc không dứt khi nhìn vào những nồi, chảo, chén bát và cốc tách, trong suốt những đêm khi bọn trẻ với tôi ôm chặt nhau ngủ thành một khối, Hasan không hề cho tôi lý do để thay đổi con tim. Chú ấy không tin rằng tôi có thể yêu chú ấy hoặc tiền đề quan trọng và bắt buộc cho cuộc hôn nhân của chúng tôi sẽ tự nó xuất hiện; và bởi vì chú không tin vào chính mình, nên chú ấy đã hành động không thích hợp. Chú ấy cố dồn tôi vào góc, hôn tôi và vuốt ve tôi. Chú ấy tuyên bố rằng chồng tôi sẽ không trở về, rằng chú ấy sẽ giết tôi. Chú ấy đe dọa tôi, khóc như một đứa trẻ và, bởi vội vàng và bối rối, chú ấy đã không dành thời gian cho một tình yêu cao đẹp và chân thực có thể nẩy nở. Tôi biết tôi không bao giờ có thể lấy chú ấy.

Một đêm, khi chú ấy cố phá cửa căn phòng nơi tôi đang ngủ với bọn trẻ, tôi lập tức nhổm dậy, và không hề nghĩ rằng tôi có thể làm bọn trẻ sợ hãi, tôi gào hết sức bình sinh rằng các ác thần đã xâm nhập ngôi nhà. Cơn hoảng loạn và tiếng rú này đã đánh thức cha chồng tôi và vì thế phơi bày Hasan trước mặt cha chú ấy, khi sự bạo lực đầy kích động của chú ấy vẫn còn hiện rõ. Giữa những tiếng rú lố bịch và lời nguyền rủa vô nghĩa của tôi với các ác thần, ông già trầm tính này với vẻ bối rối đã hiểu ra sự thật khủng khiếp: Con trai ông đã bị hớp hồn và có ý đồ không thích hợp với vợ của anh trai nó, một người mẹ có hai con. Cha chồng tôi không trả lời khi tôi nói tôi sẽ không hề chợp mắt cho tới sáng luôn nhìn ra cửa để bảo vệ hai con tôi khỏi “ác thần.” Ngày hôm sau tôi thông báo tôi sẽ về nhà cha tôi cùng bọn trẻ và ở đó dài ngày để chăm sóc ông trong lúc bệnh hoạn; vì vậy Hasan chấp nhận mình thất bại. Tôi trở về nhà cha tôi, mang theo, như những kỷ vật cho cuộc hôn nhân của tôi, cái đồng hồ có những quả chuông do chồng tôi cướp được từ Hungary (anh ấy đã không xiêu theo lời cám dỗ bán nó đi), chiếc roi làm từ gân những con ngựa Ả Rập thiện chiến nhất, bộ cờ làm bằng ngà voi Tabriz mà bọn trẻ nhà tôi thường dùng để chơi trò chiến tranh và cái giá cắm nến bằng bạc (chiến lợi phẩm từ trận Nahjivan) mà tôi đã đấu tranh quyết liệt để giữ lại khi tiền đã cạn.

Như tôi mong đợi, việc rời bỏ căn nhà của người chồng vắng mặt của tôi đã biến tình yêu thiếu trân trọng và đầy ám ảnh của Hasan thành một địa ngục vô vọng. Biết rõ rằng cha không ủng hộ mình, nên thay vì đe dọa tôi, chú ấy mưu tìm lòng thương hại bằng cách gửi cho tôi những lá thư tình mà ở các góc của trang giấy chú ấy vẽ những con chim cô độc, những con sư tử mắt rướm lệ và những con linh dương rầu rĩ. Tôi sẽ không giấu bạn chuyện tôi vừa mới đọc chúng lại một lần nữa, những lá thư đó cho thấy trí tưởng tượng phong phú của Hasan, điều mà tôi không biết khi chúng tôi còn sống bên nhau dưới một mái nhà - ấy là nếu như chú ấy không phải nhờ một trong những người giỏi thơ ca hay hội họa hơn chú ấy viết và tô điểm chúng.

Trong lá thư gần đây nhất. Hasan trịnh trọng hứa rằng tôi sẽ không còn là một nô lệ làm việc nhà nữa, và rằng chú ấy đã làm ra rất nhiều tiền. Điều tiết lộ này trong giọng thư ngọt ngào, trân trọng và hài hước của chú ấy, kết hợp với những trò đánh lộn và nhu cầu bất tận của bọn trẻ, và những lời phàn nàn của cha tôi, đã biến đầu tôi thành một cái trống thiếc thực sự. Thực tình, chính vì muốn thở ra một hơi nhẹ nhõm với thế giới này nên tôi mới mở những cánh cửa sổ đó.

Trước khi Hayriye dọn bàn ăn tối, tôi chuẩn bị một ngụm bia đắng làm từ hoa cây chà là hạng nhất Ả Rập; tôi trộn vào một thìa mật ong và một chút nước chanh, rồi nhẹ nhàng bước vào phòng cha tôi khi ông đang đọc cuốn Kitab al-Ruh, và như một âm hồn ([19]), tôi đặt nó trước mặt ông mà không gây chú ý đến sự có mặt của tôi, như ông thích vậy.

“Tuyết đang rơi hả?” Ông hỏi bằng giọng buồn bã và yếu ớt đến độ tôi hiểu ngay lập tức đây sẽ là mùa tuyết rơi cuối cùng mà người cha tội nghiệp của tôi còn nhìn thấy được.

CHƯƠNG 10
TÔI LÀ MỘT CÁI CÂY

Tôi là một cái cây và tôi hoàn toàn cô độc. Tôi khóc rũ trong mưa. Vì đấng Allah, hãy lắng nghe những gì tôi muốn nói. Hãy uống cốc cà phê của các vị để cơn buồn ngủ rời xa và để mắt các vị mở to ra. Hãy nhìn tôi như các vị nhìn các ác thần và để tôi giải thích với các vị vì sao tôi cô độc như thế.

1. Người ta viện cớ rằng tôi được phác thảo vội vàng trên tờ giấy thô, không phết keo để bức tranh vẽ một cái cây có thể treo sau lưng người kể chuyện chuyên nghiệp. Đúng vậy. Vào lúc này, không có cội cây mảnh dẻ nào cạnh tôi, không có những cây bảy lá miền thảo nguyên, không có những dạng đá uốn éo đen ngòm mà nhiều khi trông giống quỷ Satan hoặc một người nào đó và không có những đám mây vân vi kiểu Trung Hoa. Chỉ có mặt đất, bầu trời, bản thân tôi và chân trời. Nhưng câu chuyện của tôi phức tạp hơn nhiều.

2. Trong vai trò một cái cây, tôi không cần có mặt trong một cuốn sách. Tuy nhiên, trong vai trò bức tranh vẽ cái cây, tôi bối rối khi thấy mình không phải là một trang trong bản thảo nào đó. Vì tôi không tượng trưng cho một cái gì trong cuốn sách, nên tôi nghĩ rằng bức tranh của tôi sẽ bị đóng đinh trên tường và những người kiểu như bọn ngoại giáo và vô đạo sẽ phủ phục trước tôi để thờ phụng. Cầu mong những đồ đệ của vị Hoja xứ Erzurum không biết được rằng tôi thầm tự hào với ý nghĩ này - nhưng sau đó tôi cảm thấy hết sức sợ hãi và lúng túng cực độ.

3. Lý do chủ yếu cho sự cô đơn của tôi là ở chỗ thậm chí tôi không biết tôi thuộc về nơi đâu. Tôi được dự trù là nằm trong một câu chuyện, nhưng tôi đã rụng khỏi đó như một chiếc lá mùa thu. Hãy để tôi kể cho các vị chuyện đó.

Rụng khỏi của chuyện của tôi giống như

một chiếc lá rơi và o mùa thu

Cách nay bốn mươi năm, vua Ba Tư Tahmasp, kẻ đại thù của dân Ottoman cũng như của vị vua bảo trợ vĩ đại nhất thế giới cho hội họa, bắt đầu ngày càng lú lẫn và không còn ham thích rượu vang, thơ ca, âm nhạc và hội họa; hơn nữa, ông cũng bỏ uống cà phê, và dĩ nhiên, đầu óc ông ngừng hoạt động. Đầy sự nghi ngờ của một lão già mặt dài ngoẵng, lòng dạ đen tối, ông đã dời đô từ Tabriz, lúc đó còn là lãnh thổ Ba Tư, đến Kazvin để lánh xa những đạo quân của người Ottoman. Một ngày kia, khi ông già hơn chút nữa, ông bị một ác thần ám, bị một cơn hoảng loạn, và trong khi cầu xin sự tha thứ của Thượng đế, ông thề sẽ hoàn toàn chừa rượu, bọn thanh niên đẹp trai và hội họa, vốn là chứng cứ đủ sức cho thấy rằng sau khi đã mất sở thích với cà phê, vị vua Ba Tư vĩ đại này cũng mất cả sự minh mẫn.

Đó là tại sao những người đóng sách, nhà thư pháp, thợ mạ vàng và nhà tiểu họa có thần hứng, những kẻ tạo ra những kiệt tác vĩ đại nhất thế giới suốt một giai đoạn hai mươi năm ở Tabriz, đã bỏ chạy tán loạn như bầy gà gô đến các thành phố khác. Ibrahim Mirza, cháu trai và cũng là con rể của vua Tahmasp, đã mời những người tài hoa nhất trong số họ đến Mashhad, nơi ông giữ chức thống đốc, và cho họ ở trong xưởng tiểu họa của ông để sao chép một bản thảo có minh họa và trang trí rực rỡ tuyệt vời về bảy truyện ngụ ngôn trong thi phẩm Haft Awrang ([20]) của Jami, nhà thơ vĩ đại ở Herat dưới triều đại Tamerlane. Vua Tahmasp, người vừa ngưỡng mộ vừa tỵ hiềm với đứa cháu trai thông minh tuấn tú của mình và hối hận vì đã gả con gái cho chàng ta, đã héo hon vì ghen tức khi nghe nói về cuốn sách tuyệt mỹ này và giận dữ trục xuất cháu trai ông khỏi chức thống đốc Mashhad, đày chàng đến thành phố Kain, sau đó trong một cơn giận dữ khác lại đẩy tiếp chàng đến tận thị trấn Sebzivar. Những người trang trí sách và thư pháp ở Mashhad sau đó phiêu bạt đến những thành phố và khu vực khác, tới các xưởng làm sách nghệ thuật của những vua chúa khác.

Tuy nhiên, kỳ diệu thay, cuốn sách tuyệt vời của vua Ibrahim Mirza đã không bị bỏ dở, vì trong số hầu cận của ông có một thủ thư tận tụy. Người này ngồi trên lưng ngựa suốt con đường đến Shiraz nơi có những thợ mạ vàng tài hoa nhất sinh sống; sau đó ông ta sẽ mang vài trang đến Isfahan tìm những nhà thư pháp tao nhã nhất của hệ chữ Nestalik; sau đó ông băng qua những ngọn núi hùng vĩ để đến được Bukhara ở đó ông đã dàn xếp xây dựng bố cục bức tranh và nhờ những họa sĩ tài hoa vĩ đại từng làm việc dưới quyền Đại hãn Uzbek vẽ thành hình dáng; kế đến ông xuống miền Herat để đặt một trong những bậc thầy già đã lòa vẽ theo ký ức những đường cong uốn lượn của cây và lá; đến thăm một nhà thư pháp khác ở Herat, ông hướng dẫn nhà thư pháp này khắc dấu hiệu bên trên cánh cửa trong bức tranh bằng kiểu chữ Rika vàng; cuối cùng ông lên đường trở lại miền nam, đến Kain, ở đó ông bày ra nửa trang ông đã hoàn tất sau sáu tháng rong ruổi. Ông nhận được lời khen ngợi của đức ngài Ibrahim Mirza.

Với tốc độ này, rõ ràng cuốn sách sẽ không bao giờ hoàn tất, vì thế nhiều kỵ sĩ liên lạc người Tatar đã được tuyển mộ. Ngoài tờ bản thảo vốn sẽ chứa bài văn được sao chép và tác phẩm nghệ thuật, mỗi kỵ sĩ còn được giao một lá thư gửi cho người nghệ sĩ trong đó mô tả tác phẩm mà người ta mong muốn. Vì vậy những người đưa thư này mang những trang bản thảo đi khắp những con đường trên lãnh thổ Ba Tư, Khorasan, Uzbek và Transoxania. Việc sáng tạo cuốn sách đã tăng tốc cùng với đội quân người đưa thư. Nhiều lần, trong đêm tuyết, trang 59 và 162 chẳng hạn sẽ gặp nhau trong một quán trọ mà ở đó các vị nghe rõ tiếng sói tru, và khi bắt đầu trò chuyện thân tình, họ phát hiện ra rằng họ đang có mặt trong cùng một dự án làm sách và có thể sẽ lấy các trang khác từ phòng của mình ra nhằm thử xác định giữa họ với nhau xem chúng nằm ở đâu và thuộc chuyện ngụ ngôn nào.

Tôi được dự trù sẽ nằm trong những trang của tập bản thảo có minh họa này mà tôi đau buồn nghe tin đã hoàn tất hôm nay. Thật không may, vào một ngày đông lạnh lẽo, tay kỵ sĩ liên lạc người Tatar mang tôi theo đã bị cướp tấn công khi anh ta băng qua một hẻm núi đá. Thoạt tiên chúng đánh đập anh chàng Tatar tội nghiệp, rồi chúng lột sạch hành lý và hãm hiếp anh ta theo kiểu của bọn cướp trước khi giết anh ta một cách tàn nhẫn. Kết quả là tôi chẳng biết gì về trang giấy mà tôi từ đó rơi ra. Lời thỉnh cầu của tôi là các vị hãy nhìn vào tôi và hỏi: “Có lẽ bạn được dự trù tạo bóng mát cho Mejnun dưới lốt người chăn cừu khi chàng đến thăm Leyla trong lều của nàng chăng?” Hay “Bạn được dự trù sẽ tan vào đêm tối, biểu trưng cho sự đen tối trong tâm hồn của người đàn ông khốn khổ và vô vọng chăng?” Tôi hẳn đã xiết bao ước muốn được bổ sung cho hạnh phúc của hai kẻ yêu nhau, những kẻ đã chạy trốn cả thế giới, vượt đại dương để tìm sự khuây khỏa trên một đảo đầy chim muông cây trái! Tôi hẳn đã muốn làm bóng mát che cho Alexander vào giây phút cuối đời ông trong chiến dịch chinh phục Hindustan khi ông chết do bị chảy máu cam dai dẳng vì say nắng. Hoặc tôi được dự trù tượng trưng cho sự thông thái và sức mạnh của một người cha đưa ra lời khuyên về tình yêu và cuộc sống cho đứa con trai của ông? A, tôi được dự định tăng thêm ý nghĩa và vẻ duyên dáng cho câu chuyện nào đây?

Trong số những tên cướp đã giết người đưa thư và mang tôi theo chúng, kéo lê đầu tôi chúc xuống qua hết ngọn núi này đến ngọn núi khác, hết thành phố này đến thành phố khác, có một tên đôi khi hiểu được giá trị của tôi và có đủ tinh tế để nhận ra rằng nhìn một bức tranh vẽ cái cây còn dễ chịu hơn nhìn một cái cây, nhưng vì hắn không biết tôi nằm trong câu chuyện nào nên hắn nhanh chóng chán tôi. Sau khi lôi tôi hết thành phố này sang thành phố khác, tên vô lại này đã không xé vụn tôi ra hoặc vứt tôi đi như tôi lo ngại, mà bán tôi cho một người có học tại một quán trọ để lấy một bình rượu. Thỉnh thoảng ban đêm người đàn ông nhạy cảm bất hạnh này nhìn tôi dưới ánh nến mà khóc. Cuối cùng ông ta chết vì sầu khổ và người ta bán những của cải của ông ta đi. Nhờ người kể chuyện chuyên nghiệp này chịu mua lại mà tôi đến được Istanbul này. Giờ đây tôi rất hạnh phúc, và lấy làm vinh hạnh được ở đây giữa các vị, những nhà tiểu họa và thư pháp nhạy cảm, tài hoa, có ý chí, tinh mắt và đầy cảm hứng diệu kỳ của Đức vua Ottoman - và lạy Thượng đế tôi van các vị đừng tin những người cho rằng tôi được vẽ vội trên giấy thô bởi một tay tiểu họa chuyên nghiệp nào đó để làm đạo cụ treo tường.

Nhưng hãy nghe những lời dối trá, vu khống và những điều sai sự thật trơ tráo khác đang lan truyền điều gì kìa! Các vị chắc còn nhớ đêm rồi ông chủ tôi đã đóng đinh treo bức tranh vẽ một con chó lên bức tường này và kể lại những cuộc phiêu lưu của con vật ngu xuẩn đó như thế nào; và đồng thời ông ta kể về những cuộc phiêu lưu của vị Husret Hoja xứ Erzurum ra sao mà! Hiện giờ, những kẻ sùng bái ngài Nusret Hoja vinh quang đã hiểu sai câu chuyện này hoàn toàn; họ nghĩ ông ta là mục tiêu câu chuyện kể của chúng tôi. Có chắc là chúng tôi đã nói rằng nhà thuyết giáo vĩ đại, Đức thầy đáng kính ấy, có gốc gác bất minh chăng? Cầu Thượng đế tha thứ! Điều đó thậm chí còn nảy ra trong đầu chúng tôi nữa sao? Quả là chuyện ác ý, quả là một lời dối trá trơ trẽn! Rõ ràng, Husret xứ Erzurum đã bị nhầm với Nusret xứ Erzurum, vì vậy hãy cho phép tôi tiếp tục kể cho các vị nghe câu chuyện về Nedret Hoja mắt lác xứ Sivas và cái Cây.

Ngoài việc lên án hành động quyến rũ những cậu bé đẹp trai và nghệ thuật hội họa, Nedret Hoja mắt lác xứ Sivas này còn một mực cho rằng cà phê là sản phẩm của Quỷ sứ và bọn uống cà phê sẽ xuống Hỏa ngục hết. Này, các vị xứ Sivas, các vị có quên chuyện nhánh cây khổng lồ này của tôi đã bị uốn cong như thế nào không? Hãy để tôi kể các vị nghe vụ này, nhưng rồi các vị phải thề là không kể lại với bất cứ ai, và cầu xin thánh Allah che chở các vị khỏi lời vu khống vô căn cứ. Một sáng, tôi thức dậy thì thấy một gã khổng lồ - Cầu Thượng đế che chở hắn ta, hắn cao như cái tháp với bàn tay giống như móng vuốt sư tử - đã leo lên cành này của tôi và nấp trong đám lá um tùm cùng vị Hoja đã đề cập ở trên và, xin thứ lỗi cho cách diễn đạt này, họ hì hục giống như lũ chó động tình. Trong khi gã khổng lồ, kẻ mà về sau tôi nhận ra chính là Quỷ sứ, chú tâm vào công việc của hắn với nhân vật chính của chúng ta, hắn mê đắm hôn tai ông ta và thì thào vào đó, “Cà phê là một thứ tội lỗi, cà phê là thứ đồi bại...” Vì vậy những ai tin vào ảnh hưởng tai hại của cà phê không phải họ tin vào những điều răn từ đạo giáo tốt lành của chúng ta, mà tin vào chính Quỷ sứ. Và cuối cùng tôi sẽ đề cập đến những họa sĩ Tây vực, vì vậy nếu có bất cứ kẻ suy đồi nào trong số các vị từng có kỳ vọng được giống họ, cầu mong các vị lưu ý đến lời cảnh báo của tôi và có người ngăn cản các vị. Giờ những họa sĩ Tây vực này vẽ lại khuôn mặt của vua, linh mục, nhà quý tộc, thậm chí cả phụ nữ theo một cách mà sau khi nhìn bức chân dung các vị có thể nhận ra người đó trên đường phố. Những người vợ của họ vẫn tự do lang thang trên các con đường – bây giờ, hãy tưởng tượng phần còn lại. Cứ như làm vậy vẫn chưa đủ, họ còn đưa vấn đề đi xa hơn. Tôi không có ý muốn nói về mặt dắt khách, mà về mặt vẽ tranh.

Một tay tiểu họa chuyên nghiệp châu Âu và một họa sĩ bậc thầy vĩ đại khác đang đi qua một đồng cỏ Tây vực và thảo luận về sự điêu luyện và nghệ thuật. Trong khi họ tản bộ, một khu rừng hiện ra trước mắt họ. Người tài hoa nhất trong hai người nói với người kia: “Việc vẽ theo phong cách mới đòi hỏi nhiều tài năng đến độ nếu anh vẽ một trong những cái cây của khu rừng này, một người đã nhìn bức tranh đó có thể đến đây, và nếu đủ lòng mong muốn, anh ta có thể chỉ ra đúng cây đó giữa những cây khác.” Tôi cám ơn thánh Allah rằng tôi, một cái cây tầm thường trước mặt các vị, đã không bị vẽ với ý định như thế. Và không phải vì tôi sợ nếu mình được vẽ theo cách như vậy thì tất cả chó ở Istanbul sẽ cho rằng tôi là cái cây thật và đái vào tôi. Tôi không muốn là một cái cây, tôi muốn là ý nghĩa của nó.

CHƯƠNG 11
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

Tuyết bắt đầu rơi lúc khuya và tiếp tục cho đến sáng. Tôi đã bỏ cả đêm đọc đi đọc lại lá thư của Shekure. Tôi đi tới đi lui trong căn phòng trống trơn của ngôi nhà trống trơn, thỉnh thoảng nghiêng về phía giá nến; trong ánh sáng lập lòe của ngọn nến tù mù, tôi quan sát nét chữ run run giận dữ của người tôi yêu dấu, những cú nhào lộn âm mưu đánh lừa tôi và chuỗi lắc hông từ phải qua trái của chúng. Bất ngờ, những cánh cửa rèm ấy mở ra trước mắt tôi và khuôn mặt người tôi yêu dấu cùng nụ cười muộn phiền của nàng xuất hiện. Và khi tôi thấy khuôn mặt thật của nàng, tôi quên tất cả khuôn mặt khác với những cái miệng anh đào chua đã ngày càng chín muồi trong trí tưởng tượng của tôi.

Lúc nửa đêm, tôi chìm trong những giấc mơ hôn nhân: Tôi tin chắc vào tình yêu của mình hoặc tin chắc rằng nó được đáp trả - chúng tôi cưới nhau trong trạng thái cực kỳ mãn nguyện - những, niềm hạnh phúc tưởng tượng của tôi trong bối cảnh một ngôi nhà có cầu thang, đã tan tành khi tôi không thể tìm được công việc thích hợp và bắt đầu gây gổ với vợ tôi, không thể làm cho nàng quan tâm đến lời nói của tôi.

Tôi biết tôi có được những hình ảnh mang điềm gở này từ đoạn nói về những bất hạnh trong hôn nhân trong Ihya Ulum al- Din ([21]) của Gazzali mà tôi đã đọc trong những đêm sống độc thân ở Ả Rập; đồng thời tôi nhớ lại rằng trong chính đoạn đó lại có lời khuyên về những ích lợi của hôn nhân, dù bây giờ tôi chỉ có thể nhớ hai trong số đó: trước tiên là mọi thứ trong nhà được giữ ngăn nắp (không hề có sự ngăn nắp như thế trong ngôi nhà tưởng tượng của tôi); thứ hai, tránh được tội thủ dâm và tội lê bước - một cảm giác tội lỗi thậm chí còn sâu hơn - theo sau những tên ma cô dắt tôi đi qua những ngõ hẻm tối tăm đến chỗ ở của bọn gái điếm.

Ý tưởng về sự cứu rỗi linh hồn vào lúc khuya khoắt này đã khiến tôi nghĩ đến chuyện thủ dâm. Với một sự khao khát chất phác, và để đầu óc thoát khỏi nỗi thôi thúc không thể chống lại này, tôi rút về một góc phòng, như thói quen, nhưng một lát sau tôi nhận ra rằng mình không thể thủ dâm - chứng cứ rõ ràng rằng tôi lại vướng vào tình yêu lần nữa sau mười hai năm!

Điều này khiến tôi quá kích động và sợ hãi đến độ tôi đi loanh quanh trong phòng gần như run lên như ngọn lửa của cây nến. Nếu Shekure cố ý xuất hiện nơi cửa sổ, vậy tại sao lá thư này lại đem cho tôi một niềm tin trái ngược hẳn? Tại sao cha nàng gọi tôi đến? Khi tôi bước đi, tôi có cảm giác rằng cánh cửa, bức tường và sàn nhà ọp ẹp đang cố cót két lên để trả lời từng câu hỏi của tôi.

Tôi nhìn bức tranh mình vẽ cách nay nhiều năm tả nàng Shirin bị cú sét ái tình khi nhìn hình chàng Husrev treo trên cành cây. Nó không khiến tôi lúng túng như mỗi lần hiện ra trong đầu tôi vào những năm sau này, cũng không đưa tôi trở về những ký ức êm đềm thời niên thiếu. Đến sáng đầu óc tôi đã nắm vững tình hình: Với việc trả lại bức tranh, Shekure đã đi một nước trong ván cờ tình ái mà nàng đã khéo léo nhử tôi vào. Tôi ngồi trong ánh nến viết thư trả lời nàng.

Buổi sáng, sau khi ngủ một lát, tôi rời nhà đi bộ dọc trên đường qua các con phố, nhét lá thư trong ngực và hộp đựng bút mực của tôi, theo thói quen, trong khăn quàng vai. Tuyết làm rộng những con đường hẹp ở Istanbul và khiến cho thành phố bớt đi những đám đông. Mọi thứ đều yên tĩnh và trầm lặng lại, như hồi tôi còn trẻ. Lũ quạ có vẻ như ngập đầy các mái nhà, những mái vòm và khu vườn Istanbul như đã từng ngập đầy như thế vào những ngày đông tuyết giá hồi tôi còn trẻ. Tôi bước nhanh, lắng nghe tiếng bước chân tôi trên tuyết và nhìn đám sương từ hơi thở của tôi. Tôi càng lúc càng kích động, và mong xưởng làm việc trong cung điện mà Enishte của tôi muốn tôi đến thăm cũng yên lặng như các con phố này. Trước khi bước vào khu Do Thái, tôi nhờ một thằng nhóc đường phố nhắn cho Esther, kẻ có thể giao lá thư của tôi đến Shekure, biết chỗ có thể gặp tôi sau buổi cầu kinh trưa.

Tôi đến xưởng thủ công hoàng gia nằm sau Hagia Sophia khá sớm. Ngoài những nhũ băng thò xuống từ mái hiên thì chẳng có thay đổi gì ở tòa nhà nơi tôi thường đến thăm Enishte của tôi và từng lao động hồi còn học việc.

Theo chân một thợ học việc trẻ đẹp trai, tôi đi qua những thợ đóng sách già nua, bị choáng vì mùi keo và mùi hồ của thợ đóng sách, những nhà tiểu họa lưng đã sớm còng và những thanh niên đang trộn thuốc màu mà thậm chí không nhìn vào những chiếc tô đặt trên đầu gối họ, họ bị ánh lửa trong bếp lò thu hút một cách quá đỗi buồn phiền. Trong một góc, tôi thấy một ông già đang tỉ mỉ sơn một quả trứng đà điểu đặt trên đùi, một ông già khác say mê tô điểm một ngăn kéo và một thợ học việc trẻ thán phục nhìn cả hai người. Qua một cánh cửa mở, tôi chứng kiến những học trò trẻ đang bị quở trách trong khi chúng chồm tới trước, mũi hầu như chạm vào những tờ giấy trải trước khuôn mặt đỏ lựng, trong khi chúng cố hiểu những lỗi lầm mình phạm phải. Trong một phòng khác, một thợ học việc rầu rĩ ủ ê, nhất thời quên hết màu sắc, giấy và việc vẽ, đăm đăm nhìn con đường mà từ đó tôi vừa hăm hở bước vào.

Chúng tôi leo lên cầu thang lạnh giá. Chúng tôi đi dọc hàng cột chạy quanh phía trong tầng hai của tòa nhà. Bên dưới, ở sân trong phủ đầy tuyết, hai học trò trẻ, rõ ràng đang run rẩy vì lạnh dù chúng mặc áo khoác bằng len thô dày, đang chờ - có lẽ là chờ một trận đòn sắp đến. Tôi nhớ thời trẻ của tôi và những trận đòn dành cho những học trò lười biếng hoặc lãng phí thuốc màu đắt tiền, và những cú roi buốt óc, đánh vào gan bàn chân cho đến khi chảy máu.

Chúng tôi bước vào một căn phòng ấm cúng. Tôi thấy hai thợ mới vào nghề vừa hoàn tất giai đoạn học việc. Vì những thợ cả những kẻ được Sư phụ Osman đặt cho nghệ danh riêng, hiện làm việc tại nhà nên căn phòng này, từng khơi dậy lòng kính trọng sâu sắc và niềm vui sướng trong tôi, nay không còn có vẻ giống xưởng làm việc của một vị vua giàu có và vĩ đại mà chỉ còn là một căn phòng lớn trong một quán trọ hẻo lánh nào đó ở vùng núi phương Đông xa xôi.

Ngay đàng kia bên vách, trước một cái quầy dài, tôi thấy Trưởng ban Trang trí, Sư phụ Osman, lần đầu trong mười lăm năm qua. Ông có vẻ giống một hồn ma. Mỗi khi ngẫm nghĩ chuyện minh họa và vẽ tranh trong những cuộc hành trình của mình, bậc thầy vĩ đại này thường hiện ra trong tâm trí tôi như thể ông chính là Bihzad; nay trong bộ áo choàng trắng và trong ánh sáng trắng như tuyết chiếu qua khung cửa sổ đối diện với Hagia Sophia, trông như thể từ lâu ông đã trở thành một trong những linh hồn của Thế giới bên kia. Tôi hôn tay ông, mà tôi nhận thấy đã trổ đồi mồi, và tôi tự giới thiệu mình. Tôi giải thích rằng hồi nhỏ Enishte của tôi đã gửi tôi đến đây học, nhưng tôi thích công việc bàn giấy hơn nên đã ra đi. Tôi kể lại những năm tháng rong ruổi trên đường, thời gian tôi sống ở các thành phố phương Đông làm thư ký cho các tổng trấn hoặc nhân viên cho người quản lý ngân khố. Tôi nói với ông rằng, khi làm việc với Tổng trấn Serhat và những người khác, tôi đã gặp những nhà thư pháp và trang trí ở Tabriz và làm ra những cuốn sách như thế nào; tôi đã sống ở Baghdad và Aleppo, ở Van và Tiflis, và tôi đã chứng kiến nhiều cuộc chiến.

“A. Tiflis!” bậc thầy vĩ đại đó nói, trong khi nhìn ánh sáng từ khu vườn tuyết phủ len qua lớp vải dầu che cửa sổ. “Tuyết đang rơi ngoài đó hả?” Cung cách của ông thích hợp với những bậc thầy già Ba Tư vốn lòa dần đi trong khi hoàn thiện nghệ thuật của họ; những người mà, sau một tuổi nào đó, sống cuộc đời nửa thần thánh nửa lú lẫn, và những truyền thuyết vô tận vẫn được kể về họ. Tôi lập tức thấy trong đôi mắt như âm hồn của ông rằng ông hết sức khinh thường Enishte của tôi và hơn nữa ông còn nghi ngờ cả tôi. Dù vậy tôi vẫn giải thích rằng ở những sa mạc Ả Rập tuyết không chỉ rơi xuống đất, như nó đang rơi xuống Hagia Sophia này, mà nó cũng rơi vào ký ức nữa. Tôi thêu dệt: Khi tuyết rơi trên pháo đài Tinis, những phụ nữ giặt quần áo hát những bài hát về màu sắc của hoa và trẻ em giấu kem dưới gối để dành cho mùa hè.

“Hãy cho ta biết những nhà trang trí và họa sĩ vẽ những gì ở những quốc gia anh từng ghé qua,” ông nói. “Họ vẽ cái gì?”

Một họa sĩ trẻ có đôi mắt mơ màng đang lựa các trang trong góc, chìm trong mộng mơ, ngẩng đầu lên khỏi bàn làm việc cùng những người khác trong phòng và nhìn tôi như ngụ ý. “Mong đây là câu trả lời trung thực nhất của anh.” Nhiều người trong số thợ thủ công này không biết đến người chủ tiệm tạp hóa ngay góc phố của họ hoặc một cân bánh mì giá bao nhiêu, nhưng họ rất tò mò về tin đồn mới nhất ở Đông Ba Tư, nơi các đội quân đánh nhau, các ông hoàng siết cổ nhau và cướp bóc thành phố trước khi đốt chúng thành bình địa, nơi chiến tranh và hòa bình đối chọi nhau mỗi ngày, nơi những vần thơ hay nhất được sáng tác và những tranh minh họa cùng những bức tranh đẹp nhất được làm ra suốt bao thế kỷ.

“Quốc vương Tahmasp trị vì năm mươi hai năm. Trong những năm cuối đời, như quý vị biết, ông đã từ bỏ tình yêu sách vở, việc minh họa và vẽ tranh, quay lưng lại với các nhà thơ, nhà minh họa và thư pháp, và rút mình vào việc thờ phượng, nay ông đã qua đời, và rồi Ismail, con trai ông kế vị ngai vàng,” tôi nói. “Quốc vương Tahmasp hiểu rõ bản chất thù địch và khó chịu của con trai ông, vì thế ông đã giữ con trai ông, người sẽ là vua tương lai, trong cảnh kín cổng cao tường suốt hai mươi năm. Ngay khi Ismail kế vị ngai vàng, trong một cơn điên cuồng, ông đã cho thắt cổ những em trai của mình - một số trước đó còn bị ông chọc mù mắt. Tuy nhiên, cuối cùng những kẻ thù của Ismail cũng thành công trong việc dụ ông hút thuốc phiện và đầu độc ông, và sau khi thoát được sự hiện diện cụ thể của ông ta, họ đưa người anh trai dở hơi Muhammad Khodabandeh của ông lên ngai vàng. Trong triều đại của ông này, mọi ông hoàng, anh em, các tổng đốc và người Uzbek, tóm lại là mọi nguồn đã bắt đầu nổi loạn. Họ săn đuổi nhau và săn đuổi Tổng trấn Serhat một cách hung bạo đến độ cả xứ Ba Tư hóa thành tro bụi và chìm trong hỗn loạn. Thực tế quốc vương hiện tại hoàn toàn không có tiền bạc và trí thông minh và gần như mù, không có khả năng tài trợ cho việc sáng tác cùng minh họa những bản thảo có trang trí. Vì vậy những nhà minh họa huyền thoại của Kazvin và Herat này, tất cả những bậc thầy lão thành này, cùng với thợ học việc của họ, những nghệ sĩ từng tạo ra những kiệt tác trong các xưởng làm việc của Quốc vương Tahmasp, những họa sĩ và người tô màu mà chiếc cọ của họ đã làm cho những con ngựa chồm ra phi nước đại và những con bướm của họ vỗ cánh khỏi trang giấy, tất cả những thợ đóng sách và nhà thư pháp bậc thầy, thảy đều bị bỏ mặc không công việc không một xu, túng thiếu, không nhà cửa và trơ trọi. Một số di tản đến miền Bắc sống chung với người Uzbek, một số về phía Tây đến Ấn Độ. Một số khác nhận làm những công việc khác, lãng phí tài năng và thanh danh họ, một số khác còn phục vụ cho những ông hoàng và tổng đốc tầm thường, tất cả là kẻ thù không đội trời chung của nhau, để bắt đầu làm những cuốn sách cỡ lòng bàn tay chỉ có vài tờ minh họa. Được viết nhanh, vẽ vội, những cuốn sách rẻ tiền này xuất hiện khắp nơi, phù hợp với thị hiếu của binh lính, những tổng trấn thô lỗ và những ông hoàng hư hỏng.”

“Họ đòi giá bao nhiêu?” Thầy Osman hỏi.

“Tôi nghe rằng Sadiki Bey vĩ đại đã minh họa một bản Những sinh vật lạ, do một lính kỵ binh Uzbek đặt làm, với giá có năm mươi đồng vàng. Trong lều của một tổng trấn tầm thường vừa từ một chiến dịch miền Đông về đến Erzurum, tôi thấy một tập gồm toàn hình ảnh dâm dục trong đó có những bức tranh của họa sĩ bậc thầy Siyavush. Vài bậc thầy vĩ đại chưa bỏ nghề minh họa thì đang làm và bán những bức tranh lẻ không nằm trong bất cứ câu chuyện nào cả. Nghiên cứu những tờ tranh lẻ như thế, ngài không thể nói nó mô tả cho cảnh nào hoặc câu chuyện nào; ngài chỉ có thể ngưỡng mộ nó vì chính nó, vì niềm vui của việc ngắm nhìn mà thôi. Chẳng hạn, ngài có thể bình luận, ‘Bức này giống chính xác một con ngựa, nó đẹp làm sao,’ và ngài sẽ trả công cho người nghệ sĩ trên cơ sở đó. Những cảnh chiến trận hoặc làm tình thật phổ biến. Giá trả cho một trận đánh loạn xạ đã xuống còn ba trăm đồng bạc, và hầu như không có khách hàng nào quan tâm. Để bán được những bức tranh giá rẻ và để thu hút người mua hơn, một số bức chỉ được vẽ bằng mực đen trên loại giấy không keo, chưa hoàn chỉnh mà không có một nét cọ màu nào.”

“Có một thợ mạ vàng của ta rất ư phải lẽ và tài năng hết mực,” Thầy Osman nói. “Anh ta coi sóc công việc của mình với vẻ tao nhã đến độ chúng ta gọi anh ta là ‘Zarif Kính mến’. Nhưng anh ta đã bỏ chúng ta. Đã sáu ngày rồi mà người ta không thấy anh ta đâu cả. Anh ta đơn giản là biến mất.

“Sao lại có người có thể từ bỏ một xưởng làm việc, một tổ ấm hạnh phúc như thế này được nhỉ?” Tôi nói.

“Kelebek, Zeytin, Leylek và Zarif, bốn thợ cả trẻ tuổi giỏi giang mà ta đã huấn luyện từ khi họ là thợ học việc, nay làm việc tại nhà theo lệnh của Đức vua”, Thầy Osman nói.

Việc này rõ ràng là để họ có thể làm việc thoải mái hơn cho cuốn Sur-nama vốn là công trình mà cả xưởng đều tham gia. Lần này Đức vua đã không chuẩn bị một chỗ làm việc đặc biệt cho những nhà tiểu họa bậc thầy của Ngài trong sân của cung điện; thay vào đó Ngài truyền lệnh họ làm việc cho cuốn sách đặc biệt này tại nhà. Khi nhận ra rằng chắc chắn lệnh này được ban hành cho chính cuốn sách mà Enishte của tôi đang làm, tôi câm bặt. Thầy Osman muốn nói bóng gió gì ở đây?

“Nuri Kính mến,” ông gọi một họa sĩ nhợt nhạt lom khom, “dẫn Thầy Siyah của chúng ta ‘quan sát’ xưởng làm việc đi!”

“Quan sát” là một nghi thức thường lệ trong những cuộc viếng thăm hai tháng một lần của Đức vua tại nơi làm việc của các nhà tiểu họa trong suốt quãng thời gian sôi nổi khi Đức vua muốn theo dõi sát những gì diễn ra tại xưởng làm việc. Với sự trợ giúp của Hazim, Trưởng Ngân khố; Lokman, Trưởng Biên niên sử quan, và Sư phụ Osman, Trưởng ban Trang trí, Đức vua sẽ được báo cáo về việc tại thời điểm bất kỳ nào đó các bậc thầy này đang làm việc với trang nào trong cuốn sách nào, ai mạ vàng bức tranh nào, ai tô màu bức tranh nào, và từng người một, các thợ tô màu, người xếp trang, thợ mạ vàng và những nhà tiểu họa bậc thầy, mà tài năng của họ cho phép họ hoàn thành những điều kỳ diệu, đã tham gia công việc thế nào. Tôi thấy buồn rằng họ vẫn giữ một nghi lễ giả tạo thay cho cái nghi lễ mà nay không còn được thực hiện nữa vì tuổi tác và bệnh tật đã buộc Trưởng Biên niên sử quan Lokman Kính mến. người đã viết hầu hết những cuốn sách được minh họa, phải nằm liệt ở nhà; bởi Thầy Osman thường biến mất trong sự phẫn nộ và giận dữ; bởi bốn thợ cả bậc thầy có tên Kelebek, Zeytin, Leylek và Zarif đều làm việc tại nhà; và bởi Đức vua không còn tràn đầy nhiệt tình giống như đứa trẻ trong xưởng làm việc nữa. Như đã xảy ra với nhiều nhà tiểu họa, Nuri Kính mến ngày càng già đi một cách vô ích, không được trải nghiệm cuộc sống đầy đủ hoặc trở thành một bậc thầy trong nghệ thuật của mình. Tuy nhiên không vô ích nếu ông ta dành những năm tháng đó trên bàn làm việc để lưng trở nên còng: ông ta luôn chú tâm tới những gì đang xảy ra trong xưởng làm việc, tới việc người nào đang làm trang tuyệt mỹ nào.

Và tôi cũng hăm hở ngắm nghía lần đầu tiên những trang huyền thoại của cuốn Sur-nama, vốn kể lại những nghi lễ cắt bì cho vị hoàng tử của Đức vua. Khi còn ở Ba Tư, tôi đã nghe những câu chuyện về lễ cắt bì kéo dài năm mươi hai ngày này trong đó người dân thuộc mọi ngành nghề, mọi phường hội, cả Istanbul, đều tham dự, thực sự vào thời điểm khi cuốn sách ghi nhớ sự kiện vĩ đại này đang được chuẩn bị.

Trong bức tranh đầu tiên đặt trước mặt tôi, lấy bối cảnh khu đất được rào cẩn thận của hoàng gia trong lâu đài của Ibrahim Pasha quá cố, Đức vua, Người che chở thế giới này, đang nhìn chăm chú những lễ hội ở khu Hí trường bên dưới với vẻ hài lòng. Khuôn mặt Ngài, thậm chí dù không quá chi tiết đến độ cho phép người ta phân biệt Ngài với người khác chỉ bằng những nét đặc trưng, đã được vẽ một cách khéo léo và với lòng kính trọng sâu sắc. Về bên phải của bức tranh tờ đôi mà trong đó Đức vua được thể hiện ở bên trái có những tể tướng, tổng trấn, các sứ thần Ba Tư, Tatar, Tây vực và Venice đứng dưới những mái che và cửa sổ. Bởi vì họ không phải những quốc vương, nên đôi mắt họ được vẽ một cách vội vàng cẩu thả và không tập trung vào cái gì đặc biệt ngoài cảnh náo nhiệt trên quảng trường đó. Sau này, trong những bức tranh khác, tôi nhận thấy sự sắp xếp và bố cục trang giống nhu vậy được lặp lại cho dù hoa văn trang trí bức tường cây cối và những viên đá màu đất nung được vẽ theo những phong cách và màu sắc khác nhau. Một khi những người sao chép đã viết ra phần chữ rồi, những tranh minh họa đã hoàn tất và cuốn sách đã được đóng gáy rồi thì người đọc, khi giở từng trang, sẽ thấy mỗi lần một hoạt động hoàn toàn khác nhau trong những màu sắc hoàn toàn khác nhau tại Hí trường vốn vẫn nằm dưới cái nhìn chăm chú đó của Đức vua và đám khách của Ngài - những người luôn đứng y hệt như vậy, mãi mãi nhìn vào cùng một khu vực bên dưới.

Ở đó ngay trước mắt, tôi thấy người ta đang tranh giành nhau hàng trăm tô cơm trộn được đặt trong Hippodrome; tôi thấy những con thỏ và chim còn sống vọt ra từ chỗ con bò quay và làm đám đông đang lao vào đó phải giật mình. Tôi thấy một đám những người thợ cả gò đồng đang ngồi trên một chiếc xe ngựa trước Đức vua, những thành viên trong đó đang nện vào miếng đồng nhưng không bao giờ chạm tới người đang nằm trên xe với chiếc đe đặt ngang trên tấm ngực trần. Tôi thấy những thợ lắp kính đang trang trí kính bằng hoa cẩm chướng và cây bách trong khi họ diễu hành trước Đức vua trên một cỗ xe, những thợ làm bánh kẹo đang đọc to những bài thơ ngọt ngào trong khi cưỡi bọn lạc đà chất đầy những túi đường và bày ra những chiếc lồng chứa những con vẹt làm bằng đường; và những thợ khóa già khoe khoang nhiều loại khóa treo, khóa móc, then cửa, khóa bánh răng trong khi than vãn về những tệ nạn của thời đại mới và những cánh cửa mới. Kelchek, Zeytin, Leylek đã làm những bức tranh vẽ những nhà ảo thuật: Một trong số họ đang làm những quả trứng lăn xuống theo một cây cọc mà không rơi xuống - như thể trên một phiến đá rộng - theo nhịp trống lục lạc do một người khác gõ.

Trong một cỗ xe khác tôi thấy rõ Tổng trấn Thuyền trưởng Kilic Ali đang buộc những kẻ ngoại đạo bị ông bắt giữ ngoài biển làm một “ngọn núi của bọn ngoại đạo” bằng đất sét; sau đó ông chất tất cả nô lệ lên cỗ xe, và khi đến ngay trước mặt Đức vua, ông ta cho châm ngòi mớ thuốc nổ trong “ngọn núi” đó để chứng minh ông đã biến đất đai của bọn ngoại đạo thành tiếng than khóc và rên rỉ bằng đạn đại bác như thế nào. Tôi thấy những tay đồ tể nhẵn nhụi mặc đồng phục đỏ tía cầm và sử dụng dao phay, cười với những xác cừu đỏ hồng đã cạo sạch lông treo trên móc. Khán giả vỗ tay ủng hộ những người dạy sư tử đang dắt một con sư tử bị xích đến trước mặt Đức vua, khiêu khích và chọc giận nó cho đến khi đôi mắt nó hằn tia máu giận dữ; và ở trang kế tiếp, tôi thấy con sư tử, tiêu biểu cho khối Hồi giáo, đuổi theo một con lợn hồng xám, biểu tượng cho bọn ngoại đạo Thiên chúa giáo xảo quyệt. Tôi ngắm nhìn thỏa thuê một bức tranh vẽ một thợ cắt tóc vừa treo mình lộn ngược trên trần một cửa hàng dựng trên một chiếc xe vừa cạo cho một khách hàng trong khi người phụ tá của ông ta, mặc đồ đỏ, cầm gương và một chiếc thau bằng bạc chứa xà phòng thơm, chờ lấy tiền công; tôi dò hỏi về lai lịch của nhà tiểu họa phi thường chịu trách nhiệm về bức tranh này.

“Điều thục sự quan trọng là ở chỗ một bức tranh, qua vẻ đẹp của nó, hướng chúng ta đến sự sung mãn của cuộc sống, đến lòng cảm thông, lòng tôn trọng đối với những màu sắc của thế giới mà Thượng đế đã tạo ra, và đến sự chiêm nghiệm và đức tin. Lai lịch của nhà tiểu họa là không quan trọng.”

Có phải Nuri nhà tiểu họa, người rất tinh tế trong ý nghĩ nhiều hơn tôi tưởng, trở nên dè dặt vì ông ta hiểu rằng Enishte của tôi phái tôi đến đây để điều tra, hay ông ta chỉ lặp lại như vẹt lời của Sư phụ Osman Trưởng ban Trang trí?

Có phải Zarif là người chịu trách nhiệm toàn bộ việc mạ vàng này không?” Tôi hỏi. “Hiện giờ ai làm công việc này thay anh ta?”

Giờ thì có thể nghe thấy những tiếng la rú của bọn trẻ qua cánh cửa mở ra sân trong. Bên dưới, một trong những người đứng đầu nhóm đang cho đánh roi vào gan bàn chân những thợ học việc chắc đã bị bắt quả tang giấu bột mực đỏ trong túi hoặc miếng vàng trong một cuộn giấy; có lẽ chính là hai đứa mà ban nãy tôi thấy đang run rẩy chờ đợi trong cái lạnh giá này. Những họa sĩ trẻ chộp lấy cơ hội để chế giễu chúng, liền chạy đến cửa nhìn.

“Vào thời điểm các thợ học việc tô nền của Hí trường đây bằng màu hồng, hoàn tất nó như Thầy Osman đã ra lệnh,” Nuri Kính mến nói một cách cẩn trọng. “người anh em Zarif Kính mến của chúng tôi chắc sẽ trở về từ chỗ nào đó anh ta đã tới và sẽ hoàn tất việc mạ vàng trên hai trang này. Thầy của chúng tôi, nhà tiểu họa Osman, muốn Zarif Kính mến tô màu sàn nhà bẩn thỉu của Hí trường mỗi cảnh một khác đi. Màu hồng phấn, xanh Ấn, vàng nghệ hoặc màu cứt ngỗng. Bất cứ ai nhìn bức tranh cũng sẽ nhận ra trong bức tranh đầu rằng đây là một quảng trường bẩn thỉu và phải có màu đất, nhưng trong bức tranh thứ hai và thứ ba, ông muốn màu khác để làm ông vui mắt. Việc tô điểm phải mang đến niềm vui cho mỗi trang.”

Tôi để ý một số tranh trên tờ giấy mà một người phụ tá để lại trong góc phòng. Anh ta đang làm bức tranh khổ một tờ cho cuốn Zafernameh ([22]), mô tả một hạm đội hải quân đang lên đường vào trận đánh, nhưng rõ ràng là tiếng rú của những người bạn anh ta đang bị đánh vào gan bàn chân đã kích thích tay minh họa này bỏ công việc chạy đi xem. Cái hạm đội được anh ta làm bằng cách vẽ lặp đi lặp lại các con tàu y hệt nhau với một kiểu hình khối thậm chí không có vẻ gì là nổi được trên biển; nhưng, sự giả tạo này, không có gió trên cánh buồm, là do sự thiếu vắng kỹ năng ở người họa sĩ hơn là do kiểu dáng hình khối. Tôi buồn rầu thấy rằng kiểu dáng này đã được cắt ra thô bạo từ một cuốn sách cũ mà tôi không thể nhớ tên, có lẽ là một tập tranh cắt dán. Rõ ràng Sư phụ Osman đã bỏ qua quá nhiều.

Khi chúng tôi đến bàn làm việc riêng của ông ta, Nuri Kính mến tự hào tuyên bố rằng ông ta đã hoàn thành một phù hiệu hoàng gia mạ vàng cho Đức vua; ông ta đã làm nó trong ba tuần. Tôi thật lòng thán phục phù hiệu và họa tiết dát vàng của Nuri Kính mến, vốn được làm trên một tờ giấy trắng để bảo đảm rằng người nhận nó và lý do gửi nó đi sẽ vẫn nằm trong vòng bí mật. Tôi biết rõ rằng nhiều tổng trấn bốc đồng ở phương Đông đã không dám nổi loạn khi nhìn thấy vẻ tráng lệ quý phái và mạnh mẽ trong phù hiệu của Đức vua.

Kế đến, chúng tôi thấy những kiệt tác mới đây nhất mà nhà thư pháp Jemal đã chép tay, hoàn tất và để lại; nhưng chúng tôi vội vã lướt qua chúng để tránh tin vào những kẻ chống đối màu sắc và việc trang trí vốn cho rằng nghệ thuật thật sự chỉ bao gồm việc viết thư pháp, và việc trang trí màu sắc cho đẹp mắt hơn chẳng qua chỉ là một biện pháp thứ yếu để nhấn mạnh thêm.

Nasir Họa sĩ đang bày ra một tấm tranh minh họa lộn xộn mà anh ta có ý định sửa chữa từ một phiên bản Khamse ([23]) của Nizami có niên đại từ thời các con trai của Tamerlane; bức tranh mô tả Husrev đang nhìn Shirin trần truồng khi nàng tắm.

Một người nguyên là thợ cả chín mươi hai tuổi, đã gần như mù và chẳng có gì để nói ngoài việc khẳng định rằng sáu mươi năm trước ông đã hôn tay Sư phụ Bizhad ở Tabriz và lúc đó bậc thầy huyền thoại vĩ đại đã mù và say khướt, với đôi bàn tay run rẩy đã chỉ cho chúng tôi nét họa tiết trang trí trên hộp đựng viết mà ông sẽ tặng như một món quà ngày lễ cho Đức vua khi nó được hoàn thành sau ba tháng nữa.

Một khoảng im lặng ngắn bao trùm toàn bộ xưởng làm việc nơi có gần tám mươi họa sĩ, học trò và thợ học nghề đang làm việc trong những ngăn nhỏ ở tầng dưới. Đây là khoảng im lặng sau lúc đánh đòn, tôi đã nhiều lần trải qua những khoảng lặng tương tự; một sự im lặng có lúc bị phá vỡ bởi tiếng cười cố nén hoặc một lời nhận xét hóm hỉnh, có lúc bởi vài tiếng thổn thức hoặc tiếng rên rỉ cố nén của cậu trai bị đòn trước khi cơn khóc của cậu gợi cho những nhà tiểu họa đã thành nghề nhớ lại những trận đòn chính họ từng phải chịu khi còn là thợ học việc. Nhưng vị thầy chín mươi hai tuổi gần như mù này đã khiến tôi cảm nhận một điều gì đó sâu sắc hơn trong thoáng chốc, ở đây, xa khỏi mọi trận đánh và sự náo loạn: cảm giác rằng mọi thứ đang đến hồi kết thúc. Ngay trước ngày tận thể, cũng sẽ có một sự im lặng như thế này.

Việc vẽ tranh là sự im lặng của tư tưởng và âm nhạc của thị giác.

Khi tôi hôn tay Sư phụ Osman để tạm biệt, tôi cảm thấy không chỉ lòng kính trọng sâu sắc đối với ông mà còn cả một tình cảm khiến linh hồn tôi xáo động: lòng thương hại pha lẫn sùng kính dành cho một vị thánh, một cảm giác phạm tội lạ kỳ. Điều này có lẽ bởi vì Enishte của tôi - người muốn các họa sĩ, dù công khai hay bí mật, hãy bắt chước những phương pháp của các bậc thầy Tây vực - là đối thủ của ông.

Bất chợt tôi cũng cảm thấy rằng có lẽ đây là lần cuối tôi gặp được vị thầy vĩ đại này còn sống, và trong trạng thái bối rối muốn làm vui lòng và cổ vũ thầy, tôi đã hỏi một câu:

“Thưa thầy đáng kính, điều gì phân biệt nhà tiểu họa đích thực với nhà tiểu họa bình thường?” Tôi cho rằng vị Trưởng ban Trang trí, người quá quen thuộc với những câu hỏi bợ đỡ thế này, sẽ cho tôi một câu trả lời qua quít và ông hiện đang trong trạng thái hoàn toàn quên mất tôi là ai.

“Không hề có một phương pháp nào có thể phân biệt nhà tiểu họa vĩ đại với nhà tiểu họa bất tài và bất tín,” ông nói với tất cả sụ nghiêm túc. “Điều này thay đổi theo thời gian. Những tài năng và đạo đức mà anh ta dựa vào để đối mặt với cái ác vốn đe dọa nghệ thuật của chúng ta mới là điều quan trọng. Ngày nay, để xác định một họa sĩ trẻ có tài thực sự đến đâu, ta sẽ hỏi anh ta ba câu hỏi.”

“Những câu hỏi đó là gì?”

“Anh ta có tin, dưới tác động của lề thói gần đây cũng như dưới ảnh hưởng của người Trung Hoa và châu Âu, rằng anh ta phải có một kỹ thuật vẽ độc đáo, một phong cách riêng của anh ta không? Là một người trang trí, liệu anh ta có muốn có một cung cách, một khía cạnh khác hẳn những người khác không, và liệu anh ta có nỗ lực chứng minh điều này bằng cách ký tên đâu đó trên tác phẩm của mình giống như những bậc thầy Tây vực không? Để xác định một cách chính xác những điều này, trước tiên ta sẽ hỏi anh ta một câu hỏi về ‘phong cách’ và ‘chữ ký.’

“Rồi sau đó?” tôi kính cẩn hỏi.

“Sau đó ta sẽ muốn biết nhà trang trí này cảm thấy như thế nào về những cuốn sách bị đổi chủ, bị sút chỉ, và những bức tranh của chúng ta đang được sử dụng trong những cuốn sách khác và trong những thời đại khác sau khi các hoàng đế và quốc vương, những người đặt làm ra chúng, đã chết đi. Đây là một vấn đề tế nhị đòi hỏi một câu trả lời bất chấp nó làm vui lòng hay gây bực bội cho ta. Vì vậy, ta sẽ hỏi nhà minh họa này một câu hỏi về thời giảm - thời gian của nhà minh họa và thời gian của đấng Allah. Cậu có theo kịp ta không, cậu bé?”

Không, nhưng tôi không trả lời như thế. Thay vào đó, tôi hỏi, “Còn câu hỏi thứ ba?”

“Câu hỏi thứ ba sẽ là ‘phận mù!’ Sư phụ Osman nói, sau đó ông im lặng như thể điều này không cần giải thích.

“Phận mù là sao?” tôi bối rối hỏi.

“Phận mù là sự im lặng. Nếu cậu kết hợp những gì ta vừa nói câu hỏi thứ nhất và câu hỏi thứ hai, thì ‘phận mù’ sẽ hiện ra. Nó là mức xa nhất mà người ta có thể đến được trong nghề minh họa; nó là việc thấy được những gì hiện ra từ cõi u minh của đấng Allah.”

Tôi không nói nữa. Tôi bước ra ngoài. Tôi bước xuống những bậc thang lạnh giá không chút vội vã. Tôi biết rằng tôi sẽ hỏi Kelebek, Zeytin và Leylek ba câu hỏi của vị thầy vĩ đại này, không chỉ vì muốn có chuyện để nói, mà còn để hiểu rõ hơn những nhân vật huyền thoại sống này, vốn là người cùng thời với tôi.

Tuy nhiên tôi không đến nhà của những thợ cả trang trí đó ngay. Tôi gặp Esther gần khu cu trú Do Thái tại một khu chợ mới nhìn xuống ngã ba sông Halic và eo Bosphorus. Esther đang rất bồn chồn trong bộ đồ màu hồng mà chị buộc phải mặc do chị là một người Do Thái, với thân hình to lớn đầy sinh lực của mình, miệng chị ta không ngớt động đậy, và chân mày cùng đôi mắt chị liên tục nháy nhó ra hiệu cho tôi; thực ra đấy là cung cách của chị ta lúc ở giữa những phụ nữ nô lệ đi mua sắm, những phụ nữ mặc áo trùm thùng thình của những khu nghèo khổ, giữa những đám đông đang chăm chú vào đống cà rốt, mộc qua, những bó hành và củ cải. Chị ta nhét lá thư tôi đưa cho vào quần với một động tác thành thạo và bí ẩn, như thể cả chợ này đang theo dõi chúng tôi.

Chị nói với tôi rằng Shekure đang nghĩ đến tôi. Chị nhận tiền công và khi tôi nói, “Làm ơn đưa nó gấp giùm,” thì chị ta cho thấy rằng chị ta còn hàng đống việc phải làm bằng cách phác một cử chỉ về phía mớ đồ của chị và nói chị chỉ có thể giao lá thư cho Shekure trước buổi trưa. Tôi yêu cầu chị nói với Shekure rằng tôi sẽ đến thăm ba nhà tiểu họa trẻ tuổi và nổi tiếng nọ.

CHƯƠNG 12
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ “KELEBEK”

Lệnh cầu kinh buổi trưa chưa được gióng lên. Một tiếng gõ cửa, tôi mở và nhận ra Siyah Kính mến, người ở cùng chúng tôi một thời gian trong thời làm thợ học việc. Chúng tôi ôm và hôn lên má nhau. Tôi tự hỏi có phải anh đã mang theo chỉ thị từ Enishte của anh ta không, khi anh ta nói rằng anh ta muốn xem những trang tôi đang minh họa và những bức tranh của tôi, rằng anh ta đến thăm trong tình bạn, và sẽ hỏi tôi một câu hỏi nhân danh Đức vua.

“Rất tốt,” tôi nói, “tôi sẽ trả lời câu hỏi gì đây?”

Anh ta nói với tôi. Rất tốt, nào!

Phong cách và Chữ ký

“Chừng nào mà những họa sĩ bất tài còn bị thúc đẩy bởi tiền bạc và danh vọng thay vì niềm vui của việc nhìn ngắm và niềm tin vào những thăng tiến trong tay nghề của họ,” tôi nói, thì chúng ta sẽ còn tiếp tục chứng kiến thêm nhiều sự tầm thường và thói hám danh tương tự như nỗi ám ảnh về ‘phong cách’ và ‘chữ ký’ này.” Tôi đưa ra câu mào đầu này bởi đây là cung cách phải làm, chứ không phải vì tôi tin vào những gì mình nói. Năng lực và tài năng thực sự không thể bị phá hỏng bởi lòng hám vàng hay danh vọng. Hơn nữa nếu nói ra sự thực, thì tiền bạc và danh vọng là những ưu quyền không thể chuyển nhượng được của người có tài, như trong trường hợp của tôi, và nó chỉ thôi thúc chúng ta lập được những kỳ tích lớn lao hơn. Nhưng nếu tôi công khai nói ra điều này thì những nhà minh họa hạng xoàng trong ban tiểu họa sẽ điên lên vì đố kỵ mà nhảy xổ vào tôi, vì vậy, để chứng minh rằng tôi yêu công việc này hơn họ nhiều, tôi sẽ vẽ bức tranh tả một cái cây trên một hạt lúa. Tôi hiểu rõ rằng sự ham muốn ‘phong cách.’ ‘chữ ký’ và ‘tính cách’ này đã đến với chúng ta từ mãi tận phương Đông qua các bậc thầy Trung Hoa không may nào đó vốn bị chệch hướng do ảnh hưởng của người Âu, bởi những bức tranh mà các tu sĩ dòng Tên mang đến từ phương Tây. Tuy nhiên, hãy để tôi kể anh nghe ba dụ ngôn tạo thành một thuyết trình về chủ đề này.”

Ba dụ ngôn về Phong cách và Chữ ký

ALIF

Ngày xưa, ở phía Bắc Herat, trong một lâu đài trên núi cao, có một Đại Hãn trẻ sống, anh ta rất say mê trang trí và hội họa. Vị Hãn này chỉ yêu duy nhất một nàng trong hậu cung của mình, và người phụ nữ Tatar hấp dẫn này, kẻ mà anh yêu điên cuồng, nàng cũng yêu anh. Họ làm tình liên tục sáng đêm, và sống trong trạng thái đắm đuối như thế đến độ mong ước của họ là được sống như thế mãi mãi. Họ nhanh chóng khám phá rằng cách hay nhất để biến mong ước của họ thành hiện thực là giở các cuốn sách ra và nhìn chăm chú, trong nhiều giờ và nhiều ngày liên tục, vào những bức tranh hoàn mỹ đến độ sững sờ của các lão họa sư.

Khi nhìn những bức vẽ hoàn hảo này, được sao lại một cách hoàn mỹ, họ cảm thấy như thể thời gian sẽ ngừng trôi và hạnh phúc của riêng họ sẽ hòa cùng niềm vui lớn của thời đại vàng son lộ ra trong các câu chuyện. Trong xưởng làm sách hoàng gia có một nhà tiểu hoạ, bậc thầy của những bậc thầy, người vẽ đi vẽ lại những bức tranh hoàn mỹ cho những trang giống nhau của những cuốn sách giống nhau. Theo thói quen, bậc thầy này đã miêu tả nỗi thống khổ trong tình yêu của Ferhad dành cho Shirin, hoặc những cái nhìn yêu thương và khao khát giữa Leyla và Mejnun, hoặc cái nhìn đầy tình ý, đa nghĩa mà Husrev và Shirin trao nhau trong khu vườn nhà trời huyền thoại đó - tuy nhiên với một thay đổi nhỏ: Thay vì những cặp tình nhân huyền thoại này, người nghệ sĩ sẽ vẽ vị Hãn và mỹ nhân Tatar của anh ta. Nhìn những trang này, vị Hãn và người yêu của anh vững tin rằng hạnh phúc của họ sẽ không bao giờ kết thúc, và họ ban phát cho nhà tiểu họa tài ba này rất nhiều vàng cùng lời khen ngợi. Tuy nhiên cuối cùng sự tâng bốc này đã khiến nhà tiểu họa trở nên lầm lạc; bị Quỷ sứ xúi giục, ông ta không cho rằng nhờ những bậc thầy già mà tranh ông mới đạt được sự hoàn hảo, mà ngạo mạn cho rằng chỉ một chút chấm phá thiên tài của ông ta là đủ cho tác phẩm của ông thậm chí còn hấp dẫn hơn. Vị Hãn và người yêu của anh ta xem những cách tân này - những chấm phá mang phong cách cá nhân của nhà tiểu họa bậc thầy - chỉ là những khuyết điểm, và chúng khiến họ bối rối sâu xa. Trong những bức tranh này, mà vị Hãn đã xem xét hết sức kỹ lưỡng, anh cảm thấy rằng hạnh phúc trước đây của mình đã bị phá vỡ theo nhiều cách khác nhau, và anh ngày càng ghen tỵ với giai nhân Tatar xinh đẹp của mình, người được nhà họa sĩ vẽ theo bút pháp riêng của ông ta. Vì vậy, với ý định làm cho nàng Tatar xinh đẹp ghen tuông, anh đã làm tình với một hầu khiếp khác. Người vợ yêu của anh quá buồn khổ khi biết được sự phản bội này qua những lời đồn đãi trong hậu cung đến độ nàng lặng lẽ treo cổ trên một cành cây tuyết tùng trong sân hậu cung. Vị Hãn, khi hiểu ra sai lầm mình phạm phải, và nhận ra rằng sự mê đắm phong cách của nhà tiểu họa chính là nguồn cội của biến cố khủng khiếp này, bèn chọc mù mắt tay nghệ sĩ bậc thầy đã bị Quỷ sứ xúi giục.

BA

Ngày xưa ở một quốc gia phương Đông có một vị vua già, một người yêu tranh minh họa, việc tô điểm sách và các bức tiểu họa, ông sống hạnh phúc với bà vợ Trung Hoa đẹp lộng lẫy. Than ôi, lại xảy ra chuyện là đứa con trai tuấn tú của Quốc vương với người vợ trước và bà vợ trẻ hiện nay của ông phải lòng nhau.

Người con, kinh hoàng vì nỗi mình đã phản bội cha, và hổ thẹn trước tình yêu tội lỗi của mình, liền tự giam mình trong xưởng làm sách, đắm mình vào hội họa. Do chàng vẽ vì nỗi buồn và sức mạnh của tình yêu, nên mỗi bức tranh của chàng đều gây ấn tượng đến độ người chiêm ngưỡng không thể phân biệt chúng với tác phẩm của những bậc thầy lão thành. Đức vua rất tự hào về con trai mình, và bà vợ trẻ Trung Hoa còn nói, “Phải, thật ấn tượng!” khi nhìn các bức tranh. “Nhưng thời gian rồi sẽ qua đi, và nếu chàng ta không ký tên vào tác phẩm của mình, sẽ không ai biết rằng chàng ta là người làm ra kiệt tác này.” Đức vua đáp, “Nếu con trai ta ký vào các bức tranh của nó thì liệu có công bằng không khi nó nhận những lời khen dành cho kỹ thuật và phong cách của những bậc thầy lão thành mà nó đã bắt chước? Hơn nữa, nếu nó ký vào tác phẩm của nó, thì chẳng phải nó muốn nói rằng ‘Tranh của tôi mang những khuyết điểm của tôi’ sao?” Bà vợ Trung Hoa, tuy hiểu rằng mình không thể thuyết phục được ông chồng già về vấn đề chữ ký, cuối cùng đã thành công trong việc thuyết phục con trai ông ta, vốn luôn giam mình trong xưởng làm sách như mọi khi. Hổ thẹn vì phải thổ lộ tình yêu, bị thuyết phục bởi những ý tưởng của người mẹ kế xinh đẹp và với sự thúc giục của Quỷ sứ, người con đã ký tên mình vào một góc bức tranh, giữa bức tường và cỏ. Ở một điểm mà chàng cho là khó nhận ra. Bức tranh đầu tiên chàng ký vẽ một cảnh trong Husrev o Shirin. Các vị biết chuyện đó mà: Sau khi Husrev và Shirin cưới nhau, Shiruye, con trai của Husrev với người vợ trước, đã yêu Shirin. Một đêm, lẻn vào phòng ngủ của họ qua cửa sổ, Shiruye nhanh nhẹn đâm dao găm vào ngực cha hắn. Khi Đức vua thấy bức tranh con trai ông vẽ cảnh này, ông bị choáng với cảm giác rằng bức tranh là hiện thân của một khuyết điểm nào đó; ông đã nhìn thấy chữ ký, nhưng không hoàn toàn ý thức về điều đó, và đơn giản là ông phản ứng với bức tranh với ý nghĩ rằng. “Bức tranh này có một khuyết điểm.” Và bởi người ta không bao giờ gặp bất cứ điều gì như thế ở những bậc thầy lão thành, nên Đức vua đột nhiên thấy kinh hoàng, nghi ngờ rằng tập sách mà ông đang đọc không kể lại một câu chuyện hay một truyền thuyết mà là những gì tuyệt đối không thích hợp với một cuốn sách: nó nói về chính thực tại. Khi ông vua già ý thức được điều này, ông choáng váng vì kinh hoàng. Đứa con họa sĩ của ông đã vào phòng qua cửa sổ, như trong bức tranh, và không nhìn đến lần thứ hai vào đôi mắt trợn trừng của người cha, anh ta lẹ làng cắm con dao găm - lớn như con dao trong bức vẽ - vào ngực cha mình.

DJIM

Trong cuốn Jami al-Tawarikh ([24]) của mình, Rashiduddin xứ Kazvin đã phấn khởi viết rằng cách nay 250 năm ở Kazvin, việc tô điểm bản thảo, thư pháp và minh họa là những bộ môn nghệ thuật được quý trọng và yêu thích nhất. Vị vua đang trị vì ở Kazvin lúc đó cai trị trên bốn mươi quốc gia từ Byzantium đến Trung Hoa - có lẽ tình yêu đối với nghệ thuật làm sách là điều bí mật của cường quốc vĩ đại này - nhưng than ôi, ông không có con trai kế vị. Để ngăn không cho lãnh thổ ông chinh phục được bị chia cắt sau khi ông chết, nhà vua quyết định tìm cho cô con gái xinh đẹp của ông một người chồng là nhà tiểu họa thông minh, và do mục đích này, ông đã sắp xếp một cuộc tranh tài giữa ba thợ cả trẻ tuổi xuất sắc trong xưởng làm việc của ông, tất cả đều còn độc thân. Theo Jami al-Tawarikh của Rashiduddin, đề tài của cuộc thi này thật đơn giản: Bất cứ ai làm ra bức tranh gây ấn tượng nhất sẽ là người chiến thắng! Giống như chính Rashiduddin, các nhà tiểu họa trẻ biết rằng điều này có nghĩa là phải vẽ tranh theo phong cách của các bậc thầy xưa, vì vậy cả ba vẽ lại một cảnh được nhiều người ưa thích nhất: Trong một khu vườn gợi lại Vườn địa đàng, một thiếu nữ trẻ đẹp đứng giữa những cây bách và tuyết tùng, giữa lũ thỏ nhút nhát và bọn chim én nhộn nhạo, chìm đắm trong nỗi sầu tình phụ, chăm chăm nhìn xuống đất. Hoàn toàn vô tình, ba chàng tiểu họa đã vẽ lại chính xác cùng một cảnh đó như những bậc thầy xưa đã vẽ nhưng một người, vì muốn khẳng định mình và do đó chịu trách nhiệm về vẻ đẹp của bức tranh, đã giấu chữ ký của anh ta giữa những đóa hoa thủy tiên trong một điểm khuất nhất của khu vườn. Và vì hành động táo tợn này, chứng tỏ người nghệ sĩ đã từ bỏ tính khiêm tốn của những bậc thầy xưa, anh ta lập tức bị đày khỏi Kazvin đến Trung Hoa. Do đó cuộc thi phải tiến hành lần nữa với hai nhà tiểu họa còn lại. Lần này cả hai vẽ một bức tranh đáng yêu như một bài thơ, mô tả một thiếu nữ xinh đẹp cưỡi trên lưng ngựa trong một khu vườn tuyệt mỹ. Nhưng một trong hai nhà tiểu họa này - do một nét cọ sơ xuất hoặc cố ý, không ai biết đã miêu tả kỳ cục lỗ mũi con bạch mã của cô gái có đôi mắt Trung Hoa và xương gò má cao, và điều này bị nhà vua và con gái của ngài cho là một khuyết điểm. Sự thực thì nhà tiểu họa này không ký tên anh ta, nhưng trong bức tranh tuyệt đẹp của mình rõ ràng anh ta đã làm một thay đổi khéo léo ở cái mũi con ngựa để làm nổi bật tác phẩm. Vị vua, vốn từng tuyên bố “Khuyết điểm là mẹ đẻ của phong cách,” đã lưu đày chàng tiểu họa này đến Byzantium. Nhưng theo tác phẩm của Rashiduddin, còn có một sự kiện quan trọng cuối cùng xảy ra khi người ta đang chuẩn bị mọi việc cho lễ cưới giữa công chúa với chàng tiểu họa tài năng, người đã vẽ hoàn toàn giống những bậc thầy xưa mà không hề có chữ ký hay sự thay đổi nào: Trọn cả ngày trước lễ cưới, con gái nhà vua rầu rĩ ngắm bức tranh của chàng tiểu họa trẻ tuổi tài hoa người sẽ trở thành chồng nàng ngày mai. Khi màn đêm buông xuống, nàng đến gặp cha và nói: “Sự thực rằng những bậc thầy xưa trong những bức tranh hoàn mỹ của họ, thường vẽ những thiếu nữ xinh đẹp giống người Trung Hoa, và đây là một nguyên tắc bất biến đến với chúng ta từ phương Đông,” nàng nói. “Nhưng khi họ yêu ai đó, các họa sĩ sẽ đưa một điểm nào đấy của người mình yêu vào việc tái hiện cặp chân mày, mắt, môi, tóc, nụ cười hoặc thậm chí hàng mi của cô thiếu nữ xinh đẹp này. Sự thay đổi bí mật trong những bức tranh như vậy của họ sẽ là một dấu hiệu mà các tình nhân, và chỉ có những tình nhân, mới có thể nhìn ra. Con đã chăm chú nhìn cô gái cưỡi trên lưng ngựa này suốt cả ngày, thưa cha yêu quý, mà không thấy có dấu vết nào của con ở cô ta cả! Nhà tiểu họa này có lẽ là một bậc thầy vĩ đại, anh ta trẻ và tuấn tú, nhưng anh ta không yêu con.” Do đó nhà vua hủy bỏ hôn lễ ngay tức khắc, và người cha cùng cô con gái sống những ngày còn lại bên nhau suốt đời.

“Như vậy, theo dụ ngôn thứ ba, sự không hoàn hảo đẻ ra cái mà chúng ta gọi là ‘phong cách’,” Siyah nói một cách hết sức lễ phép và cung kính. “Và chuyện nhà tiểu họa đang yêu sẽ bị lộ rõ qua ‘chữ ký’ ẩn trong hình ảnh của khuôn mặt, con mắt hoặc nụ cười của người đẹp phải không?”

“Không,” tôi nói với một thái độ thể hiện niềm tin và lòng tự hào. “Những gì chuyển từ cô gái, tâm điểm tình yêu của nhà tiểu họa bậc thầy, vào bức tranh của anh ta cuối cùng không phải là sự thiếu hoàn hảo hay khuyết điểm mà là một quy tắc nghệ thuật mới. Bởi vì sau một thời gian và qua việc bắt chước, mọi người sẽ bắt đầu vẽ khuôn mặt của các cô gái giống như khuôn mặt xinh đẹp của cô gái đó”

Chúng tôi im lặng. Tôi thấy rằng Siyah, người đang chăm chú lắng nghe ba dụ ngôn tôi vừa kể, bây giờ tập trung chú ý vào âm thanh mà người vợ hấp dẫn của tôi gây ra khi nàng đi tới lui trong hành lang và căn phòng bên cạnh. Tôi nhìn anh ta đầy hăm dọa.

“Dụ ngôn thứ nhất xác định rằng ‘phong cách’ là sự không hoàn hảo,” tôi nói. “Chuyện thứ hai cho rằng một bức tranh hoàn hảo thì không cần chữ ký, và chuyện thứ ba kết hợp những ý tưởng của chuyện thứ nhất và chuyện thứ hai, vì thế chứng minh rằng ‘chữ ký, và ‘phong cách’ chỉ là trò tự khen ngợi một cách ngốc nghếch và trơ trẽn cho một tác phẩm có khuyết điểm.”

Con người này, kẻ mà tôi vừa cho một bài học vô giá, hiểu về hội họa được bao nhiêu? Tôi nói: “Anh có hiểu tôi là ai qua những câu chuyện của tôi không?”

“Chắc chắn,” anh ta nói, không chút tin tưởng.

Vì vậy các vị đừng cố đoán xem tôi là ai qua đôi mắt và những khái niệm của anh ta, hãy để tôi nói thẳng với các vị. Tôi có thể làm mọi thứ. Giống như những bậc thầy xưa ở Kazvin, tôi có thể vẽ và tô màu với niềm vui sướng hạnh phúc. Tôi nói điều này với một nụ cười: tôi giỏi hơn mọi người. Tôi hoàn toàn không liên quan gì đến lý do cho chuyến viếng thăm của Siyah, mà nó - nếu ngẫu nhiên trực giác của tôi mách đúng - chính là chuyện thợ mạ vàng Zarif Kính mến mất tích.

Siyah hỏi tôi về sự kết hợp giữa hôn nhân và nghệ thuật.

Tôi làm việc rất nhiều và thích thú với công việc của mình. Tôi vừa mới cưới một cô gái xinh đẹp nhất vùng. Những khi tôi không trang trí sách, chúng tôi làm tình như điên. Rồi tôi lại lao vào công việc. Nhưng tôi không trả lời như thế. “Đây là một vấn đề nghiêm túc,” tôi nói. “Nếu những kiệt tác phát sinh từ cây cọ của một nhà tiểu họa, thì đến khi phải vẽ vợ anh ta, anh ta sẽ lúng túng không biết làm sao khơi dậy niềm hứng thú đó”, tôi nói. “Sự thật cũng ngược lại: Nếu cây bút sậy của gã đàn ông làm hài lòng người vợ, thì cây bút sậy nghệ thuật của anh ta sẽ kém cỏi hơn nếu ta so sánh chúng với nhau”, tôi nói thêm. Giống như mọi người vốn ghen tỵ với tài năng của nhà tiểu họa, Siyah cũng vậy, đã tin vào những lời dối trá này và thấy phấn khởi.

Anh ta nói muốn xem những trang tôi vừa mới minh họa. Tôi mời anh ta ngồi ở bàn làm việc của tôi, giữa những thuốc màu, lọ mực, đá đánh bóng, cọ, bút mực và những tấm bìa cứng để cắt sậy. Siyah đang xem bức tranh tờ đôi mà tôi đang hoàn tất cho cuốn Sur-nama trong đó mô tả lễ cắt bì của Hoàng tử, và tôi ngồi cạnh anh ta trên chiếc nệm đỏ mà hơi ấm gợi tôi nhớ rằng người vợ xinh đẹp của tôi với cặp đùi tuyệt mỹ của nàng vừa mới ngồi đây; quả thực, tôi đã dùng cây bút sậy của tôi để vẽ nỗi buồn của những tù nhân khốn khổ trước mặt Đức vua, trong khi người vợ thông minh của tôi bấu chặt lấy cây bút sậy đàn ông của tôi.

Bức tranh rộng hai trang tôi đang vẽ mô tả việc giải thoát những con nợ bị kết án và cầm tù cùng gia đình họ nhờ ơn của Đức vua. Tội đặt Đức vua vào góc một tấm thảm trên đó chất đầy những chiếc túi đựng những đồng bạc. Đàng sau Ngài, tôi đặt vị Trưởng Ngân khố đang cầm sổ cái ghi nợ mà đọc to lên. Tôi vẽ những con nợ bị kết án, bị xích vào nhau bằng những cái cùm sắt quanh cổ, trong nỗi khốn khổ và đau đớn với những cái nhăn mày, những khuôn mặt dài thượt, một số còn có đôi mắt ngấn lệ. Tôi vẽ những ngươi chơi đàn luýt bằng màu đỏ với khuôn mặt vui sướng trong khi họ đệm nhạc cho những lời kinh nguyện và bài thơ vui tươi đi kèm với việc trao món quà nhân từ của Đức vua: tha cho người bị kết án khỏi bị ở tù. Để nhấn mạnh việc thoát khỏi cảnh đau đớn và buồn phiền của nợ nần - dù tôi không dự tính như thế từ lúc đầu - bên cạnh người cuối cùng trong đám tù nhân khốn khổ, tôi vẽ cả vợ anh ta mặc đồ màu tía, trông thảm hại bần cùng, cùng cô con gái tóc dài của anh ta, buồn rầu nhưng đẹp mặc áo choàng rộng màu đỏ thẫm. Để tay Siyah cứ nhíu mày này có thể hiểu việc minh họa ngang bằng với tình yêu cuộc sống như thế nào, tôi định giải thích tại sao nhóm những con nợ bị xích này được trải rộng suốt hai trang giấy; tôi định nói với anh ta cái luận lý ẩn tàng của màu đỏ trong tranh, tôi định giải thích những điều mà vợ tôi cùng tôi đã cười cợt bàn cãi trong khi ngắm nghía bức tranh này, chẳng hạn như cách tôi tô màu một cách thích thú - điều mà những bậc thầy xưa không bao giờ làm - cho con chó nằm nghỉ tuốt trong góc bằng đúng màu cái áo trùm bằng lụa atlas cua Đức vua, nhưng anh ta đã hỏi tôi một câu hỏi hết sức khiếm nhã và thô lỗ: Có thể nào tôi biết Zarif Kính mến bất hạnh ở đâu không?

Anh ta dùng từ “bất hạnh” là sao? Tôi không nói cho anh ta biết rằng Zarif Kính mến là một kẻ đạo văn tệ hại, một tên ngốc vốn làm công việc mạ vàng chỉ vì tiền, không hề có chút dấu vết nào của cảm hứng. “Không,” tôi nói, “tôi không biết.”

Có phải tôi đã từng nghĩ đến việc nhưng tín đồ hung hăng và cuồng tín của tay thuyết giáo xứ Erzurum có thể đã hãm hại Zarif Kính mến? Tôi vẫn giữ được bình tĩnh và cố kềm lại không trả lời rằng Zarif Kính mến rõ ràng là một kẻ trong bọn đó. “Không.” tôi nói. “Tại sao?”

Nghèo đói, dịch bệnh, tình trạng vô đạo đức và tai tiếng mà chúng ta đang gánh chịu trong thành phố Istanbul này chỉ có thể được quy kết cho việc chúng ta đang xa lìa đạo Hồi thời Mohammed, Thánh Tông đồ của Thượng đế, việc hấp thụ những Phong tục đồi bại mới và để những xúc cảm kiểu Tây vực, châu Âu nảy nở giữa chúng ta. Đó là tất cả những gì tay thuyết giáo xứ Erzurum đó nói, nhưng mặt khác những kẻ thù của ông ta cố gắng thuyết phục Đức vua theo hướng ngược lại bằng việc khẳng định rằng những người dân Erzurum đó đang tấn công những ngôi nhà của phái khổ tu nơi người ta chơi nhạc và họ đang làm bẩn mộ của nhũng vị thánh. Họ biết tôi không chia sẻ lòng hận thù của họ đối với Đức ngài Erzurum, vì vậy họ nói những lời bóng gió lịch sự: “Anh có phải là kẻ đã chăm sóc người anh em Zarif Kính mến của chúng ta không?”

Bất chợt tôi hiểu ra rằng những lời đồn đại này từ lâu đã lan truyền trong giới tiểu họa. Rằng nhóm những kẻ bất tài thiếu năng lực, không cảm hứng đang khoái trá quy kết rằng tôi chẳng là gì ngoài một tên giết người man rợ. Tôi cảm thấy muốn trút một lọ mực vào sọ của tên Siyah lố bịch này chỉ vì hắn đã thực lòng tin vào lời vu khống của nhóm tiểu họa đố kỵ này.

Siyah đang xem xét xưởng làm việc của tôi, lưu giữ mọi thứ anh ta thấy vào ký ức. Anh ta quan sát kỹ chiếc kéo dài cắt giấy của tôi, những chiếc chén gốm đựng đầy sơn vàng, những chén thuốc màu, quả táo thỉnh thoảng tôi nhấm nháp khi làm việc, bình cà phê nằm trên bếp lò phía sau, những tách cà phê nhỏ xíu của tôi, những tấm nệm, ánh sáng lọt vào qua cửa sổ khép hờ, chiếc gương tôi dùng để kiểm tra bố cục trang, những chiếc áo ngắn của tôi và, đàng kia, chiếc khăn quàng đỏ của vợ tôi vướng lại trong góc như một tội lỗi do nàng làm rơi khi lẹ làng rời khỏi phòng vì nghe tiếng gõ cửa của Siyah.

Cho dù tôi có che đậy những ý nghĩ của mình không cho anh ta biết, nhưng tôi lại bày những bức tranh tôi đã vẽ và căn phòng tôi đang sống ra trước cái nhìn dò xét và soi mói của anh ta. Tôi có cảm giác rằng sự kiêu ngạo này của tôi sẽ là một cú sốc đối với tất cả các vị nhưng tôi là người kiếm được nhiều tiền nhất, và vì thế tôi là kẻ giỏi nhất trong đám tiểu họa! Phải, Thượng đế hẳn đã muốn nghệ thuật tô điểm trở nên mê ly để Người có thể chứng minh rằng bản thân thế giới này mê ly như thế nào đối với những ai thực sự thấy được nó.

CHƯƠNG 13
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ “LEYLEK”

Khoảng gần buổi cầu kinh trưa tôi nghe có tiếng gõ cửa. Đó là Siyah, người bạn từ thuở thiếu thời. Chúng tôi ôm nhau. Anh ta lạnh run và tôi mời anh ta vào nhà. Thậm chí tôi không hỏi làm thế nào anh ta biết đường đến nhà tôi. Enishte của anh ta hẳn đã phái anh ta đến đây để hỏi về sự vắng mặt của Zarif Kính mến và tung tích của anh ta. Không chỉ có thế, anh ta còn mang lời từ Thầy Osman. “Cho phép tôi hỏi anh một câu,” anh ta nói. “Theo Thầy Osman, ‘thời gian’ tách một nhà tiểu họa thực sự khỏi những nhà tiểu họa khác: Thời gian của việc minh họa.” Ý nghĩ của tôi ra sao? Hãy lắng nghe kỹ.

Hội họa và Thời gian

Đã lâu lắm rồi, như mọi người đều biết, những nhà minh họa trong vương quốc Hồi giáo chúng ta, bao gồm những bậc thầy Ả Rập xưa chẳng hạn, do quan niệm thế giới theo kiểu của bọn ngoại đạo Tây vực ngày nay, thường nhìn mọi vật và vẽ nó từ cấp độ của một kẻ lang thang, tên đần độn hay một nhân viên bán hàng đang đứng ở quầy. Không biết về những kỹ thuật phối cảnh ngày nay, vốn là thứ mà các bậc thầy Tây vực vênh váo khoe khoang, thế giới của họ vẫn mù mờ và bị giới hạn, hạn chế trong luật phối cảnh đơn giản của kẻ đần độn hoặc tay nhân viên bán hàng. Sau đó một sự kiện lớn đã diễn ra và toàn bộ thế giới minh họa của chúng tôi đã thay đổi. Xin cho tôi bắt đầu từ đây.

Ba câu chuyện về Hội họa và Thời gian

ALIF

Cách nay ba trăm năm mươi năm, khi Baghdad rơi vào tay người Mông Cổ và bị cướp phá tàn nhẫn trong một ngày lạnh giá thuộc tháng Safar, Ibn Shakir là nhà thư pháp và sao chép nổi tiếng nhất và tài ba nhất không chỉ ở thế giới Ả Rập mà còn ở cả thế giới Hồi giáo; dù còn trẻ, ông đã chép tay hai mươi hai tập, hầu hết là kinh Koran và có thể được tìm thấy trong các thư viện nổi tiếng thế giới ở Baghdad. Ibn Shakir tin những cuốn sách này sẽ còn mãi đến tận thế, và vì vậy, ông chấp nhận khái niệm thời gian bất tận và sâu thẳm. Ông lao động cật lực suốt đêm dưới ánh nến để làm cuốn cuối cùng trong số những cuốn sách huyền thoại đó, mà ngày nay chúng ta không được biết đến bởi, chỉ trong vài ngày, từng cuốn một đã bị binh lính của Đại hãn Mông Cổ Hulagu xé tan, cắt vụn, đốt rồi ném xuống sông Tigris. Cũng như những bậc thầy thư pháp Ả Rập, trung thành với khái niệm về sự vĩnh cửu của truyền thống và những cuốn sách, trong bốn thế kỷ đã có thói quen cho mắt họ nghỉ ngơi như một cách phòng ngừa chứng mù bằng cách quay lưng về phía mặt trời mọc và nhìn về hướng chân trời tây, Ibn Shakir leo lên ngọn tháp của Thánh đường Caliphet trong cái lạnh buổi sáng, và từ bao lơn nơi thầy tu báo giờ gọi người ngoan đạo cầu nguyện, đã chứng kiến tất cả những gì sẽ kết thúc một truyền thống nghệ thuật sao chép kéo dài năm thế kỷ. Đầu tiên, ông chứng kiến những binh lính tàn bạo của Hulagu tiến vào Baghdad, và ông vẫn còn ở đó trên đỉnh ngọn tháp. Ông nhìn thấy chúng cướp bóc và tàn phá khắp cả thành phố, tàn sát hàng trăm ngàn người, giết chết vị cuối cùng trong các trưởng giáo của đạo Hồi vốn đã cai trị Baghdad trong nửa thiên niên kỷ, hãm hiếp phụ nữ, đốt các thư viện và hủy hoại hàng chục ngàn cuốn sách bằng cách ném xuống sông Tigris. Hai ngày sau, giữa mùi hôi thối của xác chết và tiếng kêu khóc trước cái chết, ông nhìn thấy dòng Tigris đang chảy đã biến sang màu đỏ do mực từ những cuốn sách tan ra, và ông nghĩ, làm sao mà những cuốn sách ông đã sao chép bằng chữ viết tuyệt đẹp, những cuốn sách giờ đây đã biến mất, lại không góp được chút công sức gì để ngăn chặn vụ tàn sát và hủy diệt này, và thế là ông thề không bao giờ viết lại nữa. Hơn nữa, ông nảy sinh khao khát muốn diễn tả nỗi đau của mình và thảm họa mà ông đã chứng kiến qua hội họa, thứ nghệ thuật mà cho mãi đến ngày đó ông vẫn coi thường và cho là sự lăng mạ đấng Allah; và như thế, với mớ giấy luôn mang theo bên mình, ông vẽ lại những gì đã thấy từ đỉnh tháp. Sự hồi sinh thần diệu suốt ba trăm năm trong nghệ thuật minh họa Hồi giáo sau cuộc xâm lược của Mông Cổ có được là nhờ yếu tố đó, cái đã phân biệt nó với nghệ thuật của những kẻ ngoại giáo và dân Thiên chúa giáo; nghĩa là, nhờ việc mô tả thế giới đầy khốn khổ từ vị trí trên cao như của Thượng đế, đạt được bằng cách chẳng vẽ gì ngoài một đường chân trời. Chúng ta có được sự hồi sinh này nhờ đường chân trời, và cũng nhờ việc lớn Shakir đi về phương bắc sau khi ông chứng kiến vụ tàn sát - theo hướng mà các đạo quân Mông Cổ từ đó đến - mang theo bên mình những bức tranh của ông và tham vọng minh họa trong tim; tóm lại, chúng ta mang nợ rất nhiều việc ông tìm hiểu kỹ thuật vẽ tranh của các bậc thầy Trung Hoa. Vì vậy, rõ ràng khái niệm thời gian vô tận vốn nằm trong tim những người sao chép và thư pháp Ả Rập suốt năm trăm năm rốt cuộc thể hiện không phải trong chữ viết mà trong hội họa. Chứng cứ về điều này nằm trong sự kiện rằng những tranh minh họa trong các bản thảo và tập sách vốn bị xé vụn và biến mất đã chuyển vào những cuốn sách khác và những tập khác để tồn tại mãi mãi trong vai trò hé lộ cõi trần thế của đấng Allah.

BA

Ngày xưa, không quá lâu mà cũng không gần đây lắm, mọi thứ đều bắt chước những thứ khác, vì thế, nếu không vì tuổi già và cái chết, con người sẽ không bao giờ hiểu biết gì hơn về hành trình của thời gian. Phải, khi cõi trần thế được trình bày lặp đi lặp lại qua cùng những câu chuyện và những bức tranh, như thể thời gian không hề trôi, đội quân nhỏ bé của Fahir Shah đánh tan binh lính của Đại hãn Selahattin - như cuốn Tarih ([25]) súc tích của Salim xứ Samarkand chứng thực. Sau khi Fahir Shah cả thắng bắt giữ được Đại hãn Selahattin và tra tấn ông này đến chết, nhiệm vụ đầu tiên để khẳng định chủ quyền của ông ta, theo phong tục, là viếng thăm thư viện và hậu cung của vị Đại hãn chiến bại. Trong thư viện, người đóng sách dày kinh nghiệm của Selahattin quá cố đã tách rời những cuốn sách của vị vua này và sắp xếp lại các trang, bắt đầu soạn thành những cuốn sách mới. Những nhà thư pháp của ông đã thay thế nhóm từ “Đại hãn Selahattin bách thắng” thành “Fahir Shah đại thắng”, và những nhà tiểu họa của ông bắt đầu thay thế hình ảnh Selahattin quá cố - được vẽ một cách tuyệt mỹ trên những trang bản thảo đẹp nhất - nhân vật mà vào giây phút đó đã bắt đầu phai mờ trong ký ức người dân, bằng chân dung của Fahir Shah trẻ tuổi hơn. Khi vào hậu cung, Fahir Shah không khó khăn gì trong việc xác định người phụ nữ đẹp nhất trong đó, nhưng bởi ông là con người tao nhã am hiểu sách vở và nghệ thuật cho nên thay vì buộc nàng ưng thuận ông thì ông trò chuyện với nàng với quyết tâm chiếm được trái tim nàng. Do đó, Neriman Sultan, hoa khôi trong những mỹ nữ của Selahattin quá cố, người vợ có đôi mắt long lanh của ông ta, chẳng nói gì ngoài một yêu cầu đối với Fahir Shah: rằng bức tranh minh họa chồng nàng trong một phiên bản của chuyện tình lãng mạn Leyla o Mejnun, trong đó Leyla được vẽ thành Neriman Sultan và Mejnun là Selahattin, không bị thay đổi. Nàng muốn rằng  ít nhất trong trang này, sự bất tử mà chồng nàng đã cố đạt được suốt bao năm tháng qua những cuốn sách sẽ không bị phủ nhận. Fahir Shah đại thắng cao thượng chấp nhận yêu cầu đơn giản này, và những thợ cả làm sách của ông để lại riêng một trang đó. Thế là Fahir và Neriman làm tình ngay sau đó và trong một thời gian ngắn đã quên sạch những kinh hoàng của quá khứ, rồi dần dần thật lòng yêu nhau. Nhưng Fahir Shah vẫn không quên bức tranh đó trong Leyla o Mejnun. Không, không phải sự ghen tuông hay việc vợ ông được vẽ chân dung cùng người chồng cũ của nàng làm ông khó chịu. Điều giày vò ông là: Vì ông không được vẽ trong truyền thuyết cổ trong cuốn sách tráng lệ đó, ông sẽ không thể gia nhập hàng ngũ những người bất tử cùng vợ ông.

Nỗi nghi ngờ này như con sâu gặm nhấm ông trong suốt năm năm, và vào lúc tàn một đêm làm tình lên đến cực điểm hạnh phúc với Neriman, giá nến trên tay, ông bước vào thư viện như một tên trộm tầm thường, mở cuốn Leyla o Mejnun ra, và ngay chỗ khuôn mặt người chồng quá cố của Neriman, ông vẽ khuôn mặt của chính ông. Tuy nhiên, cũng như nhiều vị vua yêu việc minh họa và vẽ tranh, ông là một họa sĩ nghiệp dư nên không thể vẽ mình thật chính xác. Đến sáng, khi người thủ thư của ông mở cuốn sách vì nghi có người sửa bậy trong đó và nhìn thấy một nhân vật khác thế chỗ Selahattin quá cố bên cạnh Leyla mang khuôn mặt Neriman, thì thay vì nhận ra đó là Fahir Shah, ông ta lại khẳng định đó là Abdullah Shah trẻ tuổi đẹp trai, kẻ đại thù của Fahir Shah. Chuyện mách lẻo này đã khiêu khích binh lính của Fahir Shah và khích lệ Abdullah Shah, vị tân vương hung hăng và trẻ tuổi của nước láng giềng, vị tân vương này cuối cùng ngay trong chiến dịch đầu tiên đã đánh bại, bắt giữ và giết chết Fahir Shah, rồi thiết lập chủ quyền của mình đối với thư viện và hậu cung của kẻ thù và trở thành chồng mới của Neriman Sultan xinh đẹp tuyệt trần.

DJIM

Các nhà tiểu họa Istanbul đã kể lại truyền thuyết về Uzyn Mehmet - còn gọi là Muhammad Khorasani ở Ba Tư - chủ yếu như một ví dụ về cuộc sống thọ và chứng mù lòa. Tuy nhiên truyền thuyết về Uzyn Mehmet lại là một dụ ngôn về hội họa và thời gian. Điểm nổi bật chủ yếu của bậc thầy này, người vốn bắt đầu học nghề từ năm lên chín, đã minh họa trong khoảng trên dưới 110 năm mà không bị mù, là ở chỗ ông không có điểm nổi bật nào cả. Ở đây tôi không hề đùa cợt, mà thể hiện lòng ngưỡng mộ chân thành của tôi. Uzyn Mehmet vẽ mọi thứ, như mọi người khác đã vẽ, theo phong cách của những bậc thầy vĩ đại thời xưa thậm chí còn hơn thế nữa, và bởi vì lý do này, ông là bậc thầy vĩ đại nhất trong mọi người thầy, sự khiêm cung và lòng tận tụy với nghề minh họa và hội họa của ông, mà ông cho rằng để phục vụ Allah, đã đặt ông ra ngoài cả những vụ tranh chấp trong các xưởng làm sách nghệ thuật nơi ông làm việc lẫn tham vọng trở thành nhà tiểu họa đầu đàn, dù ông có tuổi tác và tài năng thích hợp. Trong vai trò nhà tiểu họa, suốt 110 năm ông đã kiên nhẫn vẽ lại mọi chi tiết tầm thường: cỏ được vẽ để lấp đầy các mép trang, hàng ngàn chiếc lá, những đám mây vân vi, bờm ngựa bằng những nét cọ ngắn lặp đi lặp lại. những bức tường gạch, phần trang trí tường vô tận và hàng chục ngàn khuôn mặt có chiếc cằm thanh tú và đôi mắt xếch mà mỗi khuôn mặt là sự mô phỏng lẫn nhau. Uzyn Mehmet hoàn toàn toại nguyện và khép kín, không bao giờ dám tự làm mình nổi bật hay khăng khăng về phong cách hoặc cá tính. Ông xem họa xưởng của mọi ông hoàng hay vị vua nơi ông đến làm việc như nhà của ông và xem bản thân mình chỉ là một món trong ngôi nhà đó. Khi các vua chúa giết hại lẫn nhau và những nhà tiểu họa chạy từ thành phố này đến thành phố khác như những phụ nữ trong hậu cung để tập hợp dưới sự che chở của những ông chủ mới, phong cách của xưởng làm sách nghệ thuật mới trước tiên sẽ được xác định trong những chiếc lá mà Uzyn Mehmet đã vẽ, trong cỏ của ông, trong đường nét uốn lượn của những tảng đá, và trong những đường nét ẩn giấu của sự nhẫn nại của ông. Khi ông tám mươi tuổi, người ta quên rằng ông là người phàm mà bắt đầu tin rằng ông sống trong những truyền thuyết mà ông đã minh họa. Có lẽ vì lý do này một số người vẫn cho rằng ông tồn tại ngoài thời gian và sẽ không bao giờ già hoặc chết. Có những người cho rằng việc ông không bị mù - cho dù ông không có nhà cửa riêng, ngủ trong những căn phòng hay túp lều dùng làm xưởng cho nhà tiểu họa và dành gần hết thời gian để nhìn vào những trang bản thảo - là nhờ phép thần diệu của thời gian đã ngưng trôi đối với ông. Một số người khẳng định rằng ông đã mù, không cần phải nhìn nữa vì ông vẽ theo ký ức. Ở tuổi 19, bậc thầy huyền thoại này, vốn không lập gia đình và thậm chí chưa từng làm tình, đã gặp được mẫu lý tưởng bằng xương bằng thịt về một cậu bé đẹp trai mắt xếch, cằm nhọn và khuôn mặt như trăng mà ông đã vẽ trong suốt một thế kỷ: một thợ học việc mười sáu tuổi người Hoa lai Croatia trong xưởng tiểu họa của vua Tahmasp, và ông yêu cậu ta. Để dụ dỗ cậu bé học việc hết sức đẹp trai này, như một người tình thực sự vẫn làm, ông lên kế hoạch và tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực giữa các nhà tiểu họa; ông thả mình theo những trò nói dối, lừa gạt và bịp bợm. Thoạt tiên, nhà tiểu họa bậc thầy của Khorasan này thấy sung sức lên bởi nỗ lực để đuổi kịp những thời trang nghệ thuật mà ông đã né tránh được suốt trăm năm qua, nhưng nỗ lực này cũng tách ông ra khỏi những ngày tháng huyền thoại bất diệt xưa kia. Một buổi chiều tà nọ, khi đang mơ màng nhìn chàng trai học việc xinh đẹp trước một ô cửa sổ mở, ông nhiễm lạnh do cơn gió rét ở Tabriz. Ngày hôm sau, trong một chuỗi hắt hơi liên tục, ông bị mù hoàn toàn. Hai ngày sau, ông té xuống cầu thang đá của xưởng làm việc mà chết.

“Tôi có nghe tên của Uzyn Mahmet xứ Khorasan, nhưng tôi chưa hề nghe truyền thuyết này,” Siyah nói.

Anh ta tế nhị đưa ra lời nhận xét của mình chứng tỏ rằng anh ta biết câu chuyện đã kết thúc và tâm trí anh ta đang nghĩ về những điều tôi vừa kể. Tôi im lặng một hồi vì vậy anh ta có thể nhìn tôi tùy thích. Vì tôi thường khó chịu khi hai tay ở không, nên ngay khi bắt đầu câu chuyện thứ hai tôi bắt đầu vẽ lại, tiếp tục ngay chỗ tôi bỏ dở khi Siyah gõ cửa. Người thợ học việc Mahmut dễ thương của tôi, luôn ngồi dưới chân tôi và pha thuốc vẽ cho tôi, chuốt nhọn cây bút sậy cho tôi và đôi khi xóa đi những sai sót của tôi, giờ lặng lẽ ngồi cạnh tôi, lắng nghe và chăm chú nhìn; chúng tôi có thể nghe rõ tiếng vợ tôi di chuyển trong nhà.

“Aaaha.” Siyah nói, “Đức vua hiện ra.”

Anh ta nhìn bức tranh với vẻ kính cẩn, và tôi ra vẻ như lý do cho sự kính cẩn của anh ta chẳng có gì quan trọng, những hãy để tôi nói thật với các vị: Trong toàn bộ hai trăm bức tranh về lễ cắt bì trong cuốn Sur-nama, Đức vua được vẽ đang ngồi và từ cửa sổ của khu vực hoàng gia được xây dựng cho những dịp lễ, Ngài đã nhìn theo trong suốt năm mươi hai ngày cuộc diễn hành của các thương nhân, các phường hội, khán giả, binh lính và các tù nhân. Chỉ trong một bức tranh của tôi Ngài được vẽ đứng, ném những đồng florin từ trong những chiếc túi da dày cho đám đông trên quảng trường. Mục đích của tôi là ghi lại vẻ ngạc nhiên và kích động của đám đông đang đấm, đá, vật lộn nhau trong khi tranh giành mò lượm tiền dưới đất, mông chổng tít lên trời.

“Nếu tình yêu là một phần đề tài của hội họa, thì tác phẩm phải được thể hiện với tình yêu,” tôi nói. “Nếu có đau khổ dính vào, nỗi đau khổ đó phải phát tiết ra từ hội họa. Những đau khổ, ngay khi ta nhìn tranh lần đầu, phải hiện ra từ sự hài hòa nội tại vô hình nhưng có thể nhận ra được của bức tranh, chứ không phải từ những hình người trong bức tranh minh họa hoặc từ những giọt nước mắt của họ. Tôi không vẽ sự ngác nhiên, vì trong nhiều thế kỷ, hàng trăm nhà tiểu họa bậc thầy đã thể hiện nó rồi, như một nhân vật với ngón trỏ thọc vào cái miệng há tròn của hắn, mà tôi làm cho toàn bộ bức tranh là hiện thân của sự ngạc nhiên. Tôi đã hoàn tất được điều này bằng cách mời Đức vua đứng lên.”

Tôi tò mò và khó chịu trước kiểu anh ta xem xét kỹ lưỡng những món sở hữu và dụng cụ minh họa của tôi, thậm chí toàn bộ cuộc đời tôi nữa kìa, để tìm kiếm một manh mối; và sau đó tôi bắt đầu nhìn ngôi nhà của chính mình qua đôi mắt anh ta.

Các vị biết những bức tranh về lâu đài, dinh thự và cung điện có một thời được làm ở Tabriz và Shiraz đấy; vì vậy bức tranh này có thể tái tạo cái nhìn xuyên thấu của đấng Allah, người thấy và hiểu tất cả, nhà tiểu họa có thể vẽ theo thiết diện như thể nó bị mặt lưỡi dao cạo thẳng khổng lồ, ma quái cắt làm đôi, và anh ta có thể vẽ mọi chi tiết bên trong - vốn không thể thấy được từ bên ngoài - đến từng cái nồi và chảo, ly uống nước, hình trang trí trên tường, màn cửa, những con vẹt trong lồng, những góc riêng tư nhất, và những chiếc gối trên đó một thiếu nữ dễ thương đang ngủ hầu như chưa bao giờ được ai nhìn thấy trong ánh sáng ban ngày. Giống như một người đọc tò mò với lòng kính nể, Siyah xem xét những thuốc màu, giấy tờ, sách vở, người phụ tá dễ thương của tôi, những trang của cuốn Kitab al-kostum ([26]) và cuốn sưu tập tranh cắt dán mà tôi làm cho một du khách Tây vực, những cảnh làm tình và những trang không đứng đắn khác mà tôi đã bí mật vẽ cho một tổng trấn, những bình mực bằng thủy tinh đủ màu, bằng đồng và gốm, những con dao chuốt bút bằng ngà, những chiếc cọ cán vàng của tôi, và phải, cả những cái nhìn của người thợ học việc xinh trai của tôi nữa.

“Không như những bậc thầy già, tôi đã chứng kiến nhiều trận đánh, rất nhiều,” tôi nói để lấp đầy sự im lặng. “Những cỗ máy chiến tranh, những viên đạn đại bác, quân đội, xác chết; chính tôi là người trang trí trần những ngôi lều cho Đức vua và các tướng lãnh của chúng ta. Sau một chiến dịch quân sự, trên đường trở về Istanbul, chính tôi đã ghi lại trên tranh những cảnh chiến trận mà mọi người rồi sẽ quên mất, những thi thể bị chém làm đôi, cuộc đụng độ của các đội quân thù nghịch, binh lính của bọn ngoại đạo khốn khổ run rẩy trước đại bác của chúng ta, binh lính bảo vệ những ngọn tháp có lỗ châu mai của những lâu đài bị bao vây, những kẻ phiến loạn bị chém đầu và cơn cuồng loạn của những con ngựa đang phi nước đại tấn công. Tôi ghi mọi điều tôi thấy vào ký ức: một cối xay cà phê mới, một kiểu song cửa sổ tôi chưa từng thấy trước đây, một khẩu đại bác, cò súng của loại súng trường Tây vực mới, ai mặc áo choàng màu gì, trong một bữa tiệc ai ăn gì, ai để bàn tay mình ở đâu và như thế nào...”

“Bài học đạo đức của ba câu chuyện anh vừa kể là gì?”, Siyah hỏi theo kiểu tóm tắt mọi thứ và yêu cầu tôi giải thích.

“Alif”, tôi nói. “Câu chuyện đầu tiên với ngọn tháp chứng minh rằng cho dù nhà tiểu họa có tài năng đến cỡ nào, thì chính thời gian mới làm cho một bức tranh ‘hoàn hảo’. ‘Ba’, câu chuyện thứ hai ‘với hậu cung và thư viện, cho thấy rằng cách duy nhất để thoát khỏi thời gian là qua kỹ năng và việc minh họa. Còn câu chuyện thứ ba. đến phiên anh nói tôi nghe.”

“Djim!” Siyah nói đầy tự tin, “câu chuyện thứ ba nói về nhà tiểu họa một trăm mười chín tuổi kết hợp ‘Alif’ với ‘Ba’ để nói rằng thời gian kết thúc như thế nào đối với một người từ bỏ cuộc sống hoàn hảo và việc trang trí hoàn hảo, chẳng để lại cái gì ngoài cái chết. Đây thực sự là điều nó muốn chứng tỏ.”

CHƯƠNG 14
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ “ZEYTIN”

Sau buổi cầu kinh trưa, tôi đang vui sướng và nhanh nhẹn vẽ những khuôn mặt của các cậu trai thì nghe tiếng gõ cửa. Bàn tay tôi giật lên vì ngạc nhiên. Tôi đặt cọ xuống. Tôi cẩn thận để miếng bìa cứng dùng để làm việc đang nằm trên gối tôi sang một bên.

Chạy ra như một ngọn gió, tôi lầm rầm cầu nguyện trước khi mở cửa. Tôi sẽ không giấu các vị bất cứ điều gì, bởi vì các vị, người có thể nghe tôi từ trong cuốn sách này, gần đấng Allah hơn chúng tôi nhiều trong thế giới khốn khổ và ghê tởm này. Akbar Khan, hoàng đế Hindustan và là vị vua giàu nhất thế giới, đang chuẩn bị cái mà một ngày nào đó sẽ trở thành một cuốn sách huyền thoại. Để hoàn thành dự án của mình, ông ta thông báo đến khắp thế giới Hồi giáo mời gọi những nghệ sĩ vĩ đại nhất về với ông ta.

Những người ông ta phái đến Istanbul đã thăm tôi hôm qua, mời tôi đến Hindustan. Lần này, tôi mở cửa và nhận ra, đấy không phải họ mà là Siyah bạn quen thời thơ ấu của tôi, người tôi đã quên hoàn toàn. Siyah hồi đó không thể ở lại với chúng tôi, anh ta ghen ty với chúng tôi. “Sao?”

Anh ta bảo anh ta đến để nói chuyện, để làm một chuyến thăm viếng thân tình, để xem các tranh minh họa của tôi. Tôi chào đón anh ta để anh ta có thể xem tất cả. Tôi biết hôm nay anh ta vừa đến thăm Thầy Osman và hôn tay ông ta. Vị thầy vĩ đại này, anh ta giải thích, đã cho anh ta những lời khôn ngoan để suy gẫm: “Phẩm chất của người họa sĩ trở nên rõ ràng trong những cuộc thảo luận về chứng mù và ký ức”, anh ta nói vậy. Vì vậy hãy để nó rõ ràng:

Chứng mù và Ký ức

Trước khi có nghệ thuật trang trí màu sắc thì là cõi tối đen và sau đó cũng sẽ là cõi tối đen. Qua màu sắc, thuốc màu, nghệ thuật và tình yêu của chúng ta, chúng ta nhớ lại rằng Allah đã ra lệnh cho chúng ta “Hãy nhìn!” Biết có nghĩa là nhớ lại những gì ta đã thấy. Thấy là biết mà không nhớ. Vì vậy, việc vẽ là nhớ lại cõi tối đen. Những bậc thầy vĩ đại, những người có chung tình yêu hội họa và nhận ra rằng màu sắc và cảnh đẹp phát sinh từ bóng tối, sẽ khao khát trở về cõi tối đen của Allah thông qua màu sắc. Những nghệ sĩ không có ký ức thì không nhớ đến Allah cũng như cõi đen của Người. Tất cả bậc thầy vĩ đại, trong tác phẩm của họ, cố tìm kiếm khoảng trống thâm sâu đó bên trong màu sắc và bên ngoài thời gian. Để tôi giải thích với các vị việc nhớ lại bóng tối mà các bậc thầy vĩ đại thời xưa ở Herat đã tiết lộ này có nghĩa là gì.

Ba câu chuyện về Chứng mù và Ký ức

ALIF

Trong bản dịch ra tiếng Thổ Nhĩ Kỳ của Lami’i Chelebi cho tác phẩm Hediye al-Siki-dostluk ([27]) của thi sĩ Ba Tư Jami, vốn kể các câu chuyện về những vị thánh, có viết rằng trong xưởng làm sách của Vua Jihan, người trị vì đất nước Garagoýunly ([28]), bậc thầy lừng danh Sheikh Ali Tabrizi đã minh họa một phiên bản tuyệt vời cho câu chuyện Husrev o Shirin. Theo những gì tôi được nghe, trong bản thảo huyền thoại này, mà phải mất mười hai năm mới hoàn thành, Sheikh Ali, bậc thầy của những bậc thầy tiểu họa đã thể hiện một tài năng và kỹ xảo và đã vẽ những bức tranh tuyệt vời đến độ chỉ có Bihzad, bậc thầy vĩ đại nhất trong các bậc thầy thời xưa, mới có thể sánh với ông ta. Thậm chí trước khi bản thảo minh họa này hoàn tất được phân nửa, vua Jihan đã biết rằng ông ta sẽ sớm sở hữu một cuốn sách tuyệt hảo vô song trên thế giới. Vì vậy ông sống trong sợ hãi và ghen tỵ đối với Uzyn Hasan trẻ tuổi, người trị vì nước Akgoýunly, và tuyên bố hắn là kẻ thù chính của ông. Hơn nữa Jihan nhanh chóng cảm thấy rằng dù uy tín của ông sẽ tăng lên rất lớn sau khi cuốn sách hoàn tất, người ta vẫn có thể làm một phiên bản cuốn sách này tốt hơn cho Uzyn Hasan. Là một trong số những kẻ ghen tỵ vốn đầu độc thói tự mãn của chính mình bằng ý tưởng “Nếu người khác cũng hưởng được hạnh phúc tột cùng này thì sao?”, Jihan lập tức nghĩ ngay rằng nếu nhà tiểu họa bậc thầy này làm một bản giống như vậy, hoặc thậm chí đẹp hơn, thì nó sẽ được dành cho Uzyn Hassan, kẻ thù chính của ông. Vì vậy, để ngăn không cho bất cứ ai ngoài ông sở hữu cuốn sách tuyệt vời này, Jihan quyết định giết Sheikh Ali sau khi ông này hoàn thành cuốn sách. Nhưng một mỹ nhân tốt bụng người Circassia trong hậu cung của ông khuyên ông chỉ cần làm mù mắt nhà tiểu họa tài ba này là đủ. Jihan lập tức chấp thuận ý tưởng thông minh này, ông ta bèn truyền lệnh cho bộ hạ của mình, cuối cùng chuyện đó đến tai Sheikh Ali. Dù vậy Sheikh Ali không bỏ dở cuốn sách để trốn khỏi Tabriz như những nhà minh họa tầm thường khác hẳn sẽ làm. Ông không viện đến những trò như trì hoãn tiến trình hay làm những tranh minh họa kém để nó không “hoàn hảo”, và nhờ đó ngăn chặn việc mình bị chọc mù mắt. Thậm chí ông còn làm việc càng nhiệt tình và kiên định hơn.

Trong ngôi nhà nơi ông sống một mình, ông bắt đầu làm việc sau buổi cầu kinh sáng và tiếp tục minh họa cùng những con ngựa, cây tuyết tùng, những tình nhân, những con rồng và những ông hoàng đẹp trai dưới ánh nến trong đêm cho đến khi nước mắt cay đắng trào ra. Nhiều lần, ông nhìn ngắm suốt bao ngày bức minh họa của một trong những bậc thầy vĩ đại xưa của Herat trong khi ông làm một bản sao giống hệt trên một tờ giấy khác. Cuối cùng, ông hoàn thành cuốn sách cho vua Jihan xứ Garagoýunly. Và như nhà tiểu họa tài hoa này đã chờ đợi, thoạt tiên ông được khen ngợi và thưởng vô số vàng, sau đó thì bị chọc mù bằng một cây kim nhọn vốn dùng để gắn lông chim trên khăn quấn đầu. Trước khi cơn đau của ông lắng xuống, Sheikh Ali đã rời Herat đến đầu quân cho Uzyn Hasan xứ Akgoýunly. “Phải, tôi thực sự đã mù,” ông ta giải thích với Uzyn Hasan, “Nhưng tôi vẫn nhớ từng nét tráng lệ của bản thảo mà tôi đã trang trí trong mười một năm qua, từng nét bút, từng nét cọ, và bàn tay tôi có thể vẽ lại theo trí nhớ. Tâu Bệ hạ, tôi có thể minh họa bản thảo vĩ đại nhất mọi thời đại cho ngài. Vì đôi mắt tôi không còn bị phân tâm vì sự bẩn thỉu của cuộc đời này. Tôi sẽ có thể vẽ tất cả những vinh quang của Allah theo ký ức, trong hình thức thuần khiết nhất của chúng.” Uzyn Hasan tin lời nhà tiểu họa vĩ đại này; và nhà tiểu họa giữ lời hứa, minh họa theo ký ức mình cuốn sách lộng lẫy nhất trong số những sách cho người trị vì Akgoýunly. Mọi người đều biết sức mạnh tinh thần do cuốn sách mới đem lại chính là những gì nằm đằng sau chiến thắng của Uzyn Hasan trước Blacksheet và việc vị vua chiến thắng hành hình Jihan trong một cuộc đột kích gần Bingol. Cuốn sách lộng lẫy này. cùng với cuốn mà Sheikh Ali Tabrizi đã làm cho vua Jihan quá cố, được đưa vào kho tàng của Đức vua chúng ta tại Istanbul khi Uzyn Hasan bách thắng bị hoàng đế Fatih Mehmet ([29]) đánh bại tại trận Otlukbeli. Những ai thực sự nhìn thấy thì đều biết.

BA.

Vì Người bản xứ Thiên đàng, Đại vương Suleyman, Kẻ đặt ra luật pháp, ưu ái những nhà thư pháp hơn những nhà minh họa, nên những nhà tiểu họa không may thời đó sẽ kể lại câu chuyện này như một minh chứng cho thấy minh họa hơn hẳn thư pháp như thế nào. Tuy nhiên những ai chú ý kỹ sẽ nhận ra, câu chuyện này thực sự nói về phận mù và ký ức. Sau cái chết của Tamerlane, người cai trị thế giới, các con trai và cháu nội ông bắt đầu tấn công và đánh nhau một cách không thương xót. Mỗi khi một người trong bọn họ chinh phục được thành phố của một đối phương, hành động đầu tiên của hắn là đúc tiền của riêng mình và đọc một bài thuyết giáo tại thánh đường. Hành động thứ hai trong vai trò kẻ chiến thắng là xé rời những cuốn sách mà hắn chiếm được; một lời đề tặng mới sẽ được viết ra, ca tụng kẻ chinh phục mới là người thống trị thế gian mới, một phần lai lịch mới sẽ được thêm vào cuối sách, và tất cả được đóng lại với nhau để những ai nhìn vào cuốn sách của kẻ chinh phục sẽ tin rằng hắn ta thực sự là kẻ thống trị thế giới. Khi Abdullatif, con trai của Ulug Bey và chắt nội của Tamerlane, chiếm được Heart, ông ta huy động những nhà tiểu họa, thư pháp và người đóng sách một cách quá vội vàng, thúc ép họ quá sức để làm ra một cuốn sách vinh danh cha ông ta, một người am hiểu nghệ thuật làm sách, đến độ khi những tập sách còn trong giai đoạn rời rạc chưa đóng lại và những trang chép tay đã bị hủy hoại và đốt cháy, thì những bức tranh tương ứng bị trộn lẫn cả vào nhau. Vì thanh danh của Ulug Bey không cho phép con trai ông sắp xếp và khâu những tập sách lại mà không quan tâm đến bức tranh nào thuộc câu chuyện nào, nên ông liền tập họp tất cả các nhà tiểu họa ở Herat yêu cầu họ kể lại các câu chuyện nhằm xếp các tranh minh họa lại cho đúng thứ tự. Tuy nhiên, mỗi nhà tiểu họa lại kể một câu chuyện khác nhau, nên thứ tự của những tấm tranh lại càng lộn xộn hơn. Sau đó người ta tìm được nhà tiểu họa đầu đàn già nhất còn sống sót. Ông đã bị mù sau khi lao động vất vả với những cuốn sách của tất cả các vị vua và hoàng tử ở Herat trong năm mươi bốn năm qua. Mọi người chấn động dữ dội khi nhận ra rằng ông thầy già hiện đang nhìn vào các bức tranh kia đã thực sự mù. Một số người cười ầm lên. Vị thầy già này yêu cầu người ta đưa đến một cậu bé thông minh, dưới bảy tuổi và chưa biết đọc biết viết. Người ta tìm được một đứa trẻ như thế và đưa đến cho ông. Nhà tiểu họa già đặt trước mặt nó một số tranh minh họa. “Hãy tả lại những gì con thấy”, ông hướng dẫn. Khi cậu bé tả lại những bức tranh, nhà tiểu họa già ngước đôi mắt mù lên trời, lắng nghe thật kỹ và trả lời: “Alexander đang bế Darius hấp hối trong Shahnameh ([30]) của Firdusi... chuyện kể về ông thầy yêu đứa học trò đẹp trai trong Gulistan ([31]) của Sadi... cuộc tranh tài của các thầy thuốc trong Makhzan al- Asrar ([32]) của Nizami...”. Những nhà tiểu họa khác, bực bội trước đồng nghiệp già lão mù lòa của họ, bèn nói, “Chúng tôi cũng có thể nói cho ông biết vậy. Đây là những cảnh nổi tiếng nhất trong những câu chuyện nổi tiếng.” Lần lượt, nhà tiểu họa mù lòa già lão này đặt những bức minh họa khó nhất trước mặt thằng bé và lại chú ý lắng nghe. “Hurmuz đang đầu độc từng nhà thư pháp một trong Shahnameh của Firdusi,” ông nói, lại ngửa mặt lên trời. “Một sự thể hiện kém cỏi câu chuyện khủng khiếp về người chồng bị cắm sừng bắt gặp vợ anh ta và tình nhân của cô ả trên một cây lê, trong Masnawi ([33]) Của Rumi, ông nói. Theo cách này, dựa vào những mô tả của cậu bé, ông xác định được tất cả các bức tranh dù không hề nhìn được bức nào, và do đó thành công trong việc đóng lại những cuốn sách đúng thứ tự. Khi Ulug Bey vào Herat cùng quân đội của mình, ông đã hỏi nhà tiểu họa già này xem nhờ bí mật gì mà ông, một người mù, có thể nhận dạng những câu chuyện mà những nhà minh họa bậc thầy khác không thể xác định cho dù họ nhìn thấy chúng. “Như người ta quan niệm, không phải ký ức của tôi đã bù đắp cho phận mù của tôi,’ nhà minh họa già đáp. “Tôi luôn hiểu rằng người ta có thể nhớ lại câu chuyện không chỉ qua hình ảnh mà còn qua cả lời kể nữa.” Ulug Bey đáp rằng những nhà tiểu họa của ông biết lời và cả câu chuyện, nhưng vẫn không thể sắp xếp các tranh theo thứ tự được. “Bởi vì,” ông già nói, “họ suy nghĩ cẩn thận khi vẽ tranh, vốn là kỹ năng hoặc nghệ thuật của họ, nhưng họ không hiểu rằng những bậc thầy già làm những bức tranh này theo ký ức về chính đấng Allah.” Ulug Bey hỏi làm sao một đứa trẻ biết những điều như thế. “Đứa bé không biết,” nhà tiểu họa già nói, “Nhưng tôi một nhà tiểu họa mù già, biết rằng Allah tạo ra cõi trần thế này theo cách mà một đứa bé bảy tuổi thông minh muốn thấy nó; hơn nữa, Allah tạo ra cõi trần gian này để, trên hết, mọi người có thể nhìn ngắm. Sau đó, Ngài cung cấp cho chúng ta ngôn từ để chúng ta có thể chia sẻ và thảo luận với nhau những gì chúng ta thấy. Chúng ta sai lầm khi cho rằng những câu chuyện này là kết quả của ngôn từ và rằng những bức minh họa được vẽ là để phục vụ cho những câu chuyện này. Hoàn toàn ngược lại, vẽ tranh là hành động tìm lại những ký ức của Allah và nhìn thế giới như Người nhìn thế giới.”

DJIM

Cách nay hai trăm năm mươi năm, các nhà tiểu họa Ả Rập có thói quen nhìn chằm chằm vào chân trời tây lúc bình minh để làm dịu những lo lắng muôn thuở và dễ hiểu về việc bị mù mà nhà tiểu họa nào cũng nghĩ tới; tương tự, một thế kỷ sau ở Shiraz, nhiều nhà minh họa vẫn ăn quả óc chó nghiền với cánh hoa hồng khi bụng trống vào buổi sáng. Trong thời kỳ đó, giới tiểu họa già của Isfahan cũng tin rằng ánh nắng là thủ phạm gây mù, chứng bệnh mà lần lượt họ đều phải chịu, như thể một nạn dịch, họ thường làm việc trong góc tối mờ mờ của căn phòng, hầu hết cạnh ánh nến, để ngăn không cho ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào bàn làm việc. Cuối ngày, trong xưởng làm việc của những nghệ sĩ Uzbek của Bukhara, những thợ cả tiểu họa sẽ rửa mắt bằng nước đã được các thầy cả làm phép. Nhưng trong những cách phòng ngừa này, quan niệm thuần khiết nhất về kiếp mù lại được nhà tiểu họa Seyyit Mirek, cố vấn cho bậc thầy vĩ đại Bihzad, nghĩ ra ở Herat. Theo nhà tiểu họa bậc thầy Mirek, chứng mù không phải là một tai họa, mà nó là phần thưởng vinh dự mà đấng Allah ban cho nhà tiểu họa nào đã cống hiến cả cuộc đời cho những vinh quang của Người; bởi khi nhà tiểu họa tiến hành minh họa, ấy là anh ta tìm kiếm cách nhìn cõi trần thế của Allah, và cái thị kiến độc nhất này chỉ có thể đạt được thông qua việc hồi tưởng sau khi đã bị mù, chỉ sau khi nhà tiểu họa làm việc cật lực cả đời, và chỉ sau khi đôi mắt anh ta mệt mỏi và anh ta sức cùng lực kiệt. Vì vậy, cách nhìn của Allah về thế giới của Người chỉ trở nên rõ ràng qua ký ức của những nhà tiểu họa mù. Khi hình ảnh này đến với nhà tiểu họa già, đó là khi ông thấy thế giới như Allah thấy nó, qua bóng tối của ký ức và kiếp mù, nhà minh họa sẽ dành cả cuộc đời huấn luyện bàn tay mình để nó có thể chuyển sự phát hiện tráng lệ này vào trang giấy. Theo sử gia Mirza Muhammet Haydar Duglat, người viết nhiều về những truyền thuyết của giới tiểu họa Herat, thì bậc thầy Seyyit Mirek, trong phần giải thích cho khái niệm đã đề cập trên đây của ông về hội họa, đã sử dụng ví dụ về nhà minh họa muốn vẽ một con ngựa. Ông lập luận rằng ngay cả một họa sĩ bất tài nhất - người mà đầu óc trống rỗng giống như những họa sĩ Venice hiện nay. những kẻ vẽ bức tranh con ngựa trong khi nhìn vào con ngựa - vẫn tạo ra hình ảnh đó từ ký ức; bởi vì anh biết đấy, người ta không thể cùng một lúc vừa nhìn con ngựa vừa nhìn vào trang giấy mình đang vẽ ngựa. Thoạt tiên, nhà minh họa nhìn con ngựa, sau đó anh ta nhanh chóng chuyển những gì nằm trong đầu anh ta vào trang giấy. Trong khoảng thời gian chuyển tiếp đó, thậm chí chỉ trong nháy mắt những gì người họa sĩ thể hiện trên trang giấy không phải là con ngựa anh ta thấy mà là ký ức về con ngựa anh ta vừa nhìn. Chứng cứ đó cho thấy rằng với ngay cả một nhà minh họa khốn khổ nhất, ông ta chỉ có thể làm được một bức tranh thông qua ký ức. Sự mở rộng khái niệm này theo luận lý, vốn xem cuộc sống lao động tích cực của một nhà tiểu họa chỉ là việc chuẩn bị cho niềm hạnh phúc sẽ đến của kiếp mù và ký ức mù, đi đến chỗ cho rằng những bậc thầy của Herat xem những tranh minh họa họ làm cho các vua chúa và hoàng tử yêu thích sách chỉ như là huấn luyện bàn tay - như một bài tập. Họ chấp nhận công việc đó, vẽ liên tục và nhìn chăm chăm vào các tranh dưới ánh nến trong nhiều ngày không ngừng nghỉ, như thứ lao động đầy niềm vui vốn đưa nhà tiểu họa đến chỗ mù. Suốt cả cuộc đời mình, nhà tiểu họa bậc thầy Mirek đã không ngừng tìm ra phút giây thích hợp nhất cho điều vinh quang nhất sắp đến này, hoặc bằng cách cố ý thúc đẩy chứng mù qua việc bỏ công vẽ cây cối cùng tất cả lá của chúng trên móng tay, hạt gạo và cả trên những sợi tóc, hoặc bằng cách cố tình trì hoãn bóng tối sắp đến bằng việc vẽ cẩu thả những khu vườn dễ chịu đầy ánh nắng. Khi ông ta đã bảy mươi, để thưởng cho bậc thầy vĩ đại này, Vua Huseyin Baykara cho phép ông bước vào kho báu chứa hàng ngàn tấm bản thảo mà nhà vua đã sưu tập và cất giữ sau nhiều lớp khóa. Trong kho báu đó cũng chứa vũ khí, vàng bạc và hàng hàng lớp lớp nhung lụa, dưới ánh nến của chiếc đèn bằng vàng, Thầy Mirek nhìn chăm chú những trang sách tráng lệ, mà mỗi trang là một truyền thuyết do những bậc thầy xưa của Herat làm. Sau ba ngày đêm xem xét tỉ mỉ không nghỉ, bậc thầy này bị mù. Ông chấp nhận tình trạng này với sự chín chắn và cam chịu, theo cách người ta chào đón các Thiên sứ của đấng Allah, và ông không bao giờ nói hay vẽ nữa. Mirza Muhammet Haydar Duglat, tác giả cuốn Tarih-i Residi ([34]), đã kết luận diễn biến này như sau: “Một nhà tiểu họa đã hợp nhất với tầm nhìn và cảnh trí của thời gian bất tử của Allah không bao giờ có thể quay trở lại những trang bản thảo dành cho người phàm,” và ông nói thêm, “Bất cứ nơi nào mà ký ức của nhà tiểu họa mù với được tới Allah, ở đó bao trùm một sự im lặng tuyệt đối, một bóng tối đầy ân sủng và sự vô tận của một trang giấy trắng.”

Chắc chắn vì muốn được thoải mái hơn là muốn nghe câu trả lời của tôi cho câu hỏi của Thầy Osman về kiếp mù và ký ức nên Siyah mới hỏi tôi câu đó trong khi anh ta nhìn chăm chú những vật dụng của tôi, căn phòng của tôi và bức tranh của tôi.

Nhưng một lần nữa, tôi hài lòng khi thấy những câu chuyện tôi vừa kể đã tác động đến anh ta. “Kiếp mù là một cõi hạnh phúc tột cùng mà Quỷ sứ và tội lỗi bị ngăn không thể vào được”, tôi nói với anh ta.

“Ở Tabriz,” Siyah nói, “do ảnh hưởng của Thầy Mirek, một số nhà tiểu họa theo phong cách cũ vẫn xem kiếp mù là đức hạnh vĩ đại nhất mà Allah ban cho, và họ phiền lòng khi họ già đi mà vẫn chưa mù. Ngay cả ngày nay, vì sợ rằng người khác sẽ xem điều này như chứng cứ của việc thiếu kỹ xảo và tài năng, nên họ giả vờ bị mù. Do quan niệm đạo đức vốn mang ảnh hưởng của Jemalettin xứ Kazvin này, một số trong bọn họ vẫn ngồi hàng tuần liền trong bóng tối giữa những chiếc gương trong ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn dầu, không ăn không uống, chỉ nhìn chằm chằm vào những trang minh họa do các bậc thầy Herat ngày xưa đã vẽ để học cách nhận biết thế giới giống một người mù dù họ không thực sự bị mù.”

Có người gõ cửa. Tôi mở cửa thì thấy một cậu học việc đẹp trai trong xưởng làm việc đang trợn tròn đôi mắt đẹp như hai quả hạnh. Cậu ta nói rằng xác người anh em của chúng tôi, thợ mạ vàng Zarif Kính mến, đã được tìm thấy trong một cái giếng hoang, và đám tang anh ta sẽ cử hành tại Thánh đường Mihrimah trong buổi cầu kinh chiều. Xong cậu ta chạy đi báo tin này cho những người khác. Ôi, cầu Allah che chở chúng con.

CHƯƠNG 15
TÔI LÀ ESTHER

Hãy cho tôi biết, liệu tình yêu làm cho người ta trở thành tên ngốc hay chỉ có những tên ngốc mới yêu? Tôi là một kẻ bán quần áo và bà mối trong nhiều năm, mà tôi chẳng biết chút gì về chuyện này. Tôi hồi hộp làm sao khi trở nên thân quen với những người - hoặc những đôi - vốn ngày càng thông minh hơn và càng yêu sâu đậm thì càng trở nên tinh quái và xảo quyệt. Nhưng tôi biết rõ điều này: Nếu một người phải sử dụng đến mưu mẹo, sự lừa đảo và thủ đoạn vụn vặt, thì có nghĩa là anh ta còn lâu mới yêu. Về phần Siyah Kính mến, rõ ràng là anh ta mất bình tĩnh - thậm chí khi nói về Shekure anh ta còn mất cả tự chủ.

Ở chợ, tôi nói với anh ta điệp khúc thuộc lòng mà tôi thường nói với mọi người: Shekure luôn nghĩ về anh ta, cô ấy hỏi tôi về thư hồi âm của anh ta, tôi chưa từng thấy cô ấy như vậy bao giờ và vân vân. Anh ta nhìn tôi với cái nhìn khiến tôi thấy tội nghiệp. Anh ta bảo tôi đem thư đến cho Shekure ngay lập tức.

Mọi chàng ngốc đều cho rằng tình yêu của anh ta là tình huống cấp bách cần phải gấp lên, do đó phô bày cường độ tình yêu của anh ta và vô tình đặt vũ khí vào tay người yêu của anh ta. Bài học: Sự hấp tấp làm trì hoãn những thành quả tình yêu.

Nếu chàng Siyah si tình biết trước tiên tôi đánh một đường vòng khi mang lá thư mà anh ta ra lệnh cho tôi giao “Hỏa tốc,” anh ta sẽ cám ơn tôi. Trong quảng trường chợ, tôi gần chết cóng khi chờ anh ta. Sau khi anh ta đi, tôi nghĩ mình nên đến thăm một trong những đứa “con gái” của tôi để sưởi ấm. Tôi gọi những cô gái mà tôi từng giúp chuyển thư, những người mà tôi đổ mồ hôi trán để mai mối, là “con gái” tôi. Cô gái xấu xí này của tôi quá biết ơn tôi đến độ mỗi lần tôi ghé thăm, không chỉ hầu hạ tôi hết mình, lăng xăng giống như con mối, con bé còn nhét vài đồng bạc vào tay tôi nữa. Hiện giờ con bé đang có mang và rất vui. Con bé châm trà, tôi nhấp từng ngụm thưởng thức. Khi con bé để tôi một mình, tôi đếm mớ tiền Siyah đã cho tôi. Hai mươi đồng bạc.

Tôi lại lên đường. Tôi đi qua những ngã tư và những con hẻm đáng ngại lầy lội, đóng băng và hầu như không thể đi được. Khi tôi gõ cửa, sự vui vẻ ngập trong tôi và tôi la to.

“Quần áo đây! Quần áo đâyyy!” tôi nói. “Đến xem loại vải muxơlin cực tốt dành cho Đức vua đây. Đến xem những khăn choàng Kashmir lộng lẫy đây, vải nhung Bursa để may khăn quàng đây, áo cánh Ai Cập viền lụa thượng hạng đây, khăn trải bàn muxơlin thêu đây, nệm và khăn trải giường đây, cả khăn tay đủ màu đây nữa. Quần áo đâyyy!”

Cửa mở, tôi bước vào. Như thường lệ, căn nhà đầy mùi giường chiếu, giấc ngủ, mùi dầu chiên và ẩm mốc, mùi khủng khiếp đặc biệt của những kẻ độc thân lớn tuổi.

“Mụ phù thủy già,” anh ta nói. “Làm gì mà mụ la dữ vậy?” Tôi lặng lẽ móc lá thư trao cho anh ta. Trong căn phòng lờ mờ,anh ta rón rén và lặng lẽ đến gần tôi rồi vồ lấy nó. Anh ta bước vào căn phòng kế bên nơi luôn có một ngọn đèn dầu. Tôi chờ ngay ngưỡng cửa.

“Ba anh không có ở nhà hả?”

Anh ta không trả lời. Anh ta chìm đắm vào lá thư. Tôi để anh ta đọc một mình. Anh ta đứng đàng sau ngọn đèn, tôi không thấy được mặt anh ta. Sau khi đọc xong lá thư anh ta đọc lại lần nữa.

“Anh ta viết gì trong đó vậy?” tôi hỏi.

Hasan đọc:

Shekure yêu quý nhất đời anh, vì anh cũng đã nhiều năm nay trải qua những giấc mơ của một kẻ cô đơn nên anh thấu hiểu một cách trân trọng việc em chờ chồng mà không hề nghĩ đến người khác. Người ta có thể chờ đợi điều gì khác ở một người phụ nữ như em ngoài đức hạnh và sự trung thực? (Hasan cười khùng khục!) Tuy nhiên việc anh đến thăm cha em vì hội họa sẽ không đi tới chỗ quấy rầy em. Điều này thậm chí không hề có trong nghĩ của anh. Anh không hề nói rằng mình đã nhận được một dấu hiệu nào của em hay bất cứ sự khích lệ nào khác. Khi khuôn mặt em hiện ra ngay cửa sổ như thứ ánh sáng diệu kỳ, anh xem đó chính là một đặc ân của Thượng đế. Niềm vui được thấy mặt em là tất cả những gì anh cần. (Hắn lấy câu này của Nizami. Hasan cắt ngang bực bội.) Nhưng em yêu cầu anh giữ khoảng cách; vậy hãy cho anh biết em có phải là một thiên thần không mà việc tới gần em lại khủng khiếp đến vậy? Hãy nghe những gì anh muốn nói, nghe này: Anh thường  cố dỗ giấc khi nhìn ánh trăng chiếu trên những ngọn núi trơ trụi ở những quán trọ xa xôi buồn tẻ nơi không có ai trừ một người giữ quán trọ liều lĩnh và vài kẻ tội phạm trốn giá treo cổ đến cư ngụ, và ở đó, lúc nửa đêm, lắng nghe tiếng tru của những con sói thậm chí còn cô đơn và bất hạnh hơn cả chính anh. Anh thường nghĩ rằng một ngày nào đó em sẽ đột nhiên hiện ra với anh, như em đã làm thế nơi cửa sổ.

Hãy đọc kỹ: Bây giờ khi anh về với cha em vì cuốn sách, em gửi trả lại bức tranh anh đã làm hồi nhỏ. Anh biết đây không phải là dấu liệu báo cái chết của em mà là dấu hiệu rằng anh đã tìm lại được em. Anh đã gặp một trong hai đứa con của em, Orhan. Đứa bé không cha tội nghiệp đó. Một ngày nào đó anh sẽ trở thành cha nó!

“Thượng đế che chở anh ta, anh ta viết hay thiệt,” tôi nói, “anh chàng này đã trở thành thi sĩ thứ thiệt.”

“Em có phải là một thiên thần không mà việc tới gần em lại khủng khiếp đến vậy?” anh ta lặp lại. “Hắn ăn cắp dòng này của Ibn Zerhani. Tôi có thể viết hay hơn.” Anh ta móc lá thư của anh ta ra khỏi túi. “Cầm cái này đưa cho Shekure.”

Lần đầu tiên, việc nhận tiền cùng những lá thư khiến tôi bối rối. Tôi cảm thấy một điều gì đó giống như sự ghê tởm đối với người đàn ông này và nỗi ám ảnh khùng điên của anh ta, tình yêu đơn phương của anh ta. Hasan, như để khẳng định linh cảm của tôi lần đầu tiên sau rất lâu nay đã gạt bỏ phép xã giao lịch sự của anh ta mà nói rất thô lỗ:

“Hãy nói với cô ấy là nếu muốn, chúng tôi có thể buộc cô ấy trở về đây với sức ép của quan tòa.”

“Anh thực lòng muốn tôi nói như vậy hả?”

Im lặng.

“Không,” anh ta nói. Ánh sáng từ ngọn đèn dầu soi sáng khuôn mặt anh ta, cho tôi thấy anh ta cúi đầu như đứa trẻ có lỗi. Chính vì tôi biết mặt này của tính cách Hasan quá rõ mà tôi tôn trọng một số tình cảm của anh ta và chuyển thư cho anh ta. Không phải chỉ vì tiền, như các vị có thể nghĩ.

Tôi rời ngôi nhà, và anh ta chặn tôi ngay cửa.

“Chị có cho Shekure biết tôi yêu cô ấy cỡ nào không?” Anh ta hỏi tôi một cách đầy kích động và ngốc nghếch.

“Bộ anh không cho cô ấy biết điều đó trong mấy lá thư sao?”

“Hãy chỉ cho tôi làm sao thuyết phục được cô ấy với cha cô ấy? Làm sao tôi thuyết phục được họ?’

“Cứ là một người tốt,” tôi nói và đi ra cửa.

“Ở tuổi này, quá trễ rồi...” anh ta nói đầy khổ não.

“Anh bắt đầu kiếm được nhiều tiền, Nhân viên Hải quan Hasan. Điều này khiến người ta trở thành một người tốt...” tôi nói rồi bỏ đi.

Ngôi nhà đó quá tối, quá buồn đến độ không khí bên ngoài có vẻ ấm hơn. Ánh nắng chiếu vào mặt tôi. Tôi ước cho Shekure được hạnh phúc. Nhưng tôi cũng cảm thấy thế nào ấy đối với người đàn ông tội nghiệp trong ngôi nhà tối tăm, lạnh lẽo và ẩm thấp đó. Trong cơn bốc đồng tôi rẽ vào khu chợ gia vị ở Laleli, nghĩ rằng mùi của quế, nghệ tây và tiêu sẽ làm tinh thần tôi sảng khoái lại. Tôi đã lầm.

Tại nhà Shekure, sau khi nhận những lá thư, cô lập tức hỏi thăm về Siyah, tôi nói với cô rằng ngọn lửa tình yêu đã nhấn chìm không thương tiếc cả con người anh ta. Tin này làm cô thấy vui.

“Ngay cả những phụ nữ không chồng cô đơn bận đan lát cũng bàn tán việc Zarif Kính mến bị giết,” sau đó tôi nói, đổi đề tài.

“Hayriye, hãy làm vài món bánh kẹo làm quà chia buồn rồi mang đến cho Kalbiye, quả phụ của Zarif Kính mến tội nghiệp”, Shekure nói.

“Tất cả người Erzurum và rất đông người khác sẽ dự lễ tang của anh ta,” tôi nói. “Họ hàng của anh ta thề sẽ trả thù.” Shekure đã bắt đầu đọc thư của Siyah. Tôi nhìn khuôn mặt cô một cách chăm chú và tức tối. Người phụ nữ này có lẽ cáo già đến độ có thể kiểm soát những cảm xúc của mình thể hiện trên nét mặt. Trong khi cô đọc, tôi có cảm giác rằng sự im lặng của tôi làm cô hài lòng, rằng cô xem nó như sự tán thành của tôi về tầm quan trọng đặc biệt cô dành cho lá thư của Siyah. Shekure đọc xong lá thư và mỉm cười với tôi; nhìn thấy sự hài lòng của cô, tôi cảm thấy buộc phải hỏi, “Anh ta viết gì vậy?”

“Giống như thời anh ta còn nhỏ... Anh ta yêu tôi.”

“Cô nghĩ sao?”

“Tôi là phụ nữ đã có chồng. Tôi đang chờ chồng tôi.”

Trái với mong đợi của các vị, việc cô ấy nói dối tôi sau khi yêu cầu tôi dính líu vào chuyện riêng tư của cô ấy không làm tôi giận. Thực sự ra, lời bình luận này làm tôi nhẹ nhõm. Giá như trong số các cô gái trẻ và phụ nữ mà tôi đưa thư và khuyên nhủ về cách cư xử ở đời có nhiều người quan tâm đến những chi tiết hơn, giống như Shekure, thì họ đã giảm bớt đến phân nửa công việc cho cả hai phía chúng tôi rồi. Quan trọng hơn, họ sẽ đi đến những cuộc hôn nhân tốt đẹp hơn.

“Còn lá thư kia viết gì?” tôi hỏi.

“Tôi không định đọc thư của Hasan lúc này,” cô ấy đáp. “Hasan có biết Siyah đã trở về Istanbul không?”

“Thậm chí anh ta còn không biết Siyah có trên đời này nữa là.”

“ Chị có nói chuyện với Hasan không?” cô hỏi, trợn tròn đôi mắt to đen xinh đẹp.

“Như cô đã yêu cầu.”

“Sao?”

“Anh ta đang đau khổ. Anh ta yêu cô tha thiết. Cho dù tim cô thuộc về người khác, bây giờ thật khó thoát khỏi anh ta. Bằng việc chấp nhận những lá thư của anh ta, cô đã khích lệ anh ta rất nhiều. Tuy nhiên hãy thận trọng với anh ta. Vì anh ta không chỉ muốn cô trở về đó, mà bằng cách xác nhận anh của anh ta đã chết, anh ta đang chuẩn bị cưới cô.”

Tôi mỉm cười để làm dịu sức nặng của những lời này và để không bị biến thành cái loa của kẻ bất bình kia.

“Vậy người kia nói gì?” cô hỏi, nhưng chẳng lẽ chính cô cũng biết mình đang hỏi về ai sao?

“Nhà tiểu họa ấy à?”

“Đầu óc tôi rối tung hết rồi,” bất ngờ cô nói, có lẽ sợ những ý nghĩ của chính mình. “Có vẻ như mọi chuyện rối loạn hết cả. Cha tôi ngày càng già. Rồi chúng tôi sẽ ra sao, những đứa trẻ không cha này sẽ thế nào đây? Tôi có cảm giác một điều xấu đang đến, rằng Quỷ sứ sắp làm trò quái ác gì đó cho chúng tôi. Esther, nói gì để cổ vũ tôi đi.”

“Đừng quá lo lắng, Shekure thân yêu,” tôi nói khi nỗi xúc động trào dâng trong lòng. “Cô thật sự thông minh, cô rất xinh đẹp. Một ngày nào đó cô sẽ ngủ chung giường với người chồng đẹp trai của cô, cô sẽ ôm chặt anh ta, và khi quên được mọi ưu tư của mình, cô sẽ hạnh phúc. Tôi có thể đọc được điều ấy trong mắt cô.”

Cảm giác như thế dâng lên trong tôi đến độ mắt tôi ngấn lệ.

“Được, nhưng ai sẽ là chồng tôi?” ‘Trái tim thông minh của cô không trả lời cho cô sao?”

“Bởi vì tôi không hiểu điều trái tim tôi đang nói rằng tôi thấy chán nản.”

Bất chợt tôi nhận ra rằng Shekure không tin tưởng tôi chút nào cả, rằng cô ấy khéo léo che đậy sự nghi ngờ của cô ấy để biết được những gì tôi đã biết, rằng cô ấy đang cố khơi dậy lòng thương hại của tôi. Khi tôi thấy cô ấy sẽ không viết hồi âm cho những lá thư đó ngay lúc này, tôi chộp lấy túi của mình, bước ra sân và bỏ đi - nhưng không quên nói điều mà tôi từng nói với mọi cô gái, cả những người bị lé:

“Đừng sợ, nếu cô giữ cho đôi mắt đẹp của cô tinh tường, thì không có nỗi bất hạnh nào, hoàn toàn không có nỗi bất hạnh nào sẽ xảy ra với cô đâu.”

CHƯƠNG 16
TÔI, SHEKURE

Thật lòng mà nói, cứ mỗi lần Esther người bán quần áo đến thăm tôi lại tưởng tượng ra một người đàn ông đang yêu rốt cuộc sẽ có nỗi thôi thúc muốn viết một lá thư khả dĩ khuấy động trái tim một phụ nữ thông minh như tôi - đẹp, có giáo dục và góa bụa, nhưng với thanh danh còn nguyên vẹn - và làm cho nó đập rộn ràng. Và việc phát hiện rằng lá thư đến từ một trong những người thường xuyên theo đuổi tôi ít nhất sẽ củng cố quyết tâm và sự kiên trì chờ đợi ngày trở về của chồng tôi. Song những ngày này. mỗi lần Esther ra về, tôi lại trở nên bối rối và cảm thấy còn khổ não hơn.

Tôi lắng nghe âm thanh trong thế giới của mình. Từ nhà bếp vang lên tiếng nước sôi lụp bụp với mùi của chanh và hành.

Hayriye đang luộc bí. Shevket và Orhan đang nô đùa và chơi trò kiếm sĩ trong sân dưới gốc cây lựu, tôi nghe tiếng la của chúng. Cha tôi ngồi lặng lẽ trong phòng kế bên. Tôi mở lá thư của Hasan ra đọc và yên tâm rằng chẳng có lý do gì để lo lắng. Tôi vẫn hơi sợ chú ấy hơn, và tự hào vì đã cưỡng lại được những nỗ lực của chú ấy muốn làm tình với tôi khi chúng tôi còn sống chung một nhà. Kế đến, tôi đọc lá thư của Siyah, cầm thật nhẹ nhàng như thể nó là một chú chim mỏng manh yếu ớt, và những ý tưởng của tôi bị xáo trộn. Tôi không đọc lại những lá thư. Mặt trời ló ra sau những đám mây và tôi chợt nghĩ nếu có một đêm tôi bước vào phòng ngủ của Hasan và làm tình với chú ấy thì không ai, trừ đấng Allah, sẽ là người khôn ngoan hơn tôi cả. Chú ấy giống người chồng mất tích của tôi; hẳn là cũng một mà thôi. Đôi khi một ý tưởng kỳ lạ giống như vậy hiện ra trong đầu tôi. Khi mặt trời nhanh chóng sưởi ấm tôi, tôi có thể cảm thấy thân thể mình: da tôi, cổ tôi, thậm chí hai núm vú tôi. Orhan lẻn vào khi ánh nắng chiếu vào tôi qua cánh cửa mở.

“Mẹ ơi mẹ đọc cái gì vậy?” nó hỏi.

Thôi được, còn nhớ tôi có nói rằng tôi không đọc lại những lá thư Esther vừa đưa không? Tôi đã nói dối. Tôi đang đọc lại chúng. Lần này, tôi thực sự xếp chúng lại và giấu vào áo choàng.

“Lại đây, con, ngồi lên đùi mẹ này,” tôi nói với Orhan. Nó làm theo. “Ô. Con nặng quá rồi. Cầu Thượng đế che chở con, con lớn thật rồi,” tôi nói và hôn nó. “Con lạnh như nước đá ấy...”

“Mẹ ấm quá, mẹ à,” nó ngắt lời, rúc vào ngực tôi.

Chúng tôi tựa sát vào nhau, vui sướng ngồi như vậy trong im lặng. Tôi hít gáy nó và hôn nó. Tôi siết chặt nó. Chúng tôi ngồi im.

“Con nhột quá,” sau cùng nó nói.”

“Nói mẹ nghe nào,” tôi nói với giọng nghiêm túc. “Nếu Bụt hiện ra và cho con một điều ước, con ước gì?”

“Con muốn Shevket biến mất.”

“Còn gì nữa? Con có muốn có cha không?”

“Không, chừng nào lớn lên con sẽ cưới mẹ.”

Không phải tuổi già, việc mất đi nhan sắc hay thậm chí mất chồng và tiền bạc là điều tệ hại nhất trong số các tai ương, mà điều thật sự khủng khiếp là không có ai ghen tỵ với bạn. Tôi thả thân thể ấm áp của Orhan xuống. Nghĩ rằng một người đàn bà tội lỗi như tôi phải cưới một ai đó có lòng tốt, tôi đi sang gặp cha tôi.

“Đức vua sẽ ban thưởng cho cha sau khi tận mắt chứng kiến cuốn sách của Ngài đã hoàn tất,” tôi nói. “Cha sẽ đến Venice lần nữa.”

“Ta không chắc,” cha tôi nói. “Vụ sát nhân này khiến ta đau đớn. Nhưng kẻ thù của chúng ta rõ ràng rất mạnh.”

“Con biết rằng tình huống của riêng con đã khuyến khích họ, gây ra những hiểu lầm và những hy vọng vô căn cứ.”

“Ý con là sao?”

“Con phải lấy chồng càng sớm càng tốt.”

“Cái gì?” cha tôi nói. “Lấy ai? Mà con đã có chồng rồi. Ý này ở đâu ra vậy?” ông hỏi. “Ai muốn cưới con? Ngay cả nếu chúng ta tìm ra một người hấp dẫn và biết điều,” người cha hiểu biết của tôi nói, “Cha không tin chúng ta có thể chấp nhận anh ta, con hiểu mà.” Ông kết luận tình huống bất hạnh của tôi như sau: “Con phải hiểu rằng có những vấn đề phức tạp và lớn lao mà chúng ta phải giải quyết trước khi con có thể tái giá.” Sau một hồi lâu im lặng, ông nói thêm, “Con muốn rời bỏ ta phải không, con yêu?”

“Tối qua con mơ thấy chồng con đã chết,” tôi nói. Tôi không khóc theo kiểu một phụ nữ vốn thực sự có một giấc mơ như thế sẽ khóc.

“Giống như những người biết cách hiểu một bức tranh, người ta phải biết cách hiểu một giấc mơ.”

“Theo ý cha là con nên mô tả lại giấc mơ đó à?”

Im lặng một lát: Chúng tôi mỉm cười với nhau, nhanh chóng luận ra - như những người thông minh thường làm - tất cả những kết luận có thể có từ vấn đề này.

“Bằng cách giải thích giấc mơ của con, ta có thể tin chắc chồng con đã chết, nhưng cha chồng, em chồng con và quan tòa, những kẻ buộc phải lắng nghe chúng ta, sẽ đòi hỏi bằng chứng cụ thể hơn.”

“Con với bọn trẻ đã về ở đây hai năm rồi và bên nhà chồng con không thể buộc con trở về...”

“Bởi vì họ biết rất rõ họ phải chịu trách nhiệm về những điều sai quấy mà chính họ đã làm.” cha tôi nói. “Điều này không có nghĩa là họ sẽ sẵn lòng cho phép con đề nghị ly dị.”

“Nếu chúng ta là tín đồ của giáo phái Maliki hay Hanbeli,” tôi nói, “thì quan tòa, khi thừa nhận chồng con vắng mặt đã hơn bốn năm rồi, họ sẽ chấp nhận cho con ly dị cộng với việc bảo đảm một khoản trợ cấp cho con. Nhưng vì chúng ta. nhờ ơn thánh Allah, là tín đồ Hanefi, nên chúng ta không thể chọn cách này.”

“Đừng nói tới gã theo phái Shafi tạm thay quan tòa Uskuda với ta. Đó không phải là một kế hoạch hay ho.”

“Mọi phụ nữ Istanbul có chồng mất tích ngoài mặt trận đều đến chỗ ông ấy mang theo nhân chứng để được ly dị. Vì ông ta theo phái Shafi, ông ta chỉ hỏi, ‘Có phải chồng bà mất tích không?’, ‘Ông ta mất tích bao lâu rồi?’, ‘Bà có rắc rối gì trong việc kiếm đủ tiền để sống không?’, ‘những người này là nhân chứng của bà hả?’, và chấp nhận cho ly dị ngay.”

“Shekure yêu quý của ta, ai đã cấy những kế hoạch như thế vào đầu con vậy?” ông hỏi. “Ai đã lấy mất lý trí của con thế?”

“Sau khi con được ly dị vĩnh viễn, nếu có một người thật sự lấy mất lý trí của con, dĩ nhiên cha sẽ nói cho con biết ai có thể là người như vậy và con sẽ không bao giờ chất vấn quyết định của cha về chồng con nữa.”

Người cha khôn ngoan của tôi, nhận ra con gái ông cũng khôn ngoan như ông, bắt đầu chớp mắt. Cha tôi sẽ chớp mắt nhanh như thế này vì ba lý do: 1. Bởi ông đang trong tình thế khó xử và ông đang suy tính để tìm một lối thoát khôn khéo; 2. Bởi ông sắp khóc vì sầu khổ và tuyệt vọng; 3. Bởi ông đang trong tình thế khó xử, nên kết hợp khéo léo lý do một và hai để tạo ấn tượng rằng ông có thể khóc vì sầu khổ.

“Con sẽ mang bọn trẻ đi và bỏ lại người cha già này sao?” Con có nhận ra rằng vì cuốn sách của chúng ta” - phải, ông nói cuốn sách của chúng ta” - nhà ta sợ bị giết, rồi bây giờ con lại muốn mang bọn trẻ đi, ta chỉ còn nước chờ đợi cái chết thôi.”

“Cha thân yêu, chẳng phải cha luôn miệng nói rằng chỉ có ly dị mới cứu con khỏi gã em chồng vô tích sự đó sao?”

“Ta không muốn con bỏ ta. Một ngày nào đó chồng con sẽ trở về. Thậm chí dù nó không về thì cũng chẳng hại gì việc con đã có chồng - miễn là con sống trong nhà này với ta.”

“Con chẳng muốn gì hơn được sống trong nhà này với cha.”

“Con yêu, chẳng phải con mới nói rằng con muốn lấy chồng càng sớm càng tốt sao?”

Đây là ngõ cụt mà bạn lọt vào khi tranh luận với cha: Rốt cuộc thì, chính bạn cũng sẽ tin chắc bạn sai.

“Con có nói”, tôi nói, nhìn chằm chằm xuống mặt đất trước mặt. Rồi, cố kìm nước mắt và được khích lệ bởi sự thật về những gì đang nảy ra trong đầu, tôi nói: “Vậy là con sẽ không bao giờ tái giá được sao?”

“Có một chỗ đặc biệt trong trái tim ta dành cho đứa con rể nào không mang con rời xa ta. Ai là kẻ theo đuổi con, liệu nó có chịu sống trong nhà này với chúng ta không?”

Tôi im lặng. Dĩ nhiên, cả hai chúng tôi đều biết, cha tôi sẽ không bao giờ coi trọng một đứa con rể chịu về sống chung với chúng tôi, mà dần dần sẽ khinh miệt và áp chế chàng rể. Và khi sự khinh thường khéo léo và tệ hại cua người cha dành cho đứa con rể chịu vào sống chung nhà vợ xảy ra thì tôi sẽ nhanh chóng không còn muốn làm người vợ đó nữa.

“Con biết rằng trong tình huống của con, nếu không có sự chấp thuận của người cha thì việc cưới hỏi là hoàn toàn không thể, đúng không? Ta không muốn con lấy chồng, và ta không cho phép con làm thế...”

“Con không muốn lấy chồng, con chỉ muốn ly dị.”

“…bởi vì thú tính cẩu thả của một người vốn chẳng quan tâm đến gì khác ngoài những mối quan tâm của riêng anh ta có thể làm con thương tổn. Con biết là ta rất yêu con mà, đúng không, Shekure yêu quý? Ngoài ra chúng ta còn phải hoàn thành cuốn sách này nữa”.

Tôi chẳng nói gì. Vì nếu tôi nói tiếp - bị thúc đẩy bởi Quỷ sứ, kẻ biết rõ tôi đang giận dữ - tôi sẽ nói thẳng vào mặt cha tôi rằng tôi biết ông đêm đêm vẫn ngủ với Hayriye. Nhưng liệu có thích hợp với một phụ nữ như tôi khi thừa nhận rằng cô ta biết người cha già của cô ngủ với một nữ nô lệ không?

“Ai muốn cưới con vậy?”

Tôi nhìn xuống đất và im lặng, không phải vì bối rối, mà vì giận dữ. Và chính việc nhận ra mức độ giận dữ của mình, nhưng không thể phản ứng lại bằng một thái độ nào đó, lại càng khiến tôi tức tối hơn. Lúc đó, tôi hình dung cha tôi và Hayriye trên giường trong tư thế đáng tởm và lố bịch kia. Tôi chực trào nước mắt khi nói:

“Có nồi bí luộc trên bếp, con sợ nó khét.”

Tôi chạy qua phòng cạnh cầu thang, căn phòng có cửa sổ nhìn ra giếng luôn bị đóng lại. Trong bóng tối, tôi quờ tay tìm tấm nệm cuộn, trải ra rồi nằm xuống. Ôi, thật dễ chịu xiết bao, được nằm xuống mà ngủ thiếp trong khi nước mắt tuôn tràn như đứa trẻ bị phạt oan! Và thật đau khổ khi biết rằng tôi là người duy nhất trên thế giới này thích tôi. Khi tôi khóc trong nỗi cô độc, chỉ có bạn, người nghe được tiếng thổn thức rên rỉ của tôi, là có thể giúp tôi. Một lát sau, tôi nhận ra Orhan đã nằm dài trên giường tôi. Nó ngả đầu vào ngực tôi. Tôi nhận ra nó đang thở dài, và cũng khóc. Kéo nó sát vào mình, tôi ôm nó.

“Nín đi mẹ.” Một lát sau nó nói. “Cha đánh trận xong là về mà.”

“Sao con biết?”

Nó không trả lời. Tôi yêu nó quá, tôi siết nó vào ngực đến độ tôi quên hết mọi ưu phiền. Trước khi ôm chặt Orhan mềm mại và mỏng manh của tôi mà ngủ thiếp đi, hãy để tôi thú nhận mối quan tâm cấp bách của tôi: tôi hối tiếc, vì tức tối cha tôi mà tôi đã cho bạn biết về chuyện giữa cha tôi với Hayriye. Không, tôi không nói dối, nhưng tôi vẫn bối rối quá, đến độ tôi thấy tốt nhất là bạn nên quên chuyện đó đi. Hãy làm như tôi chưa từng đề cập đến bất cứ chuyện gì, như thể cha tôi với Hayriye không hề có dan díu gì nhu thế, được không?

CHƯƠNG 17
TÔI LÀ DƯỢNG YÊU QUÝ CỦA CHÁU

Than ôi, thật khó nghĩ khi có một đứa con gái. Khi nó khóc trong phòng kế bên, tôi nghe tiếng thổn thức của nó, nhưng tôi không thể làm gì ngoài việc nhìn vào những trang sách tôi đang cầm trên tay. Trên một trang của tập sách tôi đang cố đọc, cuốn Kitab aL-Qiyamah ([35]), viết rằng ba ngày sau khi chết, linh hồn của con người, được Allah cho phép, sẽ đến thăm thân xác mà nó từng lưu trú. Khi nhìn thấy trạng thái đáng thương của thân xác nó nằm trong huyệt, đầy máu, đang thối rữa và rỉ nước, linh hồn sẽ đau lòng, khổ sở, rầu rĩ và ứa lệ, nhìn này, sợi dây xác phàm khốn khổ của tôi, thân xác cũ thảm hại của tôi. Lập tức, tôi nghĩ đến kết thúc cay đắng của Zarif Kính mến dưới đáy giếng, linh hồn anh ta hẳn bối rối như thế nào khi trở lại thăm và nhận ra xác của mình không nằm trong huyệt mà nằm dưới đáy giếng.

Khi tiếng khóc của Shekure tắt hẳn, tôi dẹp cuốn sách về cái chết sang một bên. Tôi mặc chiếc áo lót len, quấn chặt khăn choàng len dày quanh eo cho ấm bụng, mặc chiếc quần dài viền lông thỏ và khi sắp rời nhà, quay sang tôi phát hiện Shevket ngay cửa.

“Ông ngoại đi đâu vậy?”

“Cháu vào nhà đi. Ta đến đám tang.”

Tôi băng qua những con đường đầy tuyết, giữa những ngôi nhà nghèo nàn xiêu vẹo hầu như không thể đứng thẳng được, băng qua những khu bị hỏa hoạn thiêu rụi. Tôi đi bộ hồi lâu, bằng những bước thận trọng của một người có tuổi cố sao cho không trượt ngã xuống tuyết. Tôi đi qua những khu nhà, những khu vườn và cánh đồng hẻo lánh. Tôi đi qua những cửa hàng bán xe ngựa và bánh xe ngựa, qua các tiệm làm đồ sắt, làm yên ngựa những tiệm chế tạo yên cương và đóng móng ngựa trên đường ra tới bức tường bao quanh thành phố.

Tôi không chắc tại sao họ quyết định bắt đầu cuộc đưa tang mãi từ Thánh đường Mihrimah gần Cổng Edirne. Tại thánh đường tôi ôm những người anh em kiêu ngạo và bối rối của người chết, họ có vẻ giận dữ và ngoan cố. Giới tiểu họa và thư pháp chúng tôi ôm nhau khóc. Trong khi cầu nguyện trong màn sương mù xám xịt bất ngờ đổ xuống nuốt chửng mọi thứ, ánh mắt tôi hướng về quan tài nằm trên bục tang lễ bằng đá của thánh đường và, tin tôi đi, tôi cảm thấy quá căm giận tên đê tiện đã phạm phải tội ác này đến độ bài kinh Allahumme Barik cũng trở thành lộn xộn trong đầu tôi.

Sau những bài kinh cầu, trong khi giáo đoàn ghé vai khiêng quan tài, tôi vẫn lẩn quẩn giữa những nhà tiểu họa và thư pháp.

Leylek và tôi đã quên rằng trong nhiều đêm, khi chúng tôi ngồi dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu làm việc với cuốn sách của tôi cho đến sáng, anh ta đã cố thuyết phục tôi về sự kém cỏi của Zarif Kính mến trong việc mạ vàng, về sự thiếu cân bằng trong cách sử dụng màu của anh ta - anh ta tô mọi thứ màu xanh nước biển để nó trông phong phú hơn! Cả hai chúng tôi đều quên rằng tôi đã thực sự tin anh ta, bằng cách công nhận rằng “Nhưng không ai khác đủ tư cách làm công việc này,” và một lần nữa chúng tôi ôm nhau khóc. Sau đó Zeytin nhìn tôi đầy tôn trọng và thân thiện trước khi ôm tôi - một người biết cách ôm là một người tốt và những thái độ này làm tôi vui đến nỗi tôi nhớ lại rằng trong số các họa sĩ của xưởng vẽ, anh ta là người tin tưởng nhất vào cuốn sách của tôi.

Trên những bậc thềm dẫn xuống sân chính tôi nhận ra mình đang đứng cạnh Thầy Osman Trưởng ban trang trí. Cả hai chúng tôi lúng túng không biết nói gì, một khoảnh khắc căng thẳng và kỳ lạ. Một trong những anh em của người xấu số bắt đầu khóc, và ai đó la to, “Thượng đế thật vĩ đại.”

“Tới nghĩa trang nào?” Thầy Osman hỏi tôi cho có hỏi.

Câu trả lời “Tôi không biết” vì lý do nào đó nghe có vẻ thù địch. Bối rối và không suy nghĩ tôi hỏi người đứng cạnh tôi trên các bậc thang bằng chính câu hỏi đó, “Tới nghĩa trang nào? Nghĩa trang cạnh Cổng Edirne hả?”

“Eyup,” tay ngốc trẻ có râu, vẻ cáu kỉnh, liền đáp.

“Eyup,” tôi quay sang nói với vị thầy này, nhưng ông ta đã nghe thấy những gì tay ngốc đó nói. Rồi ông ta nhìn tôi như muốn nói, “Tôi hiểu,” theo cách để cho tôi biết rằng ông ta không muốn cuộc gặp gỡ của chúng tôi kéo dài thêm chút nào nữa.

Không đề cập đến ảnh hưởng của tôi đối với việc Đức vua ngày càng quan tâm đến những phong cách hội họa Tây vực, dĩ nhiên Thầy Osman bục bội chuyện Đức vua đã ra lệnh cho tôi giám sát việc viết, trang trí và minh họa những bản thảo có tô điểm, mà tôi đã mô tả là “bí mật.” Thỉnh thoảng Đức vua buộc Thầy Osman vĩ đại sao chép một chân dung Đức vua, do một người Venice làm. Tôi biết Thầy Osman cho rằng tôi chịu trách nhiệm về việc phải bắt chước nhà họa sĩ đó, về việc làm bức tranh kỳ cục đó, mà ông ta làm với sự kinh tởm, gọi kinh nghiệm này là “tra tấn.” Sự phẫn nộ của ông là có lý do.

Đứng giữa đường cầu thang một lát, tôi ngước nhìn bầu trời.

Khi tôi tin chắc là mình bị bỏ lại phía sau, tôi tiếp tục bước xuống những bậc thềm lạnh giá. Tôi chưa xuống được hai bậc - dù rất chậm - thì có người nắm lấy cánh tay và ôm tôi: Siyah.

“Trời lạnh quá,” nó nói. “Chắc dượng lạnh lắm.”

Tôi không chút nghi ngờ đây chính là người làm xáo trộn đầu óc của Shekure. Sự tự tin qua cách nó nắm lấy cánh tay tôi đã đủ chứng minh. Có điều gì đó trong thái độ của nó muốn nói. “Tôi đã làm việc trong mười hai năm và đã thực sự trưởng thành.”

Khi chúng tôi xuống tới chân cầu thang, tôi nói với nó rằng tôi chờ nó báo cáo lại những gì nó học biết được ở xưởng làm việc.

“Đi tiếp đi con,” tôi bảo. “Đi nhanh lên để bắt kịp đoàn đưa tang.” Nó sửng sốt, nhưng không lộ ra. Cách nó buông cánh tay tôi với sự dè dặt và đi tiếp tới trước tôi khiến tôi hài lòng. Nếu tôi giao Shekure cho nó, liệu nó có đồng ý sống chung nhà với chúng tôi không?

Chúng tôi rời thành phố qua Cổng Edirne. Tôi thấy quan tài sắp chìm vào màn sương cùng với đám đông những nhà minh họa, thư pháp cùng thợ học việc đang khiêng nó trên vai mà đi nhanh xuống đồi về hướng cửa sông Halic. Họ bước khá nhanh, họ đã đi hết nửa đoạn đường chạy đến thung lũng đầy tuyết dẫn vào Eyup. Trong màn sương lặng lẽ, xa về phía trái, ống khói của xưởng nến Hanim Sultan Charity vui vẻ nhả khói. Dưới bóng tường thành, có những xưởng thuộc da và lò mổ hoạt động sôi nổi phục vụ cho những người bán thịt Hy Lạp ở Eyup. Mùi đồ lòng bay ra từ những nơi ấy trùm khắp thung lũng, lan khắp mái vòm mờ mờ của Thánh đường Eyup và nghĩa trang đầy những cây tuyết tùng cạnh đó. Sau khi đi bộ hồi lâu, tôi nghe tiếng trẻ con nô đùa bên dưới trong khu dân cư Do Thái mới xây ở Balat vọng lên.

Khi chúng tôi đến vùng đất bằng phẳng của nghĩa trang Eyup, Kelebek tiến đến chỗ tôi, và theo kiểu cách nóng nảy thường lệ, anh ta đột ngột nêu lên đề tài của mình:

“Zeytin với Leylek là kẻ đứng đàng sau trò thô bỉ này,” anh ta nói. “Giống như mọi người, họ biết tôi với người chết có quan hệ rất xấu. Họ biết ai cũng rõ điều này. Hai đứa tôi có một sự đố kỵ, thậm chí là thù địch và đối kháng công khai, quanh việc ai sẽ lên lãnh đạo xưởng sau Thầy Osman. Bây giờ họ mong chờ tội lỗi trút xuống đầu tôi, hay ít nhất, Trưởng Ngân khố, và dưới ảnh hưởng của ông ta, cả Đức vua nữa sẽ lánh xa tôi, mà không, lánh xa tất cả chúng ta.”

“Anh nói ‘chúng ta’ đó là ai vậy?”

“Những người trong chúng ta vốn tin rằng đạo đức cũ phải được duy trì tại xưởng, rằng chúng ta phải theo con đường được những bậc thầy Ba Tư vạch sẵn, rằng một nghệ sĩ không được minh họa bất cứ cảnh nào chỉ vì tiền. Thay vì vũ khí, quân đội, nô lệ và những cuộc chinh phục, chúng ta tin rằng những huyền thoại, truyền thuyết và câu chuyện xưa phải được một lần nữa đưa vào sách vở của chúng ta. Chúng ta không được từ bỏ những khuôn mẫu cũ. Những nhà tiểu họa đích thực không nên la cà ở các cửa hàng trong chợ và vẽ bất cứ vật cũ nào, những bức khiếm nhã, để lấy vài đồng tiền. Đức vua sẽ thấy chúng ta đúng.”

“Anh đang tự buộc tội mình một cách điên rồ,” tôi nói thế để anh ta dẹp cái thói huênh hoang đó đi. “Tôi tin chắc rằng họa xưởng này không thể chứa chấp bất cứ ai có khả năng phạm phải một tội ác như thế. Tất cả các bạn là anh em với nhau. Chẳng có hại gì cho lắm khi ta minh họa vài thứ mà trước đây chưa từng được vẽ, ít nhất thì không có hại gì lớn đến mức trở thành cơ hội cho sự thù địch.”

Ngẫu nhiên mà khi lần đầu tôi nghe tin tức khủng khiếp này. tôi có một nhận thức bất chợt nào đó. Kẻ giết Zarif Kính mến là một trong những thợ cả hạng nhất trong họa xưởng của cung điện và hắn nằm trong đám đông trước mặt tôi, đang leo lên ngọn đồi dẫn đến nghĩa trang. Tôi cũng tin chắc rằng tên giết người sẽ tiếp tục trò quái ác và sách động của hắn, rằng hắn là một kẻ thù của cuốn sách tôi đang làm, và rất có thể hắn đã đến nhà tôi để lấy đi vài tác phẩm mà chúng tôi đang minh họa và vẽ. Liệu có phải Kelebek, giống như hầu hết các nghệ sĩ thường xuyên lui tới nhà tôi, cũng đã yêu Shekure? Như anh ta đã quả quyết, liệu anh ta có quên những lần tôi yêu cầu anh ta vẽ những bức tranh đối lập với quan điểm của anh ta, hay anh ta chỉ chọc tức tôi với kỹ năng lão luyện mà thôi?

Không, một lát sau tôi nghĩ anh ta chắc không chọc tức tôi. Kelebek, như những thợ cả minh họa khác, rõ ràng đã chịu ơn tôi: Bởi những món quà và tiền cho các nhà tiểu họa ngày càng ít, do chiến tranh và một phần bởi sự thiếu quan tâm của Đức vua, đã có lúc nguồn thu nhập thêm quan trọng duy nhất của họ là những gì họ kiếm được khi làm việc cho tôi. Tôi biết họ ganh nhau để được tôi chú ý, và vì lý do này - nhưng không chỉ lý do này - tôi đã gặp từng người trong bọn họ tại nhà tôi, điều đó khó lòng là cơ sở để họ thù địch với tôi. Tất cả các nhà tiểu họa của tôi đã đủ trưởng thành để cư xử một cách thông minh, để thành thật tìm ra một lý do để khâm phục một người mà họ mang ơn vì đã đem lại lợi tức cho họ.

Để phá vỡ sự im lặng và để bảo đảm rằng chủ đề trước đó của cuộc nói chuyện sẽ không được nhắc lại, tôi nói “Ồ, hay nhỉ! Họ đưa quan tài lên đồi cũng nhanh như khi mang nó xuống.”

Kelebek cười phô hết cả răng: “Do trời lạnh.”

Anh chàng này thực sự có thể giết người sao, tôi tự hỏi, chẳng hạn vì lòng đố kỵ hắn có thể giết tôi không? Hắn có lý do sau đây: Người này đang hạ thấp giá trị tôn giáo của tôi. Không, nhưng anh ta là một thợ cả giỏi, một hiện thân hoàn hảo của tài năng, tại sao anh ta cần phải giết người? Tuổi tác không chỉ có nghĩa là phải căng sức mình ra để vượt dốc, tôi kết luận, mà còn là không sợ hãi cái chết. Nó có nghĩa là không còn lòng ham muốn, bước vào phòng ngủ của một nữ nô lệ không vì cơn kích động, mà vì thói quen. Trong cơn bùng vỡ của bản năng, tôi nói thẳng vào mặt anh ta quyết định của tôi:

“Tôi không làm tiếp cuốn sách nữa.”

“Cái gì?” Kelchek nói, vẻ mặt anh ta thay đổi.

“Có điều gì xui xẻo trong đó. Đức vua đã cắt giảm tài trợ. Anh nhớ nói lại cho Zeytin với Leylek biết nghe.”

Có lẽ anh ta còn hỏi nhiều hơn, nhưng chúng tôi nhận ra mình đang trên đoạn dốc của sân nghĩa trang giữa hàng cây tuyết tùng dày đặc, những cây dương xỉ cao ngất và những bia mộ. Khi đám đông bao quanh huyệt, dấu hiệu duy nhất cho tôi biết người ta đang hạ cái xác xuống huyệt ngay lúc đó là cường độ tiếng khóc tiếng nức nở cùng những tiếng than van bismillahi và ala milleti Resulullah tăng lên.

“Giở vải che mặt anh ấy ra.” ai đó nói.

Họ giở tấm vải liệm trắng ra, và họ hẳn đã mắt đối mắt với xác chết nếu con mắt thực sự vẫn còn trong cái đầu giập nát đó. Tôi đứng phía sau nên không thấy được gì. Tôi đã từng nhìn vào mắt Thần chết, không phải ở dưới huyệt, mà ở một nơi hoàn toàn khác...

Một ký ức: Cách nay ba mươi năm, ông nội của Đức vua, Người bản xứ Thiên đàng, đã quyết định dứt khoát sẽ chiếm Cyprus từ tay người Venice. Thượng thư Tôn giáo vụ Ebussuut Kính mến, khi kể lại rằng hòn đảo này từng được chọn làm nguồn cung cấp lương thực cho Mecca và Medina, đã ra một cáo tri ít nhiều tuyên bố rằng thật không thích hợp khi một hòn đảo vốn đã giúp nuôi sống những thánh địa mà nay vẫn nằm dưới sự kiểm soát của bọn người Thiên chúa giáo ngoại đạo. Nhiệm vụ gian nan kế tiếp, tức là thông báo cho Venice biết cái quyết định bất ngờ rằng họ phải giao nộp hòn đảo, lại rơi vào tôi. Do đó mà tôi có dịp du lịch đến các nhà thờ lớn của Venice. Dù tôi thán phục những cây cầu và lâu đài của họ, nhưng cái tôi mê mẩn nhất là những bức tranh treo trong nhà của người Venice. Tuy nhiên, giữa tình cảnh lúng túng này, tôi vẫn tin vào lòng hiếu khách được người Venice thể hiện và trình bày bản cáo tri đầy đe dọa đó thông báo với họ một cách ngạo mạn, kiêu kỳ rằng Đức vua muốn có Cyprus. Người Venice quá giận dữ đến độ trong hội nghị được triệu tập khẩn cấp họ đi đến quyết định rằng thậm chí việc thảo luận một cáo tri như thế cũng là điều không thể chấp nhận. Những đám đông phẫn nộ đã buộc tôi phải tự nhốt mình trong lâu đài của viên pháp quan. Và khi một số tên quá khích tìm cách lọt qua được lính canh và những người gác cửa mà bắt đầu tấn công tôi, hai trong các binh lính của ngài pháp quan đã hộ tống tôi vượt qua một trong những đường hầm bí mật đến một lối thoát ra một con kênh. Ở đó, trong đám sương mù không khác gì đám sương mù này đây, tôi chợt nghĩ người chèo thuyền nhợt nhạt và cao lênh khênh trong bộ đồ trắng, người nắm lấy cánh tay tôi không ai khác hơn là Thần chết. Tôi bắt gặp hình phản chiếu của tôi trong mắt ông ta.

Lòng đầy khao khát, tôi mơ hoàn tất cuốn sách của tôi trong vòng bí mật và trở lại Venice. Tôi đang đến gần huyệt mộ, đã được lấp đất cẩn thận. Ngay giây phút này, các thiên thần đang thẩm vấn anh ta trên trời, hỏi xem anh ta là nam hay nữ, tôn giáo của anh ta là gì, anh ta công nhận ai là đấng tiên tri của mình. Khả năng về cái chết của tôi đã nảy ra trong đầu tôi.

Một con quạ sà xuống cạnh tôi. Tôi trìu mến nhìn vào đôi mắt Siyah và yêu cầu nó khoác tay tháp tùng tôi trên đường trở về. Tôi bảo nó rằng tôi chờ gặp nó ở nhà tôi vào sáng sớm hôm sau để làm tiếp cuốn sách. Thực lòng tôi đã tưởng tượng đến cái chết của chính mình, và một lần nữa, nhận ra rằng cuốn sách phải được hoàn tất, bằng mọi giá.

CHƯƠNG 18
TÔI SẼ BỊ GỌI LÀ KẺ SÁT NHÂN

Họ ném đất bùn lạnh lẽo lên cái xác méo mó biến dạng của Zarif Kính mến bạc mệnh và tôi khóc nhiều hơn bất kỳ ai. Tôi gào to, “Tôi muốn chết cùng anh ấy!” và “Hãy cho tôi nằm chung mộ với anh ấy!” Và họ ôm eo tôi lại để tôi đừng nhào xuống. Tôi thở gấp, và họ ấn bàn tay lên trán tôi, kéo đầu tôi ngửa ra sau để tôi có thể thở. Qua cái nhìn của họ hàng người chết, tôi cảm thấy có lẽ tôi đã quá cường điệu tiếng nức nở kêu gào; tôi liền bình tâm lại. Dựa vào nỗi buồn quá mức của tôi, những kẻ nhiều chuyện trong xưởng có thể cho rằng Zarif Kính mến với tôi yêu nhau.

Tôi nấp đằng sau một cây tiêu huyền cho đến khi đám tang kết thúc để tránh lôi kéo thêm sự chú ý về phía anh. Một người bà con của tên ngốc mà tôi đã tống xuống Địa ngục - một kẻ thậm chí còn đần độn hơn người chết - phát hiện tôi đằng sau gốc cây và nhìn sâu vào mắt tôi với cái nhìn mà hắn cho là đầy ý nghĩa. Hắn ôm tôi một lát, rồi tên ngốc này nói: “Anh là ‘Thứ bảy’ hay ‘Thứ tư’?”

“ ‘Thứ tư’ có một thời là nghệ danh của người quá cố này,” tôi nói. Hắn im lặng.

Câu chuyện đằng sau những nghệ danh này, vốn ràng buộc chúng tôi lại với nhau giống như một thỏa ước mật, thật đơn giản: Hồi chúng tôi còn học việc, khi nhà tiểu họa Osman vừa từ phụ tá thợ cả tiến lên thành thợ cả, tất cả chúng tôi có chung lòng kính trọng, ngưỡng mộ và yêu thương sâu sắc đối với thầy. Ông là một đại nghệ sĩ và ông đã dạy chúng tôi mọi thứ, vì Thượng đế đã ban cho ông một năng khiếu nghệ thuật tuyệt vời và trí thông minh của một âm hồn. Mỗi sáng, theo yêu cầu đối với các thợ học việc, một đứa trong bọn chúng tôi sẽ đến nhà thầy, rồi kính cẩn theo sau thầy trên con đường đến xưởng, ôm bút và hộp đựng cọ của thầy, túi và cặp đựng đầy giấy của thầy. Chúng tôi rất thích được gần ông đến độ chúng tôi thường tranh cãi và đánh nhau để quyết định xem đứa nào sẽ được đi vào ngày nào đó.

Thầy Osman có một đứa học trò cưng. Nhưng nếu nó lúc nào cũng được đi, điều đó sẽ thổi bùng ngọn lửa ngồi lê đôi mách bất tận và những chuyện đùa vô vị mà chắc chắn rồi sẽ đầy trong xưởng. Vì thế vị thầy vĩ đại này đã quyết định rằng mỗi đứa chúng tôi sẽ được giao cho một ngày nhất định trong tuần. Vị thầy vĩ đại này làm việc vào thứ sáu và ở nhà vào thứ bảy. Con trai ông, người ông rất yêu - kẻ sau này phản bội ông và chúng tôi bằng cách từ bỏ nghề này - sẽ tháp tùng cha vào các ngày thứ hai như những thợ học việc bình thường. Cũng có một người anh em cao gầy của chúng tôi được gọi là ‘Thứ năm’, một nhà tiểu họa tài năng hơn tất cả chúng tôi, song đã chết khi còn trẻ vì chứng sốt của một căn bệnh lạ. Zarif Kính mến, cầu Chúa phù hộ anh ta, sẽ đi vào ngày thứ tư, vì thế được gọi là ‘Thứ tư’. Về sau vị thầy vĩ đại của chúng tôi đổi tên chúng tôi một cách đầy yêu thương và ý nghĩa từ thứ hai thành “Zeytin” (“ôliu”), từ thứ sáu thành “Leylek” (“Cò”) và từ “Chủ nhật” thành “Kelebek” (“Bướm”), còn người chết hôm nay thì thầy đặt lại tên là “Zarif” (“Tao nhã”), ý muốn ám chỉ vẻ trau chuốt trong cách mạ vàng của anh ta. Vị thầy vĩ đại này hẳn đã nói, “Chào ‘Thứ tư’ sáng nay con khỏe không?” với Zarif quá cố như thầy vẫn thường chào tất cả chúng tôi hồi đó. Khi tôi nhắc lại cách thầy thường chào hỏi tôi, tôi nghĩ mắt tôi hẳn đã đầy lệ: Thầy Osman khâm phục chúng tôi, và thầy có thể ứa nước mắt khi nhìn vẻ đẹp trong tác phẩm của chúng tôi; thầy sẽ hôn bàn tay và cánh tay chúng tôi, và bất chấp những trận đòn, chúng tôi cảm thấy như mình đang ở Thiên đàng khi còn là những thợ học việc; và vì thế tài năng của chúng tôi bừng nở cùng tình yêu của thầy. Thậm chí thói ghen tỵ, vốn phủ bóng lên những năm tháng hạnh phúc đó, hồi ấy cũng có một sắc thái khác.

Bây giờ tôi hoàn toàn bị chia cắt, giống như những nhân vật mà đầu và tay họ được thợ cả này vẽ và tô màu trong khi thân thể và quần áo của họ do một thợ khác vẽ. Khi một kẻ kính sợ Thượng đế như tôi bất ngờ trở thành kẻ sát nhân, nó cần có một thời gian để thích nghi. Tôi đã sử dụng giọng thứ hai, giọng thích hợp với một kẻ sát nhân, để tôi vẫn có thể sinh hoạt như thể cuộc sống cũ của tôi vẫn tiếp diễn. Hiện giờ tôi đang nói bằng giọng thứ hai chế giễu và xảo quyệt, cái giọng tôi giữ nằm ngoài cuộc sống thường lệ của tôi. Thỉnh thoảng, dĩ nhiên, các vị sẽ nghe giọng nói thường lệ, quen thuộc của tôi, giọng nói đó vẫn sẽ là giọng duy nhất của tôi nếu tôi không trở thành kẻ sát nhân.

Nhưng khi tôi nói với nghệ danh của mình, tôi sẽ không bao giờ nhận mình là mẻ sát nhân.” Đừng ai kết hợp hai giọng này lại với nhau, tôi không có phong cách riêng hay những khuyết điểm trong nghệ thuật để làm lộ thân phận giấu kín của mình đâu. Thực tế tôi tin rằng phong cách, hay đại loại như thế, bất cứ thứ gì giúp phân biệt họa sĩ này với họa sĩ khác, là một khuyết điểm không phải là cá tính, như một số người từng tuyên bố một cách ngạo mạn.

Tôi thừa nhận rằng trong tình huống của mình, điều này đặt ra một vấn đề. Bởi dù tôi có thể nói thông qua cái nghệ danh mà Thầy Osman đã ưu ái đặt cho tôi và được Enishte Kính mến sử dụng, bởi ông cũng ngưỡng mộ nó, nhưng thật không khôn ngoan nếu tôi muốn các vị đoán xem tôi là Kelebek, Zeytin hay Leylek. Vì nếu các vị làm thế các vị sẽ không do dự giao tôi cho những kẻ tra tấn của viên Chỉ huy đội cận vệ hoàng gia của Đức vua.

Và, tôi phải quan tâm đến những gì tôi nghĩ và nói. Thực tình tôi biết rằng các vị đang lắng nghe tôi ngay cả khi tôi đang suy ngẫm về những vấn đề riêng tư. Tôi không thể cho phép ai suy đoán cẩu thả từ những nỗi bất mãn của tôi hoặc những chi tiết của cuộc đời tôi mà qua đó các vị có thể kết tội tôi. Cả khi kể lại những chuyện “Alif”, “Ba”, và “Djim” tôi luôn chú ý đến cái nhìn của các vị.

Một bên gồm những chiến binh, những tình nhân, những ông hoàng, những anh hùng truyền thuyết mà tôi đã hàng chục ngàn lần minh họa đối mặt với bất cứ thứ gì được vẽ ở đó, trong thời điểm thần thoại đó - chẳng hạn, những kẻ thù họ đang giao chiến, những con rồng họ đang giết, hoặc những thiếu nữ xinh đẹp mà họ đang nhỏ nước mắt khóc thương. Nhưng một khía cạnh khác, và mặt bên kia của thân thể họ, lại đối mặt với người yêu sách vở, kẻ tình cờ nhìn vào bức tranh tráng lệ này. Nếu tôi có phong cách và tính cách, nó không chỉ ẩn trong tác phẩm nghệ thuật của tôi mà cả trong tội ác và lời nói của tôi nữa! Vâng, hãy cố khám phá xem tôi là ai qua màu sắc và lời nói của tôi!

Tôi cũng biết rằng nếu các vị tóm được tôi, nó sẽ là nguồn an ủi cho linh hồn khốn khổ của Zarif Kính mến bất hạnh. Họ đang xúc đất trút lên anh ta trong khi tôi đứng đây dưới hàng cây, giữa bầy chim véo von, nhìn dòng nước lấp lánh vàng của sông Halic và những mái vòm xám xịt của Istanbul, và một lần nữa nhận ra diệu kỳ biết bao khi còn được sống. Zarif Kính mến đáng tội ngay sau khi anh ta gia nhập hàng ngũ của tay thuyết giáo hung hăng xứ Erzurum, anh ta hoàn toàn không còn thích tôi; nhưng trong hai mươi lăm năm cùng minh họa những cuốn sách cho Đức vua, có nhiều lúc chúng tôi thấy rất gần gũi nhau. Cách nay hai mươi năm, chúng tôi trở thành bạn bè trong khi đang làm một cuốn lịch sử hoàng gia bằng thơ cho phụ hoàng quá cố của Đức vua hiện nay. Nhưng khi làm tám bản minh họa đi kèm một tập thơ của Fuzuli chúng tôi lại càng thân thiết hơn bao giờ hết.

Hồi đó, một tối mùa hè, như một nhượng bộ cho những ước muốn phi lý nhưng dễ hiểu của anh ta - rõ ràng là một nhà tiểu họa phải cảm nhận được trong hồn mình bài văn mà anh ta đang minh họa - tôi đã đến đây kiên nhẫn lắng nghe anh ta đọc to một cách huê dạng những câu thơ trong tập tác phẩm của Fuzuli trong khi những bầy chim én hoảng hốt vỗ cánh trên đầu chúng tôi. Tôi vẫn nhớ một câu được đọc đêm đó: “Ta không phải là ta mà muôn thuở là ngươi.” Tôi luôn tự hỏi làm sao người ta minh họa được cho câu này.

Tôi chạy tới nhà anh ta ngay khi nghe tin người ta tìm được xác anh ta. Ở đó, khu vườn nhỏ xíu nơi chúng tôi từng ngồi và đọc thơ, bây giờ phủ đầy tuyết, có vẻ nhỏ hơn, giống như bất cứ khu vườn nào khi ta thăm lại sau nhiều năm. Ngôi nhà của anh ta vẫn vậy. Từ phòng kế bên tôi nghe tiếng gào khóc của phụ nữ, và những lời than vãn cường điệu của họ, càng lúc càng dâng cao như thể họ đang ganh đua với nhau. Khi người anh cả của anh ta nói, tôi chú ý lắng nghe: Khuôn mặt của người anh em Zarif bất hạnh của chúng tôi hầu như đã bị hủy hoại, đầu anh ta bị đập nát.

Sau khi anh ta được đưa khỏi đáy giếng nơi anh ta nằm suốt bốn ngày, anh em của anh ta không nhận ra được anh ta, và người vợ tội nghiệp của anh ta, Kalbiye, mà họ đưa từ nhà đến, đành phải qua quần áo rách nát tả tơi mới nhận diện được cái thi thể không thể nhìn ra này trong đêm tối. Tôi nhớ lại một bức tranh vẽ các thương nhân Midian kéo Yusuf khỏi cái hố mà những anh em đố kị của anh ta đã ném anh ta xuống. Tôi rất thích vẽ cảnh này trong truyện Yusuf o Zuleyha ([36]), vì nó nhắc chúng tôi nhớ rằng lòng đố kị là cảm xúc chủ yếu trong cuộc sống.

Có một khoảng im lặng bất ngờ. Tôi có cảm giác mọi con mắt đều đổ dồn về tôi. Tôi nên khóc không? Tôi bắt gặp đôi mắt Siyah. Tên vô lại đáng tởm đó, hắn đang nhìn chúng tôi, giống như một kẻ được Enishte Kính mến phái đến đây để tìm ra sự thật.

“Ai có thể phạm một tội ác khủng khiếp như thế?” người anh cả kêu lên. “Loại súc vật nhẫn tâm nào có thể sát hại người anh em chúng ta, kẻ không dám làm hại một con kiến?” Anh ta trả lời câu hỏi này bằng những giọt nước mắt, và tôi khóc theo anh ta, giả vờ sầu khổ trong khi cố tìm câu trả lời cho riêng tôi: Những kẻ thù của Zarif là ai? Nếu đó không phải là tôi, thì ai khác có thể giết anh ta? Tôi nhớ lại rằng cách nay ít lâu - tôi tin đó là khi cuốn Huner-nama ([37]) đang được chuẩn bị - anh ta tham gia tranh cãi với những họa sĩ nào đó có ý muốn bác bỏ kỹ thuật của các bậc thầy xưa và tiêu hủy những trang mà các nhà tiểu họa chúng tôi đã lao động cật lực trên đó; vì vậy họ sẽ làm hỏng các đường viền bằng những màu sắc kinh khủng được dùng để tô điểm cho rẻ hơn và nhanh hơn. Họ là ai? Tuy nhiên sau này những lời đồn đại bắt đầu lan truyền rằng sự thù địch dấy lên không phải vì lý do này, mà vì sự ganh đua muốn giành cảm tình của một thợ học việc đóng sách đẹp trai làm việc ở tầng trệt; nhưng đấy là chuyện cũ. Và có những người bực tức trước phẩm cách của Zarif, sự khéo léo của anh ta, thái độ nữ tính đầy hiểu biết của anh ta, nhưng điều này có liên quan đến một vấn đề hoàn toàn khác: Zarif bị trói buộc một cách mù quáng vào phong cách cũ, một kẻ cuồng tín về sự phối hợp màu sắc giữa mạ vàng và minh họa, và trước mặt Thầy Osman, anh ta có thể chỉ ra chẳng hạn những lỗi lầm không hề có của những nhà tiểu họa khác - đặc biệt là của tôi - với vẻ hóm hỉnh dịu dàng. Cuộc cãi cọ cuối cùng của anh ta có liên quan đến một vấn đề mà nhiều năm trước đây đã trở nên rất nhạy cảm đối với Thầy Osman: giới tiểu họa hoàng gia, những người làm thêm ngoài giờ, đã bí mật nhận làm thêm những việc tầm thường bên ngoài cung điện. Trong những năm gần đây, khi mối quan tâm của Đức vua bắt đầu nhạt dần và, cùng với nó, tiền bạc do Trưởng Ngân khố chi ra cũng ít đi, các nhà tiểu họa bắt đầu đến thăm những ngôi nhà hai tầng của các tổng trấn trẻ ngu ngốc - và những họa sĩ tài giỏi nhất nửa đêm thì đến thăm Enishte.

Tôi hoàn toàn không chút lo lắng trước quyết định của Enishte không làm tiếp cuốn sách của ông - hoặc của chúng tôi - hay lý do rằng nó mang điềm xấu theo ông nói. Dĩ nhiên, ông đã đoán rằng tên sát nhân đã hạ thủ Zarif Kính mến ngu xuẩn là một người trong nhóm chúng tôi, những kẻ đang trang trí cuốn sách của ông. Hãy đặt các vị vào trường hợp ông ta: Các vị có mời một tên sát nhân đến nhà các vị nửa tháng một lần để trang trí sách vào ban đêm không? Trước tiên các vị không xác định được lai lịch tên giết người và tay minh họa giỏi nhất sao? Tôi tin chắc chắn rằng ông ta sẽ nhanh chóng suy ra ai trong số những nhà tiểu họa là người tài năng nhất và có khả năng nhất trong việc chọn màu, mạ vàng, quyết định trang, minh họa, vẽ mặt và bố cục trang, và sau khi làm thế, ông ta sẽ tiếp tục làm việc với tôi một mình. Tôi không thể hình dung ông ta sẽ nhỏ nhen đến mức nghĩ về tôi như một kẻ sát nhân tầm thường thay vì một nhà tiểu họa tài năng đích thực.

Qua khóe mắt tôi quan sát tên Siyah Kính mến ngu ngốc đó mà Enishte đi cùng. Khi hai người này rời khỏi đám đông ở nghĩa trang đang tản hàng, và đi xuống bến cảng Eyup, tôi theo họ. Họ xuống một chiếc thuyền dài bốn tay chèo, và sau đó, tôi bước xuống một thuyền sáu tay chèo cùng vài thợ học việc trẻ, những kẻ đã quên mất người chết cùng đám tang mà đang vui đùa. Trong tầm nhìn thấy Cổng Phanar, thuyền của chúng tôi có lúc quá gần nhau đến độ các mái chèo chạm vào nhau, và tôi có thể thấy Siyah đang hăm hở thì thầm với Enishte. Ngay sau đó tôi nghĩ: kết thúc một sinh mạng mới dễ làm sao. Ôi Thượng đế, Người đã cho mỗi người trong chúng ta sức mạnh không thể tin được này, nhưng Người cũng khiến chúng ta sợ hãi khi sử dụng nó.

Tuy nhiên, nếu ai chỉ một lần vượt qua nỗi sợ hãi này và hành động, lập tức anh ta sẽ trở thành một con người khác hẳn. Có lúc tôi không chỉ sợ hãi Quỷ sứ mà còn sợ cả dấu hiệu mơ hồ nhất của cái ác trong tôi. Tuy nhiên, bây giờ tôi có cảm giác mình có thể chịu đựng được điều ác, và còn hơn thế nữa, nó là không thể thiếu được đối với một nghệ sĩ. Sau khi tôi giết kẻ khốn khổ đó bất chấp chứng run ở hai bàn tay tôi vốn kéo dài chỉ vài ngày, tôi vẫn vẽ tốt hơn, tôi sử dụng màu sắc sáng hơn và táo bạo hơn. Và quan trọng nhất, tôi nhận ra rằng tôi có thể gợi lên những điều kỳ diệu trong trí tưởng tượng. Nhưng điều này đặt ra câu hỏi liệu có bao nhiêu người ở Istanbul có thể đánh giá cao vẻ lộng lẫy trong những tranh minh họa của tôi?

Ngoài khơi cảng gần Jibali, ngay giữa cửa sông Halic, tôi căm hờn nhìn Istanbul. Những mái vòm phủ tuyết sáng lấp lánh trong ánh nắng đột ngột xuyên qua những đám mây. Một thành phố càng lớn và càng đa tạp thì càng có nhiều nơi để che giấu tội ác và tội lỗi của nó; nó càng đông đúc thì càng có nhiều người ẩn núp phía sau. Trí tuệ của một thành phố phải được đo không chỉ bằng những học giả, thư viện, nhà tiểu họa, nhà thư pháp và trường hoạ mà còn bằng số lượng tội phạm ngấm ngầm xảy ra trên những đường phố tối tăm của nó qua hàng ngàn năm. Theo lý luận này, rõ ràng Istanbul là thành phố thông minh nhất thế giới.

Tại cảng Unkapani, tôi rời thuyền của mình ngay sau khi Siyah và Enishte của hắn rời khỏi thuyền. Tôi ở phía sau họ khi họ dìu nhau leo lên đồi. Ngay vị trí của trận hỏa hoạn gần đây dưới bóng Thánh đường Sultan Mehmet, họ dừng lại nói lời chia tay. Enishte Kính mến còn lại một mình, và trong phút chốc trông ông ta giống như một ông già bơ vơ. Tôi cảm thấy thôi thúc muốn chạy đến bên ông ta để nói cho ông biết những gì mà tay man rợ đó, kẻ mà chúng tôi vừa dự đám tang về đã giãi bày một cách vu khống với tôi; tôi định thú nhận những gì tôi đã làm để bảo vệ chúng tôi, và định hỏi ông ta: “Những gì Zarif Kính mến khẳng định có thật không? Có phải chúng ta đang lạm dụng sự tin cậy của Đức vua qua những tranh minh họa chúng ta làm không? Những kỹ thuật hội họa của chúng ta có mang tính phản trắc và là một sự lăng mạ đối với đạo giáo của chúng ta không? Và ngài có hoàn tất bức tranh lớn cuối cùng đó không?”

Tôi đứng giữa con đường tuyết phủ khi màn đêm buông xuống, nhìn dọc theo con đường tối đen đã bị bỏ lại cùng với tôi cho các âm hồn, thần tiên, bọn trộm cướp, cho nỗi sầu khổ của những người cha và những đứa con quay trở về nhà và cho nỗi buồn của những hàng cây phủ tuyết. Cuối đường, bên trong ngôi nhà hai tầng đồ sộ của Enishte Kính mến, mà giờ tôi có thể thấy qua những nhánh cây dẻ trơ trụi, có một người phụ nữ đẹp nhất thế giới đang sống. Nhưng, không, tại sao tôi phải làm mình phát điên lên vậy?

CHƯƠNG 19
TÔI LÀ MỘT ĐỒNG TIỀN VÀNG

Nhìn này! Tôi là một đồng vàng Ottoman Sultani hai mươi hai carat, và tôi mang huy hiệu vinh quang của Đức vua, Người che chở thế giới. Ở đây, giữa đêm trong quán cà phê ngon này tràn ngập nỗi buồn tang chế, Leylek, một trong những thợ cả vĩ đại của Đức vua, vừa vẽ xong bức tranh về tôi, dù anh ta chưa trang điểm cho tôi bằng lớp sơn lót vàng - tôi sẽ để điều đó cho các vị tùy ý tưởng tượng. Hình ảnh tôi ở đây trước mặt các vị, nhưng chính tôi thì có mặt trong chiếc ví của người anh em yêu quý của các vị, Leylek, nhà tiểu họa lừng danh. Giờ anh ta đang đứng dậy, rút tôi khỏi ví và khoe tôi với từng người trong các vị. Xin chào, xin chào, những lời chào dành cho mọi họa sĩ bậc thầy và các loại khách. Đôi mắt của các vị sẽ mở to khi các vị nhìn vẻ lấp lánh của tôi, các vị rùng mình khi tôi lung linh trong ánh đèn dầu, và cuối cùng các vị tức tối ghen tỵ với chủ nhân của tôi, Thợ cả Leylek. Các vị cũng chính đáng khi xử sự như thế, vì không có cái thước nào đo tài năng của nhà minh họa tốt hơn tôi.

Trong ba tháng qua, Thợ cả Leylek đã kiếm được chính xác bốn mươi bảy đồng vàng giống như tôi. Tất cả chúng tôi nằm trong ví tiền này và Thợ cả Leylek, các vị tự nhìn xem, không giấu tôi với bất cứ ai; anh ta biết không ai trong giới tiểu họa Istanbul kiếm được nhiều tiền hơn anh ta. Tôi tự hào vì được giới họa sĩ coi là thước đo tài năng và vì chấm dứt được những cuộc tranh cãi không cần thiết. Hồi xưa, trước khi chúng ta quen với cà phê và đầu óc chúng ta trở nên nhạy bén hơn, những nhà tiểu họa ngu ngốc không hài lòng với việc dành những buổi tối để tranh cãi xem ai là người tài năng nhất và ai có cảm thức nhạy bén nhất trước màu sắc, ai có thể vẽ một cái cây hay nhất, hoặc ai lão luyện nhất trong việc vẽ mây; không, họ cũng quay ra đánh nhau vì những vấn đề như thế, đấm gãy răng nhau khi đánh lộn. Bây giờ ý kiến của tôi quyết định mọi thứ, có một sự hòa hợp ngọt ngào trong họa xưởng, và hơn thế nữa, có một bầu không khí hợp với những bậc thầy xưa của Herat.

Ngoài việc ghi nhận sự hòa hợp và không khí do ý kiến của tôi mang lại, hãy để tôi liệt kê những điều khác mà tôi có thể đánh đổi được: bàn chân của một nữ nô lệ trẻ đẹp, vốn tương đương với khoảng một phần năm mươi con người cô; một chiếc gương của anh thợ cạo có khung bằng gỗ dái ngựa tốt, mép cẩn ngà; một chiếc tủ nhiều ngăn kéo được sơn phết kỹ và trang trí bằng họa tiết mặt trời tỏa sáng và lá bạc trị giá chín mươi đồng bạc; 120 ổ bánh mì mới ra lò; một huyệt mộ và ba quan tài; một băng đeo tay bằng bạc; một phần mười con ngựa; cặp chân của một nàng hầu già và mập; một con bê; hai món đồ sứ chất lượng cao; một tháng lương của nhà tiểu họa Ba Tư Mehmet phái khổ tu ở Tabriz và phần lớn những người giống ông ta làm việc trong xưởng vẽ của Đức vua, một con chim ưng săn tốt kèm cái lồng; mười vò rượu nho của Panayot; một giờ tuyệt vời với Mahmut, một trong những chàng trai có sắc đẹp lừng danh thế giới, và nhiều cơ hội khác không thể kể xiết.

Trước khi đến đây, tôi đã trải qua mười ngày trong chiếc túi bẩn thỉu của một thợ học nghề đóng giày nghèo khổ. Mỗi đêm, con người bất hạnh này vẫn ngủ trên giường của anh ta, kể tên vô số thứ anh ta có thể mua bằng tôi. Những dòng của bài sử thi này, ngọt ngào như một bài hát ru, cho tôi thấy rằng không có chỗ nào trên trái đất này mà một đồng tiền không thể đến.

Điều đó đã gợi tôi nhớ lại. Nếu tôi kể lại tất cả những gì đã xảy ra với tôi trước khi đến đây thì hẳn phải tốn nhiều tập sách. Không hề có người lạ trong số chúng tôi, tất cả chúng tôi đều là bạn bè; miễn là các vị hứa không nói với bất cứ ai, và miễn là Leylek Kính mến không phật lòng, tôi sẽ nói với các vị một bí mật. Các vị có thề là không nói với ai không?

Vậy để tôi nói. Tôi không phải là đồng tiền vàng Ottoman Sultani hai mươi hai carat đích thực được đúc tại Xưởng đúc tiền Chemberliash. Tôi là đồng tiền giả. Người ta làm tôi ở Venice bằng cách sử dụng vàng chưa đủ tuổi và mang tôi đến đây, mạo nhận tôi là đồng vàng Ottoman hai mươi hai carat. Tôi rất cảm kích trước sự thấu hiểu và cảm thông của các vị.

Dựa trên những gì tôi thu thập được khi ở trong xưởng đúc tiền ở Venice thì công việc này diễn ra đã nhiều năm. Cho đến gần đây những đồng vàng thấp tuổi mà dân ngoại giáo Venice mang đến phương Đông để tiêu thụ là những đồng ducat xứ Venice đó ( đúc ở cùng xưởng đó. Những người Ottoman chúng tôi, mãi mãi tôn trọng những gì được viết ra, không chú ý đến lượng vàng trong mỗi đồng ducat - miễn là lời khắc trên đó vẫn giống nhau - nên những đồng vàng Venice giả này tràn khắp Istanbul. Sau đó, nhận ra rằng những đồng tiền ít vàng mà nhiều đồng thì cứng hơn, chúng tôi bắt đầu phân biệt những đồng tiền bằng cách cắn. Ví dụ, các vị đang cháy bỏng yêu đương; các vị chạy vội đến Mahmut, chàng trai có vẻ đẹp không ai sánh bằng và được mọi người yêu mến đó; trước tiên anh chàng bỏ đồng tiền - chứ không phải thứ gì khác - vào cái miệng mềm mại của anh ta rồi cắn và tuyên bố nó là đồ giả. Kết quả là anh chàng sẽ đưa các vị lên Thiên đàng chỉ trong nửa giờ thay vì trọn một giờ. Những kẻ ngoại giáo Venice, khi nhận ra rằng những đồng tiền của họ gây ra những bất lợi như thế bèn quyết định rằng họ cũng có thể làm giả những đồng Ottoman, lập luận rằng người Ottoman sẽ bị lừa lại.

Bây giờ hãy cho tôi lưu ý các vị về một điều hoàn toàn kỳ quái: Khi những kẻ ngoại giáo Venice này vẽ, cứ như họ không hề vẽ mà là đang thực sự tạo ra cái vật thể họ đang vẽ ấy. Tuy nhiên, khi đụng đến tiền bạc thì thay vì làm ra thứ thật, họ lại làm những đồng tiền giả.

Chúng tôi được chất vào hòm sắt, đưa lên tàu và lăn qua lộn lại suốt chuyến đi từ Venice đến Istanbul. Tôi thấy mình nằm trong một cửa hàng đổi tiền, trong cái miệng đầy mùi tỏi của ông chủ cửa hàng. Chúng tôi chờ một lát, và một nông dân chất phác bước vào muốn đổi một số vàng. Tay đổi tiền bậc thầy, một kẻ lừa đảo thật sự, tuyên bố rằng hắn phải cắn đồng tiền để xem có phải là tiền giả không. Thế là hắn lấy đồng tiền của người nông dân và bỏ vào miệng.

Khi chúng tôi gặp nhau trong miệng hắn, tôi nhận ra đồng tiền của người nông dân là đồng tiền Ottoman Sultani đích thục.

Y thấy tôi trong mùi tỏi hôi rình đó và nói, “Mày chỉ là một đồng tiền giả.” Y đúng, nhưng thái độ kiêu ngạo của y đụng chạm tự ái tôi và tôi nói láo với y. “Thật ra thì, người anh em ạ, chính anh mới là đồng bạc giả.”

Trong khi đó, người nông dân cứ kiêu hãnh khẳng định, “Làm sao đồng tiền của tôi lại là tiền giả được? Tôi đã chôn nó dưới đất cách nay hai mươi năm, hồi đó thứ tệ nạn như làm tiền giả đã có rồi sao?”

Tôi đang tự hỏi kết quả sẽ ra sao thì tay đổi tiền lôi tôi ra khỏi miệng thay vì đồng vàng của người nông dân. “Mang đồng vàng của ông đi, tôi chẳng thèm thứ tiền giả đáng tởm của bọn ngoại giáo Venice,” hắn nói, “ông không thấy xấu hổ sao?” Người nông dân đáp lại bằng những lời lẽ gay gắt, rồi cầm lấy tôi bước ra khỏi cửa. Sau khi nghe cùng lời tuyên bố tương tự từ những người đổi tiền khác, người nông dân mất tinh thần và ông ta đổi tôi như một đồng tiền kém chất lượng để lấy vỏn vẹn chín mươi đồng bạc. Thiên truyền kỳ bảy năm lang thang vô tận từ tay người này sang tay người khác của tôi đã mở đầu như thế.

Hãy cho phép tôi thừa nhận với lòng tự hào rằng tôi đã trải qua phần lớn thời gian ở Istanbul này để lang thang từ ví tiền này sang ví tiền khác, từ khăn quàng đến túi, phù hợp với một đồng tiền thông minh. Cơn ác mộng tệ hại nhất của tôi là bị bỏ vào một cái lọ và chôn chết dí mấy năm dưới một tảng đá trong một khu vườn tôi không phủ nhận rằng chuyện đó không xảy ra với tôi, nhưng vì lý do nào đó, những lúc như thế không kéo dài lâu.

Nhiều người có tôi lại muốn tống khứ tôi càng sớm càng tốt, nhất là khi họ phát hiện ra tôi là giả. Tuy nhiên tôi chưa tình cờ gặp người nào chịu cảnh báo người mua cả tin rằng tôi là đồ giả. Một người môi giới, không nhận ra tôi là đồ giả, đã đếm ra một trăm hai mươi đồng bạc để đổi lấy tôi, rồi nguyền rủa chính mình trong cơn thịnh nộ, rầu rĩ và bồn chồn ngay khi hắn biết mình bị lừa, và những cơn giận dữ này không chịu nguôi ngoai cho đến khi hắn tống khứ được tôi bằng cách lừa người khác. Trong cơn khó khăn này, cả khi hắn cố gắng lừa đảo người khác nhiều lần, mỗi lần lại mỗi thất bại vì sự vội vàng và giận dữ của hắn, hắn lại tiếp tục luôn mồm nguyền rủa kẻ “bất nhân” nào đã lừa đảo hắn đầu tiên.

Suốt bảy năm qua ở Istanbul, tôi đã được trao tay năm trăm sáu mươi lần, và không có ngôi nhà, cửa hàng, chợ, quầy sạp, thánh đường, nhà thờ hay giáo đường Do Thái nào mà tôi chưa vào. Khi lang thang, tôi biết được rằng số chuyện tầm phào được lan truyền, số truyền thuyết được kể lại và số lời nói dối xoay quanh tên tôi vượt hơn mức tôi tưởng rất nhiều. Tôi liên tục bị trách cứ: Chẳng có gì được cho là có giá trị hơn ngoài tôi ra, tôi thật tàn nhẫn, tôi mù quáng, thậm chí bản thân tôi cũng mê tiền, thế giới bất hạnh này xoay quanh không phải Thượng đế mà quanh tôi, và chẳng có gì mà tôi không mua được - ấy là chưa nói gì đến bản chất hèn hạ, tầm thường và bẩn thỉu của tôi. Và những ai biết tôi là đồ giả thậm chí còn đưa ra nhưng lời nhận xét khó nghe hơn. Tuy nhiên khi giá trị thực sự của tôi tụt xuống thì giá trị ẩn dụ của tôi lại tăng lên - ấy là bằng chứng rằng thơ ca là nguồn an ủi đối với những khốn khổ của cuộc đời. Nhưng bất chấp sự so sánh vô cảm và sự vu khống thiếu suy nghĩ như thế, tôi vẫn nhận thấy rằng đại đa số thật sự yêu quý tôi. Trong thời đại đầy hằn thù này, tâm tình cảm thông như thế - thậm chí đến mức tha thiết - hẳn đã khiến tất cả chúng tôi vui sướng.

Tôi đã thấy từng mét vuông đất ở Istanbul, từng con phố và từng quận huyện; tôi biết tất cả bàn tay từ người Do Thái đến người Abkhazia và từ người Ả Rập đến Mingeria. Tôi từng rời Istanbul trong ví tiền của một nhà thuyết giáo đi từ Edirne đến Manisa. Trên đường đi, chúng tôi tình cờ bị bọn cướp tấn công.

Một đứa trong bọn chúng la lên, “Đưa tiền hoặc nộp mạng!” Hoảng hồn, tay thuyết giáo khốn khổ đó bèn giấu tôi trong lỗ đít. Nơi này, mà hắn cho là an toàn nhất, có mùi khủng khiếp hơn cả miệng của tay ưa tỏi và hoàn toàn không dễ chịu chút nào. Nhưng tình huống nhanh chóng tệ hại hơn khi thay vì “Đưa tiền hoặc nộp mạng!” bọn cướp bắt đầu gào “Phẩm tiết hay cái mạng của mày!” Chúng xếp hàng thay phiên hãm hiếp hắn ta. Tôi không dám mô tả cái trạng thái thống khổ mà chúng tôi phải chịu trong cái lỗ chật hẹp đó. Vì lý do này mà tôi không thích rời Istanbul.

Tôi từng được hân hoan đón nhận ở Istanbul. Các thiếu nữ hôn tôi như thể tôi là người chồng trong mơ của họ, họ giấu tôi dưới gối, giữa cặp ngực đồ sộ và trong đồ lót; thậm chí họ vuốt ve tôi trong giấc ngủ để chắc rằng tôi vẫn còn ở đó. Tôi được cất cạnh lò sưởi trong nhà tắm công cộng, trong một chiếc ủng, dưới đáy một chai nhỏ trong một cửa hàng xạ hương có mùi tuyệt diệu, và trong một cái túi bí mật may vào bao đựng đậu của người đầu bếp. Tôi từng lang thang khắp Istanbul trong những thắt lưng làm bằng da lạc đà, những lớp lót áo khoác làm từ vải ca rô Ai Cập, trong lớp vải lót giày và trong góc khuất những quần thụng nhiều màu. Tay thợ sửa đồng hồ tài hoa Petro giấu tôi vào một ngăn bí mật trong cái đồng hồ quả lắc, và một chủ tiệm tạp hóa Hy Lạp nhét thẳng tôi vào một tảng phô mai kashari. Tôi được giấu cùng với châu báu, con dấu và những chìa khóa được quấn trong miếng vải dày xếp gọn vào ống khói, bếp lò dưới bậu cửa sổ, trong những chiếc nệm nhồi rơm khô, trong những căn phòng ngầm và những ngăn tủ bí mật. Tôi biết những ông bố thường đứng lên rời bàn ăn để kiểm tra xem tôi còn ở chỗ cũ không, những phụ nữ ngậm tôi như ngậm kẹo chẳng vì lý do gì, bọn trẻ áp tôi lên mũi mà ngửi và người già sắp xuống lỗ không thể nào thư thái trừ khi họ lôi tôi ra khỏi chiếc ví da cừu ít nhất bảy lần một ngày. Có những phụ nữ Circassia tỉ mẩn, sau khi bỏ cả ngày để lau chùi nhà cửa, lấy những đồng tiền vàng chúng tôi ra khỏi ví mà cọ rửa tôi bằng bàn chải thô. Tôi nhớ người đổi tiền chột mắt thường xếp chúng tôi thành những ngọn tháp; người phu khuân vác có mùi hoa khiên ngưu, cùng với gia đình ông ta thường ngắm nhìn chúng tôi như thể nhìn một quang cảnh tuyệt vời, và tay thợ mạ vàng nay không còn sống nữa - không cần nêu tên - thường dành những buổi tối xếp chúng tôi thành những mẫu thiết kế khác nhau. Tôi đã ngao du trên những con thuyền bằng gỗ dái ngựa; tôi đã đến thăm cung điện các vua chúa; tôi được giấu trong những bìa sách làm ở Herat, trong gót những chiếc giày tỏa mùi hoa hồng và trong những tấm phủ yên ngựa thồ. Tôi từng biết hàng trăm bàn tay: bẩn thỉu, lông lá, bụ bẫm, đầy dầu mỡ, run rẩy và già nua. Tôi từng sực mùi các ổ thuốc phiện, những cửa hàng bán nến, cá thu chiên và mồ hôi của mọi người Istanbul. Sau khi trải qua sự kích động và chấn động như thế, một tên cướp đê tiện đã cắt cổ nạn nhân của hắn trong đêm tối và nhét tôi vào ví hắn, rồi khi về đến ngôi nhà đáng nguyền rủa của hắn, đã nhổ vào mặt tôi và càu nhàu, “Mồ tổ mày, tất cả cũng chỉ vì mày.” Tôi đã bị xúc phạm, bị tổn thương, đến độ tôi chẳng muốn gì hơn là biến mất.

Tuy nhiên, nếu tôi không tồn tại, thì không ai có thể phân biệt một họa sĩ giỏi với một họa sĩ tồi, và điều này sẽ dẫn đến hỗn loạn trong giới tiểu họa; họ sẽ lao vào túm cổ nhau. Vì vậy tôi đã không biến mất. Tôi đã đi vào ví tiền của người tài năng nhất và thông minh nhất trong giới tiểu họa và đến được đây.

Nếu các vị nghĩ các vị giỏi hơn Leylek, vậy hãy cố mà đoạt lấy tôi bằng mọi cách.

CHƯƠNG 20
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

Tôi tự hỏi không biết cha Shekure có biết những lá thư chúng tôi trao đổi với nhau không. Nếu tôi nghiên cứu giọng điệu của nàng, vốn cho thấy nàng là một thiếu nữ rụt rè rất sợ cha, tôi phải kết luận rằng họ không hề nói với nhau một lời về tôi. Nhưng tôi có cảm giác rằng tình hình không phải thế. Vẻ lẩn lút trong cái nhìn của Esther, vẻ hấp dẫn của Shekure bên cửa sổ, vẻ dứt khoát khi Enishte của tôi phái tôi tới chỗ những nhà minh họa của ông, và sự tuyệt vọng của ông khi ông ra lệnh cho tôi đến sáng nay - tất cả khiến cho tôi vô cùng bất an.

Trong buổi sáng, ngay khi Enishte của tôi bảo tôi ngồi xuống trước mặt ông, ông bắt đầu mô tả những bức chân dung ông thấy ở Venice. Trong vai trò sứ thần của Đức vua, Người che chở thế gian, ông đã viếng thăm nhiều lâu đài, nhà thờ và dinh thự của những kẻ giàu có. Suốt thời gian vài ngày đó, ông đã đứng trước hàng ngàn bức chân dung, ông đã thấy hàng ngàn khuôn mặt trong khung được vẽ trên những tấm vải bạt căng trên gỗ hoặc vẽ trực tiếp lên tường. “Mỗi khuôn mặt đều khác khuôn mặt kế bên. Chúng là những khuôn mặt người đặc thù, riêng biệt!” ông nói. Ông bị hớp hồn bởi tính đa dạng của chúng, màu sắc của chúng, sự dịu dàng - thậm chí dữ dội – của ánh sáng dịu nhẹ có vẻ như rơi trên những khuôn mặt ấy và ý nghĩa phát ra từ đôi mắt chúng.

“Như thể một dịch bệnh hiểm độc đã giáng xuống, mọi người đều thuê vẽ chân dung của mình!” ông nói. “Khắp Venice, những kẻ giàu có và thế lực đều muốn chân dung họ được vẽ như một biểu tượng, một vật lưu dấu cuộc đời họ và một dấu hiệu về sự giàu có, quyền lực và ảnh hưởng của họ - để họ có thể luôn luôn hiện diện ở đó, đứng trước chúng ta, khẳng định sự tồn tại của họ, không, khẳng định cá tính và nét riêng biệt của họ.”

Những lời của ông đầy vẻ xem thường như thể ông nói vì lòng đố kỵ, tham vọng hoặc ham danh lợi. Dù, nhiều lúc, khi nói về những bức chân dung ông đã thấy ở Venice, gương mặt ông đột ngột sáng bừng như mặt trẻ thơ, đầy hăm hở.

Việc vẽ chân dung đã trở thành một căn bệnh hay lây giữa những kẻ giàu có, những ông hoàng và những gia đình quyền quý vốn là kẻ bảo trợ nghệ thuật đến độ khi họ đặt làm bích họa về các cảnh trong Kinh thánh và những truyền thuyết tôn giáo cho các bức tường nhà thờ, bọn ngoại giáo này còn nhất quyết rằng hình ảnh của chính họ phải xuất hiện đâu đó trong bức tranh. Chẳng hạn như, trong một bức tranh vẽ cuộc an táng Thánh Stephan, bạn sẽ bất chợt thấy, giữa những người than khóc bên huyệt mộ, hiện diện khuôn mặt của chính ông hoàng đang dắt bạn đi một vòng - trong trạng thái hết sức nhiệt tình, phấn chấn và tự phụ - để xem các bức tranh treo trên tường lâu đài của ông ta. Kế đến, trong góc của một bức bích họa vẽ Thánh Peter đang chữa cho người bệnh bằng cái bóng của ông, bạn sẽ nhận ra với một cảm giác vỡ mộng kỳ cục rằng kẻ bất hạnh đang quằn quại trong cơn đau đó chính là người em trai khỏe như bò mộng của vị chủ nhà lịch thiệp của bạn. Ngày tiếp theo, lần này trong bức tranh vẽ cảnh Người chết sống lại, bạn sẽ phát hiện ra vị khách, người đã ngốn thức ăn bên cạnh bạn lúc bữa trưa.

“Một số người đã đi quá xa, chỉ để được đưa vào trong một bức tranh,” Enishte của tôi nói, đầy sợ hãi như thể ông đang nói về những cám dỗ của Satan,“đến độ họ sẵn sàng được vẽ thành một đầy tớ đang rót rượu trong đám đông hay một kẻ nhẫn tâm đang ném đá một kẻ phạm tội ngoại tình, hoặc một kẻ sát nhân, hai bàn tay đẫm máu.”

Giả như không hiểu, tôi nói, “Giống như kiểu chúng ta thấy Vua Ismail bước lên ngai vàng trong những cuốn sách có minh họa kể lại những truyền thuyết Ba Tư xưa. Hoặc khi chúng ta tình cờ thấy một bức vẽ Tamerlane, người cai trị sau này, trong truyện Husrev o Shirin.”

Có một tiếng động đâu đó trong nhà chăng?

“Như thể những bức tranh của người Venice được làm để khiến chúng ta phải sợ,” lát sau Enishte của tôi nói. “Và như thể chuyện chúng ta kính sợ quyền lực và tiền bạc của những người đặt làm những tác phẩm này còn chưa đủ, họ còn muốn chúng ta biết rằng ngay cả việc tồn tại trong thế giới này đã là một sự kiện rất kỳ bí, rất đặc biệt. Họ cố làm chúng ta kinh hoàng bằng gương mặt, đôi mắt, phong thái độc đáo của họ và bằng quần áo mà mỗi nếp gấp đều được hiển hiện bằng cách tạo bóng. Họ đang cố khiến chúng ta khiếp sợ bằng việc trở thành những sinh vật bí ẩn.”

Ông giải thích ông từng bị lạc như thế nào trong phòng trưng bày chân dung cực đẹp của một nhà sưu tập điên cuồng có một điền trang sang trọng nằm bên bờ hồ Como; vị chủ nhân này đã sưu tập chân dung của mọi nhân vật tai to mặt lớn trong lịch sử Tây vực từ vua chúa đến hồng y, từ binh lính đến thi sĩ: “Khi vị chủ nhà mến khách để ta một mình lang thang tùy ý khắp lâu đài của ông ta, mà ông đã tự hào dắt ta đi một vòng, ta thấy rằng những kẻ ngoại giáo được cho là nhân vật quan trọng này - hầu hết họ đều có vẻ y như thật, một số còn nhìn thẳng vào mắt ta - đã đạt được tầm quan trọng của họ trong thế giới này chỉ nhờ việc đã cho người ta vẽ chân dung mình. Vẻ giống hệt trong chân dung của họ khiến họ mang đầy vẻ ma thuật, làm họ quá nổi bật đến độ trong giây lát đứng giữa các bức vẽ ta cảm thấy mình thiếu sót và bất lực. Nếu ta được vẽ theo kiểu đó thì có lẽ ta sẽ hiểu rõ hơn tại sao ta tồn tại trong thế giới này.”

Ông sợ hãi bởi vì bất chợt ông hiểu ra - và có lẽ khao khát - rằng nghệ thuật Hồi giáo, được các bậc thầy Herat xưa hoàn thiện và xác lập vững chắc, sẽ đáp ứng được mục tiêu của nó nhờ sự hấp dẫn của nghệ thuật vẽ chân dung. “Tuy nhiên như thể ta rất muốn có cảm giác độc đáo, khác lạ, và phi thường,” ông nói. Cứ như bị Quỷ sứ thúc giục, ông cảm thấy mình bị lôi kéo mạnh mẽ về phía những gì ông sợ hãi. “Ta phải nói thế nào đây? Như thể đây là cái tội thèm khát, giống như trở nên ngạo mạn trước Thượng đế, giống như xem mình là quan trọng nhất, giống như đặt mình vào trung tâm thế giới.”

Về sau ý tưởng này rõ dần trong ông: Những phương pháp mà các họa sĩ Tây vực sử dụng như đang chơi một trò chơi trẻ con đầy tự hào, có thể còn hơn cả ma thuật khi được kết hợp với Đức vua cao cả của chúng ta - nhưng thực tế nó có thể trở thành một sức mạnh phục vụ cho đạo giáo của chúng ta, chi phối tất cả những ai nhìn thấy nó.

Tôi hiểu ra rằng ý tưởng chuẩn bị một bản thảo có trang trí đã dấy lên từ đó: Enishte của tôi, người từ Venice trở về Istanbul, đã đề nghị rằng thật tuyệt vời nếu Đức vua của chúng ta trở thành đề tài cho một bức chân dung theo phong cách Tây vực. Nhưng sau khi Đức Ngài phản đối, một cuốn sách có những bức vẽ Đức vua và những vật thể đại diện cho Ngài đã được chấp thuận.

“Chính câu chuyện mới là điều cốt tủy,” vị Vua Vinh quang nhất và thông minh nhất của chúng tôi nói. “Một bức minh họa đẹp sẽ hoàn chỉnh một cách tao nhã cho câu chuyện. Một tranh minh họa mà không bổ sung cho một câu chuyện thì cuối cùng sẽ chẳng là gì ngoài một tượng thần dối trá. Vì chúng ta không thể tin vào một câu chuyện không tồn tại, tự nhiên chúng ta sẽ bắt đầu tin vào chính bức tranh. Điều này sẽ không khác gì việc thờ phượng những ngẫu tượng ở Kaaba vốn đã xảy ra trước khi đấng Tiên tri của chúng ta, cầu Ngài được bình yên và ơn phúc, phá hủy chúng ([38]). Nếu không là một bộ phận của câu chuyện thì làm sao các ngươi đề nghị vẽ, chẳng hạn đóa hoa cẩm chướng đỏ này hay tên lùn láo xược nọ lên đó được?”

“Bằng cách phơi bày vẻ đẹp và sự độc đáo của hoa cẩm chướng.”

“Trong việc bố cục cảnh, ngươi sẽ đặt đóa hoa đó ngay giữa trang chứ?”

“Ta sợ,” Enishte của tôi nói. “Ta thoáng thấy kinh hoàng khi hiểu ra ý tưởng của Đức vua muốn đưa ta đến đâu.

Điều khiến Enishte của tôi sợ hãi là ý kiến về việc đặt vào giữa trang - và tức là, vào giữa thế giới - một điều gì đó khác hơn những gì Thượng đế đã dự định.

“Từ đây,” Đức vua nói, “ngươi sẽ muốn bày ra một bức tranh mà ngay giữa nó ngươi vẽ một tên lùn.” Đúng như tôi đã dự liệu. “Nhưng bức tranh này sẽ không bao giờ được trưng bày: ít lâu sau, chúng ta sẽ bắt đầu thờ phượng bức tranh mà chúng ta treo trên tường, bất chấp những ý định ban đầu. Nếu như ta tin theo cách của bọn ngoại giáo này, cầu Thượng đế ngăn không cho điều ấy xảy ra, rằng Tiên tri Jesus cũng chính là Thượng đế thì ta cũng sẽ tin rằng người ta có thể nhìn thấy được Thượng đế trong thế giới này, thậm chí Người có thể xuất hiện trong hình dáng phàm nhân; chỉ khi ấy ta mới có thể chấp nhận vẽ loài người với đầy đủ chi tiết và trưng bày những hình ảnh như thế. Ngươi phải hiểu rằng, cuối cùng, chúng ta sẽ bắt đầu thờ phượng một cách không suy nghĩ bất cứ bức tranh nào treo trên tường, đúng không([39])?”

Enishte của tôi nói: “Thần hoàn toàn hiểu rõ, và bởi vì hiểu rõ, nên thần sợ những gì cả hai chúng ta đang nghĩ.”

“Vì lý do này,” Đức vua nhận xét, “Ta sẽ không bao giờ cho phép trưng bày chân dung của ta.”

“Tuy rằng đấy chính là điều ông ta muốn,” Enishte của tôi thì thầm, với một tiếng cười khúc khích tinh quái.

Giờ đến phiên tôi sợ.

“Tuy nhiên ước mong của ta là bức chân dung của ta được làm theo phong cách của những bậc thầy Tây vực,” Đức vua phán tiếp. Một chân dung như thế, dĩ nhiên sẽ phải được giấu trong những trang sách. Cuốn sách đó có thể ra sao, ngươi chính là người phải nói cho ta biết.”

“Trong một giây phút ngạc nhiên và kính sợ, ta ngẫm nghĩ lời tuyên bố của Đức vua,” Enishte của tôi nói, rồi nhe răng cười tinh quái hơn trước, bất chợt ông có vẻ như biến thành một người khác.

“Đức vua Vinh quang của chúng ta ra lệnh cho ta bắt tay làm cuốn sách của Ngài cấp tốc. Đầu óc ta quay cuồng vì vui sướng. Ngài nói thêm rằng nó phải được chuẩn bị làm món quà cho Pháp quan Venice, người mà ta sẽ đến thăm lần nữa. Một khi cuốn sách hoàn tất, nó sẽ là biểu tượng cho sức mạnh toàn thắng của Đức vua cao cả của chúng ta, trong năm thứ một ngàn sau Hegira. Ngài đòi ta phải chuẩn bị bản thảo có trang trí này trong bí mật hoàn toàn, chủ yếu để che giấu mục đích của nó như một nhành ô liu dành cho bọn người Venice, nhưng cũng nhằm tránh làm những ganh tỵ trong xưởng càng thêm trầm trọng hơn. Và trong tâm trạng vui sướng tột độ và thề giữ bí mật, ta bắt tay vào dự án này.”

CHƯƠNG 21
TÔI LÀ DƯỢNG YÊU QUÝ CỦA CHÁU

Và thế là vào sáng thứ sáu đó, tôi bắt đầu mô tả cuốn sách chứa chân dung Đức vua được vẽ theo phong cách Venice. Tôi bắt đầu bàn đề tài này với Siyah bằng cách kể lại việc tôi đã nêu vấn đề này với Đức vua như thế nào và tôi đã thuyết phục Ngài tài trợ cho cuốn sách ra sao. Mục tiêu thầm kín của tôi là cho Siyah viết những câu chuyện được dự trù sẽ đi kèm theo những tranh minh họa, việc mà tôi thậm chí còn chưa bắt đầu.

Tôi nói với nó rằng tôi đã hoàn tất phần lớn những tranh minh họa và bức cuối cùng cũng sắp hoàn tất. “Có một bức vẽ Thần chết”, tôi nói, “và ta bảo Leylek, một tay tiểu họa thông minh nhất trong nhóm tiểu họa, vẽ một cái cây tượng trưng cho sự thanh bình tại vương quốc trần thế của Đức vua. Có một bức vẽ quỷ Sa tan và một con ngựa để mang chúng ta đi xa thật xa. Có một con chó, luôn ranh ma và láu lỉnh, và cũng có một đồng vàng... Ta có những nhà tiểu họa bậc thầy vẽ những thứ này cực đẹp.” tôi nói với Siyah, “đến độ dù thấy chỉ một lần thôi cháu sẽ biết ngay bài văn tương ứng sẽ ra sao. Thơ ca và hội họa, ngôn từ và màu sắc, những thứ này là anh em với nhau, cháu biết rõ vậy mà”

Trong một lát, tôi cân nhắc liệu có nên nói cho nó biết tôi có thể gả con gái tôi cho nó không. Liệu nó chịu sống với chúng tôi trong ngôi nhà này không? Tôi tự nhủ không nên để sự chú ý ân cần và vẻ trẻ con của nó lừa phỉnh. Tôi biết nó đang lên kế hoạch chạy trốn với Shekure của tôi. Nhưng tôi không còn biết dựa vào ai khác để hoàn tất cuốn sách của mình.

Cùng nhau trở về sau buổi lễ cầu nguyện thứ sáu, chúng tôi bàn về “phần bóng”, điểm cách tân vĩ đại nhất thể hiện trong những bức tranh của các bậc thầy Venice. Tôi nói: “Nếu chúng ta có ý định làm tranh dựa vào cách nhìn của những khách bộ hành đang chuyện phiếm và quan sát thế giới của họ; nghĩa là, nếu chúng ta có ý định minh họa từ đường phố, thì chúng ta phải học cách lý giải - như người Tây vực làm - những gì thực sự phổ biến nhất ở đó: những cái bóng.”

“Người ta vẽ bóng bằng cách nào?” Siyah hỏi.

Thỉnh thoảng, khi cháu tôi lắng nghe, tôi nhận thấy vẻ bồn chồn ở nó. Nó bắt đầu nghịch lọ mực Mông Cổ mà nó đã tặng tôi. Nhiều lần, nó cầm lấy cây cời lửa để khơi lửa trong bếp lò. Thỉnh thoảng tôi tưởng tượng rằng nó muốn giáng cây cời lửa đó vào đầu để giết tôi vì tôi dám đưa nghệ thuật minh họa khỏi cách nhìn của Allah; bởi vì tôi có thể phản bội ước mơ của những bậc thầy Herat và toàn bộ truyền thống hội họa của họ; bởi vì tôi đã lừa Đức vua làm như thế. Đôi khi Siyah ngồi im lặng hồi lâu mà nhìn sâu vào mắt tôi. Tôi có thể hình dung nó đang nghĩ gì: “Tôi sẽ là nô lệ của ông cho đến khi tôi chiếm được con gái ông.” Có lần, như tôi đã làm khi nó còn nhỏ, tôi dắt nó ra sân và cố giải thích cho nó, như một người cha, về cây cối, về ánh sáng chiếu trên cành lá, về tuyết đang tan và tại sao ngôi nhà có vẻ nhỏ lại khi chúng ta rời xa chúng. Nhưng đây là một sai lầm: Nó chỉ chứng minh rằng mối quan hệ cha con trước đây của chúng tôi từ lâu đã sụp đổ. Bây giờ việc chịu đựng kiên nhẫn những lời huênh hoang của một ông già điên rồ đã thế chỗ cho sự tò mò thời thơ ấu và lòng khao khát hiểu biết của Siyah. Tôi chỉ là một lão già có cô con gái là đối tượng yêu thương của Siyah. ảnh hưởng và kinh nghiệm của những đất nước và thành phố mà cháu trai tôi đã đi qua trong hàng chục năm đã tác động mạnh lên tâm hồn nó. Nó đã mệt với tôi, và tôi thương hại nó. Và tôi cho rằng nó giận dữ, không chỉ vì mười hai năm trước tôi không cho nó cưới Shekure - rốt cuộc thì hồi đó không có chọn lựa nào khác - mà còn bởi tôi mơ ước vẽ những bức tranh theo phong cách có thể vi phạm những quy tắc của các bậc thầy Herat. Hơn nữa, bởi vì tôi cứ nói say sưa về điều nhảm nhí này với lòng tin vững chắc như thế, nên tôi hình dung tới cái chết của tôi dưới tay nó.

Tuy nhiên tôi không sợ nó; ngược lại, tôi cố làm nó sợ. Vì tôi tin rằng sợ hãi thích hợp cho tác phẩm mà tôi muốn nó viết. “Như trong những bức tranh này,” tôi nói, một người phải có quyền đặt chính mình vào trung tâm thế giới. Một trong những tay tiểu họa của ta đã thể hiện xuất sắc Thần chết cho ta. Nhìn đây.” Thế là tôi cho nó xem những bức tranh tôi đã bí mật đặt những họa sĩ bậc thầy vẽ trong năm rồi. Thoạt tiên nó hơi rụt rè, thậm chí sợ hãi. Khi nó hiểu rằng bức tranh vẽ Thần chết mượn hứng từ những cảnh tương tự có thể được tìm thấy trong nhiều tập của bộ Shahnameh - từ cảnh Afrasiyab xử trảm Siyavush chẳng hạn, hoặc cảnh Rustem giết Suhrab mà không nhận ra đó là con trai mình - nó nhanh chóng quan tâm đến vấn đề này.

Trong số những bức tranh vẽ đám tang của Đức vua Suleyman quá cố có một bức tôi đã dùng màu sắc táo bạo nhưng buồn bã, kết hợp sự nhạy cảm về bố cục do người Tây vực gợi ra với việc tạo bóng của riêng tôi mà tôi thêm vào sau đó. Tôi chỉ ra chiều sâu ma quái do tác động của mây và chân trời đem lại. Tôi nhắc nó nhớ rằng Thần chết là độc nhất, giống những bức chân dung của bọn ngoại giáo mà tôi từng thấy treo trong các lâu đài của người Venice; tất cả đều khao khát được thể hiện một cách khác biệt. “Họ muốn trở nên khác biệt và nổi bật,” tôi nói, và họ muốn điều này với niềm đam mê đến độ, hãy nhìn đi, nhìn vào đôi mắt của Thần chết. Hãy xem những người này không sợ Thần chết như thế nào, mà đúng hơn là mức độ dữ dội ngấm ngầm trong nỗi ao ước trở thành mẫu duy nhất, độc đáo, khác thường. Hãy nhìn vào tranh minh họa này và viết một câu chuyện về nó. Hãy diễn tả Thần chết. Giấy với viết đây. Ta sẽ đưa những gì cháu viết cho người sao chép ngay.” Nó im lặng nhìn chằm chằm vào bức tranh. “Ai vẽ bức này vậy?” hồi lâu nó hỏi.

“Kelebek. Anh ta có tài nhất trong nhóm. Thầy Osman thương và được anh ta kính nể trong nhiều năm qua.”

“Cháu từng thấy những bản thô hơn của bức tranh vẽ con chó này tại quán cà phê có người kể chuyện hành nghề”, Siyah nói.

“Những người vẽ minh họa của ta, hầu hết họ đều bị ràng buộc về tinh thần với Thầy Osman và xưởng vẽ, nên vẫn xem thường việc lao động dành cho cuốn sách của ta. Những đêm khi họ rời khỏi đây ta vẫn hình dung họ hưởng thú vui tầm thường của mình qua những tranh minh họa họ vẽ vì tiền và chế giễu ta tại quán cà phê. Và ai trong số họ có bao giờ quên được lúc Đức vua nhờ một họa sĩ Venice trẻ, mà Ngài đã mời từ sứ quán theo đề nghị của ta, vẽ chân dung của Ngài. Về sau, Ngài đã nhờ Thầy Osman sao lại bức tranh sơn dầu đó. Bị buộc phải bắt chước một họa sĩ Venice, Thầy Osman nghĩ ta là thủ phạm gây ra trò ép buộc khó coi này và bức chân dung đáng xấu hổ nảy sinh từ đó, ông ta có lý.”

Suốt cả ngày tôi cho nó xem mọi bức tranh - trừ bức minh họa cuối cùng, mà vì lý do nào đó tôi chưa thể hoàn tất. Tôi giục nó viết. Tôi bàn luận về tính khí của những tay tiểu họa, và tôi liệt kê tổng số tiền tôi đã thưởng cho họ. Chúng tôi bàn về “luật phối cảnh” và về việc liệu những vật thể mỗi lúc một nhỏ dần ở bối cảnh nền của các bức tranh Venice có phải là phạm thượng không, và chúng tôi cũng nói về chuyện cũng có thể Zarif Kính mến bất hạnh đã bị giết vì tham vọng quá độ và bởi người ta ghen tỵ sự giàu có của anh ta.

Khi Siyah ra về đêm đó, tôi tin chắc nó sẽ trở lại vào sáng mai như đã hứa và nó sẽ lại lắng nghe tôi kể những câu chuyện vốn sẽ tạo thành cuốn sách của tôi. Tôi lắng nghe tiếng bước chân của nó xa dần đằng sau cánh cổng mở, có điều gì đó trong đêm lạnh dường như khiến cho tên giết người bồn chồn và không ngủ của tôi còn mạnh mẽ hơn và ác độc hơn cả tôi cùng cuốn sách của tôi.

Tôi đóng chặt cổng lại sau khi nó ra khỏi. Tôi đặt chậu đựng nước bằng gốm cũ mà tôi dùng để trồng cây húng quế chặn sau cánh cổng như tôi vẫn làm mỗi đêm. Trước khi dụi tắt lửa trong bếp và đi ngủ, tôi nhìn lên thì thấy Shekure mặc áo ngủ trắng giống như một hồn ma trong bóng tối.

“Con hoàn toàn chắc là con muốn lấy nó hả?” tôi hỏi.

“Không, thưa cha yêu quý. Con đã quên chuyện cưới xin lâu rồi. Vả lại, con đã có chồng.”

“Nếu con vẫn muốn cưới nó, ta sẵn sàng đồng ý ngay bây giờ.”

“ Con không muốn lấy anh ấy.”

“Sao vậy?”

“Vì điều đó ngược lại ý cha. Thật lòng, con không muốn lấy người nào mà cha không ưng.”

Ngay khi ấy, tôi nhận thấy than trong bếp lò ánh lên trong mắt con bé. Đôi mắt con bé đã già, không phải vì đau khổ, mà vì giận dữ; nhưng giọng nói của con bé không lộ chút gì hỗn láo.

‘Siyah rất yêu con,” tôi nói làm nhu đang tiết lộ một bí mật.

“Con biết.”

“Nó lắng nghe tất cả những gì ta nói hôm nay không phải vì yêu thích tranh, mà vì nó yêu con.”

“Anh ấy sẽ hoàn tất cuốn sách của cha, đó mới là điều quan trọng.”

“Một ngày nào đó chồng con sẽ trở về,” tôi nói.

“Con không chắc tại sao, có lẽ đó là sự im lặng, nhưng tối nay con nhận rõ rằng chồng con sẽ không bao giờ trở về. Những gì con mơ thấy có vẻ chính là sự thật: Hẳn chúng đã giết anh ấy. Anh ấy đã biến thành cát bụi từ lâu rồi.” Nó thì thầm câu cuối vì sợ bọn trẻ đang ngủ nghe. Và nó nói câu đó với một thoáng giận dữ kỳ lạ.

“Nếu lỡ họ có giết ta,” tôi nói, “thì ta muốn con hoàn tất cuốn sách mà ta đã dồn trọn tâm huyết. Hãy thề là con sẽ làm đi.”

“Cho con hỏi. Ai sẽ là người hoàn tất cuốn sách của cha?”

“Siyah! Con có thể bảo đảm rằng nó sẽ hoàn tất.”

“Cha đã chắc chắn anh ấy sẽ làm, thưa cha”, nó nói. “Cha đâu cần con.”

“Đồng ý, nhưng nó nhượng bộ vì con. Nếu họ giết ta, nó có thể sợ không dám làm tiếp.”

“Trong trường hợp đó, anh ấy sẽ không thể cưới con,” con gái thông minh của tôi nói, mỉm cười.

Tôi moi đâu ra chi tiết về nụ cười của nó? Suốt cuộc nói chuyện, tôi chẳng thấy gì ngoài ánh lửa chập chờn trong đôi mắt nó. Chúng tôi đang đứng đối diện nhau giữa phòng.

“Các con có liên lạc với nhau, trao cho nhau những dấu hiệu không?” tôi hỏi, không kìm được mình.

“Sao cha thậm chí có thể nghĩ ra một điều như thế?”

Một khoảng im lặng nặng nề kéo dài. Có tiếng chó sủa xa xa. Tôi hơi lạnh và rùng mình. Căn phòng giờ tối quá đến độ chúng tôi không thấy được nhau nữa; chúng tôi chỉ có thể cảm nhận sự hiện diện của nhau. Bất ngờ chúng tôi ôm nhau với tất cả sức mạnh. Con bé bắt đầu khóc, vừa khóc vừa nói rằng nó nhớ mẹ nó. Tôi hôn và vỗ đầu nó, mùi tóc nó rất giống mùi tóc mẹ nó.

Tôi dìu con bé về phòng ngủ của nó rồi đặt nó nằm cạnh hai đứa trẻ đang ngủ bên nhau. Và khi tôi nghĩ ngược về hai ngày vừa qua, tôi chắc chắn rằng Shekure đã trao đổi thư từ với Siyah.

CHƯƠNG 22
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

Khi tôi trở về nhà đêm đó, khéo léo tránh né bà chủ nhà - người bắt đầu cư xử cứ như mẹ tôi - tôi tự nhốt mình trong phòng và nằm trên nệm, đắm mình vào những ảo mộng về Shekure.

Hãy cho phép tôi có được niềm vui mô tả những âm thanh tôi nghe được trong nhà của Enishte. Trong lần viếng thăm thứ hai của tôi sau mười hai năm, nàng không xuất hiện. Tuy nhiên nàng đã thành công trong việc cho tôi biết sự hiện diện của nàng một cách quá diệu kỳ đến độ tôi chắc chắn nàng đang theo dõi tôi, trong khi nàng đánh giá tôi như một người chồng tương lai, đồng thời lấy đó làm tiêu khiển như đang chơi một trò chơi luận lý. Biết được điều này, tôi cũng tưởng tượng tôi luôn nhìn thấy nàng. Vì vậy tôi có thể hiểu rõ hơn khái niệm của Ibn Arabi rằng tình yêu là khả năng làm cho cái vô hình thành hữu hình và khao khát lúc nào cũng cảm thấy được cái vô hình trong con người mình.

Tôi có thể suy ra rằng Shekure không ngừng theo dõi tôi vì tôi đã lắng nghe âm thanh từ trong nhà và nghe tiếng sàn gỗ kêu cọt kẹt. Có lúc, tôi chắc chắn nàng cùng hai đứa con đang ở phòng kế bên, vốn mở ra phòng ngoài kiêm hành lang. Tôi có thể nghe tiếng bọn trẻ xô đẩy và cãi nhau trong khi mẹ chúng hẳn là cố ra hiệu bảo chúng im lặng, dọa chúng bằng những cái nhìn và nhíu mày. Có khi tôi nghe họ thì thầm rất thiếu tự nhiên, không phải như người ta thì thầm để tránh khuấy động những lời cầu nguyện của ai đó, mà thì thầm một cách giả tạo, như người ta thì thầm trước khi nổ ra một trận cười dữ dội.

Một lần khác, khi ông ngoại của chúng đang giải thích với tôi những điều kỳ diệu của ánh sáng và bóng tối, Shevket và Orhan bước vào phòng, và với những cử chỉ cẩn thận rõ ràng đã được diễn tập trước, bưng một khay cà phê cho chúng tôi. Nghi thức này, vốn phải là phần việc của Hayriye, đã được Shekure sắp xếp để chúng quan sát được người có thể sẽ trở thành cha chúng. Và vì thế, tôi khen Shevket: “Cháu có đôi mắt đẹp quá.” Rồi tôi lập tức quay sang em nó, Orhan - tôi cảm thấy rằng có thể nó đang nổi máu ghen tỵ - và nói thêm, “Mắt cháu cũng đẹp nữa.” Kế đến tôi đặt lên khay một cánh hoa cẩm chướng đỏ nhạt mà tôi nhanh chóng lấy ra từ những nếp gấp áo choàng rồi hôn má từng đứa. Sau đó tôi vẫn nghe tiếng cười và tiếng rúc rích từ bên trong.

Tôi càng lúc càng tò mò muốn biết qua cái lỗ nào trên các bức tường, những cánh cửa đóng, hay có lẽ trên trần nhà, và từ góc nào, mắt nàng đang nhìn tôi. Nhìn chăm chú một vết nứt, một mấu gỗ, hay những gì tôi cho là một cái lỗ, tôi tưởng tượng Shekure đang đứng phía sau. Bất chợp cảm thấy nghi ngờ một điểm đen nọ, và để xác định xem nghi ngờ của tôi đúng hay không - dù có nguy cơ bị Enishte cho là láo xược khi ông tiếp tục bài thuyết trình vô tận của mình - tôi đứng dậy. Vẫn làm ra vẻ một môn đồ chú tâm, hoàn toàn bị mê hoặc và chìm đắm trong suy nghĩ, để chứng tỏ tôi tập trung cao độ thế nào vào câu chuyện của ông, tôi bắt đầu đi tới lui trong phòng với vẻ trầm ngâm, trước khi đến gần điểm đen khả nghi trên tường.

Khi không nhìn thấy con mắt của Shekure dán sau cái mà tôi nghĩ là lỗ nhìn trộm, tôi tràn ngập nỗi thất vọng, và sau đó là cảm giác cô đơn kỳ lạ, và cảm giác bồn chồn của một người không biết đi tiếp về đâu. Thỉnh thoảng tôi lại có cảm giác bất chợt và mạnh mẽ rằng Shekure đang theo dõi tôi, tôi hoàn toàn tin chắc mình đang trong tầm nhìn của nàng, đến độ tôi bắt đầu làm điệu bộ giống như một người đang cố chứng tỏ anh ta thông minh hơn, mạnh mẽ hơn, thậm chí giỏi giang hơn thực chất anh ta có để gây ấn tượng cho người phụ nữ anh ta yêu. Sau đó tôi nghĩ đến việc Shekure và các con nàng đang so sánh tôi với chồng nàng - người cha mất tích của bọn trẻ - trước khi đầu óc tôi tập trung lại vào tay minh họa Venice nổi tiếng nào đó mà lúc ấy Enishte của tôi đang tô thêm nét triết lý vào cho những kỹ thuật hội họa của hắn. Tôi ước ao được giống những họa sĩ mới nổi tiếng chỉ vì Shekure đã nghe cha nàng nói quá nhiều về họ, những tay minh họa tạo được tên tuổi không phải bằng việc chịu nỗi đau tử vì đạo trong các xà lim như những vị thánh, hay bằng việc chém đầu quân địch với một cánh tay mạnh mẽ và một thanh mã tấu bén ngót như người chồng vắng mặt đó đã làm, mà nhờ một bản thảo mà họ sao chép hoặc một trang họ đã trang trí. Tôi gắng hết sức hình dung những bức tranh lộng lẫy mà những nhà minh họa nổi tiếng đã tạo ra, những kẻ mà, theo như Enishte của tôi giải thích, được truyền cảm hứng bởi sức mạnh của sự tối đen hữu hình của nó và sự huyền bí của thế giới. Tôi cố hết sức hình dung chúng - những kiệt tác mà Enishte của tôi đã thấy và hiện đang cố mô tả cho một người vốn chưa từng thấy chúng - đến độ cuối cùng, khi trí tưởng tượng của tôi chẳng giúp gì được, tôi chỉ càng buồn nản hơn, càng thấy mình bé mọn hơn.

Tôi nhìn lên thì phát hiện rằng Shevket lại đến trước mặt tôi. Nó tiến đến chỗ tôi một cách dứt khoát, và tôi cho rằng - như phong tục đối với một bé trai lớn nhất trong những bộ tộc Ả Rập nào đó ở Transoxiana và những bộ lạc Circassian thuộc vùng núi Caucasus - thằng bé sẽ không chỉ hôn tay khách lúc khách mới đến thăm mà cả khi người khách ra về nữa. Bị bất ngờ, tôi đã giơ tay ra cho nó hôn: Ngay lúc đó, từ đâu đó không xa, tôi nghe tiếng cười của nàng. Nàng đang cười tôi chăng? Tôi bối rối và để cứu vãn tình hình, tôi nắm lấy Shevket mà hôn lên hai má nó như thể phong tục muốn tôi làm thế. Sau đó tôi mỉm cười với Enishte của tôi như để xin lỗi vì đã cắt ngang ông và để cam đoan với ông rằng tôi không có ý vô lễ, trong khi cẩn thận kéo đứa bé lại gần để kiểm tra xem nó có mang hương thơm của mẹ nó không. Đến lúc tôi hiểu rằng thằng bé đã đặt vào tay tôi một mẩu giấy xếp nhỏ thì nó đã quay lưng đi ra tới gần cửa rồi.

Tôi giữ chặt mẩu giấy trong nắm tay như một báu vật. Và khi hiểu ra rằng đây là lá thư của Shekure, tôi không thể nén được nụ cười ngốc nghếch với Enishte của tôi vì quá sung sướng.

Chứng cứ này chưa đủ cho thấy rằng Shekure đắm đuối khao khát tôi sao? Bất chợt tôi tưởng tượng cảnh chúng tôi đang điên cuồng làm tình với nhau. Tôi tin tưởng quá sâu xa rằng hình ảnh khó tin mà tôi vừa tưởng tượng ra đó sẽ sớm xảy ra đến độ cái giống đàn ông của tôi bắt đầu trỗi dậy một cách không đúng lúc - ngay trước mặt Enishte của tôi. Shekure có chứng kiến chuyện này không? Tôi chú tâm vào những gì Enishte của tôi giải thích để chuyển hướng sự tập trung của tôi.

Hồi lâu sau, khi Enishte của tôi sắp cho tôi xem một tấm bản thảo đã minh họa từ cuốn sách của ông, tôi kín đáo mở lá thư ra, nó bay mùi hoa kim ngân, chỉ để phát hiện ra là nàng hoàn toàn không viết gì cả. Tôi không thể tin vào mắt mình, và bất giác cứ lật qua lật lại để xem xét lá thư.

“Một cái cửa sổ,” Enishte của tôi nói. “Việc sử dụng những kỹ thuật phối cảnh giống như việc quan sát thế giới từ một ô cửa sổ - cháu đang cầm gì đó?”

“Chẳng có gì cả, thưa Enishte Kính mến,” tôi nói. Khi ông quay đi, tôi đưa mẩu giấy gấp đó lên mũi mà hít sâu mùi hương của nó.

Sau bữa ăn chiều, vì không muốn dùng bô của Enishte, tôi xin lỗi và bước ra nhà vệ sinh ngoài sân. Trời lạnh cắt da. Tôi vừa lẹ làng giải quyết xong mối bận tâm của tôi mà không để mông bị lạnh cóng thì thấy Shevket bẽn lẽn và lặng lẽ xuất hiện trước mặt tôi, cản đường tôi như một tên cướp. Hai tay nó bưng cái bô đầy nhóc và bốc khói của ông ngoại nó. Nó bước vào nhà xí sau tôi rồi đổ bô. Nó bước ra và vừa dán cặp mắt xinh đẹp của nó vào mắt tôi vừa phùng má, tay vẫn giữ chặt cái bô không.

“Chú thấy con mèo chết bao giờ chưa?” nó hỏi. Mũi nó giống hệt mũi mẹ nó. Nàng có quan sát chúng tôi không? Tôi nhìn quanh. Những tấm rèm cửa sổ trên tầng hai, nơi tôi lần đầu thấy lại Shekure sau nhiều năm, đã đóng kín.

“Không.”

“Để cháu chỉ cho chú con mèo chết trong nhà của Người Do Thái bị treo cổ nghe?”

Nó bước ra đường mà không chờ tôi trả lời. Tôi theo nó. Chúng tôi đi bốn năm mươi bước dọc theo con đường lầy lội và lạnh giá, trước khi bước vào khu vườn hoang phế. Ở đây bốc mùi lá mục và ẩm, phảng phất mùi mốc. Với sự tự tin của một đứa trẻ biết rõ nơi này, bước từng bước nhịp nhàng, vững chắc, nó đi qua cửa một ngôi nhà màu vàng, nằm ngay trước mặt chúng tôi, khuất sau cây vả ủ rũ và hàng cây hạnh đào. Ngôi nhà trống trơn, nhưng nó khô và ấm, như thể có ai đang sống ở đó.

“Nhà này của ai vậy?” tôi hỏi.

“Mấy người Do Thái. Khi ông chồng chết, vợ con ông ta đến khu Do Thái cạnh bến cảng trái cây. Họ nhờ Esther người bán quần áo rao bán nhà.”

Nó bước vào góc phòng và quay ra. “Con mèo mất tiêu rồi,” nó nói.

“Con mèo chết thì đi đâu?”

“Ông ngoại nói người chết đi lang thang.”

“Không phải chính người chết,” tôi nói. “Mà linh hồn của họ mới lang thang.”

“Sao chú biết?” nó hỏi. Nó đang giữ chặt cái bô sát đùi với vẻ hết sức nghiêm trang.

“Chỉ biết vậy thôi. Bộ cháu hay đến đây lắm hả?”

“Mẹ cháu đến đây với Esther. Người chết sống lại, dưới mồ ngoi lên, đến đây vào ban đêm, nhưng cháu không sợ chỗ này. Chú có giết ai chưa?”

“Có.”

“Mấy người?”

“Không nhiều. Hai.”

“Bằng gươm hả?”

“Bằng gươm.”

“Hồn họ có đi lang thang không?”

“Chú không biết. Theo sách nói thì họ phải lang thang.”

“Chú Hasan có một thanh gươm đỏ. Nó bén đến độ cắt đứt tay chú nếu chú đụng vào. Chú ấy còn có một con dao găm có cán nạm ngọc. Chú có phải là người giết cha cháu không?”

Tôi gật đầu chẳng nói “phải” mà cũng chẳng nói “không.”. “Sao cháu biết cha cháu chết rồi?”

“Mẹ cháu nói vậy hôm qua. Cha không về nữa. Mẹ thấy cha trong mơ.”

Nếu có cơ hội, chúng ta quyết định sẽ làm, nhân danh một mục đích lớn lao hơn bất cứ điều khủng khiếp nào mà chúng ta đã chuẩn bị làm vì những lợi lộc khốn khổ của riêng mình, vì nỗi thèm khát cháy bỏng trong ta hoặc vì tình yêu làm tan nát tim ta; và vì thế, một lần nữa tôi quyết định trở thành cha của bọn trẻ bị bỏ rơi này, và, khi trở vào nhà, tôi lắng nghe ông ngoại của Shevket một cách chăm chú hơn khi ông mô tả cuốn sách mà tôi phải hoàn tất lời văn và những tranh minh họa của nó.

Hãy để tôi bắt đầu bằng những tranh minh họa mà Enishte của tôi đã cho tôi xem, chẳng hạn như con ngựa. Trên trang này không có những hình người, và quanh chỗ con ngựa hoàn toàn để trống; tuy nhiên, tôi không thể nói nó đơn giản và thuần túy chỉ là bức tranh vẽ con ngựa. Phải, con ngựa ở đó, nhưng rõ ràng kỵ sĩ đã bước sang một bên, hoặc ai mà biết, có lẽ anh ta sắp hiện ra từ đàng sau một bụi cây được vẽ theo phong cách Kazvin. Điều này lập tức lộ rõ từ chiếc yên trên lưng ngựa, vốn mang những dấu hiệu và vật trang điểm của giới quý tộc: có lẽ một người với thanh gươm lăm lăm trên tay sắp xuất hiện bên cạnh con ngựa.

Rõ ràng là Enishte của tôi đã đặt vẽ con ngựa này từ một nhà minh họa bậc thầy, người mà ông đã bí mật triệu đến từ xưởng vẽ. Bởi nhà minh họa này, đến vào ban đêm, chỉ có thể vẽ một con ngựa - vốn đã ăn sâu vào đầu anh ta như một bản khắc kẽm - nếu như nó là sự mở rộng của câu chuyện, thì anh ta sẽ bắt đầu vẽ theo chính cách đó: theo trí nhớ. Khi anh ta vẽ con ngựa, mà anh ta đã thấy hàng ngàn lần trong các cảnh yêu đương và chiến tranh, thì Enishte của tôi, khởi hứng từ những phương pháp của các bậc thầy Venice, chắc chắn đã chỉ dẫn nhà minh họa này; chẳng hạn, có thể ông đã nói, “Hãy quên tay kỵ sĩ đi, mà vẽ một cái cây ở đó. Nhưng vẽ nó ở hậu cảnh, theo tỉ lệ nhỏ hơn.”

Nhà minh họa, người đến vào ban đêm, sẽ ngồi trước bàn làm việc cùng Enishte của tôi, hăm hở vẽ bên ánh nến một bức tranh kỳ cục, phi quy ước, không giống bất kỳ cảnh bình thường nào mà anh ta quen thuộc và nhớ trong đầu. Dĩ nhiên Enishte của tôi trả công anh ta hậu hĩ cho mỗi bức vẽ, nhưng thực tình thì phương pháp vẽ lạ kỳ này cũng có những hấp dẫn của nó. Tuy nhiên, như với Enishte của tôi, sau một thời gian, nhà minh họa này không còn xác định được bức minh họa sẽ nâng cao và hoàn chỉnh cho câu chuyện nào. Những gì Enishte của tôi mong đợi ở tôi là tôi sẽ xem xét những tranh minh họa được vẽ theo kiểu nửa Ba Tư, nửa Venice và viết một câu chuyện phù hợp đi kèm theo chúng ở trang đối diện. Nếu tôi muốn có được Shekure, dứt khoát tôi phải viết những chuyện này, nhưng tất cả những gì nảy ra trong đầu tôi là những câu chuyện mà người kể chuyện đã kể tại quán cà phê.

CHƯƠNG 23
TÔI SẼ ĐƯỢC GỌI LÀ MỘT KẺ SÁT NHÂN

Tích tắc, chiếc đồng hồ lên dây cót của tôi báo cho tôi biết trời đã tối. Hiệu báo giờ cầu kinh chưa gióng lên. nhưng tôi đã đốt nến đặt bên cạnh bàn làm việc của tôi từ lâu rồi. Tôi nhanh chóng hoàn thành bức tranh vẽ một con nghiện thuốc phiện theo trí nhớ, sau khi nhúng cây bút sậy vào lọ mực đen Hasan Pasha rồi quẹt nó lên tờ giấy được phết keo và đánh bóng kỹ lưỡng, thì tôi nghe tiếng nói gọi tôi ra đường như nó vẫn gọi hàng đêm. Tôi cưỡng lại. Tôi đã quyết tâm không đi mà ở nhà làm việc, thậm chí có lúc tôi còn đóng đinh chặn cửa lại.

Cuốn sách tôi đang gấp rút hoàn tất là do một người Armenia đặt làm, người này đã từ tận Galata tìm đến đây, gõ cửa nhà tôi sáng nay trước khi mọi người thức giấc. Người này, làm nghề phiên dịch và dẫn đường, dù nói lắp, đã lùng kiếm tôi mỗi khi có một du khách Tây vực hay Venice muốn có một “cuốn sách trang phục” và lôi tôi vào một cuộc mặc cả quyết liệt. Sáng hôm đó, sau khi đã thỏa thuận một cuốn sách trang phục chất lượng thấp với giá hai mươi đồng bạc, tôi tiến hành minh họa một mạch độ chục người Istanbul vào khoảng giờ cầu kinh tối, đặc biệt chú ý đến chi tiết ở quần áo giày dép của họ.

Tôi vẽ một Thượng thư tôn giáo vụ, một phu khuân vác trong cung điện, một nhà thuyết giáo, một lính bộ binh, một nhà khổ tu một lính kỵ binh, một quan tòa, một người bán gan, một đao phủ - tranh vẽ đao phủ đang hành hình bán rất chạy - một kẻ ăn mày, một phụ nữ đang đi về nhà tắm hơi, và một người nghiện thuốc phiện. Tôi đã làm nhiều sách loại này để kiếm thêm vài đồng bạc đến độ tôi bắt đầu bịa ra những trò chơi cho mình để chống lại cơn buồn chán trong khi vẽ; chẳng hạn như tôi buộc mình phải vẽ một quan tòa mà không nhấc bút lên khỏi mặt giấy hoặc nhắm mắt mà vẽ gã ăn mày.

Mọi tên cướp, nhà thơ và những người luôn buồn phiền đều biết rằng khi có hiệu lệnh cầu kinh tối thì những âm hồn và ma quỷ trong họ sẽ càng lúc càng kích động và nổi loạn, chúng đồng thanh thúc giục: “Ra! Ra ngoài”. Tiếng nói nội tại bất an đó yêu cầu, “Hãy tìm người bầu bạn, tìm bóng tối khổ não và nhục nhã.” Tôi đã dành thời gian xoa dịu những âm hồn và ma quỷ này. Tôi đã vẽ những bức tranh, mà nhiều người xem như phép thần diệu hiện ra từ tay tôi, với sự giúp đỡ của những ác thần này. Nhưng suốt bảy ngày nay cứ sau hoàng hôn, từ khi tôi giết tên tồi tệ đó, tôi không còn kiểm soát được những âm hồn và ma quỷ trong tôi nữa. Chúng nổi giận dữ dội đến độ tôi phải tự nhủ có thể chúng sẽ bình tĩnh lại nếu tôi ra ngoài một lát.

Sau khi nói thế, tôi nhận ra mình lang thang suốt đêm mà không biết bằng cách nào, cũng như mọi khi. Tôi bước nhanh, qua những con đường tuyết phủ, những lối đi lầy lội, những con dốc đóng băng và những vỉa hè vắng ngắt như thể tôi sẽ không bao giờ dừng lại. Trong khi tôi vào bóng tối của đêm, vào những nơi xa xôi nhất và hoang vắng nhất của thành phố, tôi dần bỏ linh hồn mình lại phía sau và đi dọc theo những con phố hẹp, tiếng bước chân tôi dội vào những bức tường đá của quán rượu, trường học và thánh đường, và nỗi sợ của tôi giảm xuống.

Đôi chân tôi tự ý đưa tôi đến những con đường hoang phế của khu này ở ngoại ô thành phố, nơi tôi đến mỗi đêm và là nơi mà ngay cả ma quỷ và âm hồn cũng rùng mình khi đi qua. Tôi nghe nói rằng nửa số dân trong vùng này đã chết trong những cuộc chiến tranh với Ba Tư, còn số còn lại đã bỏ đi, cho rằng khu này mang điềm gở. Nhưng tôi không tin điều dị đoan như thế. Bi kịch duy nhất xảy đến cho nơi tốt đẹp này do những cuộc chiến tranh Safavid là việc đóng cửa nhà khổ tu phái Kalenderi cách nay bốn mươi năm vì nó bị nghi là chứa chấp quân thù.

Tôi lang thang đằng sau mấy bụi dâu tằm và những cây nguyệt quế, vốn tỏa hương thơm dễ chịu ngay cả trong thời tiết lạnh lẽo nhất và với tính khí bốc đồng thường lệ của mình, tôi dựng ngay ngắn lại những tấm ván ốp tường nằm giữa ống khói đã sụp và của sổ với những lớp rèm hư nát. Tôi bước vào và hít vào phổi mùi nhang và mùi mốc còn vương vất hàng trăm năm. Tôi cảm thấy quá hạnh phúc khi ở đây đến độ tôi nghĩ mình sắp khóc.

Nếu tôi chưa nói thế thì tôi muốn nói rằng tôi chẳng sợ gì ngoài đấng Allah, và sự trừng phạt trong thế giới này theo tôi chẳng có nghĩa lý gì. Điều tôi sợ là đủ loại giày vò mà những kẻ giết người như tôi sẽ phải chịu đựng trong Ngày phán xét như được mô tả rõ ràng trong kinh Koran Vinh quang, ở chương Al- Furqan ([40]) chẳng hạn. Trong những cổ thư, mà tôi hiếm khi cầm đến, mỗi khi tôi thấy hình ảnh về sự trừng phạt này trong mọi sắc thái và sự ác liệt của nó, gợi nhớ lại những cảnh đơn giản, hợp với trẻ con, nhưng rất khủng khiếp về Hỏa ngục do các nhà tiểu họa Ả Rập cổ minh họa trên những tấm da dê, hoặc, vì bất kỳ lý do gì những cảnh tra tấn của ma quỷ do các họa sĩ bậc thầy Mông Cổ và Trung Hoa vẽ, tôi không thể không vẽ những hình ảnh tương tự này và lưu ý đến tính lôgic của nó: “Câu thứ ba mươi ba của chương Al-Isra ([41]) nói lên điều gì? Chẳng phải nó nói rằng nếu không có lý do biện minh, người ta không được phép lấy đi sinh mạng người khác mà việc giết kẻ đó bị Thượng đế ngăn cấm sao?” Vậy thì đây: tên đê tiện mà tôi cho xuống Địa ngục không phải là một tín hữu, vốn là loại người mà Thượng đế cấm giết, ngoài ra, tôi có lý do rất chính đáng để đập nát sọ hắn.

Tên này đã vu cáo bọn chúng tôi, những người đang thực hiện cuốn sách do Đức vua bí mật ra lệnh. Nếu tôi không làm hắn câm mồm, hắn sẽ tố cáo Enishte Kính mến, tất cả nhà tiểu họa và cả Thầy Osman là những kẻ vô thần, để cho những môn đệ điên cuồng của Hoja xứ Erzurum xử lý họ. Nếu ai đó thành công trong việc phao tin rằng các nhà tiểu họa đang làm chuyện báng bổ, thì những môn đệ Erzurum này - những kẻ đang tìm bất kỳ cớ nào để sử dụng sức mạnh của họ - sẽ không chỉ hài lòng với việc giết chết những nhà tiểu họa bậc thầy này, mà họ còn phá hủy toàn bộ xưởng vẽ và Đức vua sẽ không dám làm bất cứ điều gì ngoài việc im lặng nhìn.

Như tôi vẫn làm mỗi lần đến đây, tôi lau dọn sạch sẽ bằng cây chổi và miếng giẻ lau mà tôi đã giấu trong một góc. Khi lau dọn, tôi thấy phấn chấn và lại cảm thấy mình như một đầy tớ đầy trách nhiệm của đấng Allah. Để Người không tước đi cảm giác sung sướng tột cùng này của tôi, tôi cầu nguyện hồi lâu. Cái lạnh, vốn đủ gay gắt để biến một bãi phân cáo thành một cục đồng, thấm vào tận xương. Tôi bắt đầu cảm thấy cơn đau dữ dội đó ở đáy cổ họng. Tôi bước ra ngoài.

Ngay sau đó, cũng trong tâm trạng kỳ lạ đó, tôi nhận thấy mình đang ở một nơi hoàn toàn khác. Tôi không biết những gì đã xảy ra, những gì tôi đã nghĩ khi đi từ khu hoang phế của ngôi nhà khổ tu tới đây. Tôi không biết bằng cách nào tôi đến được những con đường trồng đầy cây bách này.

Dù tôi lang thang nhiều tới đâu, một ý nghĩ quấy rầy dai dẳng cũng không chịu rời khỏi tôi, nó gặm nhấm tôi như một con sâu. Có lẽ nếu nói ra với các vị, tôi sẽ thấy nhẹ gánh: “Hãy gọi hắn là một kẻ vu khống đê tiện” hay “Zarif Kính mến tội nghiệp” - cách nào cũng như nhau - ngay trước khi tay thợ mạ vàng đó rời khỏi thế giới này, hắn đã đưa ra những lời buộc tội mạnh mẽ nhắm vào Enishte của chúng tôi, nhưng khi hắn thấy tôi không bị tác động bởi tuyên bố của hắn rằng Enishte Kính mến đã sử dụng những kỹ thuật phối cảnh của bọn ngoại giáo, tên đê tiện đó đã tiết lộ như sau: “Có một bức tranh cuối cùng. Trong bức tranh đó, Enishte báng bổ mọi thứ chúng ta tin vào. Những gì ông ta làm không còn là một sự xúc phạm đạo giáo nữa, mà là sự báng bổ thuần túy.” Hơn nữa, ba tuần sau lời buộc tội của tên vô lại đó, Enishte Kính mến đã thực sự yêu cầu tôi minh họa một số thứ không liên quan, như một con ngựa, một đồng tiền và Thần chết ở những chỗ ngẫu nhiên trên một trang giấy và theo những tỉ lệ không nhất quán một cách kỳ cục; thực tế nó là những gì người ta thường thấy ở một bức tranh Tây vực. Enishte luôn bỏ công che kín phần được kẻ dòng của trang giấy mà ông ta muốn tôi minh họa cũng như những chỗ mà Zarif Kính mến xấu số đã mạ vàng, như thể ông ta muốn giấu một điều gì đó không cho tôi và những nhà tiểu họa khác biết.

Tôi muốn hỏi Enishte ông đang vẽ cái gì trong bức tranh lớn cuối cùng đó, nhưng có nhiều điều ngăn tôi lại. Nếu tôi hỏi, dĩ nhiên ông ta sẽ nghi ngờ tôi giết Zarif Kính mến và sẽ cho mọi người biết mối nghi ngờ của ông ta. Nhưng có một điều gì khác cũng làm tôi bối rối. Nếu tôi hỏi, ông ta có thể tuyên bố rằng Zarif Kính mến thực sự chính đáng khi có những niềm tin như vậy. Đôi khi tôi tự nhủ mình phải hỏi ông ta, vờ như sự nghi ngờ này không phải là từ Zarif Kính mến truyền sang tôi, mà đơn giản là do tôi tự nghĩ ra. Cuối cùng chẳng có cách nào thuận lợi cả.

Chân tôi, vốn luôn nhanh hơn đầu tôi, đã tự ý đưa tôi đến con đường qua nhà của Enishte Kính mến. Tôi nấp trong một chỗ kín, cố hết sức quan sát ngôi nhà ấy một lúc lâu trong đêm tối. Tôi theo dõi hồi lâu: Ẩn sau đám cây lá là ngôi nhà bề thế hai tầng và trông kỳ cục của một kẻ giàu có! Tôi không xác định được phòng của Shekure nằm ở mé nào. Như trong một số bức tranh được làm ở Tabriz dưới thời vua Tahmasp, tôi hình dung ngôi nhà theo thiết diện - như thể nó bị một con dao cắt làm đôi - và tôi cố vẽ ra trong tâm trí xem mình sẽ thấy Shekure ở đâu, đàng sau lớp cửa rèm nào.

Cửa mở, tôi thấy Siyah rời ngôi nhà trong đêm tối. Enishte đứng sau cổng nhìn theo anh ta tràn đầy thương mến trong giây lát trước khi đóng cổng.

Ngay cả tâm trí tôi, vốn trôi theo những tưởng tượng ngu ngốc, nhanh chóng, và đầy đau khổ, cũng rút ra được ba kết luận dựa trên những gì tôi đã thấy:

Một: Vì Siyah ít tốn kém hơn và ít nguy hiểm hơn, nên Enishte sẽ nhờ anh ta hoàn tất cuốn sách của chúng tôi.

Hai: Nàng Shekure xinh đẹp sẽ cưới Siyah.

Ba: Những gì Zarif Kính mến bất hạnh đã nói là sự thật, và như thế, việc tôi giết anh ta là vô ích.

Trong những tình huống như thế này, ngay khi trí óc tàn nhẫn của chúng ta rút ra kết luận cay đắng mà trái tim ta phản đối, thì toàn bộ cơ thể sẽ nổi dậy chống lại đầu óc. Thoạt tiên, nửa trí óc của tôi phản đối dữ dội kết luận thứ ba, vốn cho thấy tôi chẳng là gì ngoài kẻ sát nhân đáng tởm nhất. Hai chân tôi, một lần nữa, hành động nhanh hơn và hợp lý hơn đầu tôi đã đưa tôi đuổi sát theo Siyah Kính mến.

Chúng tôi đi qua mấy con đường nhỏ, khi đó tôi nghĩ hạ sát anh ta, kẻ đang mãn nguyện và tự tin đi phía trước tôi kia thì thật quá dễ và một tội ác như thế sẽ cứu tôi khỏi phải đối mặt với hai kết luận khó chịu mà tôi vừa nghĩ ra đến thế nào. Hơn nữa, tôi hẳn đã không đập bể đầu Zarif Kính mến mà chẳng có lý do gì.

Bây giờ nếu tôi chạy bay tới trước tám hay mười bước, đuổi kịp Siyah và giáng một cú thật lực vào đầu anh ta, mọi thứ sẽ diễn ra như thường lệ. Enishte Kính mến sẽ mời tôi đến để hoàn tất cuốn sách. Nhưng trong khi đó khía cạnh trung thực (Sự trung thực là gì nếu không phải là sợ hãi?) và thận trọng hơn của tôi tiếp tục nói với tôi rằng tên quái vật mà tôi đã giết và ném xuống giếng thật sự là một kẻ vu khống. Và nếu đúng vậy thì tôi đã không giết hắn một cách vô ích, và Enishte, do không còn bất cứ điều gì để che giấu về cuốn sách ông đang làm, hầu như chắc chắn sẽ mời tôi trở lại nhà ông.

Tuy nhiên trong khi theo dõi Siyah đang đi phía trước, tôi biết hầu như chắc chắn rằng không điều nào trong số này sẽ xảy ra. Tất cả chỉ là ảo tưởng. Siyah Kính mến có giá hơn tôi. Chuyện này vẫn xảy đến với tất cả chúng ta: Phản ứng trước tình trạng quá hợp luận lý, chúng ta sẽ nuôi dưỡng những tưởng tượng trong nhiều tuần và nhiều năm liên tục, thế rồi một ngày kia, chúng ta sẽ thấy một điều gì đó, một gương mặt, một bộ quần áo, một con người hạnh phúc, và bất chợt nhận ra rằng những giấc mơ của mình sẽ không bao giờ trở thành hiện thực; như thế, chúng ta sẽ đến chỗ hiểu rằng một thiếu nữ nào đó sẽ không bao giờ được phép cưới chúng ta hoặc chúng ta sẽ không bao giờ đạt được một thành quả như thế trong cuộc sống.

Tôi nhìn theo đôi vai, cái đầu và cổ nhấp nhô của Siyah - một kiểu đi khó chịu kỳ cục, như thể mỗi bước đi của anh ta là một món quà cho thế giới - với sự căm ghét sâu sắc vốn cuộn tròn một cách dễ chịu quanh tim tôi. Những người như Siyah, không bị những dằn vặt của lương tâm và với tương lai hứa hẹn trước mặt họ, vẫn cho rằng toàn bộ thế giới này là nhà của họ; họ mở mọi cánh cửa giống như vị vua bước vào chuồng ngựa riêng của ông ta và lập tức coi thường những ai trong chúng ta đang rúm mình trong đó. Niềm thôi thúc muốn nhặt một hòn đá rồi chạy đến sau lưng anh ra hầu như quá mạnh mẽ đến độ khó cưỡng lại.

Chúng tôi là hai người đàn ông cùng yêu một phụ nữ; anh ta đang đi phía trước tôi và hoàn toàn không biết sự hiện diện của tôi khi chúng tôi đi qua những con đường ngoằn ngoèo quanh co của Istanbul, lên dốc rồi xuống dốc, chúng tôi đi giống như những huynh đệ qua những con đường vắng vẻ chỉ còn những bầy chó hoang cắn lộn, đi qua những đống đổ nát sau hỏa hoạn nơi những âm hồn lảng vảng, các khoảnh sân thánh đường nơi các thiên thần nằm ngủ trên mái vòm, bên cạnh hàng bách đang rì rầm với những linh hồn người chết, vượt qua bờ rào của những nghĩa trang tuyết phủ đầy hồn ma, ra khỏi tầm nhìn của bọn cướp đang siết cổ những nạn nhân của chúng, đi qua những cửa hàng, chuồng ngựa, viện khổ tu, những xưởng làm nến, xưởng thuộc da và những bức tường đá vô tận; và khi chúng tôi đến gần nhau hơn, tôi cảm thấy tôi không hề đi theo anh ta, mà có vẻ như tôi đang bắt chước anh ta.

CHƯƠNG 24
TÔI LÀ THẦN CHẾT

Tôi là Thần chết, các người thấy rõ đấy, nhưng các người không cần phải sợ, tôi chỉ là một bức minh họa mà thôi. Hãy cứ như vậy, tôi thấy được nỗi kinh hãi trong mắt các người. Dù các người biết rất rõ rằng tôi không có thực - giống như bọn trẻ đang đắm mình vào một trò chơi - các người vẫn bị chìm trong nỗi kinh hoàng, như thể các người thật sự thấy chính Thần chết vậy. Điều này làm tôi vui. Khi nhìn tôi, các người có cảm giác rằng các người sẽ làm vấy bẩn chính mình vì sợ hãi khi giây phút cuối cùng không thể tránh khỏi đó đến với các người. Đây không phải nói đùa đâu.

Khi đối mặt Thần chết, người ta mất kiểm soát những chức năng thân thể họ - nhất là những người được tiếng là dũng cảm. Vì lý do này, những chiến trường đầy xác chết mà các người vẽ hàng ngàn lần không có mùi máu, thuốc súng và áo giáp nóng hổi như ta thường nghĩ, mà chỉ có cứt và thịt thối rữa.

Tôi biết đây là lần đầu các người thấy một bức tranh vẽ Thần chết.

Cách nay một năm, một ông già cao, gầy, bí ẩn đã mời đến nhà mình một nhà tiểu họa trẻ, người sau đó sẽ minh họa tôi. Trong phòng làm việc tranh tối tranh sáng của ngôi nhà hai tầng, ông già dọn cho bậc thầy trẻ tuổi này một tách cà phê tẩm hổ phách tuyệt vời, vốn làm đầu óc chàng trẻ tuổi này sảng khoái. Kế đến, trong căn phòng tối có cửa màu xanh đó, ông già đã kích động chàng tiểu họa trẻ bằng việc khoe thứ giấy tuyệt đẹp từ Hindustan, những chiếc cọ làm bằng lông sóc, nhiều tấm vàng lá khác nhau, đủ loại bút sậy và những dao chuốt bút có cán san hô, chứng tỏ rằng ông ta có thể trả công hậu hĩ.

“Bây giờ hãy vẽ Thần chết cho ta,” ông già nói.

“Tôi không thể vẽ Thần chết nếu chưa một lần trong đời thấy được một bức tranh Thần chết,” nhà tiểu họa tài hoa, kẻ mà ngay sau đó sẽ vẽ bức tranh này, liền nói.

“Đâu phải lúc nào anh cũng phải thấy một bức minh họa về một thứ nào đó thì mới vẽ lại được,” ông già lịch thiệp và nhiệt tình kia phản đối.

“Phải, có lẽ không,” nhà tiểu họa bậc thầy nói. “Nhưng nếu muốn bức tranh đó được hoàn hảo, theo cách những bậc thầy ngày xưa đã làm, thì nó phải được vẽ hàng ngàn lần trước khi tôi thử vẽ nó. Cho dù nhà tiểu họa có tài hoa đến đâu đi nữa, thì khi lần đầu tiên vẽ một vật nào đó, anh ta sẽ thể hiện nó như một thợ học việc, mà tôi thì không bao giờ làm được như vậy. Tôi không thể dẹp tài hoa của tôi sang một bên khi minh họa Thần chết; điều này tương đương với việc tự sát.”

“ Một cái chết như thế có thể khiến anh tiếp cận đề tài,” ông già châm biếm.

“Không phải kinh nghiệm về một chủ đề mới làm cho chúng tôi trở thành những bậc thầy, chuyện trải nghiệm không hề biến chúng tôi thành những bậc thầy.”

“Vậy một sự lão luyện như thế tất phải quen thuộc với Thần chết.”

Theo kiểu đó, họ bước vào một cuộc nói chuyện cao siêu đầy những ám chỉ, ẩn dụ, chơi chữ, lối nói mơ hồ và những lời bóng gió, phù hợp với những nhà tiểu họa vốn kính trọng cả những bậc thầy cũ cũng như tài năng của chính họ. Vì sự hiện hữu của tôi là đề tài của cuộc bàn cãi, nên tôi chú ý lắng nghe cuộc nói chuyện, toàn bộ câu chuyện, tôi biết sẽ làm chán tai những nhà tiểu họa lỗi lạc của chúng ta trong quán cà phê tuyệt vời này. Cho phép tôi nói rằng cuộc bàn luận đã tới đỉnh điểm khi chạm đến vấn đề sau:

“Có phải thước đo tài năng của nhà tiểu họa là khả năng vẽ mọi thứ với cùng một mức độ hoàn hảo như những bậc thầy vĩ đại hay đấy là khả năng đưa vào bức tranh một chủ đề mà không ai khác có thể thấy?” Nhà minh họa tài hoa thông minh đó hỏi, và dù bản thân anh ta biết rõ câu trả lời cho vấn đề này, nhưng anh ta vẫn rất dè dặt.

“Người Venice đánh giá tài năng của nhà tiểu họa qua khả năng phát hiện chủ đề và những kỹ thuật mới mà trước đó chưa ai sử dụng,” ông già ngạo mạn khẳng định.

“Người Venice chết theo kiểu người Venice.” nhà minh họa mà sau đó vẽ tôi nói.

“Mọi cái chết của chúng ta đều giống nhau.” ông già nói.

“Truyền thuyết và hội họa kể lại con người khác nhau như thế nào, chứ không phải cơn người giống nhau như thế nào,” nhà minh họa thông minh nói. “Nhà tiểu họa bậc thầy đạt được sự lão luyện bằng cách vẽ những truyền thuyết độc đáo như thể chúng ta đã quen thuộc với chúng.”

Theo cách đó, cuộc nói chuyện chuyển sang những khác biệt giữa cái chết của người Venice và người Ottoman, sang Thiên sứ của Thần chết và những thiên sứ khác của Allah, và chuyện tại sao không thể đánh giá họ theo tiêu chuẩn nghệ thuật của bọn ngoại giáo. Bậc thầy trẻ tuổi, người hiện đang nhìn tôi với đôi mắt đẹp trong quán cà phê thân yêu này của chúng ta, thấy bối rối trước những lời nghiêm trọng này, hai bàn tay anh ta trở nên bồn chồn, anh ta khao khát vẽ tôi, tuy anh ta chưa nghĩ ra tôi là loại thực thể nào.

Lão già ranh ma và đầy tính toán vốn muốn lôi cuốn chàng trai trẻ này đã nắm bắt được mùi hăm hở của chàng trai. Trong phòng tối lão già dán mắt mình, vốn lấp lánh trong ánh đèn dầu leo lét, vào chàng trai có bàn tay tài hoa.

“Thần chết, nhân vật được dân Venice vẽ theo hình dạng con người, với chúng ta lại là một thiên sứ giống như Azrael,” ông ta nói. “Phải, trong hình dạng con người. Giống như Gabriel, vị thiên sứ xuất hiện dưới lốt người phàm khi truyền Lời Thiêng cho đấng Tiên tri của chúng ta. Anh hiểu mà, phải không?”

Tôi nhận ra rằng chàng họa sĩ trẻ, người mà Allah đã phú cho tài năng đáng kinh ngạc, đang nóng ruột muốn vẽ tôi, bởi lão già quỷ quyệt đã thành công trong việc kích thích anh ta bằng ý tưởng quỷ quái này: Những gì chúng ta tha thiết mong muốn là vẽ một thứ gì mà chúng ta chưa biết với tất cả sự tối tăm của nó, Chứ không phải cái chúng ta đã biết với tất cả ánh sáng của nó.

“Tôi không hề quen thuộc với Thần chết chút nào.” nhà tiểu họa nói.

“Tất cả chúng ta đều biết Thần chết,” ông già nói.

“Chúng ta sợ nó, nhưng chúng ta không biết nó.”

“Vậy công việc của anh là vẽ nỗi sợ đó,” ông già nói.

Vậy là anh ta sắp tạo ra tôi. Gáy của nhà tiểu họa bậc thầy vĩ đại này ngứa ran; bắp thịt tay anh ta đang căng lên và những ngón tay anh ta thèm khát một cây bút sậy. Nhưng, bởi vì anh ta là kẻ thực tài nhất trong các bậc thầy vĩ đại đích thực, nên anh ta cố kiềm chế mình, biết rằng sự căng thẳng này sẽ làm sâu đậm hơn tình yêu nghệ thuật trong tâm hồn anh ta.

Lão già khôn ngoan này hiểu điều gì đang xảy ra, và tìm cách truyền cảm hứng cho chàng trai trong việc thể hiện tôi, mà ông ta chắc chắn sẽ được hoàn tất không lâu, ông ta bắt đầu đọc những đoạn nói về tôi từ những cuốn sách nằm trước mặt: Kitab al-Ruh([42]) của El-Jevziyye, Kitab al-Qiyamah ([43]) Của Gazzali và sách của Suyuti.

Và như thế, khi nhà tiểu họa bậc thầy với khả năng diệu kỳ đang thực hiện bức chân dung này, mà hiện các người đang nhìn ngắm một cách đầy sợ hãi, anh ta cũng lắng nghe Thiên sứ của Thần chết với hàng ngàn đôi cánh phủ khắp Trời và Đất, từ điểm xa nhất của phương Đông đến điểm xa nhất của phương Tây như thế nào. Anh ta nghe những đôi cánh này sẽ là nguồn an ủi lớn lao thế nào đối với kẻ thật sự ngoan đạo, những đối với những kẻ tội đồ và phiến loạn thì đau đớn như một cây chông nhọn xuyên qua da thịt. Vì đa số nhà tiểu họa các người đều đi về phía Địa ngục, nên anh ta mô tả tôi đầy những chông nhọn. Anh ta lắng nghe chuyện thiên sứ do Allah phái đến để lấy đi sinh mạng của các người sẽ mang theo cuốn sổ ghi tên tất cả các người và một số tên các người sẽ bị khoanh tròn bằng mực đen. Chỉ có Allah mới biết chính xác giây phút của cái chết: Khi giờ phút đó tới, một chiếc lá sẽ rơi từ cội cây bên dưới ngai vàng của Người và bất cứ ai bắt được chiếc lá này có thể biết được Thần chết đã đến lấy mạng ai. Vì tất cả lý do đó, nhà tiểu họa đã vẽ tôi như một hữu thể khủng khiếp, nhưng cũng thâm trầm, giống như một người hiểu mọi chuyện. Lão già điên đó tiếp tục đọc: Khi Thiên sứ của Thần chết, người hiện ra trong lốt người phàm, giơ bàn tay ra bắt lấy linh hồn của một kẻ đã hết thời hạn ở trần gian, một thứ ánh sáng bao trùm giống như ánh sáng mặt trời sẽ tỏa khắp, và vì thế chàng tiểu họa thông minh vẽ tôi tắm mình trong ánh sáng,vì anh ta cũng biết ánh sáng này sẽ là vô hình đối với những kẻ đang vây quanh người chết. Ông già sôi nổi này đọc trong Kitab Al-Ruh về những tên trộm mộ cổ từng tận mắt thấy, thay vì những xác người bị đâm thủng bằng chông nhọn, chỉ có những ngọn lửa và đầu lâu đầy chì nấu chảy. Vì thế, nhà minh họa diệu kỳ này, sau khi lắng nghe chăm chú những mô tả như thế, đã vẽ tôi theo một cách sẽ làm khiếp sợ bất cứ ai nhìn vào tôi.

Sau này anh ta hối tiếc về những gì mình đã làm. Không phải vì sự khủng khiếp mà anh ta đã đưa vào bức tranh, mà bởi vì anh ta dám làm một bức họa như thế. Về phần tôi, tôi cảm thấy mình giống như một người bị cha đẻ ra mình nhìn với sự phiền não và hối tiếc. Tại sao một nhà tiểu họa với đôi tay tài hoa lại hối tiếc vì đã minh họa tôi?

1. Bởi vì tôi, bức tranh Thần chết, không được vẽ với tất cả tài năng. Như các người có thể thấy, tôi không hoàn hảo như những gì do các bậc thầy Venice vĩ đại hoặc những bậc thầy Herat vẽ. Tôi cũng bối rối trước vẻ thảm hại của tôi. Bậc thầy vĩ đại này đã không vẽ được tôi theo một phong cách phù hợp với phẩm giá của Thần chết.

2. Bị lão già lừa gạt một cách khôn khéo, nhà minh họa bậc thầy vừa vẽ ra tôi này đã phát hiện rằng mình đã vô tình và bất ngờ bắt chước phương pháp và luật phối cảnh của những họa sĩ Tây vực bậc thầy. Linh hồn anh ta xáo động vì anh ta cảm thấy mình bất kính và lần đầu tiên, anh ta cảm thấy hổ thẹn với những bậc thầy xưa.

3. Anh ta hẳn đã hiểu ra rằng như một số kẻ đần độn vốn phát mệt vì tôi và cười cợt lúc này cũng đã hiểu ra: Cái chết không phải là chuyện đùa.

Nhà tiểu họa bậc thầy đã tạo ra tôi hiện lang thang bất tận trên đường phố mỗi đêm trong những cơn hối tiếc; giống như những bậc thầy Trung Hoa nào đó, anh ta tin mình đã trở thành những gì anh ta đã vẽ.

CHƯƠNG 25
TÔI À ESTHER

Quý bà từ những vùng lân cận như Kýzýlminare và Karakedi đã đặt hàng mền bông màu tía và đỏ từ thành phố Bilejik, vì vậy từ sáng sớm tôi đã chuẩn bị chiếc túi lớn tạm bợ - một tấm vải to tôi bỏ đầy hàng và buộc lại thành một bó lớn. Tôi dẹp tấm lụa Trung Hoa xanh lá cây vừa mới đến theo đường của thương nhân Bồ Đào Nha nhưng không bán được, thay bằng miếng màu xanh da trời quyến rũ hơn. Và do tuyết rơi không ngớt trong mùa đông dằng dặc này, nên tôi cẩn thận xếp đầy những chiếc vớ sặc sỡ, những khăn choàng dày và những chiếc áo lót nặng, tất cả đều bằng len, để chúng vào giữa. Khi tôi trải tấm vải này ra, một bó hoa đầy màu sắc sẽ bừng nở khiến cho thậm chí trái tim phụ nữ thờ ơ nhất cũng đập loạn xạ. Kế đến tôi gói một số khăn tay lụa nhẹ nhàng đắt tiền, ví đựng tiền và khăn mặt thêu đặc biệt dành cho những quý bà gọi tôi đến không phải để mua sắm mà để tán chuyện. Tôi nhấc túi lên. Trời ơi, nó nặng quá, làm lưng tôi muốn gãy. Tôi đặt nó xuống, mở ra. Khi tôi nhìn vào trong, thử quyết định xem bỏ cái gì lại, thì nghe có tiếng gõ cửa. Nesim mở cửa và gọi tôi.

Đó là nàng hầu Hayriye, đỏ mặt và bối rối. Cô ta cầm lá thư trên tay.

“Shekure gửi,” cô ta nói nhỏ. Cô nô lệ này e lệ đến độ các vị sẽ nghĩ cô ta đang yêu và muốn lấy chồng.

Hết súc nghiêm túc, tôi chộp lấy lá thư. Tôi dặn cô ngốc này hãy quay về sao cho không bị ai nhìn thấy và cô ta cáo lui.

Nesim nhìn tôi dò hỏi. Tôi lấy ra cái túi lớn hơn nhưng nhẹ hơn mà tôi thường mang mỗi khi đi chuyển thư.

“Shekure, con gái Enishte Kính mến, đang yêu nồng cháy,” tôi nói. “Cô ấy mất trí rồi, cô gái tội nghiệp.”

Tôi ba hoa và bước ra ngoài, nhưng rồi bị nỗi day dứt níu lại. Nếu phải nói thật, tôi muốn được nhỏ một giọt nước mắt cho nỗi buồn của Shekure thay vì coi thường những quan hệ tình cảm lặt vặt của cô ấy. Cô ấy đẹp biết bao, cô gái có đôi mắt đen u sầu của tôi!

Tôi bước nhanh qua những ngôi nhà ọp ẹp của khu Do Thái, chúng thậm chí trông còn điêu tàn và thê thảm hơn trong cái lạnh buổi sáng. Một lát sau, khi nhìn thấy tên ăn xin mù vốn luôn ngồi ngay góc đường nhà Hasan, tôi rao to, “Quần áo đây!”

“Này mụ phù thủy béo,” gã nói. “Mụ không gào lên thì chỉ nghe tiếng chân của mụ ta cũng nhận ra như thường.”

“Lão mù vô tích sự,” tôi nói. “Đồ Tatar chết dầm! Những kẻ mù như lão là tai họa bị Allah bỏ rơi. Cầu mong Người giáng cho lão sự trừng phạt xứng đáng với lão.”

Trước đây những lời qua lại như thế không làm tôi giận dữ. Tôi không hề quan tâm đến chúng. Cha của Hasan mở cửa. Ông ta là một người Abkhazia, một quý ông cao cả và lịch thiệp.

“Cho xem nào, lần này cô đem theo thứ gì vậy?” ông nói.

“Thằng con biếng nhác của ông còn ngủ hả?”

“Sao nó ngủ được? Nó đang chờ cô đưa tin đến.”

Ngôi nhà này quá tối đến độ mỗi lần đến thăm tôi đều có cảm giác như bước vào một ngôi mộ. Shekure không bao giờ hỏi về nó, nhưng tôi luôn nhất định chê bai nơi này để cô không còn nghĩ đến chuyện trở về hầm mộ này nữa. Thật khó hình dung rằng Shekure xinh xắn đã từng là bà chủ của ngôi nhà này và cô đã sống ở đây với những đứa bé tinh nghịch của cô. Bên trong nó bốc mùi giấc ngủ và cái chết. Tôi bước vào phòng bên cạnh, bước sâu hơn vào bóng tối.

Các vị không thể thấy được bàn tay chính mình giơ trước mặt. Thậm chí tôi không có cơ hội để đưa lá thư cho Hasan. Anh ta xuất hiện từ bóng tối và giật nó khỏi tay tôi. Như mọi khi, tôi để anh ta một mình đọc thư và thỏa mãn sự tò mò. Rồi anh ta nhanh chóng ngước lên khỏi trang giấy.

“Chỉ có bây nhiêu thôi sao?” anh ta hỏi. Anh ta biết rằng chẳng có gì khác, chỉ là một bức thư ngắn ngủn,” anh ta nói rồi đọc.

Siyah Kính mến! Anh đã đến nhà chúng tôi, và lưu lại nhiều ngày ở đây. Nhưng tôi nghe nói anh chưa hề viết thậm chí một dòng nào cho cuốn sách của cha tôi. Đừng ôm ấp hy vọng nếu trước tiên không hoàn tất bản thảo đó.

Cầm lá thư trong tay, anh ta nhìn vào mắt tôi với vẻ buộc tội, như thể tất cả chuyện này là lỗi của tôi. Tôi không thích những lúc im lặng như thế trong ngôi nhà này.

“Không còn chữ nào về việc cô ta đã có chồng, về chuyện chồng cô ấy từ mặt trận về,” anh ta nói. “Tại sao vậy?”

“Làm sao tôi biết tại sao?” tôi nói. “Tôi đâu phải người viết mấy lá thư này.”

“Đôi lúc tôi cũng băn khoăn về vụ đó.” anh ta nói rồi trao bức thư lại cùng với mười lăm đồng bạc.

“Có người càng kiếm được nhiều tiền càng keo kiệt. Anh không phải loại ấy,” tôi nói.

Có một khía cạnh thông minh, thú vị như thế ở người đàn ông này nên dù anh ta có những điểm xấu và đen tối, người ta cũng có thể thấy tại sao Shekure vẫn nhận thư của anh ta.

Cuốn sách của cha Shekure là cái gì vậy?”

“Anh biết mà! Người ta nói Đức vua chi tiền cho việc này đó.”

“Những tay tiểu họa đang giết nhau vì mấy bức tranh trong cuốn sách đó, anh ta nói. “Đó có phải là vì tiền hay - cầu Thượng đế thương xót - vì cuốn sách đó báng bổ đạo giáo của chúng ta? Họ nói chỉ cần nhìn thoáng vào các trang trong đó là đủ khiến người ta bị mù rồi.”

Anh ta vừa nói thế vừa mỉm cười theo cái cách mà tôi biết không nên coi là nghiêm túc. Thậm chí dù nó là vấn đề cần suy nghĩ nghiêm túc đi nữa, thì ít nhất anh ta chẳng có gì phải coi trọng việc tôi coi trọng vấn đề này. Giống như nhiều đàn ông khác vốn tin tưởng tôi trong vai trò người đưa thư và trung gian hòa giải, Hasan cũng chửi rủa tôi thậm tệ khi tự ái của anh ta bị tổn thương. Tôi, do công việc, phải giả vờ đau khổ để làm vừa lòng anh ta. Các thiếu nữ, trái lại, thường ôm tôi mà khóc khi tình cảm của họ bị tổn thương.

“Chị là một phụ nữ thông minh,” Hasan nói để vuốt ve tự ái của tôi. Anh ta tin rằng anh ta đã làm tôi thương tổn. “Giao lá thư này lẹ lên. Tôi tò mò muốn biết thằng ngốc đó trả lời ra sao.”

Trong một thoáng, tôi thấy muốn nói. “Siyah không ngốc đâu.” Trong những tình huống như thế, việc khích cho các tình địch ghen tuông nhau sẽ khiến cho Esther mai mối này kiếm được nhiều tiền hơn. Nhưng tôi sợ anh ta bất chợt nổi khùng lên.

“Anh biết tên ăn mày Tatar cuối phố chứ?” tôi hỏi. “Hắn ta rất thô bỉ.”

Để tránh tên mù đó tôi đi về đầu đường phía kia và vì thế đi ngang qua Chợ gà vào sáng sớm. Tại sao người Hồi giáo không ăn đầu với chân gà? Bởi vì chuyện đó quá kỳ cục! Bà nội tôi, cầu cho bà được yên nghỉ, thường bảo tôi rằng hồi gia đình bà mới từ Bồ Đào Nha sang đây chân gà rẻ đến độ bà đem nấu làm thức ăn.

Tại Kemeraralik, tôi thấy một phụ nữ trên lưng ngựa đi cùng những nô lệ của cô ta, ngồi thẳng lưng như một đàn ông. Cô ta kiêu ngạo hết sức, có thể là vợ của một tổng trấn hoặc con gái giàu có của ông ta. Tôi thở dài. Nếu cha Shekure không hết lòng đến đãng trí với mấy cuốn sách, nếu chồng cô ấy trở về sau chiến tranh Safavid với của cải cướp được, Shekure có lẽ sẽ sống giống người phụ nữ kiêu kỳ này. Hơn ai hết, cô ấy đáng được hưởng điều đó. Khi tôi rẽ vào con đường nhà Siyah, tim tôi đập liên hồi. Tôi có muốn Shekure lấy người đàn ông này không? Tôi vừa thành công trong việc giữ cho Shekure dính dáng với Hasan, đồng thời vừa giữ cho họ xa nhau. Nhưng còn Siyah thì sao? Anh ta có thể thực tế trong mọi khía cạnh trừ chuyện tình yêu anh ta dành cho Shekure.

“Quần áo đâyyyy”, Chẳng có thứ gì có thể thay thế niềm vui được phát thư cho những tình nhân đang bối rối vì cô đơn hay thiếu vợ vắng chồng. Cho dù họ tin chắc mình sẽ nhận được tin xấu nhất, nhưng khi sắp đọc thư, họ vẫn tràn trề hy vọng.

Bằng việc không đề cập bất cứ gì tới chuyện trở về của chồng mình, bằng việc gắn liền lời cảnh báo “Đừng ôm ấp hy vọng” của cô ấy với một điều kiện duy nhất, Shekure dĩ nhiên đã cho anh ta một lý do quá chính đáng để hy vọng nhiều hơn. Tôi theo dõi anh ta đọc thư, lòng vui như mở hội. Anh ta hạnh phúc quá đến độ quẫn trí, thậm chí sợ hãi. Khi anh ta lui vào trong để viết hồi âm, tôi, một kẻ bán rong quần áo biết suy tính, bèn mở túi “phát thư” và rút ra một chiếc ví tiền đen, chiếc tôi đang cố thuyết phục bà chủ nhà của Siyah mua.

“Cái này làm bằng nhung Ba Tư hảo hạng đó,” tôi nói.

“Con trai tôi chết trong chiến tranh ở Ba Tư”, bà ta nói. “Cô đưa thư của ai cho Siyah vậy?”

Tôi có thể thấy rõ trên gương mặt bà ta rằng bà ta đang lên kế hoạch tác thành cô con gái gầy gò của bà, hoặc ai biết được là con gái nhà ai, cho Siyah dũng cảm.

“Chẳng ai cả,” tôi nói. “Một người bà con nghèo khổ của anh ta đang hấp hối trong nhà thương Bayrampasha và cần tiền.”

“Ô,” bà ta nói với vẻ nghi ngờ, kẻ xui xẻo đó là ai vậy?”

“Con trai bà chết trong chiến tranh thế nào vậy?” Tôi vặn lại.

Chúng tôi bắt đầu nhìn nhau với vẻ thù địch. Bà ta là một quả phụ và hoàn toàn cô độc. Cuộc sống của bà hẳn rất khó khăn. Nếu các vị tình cờ trở thành người bán quần áo kiêm người đưa tin như Esther, các vị sẽ sớm biết được rằng chỉ có của cải, quyền lực và những chuyện tình truyền thuyết mới khiến người ta tò mò. Mọi thứ khác chỉ là sự lo phiền, chia cách, ghen tỵ, cô đơn, thù địch, nước mắt, chuyện đồn đãi và cái nghèo bất tận.

Những điều như thế không bao giờ thay đổi, giống như những món đồ trang bị cho một ngôi nhà: một tấm thảm len cũ phai màu, cái muôi và cái nồi đồng nhỏ nằm trên một tấm vỉ nướng trống, cái gắp than và thùng tro cạnh bếp lò, hai cái hòm sờn cũ một lớn, một nhỏ - một cái giá treo khăn xếp của đàn ông được giữ lại để che giấu cuộc sống quả phụ hiu quạnh và một thanh gươm cổ để đuổi trộm.

Siyah vội quay trở lại với ví tiền “Chị bán quần áo,” anh ta nói, chủ yếu để cho bà chủ nhà chộn rộn nghe thấy hơn là tôi. “Cầm cái này đưa cho bệnh nhân đau khổ đó. Nếu anh ta có trả lời gì, tôi sẽ chờ. Chị có thể tìm tôi ở nhà Enishte Kính mến, tôi sẽ ở đó suốt ngày nay.”

Chẳng cần thiết phải chơi những trò này. Chẳng có lý do gì khiến một chàng trai dũng cảm như Siyah phải giấu giếm những thủ đoạn tình trường của anh ta, những dấu hiệu anh ta nhận được, những khăn tay và thư từ anh gửi nhằm theo đuổi một cô gái. Hay anh ta thực sự để mắt đến con gái bà chủ nhà? Nhiều lúc, tôi không tin tưởng Siyah chút nào và sợ rằng anh ta đang lừa dối Shekure. Thế là thế nào, dù anh ta ở cả ngày với Shekure trong cùng một ngôi nhà, sao anh ta không ra hiệu cho cô ấy được?

Khi ra ngoài, tôi mở ví ra. Bên trong có hai mươi đồng xu bạc và một lá thư. Tôi quá tò mò về lá thư đến độ tôi gần như chạy đến nhà Hasan. Đám người bán rau đã bày bắp cải, cà rốt và những thứ khác ra ngay trước cửa hàng của họ. Nhưng tôi thậm chí không còn hơi đâu mà đụng đến những củ tỏi tây no tròn đang kêu gào đòi tôi vuốt ve chúng.

Tôi rẽ vào một con đường nhỏ thì thấy gã mù Tatar lại đang ở đó để chọc tức tôi. “Khỉ gió.” tôi nhổ về phía gã, chỉ có vậy thôi. Tại sao cái lạnh nhức nhối này không làm cho mấy tên lang thang ấy chết cóng đi cho rồi?

Khi Hasan im lặng đọc thư, tôi hầu như không giữ được kiên nhẫn. Cuối cùng, không kìm được nữa, tôi buột miệng hỏi, “Sao?”

Và anh ta bắt đầu đọc to:

Shekure yêu quý nhất đời anh, em đã yêu cầu anh hoàn tất cuốn sách của cha em. Em có thể tin chắc rằng anh không có mục đích nào khác. Anh đến nhà em vì lý do ấy, chứ không phải để làm phiền em như em đã nghĩ trước đây. Anh biết rõ rằng tình yêu anh dành cho em là chuyện của riêng anh. Nhưng vì tình yêu này, anh hoàn toàn không thể cầm bút lên và viết những gì cha em - dượng yêu quý của anh - đã yêu cầu cho cuốn sách của ông.

Mỗi khi anh cảm thấy sự có mặt  của em trong nhà, anh cứng người và không thể làm gì được cho cha em. Anh đã nghiền ngẫm điều này và nhận ra chỉ có một lý do: Sau mười hai năm, anh thấy mặt em chỉ một lần khi em đến bên cửa sổ. Bây giờ anh rất sợ bị mất đi hình ảnh đó. Nếu anh được thấy em một lần nữa gần hơn, anh sẽ không sợ mất em, và anh có thể dễ dàng hoàn thành cuốn sách của cha em. Hôm qua Shevket đã đưa anh đến ngôi nhà hoang của Người Do Thái bị treo cổ. Sẽ không ai thấy chúng ta ở đó. Hôm nay, bất cứ khi nào em thấy phù hợp anh sẽ đến đó chờ em. Hôm qua Shevket có nói rằng trong giấc mơ em thấy chồng em đã chết.

Hasan đọc lá thư một cách chế nhạo, ở nhiều chỗ anh ta nâng cái giọng đã cao của mình lên còn cao hơn nữa giống giọng đàn bà, và ở nhiều chỗ anh bắt chước kiểu van xin run rẩy của một kẻ si tình đã mất sạch lý trí. Anh ta chê bai việc Siyah viết mong ước “được thấy em chỉ một lần nữa” bằng tiếng Ba Tư. Anh ta nói thêm. “Ngay khi Siyah thấy rằng Shekure đã cho hắn ta ít nhiều hy vọng, hắn lật đật thương lượng. Kiểu mặc cả như thế không phải là thứ mà một người thực sự đang yêu dùng đến.”

“Anh ta thực lòng yêu Shekure,” tôi nói một cách khờ khạo.

“Nhận xét này chứng tỏ chị đứng về phe Siyah.” anh ta nói. “Nếu Shekure viết rằng cô ta mơ thấy anh tôi đã chết, điều đó có nghĩa là cô ấy chấp nhận chồng mình chết.”

“Đó chỉ là một giấc mơ,” tôi nói, giống như một con ngốc.

“Tôi biết Shevket thông minh và láu cá cỡ nào mà. Bọn tôi sống với nhau nhiều năm rồi. Không có mẹ nó cho phép hay thúc giục, không đời nào nó dám dẫn Siyah đến ngôi nhà của người Do Thái bị treo cổ. Nếu Shekure nghĩ cô ấy đã kết thúc với anh tôi và chúng tôi - thì cô ta đã sai lầm khủng khiếp! Anh tôi vẫn còn sống và sẽ trở về.”

Trước khi kịp kết luận, anh ta đi sang phòng kế bên ở đó anh ta định đốt một cây nến, nhưng chỉ làm phỏng tay. Anh ta rú lên. Liên tục liếm chỗ phỏng, sau cùng anh ta cũng đốt được cây nến và để nó cạnh cái bàn làm việc xếp lại. Anh ta lấy ra một cây bút sậy chấm vào lọ mực và bắt đầu giận dữ viết lên một tờ giấy nhỏ. Tôi cảm nhận được niềm vui sướng của anh ta khi thấy tôi đang nhìn anh ta, và để chứng tỏ rằng tôi không sợ, tôi cố mỉm cười cho anh ta thấy.

“Người Do Thái treo cổ là ai, chị phải biết chứ?” anh ta hỏi.

“Bên kia những ngôi nhà này có một căn nhà màu vàng. Họ nói rằng Moshe Hamon, thầy thuốc được sủng ái của nhà vua trước đây và là người giàu có nhất, trong nhiều năm đã đưa cô hầu thiếp Do Thái của ông ta và em trai bà trốn khỏi Amasya rồi giấu ở đó. Cách nay nhiều năm, ở Amasya vào đêm trước lễ Vượt qua, khi một chàng trai Hy Lạp được cho là đã ‘biến mất’ trong khu dân cư Do Thái, người ta cho rằng anh ta đã bị ai đó siết cổ chết để lấy máu anh ta làm ra thứ bánh mì không cần men. Khi những nhân chứng giả được đưa ra, một vụ hành hình người Do Thái bắt đầu; tuy nhiên vị thầy thuốc được sủng ái của nhà vua đã giúp người phụ nữ xinh đẹp này và em trai bà ta trốn thoát, và giấu họ với sự cho phép của nhà vua. Sau khi vua băng hà, kẻ thù của Ngài không tìm ra được người phụ nữ xinh đẹp, nhưng họ treo cổ em trai của bà, kẻ sống một mình ở đó.

“Nếu Shekure không chờ anh tôi từ mặt trận về, họ sẽ trừng phạt cô ta,” Hasan nói, trao cho tôi mấy lá thư.

Tôi không thấy sự phẫn nộ hay giận dữ trên gương mặt anh ta, chỉ có sự bất hạnh và buồn phiền thường thấy ở kẻ tương tư đó. Bất chợt tôi thấy trong mắt anh ta tình yêu đã làm anh ta già đi nhanh như thế nào. Tiền bạc anh ta kiếm được trong ngành hải quan không hề làm anh ta trẻ hơn. Sau tất cả những đe dọa và điệu bộ bực bội của anh ta, tôi tin rằng anh ta có thể lại hỏi tôi làm cách nào để giành được Shekure. Nhưng anh ta tiến quá gần đến chỗ trở nên độc ác đến độ anh ta không thể hỏi nữa. Một khi người ta chấp nhận cái ác - và bị cự tuyệt trong tình yêu là nguyên nhân chính - thì sự tàn bạo nhanh chóng theo sau. Tôi thấy sợ những ý nghĩ của mình và thanh gươm đỏ khủng khiếp mà bọn trẻ nói đến đó, vốn cắt đứt bất cứ thứ gì nó chạm vào; với tâm trạng rất muốn cáo lui, trong một lúc gần như điên cuồng, tôi loạng choạng bước ra đường.

Đó là lúc tôi hứng chịu những lời chửi rủa của gã ăn mày Tatar. Nhưng tôi lập tức lấy lại can đảm. Tôi nhẹ nhàng nhặt một cục đá nhỏ dưới đất bỏ vào khăn tay của gã và nói, “Của mi đó, tên Tatar ghẻ lở.”

Không cười, tôi nhìn tay gã mò tìm cục đá một cách đầy hy vọng mà gã nghĩ là một đồng xu. Phớt lờ những lời chửi rủa của gã tôi đi về hướng nhà của một trong những “con gái” của tôi, người mà tôi đã gả cho một anh chồng tốt.

“Đứa con gái” dễ thương của tôi đãi tôi một miếng bánh, một món đồ ăn thừa, nhưng vẫn còn giòn. Chuẩn bị cho bữa ăn chiều, con bé đang làm món thịt cừu hầm trong nước sốt đặc với trứng đánh và nêm bằng mận chua, đúng kiểu tôi thích. Để không làm con bé thất vọng, tôi ngồi chờ và ăn hai bát đầy với bánh mì giòn.

Con bé cũng làm một món tráng miệng có nho hầm. Không chút do dự, tôi đòi một ít mứt cánh hồng, trộn một muỗng đầy món mứt đó vào món tráng miệng và kết thúc bữa ăn. Sau đó, tôi lên đường đi giao những lá thư cho Shekure buồn bã của tôi.

CHƯƠNG 26
TÔI, SHEKURE

Tôi đang xếp và cất quần áo đã giặt, phơi khô từ hôm qua thì Hayriye báo là Esther đến... hoặc, đây là những gì tôi đã dự định kể với bạn. Nhưng tại sao tôi phải nói dối nhỉ? Thôi được, khi Esther đến, tôi đang nhìn trộm cha tôi và Siyah qua cái lỗ trong tủ nôn nóng chờ thư của Siyah và Hasan, và vì thế đầu óc tôi cứ luôn nghĩ đến chị ta. Ngay khi tôi có cảm giác rằng những lo sợ về cái chết của cha tôi là có lý do, tôi cũng biết mối quan tâm Siyah dành cho tôi không vững bền. Anh ấy yêu trong chừng mực anh ấy muốn cưới vợ, và bởi vì anh ấy muốn cưới vợ, anh ấy yêu. Nếu không có tôi, anh ấy vẫn yêu. Nếu không có tôi, anh ấy sẽ yêu người khác, và cẩn thận yêu cô ấy trước khi cưới.

Trong nhà bếp, Hayriye mời Esther ngồi trong một góc và vừa đãi chị ta một ly nước hoa hồng vừa nhìn tôi với cái nhìn hối lỗi. Tôi nhận ra rằng, vì Hayriye đã trở thành tình nhân của cha tôi, cô ta có thể báo cho ông mọi điều cô ta thấy. Tôi sợ việc này cũng bị báo cáo lại.

“Cô gái mắt đen của tôi, người đẹp không may của tôi, người đẹp tuyệt vời trong những người đẹp của tôi, tôi đến trễ vì Nesim, ông chồng xấu xa của tôi, cứ giữ tôi lại vì những chuyện không đâu,” Esther nói. “Cô không có một ông chồng hay cằn nhằn nhảm nhí với cô và tôi hy vọng cô biết rõ giá trị của điều này.”

Chị ta lấy ra những lá thư, tôi giật chúng khỏi tay chị ta.

Hayriye rút vào một góc khuất nơi cô ấy không cản trở người khác nhưng vẫn có thể nghe mọi chuyện chúng tôi trao đổi với nhau. Để Esther không thấy được vẻ mặt của tôi, tôi quay lưng về phía chị ta và đọc thư của Siyah trước. Khi tôi nghĩ về ngôi nhà của Người Do Thái bị treo cổ, tôi thoáng rùng mình. “Đừng sợ, Shekure, mi có thể xoay xở trong bất cứ tình huống nào mà.” tôi tự nhủ và bắt đầu đọc thư của Hasan. Chú ấy sắp điên rồi:

Shekure, tôi đang cháy bỏng khao khát, nhưng tôi biết cô không hề quan tâm chút nào. Trong những giấc mơ, tôi thấy mình đuổi theo cô qua những đỉnh đồi hoang vắng. Mỗi lần cô không trả lời thư của tôi - mà tôi biết cô có đọc, thì một mũi tên gắn ba lông chim đâm thủng tim tôi. Lần này tôi viết với hy vọng rằng cô sẽ trả lời. Có tin đồn, mọi người truyền nhau tin này, thậm chí con cô cũng nói: Cô mơ thấy chồng mình đã chết và bây giờ cô tuyên bố rằng cô tự do. Tôi không thể nói đó có phải là thật  hay không. Tôi chỉ biết rằng cô vẫn còn là vợ của anh tôi và cô vẫn còn bị trói  buộc với gia đình này. Bây giờ cha tôi nhận thấy tôi có lý, cả hai chúng tôi phải đến chỗ quan tòa để buộc cô trở về đây. Chúng tôi sẽ đến cùng nhóm người chúng tôi đã tập hợp được, vậy hãy báo trước cho cha cô biết. Hãy gom hết đồ đạc, cô sẽ phải trở về nhà này. Gửi thư hồi âm cho Esther ngay .

Sau khi đọc lá thư lần nữa, tôi trấn tĩnh lại và nhìn Esther với đôi mắt dò hỏi, nhưng chị ta chẳng nói gì mới về Hasan hay Siyah.

Tôi lấy cây bút sậy được giấu trong góc tủ chén bát ra, đặt tờ giấy lên bàn, đã định viết thư trả lời cho Siyah thì tôi đột ngột dừng lại.

Có điều gì đó nảy ra trong đầu. Tôi quay về phía Esther: Chị ta đang tận hưởng ly nước hoa hồng với niềm vui của một đứa trẻ, và tôi thấy rằng chuyện chị ta có thể biết những gì đang xảy ra trong đầu tôi thì thật buồn cười.

“Xem nụ cười của cô dễ thương biết bao,” chị ta nói. “Đừng lo cuối cùng rồi mọi thứ đều ổn thôi. Istanbul đầy rẫy những quý ông và tổng trấn giàu có sẵn sàng bán linh hồn họ để cưới được một mỹ nhân có nhiều tài năng như cô.”

Bạn hiểu những gì tôi đang nói đó: Đôi khi bạn nói một điều gì đó mà bạn tin tưởng, nhưng ngay khi thốt ra những lời đó bạn lại tự hỏi, “Tại sao mình nói điều này một cách yếu ớt như vậy, Cho dù mình hoàn toàn tin vào nó?” Đó là những gì xảy ra khi tôi nói như sau:

“Nhưng Esther, vì Thượng đế, ai mà muốn cưới một quả phụ có hai con chứ?”

“Một quả phụ như cô hả? Nhiều, cả đống người,” chị ta nói, giơ tay diễn đạt.

Tôi nhìn vào mắt chị ta. Tôi nghĩ mình không thích chị ta. Tôi im bặt đi đến độ chị ta biết tôi sẽ không đưa chị ta lá thư và chị ta nên rút lui đi thì hơn. Sau khi Esther đi, tôi rút vào góc riêng của mình trong nhà để tôi có thể cảm nhận được sự im lặng - tôi biết nói thế nào đây - trong tâm hồn tôi.

Dựa vào tường, tôi đứng im lặng hồi lâu trong bóng tối. Tôi nghĩ về mình, về những gì mình phải làm, về nỗi sợ hãi đang lớn dần trong tôi. Suốt thời gian đó tôi vẫn nghe được Shevket và Orhan cãi nhau trên cầu thang.

“Còn mày nhát như con gái”, Shevret nói. “Mày toàn đánh lén.”

“Răng em lung lay rồi,” Orhan nói.

Đồng thời, tâm trí tôi lại hướng đến những gì đang xảy ra giữa cha tôi với Siyah.

Cánh cửa màu xanh của xưởng vẽ mở, và tôi có thể dễ dàng nghe họ nói: “Sau khi nhìn các chân dung của những bậc thầy Venice,” cha tôi nói, chúng ta khiếp hãi nhận ra rằng, trong hội họa, đôi mắt không chỉ là những cái lỗ trên khuôn mặt nữa, lúc nào cũng giống nhau mà nó phải giống đôi mắt của chính chúng ta, nó phản chiếu ánh sáng như một tấm gương và hấp thu ánh sáng như một cái giếng. Đôi môi không thể chỉ là một vết nứt ngay giữa khuôn mặt bằng phẳng như tờ giấy, mà phải là những đường nét biểu cảm - mỗi cái miệng có một sắc đỏ khác nhau - biểu lộ rõ những niềm vui, nỗi buồn và tinh thần của ta với từng độ co hay giãn nhỏ nhất của chúng. Mũi chúng ta không còn là một kiểu bức tường chia khuôn mặt làm hai, mà thay vào đó là những công cụ sống động và khác thường mang nét độc đáo của từng người.”

Liệu Siyah có ngạc nhiên như tôi khi nghe cha tôi gọi những kẻ ngoại giáo này, những kẻ đã thuê vẽ chân dung của họ, là “Chúng ta” không? Khi nhìn qua khe hở, tôi nhận thấy gương mặt của Siyah nhợt nhạt đến độ tôi thấy cảnh giác ngay. Người yêu đen tối của tôi, vị anh hùng khổ tâm của tôi, anh không thể ngủ vì nghĩ đến tôi cả đêm phải không? Đó có phải là lý do khiến mặt anh nhợt nhạt thế không?

Có lẽ bạn không biết rằng, Siyah là một người đàn ông cao gầy và đẹp trai. Anh ấy có vầng trán rộng, mắt hình quả hạnh đào và chiếc mũi thẳng, thanh tú, mạnh mẽ. Như thời anh ấy còn nhỏ, hai bàn tay anh dài và gầy, các ngón tay anh nhanh nhẹn, táy máy. Anh dong dỏng khỏe mạnh, đứng thẳng và cao, đôi bờ vai rộng nhưng không to bè như vai người gánh nước. Hồi anh ấy trẻ, thân hình và khuôn mặt anh ấy chưa ổn định. Mười hai năm sau, khi lần đầu tiên thấy anh ấy từ chỗ nấp kín đáo này của tôi, tôi lập tức nhận ra anh ấy đã đạt tới độ hoàn hảo nào đó.

Bây giờ, khi đưa mắt lên lỗ nhìn trộm, tôi thấy khuôn mặt anh đầy phiền muộn. Lập tức tôi cảm thấy mình có tội và tự hào rằng anh ấy đau khổ như thế là vì tôi. Siyah lắng nghe những gì cha tôi nói, nhìn lên bức tranh minh họa làm cho cuốn sách, với cái nhìn hoàn toàn ngây thơ và như trẻ con. Ngay lúc đó, khi tôi thấy anh ấy há cái miệng màu hồng như trẻ con của anh ra, bất chợt tôi cảm thấy muốn đút vú tôi vào đó. Những ngón tay của tôi nâng gáy anh, vò tóc anh, Siyah sẽ đặt đầu anh giữa hai bầu ngực tôi, và như các con tôi thường làm, anh ấy sẽ lim dim mắt đầy thích thú khi bú vú tôi: Sau khi hiểu rằng chỉ thông qua lòng thương cảm của tôi thì anh ấy mới tìm được bình an, anh ấy sẽ hoàn toàn gắn bó với tôi.

Tôi toát mồ hôi mà tưởng tượng ra Siyah đang sững sờ trước kích cỡ của bộ ngực tôi với vẻ ngạc nhiên và xúc cảm mãnh liệt - thay vì nghiên cứu bức tranh minh họa Quỷ sứ mà cha tôi cho anh xem. Không chỉ bộ ngực tôi, mà như thể lên cơn say trước vẻ đẹp của tôi, anh nhìn tóc tôi, cổ tôi, tất cả con người tôi. Anh ấy bị tôi thu hút đến độ thốt lên những lời tình tự mà hồi trẻ anh chẳng nghĩ ra được; qua cái nhìn của anh, tôi nhận ra anh ấy kính nể thế nào trước thái độ tự hào, phong thái, nền giáo dục của tôi, việc tôi kiên nhẫn và dũng cảm chờ đợi chồng tôi, và cái đẹp trong lá thư tôi đã viết cho anh.

Tôi cảm thấy giận cha tôi, người đang dựng lên nhiều chuyện khiến tôi không thể tái giá. Tôi cũng bội thực với những bức minh họa mà ông nhờ các nhà tiểu họa làm phỏng theo những bậc thầy Tây vực, và tôi phát ngán với những hồi ức của ông về Venice.

Khi tôi nhắm mắt lại lần nữa - lạy đấng Allah, đó không phải là khao khát của riêng tôi - trong ý nghĩ của tôi, Siyah đang đến gần tôi một cách quá ngọt ngào đến độ trong bóng tối tôi có thể cảm thấy anh bên cạnh tôi. Bất chợt, tôi có cảm giác rằng anh từ đằng sau áp sát lưng tôi, anh hôn lên gáy tôi, sau tai tôi, và tôi có thể cảm nhận anh mạnh mẽ đến mức nào. Anh vững chãi, to và cứng rắn, và tôi có thể tựa vào anh. Tôi cảm thấy yên tâm. Gáy tôi nóng ran, núm vú tôi săn cứng. Có vẻ như ở đó trong bóng tối, với đôi mắt nhắm chặt, tôi có thể cảm thấy cái giống đang cương lên của anh đằng sau tôi, sát vào tôi. Đầu tôi quay cuồng. Cái đó của Siyah ra sao? Tôi tự hỏi.

Nhiều lần trong mơ, chồng tôi trong trạng thái đau khổ đã cho tôi xem cái đó của anh ta. Tôi hiểu rằng chồng tôi đang vật lộn để giữ gìn thân thể đầy máu của anh, bị đâm và ghim đầy nhũng mũi tên của người Ba Tư, đi thẳng người đến gần tôi. Nhưng đáng buồn làm sao, có một con sông giữa chúng tôi. Khi anh gọi tôi từ bờ bên kia người đầy máu và đau đớn khủng khiếp, tôi nhận thấy anh đang cương cứng. Nếu những gì cô dâu xứ Georgia nói tại phòng tắm công cộng là thật, và nếu tin vào những gì các mụ già nói “Phải, nó lớn đến cỡ đó,” thì cái của chồng tôi không lớn đến thế. Nếu cái của Siyah lớn hơn, nếu cái khối to tướng tôi thấy dưới thắt lưng của Siyah khi anh cầm lấy tờ giấy trắng mà tôi bảo Shevket đưa cho anh hôm qua; nếu đó thật sự là nó - và chắc chắn là nó - thì tôi e rằng mình sẽ chịu đau đớn nhiều, cho dù nó đưa vừa vào trong tôi.

“Mẹ ơi Shevket ghẹo con kìa.”

Tôi rời khỏi góc tủ tối, lặng lẽ bước vào phòng bên kia hành lang, nơi tôi lấy cái áo lót vải đỏ ra rồi mặc vào. Chúng đang nằm trên nệm của tôi mà la hét và lăn lộn.

“Mẹ đã bảo các con là khi Siyah đến thì không được la hét om sòm mà, phải không?”

“Mẹ ơi sao mẹ mặc áo đỏ vào vậy?” Shevket hỏi.

“Mẹ ơi Shevket ghẹo con kìa.” Orhan nói.

“Mẹ đã bảo đừng ghẹo em rồi mà. Còn cái thứ đáng tởm này sao lại ở đây?” Gần đó có một mảng da thú.

“Đó là xác con gì đó.” Orhan nói. “Shevket lượm ngoài đường.”

“Liệng nó lại chỗ cũ ngay tức khắc.”

“Để Shevket làm.”

“Mẹ nói ngay tức khắc.”

Như tôi vẫn làm trước khi phát vào mông chúng, tôi cắn môi dưới một cách giận dữ, và thấy tôi thật sự nghiêm túc, chúng sợ hãi chạy đi. Tôi hy vọng chúng về ngay để không bị cảm lạnh.

Trong tất cả những nhà tiểu họa, tôi thích Siyah nhất. Anh thích tôi hơn những người khác thích tôi và tôi hiểu tâm hồn anh. Tôi lấy giấy bút rồi ngồi xuống và không suy nghĩ, tôi viết lá thư sau:

Được rồi, trước khi có hiệu lệnh cầu kinh tối, em sẽ gặp anh tại ngôi nhà Người Do Thái bị treo cổ. Hãy hoàn tất cuốn sách của cha em càng sớm càng tốt.

Tôi không trả lời thư cho Hasan. Cho dù hôm nay anh ta đến chỗ quan tòa thực, tôi vẫn không tin rằng những người mà chú ấy và cha chú ấy tập hợp được sẽ xông đến nhà tôi ngay lập tức. Nếu thực sự muốn làm như vậy, chú ấy đã không viết thư cho tôi và chờ trả lời. Chắc chắn chú ấy đang chờ tôi trả lời, và khi thư hồi âm không tới, chú ấy sẽ điên lên. Chỉ khi đó chú mới tập hợp người và chuẩn bị bắt cóc tôi. Đừng nghĩ là tôi hoàn toàn không sợ chú ấy. Nhưng, tôi trông cậy Siyah sẽ bảo vệ tôi. Dù sao, hãy để tôi nói cho bạn biết ý nghĩ đang có trong lòng tôi lúc này: Tôi tin rằng tôi không quá sợ Hasan vì tôi cũng yêu chú ấy. Nếu bạn phản đối và tự nhủ, “Giờ thì cô yêu ai?” Tôi nhận thấy bạn có lý. Trong suốt những năm chúng tôi sống chung một nhà chờ đợi chồng tôi trở về, không phải tôi không nhận ra người đàn ông này đáng khinh, yếu đuối và ích kỷ đến thế nào. Nhưng giờ Esther nói với tôi rằng chú ấy kiếm được rất nhiều tiền - và nhìn cái nhướn mày của chị ta tôi có thể biết lúc nào chị ta nói thật - vì chú ấy có tiền, và kèm theo đó là sự tự tin, một Hasan độc đoán chắc chắn đã biến mất, làm lộ ra một tính khí đen tối kỳ lạ, giống như của âm hồn, khiến chú ấy hấp dẫn tôi. Tôi nhìn ra khía cạnh này của chú ấy qua những lá thư chú kiên trì gửi cho tôi.

Cả Siyah lẫn Hasan đều đau khổ vì yêu tôi. Siyah đã bỏ đi, phiêu bạt suốt mười hai năm. Người kia, Hasan, gửi thư cho tôi mỗi ngày, ở các góc thư chú ấy vẽ chim chóc với linh dương. Thoạt tiên tôi sợ chú ấy, nhưng sau đó, tôi thích đọc tới đọc lui những lá thư của chú.

Vì tôi biết Hasan hết sức tò mò về mọi thứ có liên quan đến tôi nên tôi không ngạc nhiên khi chú biết tôi thấy xác chồng tôi trong mơ. Điều tôi nghi ngờ là chuyện Esther đã để Hasan đọc những lá thư tôi gửi cho Siyah. Đó là lý do tôi không trả lời cho Siyah qua Esther. Bạn biết rõ hơn tôi những nghi ngờ của tôi có lý hay không.

“Tụi con đi đâu?” tôi hỏi khi bọn trẻ quay trở lại.

Chúng hiểu ngay tôi không giận thật. Một cách kín đáo, tôi kéo Shevket sang một bên, tới bên chiếc tủ. Tôi bế nó lên đùi. Tôi ôm đầu, cổ và gáy nó.

“Con bị lạnh đấy, con cưng,” tôi nói. “Đưa mẹ hai bàn tay dễ thương của con để mẹ sưởi cho...” Hai tay nó bốc mùi khó chịu, nhưng tôi không mắng, ép đầu nó vào ngực, tôi ôm chặt nó hồi lâu. Lát sau nó ấm lên, vươn vai giống một con mèo con, rên rỉ sung sướng.

“Con yêu mẹ nhiều lắm, phải không?”

“Ummmhmmm .”

“ Đó có phải là ‘vâng’ không?”

“Vâng.”

“Hơn bất cứ ai?”

“Vâng.”

“Vậy mẹ sẽ nói với con chuyện này,” tôi nói như thể đang tiết lộ một bí mật. “Nhưng con không được nói với ai, nghe?” tôi thì thầm vào tai nó: “Mẹ yêu con nhất trên đời, con biết không?”

“Hơn cả Orhan nữa hả?”

“Hơn cả Orhan nữa. Orhan còn nhỏ, giống như một chú chim non, nó chưa hiểu gì hết. Con thông minh hơn, con hiểu được. Tôi hôn và ngửi tóc nó. “Vậy mẹ sẽ nhờ con một chuyện. Con nhớ con đã bí mật đưa cho Siyah mẩu giấy trắng hôm qua không? Con sẽ làm giống như vậy bữa nay, nghe?”

“Ông ta là người đã giết cha đó.”

“Cái gì?”

“Ông ta giết cha con. Chính ông ta nói vậy hôm qua trong ngôi nhà của ông Do Thái bị treo cổ.”

“Ông ta đã nói cái gì?”

“ ‘Ta đã giết cha cháu,’ ông ta nói. ‘Ta đã giết nhiều người’, ông ta nói vậy.”

Bất ngờ có điều gì đó xảy ra. Shevket tuột khỏi đùi tôi và bắt đầu khóc. Tại sao đứa bé này bây giờ lại khóc? Tôi thú nhận, tôi chắc đã không điều khiển được mình nên tát nó. Tôi không muốn ai nghĩ rằng tôi sắt đá. Nhưng làm thế nào nó có thể nói một điều bậy bạ như thế về một người đang chuẩn bị cưới tôi - và luôn nghĩ đến sự an vui cho lũ trẻ.

Đứa con trai bé nhỏ không cha tội nghiệp của tôi vẫn khóc, và lập tức tôi hết sức bối rối. Tôi cũng chực trào nước mắt. Chúng tôi ôm nhau. Thỉnh thoảng nó nấc lên. Cái tát này đáng để khóc nhiều vậy sao? Tôi vuốt tóc nó.

Chuyện là như vầy: Ngày hôm qua, như bạn biết đó, ngẫu nhiên tôi nói với cha tôi rằng tôi mơ thấy chồng tôi đã chết. Thực sự như đã thường xuyên xảy ra trong bốn năm chồng tôi không về sau cuộc chiến với người Ba Tư, tôi vẫn thoáng mơ thấy anh ấy, và cũng có một xác chết, nhưng anh ấy là một xác chết sao? Đây là một điều bí ẩn đối với tôi.

Những giấc mơ luôn được sử dụng làm phương tiện cho những mục đích khác. Ở Bồ Đào Nha, xứ sở mà bà nội của Esther đã bỏ đi, có vẻ như giấc mơ được dùng làm cái cớ để chứng minh những kẻ tà giáo đã gặp gỡ và làm tình với Quỷ sứ. Chẳng hạn, thậm chí nếu tổ tiên của Esther chối bỏ gốc Do Thái của họ bằng cách tuyên bố, “Chúng tôi đã trở thành dân Công giáo như các bạn,” thì những kẻ tra tấn thuộc dòng Tên của Giáo hội Bồ Đào Nha cũng vẫn không tin, chúng sẽ tra tấn họ, buộc họ mô tả những âm hồn và ma quỷ trong giấc mơ của họ, rồi gán cho họ những giấc mơ mà họ không hề có. Sau đó chúng sẽ buộc người Do Thái thú nhận những giấc mơ này để cuối cùng họ có thể đóng cọc thiêu người Do Thái. Theo cách này, ở xứ đó người ta có thể khai thác những giấc mơ, để chứng tỏ kẻ khác đã giao cấu với Quỷ và để buộc tội và kết án người Do Thái.

Những giấc mơ là tốt cho ba việc:

ALIF: Bạn muốn một điều gì đó những bạn không thể hỏi xin được. Vì vậy bạn sẽ nói rằng bạn mơ thấy nó. Theo cách này, bạn có thể đạt được những gì bạn muốn mà không phải mở miệng hỏi xin.

BA: Bạn muốn hại ai đó. Chẳng hạn, bạn muốn vu khống một phụ nữ. Vì vậy bạn sẽ nói rằng một phụ nữ như-thế-như-thế phạm tội ngoại tình hoặc rằng một viên chức như-thế-như-thế ăn cắp rượu bằng cái bình. Tôi mơ thấy chuyện đó, bạn chỉ cần nói vậy. Bằng cách này, cho dù không tin bạn, nhưng người ta hầu như không quên việc đề cập đến hành động tội lỗi.

DJIM: Bạn muốn điều gì đó, nhưng thậm chí bạn không biết đó là cái gì. Vì vậy bạn sẽ mô tả một giấc mơ lộn xộn. Lập tức gia đình hoặc bạn bè bạn sẽ giải thích giấc mơ và cho bạn biết bạn muốn có gì hoặc họ có thể làm gì cho bạn. Chẳng hạn, họ sẽ nói: Bạn muốn có một ông chồng, một đứa con, một ngôi nhà...

Những giấc mơ chúng ta kể không bao giờ là những giấc mơ chúng ta thực sự thấy trong giấc ngủ của mình. Khi người ta nói họ “đã thấy nó,” đơn giản là họ mô tả giấc mơ “mà họ mơ thấy” giữa ban ngày, và luôn có một mục đích tiềm ẩn đằng sau. Chỉ có kẻ ngốc mới tả những giấc mơ ban đêm thực sự một cách chính xác như họ thấy. Nếu bạn làm thế, mọi người sẽ giễu cợt bạn hoặc, như ta vẫn thấy, giải thích giấc mơ thành một điềm xấu. Không ai coi trọng những giấc mơ thực sự, kể cả những người mơ thấy chúng. Hoặc, làm ơn nói nghe xem, bạn có vậy không?

Qua giấc mơ mà tôi đã kể lại một cách lơ đãng, tôi ngụ ý có thể chồng tôi đã chết thật. Dù ban đầu cha tôi không chấp nhận điều này là dấu hiệu của sự thật, nhưng sau khi dự đám tang, ông bất ngờ bị thuyết phục bởi chứng cứ của giấc mơ, và kết luận rằng chồng tôi thực sự đã chết. Vì vậy mọi người không chỉ tin rằng chồng tôi, người gần như chưa hề chết bốn năm qua, đã chết trong một giấc mơ, tuy họ có thể cũng chưa dám chắc về cái chết của anh ấy nếu như nó không được thông báo chính thúc. Lúc đó chỉ có bọn trẻ thực sự nhận ra rằng chúng đã mồ côi cha. Chúng thực sự bắt đầu thấy đau lòng.

“Con có bao giờ chiêm bao chưa?” Tôi hỏi Shevket.

“Có”, nó mỉm cười đáp. “Cha mình không về, rồi cuối cùng con cưới mẹ.”

Cái mũi nhỏ nhắn, mắt đen và đôi vai rộng của nó giống tôi hơn là cha nó. Đôi lúc tôi cảm thấy có tội rằng mình đã không thể truyền cho bọn trẻ vầng trán rộng và cao của cha chúng.

“Vậy con chơi tiếp trò kiếm sĩ, với em đi.”

“Tụi con chơi thanh kiếm cũ của cha được không?”

‘Được.”

Tôi nhìn lên trần một lúc lâu, lắng nghe tiếng kiếm của bọn trẻ chạm nhau, trong khi cố dập tắt nỗi sợ hãi và lo lắng đang dâng lên trong lòng. Tôi xuống bếp nói với Hayriye: “Cha tôi muốn có món xúp cá nãy giờ rồi. Có lẽ tôi phải nhờ chị đến cảng Galleon. Sao chị không lấy ra mấy xâu trái cây khô mà Shevket thích và cho mỗi đứa một ít.”

Trong khi Shevket ăn trong bếp, Orhan với tôi lên lầu. Tôi bế nó lên đùi và hôn vào cổ nó.

“Con mồ hôi đầm đìa này” tôi nói. “Có chuyện gì vậy?”

“Shevket lấy cây gươm đỏ của chú đánh con.”

“Bầm tím rồi nè,” tôi vừa nói vừa sờ chỗ đó. “Con có đau không? Shevket hư quá. Nghe mẹ nói này. Con rất thông minh và nhạy cảm. Mẹ muốn nhờ con một việc. Nếu con làm những gì mẹ dặn, mẹ sẽ nói cho con một bí mật mà mẹ sẽ không nói với Shevket hay bất cứ ai khác.”

“Gì vậy mẹ?”

“Con thấy mẩu giấy này không? Con đi đến chỗ ông ngoại, mà không để ông thấy, rồi nhét mẩu giấy này vào tay Siyah Kính mến. Con hiểu không?”

“Dạ hiểu.”

“Con làm nghe?”

“Bí mật là gì vậy?”

“Cứ đưa chú ấy mẩu giấy,” tôi nói, hôn cổ nó lần nữa, chỗ đó có mùi dễ chịu.

Nhân nói về mùi thơm, đã lâu rồi Hayriye không đưa bọn trẻ đến nhà tắm công cộng. Chúng không đi từ khi cái giống của Shevket biết cứng lên trước mặt những phụ nữ ở đó.

“Mẹ sẽ nói bí mật cho con sau.” Tôi hôn nó. “Con rất thông minh và xinh đẹp. Shevket chỉ gây phiền. Nó còn dám giơ tay đánh lại mẹ nữa.

“Con không đưa cái này đâu,” nó nói. “Con sợ Siyah Kính mến, ông ta là người giết cha con đó.”

“Shevket nói vậy với con, phải không?” tôi nói. “Mau xuống nhà bảo nó lên đây ngay.”

Orhan có thể thấy sự thịnh nộ trên mặt tôi. Kinh hãi, nó tuột khỏi đùi tôi và chạy khỏi phòng. Có lẽ nó hơi vui vì Shevket gặp rắc rối. Lát sau, cả hai đứa trở vào đầy bối rối và xấu hổ. Shevket một tay cầm xâu trái cây khô, tay kia cầm thanh gươm.

“Con nói với em là Siyah đã giết cha con,” tôi nói. “Mẹ không muốn con nói như thế trong nhà này lần nữa. Hai đứa phải tôn trọng và yêu mến Siyah. Các con hiểu mẹ không? Mẹ sẽ không để các con sống cả đời mà không có cha.”

“Con không cần ông ấy. Thà con về nhà mình, chỗ chú Hasan, rồi chờ cha con về.” Shevket nói thẳng thừng.

Điều này khiến tôi quá giận đến độ tôi phát vào mông nó. Nó không để thanh gươm xuống; mà thanh gươm rơi khỏi tay nó.

“Con muốn cha,” nó nói trong nước mắt.

Nhưng tôi còn khóc nhiều hơn nó.

“Con không còn cha nữa, cha sẽ không về.” tôi nói trong nước mắt. “Các con mồ côi cha rồi, các con không hiểu sao, hai đứa khốn khổ.” Tôi khóc quá nhiều đến độ tôi sợ trong nhà nghe thấy.

“Tụi con không khốn khổ”. Shevket vừa nói vừa khóc.

Ba mẹ con khóc hồi lâu. Nước mắt làm dịu lòng tôi và tôi có cảm giác rằng tôi khóc bởi vì nó khiến tôi trở thành người tốt hơn. Trong khi cùng khóc, chúng tôi ôm chặt nhau và nằm trên nệm. Shevket rúc đầu vào ngực tôi như để ngủ. Đôi khi nó rúm vào tôi, như thể chúng tôi bị dán dính vào nhau, nhưng tôi có thể cảm thấy rằng nó không ngủ. Hẳn là tôi đã ngủ gật với chúng, chỉ có điều đầu óc tôi vẫn nghĩ đến những gì đang xảy ra dưới nhà. Tôi có thể ngửi thấy mùi thơm của cam đang sôi. Tôi ngồi bật dậy trên giường và gây tiếng động khiến bọn trẻ thức giấc.

“Xuống nhà, Hayriye cho tụi con ăn.”

Tôi còn một mình trong phòng. Bên ngoài tuyết bắt đầu rơi.Tôi cầu xin Allah giúp đỡ. Rồi tôi mở kinh Koran, và sau khi đọc một lần nữa đoạn trong chương Aal-e-Imran ([44]) nói rằng những ai bị giết trong chiến trận, những ai bị giết trên con đường của Allah, sẽ đến với Người, tôi thấy nhẹ nhõm không còn ưu tư về người chồng quá cố nữa. Cha tôi có cho Siyah xem bức chân dung Đức vua chưa hoàn tất không? Cha tôi tuyên bố rằng bức chân dung này sống động đến độ bất cứ ai nhìn nó sẽ phải quay mắt đi vì sợ hãi, như đã từng xảy ra với những ai cố nhìn thẳng vào mắt Đức vua.

Tôi gọi Orhan, và không bế nó lên đùi tôi, tôi hôn nó thật lâu lên trán, đầu và má. “Bây giờ, không được sợ, con đưa miếng giấy này cho Siyah, nhưng đừng để cho ông ngoại thấy. Con hiểu không?”

“Răng con lung lay.”

“Khi nào con quay lại, nếu con muốn, mẹ sẽ nhổ cho,” tôi nói. “Con cứ tha thẩn đến chỗ chú ấy. Chú sẽ không biết làm gì và sẽ ôm con. Lúc đó con bí mật nhét tờ giấy này vào tay chú ấy. Con hiểu ý mẹ không?”

“Con sợ.”

“Chẳng có gì phải sợ cả. Nếu không phải Siyah, thì con biết ai muốn làm cha con thay vì chú ấy không? Chú Hasan đó! Con có muốn chú Hasan trở thành cha con không?”

“Không.”

“Được rồi, vậy con di đi, Orhan thông minh xinh đẹp của mẹ”, tôi nói. “Nếu không, coi chừng đó, mẹ sẽ giận cho coi... Và nếu con khóc, mẹ sẽ càng giận hơn.”

Tôi xếp lá thư nhiều lần cho nhỏ lại, rồi nhét vào bàn tay bé xíu của nó đang xòe ra một cách vô vọng và cam chịu. Allah, xin hãy giúp con để những đứa trẻ mất cha này không bị bỏ rơi phải tự nuôi thân. Tôi dắt nó đến cửa, nắm tay nó. Nơi ngưỡng cửa một lần nữa nó nhìn tôi đầy sợ hãi.

Tôi nhìn nó qua lỗ nhìn trộm khi nó đi những bước ngập ngừng về phía trường kỷ, đến gần cha tôi và Siyah, dừng lại và ngập ngừng giây lát, không biết phải làm gì. Nó nhìn trở lại cái lỗ để tìm tôi. Nó bắt đầu khóc. Nhưng với một nỗ lực cuối cùng nó cũng ngồi lên được đùi của Siyah. Siyah, đủ thông minh để hưởng quyền làm cha đứa con tôi, không hoảng hốt khi thấy Orhan khóc một cách khó hiểu trên lòng anh và anh kiểm tra xem có cái gì trong tay thằng bé không.

Orhan trở lại dưới cái nhìn ngạc nhiên của cha tôi, và tôi chạy đến ôm nó, bế nó lên đùi tôi, hôn nó thật lâu. Tôi đưa nó xuống nhà vào bếp và cho nó món nho khô mà nó rất thích.

“Hayriye, dẫn bọn trẻ ra cảng Galleon mua ít cá đối làm xúp ở tiệm của Kosta. Cầm mấy đồng bạc này mà mua cá, nếu còn tiền lẻ thì mua cho Orhan ít trái vả và dâu tây khô trên đường về, mua cho Shevket bánh đậu xanh nướng và xúc xích tẩm đường với quả óc chó. Dẫn tụi nó đi loanh quanh chỗ nào chúng thích cho đến buổi cầu kinh tối, nhưng cẩn thận coi chừng chúng bị cảm lạnh.’

Sau khi họ đi, sự yên tĩnh trong ngôi nhà khiến tôi thấy dễ chịu, tôi lên lầu lấy ra một chiếc gương nhỏ do cha chồng tôi làm và chồng tôi tặng tôi làm quà. Tôi giấu nó giữa những áo gối có mùi oải hương. Tôi treo nó lên, nếu nhìn mình trong gương từ xa, hoặc di chuyển khéo léo một tí, tôi có thể thấy cả thân hình tôi. Chiếc áo lót đỏ thật hợp với tôi. Nhưng tôi cũng muốn mặc chiếc áo cánh màu tía của mẹ tôi, vốn nằm trong mớ vật dụng xuất giá của bà. Tôi lấy ra chiếc áo trùm màu hồ trăn mà bà ngoại tôi đã thêu những bông hoa, thử mặc vào, nhưng nó không vừa ý tôi. Khi mặc thử nó bên trong chiếc áo cánh màu tía, tôi cảm thấy một cơn ớn lạnh; tôi rùng mình, và ngọn nến run theo tôi. Dĩ nhiên trùm ngoài cùng là cái áo choàng viền lông thú, nhưng đến phút cuối tôi đổi ý và lặng lẽ đi qua hành lang, tôi lấy ra chiếc áo khoác len màu xanh da trời rộng và dài của mẹ tôi cho và mặc vào. Ngay lúc đó tôi nghe có tiếng động ngoài cửa và thấy kinh hoàng: Siyah đang ra về! Tôi lẹ làng cởi chiếc áo cũ của mẹ tôi rồi mặc chiếc áo đỏ viền lông của tôi vào. Nó chật ở vòng ngực, nhưng tôi thích, sau đó tôi đeo tấm mạng trắng và mềm nhất, hạ xuống che kín mặt.

Dĩ nhiên Siyah Kính mến chưa về; tôi đã để cho sự hoảng hốt đánh lừa. Nếu tôi ra ngoài bây giờ, tôi có thể nói với cha tôi là tôi đi mua cá với bọn trẻ. Tôi bước nhẹ xuống thang như một con mèo.

Tôi đóng cửa - cạch một tiếng - giống một con ma. Tôi lặng lẽ đi qua sân và khi ra đến ngoài đường, tôi thoáng quay lại nhìn ngôi nhà. Nhìn qua lớp mạng, nó có vẻ như không còn là ngôi nhà của chúng tôi nữa.

Không có ai trên đường, cả một con mèo cũng không.

Những bông tuyết nhảy múa trong không trung. Rùng mình, tôi bước vào khu vườn hoang, nơi ánh mặt trời không bao giờ đến. Nó bốc mùi lá mục, mùi ẩm ướt và cái chết; nhưng khi tôi bước vào nhà của Người Do Thái bị treo cổ, tôi cảm thấy như đang ở trong nhà mình. Người ta đồn rằng thần thánh gặp nhau ở đây mỗi đêm, đốt lò và tiệc tùng. Tôi giật mình khi nghe tiếng bước chân mình trong ngôi nhà trống này. Tôi chờ, bất động. Tôi nghe một âm thanh trong vườn, nhưng sau đó mọi thứ chìm vào im lặng. Tôi nghe tiếng chó sủa gần đó. Tôi nhận ra tiếng mọi con chó trong khu tôi sống qua tiếng sủa của chúng, nhưng tôi không nhận ra được con chó này.

Trong quãng im lặng kế đó, tôi cảm thấy có một ai khác trong ngôi nhà, tôi liền đứng bất động để anh ta không thể nghe tiếng bước chân tôi. Những người lạ nói chuyện khi họ đi qua trên đường tôi nghĩ đến Hayriye và bọn trẻ. Tôi cầu trời cho chúng đừng bị nhiễm lạnh. Trong khoảng im lặng kế tiếp, dần dần tôi cảm thấy hối tiếc. Siyah không đến. Tôi đã phạm một sai lầm, và tôi phải quay về nhà trước khi lòng tự ái của tôi bị tổn thương hơn nữa. Kinh khủng, tôi tưởng tượng rằng Hasan đang theo dõi tôi, sau đó thì tôi nghe có tiếng chuyển động trong vườn. Cánh cửa mở.

Tôi vội thay đổi vị trí. Tôi không biết tại sao mình làm thế, nhưng khi tôi đứng sang bên trái cửa sổ mà qua đó ánh sáng yếu ớt từ khu vườn chiếu vào, tôi nhận ra rằng Siyah có thể thấy tôi, theo lối nói của cha tôi, “trong những bí ẩn của bóng tối.” Tôi che mặt bằng tấm mạng và chờ, lắng nghe tiếng bước chân anh ấy.

Siyah bước qua ngưỡng cửa và thấy tôi, bước vài bước nữa rồi dừng lại. Chúng tôi đứng cách nhau năm bước và nhìn nhau. Trông anh khỏe khoắn và mạnh mẽ hơn so với khi tôi thấy anh qua lỗ nhìn trộm. Im lặng.

“Giở tấm mạng ra,” anh thì thầm, “Làm ơn đi mà.”

“Tôi đã có chồng. Tôi đang chờ chồng tôi trở về.”

“Giở tấm mạng ra đi,” anh nói vẫn với giọng như cũ. “Chồng em không bao giờ về đâu.”

“Anh thu xếp gặp tôi ở đây để nói điều đó sao?”

“Không, anh nói thế để có thể nhìn em. Anh đã nghĩ về em suốt mười hai năm qua. Giở tấm mạng ra đi, em yêu, hãy cho anh nhìn em dù chỉ một lần.”

Tôi gỡ nó ra. Tôi sung sướng khi anh im lặng ngắm nghía khuôn mặt tôi và nhìn thật sâu vào mắt tôi hồi lâu.

“Có chồng và làm mẹ đã khiến em đẹp hơn nhiều. Và khuôn mặt em hoàn toàn khác những gì anh nhớ được.”

“Anh nhớ về tôi ra sao?”

“Trong nỗi đớn đau, bởi vì khi anh nghĩ về em, anh không thể không nghĩ rằng những gì anh nhớ được không phải là em mà là một sự tưởng tượng. Trong thời niên thiếu của chúng mình, em có nhớ mình từng bàn về Husrev với Shirin, họ đã yêu nhau sau khi thấy hình ảnh của nhau như thế nào không? Tại sao Shirin không yêu chàng Husrev đẹp trai ngay lần đầu nàng thấy hình ảnh chàng treo trên cành cây mà phải thấy ba lần nàng mới yêu? Em đã từng nói là trong chuyện cổ tích mọi thứ đều xảy ra ba lần. Anh đã cãi với em rằng tình yêu lẽ ra phải bừng nở ngay lần đầu nàng thấy bức hình. Nhưng ai có thể vẽ Husrev đủ trung thực để nàng yêu chàng, và đủ chính xác để nàng nhận ra chàng? Chúng mình chưa hề nói về điều này. Trong mười hai năm qua, giá như anh có được bức chân dung xác thực như thế về khuôn mặt không ai sánh được của em thì có lẽ anh đã không đau khổ đến vậy.”

Anh ấy nói những điều rất dễ thương theo kiểu này, về chuyện nhìn một bức minh họa mà đã đem lòng yêu, về chuyện anh đau khổ dữ dội vì yêu tôi đến thế nào. Tôi để ý cách anh từ từ tiến đến gần, và từng lời của anh chập chờn qua đầu óc tỉnh táo của tôi rồi đậu lại đâu đó trong ký ức tôi. Sau này tôi sẽ suy ngẫm lại những lời này, từng từ một. Nhưng vào lúc này sự cảm kích của tôi về ma lực trong những điều anh nói chỉ thuần là theo bản năng và nó trói buộc tôi với anh. Tôi cảm thấy có tội vì đã làm anh đau khổ suốt mười hai năm qua. Một người ăn nói ngọt ngào làm sao! Siyah tốt xiết bao! Như một đứa trẻ ngây thơ! Tôi có thể thấy được tất cả điều này qua ánh mắt anh. Việc anh yêu tôi nhiều như vậy khiến tôi tin cậy anh.

Chúng tôi ôm nhau. Điều này làm tôi quá sung sướng đến độ không còn cảm thấy áy náy nữa. Tôi để cho cảm giác ngọt ngào này cuốn tôi đi. Tôi ôm anh chặt hơn. Tôi để cho anh hôn tôi, và tôi hôn lại anh. Và khi chúng tôi hôn nhau, có vẻ như cả thế giới này bước vào một cảnh tranh tối tranh sáng dịu dàng. Tôi ước gì mọi người có thể ôm nhau giống nhu chúng tôi. Tôi mơ hồ nhớ lại rằng tình yêu vẫn được cho là phải giống thế này. Anh ấy đút lưỡi vào miệng tôi. Tôi hài lòng với những gì mình đang làm, như thể cả thế giới này được chìm trong ánh sáng hạnh phúc; tôi chẳng nghĩ ra điều gì tồi tệ cả.

Hãy để tôi mô tả cho bạn cái ôm của chúng tôi có thể được những nhà tiểu họa bậc thầy Herat vẽ ra sao, nếu câu chuyện bi thảm của tôi một ngày nào đó được kể lại trong sách. Có những bức minh họa gây kinh ngạc mà cha tôi đã cho tôi xem trong đó những dòng chữ viết run rẩy cùng nhịp với những chiếc lá đu đưa, hoa văn trên tường được phản ánh trong nét thiết kế đường viền mạ vàng và niềm vui của những cánh én chọc thủng phần viền của bức tranh gợi lên sự phấn chấn của những cặp tình nhân.

Khi trao nhau những cái nhìn từ xa và gây khổ cho nhau bằng những câu nói đầy hàm ý, những người yêu nhau thường được vẽ quá nhỏ, quá xa về khoảng cách, đến độ trong phút chốc ta cảm thấy như câu chuyện hoàn toàn không phải nói về họ mà chỉ liên quan đến đêm đầy sao, hàng cây tối đen, tòa lâu đài tuyệt đẹp nơi họ gặp gỡ, khoảng sân và khu vườn tuyệt vời của nó, mà mỗi chiếc lá trong đó được đặc tả một cách đặc biệt và đầy âu yếm.

Tuy nhiên, nếu cẩn thận chú ý kỹ sự hài hòa bí ẩn của màu sắc, mà nhà tiểu họa chỉ có thể truyền đạt với tất cả sự hiến mình cho nghệ thuật của anh ta, và vào ánh sáng kỳ bí lan tỏa khắp bức tranh, người quan sát sẽ lập tức thấy ngay rằng bí mật đằng sau những tranh minh họa này là ở chỗ chúng được tạo ra bởi chính tình yêu. Có vẻ như ánh sáng bắt nguồn từ những kẻ yêu nhau, từ chiều sâu của bức minh họa. Và khi Siyah với tôi ôm nhau, niềm hân hoan tràn ngập cả thế giới theo đúng kiểu này.

Tạ ơn Thượng đế là tôi đã chứng kiến cuộc đời này đủ để biết rằng niềm hoan lạc này sẽ không kéo dài lâu. Siyah dịu dàng ôm lấy bầu ngực to lớn của tôi. Động tác này tạo cảm giác tê mê và, quên đi tất cả. Tôi thèm được anh bú núm vú tôi. Nhưng anh không chế ngự được nó, bởi vì anh không chắc về chuyện anh đang làm, dù sự không chắc của anh không ngăn anh khỏi ham muốn nhiều hơn nữa. Dần dần, chúng tôi càng ôm nhau lâu thì nỗi sợ hãi và bối rối càng chen vào giữa hai chúng tôi. Nhưng khi anh ấy bấu vào đùi tôi để kéo tôi sát hơn, ép dương vật to, cứng ngắc của anh sát bụng tôi, thoạt tiên tôi thấy thích; tôi tò mò. Tôi không bối rối. Tôi đã tự nhủ rằng chúng tôi đã ôm nhau như thế này thì tất phải dẫn đến chuyện như thế. Và dù tôi quay đầu đi, tôi cũng không thể rời đôi mắt mở to khỏi kích cỡ của nó.

Lát sau, khi anh bất ngờ cố buộc tôi làm hành động thô tục mà thậm chí những phụ nữ du mục Kipchak và những cô hầu ưa kể chuyện tại các nhà tắm công cộng cũng không làm, tôi cứng người trong sự kinh ngạc và lưỡng lự.

“Đừng nhíu mày vậy, em yêu,” anh ấy van nài.

Tôi đứng dậy, đẩy anh ấy ra và bắt đầu la hét vào mặt anh mà chẳng thèm để ý chút nào đến vẻ thất vọng của anh ấy.

CHƯƠNG 27
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

Trong bóng tối của ngôi nhà Người Do Thái bị treo cổ, Shekure nhíu mày và bắt đầu nói như điên rằng tôi có thể dễ dàng chọc cái vật to lớn gớm guốc tôi đang cầm trong tay vào miệng các cô gái Circassia mà tôi đã gặp ở Tiflis, những gái điếm Kipchak, những cô dâu nghèo bị bán vào quán rượu, những quả phụ Ba Tư và Thổ Nhĩ Kỳ, những gái điếm bình dân ngày càng gia tăng ở Istanbul, những cô gái Mingeria dâm đãng, các ả Abkhazia khêu gợi, những phụ nữ Armenia đanh đá, những mụ khó ưa ở Genova và Syria, các diễn viên được cho là phụ nữ và những cậu trai không bao giờ thỏa mãn, nhưng nó sẽ không thể vào miệng nàng được. Nàng giận dữ buộc tội tôi đã mất sạch ý thức về sự chững chạc và tự chủ bằng việc ngủ với mọi tầng lớp tiện dân rẻ tiền đáng khinh - từ Ba Tư đến Baghdad và từ các ngõ hẻm của những thành phố Ả Rập nhỏ bé nóng bức đến vùng bờ biển Caspian - và đã quên rằng một số phụ nữ vẫn cố hết sức mình để giữ gìn danh dự của họ. Nàng buộc tội rằng tất cả những lời yêu thương của tôi đều giả dối.

Tôi trân trọng lắng nghe cơn giận dữ của người tôi yêu, vốn khiến cho cái bộ phận tội lỗi trong tay tôi xìu xuống, và dù tôi rất bối rối trước tình cảnh này và sự cự tuyệt mà tôi phải chịu đựng, nhưng có hai việc làm tôi vui: 1. rằng tôi đã kiềm chế không tự hạ thấp mình mà đối chọi lại cơn giận dữ của Shekure bằng một phản ứng ầm ĩ tương tự, như tôi vẫn thường phản ứng một cách hằn học với những phụ nữ khác trong những tình huống tương tự, và 2. rằng tôi phát hiện ra Shekure hiểu rõ những chuyến đi của tôi, chứng tỏ rằng nàng nghĩ về tôi nhiều hơn tôi tưởng.

Thấy tôi thất vọng như thế nào khi không thể thực hiện những thèm muốn của mình, nàng bắt đầu thấy tội nghiệp cho tôi.

“Nếu anh thực sự yêu em, một cách thiết tha và đầy ám ảnh,” nàng nói như thể cố tự bào chữa, “thì anh đã kiểm soát được mình như một bậc chính nhân quân tử. Anh sẽ không cố ý xúc phạm danh dự của người phụ nữ mà anh ấp ủ những ý định nghiêm túc. Anh không phải là người đàn ông duy nhất tìm cách cưới em. Có ai gặp anh trên đường anh tới đây không?”

“Không.”

Như thể nàng nghe có tiếng ai bước trong khu vườn tối phủ đầy tuyết nàng quay khuôn mặt dịu dàng, mà mười hai năm qua tôi đã không thể nhớ lại, về phía cuối và cho tôi niềm vui được thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của nàng. Khi nghe tiếng lách cách thoáng qua, chúng tôi chờ trong im lặng, nhưng chẳng có ai bước vào. Tôi nhớ lại thời nàng mới mười hai, Shekure đã khơi dậy trong tôi một cảm giác kỳ lạ bởi vì nàng biết nhiều hơn tôi như thế nào.

“Con ma Người Do Thái bị treo cổ đã ám chỗ này.” nàng nói.

“Em tới đây bao giờ chưa?”

“Âm hồn, bóng ma, người chết đang sống... họ đến theo gió ám các đồ vật và tạo ra âm thanh trong im lặng. Mọi thứ đều nói được. Em không cần phải đến đây. Em có thể nghe được họ.”

“Shevket đã dẫn anh đến đây để chỉ cho anh con mèo chết, nhưng nó đã biến mất.”

“Theo em biết thì anh có nói với nó rằng anh đã giết cha nó.”

“Không phải vậy. Câu nói của anh đã bị bóp méo đến cỡ đó sao? Không phải là anh giết cha nói mà là anh thích làm cha nó.”

“Tại sao anh nói rằng anh đã giết cha nó?”

“Mới đầu nó hỏi anh đã từng giết ai chưa. Anh nói với nó sự thật rằng anh đã giết hai người.”

“Để khoe khoang à?”

“Để khoe khoang, và để gây ấn tượng với một đứa trẻ mà anh yêu mẹ nó, bởi vì anh nhận ra rằng người mẹ này đã an ủi hai đứa trẻ bé bỏng đó bằng cách thổi phồng những chiến tích của cha nó và khoe khoang những chiến lợi phẩm của ông ta còn lại trong nhà.”

“Cứ khoe khoang đi! Tụi nó không thích anh.”

“Shevket không thích anh, những Orhan thì có,” tôi nói, trong cảm giác tự hào bắt được lỗi của người mình yêu. “Nhưng anh sẽ trở thành cha của hai đứa.”

Chúng tôi rùng mình lo lắng và run run trong ánh sáng lờ mờ như thể bóng của vật thể nào đó không tồn tại đã đi qua giữa hai chúng tôi. Tôi bình tĩnh lại và thấy Shekure đang thổn thức.

“Người chồng bạc mệnh của em có một em trai tên là Hasan. Trong khi em chờ chồng em về, em đã sống hai năm chung nhà với chú ấy và cha chồng em. Chú ấy yêu em. Sau đó chú ấy nghi ngại những gì có thể đang xảy ra. Chú ấy tức tối tưởng tượng rằng em có thể lấy một người nào đó, có lẽ là anh. Chú ấy nhắn rằng chú ấy muốn dùng vũ lực buộc em trở về nhà họ. Họ nói rằng vì em chưa được quan tòa coi là một quả phụ, nên họ sẽ buộc em trở về nhà đó nhân danh chồng em. Họ có thể đột kích nhà chúng em bất cứ lúc nào. Cha em cũng không muốn quan tòa phán quyết em là quả phụ. Nếu em được phép ly dị, ông nghĩ em sẽ tìm cho mình một tấm chồng mới mà bỏ rơi ông. Khi trở về nhà với bọn trẻ, em đã mang đến cho ông một niềm hạnh phúc lớn trong nỗi cô đơn mà ông đã chịu đựng sau cái chết của mẹ em. “Anh có đồng ý sống với chúng em không?”

“Ý em là sao?”

“Nếu mình cưới nhau, anh có chịu về sống với cha em, với tất cả chúng em không?”

“Anh không biết.”

“Hãy nghĩ về chuyện này càng sớm càng tốt. Tin em đi, anh không có nhiều thời gian đâu. Cha em có cảm giác rằng có điều gì xấu sắp đến với cả nhà em, và em nghĩ là ông đúng. Nếu Hasan và người của chú ấy đột kích nhà em với một lũ lính tráng và lôi cha em ra trước quan tòa, anh có chịu làm chứng rằng anh đã thấy xác của chồng em không? Anh vừa mới từ Ba Tư và họ sẽ tin anh.”

“Anh sẽ làm chứng. nhưng anh không phải là người giết anh ta.”

“Được rồi. Cùng một nhân chứng khác, để em được tuyên bố là quả phụ, anh có chịu làm chứng trước quan tòa rằng anh đã thấy cái xác đầy máu của chồng em trên chiến trường Ba Tư không?”

“Thực sự anh không thấy, nhưng vì em, em yêu, anh sẽ làm chứng như thế.”

“Anh có yêu con em không?”

“Có,”

“Nói cho em biết, anh yêu chúng về điều gì?”

“Anh yêu sức mạnh, tính quyết đoán, sự trung thực, thông minh, và tính bướng bỉnh của Shevket,” tôi nói. “Còn anh yêu phong cách dịu dàng, nhạy cảm của Orhan và sự láu lỉnh của nó. Anh yêu chuyện chúng là con của em.”

Người yêu mắt đen của tôi mỉm cười và ứa lệ. Sau đó, trong cơn bối rối có tính toán của một phụ nữ hy vọng đạt được nhiều thứ trong thời gian ngắn, nàng đổi đề tài:

“Cuốn sách của cha em phải được hoàn tất và trình lên Đức vua. Cuốn sách này là nguồn gốc vận rủi gây phiền muộn cho chúng em.”

“Còn điều xấu gì gây phiền muộn cho chúng ta ngoài cái chết của Zarif Kính mến nữa?”

Câu hỏi này khiến nàng không vui. Với vẻ thiếu thật thà trong nỗ lực trở nên thật thà, nàng nói:

“Những môn đồ của Nusret Hoja đang tung tin đồn rằng cuốn sách của cha em là một trò báng bổ và mang dấu ấn của bọn ngoại giáo. Liệu có phải những nhà tiểu họa thường đến nhà em đã ngày càng đố kỵ nhau đến mức độ nghĩ ra những kế hoạch này không? Anh nằm trong số hội anh chắc biết rõ!”

“Người em chồng của em,” tôi nói, “anh ta có mối liên hệ nào với những nhà tiểu họa này, cuốn sách của cha em hoặc những môn đồ của Nusret Hoja, hay anh ta sống tách biệt?”

“Chú ấy không dính dáng gì đến những chuyện đó, mà chú ấy cũng không hề sống tách biệt,” nàng nói.

Một khoảng im lặng lạ kỳ và bí ẩn trôi qua.

“Hồi em sống cùng nhà với Hasan, không có cách nào để em tránh mặt anh ta sao?”

“Bằng hết sức mình, trong ngôi nhà chỉ có hai phòng.”

Vài con chó, không xa lắm, bỗng chú ý đến cái gì đó, bắt đầu sủa đầy kích động.

Tôi không thể mở miệng hỏi tại sao người chồng quá cố của Shekure, kẻ coi như đã đắc thắng trở về từ nhiều trận đánh và sở hữu cả một thái ấp, lại chịu để vợ sống chung với em trai mình trong một căn nhà có hai phòng. Rụt rè và do dự, tôi hỏi người yêu thời thơ ấu của tôi câu hỏi sau: “Tại sao em quyết định cưới anh ta?”

“Dĩ nhiên chắc chắn là cha em phải gả em cho ai đó,” nàng nói. Đó là sự thật, nó đã giải thích một cách súc tích và thông minh cuộc hôn nhân của nàng theo một cách vừa tránh ca ngợi chồng nàng vừa không khiến tôi khó chịu. “Anh đã ra đi, có lẽ không bao giờ trở lại. Biến mất trong cơn dỗi hờn có lẽ là dấu hiệu của tình yêu, nhưng một người tình dỗi hờn thì cũng khó chịu và chẳng hứa hẹn gì về tương lai cả.” Đây cũng là sự thật. nhưng chưa đủ là duyên cớ để nàng cưới tên đểu cáng đó. Chẳng khó gì để suy diễn từ vẻ ngại ngùng của nàng rằng chỉ một thời gian ngắn sau khi tôi rời khỏi Istanbul, Shekure đã quên mất tôi, như mọi người khác. Nàng đã nói với tôi lời nói dối trắng trợn này để xoa dịu trái tim tan nát của tôi, giá mà được một chút, và tôi coi đó như một dấu hiệu cho hảo ý của nàng, vốn đòi hỏi lòng biết ơn của tôi. Tôi bắt đầu giải thích rằng trong những chuyến đi của mình tôi không thể gạt nàng ra khỏi ý nghĩ như thế nào, ban đêm hình ảnh nàng ám ảnh tôi như một bóng ma ra sao. Đây là điều bí mật nhất, nỗi sầu khổ sâu đậm nhất mà tôi đã chịu và tôi cho rằng mình không bao giờ có thể chia sẻ với một ai khác; sự buồn khổ này hoàn toàn có thật, nhưng như tôi ngạc nhiên nhận ra ngay lúc đó, nó không hề thành thật một chút nào.

Để những tình cảm và khao khát của tôi có thể được hiểu một cách chính xác, tôi phải phơi bày ngay lập tức ý nghĩa của sự khác biệt giữa sự thật với tính chân thực này mà tôi vừa biết lần đầu: Việc biểu lộ sự thực bằng ngôn từ của một người, dù chân thực đến hết mức đi chăng nữa, vẫn thúc đẩy người ta đi tới sự giả dối. Ví dụ hay nhất có lẽ xuất phát từ những nhà tiểu họa chúng tôi, những kẻ ngày càng bồn chồn bất an vì có kẻ sát nhân trong số chúng tôi. Hãy xem xét một bức tranh hoàn hảo - hình ảnh một con ngựa chẳng hạn: cho dù nó thể hiện con ngựa thật tài tình đến cỡ nào đi nữa, thứ ngựa được đấng Allah mường tượng cực kỳ tỉ mỉ hoặc những con ngựa của các nhà tiểu họa bậc thầy, nó vẫn không thể sánh với tính chân thực của nhà tiểu họa tài năng đã vẽ nó. Sự thành thực của nhà tiểu họa, hoặc những đầy tớ hèn mọn của Allah như chúng tôi, không xuất hiện trong phút giây của tài năng và sự hoàn hảo; trái lại, nó xuất hiện trong lúc lỡ lời, sai lầm, mệt nhọc và thất vọng. Tôi nói điều này vì những cô gái trẻ, những kẻ sẽ vỡ mộng khi nhận thấy không có sự khác biệt nào giữa nỗi khao khát mãnh liệt mà tôi cảm thấy đối với Shekure giây phút đó như nàng cũng có thể biết - với chẳng hạn như nỗi thèm khát rạo rực mà tôi cảm thấy đối với một người đẹp Kazvin có cái miệng đỏ thẫm, nước da ngăm, vóc dáng thanh tú mà tôi gặp trong những chuyến đi. Với trí thông minh sắc sảo được Thượng đế ban cho và trực giác như quỷ thần của nàng, Shekure hiểu cả khả năng chịu đựng của tôi trong mười hai năm đau khổ vì yêu lẫn cách cư xử giống như một kẻ bị sự thèm khát chi phối, chẳng nghĩ đến điều gì khác ngoài việc nhanh chóng thỏa mãn những thèm khát đen tối của mình ngay lần đầu được một mình ở bên nàng. Nizami đã so sánh cái miệng của Shirin, mỹ nhân của các mỹ nhân, với một lọ mực chứa đầy những viên ngọc.

Khi lũ chó bắt đầu một đợt sủa dữ dội nữa, Shekure bồn chồn nói, “Bây giờ em phải về.” Đến lúc đó cả hai chúng tôi mới nhận ra rằng ngôi nhà của con ma Do Thái đã hoàn toàn tối đen, dù đêm chưa xuống. Cơ thể tôi đột nhiên bật lên, muốn ôm lấy nàng lần nữa, nhưng giống như một chú chim sẻ bị thương, nàng nhanh nhẹn né đi.

“Em vẫn còn đẹp chứ? Trả lời em nhanh lên.”

Tôi nói với nàng. Nàng lắng nghe tôi một cách dễ thương làm sao, tin và đồng ý những gì tôi nói.

“Còn quần áo của em?”

Tôi trả lời nàng.

“Em thơm không?”

Dĩ nhiên Shekure cũng biết rằng điều mà Nizami gọi là “ván cờ tình yêu” không bao gồm những trò chơi tu từ hoa mỹ như thế, mà gồm những hành động đầy cảm xúc kín đáo giữa những người yêu nhau. 

“Anh định kiếm sống bằng cách nào?” nàng hỏi. “Anh chăm sóc mấy đứa con mồ côi cha của em được không?” Trong khi nói rằng tôi đã hơn mười hai năm làm viên chức và thư ký, đã thu được kiến thức lớn lao trong chiến trận, từng chứng kiến cái chết và tôi có những viễn cảnh tươi sáng, tôi ôm nàng.

“Lúc này chúng ta ôm nhau đẹp làm sao,” nàng nói. “Và mọi thứ đã mất đi vẻ kỳ bí ban đầu của nó.”

Để chứng tỏ tôi chân thực như thế nào, tôi ôm nàng thậm chí chặt hơn. Tôi hỏi nàng tại sao, sau khi đã giữ nó trong mười hai năm, nàng lại nhờ Esther trả lại bức tranh tôi đã vẽ cho nàng.

Trong mắt nàng, tôi đọc được vẻ ngạc nhiên của nàng trước sự mệt mỏi của tôi và một tình yêu thương dâng tràn trong nàng.

Chúng tôi hôn nhau. Lần này tôi thấy mình không còn bị tê liệt dưới cái ách kỳ lạ của lòng ham muốn; cả hai chúng tôi sửng sốt trước cảm giác xôn xao - như một bầy chim sẻ - của một tình yêu mãnh liệt đã ăn vào tim, ngực, bụng chúng tôi. Việc làm tình không phải là cách giải độc tốt nhất cho tình yêu sao?

Khi tôi sờ soạng bộ ngực đồ sộ của nàng. Shekure đẩy tôi ra thậm chí còn dứt khoát và ngọt ngào hơn trước đó. Nàng ngụ ý rằng tôi không phải là một người đàn ông đủ chín chắn để duy trì một cuộc hôn nhân đáng tin cậy với một phụ nữ mà tôi đã làm nhục trước đó. Tôi đã sơ ý quên rằng Quỷ sứ sẽ nhúng tay vào bất cứ hành động hấp tấp và quá thiếu kinh nghiệm nào vốn không biết rằng ẩn dưới những cuộc hôn nhân hạnh phúc là biết bao nhiêu kiên nhẫn và đau khổ. Nàng thoát khỏi vòng tay tôi và đi về phía cửa, tấm mạng nhung đã rơi xuống quanh cổ nàng. Tôi thấy tuyết rơi trên đường phố, nơi luôn chìm vào bóng tối trước nhất, và quên bẵng rằng chúng tôi nãy giờ vẫn thì thào ở đây, có lẽ để tránh quấy rầy linh hồn của Người Do Thái bị treo cổ, tôi kêu lên:

“Bây giờ chúng mình phải làm gì?”

“Em không biết”, nàng nói, nghĩ đến những nguyên tắc của “ván cờ tình yêu.”

Băng qua khu vườn cũ, nàng để lại những dấu chân thanh tú trên tuyết - chắc chắn sẽ bị màn trắng toát này xóa đi và lặng lẽ biến mất.

CHƯƠNG 28
TÔI SẼ BỊ GỌI LÀ TÊN GIẾT NGƯỜI

Chắc chắn rằng các vị cũng đã trải qua những gì tôi sắp mô tả: Nhiều lần, đi qua những con đường quanh co vô tận của Istanbul, trong khi đang múc một muỗng rau cải hầm đưa lên miệng tại một bếp ăn công cộng, hay nhìn chằm chằm vào họa tiết cong của một mảng trang trí lề sách theo phong cách bút sậy, tôi cảm thấy mình đang sống trong hiện tại cứ như nó là quá khứ. Nghĩa là mỗi khi đang đi dọc theo một con đường ngập đầy tuyết trắng, tôi sẽ cảm thấy thôi thúc muốn nói rằng tôi đang đi dọc theo nó vào một lúc nào đó đã qua.

Những sự kiện khác thường tôi sắp kể lại đã xảy ra cùng lúc trong hiện tại và trong quá khứ. Đó là buổi tối, trời đã tối đen và tuyết rơi lác đác khi tôi đi bộ xuống phố nơi Enishte Kính mến cư ngụ.

Không như những tối khác, tôi đến đây và biết chính xác mình muốn gì. Vào những tối khác, chân tôi sẽ đưa tôi đến đây trong khi tôi nghĩ lơ mơ về những điều khác: rằng tôi sẽ nói với mẹ tôi chỉ làm một cuốn sách mà kiếm được tới bảy trăm đồng bạc, về bìa của những tác phẩm Herat với những họa tiết hoa hồng trang trí không dát vàng có niên đại từ thời Tamerlane, về cảm giác choáng váng không ngừng khi biết rằng những người khác vẫn vẽ ký tên tôi hoặc về cách ứng xử ngớ ngẩn và quá lố của tôi. Tuy nhiên, lần này tôi đến đây có suy tính trước và có ý định hẳn hoi.

Cánh cổng to dẫn vào sân - mà tôi cứ e không ai mở cho tôi - tự mở khi tôi gõ, tái khẳng định với tôi rằng Allah đứng về phía tôi. Phần sân lát đá sáng bóng mà tôi thường đi qua trong những đêm tôi đến để bổ sung tranh minh họa mới cho cuốn sách lộng lẫy của Enishte Kính mến hiện giờ vắng lặng. Phía bên phải cạnh giếng có một chiếc xô, đậu trên đó là một con chim sẻ rõ ràng không biết đến cái lạnh; xa hơn một chút là cái lò bằng đá ngoài trời mà vì lý do nào đó đã không được đốt lên dù lúc này đã muộn; phía bên trái, chuồng dành cho ngựa của khách chiếm một phần tầng trệt của ngôi nhà. Mọi thứ y như tôi mong đợi. Tôi bước vào qua cánh cửa không khóa bên cạnh chuồng ngựa, và như một vị khách không mời vẫn làm để tránh bắt gặp một cảnh không thích hợp, tôi giậm mạnh bước chân và ho lên khi leo cầu thang gỗ dẫn đến phòng khách.

Không ai đáp lại tiếng ho của tôi, cả tiếng giẫm mạnh của đôi giày lấm bùn của tôi cũng vậy. Tôi cởi giày để cạnh những đôi giày xếp hàng tại lối vào hành lang rộng dùng làm phòng đợi.

Như đã thành thói quen mỗi khi đến đây, tôi tìm kiếm cái mà tôi cho là đôi giày xanh thanh tú của Shekure giữa những đôi khác, nhưng không có, tôi nghĩ chắc là không có ai ở nhà.

Tôi bước sang bên phải vào phòng - không có bóng ai trong mọi ngóc ngách của tầng lầu - nơi tôi hình dung Shekure đang ôm các con mà ngủ. Tôi mò tìm giường và nệm, rồi mở một cái rương trong góc và một chiếc tủ quần áo cao có cánh cửa rất nhẹ. Trong khi tôi nghĩ hương thơm hạnh đào thoang thoảng trong phòng hẳn là hương thơm của da thịt Shekure, thì một cái gối, vốn được nhét vào tủ, rơi trúng cái đầu đần độn của tôi rồi rơi xuống chiếc bình bằng đồng và mấy cái tách. Cũng như các vị nghe tiếng động và bất chợt nhận ra căn phòng tối om om, tôi nhận ra trời thật lạnh.

“Hayriye hả?” Enishte Kính mến lên tiếng trong một phòng khác, “Shekure hả? Đứa nào đấy?

Tôi lẹ làng ra khỏi phòng, đi xéo ngang qua hành lang rộng, bước vào căn phòng có cửa màu xanh da trời nơi tôi làm việc cùng Enishte Kính mến cho cuốn sách của ông trong mùa đông qua.

“Tôi, thưa Enishte Kính mến,” tôi đáp. “Tôi đây.”

“Anh là ai?”

Ngay lúc đó, tôi hiểu rằng những nghệ danh mà Enishte Kính mến đã chọn nhằm giữ bí mật thì ít mà chủ yếu là liên quan đến trò giễu cợt tinh tế của ông ta đối với chúng tôi. Như một người sao chép kiêu ngạo có thể ghi lại ký hiệu của mình trên tờ cuối cùng của một bản thảo đã minh họa lộng lẫy, tôi chầm chậm phát âm những âm tiết tên đầy đủ của tôi, bao gồm tên cha tôi, nơi sinh của tôi và cụm từ “người đầy tớ tội lỗi đáng thương của các vị.”

“Hả?” Mới đầu ông thốt lên, rồi tiếp “À”.

Giống như một ông già gặp Thần chết trong truyện ngụ ngôn Assyria tôi nghe hồi còn nhỏ, Enishte Kính mến chìm vào một khoảng im lặng rất ngắn vốn kéo dài mãi mãi. Do tôi vừa đề cập tới “Thần chết” nên nếu có ai trong các vị lại tin rằng tôi đến đây để dính líu vào một chuyện như thế, thì các vị đã hoàn toàn hiểu sai cuốn sách mà các vị đang cầm trên tay rồi. Liệu có ai đó với những ý đồ như thế lại gõ cổng trước khi vào? Cởi giày ra? Đến mà không mang theo một con dao ư?

“Vậy là anh đã đến,” ông ta nói, lại giống ông già trong truyện ngụ ngôn. Nhưng sau đó ông ta bắt đầu nói bằng một giọng hoàn toàn khác. “Xin chào con trai. Vậy nói cho ta biết đi, anh muốn gì?”

Bây giờ trời đã tối đen. Nhưng có đủ ánh sáng lọt vào qua ô cửa sổ che bằng vải tẩm sáp ong - vốn được gỡ ra vào mùa xuân, để lộ một cây lựu và cây tiêu huyền - giúp nhận ra đường nét của những vật thể trong phòng, đủ ánh sáng để làm hài lòng một nhà minh họa Trung Hoa tầm thường. Tôi không nhìn rõ được khuôn mặt của Enishte Kính mến khi ông ta ngồi trước chiếc bàn đọc sách thấp như thường lệ, để ánh sáng rọi vào bên trái ông. Tôi cố hết sức để khôi phục lại mối thân tình giữa hai chúng tôi khi chúng tôi vẽ những bức tiểu họa cùng nhau, nhẹ nhàng và lặng lẽ thảo luận về chúng suốt đêm dưới ánh nến giữa những viên đá đánh bóng, những cây bút sậy, lọ mực và cọ vẽ này. Tôi không chắc có phải vì cảm giác xa lánh này hay vì sự bối rối, nhưng tôi thấy xấu hổ và không dám thú nhận công khai những nghi ngại của mình; lúc đó, tôi quyết định biện bạch cho mình qua một câu chuyện.

Có lẽ các vị cũng có nghe về họa sĩ Sheikh Muhammad ở Isfahan? Không một họa sĩ nào có thể qua mặt ông ta trong việc chọn màu, trong ý thức về sự cân đối, trong việc vẽ hình người, thú vật và những khuôn mặt, trong cách vẽ với xúc cảm đậm chất thơ, trong việc áp dụng một luận lý bí ẩn dành riêng cho hình học. Sau khi đạt tới vị thế một họa sĩ bậc thầy khi tuổi còn trẻ, danh họa này với phong cách thần thánh đã dành trọn ba mươi năm để theo đuổi sự cách tân can đảm nhất trong chủ đề, bố cục và phong cách. Làm việc theo phong cách thủy mặc Trung Hoa - do người Mông Cổ mang đến cho chúng tôi - với kỹ năng và một ý thức tinh tế về sự cân đối, ông là người đã du nhập bọn ma quỷ khủng khiếp, những âm hồn có sừng, những con ngựa có hòn dái to, những quái vật nửa người và những tên khổng lồ vào phong cách vẽ Herat nhạy cảm và tinh tế; ông là người đầu tiên quan tâm và chịu ảnh hưởng của nghệ thuật chân dung do những con tàu phương Tây từ Bồ Đào Nha và Flander mang đến; ông tái khám phá những kỹ thuật bị quên lãng có từ thời Thành Cát Tư Hãn và được giấu kín trong những pho sách cũ mục nát; trước bất cứ ai khác, ông đã dám vẽ những cảnh gợi dục ở đàn ông như cảnh Alexander nhìn trộm những mỹ nữ trần truồng tắm trên đảo đàn bà và Shirin tắm dưới ánh trăng, ông ta vẽ đấng Tiên tri vinh quang của chúng ta thăng thiên trên lưng con ngựa Burak có cánh của Người, những vị vua cào gãi mình mẩy, lũ chó đang giao phối và các lãnh tụ Hồi giáo uống rượu vang, và khiến cả cộng đồng những người yêu sách chấp nhận chúng. Ông đã làm chuyện đó, có lúc bí mật, có lúc công khai, uống rất nhiều rượu vang và hút thuốc phiện, với một nỗi nhiệt tình kéo dài ba mươi năm. Sau này, khi tuổi đã già, ông trở thành môn đồ của một lãnh tụ Hồi giáo sùng đạo, và trong một thời gian ngắn đã thay đổi hoàn toàn. Đi đến kết luận rằng mọi bức tranh ông làm trong thời kỳ ba mươi năm trước là xúc phạm và báng bổ, ông đã chối bỏ tất cả chúng. Hơn nữa, ông cống hiến ba mươi năm còn lại của đời ông cho việc đi từ lâu đài này đến lâu đài khác, từ thành phố này đến thành phố khác, lục lọi trong các thư viện và kho báu của các vua chúa để tìm và hủy bỏ những bản thảo ông đã minh họa.

Trong bất cứ thư viện của bất cứ vị quý tộc vua chúa nào mà ông tìm thấy một bức tranh ông làm từ những năm trước, ông sẽ không từ một thủ đoạn nào để tiêu hủy nó, tìm cách tiếp cận chúng bằng cách nịnh hót hay mưu kế, và ngay khi không ai chú ý ông sẽ xé trang sách mà ông đã minh họa, hoặc tìm cơ hội đổ nước lên trang đó, làm nó hỏng. Tôi kể lại câu chuyện này như một ví dụ về cảnh một nhà tiểu họa có thể chịu đựng đau khổ cực độ ra sao vì vô tình từ bỏ đức tin của mình trước sự quyến rũ của nghệ thuật. Điều này lý giải tại sao tôi đề cập chuyện Sheikh Muhammad đốt cháy thư viện khổng lồ của ông hoàng Ismail Mirza chứa hàng trăm cuốn sách mà chính tay vị thầy này minh họa; quá nhiều sách đến độ ông ta không thể lựa riêng những cuốn do ông làm ra khỏi những cuốn sách khác. Với sự cường điệu lớn lao, như thể chính tôi trải qua chuyện đó, tôi kể tiếp chuyện vị họa sư này, trong nỗi buồn khổ và hối tiếc sâu sắc, đã chết thiêu trong đám cháy khủng khiếp đó thế nào.

“Con có sợ, con trai,” Enishte Kính mến hỏi một cách thương hại, “những bức tranh chúng ta đã làm không?”

Căn phòng bây giờ tối đen, tôi không thể tận mắt thấy nhưng tôi có cảm giác rằng ông hỏi câu này với một nụ cười.

“Cuốn sách của chúng ta không còn là một bí mật,” tôi đáp. “Có lẽ điều đó không quan trọng. Nhưng tin đồn đang lan truyền. Họ nói chúng ta đã lén phạm tội báng bổ. Họ nói rằng ở đây, chúng ta đã làm một cuốn sách - không như Đức vua đã đặt làm và mong mỏi - mà là một cuốn sách để thỏa mãn những ý thích khác thường của chính chúng ta; một cuốn sách nhạo báng cả đấng Tiên tri và bắt chước những bậc thầy ngoại giáo. Có người thậm chí còn tin chúng ta vẽ quỷ Sa tan như một kẻ đáng yêu. Họ nói chúng ta đã phạm phải một tội lỗi không thể tha thứ bởi dám vẽ một con mòng và một thánh đường như thể chúng có cùng kích cỡ, theo tầm nhìn của một con chó hoang ghẻ lở với lý do là thánh đường nằm ở hậu cảnh - vì thế mà nhạo báng những kẻ ngoan đạo đang tham dự buổi cầu kinh. Tôi không ngủ được vì nghĩ về những điều như thế.”

“Chúng ta đã cùng nhau làm tranh minh họa,” Enishte Kính mến nói. “Chúng ta có từng cân nhắc đến những ý tưởng như thế chưa, chứ đừng nói tới chuyện làm một điều xúc phạm như thế được?”

“Dĩ nhiên là không rồi,” tôi nói một cách cởi mở. “Nhưng người ta vẫn cứ nghe nói có chuyện như thế. Họ nói có một bức cuối cùng mà theo lời đồn đại là dám công khai thách thức đạo giáo của chúng ta và những gì chúng ta cho là thiêng liêng.”

“Bản thân anh có thấy bức tranh cuối cùng ấy bao giờ chưa?”

“Không. Tôi làm tranh theo bất cứ gì ông yêu cầu ở những vị trí khác nhau trên một tờ giấy to, chắc là một bức minh họa tờ đôi.” Tôi nói với sự cẩn trọng và chính xác mà tôi hy vọng sẽ làm vừa lòng Enishte Kính mến. “Nhưng tôi chưa từng thấy bức minh họa hoàn chỉnh. Nếu tôi thấy được cả bức tranh thì lương tâm tôi đã thanh thản trong việc phủ nhận toàn bộ trò vu khống bẩn thỉu này rồi.”

“Tại sao anh có cảm giác tội lỗi?” ông hỏi. “Cái gì đang cắn rứt linh hồn anh? Ai đã khiến anh nghi ngờ bản thân?”

“…lo lắng rằng mình đã công kích những gì chính mình coi là thiêng liêng, sau khi dành nhiều tháng hoan hỉ minh họa cho một cuốn sách...chịu đựng những giày vò của Hỏa ngục ngay khi đang sống... giá như tôi thấy được trọn vẹn bức tranh cuối cùng đó.”

“Đây là điều khiến anh lo lắng phải không?” ông ta hỏi. “Đây là lý do khiến anh đến đây hả?”

Chợt tôi thấy kinh hoàng. Có thể nào ông ta đang nghĩ đến một điều gì kinh khủng, kiểu như chính tôi là kẻ giết Zarif Kính mến xấu số không?

“Những kẻ muốn Đức vua bị truất phế và hoàng tử lên ngôi đang ra sức truyền bá chuyện đồn đại ngấm ngầm rằng Ngài bí mật tài trợ cuốn sách này,” tôi nói.

“Bao nhiêu người thực sự tin điều đó?” Ông ta hỏi một cách mệt mỏi. “Mọi giáo sĩ có tham vọng từng được đặc ân nào đó và do đó trở nên kiêu căng sẽ thuyết giảng rằng đạo giáo của chúng ta đang bị gạt bỏ và coi thường. Đây là cách chắc chắn nhất để bảo đảm miếng ăn cho họ.”

Phải chăng ông ta cho rằng tôi đến chỉ để thông báo về một tin đồn?

“Zarif Kính mến tội nghiệp, cầu Chúa phù hộ anh ta”, tôi nói, giọng run run. “Người ta cho rằng chúng ta giết anh ấy vì anh ấy đã thấy trọn vẹn bức tranh cuối cùng và tin chắc rằng nó nhục mạ tín ngưỡng của chúng ta. Một người trưởng nhóm mà tôi biết tại xưởng vẽ hoàng cung đã nói với tôi như thế. Ông biết những thợ học việc từ lớn tới nhỏ là như thế nào rồi mà, ai cũng thích ngồi lê đôi mách.”

Vẫn theo hướng lập luận này và càng lúc càng say sưa, tôi nói tiếp một hồi lâu. Tôi không biết có bao nhiêu phần trong những điều tôi nói là do tôi nghe được, bao nhiêu phần là do tôi bịa đặt vì sợ hãi sau khi đã thanh toán tên vu khống xấu xa đó, hoặc bao nhiêu phần là do tôi ứng tác tại chỗ. Sau khi dành phần lớn cuộc nói chuyện để nịnh hót, tôi đoán rằng Enishte Kính mến sẽ cho tôi xem bức minh họa tờ đôi đó và giải thoát tôi khỏi mối ưu tư. Tại sao ông không nhận ra đây là cách duy nhất tôi có thể vượt qua những sợ hãi về việc bị vướng vào tội lỗi?

Với ý đồ khiến ông ta giật mình, tôi hỏi một cách thách thức, “Người ta có thể nào làm nghệ thuật mang tính báng bổ mà không ý thức về điều đó không?”

Thay vì trả lời, ông phác một cử chỉ nhẹ nhàng và tinh tế - như thể cảnh báo tôi rằng có một đứa trẻ đang ngủ trong phòng và tôi câm bặt. “Trời tối lắm rồi,” ông nói, hầu như thì thào, “để ta đốt nến lên.”

Sau khi dùng than trong lò sưởi đốt nến lên, tôi nhận thấy trên khuôn mặt ông nét tự hào, một vẻ tự hào tôi chưa từng thấy, và điều này làm tôi vô cùng bực tức. Hay đó là vẻ thương hại? Hay ông ta đã hình dung ra mọi chuyện? Ông ta nghĩ tôi là loại sát nhân đê tiện hay ông ta sợ tôi? Tôi nhớ lại những ý nghĩ của mình đã bất ngờ vượt khỏi tầm kiểm soát như thế nào và tôi đã lắng nghe một cách ngốc nghếch những gì mình đang nghĩ cứ như một ai khác đang nghĩ ra sao. Chẳng hạm tấm thảm dưới chân tôi: Có một họa tiết giống hình chó sói ở một góc, nhưng tại sao trước đó tôi không nhận thấy nó?

“Tình yêu mà tất cả các đại hãn, vương hầu và vua chúa dành cho những bức tranh, minh họa và những cuốn sách đẹp có thể được chia làm ba mùa,” Enishte Kính mến nói. “Ban đầu họ táo bạo, hăm hở và tò mò. Những người thống trị thích những bức tranh vì ngưỡng mộ, để ảnh hưởng đến cách người ta nhìn ngắm chúng.. Trong thời kỳ này, họ giáo dục chính họ. Trong thời kỳ thứ hai, họ đặt làm những cuốn sách để thỏa mãn óc thẩm mỹ của mình. Bởi vì họ đã thành thực học được cách thưởng thức tranh, họ tích lũy thanh thế đồng thời tích lũy sách vở, mà sách vở thì sau khi họ chết đi, sẽ bảo đảm sự tồn tại cho tên tuổi của họ trong thế giới này. Tuy nhiên vào mùa thu trong cuộc đời một vị vua, ông ta không còn quan tâm đến việc duy trì trạng thái bất tử trần thế của mình nữa. Khi nói ‘trạng thái bất tử trần thế’ là ta muốn nói đến khao khát được những thế hệ tương lai, cháu chắt của chúng ta, nhớ đến. Những người thống trị ngưỡng mộ các nhà tiểu họa và sách vở đã đạt được sự bất tử thông qua những bản thảo mà họ đặt chúng ta làm - trong những trang bản thảo đó họ nhét tên của họ và nhiều lúc cả chuyện đời của họ vào. Sau đó, từng người trong số họ đi đến kết luận rằng hội họa là một rào cản ngăn không cho họ có được một chỗ ở thế giới bên kia, điều mà dĩ nhiên tất cả họ đều khao khát. Đấy là điều khiến ta lo lắng và sợ hãi nhất. Ngài Tahmasp vốn là nhà tiểu họa bậc thầy và dành cả tuổi trẻ trong họa xưởng, đã đóng cửa khu xưởng lộng lẫy của ông khi cái chết đến gần, đã đuổi những họa sĩ đầy thần hứng của ông khỏi Tabriz, tiêu hủy những pho sách ông đã làm ra và chịu đựng những cơn hối tiếc bất tận. Tại sao tất cả bọn họ lại tin rằng hội họa sẽ ngăn không cho họ vào cánh cổng Thiên đàng?”

“Ông biết rõ tại sao mà! Bởi vì họ nhớ lại lời cảnh báo của đấng Tiên tri rằng vào Ngày phán xét, Allah sẽ trừng phạt giới họa sĩ nghiêm khắc nhất.”

“Không phải các họa sĩ,” Enishte Kính mến chỉnh lại. “Mà những ai làm ra ngẫu tượng. Và điều này không phải từ kinh Koran mà từ Bukhari ([45]).” Vào Ngày phán xét, những kẻ làm ra ngẫu tượng sẽ bị yêu cầu đem lại sự sống cho những hình tượng mà họ đã tạo ra,” tôi dè dặt nói. “Vì họ không thể nào làm được điều đó nên tất cả sẽ phải chịu những hành hạ của Hỏa ngục. Đừng quên rằng trong kinh Koran Vinh quang, ‘tạo hóa’ là một trong những thuộc tính của Allah. Chính Allah người sáng thế, người biến cái không có thành có, người ban cuộc sống cho vật vô tri. Không ai được phép sánh với Người. Tội lớn nhất trong các tội lỗi là do những họa sĩ phạm phải, những kẻ dám làm những gì Người làm, những kẻ tự cho rằng mình cũng sáng tạo như Người.”

Tôi tuyên bố một cách chắc nịch, như thể chính tôi cũng đang kết tội ông ta. Ông nhìn đăm đăm vào mắt tôi.

“Anh nghĩ đây là điều chúng ta đang làm hả?”

“Không bao giờ,” tôi cười và nói. “Tuy nhiên đây là những gì Zarif Kính mến, cầu cho anh ta được bình yên, bắt đầu thừa nhận khi anh ta thấy bức tranh cuối cùng. Anh ta nói rằng việc ông sử dụng khoa học về luật phối cảnh và những phương pháp của các bậc thầy Venice chẳng là gì ngoài sự cám dỗ của Satan. Trong bức tranh cuối cùng, ông được cho là đã vẽ khuôn mặt của một người trần bằng những kỹ thuật Tây vực, vì vậy người xem tranh có ấn tượng không phải về một bức tranh mà về thực tại; tới mức độ hình ảnh này có khả năng khiến con người cúi đầu trước nó, như cúi đầu trước những tượng thánh trong nhà thờ Tây vực. Theo anh tại đây là tác phẩm của Quỷ sứ, không chỉ vì nghệ thuật phối cảnh đưa bức tranh rời xa cách nhìn thế gian của Thượng đế và đưa nó xuống tầm nhìn của một con chó hoang, mà còn vì việc ông dựa vào những phương pháp của bọn Venice cũng như trộn lẫn những truyền thống lâu đời của chúng ta với truyền thống của bọn ngoại giáo sẽ tước mất sự thuần khiết của chúng ta và đẩy chúng ta xuống hàng nô lệ của họ.”

“Chẳng có gì là thuần khiết cả”.Enishte Kính mến nói. “Trong lãnh vực nghệ thuật làm sách, bất cứ khi nào một kiệt tác được làm ra, bất cứ khi nào một bức tranh tráng lệ làm ta chảy nước mắt vì vui sướng và khiến ta ớn lạnh cả sống lưng, ta có thể chắc chắn điều sau đây: Hai phong cách từ trước đến nay chưa bao giờ được kết hợp với nhau đã đi cùng nhau để tạo ra một cái gì mới mẻ và diệu kỳ. Nhờ có cuộc hội ngộ giữa sự nhạy cảm trong minh họa kiểu Ả Rập và nền hội họa Trung Hoa - Mông Cổ, chúng ta mới có Bihzad và sự huy hoàng của nền hội họa Ba Tư. Những bức tranh đẹp nhất của Ngài Tahmasp kết hợp phong cách Ba Tư với những vẻ tinh tế của người Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày nay, nếu người ta không thể ca ngợi đúng mức những xưởng làm sách nghệ thuật của Akbar Khan ở Hindustan, đó là bởi ông ta đã cố thuyết phục những nhà tiểu họa của ông ta chấp nhận phong cách của những bậc thầy Tây vực. Cả phương Đông lẫn phương Tây đều thuộc về Thượng đế. Có lẽ Người bảo vệ chúng ta tránh khỏi ý muốn về sự tinh túy và không pha trộn.

Dù nét mặt ông có vẻ bừng sáng và dịu dàng dưới ánh nến, nhưng bóng của ông hắt trên tường vẫn tối đen và đầy đe dọa. Dù nhận thấy những gì ông nói hết sức hợp lý và có cơ sở, nhưng tôi không tin ông. Tôi cho rằng ông ta nghi ngờ tôi, và vì thế tôi càng lúc càng ngờ vực ông; tôi có cảm giác rằng nhiều lúc ông lắng nghe cổng sân bên dưới, rằng ông đang hy vọng ai đó sẽ giải thoát ông khỏi sự có mặt của tôi.

“Chính anh đã nói với tôi chuyện Sheikh Muhammad bậc thầy của Isfahan đã đốt cháy thư viện lớn chứa những bức tranh mà ông chối bỏ và đã tự thiêu trong cơn thống hối,” ông ta nói.” Bây giờ hãy để ta kể cho anh một câu chuyện liên quan đến truyền thuyết đó mà anh chưa biết. Quả thực là ông ta đã dành ba mươi năm cuối đời để săn tìm tác phẩm của chính mình. Tuy nhiên, trong những cuốn sách ông đọc, ông ngày càng phát hiện ra những sự bắt chước lấy cảm hứng từ ông thay vì tác phẩm sáng tạo của ông. Trong những năm cuối đời, ông dần nhận ra rằng có hai thế hệ nghệ sĩ đã chọn dạng tranh minh họa mà ông từ bỏ làm mẫu mực, rằng họ đã khắc sâu những bức tranh của ông vào tâm trí họ - hay nói chính xác hơn, đã làm cho chúng trở thành một phần trong tâm hồn họ. Khi Sheikh Muhammad nỗ lực tìm kiếm những bức tranh của mình và tiêu hủy chúng, ông phát hiện ra rằng những nhà tiểu họa trẻ, với lòng sùng kính, đã sao chép lại chúng trong vô số pho sách, đã dựa vào chúng khi minh họa những câu chuyện khác, đã làm cho chúng được mọi người nhớ đến và đã truyền bá chúng khắp thế giới. Qua bao năm dài, khi chúng ta nhìn hết cuốn sách này đến cuốn sách khác, hết bức minh họa này đến bức minh họa khác, chúng ta dần biết được điều sau đây: Một họa sĩ vĩ đại không bao giờ bằng lòng với việc gây ấn tượng cho chúng ta bằng những kiệt tác của mình; rốt cuộc thì, anh ta thành công trong việc thay đổi khung cảnh trong tâm trí chúng ta. Một khi nghệ thuật của nhà tiểu họa đi vào tâm hồn chúng ta theo cách này, nó trở thành tiêu chuẩn cho cái đẹp của thế giới chúng ta. Vào cuối đời, khi bậc thầy của Isfahan đốt công trình nghệ thuật của mình, ông không chỉ chứng kiến cái thực tế rằng công trình của ông, cho dù đã biến mất, đã thực sự sinh sôi nảy nở và gia tăng; ông hiểu rằng mọi người hiện nay nhìn thế giới theo cách ông đã nhìn nó. Những thứ không giống như những bức tranh ông làm thời trẻ giờ được coi là xấu xí.”

Không thể kiềm chế nỗi kinh sợ đang dậy lên trong tôi và không kiểm soát được nỗi khao khát muốn làm hài lòng Enishte Kính mến, tôi sụp xuống trước gối ông. Khi hôn tay ông, mắt tôi đầy lệ và tôi cảm thấy mình đã dọn cho ông một chỗ trong tâm hồn, nơi vốn luôn được dành cho Sư phụ Osman.

“Một nhà tiểu họa”,  Enishte Kính mến nói với giọng của một người tự mãn, “tạo ra nghệ thuật của mình bằng việc quan tâm đến lương tâm mình và bằng cách vâng theo những nguyên lý mà anh ta tin tưởng, không sợ bất cứ điều gì. Anh ta không quan tâm đến chuyện kẻ thù anh ta, những kẻ cuồng tín và ghen tỵ với anh ta nói gì.” Nhưng tôi chợt nhận ra rằng Enishte Kính mến thậm chí không phải là nhà tiểu họa khi tôi hôn bàn tay trổ đồi mồi và nhăn nheo của ông ta qua nước mắt. Tôi bối rối trước ý nghĩ của mình. Như thể một người khác đã nhét ý niệm trơ trẽn, quỷ quái này vào đầu tôi. Tuy thế các vị cũng biết tuyên bố này chân thực đến cỡ nào.

“Ta không sợ họ”, Enishte nói. “vì ta không sợ chết.”

‘Họ’ là ai? Tôi gật đầu như thể tôi hiểu. Nhưng cảm giác khó chịu bắt đầu lớn dần trong tôi. Tôi nhận thấy rằng pho cổ thư hiện nằm bên cạnh Enishte là cuốn Kitab al-Ruh của El-Jevziyye.

Tất cả những người già cả lú lẫn đang đi tìm cái chết đều yêu quý cuốn sách kể về những cuộc phiêu lưu dành cho linh hồn này. Vì tôi đã có mặt ở nơi này lúc gần đây, nên tôi thấy món mới mẻ duy nhất giữa những đồ vật đựng trong các khay, nằm trên rương, giữa những hộp viết, dao chuốc bút, bàn cắt ngòi bút, những lọ mực và cọ: đó là một lọ mực bằng đồng.

“Chúng ta hãy xác định, lần cuối cùng, rằng chúng ta không sợ họ,” tôi nói đầy tự tin. “Hãy lấy bức minh họa cuối cùng đó ra. Hãy cho họ xem nó.”

“Nhưng điều này sẽ không chứng minh rằng chúng ta quan tâm đến lời vu khống của họ, ít nhất là đến mức coi trọng nó, phải không? Chúng ta chẳng làm điều gì để phải sợ cả. Cái gì có thể biện minh cho nỗi sợ hãi đến thế của anh?” Ông ta vò đầu tôi như một người cha. Tôi sợ rằng mình sẽ òa lên khóc lần nữa; tôi ôm ông ta.

“Tôi biết tại sao tay thợ mạ vàng Zarif Kính mến bất hạnh đó bị giết,” tôi nói đầy kích động. “Qua việc vu khống ông, cuốn sách của ông và chúng ta, Zarif Kính mến đã lên kế hoạch cho môn đồ của Nusret Hoja xứ Erzurum nhắm vào chúng ta. Anh ta tin chắc rằng chúng ta đã rơi vào vòng khống chế cửa Quỷ sứ. Anh ta bắt đầu tung những tin đồn như thể cố xúi giục những nhà tiểu họa khác đang làm cho cuốn sách này nổi lên chống lại ông. Tôi không biết tại sao đột nhiên anh ta làm vậy. Có lẽ vì ghen tỵ, có lẽ anh ta bị Satan xui khiến. Và những nhà tiểu họa khác cũng nghe chuyện Zarif Kính mến nhất quyết tiêu diệt tất cả chúng ta như thế nào. Ông có thể hình dung từng người trong bọn họ càng lúc càng sợ hãi và ngả theo những nghi ngờ như thế nào, chính tôi đây cũng vậy. Bởi vì một người trong số họ, vào lúc nửa đêm, đã bị Zarif Kính mến dồn vào chân tường - xúi giục anh ta chống lại ông, chúng ta, cuốn sách của ông, cũng như chống lại việc minh họa, vẽ tranh và tất cả những thứ khác mà chúng ta tin tưởng - người nghệ sĩ đó đã hoảng sợ, giết tên vô lại đó và ném xác hắn xuống giếng.”

“Tên vô lại?”

“ Zarif Kính mến là một kẻ phản bội hèn hạ, xấu xa. Tên đểu cáng”, tôi la to như thể anh ta đang đứng trước mặt tôi trong phòng này vậy.

Im lặng. Ông ta sợ tôi chăng? Tôi sợ chính mình. Nó như thể tôi đã khuất phục trước ý chí và ý nghĩ của ai khác vậy; những điều này không hẳn là kém thú vị.

“Nhà tiểu họa hoảng sợ giống anh và họa sư xứ Isfahan này là ai vậy? Ai đã giết anh ta?”

“Tôi không biết,” tôi đáp.

Nhưng tôi muốn ông ta suy luận được qua vẻ mặt của tôi rằng tôi nói dối. Tôi nhận ra rằng mình đã phạm một sai lầm nghiêm trọng khi đến đây, nhưng tôi không đi đến chỗ đầu hàng cảm giác phạm tội và hối tiếc. Tôi có thể thấy rằng Enishte Kính mến càng lúc càng nghi ngờ tôi, điều này khiến tôi vui và vững vàng hơn. Nếu ông ta tin chắc rằng tôi là kẻ giết người và nhận thức này khiến ông kinh hoàng, vậy thì ông ta sẽ không dám từ chối cho tôi xem bức tranh cuối cùng. Tôi quá tò mò về bức tranh đó không phải vì tôi đã phạm tội vì nó, mà thật lòng tôi muốn xem nó ra thế nào.

“Việc ai giết tên đê tiện đó quan trọng lắm sao?” tôi nói. “Chẳng phải bất cứ ai giải thoát chúng ta khỏi tay hắn thì cũng đã làm một việc tốt sao?”

Tôi can đảm lên khi thấy ông ta không còn nhìn thẳng vào mắt tôi nữa. Nhưng con người hào hiệp, những người nghĩ họ tốt hơn và đạo đức hơn người khác, không thể nhìn thẳng vào mắt ta khi họ bị ta làm cho lúng túng, có lẽ bởi vì họ đang suy tính việc tố giác ta và bỏ mặc ta bị tra tấn, hành hình.

Bên ngoài, ngay trước cổng sân, lũ chó bắt đầu tru lên dữ dội.

“Tuyết lại rơi.” tôi nói. “Mọi người đi đâu hết vào giờ khuya khoắt này nhỉ? Sao họ để ông một mình ở đây? Thậm chí họ không đốt một ngọn nến cho ông nữa.”

“Thật hết sức kỳ cục,” ông nói. “Ta cũng chẳng hiểu nữa.” Ông quá chân thật đến độ tôi tin ông hoàn toàn, và dù nhạo báng ông ta như những nhà tiểu họa khác đã làm, tôi một lần nữa biết rằng mình thật sự rất yêu quý ông. Nhưng làm thế nào ông ta cảm nhận được rất nhanh lòng tôn trọng và yêu quý bất ngờ và dữ dội của tôi, để ông phản ứng bằng cách xoa đầu tôi với tình cảm của một người cha như vậy? Tôi bắt đầu thấy rằng phong cách hội họa của Thầy Osman, và di sản của những sư phụ lão thành ở Herat, không hề có tương lai gì cả. Và ý tưởng tồi tệ này một lần nữa khiến tôi hoảng sợ. Sau một bi kịch nào đó, tất cả chúng ta đều cảm thấy như vậy: Trong niềm hy vọng mong manh cuối cùng, và không cần biết chúng ta có vẻ khôi hài và ngu ngốc đến mức nào, chúng ta luôn cầu xin cho mọi chuyện cứ tiếp tục như xưa nay.

“Chúng ta hãy tiếp tục minh họa pho sách của mình,” tôi nói. “Hãy để mọi thứ tiếp diễn như vẫn thế từ trước đến nay.”

“Có một tên giết người trong đám tiểu họa. Ta vẫn tiếp tục công việc của ta với Siyah Kính mến.”

Có phải ông ta đang kích động tôi giết anh ta?

“Siyah bây giờ ở đâu?” tôi hỏi. “Con gái ông với bọn trẻ đâu cả rồi?”

Tôi có cảm giác một sức mạnh nào đó đã đặt những lời này vào miệng tôi, nhưng tôi không kiềm chế được mình. Không còn đường nào cho tôi hạnh phúc và hy vọng. Tôi chỉ có thể thông minh và châm chọc. Đằng sau hai vị thần luôn có tính giải khuây này - thông minh và châm chọc - tôi cảm thấy có sự hiện diện của Quỷ sứ, kẻ điều khiển họ và khuất phục tôi. Đồng thời, lũ chó đáng ghét bên ngoài cổng bắt đầu tru điên cuồng cứ như chúng đánh hơi thấy mùi máu.

Phải chăng tôi đã sống đúng giây phút này từ rất lâu rồi? Trong một thành phố xa xôi, tại một thời điểm mà bây giờ với tôi có vẻ đã lâu lắm rồi, khi một cơn mưa tuyết đang rơi mà tôi không thấy được bên ánh nến, tôi đang cố giải thích qua nước mắt rằng tôi hoàn toàn vô tội với một lão già lẩm cẩm cáu kỉnh, kẻ đã buộc tội tôi ăn cắp thuốc màu. Hồi đó, giống như bây giờ, chó cũng bắt đầu tru như thể chúng ngửi được mùi máu. Và tôi hiểu qua chiếc cằm to của Enishte Kính mến, phù hợp với một lão già độc ác, và qua đôi mắt ông ta, vốn sau cùng đã soi mói không thương xót vào mắt tôi, rằng ông ta có ý định khuất phục tôi. Tôi nhớ lại ký ức tả tơi này từ khi tôi là chú thợ học việc tiểu họa lên mười tuổi giống như một bức tranh mà những đường nét thì còn rõ nhưng màu sắc đã nhạt nhòa. Như thể tôi đang sống thời hiện tại cứ như đó là một ký ức có thực nhưng đã mờ nhạt.

Vì vậy khi tôi nhổm dậy đi vòng phía sau Enishte Kính mến, cầm lên chiếc bình mực bằng đồng nặng, to, mới mẻ đó giữa đống bình mực bằng pha lê, sứ và thủy tinh trên bàn làm việc của ông ta, nhà tiểu họa chăm chỉ trong tôi - mà Thầy Osman đã làm cho thấm nhuần trong tất cả chúng tôi - đang minh họa những gì tôi đã làm và những gì tôi đã thấy bằng màu sắc rõ ràng nhưng đã mờ nhạt, không như cái gì đó tôi đang trải nghiệm lúc này mà cứ như nó là một ký ức xa xưa. Các vị biết trong giấc mơ, chúng ta rùng mình thế nào khi thấy chính mình như nhìn từ bên ngoài, thì cũng với cảm giác như vậy, cầm bình mực bằng đồng lớn nhưng có miệng nhỏ, tôi nói:

“Hồi tôi còn là đứa học việc lên mười, tôi cũng thấy một cái bình mực như vầy.”

“Đó là bình mực Mông Cổ ba trăm năm tuổi,” Enishte Kính mến nói. “Siyah mang nó từ mãi tận Tabriz về đây. Nó dùng để đựng mực đỏ.”

Vào đúng lúc đó, dĩ nhiên chính Quỷ sứ thúc giục tôi dùng hết sức bình sinh giáng bình mực này vào cái đầu sai lầm của lão già tự phụ này. Nhưng tôi không đầu hàng Quỷ sứ, và với niềm hy vọng hão huyền, tôi nói, “Chính tôi, tôi là kẻ đã giết Zarif Kính mến.”

Các vị hiểu tại sao tôi nói điều này một cách đầy hy vọng, đúng không? Tôi tin rằng Enishte sẽ hiểu, và do đó tha thứ cho tôi - rằng ông ta sẽ sợ và giúp tôi.

CHƯƠNG 29
TÔI LÀ DƯỢNG YÊU QUÝ CỦA CHÁU

Một sự im lặng bao trùm căn phòng khi anh ta thú nhận mình đã giết Zarif Kính mến. Tôi cho rằng anh ta cũng sẽ giết tôi. Tim tôi đập liên hồi. Anh ta đến đây để giết tôi hay để thú nhận và làm tôi sợ hãi? Liệu anh ta có biết mình muốn gì không? Tôi thấy sợ, nhận ra rằng tôi hoàn toàn không hiểu được thế giới nội tâm của người nghệ sĩ tài hoa mà những dòng chữ tuyệt đẹp và cách sử dụng màu sắc đầy ma lực đã quen thuộc với tôi trong nhiều năm này. Tôi cảm nhận được anh ta đang đứng sau lưng tôi, ngay sát gáy tôi, người cứng đơ, tay nắm chặt cái bình mực đỏ to kia, nhưng tôi không quay lại đối mặt với anh ta. Tôi biết sự im lặng của tôi sẽ làm anh ta lo lắng. “Lũ chó cũng không chịu im mồm nữa,” tôi nói.

Chúng tôi lại im lặng. Lần này tôi biết rằng cái chết của tôi, hoặc việc tôi ít nhiều tránh được bất hạnh này, sẽ tùy thuộc vào điều tôi nói với anh ta. Ngoài công việc của anh ta, tôi chỉ biết rằng anh ta rất thông minh, và nếu công nhận rằng một nhà minh họa không nên để lộ tâm hồn mình trong tác phẩm, thì sự thông minh, dĩ nhiên, là một vốn quý. Sao anh ta lại dồn tôi vào chân tường tại nhà khi không có ai khác ở đây? Đầu óc già nua của tôi bị ám ảnh một cách giận dữ với câu hỏi này, nhưng tôi quá bối rối đến độ không thể tự cứu mình thoát khỏi trò này. Shekure đâu rồi?

“Ông đã biết đó là tôi, đúng không?” anh ta hỏi.

Tôi hoàn toàn không biết gì cả, cho đến khi anh ta nói với tôi. Trong thâm tâm thậm chí tôi đang tự hỏi phải chăng anh ta không giết được Zarif Kính mến và rằng tay tiểu họa quá cố có thể thực sự đã không chịu nổi những lo lắng của anh ta và gây rắc rối cho những người còn lại chúng tôi.

Tôi còn hơi biết ơn tên giết người mà tôi đang một mình đối diện trong ngôi nhà vắng vẻ này nữa.

“Ta không ngạc nhiên việc anh giết anh ta,” tôi nói. “Những người như chúng ta vốn sống với những cuốn sách và luôn luôn mơ về những tranh sách của họ, chỉ sợ một điều duy nhất trên đời này. Hơn nữa chúng ta đang đấu tranh với một điều còn nguy hiểm và bị cấm đoán hơn, nghĩa là, chúng ta đang đấu tranh để làm những bức tranh trong một thành phố Hồi giáo. Cũng như Sheikh Muhammad xứ Isfahan, những nhà tiểu họa chúng ta thường cảm thấy có lỗi và hối tiếc, thoạt tiên chúng ta tự trách mình trước khi người khác khiển trách, xấu hổ và cầu xin Thượng đế cùng cộng đồng thú tội. Chúng ta làm sách trong vòng bí mật giống như bọn tội phạm đáng xấu hổ. Ta biết quá rõ rằng việc khuất phục trước những lời công kích bất tận của các hoja, nhà thuyết giáo, quan tòa và những tu sĩ phái thần bí vốn buộc chúng ta tội báng bổ, rằng cảm giác tội lỗi khôn nguôi vừa bóp chết vừa nuôi dưỡng trí tưởng tượng của người họa sĩ như thế nào mà.”

“Ông không trách cứ tôi vì đã giết tay tiểu họa ngu ngốc đó, đúng không?”

“Những gì thu hút chúng ta vào việc sáng tác, minh họa và vẽ tranh gắn liền với nỗi sợ bị báo thù này. Không phải chỉ vì tiền và đặc ân mà chúng ta bò lê trước tác phẩm của chúng ta từ sáng đến tối, tiếp tục bên ánh nến thâu đêm cho đến khi bị mù và hy sinh bản thân cho những bức tranh và sách, ấy còn là để thoát khỏi chuyện tầm phào của kẻ khác, để thoát khỏi đám đông, nhưng ngược với đam mê sáng tạo này, chúng ta cũng muốn những người mà chúng ta từ bỏ thấy được và đánh giá cao những bức tranh đầy cảm hứng mà chúng ta tạo ra - và liệu họ có cần phải gọi chúng ta là những kẻ tội lỗi không? Ôi, đau đớn thay cho nhà minh họa tài năng thực sự! Nhưng hội họa đích thực thì ẩn trong nỗi đau khổ mà không ai thấy và không ai tạo ra. Nó nằm trong bức tranh, mà thoạt nhìn lần đầu họ sẽ cho là xấu, khiếm khuyết, bất kính hay dị giáo. Một họa sĩ đích thực biết anh ta phải đạt đến chỗ đó, nhưng đồng thời anh ta lại sợ sự cô độc vốn đang chờ đợi anh ta ở đó. Ai sẽ tán thành một kiếp sống căng thẳng, đầy đe dọa như thế? Bằng việc tự trách mình trước khi bị người khác trách, người nghệ sĩ tin anh ta sẽ thoát khỏi những gì anh ta đã sợ hãi trong nhiều năm. Những người khác chỉ lắng nghe và tin anh ta khi anh ta thừa nhận tội lỗi của mình, mà rồi vì nó anh ta sẽ bị kết án hỏa thiêu trong Địa ngục - chính nhà minh họa xứ Isfahan đã châm ngọn lửa hỏa ngục đó.”

“Nhưng ông không phải là một nhà tiểu họa,” anh ta nói. “Tôi không giết anh ta vì sợ.”

“Anh đã giết anh ta vì anh muốn vẽ như anh muốn, mà không sợ hãi.”

Lần đầu tiên trong một thời gian dài, nhà tiểu họa, người khao khát trở thành kẻ giết tôi, nói một điều hết sức thông minh: “Tôi biết ông đang giải thích mọi chuyện này để làm tôi phân tâm, để đánh lừa tôi, để gỡ ông ra khỏi tình huống này,” Và anh ta nói thêm: “nhưng điều ông vừa nói là sự thật. Tôi muốn ông hiểu và lắng nghe tôi.”

Tôi nhìn vào mắt anh ta. Anh ta đã hoàn toàn quên nghi thức quen thuộc giữa chúng tôi khi anh ta nói: Anh ta đã bị ý tưởng của chính mình cuốn đi. Nhưng tới đâu?

“Đừng bao giờ sợ, tôi sẽ không xúc phạm đến danh dự của ông,” anh ta nói. Anh ta bật cười cay đắng khi vòng ra đằng trước, đối diện tôi. “Ngay cả bây giờ,” anh ta nói, “khi tôi đang làm chuyện này, thì tôi cũng không có vẻ là tôi nữa. Như thể có điều gì dằn vặt trong tôi ép tôi tuân theo ý đồ xấu xa của nó. Tuy nhiên tôi vẫn cần điều đó. Với việc vẽ tranh cũng vậy.”

“Đó là chuyện kể của các bà già về Quỷ sứ.”

“Vậy ông cho là tôi nói dối hả?”

Anh ta không có đủ can đảm để giết tôi, vì vậy anh ta muốn tôi chọc giận anh ta. “Không, anh không nói dối, nhưng anh cũng không thừa nhận điều anh cảm thấy.”

“Tôi thừa nhận những gì tôi cảm thấy. Tôi chịu đựng những giày vò của cái chết mà không chết. Vô tình chúng tôi ngập cổ trong tội lỗi vì ông, thế mà bây giờ ông đang thuyết giáo ‘hãy can đảm hơn’. Ông chính là người biến tôi thành kẻ sát nhân. Bọn tay chân hung ác của Nusret Hoja sẽ giết tất cả chúng ta.”

Càng mất tự tin, anh ta càng cao giọng và càng siết chặt bình mực trong tay hơn. Liệu có ai đi ngang qua trên con đường đầy tuyết này nghe được tiếng la của anh ta và bước vào nhà không?

“Anh đã giết anh ta như thế nào?” Tôi hỏi, để kéo dài thời gian hơn là vì tò mò. “Làm sao các anh tình cờ gặp nhau ngay miệng giếng đó?”

“Cái đêm Zarif Kính mến rời nhà ông, anh ta đến chỗ tôi,” anh ta nói, với một khao khát thú nhận bất ngờ. “Anh ta nói anh ta đã thấy bức tranh tờ đôi cuối cùng đó, tôi cố hết sức thuyết phục anh ta đừng làm lớn chuyện. Tôi kéo anh ta đi tới khu bị hỏa hoạn tàn phá. Tôi bảo anh ta tôi có chôn tiền cạnh một cái giếng. Nghe tôi nói vậy, anh ta tin ngay... Còn có chứng cứ nào tốt hơn cho việc nhà minh họa chỉ bị lòng tham thúc đẩy nữa không? Đó cũng là một lý do khác khiến tôi không hề thấy hối tiếc. Anh ta là một nghệ sĩ tài năng nhưng tầm thường. Tên ngốc tham lam đó sẵn sàng lấy móng tay đào lớp đất cứng kia. Ông biết đó, nếu tôi thực sự có chôn vàng cạnh cái giếng thì tôi đã không giết anh ta. Phải, ông đã thuê một tên đê tiện khốn nạn làm việc mạ vàng cho ông. Kẻ quá cố đó khéo thì có khéo, nhưng việc chọn lựa màu sắc và cách ứng dụng của anh ta thì bình thường và những trang trí của anh ta thì thiếu cảm hứng. Tôi không để lại dấu vết... Vậy, cho tôi biết, cốt tủy của ‘phong cách’ là gì? Ngày nay cả người Trung Hoa lẫn Tây vực đều nói về tính cách trong tài năng của một người họa sĩ, thứ mà họ gọi là ‘phong cách’. Phong cách có phân biệt được một nghệ sĩ tài hoa với những người khác hay không?”

“Đừng sợ,” tôi nói, “phong cách mới không xuất phát từ ước muốn riêng của nhà tiểu họa. Một ông hoàng qua đời, một vương hầu thua trận, một thời đại có vẻ trường tồn muôn thuở lại chấm dứt, một họa xưởng bị đóng cửa và các thành viên của nó giải tán, tìm kiếm mái ấm khác và những người yêu quý sách khác để làm người bảo trợ cho họ. Một ngày nào đó, một vị vua giàu lòng trắc ẩn sẽ tập hợp những kẻ lưu lạc này, những nhà tiểu họa và thư pháp tha phương hoang mang nhưng đầy tài năng này trong lều hoặc lâu đài của ông và bắt đầu thành lập xưởng làm sách nghệ thuật của riêng ông. Thậm chí dù những nghệ sĩ này, vốn không quen biết nhau, ban đầu vẫn tiếp tục theo những phong cách vẽ tranh riêng của họ, thì qua thời gian, giống như trẻ con dần trở thành bạn bè qua việc đùa giỡn trên đường phố, họ sẽ cãi nhau, chơi lại với nhau, đánh nhau rồi lại dàn hòa. Sự ra đời của một phong cách mới là kết quả của những năm tháng bất đồng, đố kỵ, kình địch và nghiên cứu về màu sắc và cách vẽ. Nói chung, thành viên tài hoa nhất của xưởng sẽ là cha đẻ của hình thức này. Cứ gọi anh ta là người may mắn nhất. Những nhà tiểu họa còn lại chỉ có nhiệm vụ hoàn thiện và trau chuốt phong cách này qua việc bắt chước không ngừng.

Không thể nhìn thẳng vào mắt tôi, anh ta đột nhiên có vẻ hòa nhã, và cầu xin lòng trắc ẩn cũng như sự trung thực của tôi, anh ta hỏi tôi, run rẩy như một trinh nữ:

“Tôi có phong cách riêng của tôi không?”

Tôi nghĩ mình sẽ khóc. Với tất cả sự dịu dàng, đồng cảm và ân cần mà tôi có thể tập trung, tôi vội vàng nói với anh ta điều tôi tin là chân lý:

“Anh là họa sĩ có thần hứng và tài năng nhất với phong cách mê hoặc và con mắt tinh tường đến từng chi tiết nhất mà ta từng gặp được trong suốt sáu mươi năm qua. Nếu anh đặt một bức tranh trước mặt ta, người đã từng thấy tác phẩm kết hợp của hàng ngàn nhà tiểu họa, ta vẫn có thể nhận ra ngay lập tức vẻ tráng lệ thiên phú từ ngòi bút của anh.”

“Đồng ý, nhưng tôi biết ông không đủ thông minh để hiểu sự huyền bí trong tài năng của tôi”, anh ta nói. “Lúc này ông đang nói dối, bởi vì ông sợ tôi. Hãy mô tả một lần nữa đặc điểm trong những phương pháp của tôi.”

“Ngòi bút của anh có vẻ tự nó chọn ra đường nét đúng, cứ như không cần anh xen vào. Những gì ngòi bút anh vẽ không chân thật mà cũng không phù phiếm! Khi anh vẽ chân dung một đám đông người, sự căng thẳng hiện ra từ cái nhìn giữa các nhân vật, việc sắp xếp bọn họ trên trang giấy và ý nghĩa của bài văn biến thành một tiếng thì thầm tao nhã muôn thuở. Ta xem đi xem lại các tranh của anh nhiều lần để nghe tiếng thì thầm đó, và mỗi lần ta lại mỉm cười nhận ra rằng ý nghĩa đó đã thay đổi, và ta biết nói thế nào đây, ta bắt đầu hiểu bức tranh lần nữa. Khi những tầng ý nghĩa này được kết hợp lại với nhau, một độ sâu thẳm hiện lên thậm chí vượt hẳn luật phối cảnh của những bậc thầy châu Âu.”

“Đẹp và hay. Hãy quên những bậc thầy châu Âu đi. Hãy khởi sự từ đầu.”

“Anh có một đường nét cuốn hút và thực sự tuyệt vời đến độ người xem tranh tin vào những gì anh vẽ hơn là vào chính thực tế. Và bởi vì tài năng của anh có thể tạo ra một bức tranh buộc kẻ sùng đạo nhất phải từ bỏ niềm tin của mình, nên nó cũng có thể đưa một kẻ vô thần cứng đầu và ngoan cố nhất đi theo con đường của Allah.”

“Đúng, nhưng tôi không chắc rốt cuộc nó lại là một lời tán dương. Nói lại đi.”

“Không một nhà tiểu họa nào biết được độ đặc nhuyễn của thuốc màu và những bí mật của nó bằng anh. Anh luôn luôn chuẩn bị và sử dụng những màu thật nhất, rực rỡ nhất, tỏa sáng nhất.”

“Phải, còn gì khác nữa?”

“Anh biết anh là họa sĩ vĩ đại nhất sau Bihzad và Mir Seyyid Ali.”

“Phải, tôi biết rõ điều này. Nếu ông cũng biết vậy, sao ông làm cuốn sách này với tay Siyah Kính mến tầm thường đó?”

“Trước tiên, công việc anh ta làm không đòi hỏi kỹ năng của một nhà tiểu họa,” tôi nói. “Sau nữa không như anh, anh ta không phải là kẻ sát nhân.”

Anh ta cười một cách duyên dáng trước lời nói đùa của tôi. Thấy thế, tôi nghĩ mình có thể thoát khỏi cơn ác mộng này nhờ một cách diễn đạt mới - thuật ngữ “phong cách” này. Khi tôi khơi mở đề tài, chúng tôi bắt đầu một cuộc thảo luận thú vị liên quan đến cái bình mực Mông Cổ bằng đồng anh ta đang cầm, không như cha với con trai, mà như hai ông già từng trải và tò mò. Trọng lượng của đồng, sự cân đối của cái bình mực, độ sâu của cổ bình, độ dài của những cây bút sậy thư pháp xưa và những điều huyền bí của mực đỏ, độ đậm nhuyễn của nó mà anh ta có thể cảm thấy trong khi vung vẩy nhẹ nhàng bình mực trước mặt tôi... Chúng tôi đồng ý rằng nếu người Mông Cổ không mang những bí mật về thuốc màu đỏ - điều mà họ học được từ những bậc thầy Trung Hoa - đến Khorasan, Bukhara và Herat, thì chúng tôi ở Istanbul đã hoàn toàn không thể làm ra những bức tranh này. Trong khi chúng tôi nói, độ đặc nhuyễn của thời gian, giống như độ đặc nhuyễn của thuốc màu, có vẻ thay đổi, chảy nhanh hơn. Trong tận cùng thâm tâm, tôi đang tự hỏi sao chưa có ai về đến nhà. Giá mà anh ta đặt cái vật thể nặng nề đó xuống.

Với sự thoải mái thường lệ quen thuộc của chúng tôi, anh ta hỏi, “Khi cuốn sách của ông hoàn tất, những ai thấy tác phẩm của tôi có đánh giá cao khả năng của tôi không?”

“Nếu, theo ý Thượng đế, chúng ta có thể hoàn tất cuốn sách này mà không bị gián đoạn gì, dĩ nhiên là Đức vua sẽ xem qua nó, kiểm tra trước xem chúng ta có sử dụng đủ hết những miếng vàng lá ở những chỗ thích hợp không. Sau đó, như đọc một bản mô tả về chính Ngài, như bất cứ vị vua nào khác sẽ làm, Ngài sẽ nhìn bức chân dung của Ngài, bị ấn tượng bởi hình ảnh đó giống hệt Ngài hơn là bởi những bức tranh minh họa lộng lẫy của chúng ta; sau đó, nếu Ngài dành thì giờ để xem xét cái phong cảnh mà chúng ta đã khó nhọc và tận tụy tạo ra bằng cái giá là thị lực của chính chúng ta thì càng hay. Anh, cũng như tôi, đều biết rằng trừ phi có phép màu, Ngài sẽ cất kỹ cuốn sách trong kho báu mà thậm chí không hỏi xem ai đã làm cái khung hay những bức minh họa dát vàng, ai vẽ người này hay con ngựa kia - và giống như mọi nghệ nhân tài hoa khác, chúng ta sẽ trở lại với việc vẽ tranh, luôn hy vọng rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ được đền đáp xứng đáng.”

Chúng tôi im lặng hồi lâu, như thể đang chờ đợi một điều gì đó.

“Khi nào ta mới được đền đáp như thế?”, anh ta hỏi. “Khi nào những bức tranh chúng ta đã làm cho đến khi mắt không còn nhìn thấy nữa thực sự được đánh giá cao? Khi nào người ta sẽ cho tôi, cho chúng ta sự tôn trọng mà chúng ta đáng được hưởng?”

“Không bao giờ!”

“Sao lại thế?”

“Họ sẽ không bao giờ cho anh những gì anh muốn,” tôi nói. “Trong tương lai, thậm chí anh còn ít được đánh giá cao hơn.”

“Sách tồn tại qua nhiều thế kỷ mà,” anh ta nói một cách tự hào nhưng không tự tin.

“Tin ta đi, không một bậc thầy Venice nào có được sự nhạy cảm nên thơ, niềm tin, sự mẫn cảm của anh, sự thuần khiết và rực rỡ trong màu sắc của anh, nhưng tranh của họ hấp dẫn hơn bởi chúng giống cuộc sống thực hơn. Họ không vẽ thế giới này như được thấy từ ban công của một ngọn tháp mà bỏ qua những gì họ gọi là luật phối cảnh; họ vẽ những gì trông thấy được ở trên đường phố, hoặc từ bên trong căn phòng của một ông hoàng, ghi lại chiếc giường ngủ, tấm mền bông, bàn làm việc, gương soi của ông ta, con cọp, nàng con gái và những đồng tiền vàng của ông ta. Họ ghi nhận tất cả, như anh biết đó. Ta không tin vào mọi thứ họ làm. Việc cố mô phỏng thế giới một cách trực tiếp thông qua hội họa với ta có vẻ đáng hổ thẹn. Ta phẫn nộ về việc đó. Song, những bức tranh họ làm theo phương pháp mới đó có sức cám dỗ không thể chối bỏ. Họ vẽ những gì mắt ta thấy đúng như con mắt nhìn thấy nó. Thực sự thì họ vẽ những gì họ thấy, trong khi chúng ta vẽ những gì chúng ta nhìn. Ngắm tác phẩm của họ, người ta dần nhận ra rằng cách duy nhất để làm sống mãi một khuôn mặt là thông qua phong cách Tây vực. Và không chỉ dân Venice mới chấp nhận khái niệm này, mà mọi thợ may, đồ tể, binh lính, thầy tu và chủ tiệm tạp hóa trên mọi miền đất Tây vực đều như thế... Tất cả họ đều được vẽ chân dung theo cách này. Chỉ cần nhìn vào những bức tranh đó là anh cũng sẽ muốn thấy chính mình theo cách đó, anh sẽ muốn tin rằng anh khác với mọi người, một con người cá biệt, đặc thù, độc nhất. Vẽ con người không như trí não ta mường tượng họ mà như ta thực sự thấy họ bằng con mắt phàm trần, vẽ theo phương pháp mới này cho phép ta đạt được khả năng đó. Một ngày nào đó mọi người sẽ vẽ như họ. Khi đề cập đến ‘hội họa’, cả thế giới sẽ nghĩ đến tác phẩm của họ! Ngay cả một thợ may ngốc nghếch nghèo khổ vốn chẳng hiểu gì về hội họa cũng sẽ muốn một bức chân dung như thế, để khi thấy đường cong độc đáo của mũi anh ta, anh ta có thể vững tin rằng anh ta không phải một tên ngốc bình thường, mà là một kẻ khác thường.”

“Vậy hả? Chúng ta cũng có thể làm được chân dung kiểu đó”, kẻ sát nhân hóm hỉnh châm biếm.

“Chúng ta không làm”, tôi đáp. “Anh không học được từ nạn nhân của anh, Zarif Kính mến quá cố đó, rằng chúng ta sợ hãi đến thế nào khi bị cho là những kẻ bắt chước bọn Tây vực sao? Ngay cả nếu chúng ta dám cả gan vẽ giống họ, thì cũng đi đến kết cục như vậy. Cuối cùng thì những phương pháp của chúng ta rồi cũng sẽ thất truyền, màu sắc của chúng ta sẽ phai nhạt. Không ai còn quan tâm đến sách và những bức tranh của chúng ta, và những ai có quan tâm sẽ hỏi với nụ cười khẩy, không chút hiểu biết gì, rằng tại sao không có luật phối cảnh - có khi họ còn không thể tìm ra bản thảo nào nữa không chừng. Sự thờ ơ, thời gian và tai họa sẽ hủy hoại nghệ thuật của chúng ta. Keo dán của người Ả Rập dùng để dán bìa sách có chứa cá, mật ong và xương, các trang thì được phết keo và đánh bóng bằng hợp chất làm từ lòng trắng trứng trộn với hồ. Lũ chuột tham lam và trơ tráo sẽ nhấm những trang này, lũ mối mọt và hàng ngàn thứ côn trùng khác sẽ gặm nhấm sạch những bản thảo của chúng ta. Bìa sẽ bung ra và các trang sẽ sút rời. Phụ nữ nhóm bếp lò, lũ trộm cắp, bọn đầy tớ thờ ơ và trẻ em sẽ thản nhiên xé toạc các trang sách và hình vẽ. Các hoàng tử nhỏ tuổi sẽ dùng bút đồ chơi vẽ bậy lên những tranh minh họa. Chúng sẽ bôi đen mắt người, quẹt chiếc mũi thò lò của chúng lên trang giấy, dùng mực đen vẽ bậy lên lề. Và những chức sắc kiểm duyệt của giáo hội sẽ bôi đen những gì còn lại. Họ sẽ xé và cắt tranh của chúng ta, có thể dùng chúng để làm ra những bức tranh khác hoặc dùng cho các trò chơi và trò tiêu khiển như thế. Trong khi những bà mẹ tiêu hủy những bức tranh mà họ cho là khiêu dâm, những ông bố và những ông anh lớn tuổi sẽ thủ dâm trên những bức tranh phụ nữ và các trang sẽ dính vào nhau, không chỉ vì chuyện này mà còn vì chúng bị dính bùn, nước, thứ hồ tồi, nước bọt và các thứ chất bẩn khác cùng thức ăn. Những đốm nấm và bụi sẽ nở rộ như hoa ở chỗ các trang bị dính vào nhau. Mưa, mái nhà dột, những trận lụt và bụi đất sẽ phá hủy sách của chúng ta. Dĩ nhiên, cùng với những trang rách tả tơi, phai màu không thể đọc được nữa, mà nước, hơi ẩm, bọn nhậy và sự thờ ơ sẽ biến chúng thành bột giấy, pho sách cuối cùng còn nguyên vẹn, như một phép màu, xuất hiện ở đáy một cái rương còn khô mà một ngày nào đó cũng sẽ biến mất, bị nuốt trong ngọn lửa tàn nhẫn. Có vùng nào ở Istanbul không bị cháy rụi ít nhất một lần trong hai mươi năm để chúng ta hy vọng một cuốn sách như thế sẽ tồn tại không? Trong thành phố này, nơi mà cứ ba năm một lần có nhiều sách và thư viện biến mất hơn sách và thư viện mà người Mông Cổ đã đốt và cướp bóc ở Baghdad, người họa sĩ nào có thể hình dung rằng kiệt tác của anh ta có thể tồn tại hơn một thế kỷ, hay một ngày nào đó người ta có thể thấy được những bức tranh của anh ta, và anh ta được sùng kính giống như Bihzad? Không chỉ có nghệ thuật riêng của chúng ta, mà mọi tác phẩm riêng lẻ trên thế giới qua năm tháng đều sẽ biến mất trong lửa, bị mối mọt gặm nhấm hoặc bị thất lạc bởi sự thờ ơ: Shirin tự hào nhìn Husrev từ cửa sổ; Husrev rình Shirin tắm dưới ánh trăng; những đôi tình nhân nhìn nhau với sự duyên dáng và tinh tế; Rustem vật con quỷ trắng đến chết dưới đáy giếng; tâm trạng khổ não của chàng Mejnun thất tình kết bạn với một con cọp trắng và một con sơn dương trong sa mạc; một con chó chăn cừu phản phúc bị bắt và treo cổ vì đêm nào cũng nộp một con cừu trong đàn của nó cho con sói cái để được phủ con này; hoa, thiên thần, chồi lá và giọt nước mắt viền những tranh minh họa; những người chơi đàn luýt tô điểm cho những bài thơ thần bí của Hafiz; những hình trang trí trên tường đã hủy hoại đôi mắt của hàng ngàn, không, hàng chục ngàn thợ tiểu họa học việc; những tấm bảng mỏng treo trên cửa hoặc tường; những cặp thơ đối được viết kín đáo giữa những đường viền của tranh minh họa; những chữ ký khiêm tốn được giấu ở chân tường, trong góc, trong những phần trang trí mặt tiền nhà, dưới lòng bàn chân, bên dưới những bụi cây và giữa những tảng đá; những chiếc chăn thêu hoa đắp lên các cặp tình nhân; những chiếc đầu của bọn ngoại giáo bị cắt lìa kiên nhẫn chờ đợi ông nội quá cố của Đức vua khi ông ta diễu hành trong chiến thắng trên pháo đài của kẻ thù; đại bác, súng và lều mà ngay từ hồi trẻ anh đã góp công minh họa và xuất hiện ở hậu cảnh vẽ cảnh bọn sứ thần ngoại giáo hôn chân ông nội vĩ đại của Đức vua; bọn quỷ sứ, có sừng hay không sừng, có đuôi hay không đuôi, với răng nhọn và móng vuốt nhọn, hàng ngàn loài chim khác nhau kể cả chim đầu rìu của Salomon, chim én nhảy nhót, chim cưu và chim họa mi đang hót; những con mèo bình thản và những con chó nhộn nhạo; những đám mây trôi nhanh; những lá cỏ nhỏ xíu duyên dáng được vẽ đi vẽ lại trong hàng ngàn bức tranh; những chiếc bóng vụng về vắt ngang những tảng đá và hàng chục ngàn cây bách, cây tiêu huyền và cây lựu mà lá của chúng được vẽ từng chiếc một với sự kiên nhẫn của Ayyub ([46]) những lâu đài - và hàng trăm ngàn viên gạch của nó - vốn rập theo những lâu đài từ thời Tamerlane hay Shah Tahmasp nhưng đi cùng những câu chuyện từ những thời đại trước đó rất lâu; hàng chục ngàn ông hoàng u sầu đang lắng nghe những phụ nữ đẹp và các cậu bé ngồi chơi nhạc trên những tấm thảm lộng lẫy trên cánh đồng hoa và dưới hàng cây trổ bông; những bức tranh kỳ lạ trên gốm và thảm có được sự hoàn hảo của chúng nhờ hàng ngàn thợ minh họa học việc từ Samarkand đến Istanbul bị đánh đến chảy nước mắt suốt một trăm năm mươi năm qua; những khu vườn siêu phàm và những con diều đen bay vút mà anh vẫn vẽ với nhiệt tình cũ của anh, những cảnh kinh hoàng về chết chóc và chiến tranh của anh, những vị vua hào hoa đang săn bắn của anh, và với chính sự khéo léo đó, những chú linh dương lồng lên bỏ chạy của anh, những vương hầu hấp hối của anh, những tù nhân chiến tranh của anh, những chiếc thuyền buồm của bọn ngoại giáo và những thành phố thù địch, những đêm tối đen loang loáng chập chờn như thể bóng đêm chảy ra từ ngòi bút, những vì sao, những cây bách giống như ma của anh, những bức tranh về tình yêu và cái chết nhuốm màu đỏ của anh, và tất cả những gì còn lại của anh, tất cả rồi sẽ biến mất...”

Giơ chiếc bình mực lên, anh ta dùng hết sức bình sinh giáng xuống đầu tôi.

Tôi ngã bổ về phía trước dưới sức mạnh của cú đánh. Tôi thấy đau dữ dội đến độ thậm chí không bao giờ hy vọng có thể tả được. Cả thế giới bị cơn đau của tôi bao phủ và nhạt dần sang màu vàng. Phần lớn ý nghĩ của tôi cho rằng cuộc tấn công này là cố ý; nhưng, cùng với cú đánh - hoặc có lẽ vì nó - một phần do dự khác trong ý nghĩ của tôi, để bày tỏ thiện chí một cách đau buồn, lại muốn nói với tên điên vốn đang khao khát trở thành kẻ sát hại tôi: “Hãy thương ta, anh tấn công ta thì thật sai lầm.”

Anh ta giơ bình mực lên lần nữa và giáng xuống đầu tôi.

Lần này, cả phần do dự trong đầu tôi cũng hiểu rằng đây không phải là một nhầm lẫn, mà là sự điên loạn và giận dữ có thể đưa tôi đến cái chết. Tôi quá khiếp hãi trước diễn biến của sự việc đến độ tôi bắt đầu cao giọng, rú lên với tất cả sức lực và đau đớn. Màu của tiếng rú này có thể là màu xanh đồng, và trong cõi đen ngòm của buổi tối trên những con đường vắng vẻ, không ai có thể nghe được màu sắc của nó; tôi biết tôi chỉ có một mình.

Anh ta giật mình bởi tiếng gào của tôi và do dự. Phút giây đó chúng tôi đối mặt nhau. Qua con ngươi của anh ta tôi có thể thấy rằng, bất chấp sự kinh hoàng và bối rối, anh ta sẵn sàng chấp nhận điều anh ta đang làm. Anh ta không còn là nhà tiểu họa tài hoa tôi từng biết, mà là một kẻ bệnh hoạn, hoàn toàn xa lạ không cùng ngôn ngữ với tôi, và cảm giác này kéo dài trạng thái cô lập nhất thời của tôi thành nhiều thế kỷ. Tôi muốn nắm tay anh ta, như để ôm lấy cả thế giới này; điều đó không ích lợi gì. Tôi van xin, hay nghĩ là tôi đã làm thế: “Con trai, con trai yêu quý, làm ơn đừng giết ta.” Như thể trong cơn mơ, anh ta có vẻ không nghe thấy.

Anh ta lại giáng bình mực xuống đầu tôi lần nữa.

Những ý nghĩ của tôi, những gì tôi thấy, ký ức tôi, mắt tôi, tất cả hợp lại với nhau, trở thành nỗi sợ hãi. Tôi không thể thấy màu nào và nhận ra tất cả các màu đã trở thành màu đỏ. Điều tôi nghĩ là máu của tôi là mực đỏ, cái mà tôi cho là mực trên tay anh ta chính là máu tôi đang chảy. Tôi nhận thấy thật là bất công, độc ác và tàn nhẫn biết bao khi phải chết ngay lúc đó. Nhưng đó là kết luận mà đầu óc già nua và đẫm máu của tôi chậm chạp rút ra được. Rồi tôi thấy nó. Những hồi ức của tôi là màu trắng ảm đang giống như tuyết bên ngoài. Tim tôi đau buốt khi nó đập mạnh như thể ngay trong miệng tôi.

Giờ tôi sẽ mô tả cái chết của tôi. Có lẽ các vị đã hiểu điều này từ lâu: Cái chết không phải là sự kết thúc, điều này là chắc chắn. Tuy nhiên, như nó được miêu tả đầy trong sách vở, cái chết là điều gì đau đớn ngoài khả năng thấu hiểu. Như thể không chỉ cái sọ và bộ óc bị đập bể của tôi mà tổng bộ phận của tôi, hợp nhất với nhau, đang cháy và quằn quại vì đau đớn. Chịu đựng cơn đau vô hạn này thật quá khó đến độ một phần trong ý thức của tôi phản ứng lại - như thể đây là chọn lựa duy nhất của nó - bằng cách quên đi nỗi thống khổ này và tìm một giấc ngủ nhẹ nhàng.

Trước khi chết, tôi nhớ lại truyền thuyết Assyria mà tôi nghe khi còn thanh niên. Một ông già, sống một mình, rời khỏi giường lúc nửa đêm và uống một ly nước. Ông đặt ly lên đầu bàn và phát hiện ra cây nến ở đó đã biến đâu mất. Nó đi đâu? Một vệt ánh sáng mỏng manh phát ra từ bên trong. Ông theo ánh sáng đó, lần trở lại phòng ngủ của mình và phát hiện có ai đó đang cầm cây nến mà nằm trên giường ông. “Ông là ai?” ông ta hỏi. “Ta là Thần chết,” người lạ đáp. Ông già choáng váng trước sự im lặng bí ẩn này. Rồi ông ta nói, “Vậy là ông đã đến.” “Phải,” Thần chết ngạo mạn đáp. “Không,” ông già nói một cách dứt khoát, ông chỉ là giấc mơ dang dở của tôi.” Ông già bất ngờ thổi tắt cây nến trên tay người lạ và mọi thứ biến mất trong bóng đêm. Ông già bước lên chiếc giường trống trơn của mình, ngủ và sống thêm hai mươi năm nữa. Tôi biết đây không phải là số phận của tôi. Anh ta nện bình mực xuống đầu tôi lần nữa.

Tôi đang trong trạng thái đau đớn cùng cực đến độ tôi chỉ có thể mơ hồ cảm nhận được sự va chạm này. Anh ta, bình mực và căn phòng được soi sáng một cách yếu ớt bằng ánh nến đã bắt đầu tàn lụi.

Nhưng, tôi vẫn còn sống. Nỗi khao khát của tôi muốn bám víu vào thế giới này, bỏ chạy và thoát khỏi anh ta, việc tôi vung hai bàn tay và cánh tay cố che lấy mặt và cái đầu đầy máu, cái cách tôi cắn cổ tay anh ta, chắc vậy, và bình mực đập vào mặt tôi, tất cả khiến tôi ý thức được mình còn sống.

Chúng tôi vật lộn một hồi, nếu có thể gọi vậy. Anh ta rất mạnh và hết sức kích động. Anh ta vật tôi nằm ngửa ra. Tì hai gối lên vai tôi, anh ta đè chặt tôi sát đất, trong khi say sưa nói bằng giọng đầy khinh thường, hằn học với tôi, một ông già đang hấp hối. Có lẽ vì tôi không thể hiểu mà cũng không thể lắng nghe anh ta, có lẽ vì tôi không thích nhìn vào đôi mắt đỏ ngầu của anh ta, nên anh ta đánh vào đầu tôi một cái nữa. Khuôn mặt và thân thể anh ta trở nên đỏ chói do mực trong bình văng tung toé, mà tôi cho rằng do cả máu của tôi.

Đau buồn bởi điều cuối cùng tôi thấy trên cõi đời này lại là kẻ sẽ trở thành kẻ thù của tôi, tôi nhắm mắt lại. Ngay sau đó, tôi thấy một ánh sáng dịu nhẹ, ánh sáng này ngọt ngào và quyến rũ như giấc ngủ mà tôi nghĩ nó sẽ giải thoát ngay tức khắc mọi đau đớn của tôi. Tôi thấy một bóng dáng trong ánh sáng đó và như một đứa trẻ, tôi hỏi, “Ông là ai?”

“Chính ta đây, Azrael, Thiên sứ của Thần chết”, ông ta nói. “Ta là kẻ kết thúc hành trình của con người ở thế gian này. Ta là người chia cách trẻ con khỏi mẹ, vợ khỏi chồng, những tình nhân khỏi vòng tay nhau và những người cha khỏi con gái họ. Không ai trên cõi đời này tránh gặp ta được.”

Khi tôi hiểu rằng cái chết là không thể tránh khỏi, tôi khóc.

Nước mắt tôi khiến tôi khát ghê gớm. Một mặt là nỗi đau đến mụ người vì khuôn mặt và đôi mắt tôi đẫm máu; mặt khác nó là nơi sự điên cuồng và tàn bạo chấm dứt, nhưng nơi đó thật lạ lẫm và kinh khủng. Tôi biết nó là cõi rực rỡ ấy. Xứ của Người chết, nơi Azrael vẫy gọi tôi đến, và tôi thấy sợ. Dù vậy, tôi biết mình không thể nán lại cái thế giới đang khiến tôi phải quằn quại và kêu gào vì đau đớn này thêm nữa. Trên vùng đất đầy đau khổ dằn vặt khủng khiếp này không có chỗ cho tôi tìm kiếm sự an ủi. Nếu ở lại, tôi phải chấp nhận sự đau đớn quá sức chịu đựng này và điều đó là không thể đối với tình cảnh già nua của tôi.

Ngay trước khi chết tôi thực sự khao khát được chết, và đồng thời tôi hiểu ra câu trả lời cho câu hỏi mà tôi đã dành cả đời suy ngẫm, câu trả lời tôi không thể tìm thấy trong sách vở: Làm thế nào mà mọi người, không trừ ai, đều chết được? Đó chính xác là do nỗi khao khát đơn giản được chết. Tôi cũng hiểu rằng cái chết sẽ khiến tôi trở thành một kẻ khôn ngoan hơn.

Tuy nhiên lòng tôi vẫn đầy nỗi do dự của một người sắp bước vào một cuộc hành trình dài và không thể ngăn mình nhìn một lần cuối căn phòng của mình, tài sản của mình, ngôi nhà của mình. Trong nỗi hoảng loạn, tôi ước ao được thấy mặt con gái tôi lần cuối. Tôi mong muốn điều này đến độ tôi sẵn sàng nghiến chặt răng một hồi lâu nữa mà chịu đựng cơn đau cùng cơn khát ngày càng tăng, những mong Shekure trở về.

Vì vậy, ánh sáng dịu nhẹ và chết chóc trước mặt tôi nhạt đi ít nhiều, đầu óc tôi đón nhận những âm thanh và tiếng động của cái thế giới nơi tôi đang nằm hấp hối. Tôi có thể nghe tên giết người đi quanh phòng, mở tủ, lục tung các tờ giấy cố tìm cho được bức tranh cuối cùng. Khi hắn không kiếm được gì, tôi nghe tiếng hắn cạy tung thùng thuốc màu của tôi và đá mấy cái rương, hộp, lọ mực, cái bàn làm việc. Tôi có cảm giác rằng thỉnh thoảng tôi lại cất tiếng rên, và vặn vẹo bằng đôi tay già nua cùng đôi chân mệt mỏi. Và tôi chờ đợi.

Cơn đau của tôi không dịu đi chút nào. Tôi dần dần lịm đi và không còn cắn chặt răng được nữa, nhưng một lần nữa, tôi cố gắng chờ đợi.

Rồi tôi chợt nghĩ, nếu Shekure về nhà, con bé sẽ chạm trán tên giết người man rợ này. Thậm chí tôi không muốn nghĩ về điều này nữa. Ngay lúc đó, tôi có cảm giác tên giết người đã ra khỏi phòng. Chắc hắn đã tìm thấy bức tranh cuối cùng.

Tôi thấy khát nước dữ dội nhưng vẫn chờ. Đến ngay đi, con gái cưng, Shekure yêu quý, đến đi.

Con bé không đến.

Tôi không còn sức để chịu đựng cơn đau. Tôi biết mình sẽ chết mà không thấy mặt con bé. Điều này quá cay đắng đến độ tôi muốn chết vì đau đớn. Sau đó, một khuôn mặt tôi chưa từng thấy xuất hiện bên trái tôi, và luôn giữ nụ cười, ông ta tử tế đưa tôi một ly nước.

Quên mọi thứ khác, tôi tham lam với lấy ly nước.

Ông ta kéo ly nước về. “Hãy vạch mặt Tiên tri Muhammad là một kẻ nói dối,” ông ta nói. “Hãy phủ nhận tất cả những gì ông ta đã nói.”

Đó là Satan. Tôi không trả lời, thậm chí tôi không hề sợ hắn. Vì tôi chưa từng tin rằng hội họa đã đi đến chỗ bị hắn lừa đảo, tôi vững tin chờ đợi. Tôi mơ về một chuyến hành trình bất tận đang chờ tôi và mơ về tương lai của tôi.

Trong khi đó, khi vị thiên thần rục rỡ, người tôi vừa mới thấy đến gần tôi, Satan biến mất. Một phần trong tôi hiểu rằng vị thiên sứ rực sáng khiến Satan phải bỏ đi đó là Azrael. Nhưng một phần nổi loạn khác trong đầu tôi nhớ rằng trong Kitab al-Qiyamah có viết Azrael là một thiên sứ có hàng ngàn đôi cánh trùm cả Đông và Tây và có thể nắm cả thế giới này trong tay.

Khi tôi càng lúc càng bối rối, vị thiên sứ giữa ánh sáng tiến đến gần như để giúp tôi, và đúng vậy, như Gazzali đã ghi trong Jawahir al-Qur’an wa dararuh ([47]), thiên sứ nói dịu dàng:

“Hãy mở miệng ra để linh hồn con được ra đi.”

“Miệng con chưa từng phát ra điều gì ngoài bài kinh besmele,” tôi trả lời Người.

Tuy nhiên đây chỉ là cái cớ cuối cùng, tôi biết mình không thể cầm cự được nữa, rằng thời điểm của tôi đã đến. Trong giây lát tôi thấy bối rối khi phải để lại thân thể xấu xí nhuốm máu của mình trong tình trạng khốn khổ này cho con gái, kẻ mà tôi sẽ không bao giờ gặp lại. Nhưng tôi muốn rời bỏ thế giới này, rũ bỏ nó giống như cởi một chiếc áo chật chội thít chặt lấy tôi.

Tôi mở miệng và đột nhiên tất cả trở thành màu sắc như trong những bức tranh về chuyến hành trình Miraj ([48]) của đấng Tiên tri của chúng ta, trong chuyến đi đó Người đã viếng Thiên đàng. Mọi thứ chìm trong vẻ sáng chói rực rỡ như được tô tràn với một nước sơn bằng vàng. Những giọt lệ đau đớn chảy ra từ mắt tôi. Hơi thở căng thẳng từ phổi tuôn ra khỏi miệng tôi. Tất cả bao trùm trong sự im lặng lạ thường.

Bây giờ tôi có thể thấy linh hồn rời khỏi thân xác tôi và tôi nằm gọn trong lòng bàn tay của Azrael. Linh hồn tôi, bằng cỡ con ong, được tắm trong ánh sáng, nó run lên khi rời khỏi thân xác tôi và tiếp tục run rẩy giống thủy ngân trong lòng bàn tay Azrael. Ý nghĩ tôi không hướng về thế giới này, mà hướng về một cõi mới mẻ xa lạ mà tôi vừa được bước vào.

Sau nhiều đau đớn như thế, sự bình yên trùm lên tôi. Cái chết không gây đau đớn như tôi vẫn sợ, trái lại, tôi nhẹ nhõm, nhanh chóng nhận ra rằng tình cảnh hiện tại của tôi là vĩnh viễn, còn những ràng buộc tôi cảm thấy trong cuộc sống chỉ là nhất thời. Từ giờ trở đi nó sẽ cứ như thế, hết thế kỷ này đến thế kỷ khác, cho đến tận cùng của vũ trụ. Điều này không làm tôi giận dữ hay sung sướng. Những biến cố tôi từng chịu đựng một cách nhanh chóng và liên tiếp giờ đây trải khắp không gian bao la và tồn tại đồng thời. Giống như trong một bức tranh tờ đôi lớn, ở đó một nhà tiểu họa thông minh đã vẽ một số điều không liên quan với nhau ở mỗi góc - nhiều thứ đang xảy ra cùng một lúc.

CHƯƠNG 30
TÔI, SHEKURE

Tuyết rơi dữ quá đến nỗi thỉnh thoảng những bông tuyết bay xuyên qua tấm mạng đâm thẳng vào mắt tôi. Tôi thận trọng đi qua khu vườn đầy cỏ mục, bùn và nhánh cây gẫy, sau đó rảo bước khi ra đến ngoài đường. Tôi biết tất cả các bạn đang tự hỏi tôi đang nghĩ gì. Tôi tin Siyah đến mức nào? Vậy hãy để tôi nói thật với bạn. Chính tôi cũng không biết mình đang nghĩ gì. Bạn hiểu mà, đúng không? Tôi bối rối. Tuy nhiên, tôi biết rõ đến chừng này: Như thường lệ tôi sẽ đắm mình vào công việc thường lệ như cơm nước, con cái, cha tôi và những việc lặt vặt khác, và ngay sau đó trái tim tôi, thậm chí không cần hỏi, sẽ tự động thì thầm sự thật với tôi. Ngày mai, trước buổi trưa, tôi sẽ biết mình nên cưới ai.

Tôi muốn chia sẻ một điều gì đó với bạn trước khi về đến nhà. Thôi đi! Lúc này tôi không muốn nói về kích cỡ của cái vật xấu xí mà Siyah đã cho tôi xem. Nếu bạn muốn, chúng ta có thể nói về nó sau. Điều tôi sắp bàn là sự hấp tấp của Siyah. Anh ấy không có vẻ chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn lòng ham muốn của mình. Thực tình mà nói, nếu anh ấy có muốn thì cũng không quan trọng. Điều làm tôi ngạc nhiên là sự ngốc nghếch của anh ấy! Tôi cho rằng anh ấy chưa từng nghĩ đến chuyện anh ấy có thể hăm dọa tôi và bắt cóc tôi, làm nhục tôi rồi tống khứ tôi đi, hoặc tạo cơ hội cho những hậu quả thậm chí còn nguy hiểm hơn. Qua vẻ ngây thơ của anh ấy tôi có thể thấy anh ấy rất yêu và thèm khát tôi. Nhưng sau mười hai năm chờ đợi, tại sao anh ấy không thể chơi cuộc chơi theo luật của nó và chờ mười hai ngày nữa?

Bạn có biết tôi có linh cảm không hay rằng mình đã yêu sự kém cỏi và cái nhìn trẻ con u sầu của anh ấy không? Có lúc, lẽ ra nên bực bội, tôi lại thấy thương hại anh ấy. “Ôi cậu bé tội nghiệp của tôi,” một giọng bên trong tôi nói, “anh đã chịu sự dằn vặt như thế mà vẫn hoàn toàn kém cỏi.” Tôi cảm thấy muốn che chở anh ấy đến độ có thể tôi đã phạm một sai lầm, có lẽ tôi đã thực sụ đắm đuối với chàng trai nhỏ bé hư hỏng đó.

Nghĩ đến những đứa con bất hạnh của tôi, tôi rảo bước.

Ngay khi đó, trong bóng tối vừa buông và trong tuyết trắng xóa, hình như có một bóng người chạy ngang qua chỗ tôi. Hụp đầu xuống, tôi lướt qua ông ta.

Khi bước qua cổng sân, tôi biết rằng Hayriye và bọn trẻ vẫn chưa về. Vậy là tốt, tôi đã về đúng lúc, chưa đến giờ cầu kinh tối.

Tôi leo lên cầu thang, ngôi nhà có mùi mứt cam. Cha tôi đang ở trong căn phòng tối có cánh cửa xanh da trời của ông; bàn chân tôi tê cóng. Tôi cầm cây đèn bước vào phòng mình ở mé phải cầu thang, và khi thấy của tủ bị mở toang, nệm gối rơi vương vãi và căn phòng bị lục tung, tôi nghĩ đó là trò nghịch phá của Shevket với Orhan. Có một sự im lặng trong nhà, không khác thường gì, nhưng không giống sự im lặng thường lệ. Tôi thay bộ đồ mặc trong nhà rồi ngồi một mình trong bóng tối, và khi chìm đắm trong mộng tưởng thoáng qua, đầu óc tôi ghi nhận có tiếng động phát ra từ bên dưới, ngay bên dưới tôi, không phải từ nhà bếp mà từ căn phòng lớn cạnh chuồng ngựa vốn vẫn được dùng làm xưởng vẽ trong mùa hè. Cha tôi xuống đó giữa trời lạnh thế này sao? Tôi nhớ mình không thấy có ánh đèn dầu ở đó; bất ngờ tôi nghe tiếng cửa trước kêu cọt kẹt trong khoảng từ lối đi lát đá ra tới sân, và sau đó, tiếng sủa mang điềm gở và khó chịu của lũ chó chạy quàng qua cổng - tôi cảm thấy lo sợ, tạm cho là thế.

“Hayriye,” tôi kêu lên, “Shevket, Orhan...” Tôi cảm thấy một cơn gió lạnh. Thùng than sưởi của cha tôi hẳn phải đang cháy; tôi phải ngồi với ông để sưởi ấm. Khi tôi đi đến phòng ông, giơ cao ngọn đèn dầu, ý nghĩ của tôi không còn hướng tới Siyah nữa, mà về bọn trẻ.

Tôi băng xéo qua tiền sảnh rộng, tự hỏi liệu có nên đặt nồi nước ở lò sưởi dưới nhà để chuẩn bị làm món xúp cá đối không.

Tôi bước vào căn phòng có cánh cửa màu xanh da trời. Mọi thứ bừa bộn. Không nghĩ gì, tôi vừa định nói, “Cha mình làm gì nãy giờ vậy?”

Rồi tôi thấy ông dưới sàn.

Tôi rú lên, tràn ngập kinh hoàng. Rồi tôi rú tiếp. Nhìn chăm chăm xác cha mình, tôi câm bặt.

Qua phản ứng lạnh lùng và đôi môi mím chặt của bạn tôi có thể nói rằng bạn biết những gì đã xảy ra trong căn phòng này. Nếu không biết được tất cả thì cũng biết khá nhiều. Điều bạn đang muốn biết là phản ứng của tôi trước những gì tôi vừa thấy và tôi có cảm nghĩ gì. Như các độc giả thỉnh thoảng vẫn làm khi ngắm một bức tranh, bạn đang cố hiểu nỗi đau của nhân vật chính và nghĩ về những sự kiện dẫn đến phút giây đau đớn này. Và rồi, sau khi xem xét phản ứng của tôi, bạn sẽ muốn thử hình dung không phải nỗi đau của tôi mà là những gì bạn sẽ cảm thấy nếu bạn là tôi, nếu cha bạn bị giết giống như vầy. Tôi biết bạn đang cố làm như thế.

Phải, buổi tối tôi trở về nhà thì phát hiện ra ai đó đã giết cha mình. Phải, tôi đã bứt tóc. Phải, như tôi vẫn làm khi còn nhỏ, tôi ôm ông thật chặt và hít ngửi da thịt ông. Phải, tôi run và không thở được. Phải, tôi cầu xin Allah dựng ông dậy và cho ông ngồi im lặng trong góc giữa mớ sách vở của ông như mọi khi. Dậy đi, cha ơi, dậy đi, đừng chết. Cái đầu đầy máu của ông bị giập nát.

Không phải việc giấy và sách bị xé, không phải việc những cái bàn nhỏ, những thùng thuốc màu và lọ mực bị đập vỡ và quăng bừa bãi, không phải việc những tấm nệm bị xé nát, bàn làm việc và bàn viết bị đập tan hoang, không phải việc kẻ nào đó đã lục soát kỹ lưỡng khắp nơi, thậm chí cũng không phải nỗi giận dữ đã giết chết cha tôi, mà điều tôi sợ nhất là sự căm hờn đã hủy hoại căn phòng và mọi thứ trong đó. Tôi không còn khóc nữa. Có một cặp tình nhân đi ngang ngoài đường, nói cười trong bóng tối; trong khi đó tôi có thể nghe sự im lặng vô tận của thế giới trong đầu tôi; tôi đưa hai tay lên chùi mũi và nước mắt. Một hồi lâu rất lâu tôi nghĩ tới bọn trẻ và cuộc sống của chúng tôi.

Tôi lắng nghe sự im lặng. Tôi chạy lại, nắm lấy cổ chân cha tôi và kéo ông ra hành lang. Không hiểu sao ở ngoài đó ông nặng hơn, nhưng tôi bắt đầu kéo ông xuống thang mà không chú ý đến chuyện này. Được nửa đường, tôi thấm mệt và ngồi xuống bậc thang. Tôi chực khóc nữa thì nghe có tiếng động khiến tôi nghĩ rằng Hayriye và bọn trẻ đã về, tôi nắm lấy cổ chân cha tôi kẹp vào nách rồi tôi tiếp tục đi xuống, lần này nhanh hơn. Đầu cha tôi bị giập nát và đầy máu đến độ cứ kêu lụp bụp khi va vào mỗi bậc thang. Đến chân cầu thang, tôi lật xác ông lại, giờ nó có vẻ nhẹ hơn, và, cố hết sức, tôi kéo ông qua sàn nhà lát đá, đưa ông vào xưởng vẽ mùa hè. Để thấy rõ căn phòng tối đen này, tôi vội bước trở ra lò trong bếp. Khi quay lại cầm theo cây nến, tôi thấy cả căn phòng tôi vừa kéo cha tôi vào đã bị lục lọi cùng khắp như thế nào. Tôi chết lặng.

Ai đã làm vậy, thần thánh ơi, ai trong số họ?

Đầu óc tôi quay cuồng. Đóng chặt cửa lại, tôi để cha tôi trong căn phòng bị phá tung đó. Tôi vớ lấy cái xô trong bếp, múc đầy nước từ cái giếng. Tôi leo lên những bậc thang, và dưới ánh đèn dầu, tôi nhanh tay chùi sạch máu trong hành lang, trên cầu thang và mọi nơi khác. Tôi trở ngược lên lầu đến phòng tôi, cởi bộ đồ dính máu rồi mặc quần áo sạch vào. Mang theo xô và giẻ, tôi định bước vào căn phòng có cửa màu xanh da trời thì nghe cổng sân trước nhà bật mở. Lệnh báo cầu kinh tối vang lên. Tôi tập trung toàn bộ sức lực cầm cây đèn dầu trên tay, tôi chờ họ ở đầu cầu thang.

“Mẹ ơi tụi con về rồi nè,” Orhan nói.

“Hayriye! Chị đi đâu vậy!” Tôi nói gay gắt, nhưng cứ như tôi đang thì thào, chú không phải quát lên.

“Nhưng mẹ, tụi con đâu đi quá giờ cầu kinh tối đâu...” Shevret nói.

“Im nào! Ông ngoại bệnh, ông đang ngủ.”

“Bệnh hả?” Hayriye nói từ dưới nhà.

Qua sự im lặng của tôi, cô ta biết rằng tôi đang giận dữ: “Shekure, tụi tôi đợi Kosta. Ngay khi người ta chở cá đối đến, tụi tôi lo nhặt bỏ mấy lá nguyệt quế liền, rồi tôi đi mua trái vả với anh đào khô cho bọn trẻ.”

Tôi rất muốn xuống nhà thì thầm la rầy Hayriye, nhưng tôi sợ rằng khi mình xuống cầu thang, ngọn đèn trên tay tôi sẽ chỉ rõ những bậc thang ướt nhẹp và những giọt máu tôi bỏ sót chưa lau trong lúc vội vã. Bọn trẻ chạy ầm lên cầu thang và cởi giày ra.

“Này, này,” tôi la. Lùa chúng về phía phòng ngủ của chúng tôi, tôi nói: “Không đi đường đó, ông ngoại đang ngủ, không được vô.”

“Con sẽ vào phòng có cửa màu xanh, để ngồi cạnh thùng than sưởi.” Shevret nói, “không vào phòng ông ngoại đâu.”

“Ông ngoại ngủ trong phòng đó,” tôi thì thào.

Nhưng tôi nhận thấy chúng do dự một lát. “Để bảo đảm những âm hồn đang ám ông ngoại và làm cho ông bệnh không tấn công cả hai đứa,” tôi nói. “Tụi con phải lên phòng mình đi.” Tôi nắm tay hai đứa dắt vào phòng ngủ của ba mẹ con tôi. “Giờ nói cho mẹ biết tụi con đã làm gì ngoài đường tới giờ này vậy”, “Tụi con thấy mấy người ăn mày da đen, Shevret nói.” “Ở đâu?” tôi hỏi, “họ mang theo cờ hả?”, “Khi tụi con leo lên dốc, họ cho Hayriye một quả chanh. Hayriye cho họ ít tiền. Người họ đầy tuyết.” “Còn gì nữa?”, “Họ đang tập bắn tên vào bia ở quảng trường.”, “Giữa trời tuyết này à?” tôi nói. “Mẹ ơi con lạnh,” Shevret nói. “Con muốn vô phòng có cửa xanh.”, “Con không được ra khỏi phòng này,” tôi nói. “Nếu không con sẽ chết. Mẹ sẽ đem thùng than sưởi vào cho con.” “Sao mẹ nói tụi con sẽ chết?” Shevret nói. “Mẹ sẽ nói với các con một chuyện,” tôi nói, “nhưng các con không được nói với ai khác. Hiểu không?” “Chúng thề không nói.” “Trong khi tụi con ra ngoài, có một người trắng toát đã chết từ lâu và bạc hết màu từ một xứ sở xa xôi đã đến đây nói chuyện với ông ngoại. Hóa ra đó là một âm hồn.” Chúng hỏi tôi âm hồn đó từ đâu tới. “Từ bên kia sông.” tôi nói. “Chỗ ba đang ở hả?” Shevret hỏi. “Ừ, chỗ đó,” tôi nói. “Âm hồn đó tới để xem mấy bức tranh trong sách của ông ngoại. Người ta nói rằng kẻ nào có tội nhìn vào những bức tranh đó thì sẽ chết tức thì.” Im lặng.

“Nghe này, mẹ sẽ xuống nhà với Hayriye,” tôi nói. “Mẹ sẽ mang thùng sưởi lên đây, cả bữa ăn tối nữa. Đừng ra khỏi phòng, nếu không tụi con sẽ chết. Âm hồn đó vẫn còn trong nhà mình.” “Mẹ ơi, mẹ đừng đi,” Orhan nói.

Tôi quay sang Shervet. “Con phải trông chừng em,” tôi nói. “Nếu con ra khỏi phòng mà âm hồn không bắt con đi thì chính mẹ sẽ giết con.” Tôi làm vẻ mặt đe dọa giống như lúc sắp phát vào mông chúng. “Bây giờ thì hãy cầu nguyện cho ông ngoại đang bệnh đừng chết. Nếu con ngoan, Thượng đế sẽ nghe lời cầu nguyện của con và không ai làm hại con được.”

Không nói thêm gì nữa, chúng bắt đầu cầu nguyện. Tôi đi xuống nhà.

“Có người làm đổ lọ mứt cam,” Hayriye nói. “Con mèo thì không làm được, nó đâu mạnh dữ vậy, còn chó thì đâu có vô nhà được...”

Cô ta bất ngờ thấy vẻ kinh hoàng trên mặt tôi và nín lặng. “Có chuyện gì vậy,” cô ta hỏi, “Chuyện gì xảy ra vậy? Cha cô gặp chuyện gì phải không?”

“Ông chết rồi.”

Cô ta hét lên. Con dao và củ hành cô ta đang cầm rơi xuống đụng vào tấm thớt mạnh đến độ con cá giãy đành đạch. Cô hét lên lần nữa. Cả hai chúng tôi đều nhận thấy có máu trên bàn tay trái của cô, không phải máu của con cá, mà từ ngón trỏ của cô vì lỡ để dao cứa phải. Tôi chạy lên lầu, và trong khi đang tìm một miếng vải trong phòng đối diện với phòng bọn trẻ đang ở, tôi nghe những tiếng động và tiếng la của chúng. Cầm miếng vải vừa xé tôi bước vào phòng thì thấy Shevket đang cưỡi lên em nó, gối đè Ohran sát đất. Nó đang bóp cổ em.

“Hai đứa làm trò gì vậy!” tôi hét to hết cỡ.

“Orhan định ra khỏi phòng,” Shevket nói.

“Nói láo,” Orhan nói. “Shevket mở cửa và con bảo anh ấy không được đi.” Nó bắt đầu khóc.

“Nếu tụi con không ngồi im ở đây, mẹ sẽ giết cả hai đứa.”

“Mẹ ơi đừng đi,” Orhan khóc.

Xuống nhà, tôi băng ngón tay cho Hayriye, cầm được máu. Khi tôi nói với cô ta rằng cha tôi không chết một cách tự nhiên, cô ta càng sợ hãi và đọc to những bài kinh cầu Allah che chở. Cô ta nhìn ngón tay bị đứt của mình mà khóc. Tình yêu dành cho cha tôi đủ lớn để cô ta khóc như mưa như gió vậy ư? Cô ta muốn lên lầu nhìn xác ông.

“Ông không có trên lầu,” tôi nói. “Ông ở trong căn phòng phía sau.”

Cô ta nhìn tôi đầy nghi ngờ. Nhưng khi cô ta nhận ra tôi không thể chịu nổi việc nhìn ông lần nữa, cô hết sức tò mò. Cô cầm lấy cây đèn và bỏ đi. Cô bước bốn năm bước vượt qua lối vào nhà bếp nơi tôi đang đứng, rồi một cách tôn trọng và lo lắng, cô từ từ đẩy cánh cửa phòng, và qua ánh sáng của ngọn đèn đang cầm, cô nhìn vào trong. Thoạt tiên không nhìn thấy cha tôi, cô giơ cây đèn cao hơn, cố rọi sáng mọi góc của căn phòng hình chữ nhật to.

“Aaa”, cô ta rú lên. Cô đã thấy cha tôi nơi tôi để ông ngay cạnh cửa. Cô nhìn ông chằm chằm. Bóng cô bất động hắt lên sàn nhà và tường chuồng ngựa. Trong khi cô nhìn, tôi hình dung những gì cô đang thấy. Khi trở ra, cô không khóc. Tôi nhẹ người khi thấy rằng cô có đủ thông minh để nắm bắt hoàn toàn những gì tôi chuẩn bị kể cho cô.

“Bây giờ nghe tôi, Hayriye.” tôi nói. Khi tôi nói, tay tôi vung vẩy con dao làm cá mà tôi bất giác chộp lấy. “Trên lầu cũng bị lục soát; chính con quỷ đáng nguyền rủa này đã hủy hoại mọi thứ, hắn đã xáo tung mọi thứ. Đó là nơi hắn đã đập vỡ mặt và đầu cha tôi; đó là nơi hắn đã giết ông. Tôi mang ông xuống đây để bọn trẻ không thấy và như thế tôi có dịp để báo cho chị hay. Sau khi ba người đi, tôi cũng đi. Cha tôi ở nhà một mình.”

“Tôi không biết chuyện đó,” cô ta nói một cách hỗn xược.“Cô đi đâu?

Tôi muốn cô ta chú ý kỹ sự im lặng của tôi. Rồi tôi nói, “Tôi đi với Siyah. Tôi gặp Siyah ở nhà Người Do Thái bị treo cổ. Nhưng chị không được hé một lời nào với ai về chuyện này. Mà trong lúc này, chị cũng không được nói rằng cha tôi bị giết.”

“Ai giết ông ấy vậy?”

Cô ta là một kẻ ngốc như thế, hay cô ta đang cố dồn tôi vào chân tường?

“Nếu tôi biết, tôi sẽ không giấu việc ông đã chết,” tôi nói. “Tôi không biết. Chị biết không?”

“Làm sao tôi biết được?” cô ta nói. “Bây giờ mình làm gì đây?

“Chị sẽ làm như không có chuyện gì xảy ra,” tôi nói. Tôi cảm thấy thèm được khóc to lên, nhưng tôi ghìm mình lại. Cả hai chúng tôi im lặng.

Một lúc lâu sau, tôi nói, “Dẹp con cá đi, làm cơm cho bọn trẻ.”

Cô phản đối và bắt đầu khóc, tôi liền ôm cô. Chúng tôi ôm nhau thật chặt. Giờ tôi thấy thương cô, nhất thời thấy thương hại, không chỉ thương hại chính tôi và bọn trẻ, mà tất cả chúng tôi. Nhưng ngay cả khi chúng tôi ôm nhau, một con sâu nghi ngờ cũng bắt đầu gặm nhấm tôi. Bạn biết tôi đang ở đâu khi cha tôi bị giết. Để tiến hành kế hoạch của mình, tôi đã tìm cách cho Hayriye và bọn trẻ ra khỏi nhà. Bạn biết rằng việc để cha tôi một mình trong nhà là một sự trùng hợp ngẫu nhiên ngoài dự kiến... Nhưng Hayriye có biết không? Cô ấy có hiểu những gì tôi đã giải thích với cô ấy, cô ấy sẽ hiểu chứ? Thực tế cô ấy sẽ nhanh chóng hiểu ra và nảy sinh nghi ngờ. Tôi ôm cô ấy chặt hơn; nhưng tôi biết rằng với đầu óc của một cô gái nô lệ, cô ta cho rằng tôi đã làm vậy để che giấu những mưu đồ của tôi, và ngay khi đó thậm chí tôi có cảm giác như mình đang lừa dối cô ấy. Trong khi cha tôi đang bị giết ở đây, tôi và Siyah còn bận làm tình. Nếu chỉ có mình Hayriye biết điều này, tôi sẽ không cảm thấy mình có tội đến thế, nhưng tôi ngờ rằng bạn cũng nghĩ vậy. Vì vậy, hãy thừa nhận nó, bạn tin rằng tôi đang giấu giếm một điều gì đó. Ôi, người đàn bà đáng thương! Số phận của tôi còn tối tăm đến đâu nữa? Tôi bắt đầu khóc, rồi Hayriye khóc, và chúng tôi lại ôm nhau.

Tôi giả vờ như thỏa mãn cơn đói tại bàn ăn chúng tôi dọn trên lầu. Thỉnh thoảng, lấy cớ “xem chừng ông ngoại,” tôi bước vào một phòng khác và khóc như mưa. Sau đó, bọn trẻ bám chặt lấy tôi trên giường vì sợ hãi và lo lắng. Một hồi lâu chúng vẫn không ngủ được vì sợ các âm hồn, và khi trở mình chúng cứ hỏi, “Con nghe có tiếng động, mẹ có nghe không?” Để dỗ chúng ngủ, tôi hứa kể cho chúng nghe một câu chuyện tình. Bạn biết lời nói bay bổng như thế nào trong đêm tối mà.

“Mẹ ơi mẹ sẽ không lấy chồng nữa, đúng không?” Shevket hỏi.

‘Nghe này,” tôi nói. “Ở xa lắm có một ông hoàng yêu một cô gái đẹp tuyệt trần. Tại sao chuyện này xảy ra? Để mẹ kể các con nghe. Trước khi thấy cô gái, ông ta đã thấy bức tranh vẽ cô ấy, vậy đó.”

Như tôi thường làm khi lo lắng và bối rối, tôi kể câu chuyện không theo ký ức mà tự bịa ra theo điều tôi cảm nhận lúc đó. Và bởi tôi tô màu nó bằng cách sử dụng một bảng màu của những ký ức và những lo lắng của riêng tôi, nên những gì tôi kể lại trở thành một kiểu tranh minh họa u sầu đi liền với những gì đã xảy ra cho tôi.

Sau khi cả hai đứa đã ngủ, tôi rời chiếc giường ấm và cùng Hayriye dọn sạch những gì con ác quỷ xấu xa đó đã bày ra khắp nhà. Chúng tôi nhặt nhạnh những chiếc rương bị phá, sách vở, quần áo, tách sứ, những chiếc bình đất nung, đĩa, bình mực bị ném ngổn ngang và vỡ khắp nơi; chúng tôi dọn dẹp chiếc bàn làm việc bừa bộn, những hộp màu và giấy bị xé nát với tất cả sự căm hờn và trong khi thu dọn, một trong hai đứa chúng tôi chốc chốc lại ngừng tay mà sụp xuống khóc. Có vẻ như chúng tôi quẫn trí trước sự đổ nát của các căn phòng cùng những vật dụng trong đó và sự xâm phạm thô bạo chốn riêng tư của chúng tôi nhiều hơn là trước cái chết của cha tôi. Qua kinh nghiệm, tôi có thể nói với bạn, những kẻ bất hạnh bị mất đi những người thân yêu thường thấy được an ủi bởi sự hiện diện của những vật dụng không thay đổi trong nhà; họ được xoa dịu bởi sự nguyên vẹn như cũ của những bức màn chăn mền và ánh sáng ban ngày, chúng giúp họ thỉnh thoảng tạm quên đi rằng Azrael đã mang người thân hoặc bà con của họ đi.

Ngôi nhà mà cha tôi đã chăm sóc với sự kiên nhẫn và tình thương, trang trí tỉ mỉ mọi ngóc ngách và cửa nẻo đã bị phá hoại một cách tàn nhẫn; vì vậy chúng tôi không chỉ mất đi những ký ức vui vẻ và thoải mái mà còn phải nhớ đến sự tàn bạo của linh hồn chết tiệt của tên tội phạm, và chúng tôi còn thấy khiếp hãi nữa.

Chẳng hạn như khi, do tôi nhất quyết, chúng tôi xuống nhà, kéo nước sạch từ giếng lên, tắm rửa và đọc to chương Aal-e- Imran - mà người cha mệnh vong của tôi nói ông rất thích bởi vì nó đề cập đến hy vọng và cái chết - trong cuốn kinh Koran yêu thích nhất của ông được đóng ở Herat, chúng tôi bị nỗi kinh hoàng này tác động và cứ sợ rằng cánh cổng bắt đầu kêu cót két. Chẳng có gì. Nhưng sau khi kiểm tra cho chắc rằng chốt cửa đã khóa, rồi cùng khiêng chậu cây húng quế mà cha tôi vẫn tưới bằng nước giếng vào những sáng mùa xuân để chặn cổng, chúng tôi lại bước vào nhà trong đêm khuya thanh vắng, và bất chợt những chiếc bóng của chúng tôi kéo dài dưới ánh đèn dầu có vẻ như của người khác vậy. Nỗi sợ hãi nhất trong tất cả các nỗi sợ là nỗi kinh hoàng trùm lên chúng tôi giống như một hành động kính trọng im lặng, khi chúng tôi nghiêm trang lau rửa khuôn mặt đầy máu của ông và thay quần áo cho ông để tôi có thể tự lừa mình tin rằng cha tôi đã chết vào thời điểm Thượng đế đã định sẵn cho ông; “Luồn tay áo của ông cho tôi,” Hayriye thì thào với tôi.

Khi chúng tôi cởi quần áo và đồ lót đầy máu của ông, điều khiến chúng tôi kinh ngạc và kính sợ là sức sống và màu da trắng của cha tôi được soi sáng dưới ánh nến. Bởi có nhiều điều đe dọa khiến chúng tôi sợ hãi hơn, nên không ai trong chúng tôi ngại ngùng khi nhìn thân thể trần truồng đầy nốt ruồi và vết thương của cha tôi đang nằm giang rộng ở đó. Khi Hayriye lên lầu để lấy đồ lót sạch và chiếc áo lụa ngắn màu xanh lá cây của ông xuống, không kìm được mình, tôi nhìn xuống đó và lập tức thấy xấu hổ vì chuyện mình vừa làm. Sau khi thay quần áo sạch cho cha tôi và cẩn thận lau hết máu trên cổ, mặt và tóc ông, tôi ôm ông thật chặt, vùi mũi vào râu ông, tôi hít lấy mùi của ông và khóc như mưa một hồi.

Đối với những ai buộc tội tôi là thiếu tình cảm, hoặc thậm chí có tội, hãy để tôi nói ngay với bạn rằng có hai lần khác tôi đã òa khóc: 1. Khi tôi dọn dẹp căn phòng trên lầu để bọn trẻ không phát hiện những gì đã xảy ra, tôi đã đưa cái vỏ sò mà ông vẫn dùng để đánh bóng giấy lên tai tôi, như tôi thường làm hồi nhỏ, và thất vọng nhận ra rằng âm thanh của biển đã biến mất. 2. Khi tôi thấy tấm nệm nhung đỏ cha tôi thường ngồi suốt hai mươi năm qua - đến độ nó đã trở thành một phần của mông đít ông - đã bị xé tan.

Khi mọi thứ trong nhà, trừ những hư hại không thể cứu vãn đã được sắp xếp gọn gàng trở lại, tôi kiên quyết từ chối yêu cầu của Hayriye muốn được trải nệm của cô ta trong phòng ngủ của chúng tôi. “Tôi không muốn bọn trẻ nghi ngờ lúc sáng dậy,” tôi giải thích với cô ta. Nhưng thật lòng tôi rất muốn được ở một mình với bọn trẻ như một cách trừng phạt cô ta. Tôi lên giường nhưng mãi lâu sau vẫn không ngủ được, không phải vì tôi bị ám ảnh bởi nỗi kinh hoàng trước những gì xảy ra, mà bởi tôi đang nghĩ đến những gì sắp xảy ra.

CHƯƠNG 31
TÔI LÀ ĐỎ

Tôi xuất hiện ở Ghazni khi nhà thơ Firdusi tác giả Shahnameh hoàn tất dòng cuối cùng của một khổ thơ tứ tuyệt với những vần điệu rắc rối nhất, đánh bại những nhà thơ cung đình của vua Mahmud, những kẻ đã cười nhạo ông chẳng là gì khác hơn một nông dân. Tôi ở đó trong ống tên của nhân vật Rustem trong Shahnameh khi chàng đi khắp nơi truy tìm con ngựa đã mất của chàng; tôi trở thành máu phọt ra khi chàng chém tên khổng lồ độc ác đứt làm hai bằng thanh gươm tuyệt vời của chàng; và tôi nằm trên những nếp gấp của cái mền mà trên đó chàng đã làm tình dữ dội với cô con gái yêu kiều của vị vua đã tiếp đón chàng như một thượng khách. Thật sự thì tôi đã và đang có mặt khắp nơi. Tôi hiện lên khi tên Tur phản bội chém đầu em trai Iraj của hắn ta; khi những đội quân huyền thoại, ngoạn mục như một giấc mơ, giao chiến trên những thảo nguyên; và khi máu của Alexander lấp lánh chảy từ chiếc mũi thanh tú sau khi ông bị cảm nắng. Vâng. Quốc vương Behram Gur đã ngủ mỗi đêm với một người đẹp khác nhau dưới nhiều mái vòm có màu khác nhau ở những vùng đất xa xôi, lắng nghe câu chuyện nàng ta kể, và tôi ở trên quần áo của cô gái hấp dẫn mà ông ta đến thăm vào một ngày thứ Ba, cô gái mà ông yêu ngay khi nhìn thấy chân dung, cũng như tôi xuất hiện trên từ chiếc mũ đến khăn choàng của Husrev, người đã yêu bức tranh vẽ nàng Shirin. Thực sự, tôi hiện rõ trên cờ xí của những đội quân đang bao vây các pháo đài, trên tấm khăn phủ những chiếc bàn chuẩn bị cho bữa tiệc, trên áo choàng nhung của những sứ thần đang hôn chân các vị vua, và ở bất kỳ nơi nào người ta có vẽ thanh gươm, mà truyền thuyết của nó bọn trẻ rất thích. Vâng, những thợ học việc có đôi mắt hình trái hạnh đào đã phết tôi bằng những cây cọ thanh tú lên những tờ giấy dày được làm ở Hindustan và Bukhara; tôi đã tô điểm những tấm thảm Ushak, hoa văn trang trí tường, mào của những chú gà đá, những quả lựu, những trái cây ở các miền đất huyền thoại, miệng của Satan, những nét nhấn tinh tế trong phần viền bức tranh, nét thêu loăn xoăn trên những căn lều, những bông hoa khó nhìn rõ bằng mắt trần được làm vì niềm vui thích riêng của họa sĩ, những chiếc áo cánh trên người các phụ nữ tuyệt trần với chiếc cổ vươn dài nhìn đường phố qua tấm mành hé mở, đôi mắt đỏ tươi của những tượng chim làm bằng đường, đôi vớ của những người chăn cừu, những buổi bình minh được mô tả trong các truyền thuyết và xác chết cùng vết thương của hàng ngàn, không, hàng chục ngàn cặp tình nhân, chiến binh và vua chúa. Tôi thích tham dự vào những cảnh chiến tranh nơi máu loang nở như những đóa hoa anh túc; xuất hiện trên áo choàng của thi sĩ tài giỏi nhất đang lắng nghe nhạc trong một chuyến đi dạo miền quê khi những cậu trai và nhà thơ tuấn tú uống rượu vang; tôi thích trang trí cánh của các thiên thần, đôi môi các thiếu nhi, những vết thương chí mạng của xác chết và những cái đầu bị cắt lìa nhuốm máu.

Tôi nghe câu hỏi trên môi các người: Là một màu nghĩa là gì?

Màu là sự cảm nhận của mắt, âm nhạc đối với người điếc, lời nói từ bóng tối. Bởi vì tôi đã lắng nghe những linh hồn thì thầm - giống như tiếng rì rào của gió - từ cuốn sách này đến cuốn sách khác và vật thể này đến vật thể khác trong hàng chục ngàn năm, nên hãy cho phép tôi nói rằng cảm nhận của tôi giống cảm nhận của các thiên thần. Một phần trong tôi, phần nửa nghiêm túc thu hút tầm quan sát của các người trong khi phần nửa hạnh phúc bay vút cao trong không gian với cái nhìn của các người.

Tôi thật may mắn được là màu đỏ! Tôi bùng cháy. Tôi mạnh mẽ. Tôi biết người ta chú ý đến tôi và người ta không thể cưỡng lại tôi.

Tôi không giấu mình: Với tôi sự mềm mại lộ ra không phải trong sự yếu đuối hay tinh tế, mà qua quyết tâm và ý chí. Vì vậy, tôi lôi kéo sự chú ý về phía mình. Tôi không sợ những màu khác, bóng tối, đám đông hoặc thậm chí cả sự cô đơn. Tuyệt vời làm sao khi được phủ lên bề mặt đang chờ đợi tôi với thực thể bách thắng của chính tôi! Bất cứ nơi nào tôi trải ra, tôi lại thấy những ánh mắt bừng sáng, những nhiệt tình gia tăng, những đôi mày nhướng lên và những nhịp tim đập nhanh. Nhìn xem tuyệt vời làm sao khi được sống! Nhìn xem tuyệt vời làm sao khi được thấy. Nhìn xem: Sống là thấy. Tôi ở khắp nơi. Cuộc sống bắt đầu với tôi và trở lại với tôi. Hãy tin những gì tôi nói với các người.

Hãy im lặng lắng nghe cách tôi phát triển một sắc độ đỏ lộng lẫy như thế nào. Một nhà tiểu họa bậc thầy, một chuyên gia về thuốc màu, dùng chày và cối điên cuồng nghiền nhiều loại bọ cánh cứng đỏ tốt nhất từ vùng khí hậu nóng nhất thuộc Ấn Độ đã phơi khô thành một thứ bột nhuyễn. Anh ta chuẩn bị năm đồng drachma bột đỏ, một drachma cỏ kiềm và nửa drachma phẩm màu. Anh ta đun sôi cỏ kiềm trong một cái nồi chứa ba cân nước. Kế đến anh ta trộn đều phẩm trong nước. Anh ta đun nó sôi trong khoảng thời gian đủ để uống một tách cà phê hảo hạng. Khi anh ta thưởng thức cà phê, tôi càng lúc càng bồn chồn như một đứa trẻ sắp ra đời. Cà phê làm minh mẫn đầu óc bậc thầy đó và cho anh ta đôi mắt của một âm hồn. Anh ta trút bột đỏ vào ấm nước và trộn kỹ hỗn hợp đó bằng một chiếc que mảnh và sạch được dành riêng cho việc này. Tôi đã sẵn sàng để trở thành màu đỏ đích thực. Nhưng độ đậm và nhuyễn của tôi là vấn đề quan trọng nhất: Chất lỏng này không được để cho sôi cạn đi. Anh ta quết đầu que khuấy vào móng tay cái (những ngón tay khác hoàn toàn không chấp nhận được). Ôi tuyệt vời làm sao được là màu đỏ! Tôi duyên dáng sơn móng tay cái đó mà không bị chảy ra hai bên vì độ loãng. Tóm lại, tôi có độ đậm đặc thích hợp, nhưng tôi vẫn còn cặn. Anh ta nhấc nồi xuống và lọc tôi qua một miếng vải the sạch, làm tôi tinh khiết hơn. Kế đến anh ta đun nóng tôi lần nữa, cho tới lúc sủi bọt hai lần nữa. Sau khi thêm một nhúm phèn bột, anh ta để tôi nguội lại.

Vài ngày trôi qua tôi vẫn ở yên đó trong nồi. Với dự trù sẽ được phết lên giấy, được trải khắp nơi và tô lên mọi thứ, thì việc ở yên một chỗ như vậy đã làm tan nát trái tim và linh hồn tôi.

Chính trong thời kỳ im lặng này mà tôi trầm tư về chuyện làm thân phận màu đỏ thì có ý nghĩa gì.

Có lần tại một thành phố Ba Tư, khi tôi được một thợ học việc dùng cọ phết lên phần thêu của miếng vải phủ yên ngựa mà một nhà tiểu họa mù đã vẽ theo ký ức, tôi nghe lỏm được hai thợ cả mù tranh luận:

“Bởi vì chúng ta đã dành cả cuộc đời một cách nhiệt tình và chung thủy để làm công việc của những họa sĩ, đương nhiên, chúng ta, những kẻ hiện đã mù, biết màu đỏ, nhớ nó là màu gì và nó có cảm giác ra sao,” người vẽ con ngựa qua ký ức nói. “Nhưng nếu chúng ta sinh ra đã mù thì sao? Làm sao chúng ta có thể hiểu đúng cái màu đỏ mà tay thợ học việc đẹp trai của chúng ta đang dùng?”

“Một vấn đề rất hay,” người kia nói. “Nhưng đừng quên rằng người ta không biết màu sắc, mà cảm nhận chúng.”

“Ông bạn thân mến, hãy giải thích màu đỏ cho người chưa bao giờ biết màu đỏ đi.”

“Nếu chúng ta sờ nó bằng đầu ngón tay, nó sẽ cho cảm giác về một thứ gì đó giữa sắt với đồng. Nếu chúng ta nắm nó trong lòng bàn tay, nó sẽ cháy. Nếu chúng ta nếm, nó sẽ đậm đà, như thịt muối. Nếu chúng ta ngậm nó giữa hai môi, nó sẽ đầy miệng. Nếu chúng ta ngửi, nó sẽ có mùi ngựa. Nếu nó là một đóa hoa, nó sẽ có mùi hoa cúc trắng, chứ không phải hoa hồng đỏ.”

Cách nay một trăm mười năm ngành nghệ thuật Venice chưa là một đe dọa để các nhà cai trị của chúng ta phải quan tâm và những bậc thầy huyền thoại tin vào những phương pháp của họ một cách nhiệt thành như tin vào Allah, vì vậy họ xem cái cách người Venice sử dụng các sắc độ đỏ khác nhau cho từng vết gươm chém bình thường và thậm chí cho thứ vải bao tải tầm thường nhất là một dạng bất kính và thô lậu hầu như không đáng một tiếng cười khẩy. Chỉ một nhà tiểu họa yếu kém và do dự mới sử dụng những sắc độ đỏ khác nhau để vẽ màu đỏ của một chiếc áo choàng, họ khẳng định - những mảng tối không phải là một lý do. Ngoài ra chúng tôi chỉ tin một màu đỏ duy nhất.

“Ý nghĩa của màu đỏ là gì?” nhà tiểu họa mù đã vẽ con ngựa theo ký ức lại hỏi.

“Ý nghĩa của màu là ở chỗ nó có ở đó trước mặt chúng ta và chúng ta thấy nó,” người kia nói. “Anh không thể giải thích màu đỏ với người không thấy được nó.”

“Để phủ nhận Thượng đế, những kẻ theo Satan vẫn cho rằng Thượng đế không hữu hình đối với chúng ta,” nhà tiểu họa mù đã vẽ con ngựa nói.

“Nhưng, Người hiện ra với những ai có thể nhìn thấy,” người thợ cả kia nói. “Vì lý do này mà kinh Koran phán rằng việc mù và thấy là không như nhau.”

Tay thợ học việc đẹp trai quệt nhẹ tôi lên miếng vải phủ yên ngựa. Cảm giác gắn sự sung mãn, sức mạnh và sinh lực của tôi với màu trắng và đen của một bức tranh minh họa đẹp thật kỳ diệu làm sao: Khi chiếc cọ bằng lông mèo phết tôi lên tờ giấy trải sẵn, tôi nhột nhạt một cách đầy thú vị. Bằng cách đó, tôi mang màu của tôi đến trang giấy, nó tựa như tôi ra lệnh cho thế giới này “Hãy hiện hữu!” Phải, những ai không thể thấy sẽ chối bỏ nó, nhưng sự thật là người ta có thể thấy tôi ở khắp nơi.

CHƯƠNG 32
TÔI, SHEKURE

Trước khi bọn trẻ thức, tôi viết cho Siyah một lá thư ngắn bảo anh đến ngay ngôi nhà Người Do Thái bị treo cổ, rồi ấn nó vào tay Hayriye để cô ta chạy đến chỗ Esther. Khi Hayriye cầm lá thư, cô ta nhìn vào mắt tôi với vẻ can đảm hơn thường lệ dù rất lo ngại những gì sẽ đến với chúng tôi; và tôi, kẻ không còn cha để sợ đã đáp lại cái nhìn của cô ta với một sự mạnh bạo mới mẻ. Sự trao đổi cái nhìn này sẽ quyết định chừng mực quan hệ của chúng tôi trong tương lai. Suốt hai năm qua, tôi đã ngờ rằng Hayriye có thể có con với cha tôi, và sẽ quên đi vị thế nô lệ của cô ta mà luồn lách để trở thành bà chủ của nhà này. Tôi ghé xem người cha bạc mệnh, tôn kính hôn bàn tay giờ đã cứng của ông, mà thật kỳ lạ, vẫn không mất vẻ mềm mại của nó. Tôi giấu giày, khăn xếp và áo choàng màu tía của cha tôi, sau đó giải thích với bọn trẻ khi chúng thức rằng ông ngoại chúng đã khỏe và đã đi đến quận Mustafa Pasha từ sáng sớm.

Hayriye đã trở về. Khi cô ta bày chiếc bàn thấp để dọn bữa điểm tâm và tôi đặt phần mứt cam vào giữa bàn, tôi tưởng tượng lúc này Esther đang gọi cửa nhà Siyah. Tuyết đã ngừng rơi và mặt trời bắt đầu tỏa sáng.

Trong khu vườn của Người Do Thái bị treo cổ, tôi gặp lại khung cảnh quen thuộc. Nhũ băng thòng xuống từ mái hiên và những tấm che cửa sổ đang co lại nhanh chóng, khu vườn đầy mùi ẩm mốc và cỏ mục đang hăm hở hấp thu ánh mặt trời. Tôi thấy Siyah đang đợi ngay chỗ tôi gặp anh lần đầu trong đêm rồi, chuyện ấy có vẻ như cách đây rất lâu, cứ như nhiều tuần đã trôi qua. Tôi giở tấm mạng lên và nói:

“Anh có thể vui mừng, nếu anh cảm thấy thôi thúc. Những phản đối và nghi ngờ của cha em sẽ không chen vào giữa hai ta nữa. Trong khi anh đang xoay xở đặt tay lên người em đêm hôm qua, một tên độc ác đã đột nhập vào ngôi nhà vắng người của chúng em và giết cha em.”

Thay vì tự hỏi về phản ứng của Siyah, chắc hẳn bạn đang thắc mắc tại sao tôi nói năng một cách lạnh lùng và hơi kém thành thực như thế. Chính tôi cũng hoàn toàn không biết câu trả lời. Có lẽ tôi nghĩ nếu không như thế thì tôi sẽ khóc khiến Siyah ôm lấy tôi và tôi sẽ thân mật với anh sớm hơn tôi muốn.

“Hắn đã tàn phá ngôi nhà của em từ trên xuống dưới, cho thấy rõ ràng hắn giận dữ và căm hận. Em không cho là hắn đã làm xong công việc, em cũng không nghĩ tên ác quỷ này sẽ bình tĩnh rút về một xó xỉnh nào đó lúc này. Hắn đã ăn cắp bức tranh cuối cùng. Em yêu cầu anh bảo vệ em - bảo vệ mẹ con em - và giữ cuốn sách của cha em không lọt vào tay hắn. Bây giờ hãy cho em biết, để lo an toàn cho mẹ con em, anh cần hỏa thuận và điều kiện gì? Đây là điều chúng ta phải giải quyết.”

Anh định nói, nhưng tôi bắt anh im bằng một cái nhìn - cứ như tôi đã làm việc này rất nhiều lần trước đây.

“Dưới mắt quan tòa, chồng em và gia đình anh ấy sẽ là người kế tục cha em làm giám hộ cho em. Thậm chí trước khi ông chết thì chuyện đã là vậy, vì theo quan tòa thì chồng em vẫn còn sống. Chỉ bởi Hasan cố tìm cách chiếm đoạt em trong khi vắng mặt anh trai của chú ấy, một cuộc tấn công thất bại khiến cha chồng em bối rối, nên em mới được phép về nhà cha em dù em chưa chính thức là quả phụ. Nhưng bây giờ cha em đã chết và em thậm chí không có một người anh, đương nhiên những người giám hộ hợp lý duy nhất của em là em chồng hoặc cha chồng của em. Họ đã lên kế hoạch bắt em trở về nhà họ, ép buộc cha em, và đe dọa em. Một khi nghe tin cha em chết, họ sẽ không do dự chính thức hành động. Hy vọng duy nhất của em để ngăn cản điều này là giấu cái chết của cha em. Có lẽ vô ích, vì có thể chính họ là người đứng sau tội ác này.”

Ngay lúc đó, một tia sáng mỏng manh xuyên qua những rèm cửa vỡ và chiếu xuống giữa Siyah và tôi, soi sáng lớp bụi thời gian trong căn phòng.

“Đây không phải là lý do duy nhất em giấu cái chết của cha em,” tôi nói, nhìn sâu vào mắt Siyah. Tôi hài lòng khi thấy trong đó sự chú ý hơn là tình yêu. “Em cũng sợ việc không thể chứng minh em ở đâu lúc cha em bị giết. Dù Hayriye là nô lệ và lời nói của cô ta không được coi trọng, nhưng em sợ rằng cô ta có dính vào những mưu đồ này, nếu không phải nhằm vào em thì cũng nhằm vào cuốn sách của cha em. Và chừng nào em chưa có người bảo vệ thì việc thông báo cái chết của cha em, tuy thoạt đầu sẽ làm những vấn đề trong nhà trở nên đơn giản, nhưng chỉ vì những lý do em vừa nêu mà rất có thể sẽ khiến em chịu bất hạnh khủng khiếp vì tay cô ta; chẳng hạn, chuyện gì sẽ xảy ra nếu Hayriye biết cha em không muốn em lấy anh?”

“Cha em không muốn em cưới anh à?” Siyah hỏi.

“Phải, ông không muốn, ông sợ anh sẽ đưa em rời xa ông. Vì không còn nguy cơ là anh sẽ làm một điều tệ hại như thế với ông, nên chúng ta cứ cho rằng người cha bất hạnh của em không còn phản đối nữa. Anh thì có phản đối không?”

“Hoàn toàn không, em yêu.”

“Vậy là tốt rồi. Người giám hộ của em không có quyền đòi hỏi ở anh tiền hay vàng gì cả. Xin hãy thứ lỗi cho sự khuất tất trong tình trạng hôn nhân đáng bàn cãi về phần em, nhưng thật tiếc, em có một số điều kiện tiên quyết mà em phải giải thích với anh.”

Khi tôi im lặng một lát, Siyah nói, “Phải,” theo kiểu như muốn xin lỗi về thái độ ngập ngừng của anh.

“Trước tiên,” tôi bắt đầu, “anh phải thề trước hai nhân chứng rằng nếu anh cư xử không tốt với em trong cuộc hôn nhân của chúng ta, tới một mức độ mà em cho là không thể chấp nhận được hoặc nếu anh lấy vợ lẽ, anh phải chấp thuận cho em ly dị với một khoản tiền cấp dưỡng. Thứ hai, anh phải thề trước hai nhân chứng rằng nếu vì bất cứ lý do gì mà anh vắng mặt ở nhà trong một thời gian hơn sáu tháng mà không một lần về thăm, em cũng sẽ được phép ly dị với một món tiền cấp dưỡng. Thứ ba, sau khi chúng ta cưới nhau, dĩ nhiên anh phải dọn đến ở nhà em; tuy nhiên trước khi kẻ thủ ác đã giết cha em bị bắt hoặc cho đến khi anh tìm ra hắn - em muốn tự tay tra tấn hắn biết bao! - và cho đến khi cuốn sách của Đức vua được hoàn tất nhờ tài năng và nỗ lực của anh dẫn dắt, rồi được dâng lên Ngài một cách đường hoàng, anh sẽ không ngủ chung giường với em. Thứ tư, anh sẽ yêu các con em, chúng ngủ chung giường với em, như chúng là con của chính anh.”

“Anh đồng ý.”

“Tốt. Nếu tất cả những chướng ngại vẫn nằm trước mặt chúng ta biến mất nhanh như thế, chúng ta sẽ sớm cưới nhau.”

“Phải, cưới, nhưng không chung giường.”

“Bước trước tiên là cưới,” tôi nói. “Chúng ta hãy giải quyết chuyện đó trước. Tình yêu đến sau hôn nhân. Đừng quên: hôn nhân dập tắt ngọn lửa tình yêu, chẳng để lại gì ngoài một màu đen u sầu cằn cỗi. Dĩ nhiên, sau hôn nhân chính tình yêu cũng biến mất, nhưng hạnh phúc lấp đầy khoảng trống đó. Vẫn có những kẻ ngốc hấp tấp yêu trước khi cưới, quá cháy bỏng cảm xúc mà làm cạn kiệt tình cảm của họ, bởi họ tin rằng tình yêu là mục tiêu cao nhất trong cuộc sống.”

“Vậy sự thực của vấn đề là gì?”

“Sự thực là cảm giác mãn nguyện. Tình yêu và hôn nhân chỉ là phương tiện để đạt được nó: một người chồng, một ngôi nhà, con cái, một cuốn sách. Anh không thấy rằng thậm chí trong tình trạng của em, với một người chồng mất tích và một người cha vừa qua đời, em còn khá hơn anh trong cảnh cô lập đó sao? Em sẽ chết nếu thiếu các con, em dành cả ngày để cười đùa, vật lộn với chúng và yêu thương chúng. Hơn nữa, vì anh khao khát em ngay cả trong tình trạng khó xử hiện nay của em, vì anh thầm thèm muốn được qua đêm với em, thậm chí dù không ngủ cùng giường mà cùng dưới mái nhà với xác cha em và những đứa con ương bướng của em, anh buộc phải hết sức lắng nghe những gì em muốn nói.”

“Anh đang nghe đây.”

“Có nhiều cách để em đòi được ly dị. Những nhân chứng giả có thể thề rằng trước khi chồng em tham gia chiến dịch, họ đã chứng kiến anh ấy chấp nhận cho em được ly dị có điều kiện; ví dụ, anh ấy đã trịnh trọng thề rằng nếu anh ấy không về trong vòng hai năm, em sẽ được coi như tự do. Hoặc, đơn giản hơn, họ có thể thề rằng họ đã thấy xác chồng em trên chiến trường, viện dẫn những chi tiết cụ thể và đầy thuyết phục khác nhau. Nhưng xét vì xác cha em và những phản đối của nhà bên chồng em, thì dựa vào nhân chứng giả sẽ không hiệu quả, vì không một vị quan tòa thông minh hay thận trọng nào bị thuyết phục theo kiểu đó. Dù chồng em đã bỏ em mà không chu cấp và không trở về sau chiến tranh bốn năm rồi, thì ngay cả những quan tòa theo phái Hanefi của nhà em cũng không thể cho phép em ly dị. Tuy nhiên, quan tòa Uskudar do biết số phụ nữ như em gia tăng ngày một ra sao nên đồng cảm hơn và như thế - với sự chấp thuận của Đức vua và Thượng thư tôn giáo vụ - vị quan tòa này thỉnh thoảng cũng cho phép người ủy quyền theo phái Shafii của ông ta phân xử thay mình, qua đó cho phép những phụ nữ khắp nơi giống em được ly dị, được cả tiền trợ cấp. Bây giờ nếu anh có thể tìm được hai nhân chứng để làm chứng công khai cho tình trạng khó xử của em, trả công cho họ, cùng họ vượt biển Bosphorus sang bên Uskudar, dàn xếp với quan tòa, bảo đảm rằng người được ông ủy quyền sẽ thay ông phân xử để việc ly dị được chấp thuận nhờ các nhân chứng, đăng ký vụ ly dị vào sổ bộ của tòa, xin được giấy chứng nhận cho vụ phán quyết này, xin được giấy phép cho em tái giá lập tức, và nếu anh có thể hoàn tất mọi chuyện đó mà trở về bên này Bosphorus vào buổi chiều, sau đó - giả sử không gặp khó khăn gì trong việc tìm một giáo sĩ có thể làm phép cưới cho chúng ta tối nay - thì sau đó, với tư cách chồng em, anh có thể ở suốt đêm nay với em và các con em. Do đó anh cũng sẽ tránh cho chúng em một đêm không ngủ vì nghe như trong từng tiếng cọt kẹt của ngôi nhà đều có tiếng chân tên giết người tàn ác đó. Hơn nữa, anh sẽ cứu em khỏi tình trạng khốn khổ là một phụ nữ bơ vơ không ai che chở khi thông báo cái chết của cha em vào sáng mai.”

“Được”, Siyah nói với giọng vui vẻ và hơi trẻ con. “Được, anh đồng ý biến em thành của anh.”

Bạn còn nhớ rằng mới lúc nãy thôi tôi đã tuyên bố tôi không biết tại sao mình nói với Siyah một cách thiếu thành thực và lấn lướt như thế. Giờ thì tôi biết: Tôi dần nhận ra rằng chỉ bằng cách sử dụng một giọng điệu như thế tôi mới có thể thuyết phục Siyah - người chưa bỏ được tính ngớ ngẩn thời nhỏ của mình - tin vào khả năng của các sự kiện mà chính tôi cũng khó lòng tin nó sẽ xảy ra.

“Chúng ta có nhiều việc phải làm để chiến đấu với những kẻ thù của chúng ta, những kẻ muốn ngăn cản việc hoàn tất cuốn sách của cha em và những người muốn phản đối vụ ly dị của em và lễ cưới của chúng ta - vốn sẽ được tiến hành tối nay, cầu Thượng đế phù hộ. Nhưng em cho rằng mình không được làm anh rối trí hơn nữa, vì thậm chí anh đã rối trí hơn em nhiều rồi.”

“Em không bối rối chút nào,” Siyah nói.

“Có lẽ, nhưng bởi đây không phải là những ý tưởng của chính em, em học chúng từ cha em qua nhiều năm.” Tôi nói điều này để anh không bỏ qua những gì tôi nói, cho rằng những kế hoạch này xuất phát từ đầu óc phụ nữ của tôi.

Kế đến Siyah nói cái điều tôi vẫn nghe từ bất cứ người đàn ông nào không sợ thừa nhận rằng họ thấy tôi rất thông minh:

“Em rất đẹp.”

“Phải,” tôi nói, “được người khác khen là thông minh thì em thấy dễ chịu. Khi em còn nhỏ cha em thường làm thế.”

Tôi định nói thêm rằng khi tôi đã lớn cha tôi không khen tôi thông minh nữa, nhưng tôi đã bật khóc. Khi khóc, tôi cảm thấy như tôi đã rời bỏ chính mình mà trở thành một người khác, một người đàn bà hoàn toàn tách biệt. Giống như một độc giả nào đó bối rối vì một bức tranh buồn bã trong trang sách, tôi nhìn cuộc đời tôi từ bên ngoài và thương hại những gì tôi thấy. Có gì đó rất ngây thơ khi ta khóc vì những khó khăn của mình, cứ như chúng là của một người khác đến độ khi Siyah ôm tôi, một cảm giác hạnh phúc lan khắp hai chúng tôi. Nhưng lần này, khi chúng tôi ôm nhau, cảm giác dễ chịu này vẫn còn đó giữa chúng tôi, không thể tác động đến những kẻ thù đang vây quanh chúng tôi.

CHƯƠNG 33
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

Trở thành góa phụ, bị bỏ rơi và buồn phiền, Shekure yêu dấu của tôi bỏ đi với những bước chân nhẹ như lông, và tôi đứng như bị choáng trong sự tĩnh lặng của ngôi nhà Người Do Thái bị treo cổ, giữa mùi hoa hạnh đào và những giấc mơ về cuộc hôn nhân mà nàng đã để lại sau gót chân nàng. Tôi bối rối, nhưng đầu óc tôi đang quay cuồng quá nhanh đến độ hầu như làm tôi đau buốt.

Không có lấy một cơ hội để khóc thương thỏa đáng trước cái chết của Enishte của tôi, tôi nhanh chóng quay về nhà. Một mặt con sâu nghi ngờ đang gặm nhấm tôi: Có phải Shekure đang sử dụng tôi như một con tốt trong một âm mưu lớn, hay nàng đang lừa tôi? Mặt khác những tưởng tượng về cuộc hôn nhân đầy hạnh phúc vẫn cứ vờn trước mắt tôi.

Sau khi nói chuyện với bà chủ nhà, người cật vấn tôi ngay cửa trước xem tôi đi đâu và đến đâu vào lúc sáng sớm này, tôi lên phòng lấy hai mươi hai đồng vàng Venice trong lớp vải lót chiếc khăn quàng vai mà tôi giấu dưới nệm, đút vào ví bằng những ngón tay run rẩy. Khi trở ra đường, tôi biết ngay mình sẽ thấy đôi mắt lo âu đầy lệ, đen thẫm của Shekure suốt ngày hôm đó.

Tôi đổi năm đồng tiền vàng Venice ở chỗ người đổi tiền Do Thái lúc nào cũng mỉm cười. Sau đó, chìm trong suy tư, tôi đi vào khu vực có cái tên mà tôi chưa đề cập vì tôi không thích nó: Yakutlar, nơi Enishte quá cố của tôi và Shekure cùng các con nàng chờ tôi tại nhà họ. Khi tôi hầu như chạy trên các con đường, một cây tiêu huyền cao có vẻ trách cứ tôi sao quá vui sướng trước những giấc mơ và kế hoạch về đám cưới vào đúng cái ngày Enishte của tôi qua đời. Kế đến, khi băng đã tan, một vòi nước bên đường rít vào tai tôi: “Đừng quá quan tâm các vấn đề này, hãy lo giải quyết những công việc và niềm hạnh phúc của riêng bạn.” , “Điều đó thật hay, thật tốt,” một con mèo đen mang điềm gở đang liếm lông trong góc phản đối, “nhưng mọi người, kể cả chính anh, đều nghi anh có dính vào vụ giết dượng anh.”

Con mèo ngưng liếm khi bất chợt tôi nhìn vào đôi mắt thôi miên của nó. Tôi không cần phải nói với bạn những con mèo Istanbul này trở nên hỗn láo như thế nào bởi dân địa phương nuông chiều quá mức.

Tôi tìm được Thầy tế Kính mến, với mi mắt sùm sụp và đôi mắt to đen khiến ông ta lúc nào cũng có vẻ buồn ngủ, không phải tại nhà ông ta mà trong sân thánh đường gần đó. Ở đó tôi hỏi ông ta một câu hỏi theo luật pháp thông thường: “Khi nào người ta bị buộc làm chứng tại tòa?” Tôi nhướng mày khi lắng nghe câu trả lời kiêu ngạo của ông ta như thể tôi nghe thông tin này lần đầu. “Việc cung cấp chứng cứ là không bắt buộc nếu đã có những nhân chứng khác,” Thầy tế Kính mến giải thích, “nhưng trong trường hợp chỉ có một nhân chứng, thì ý Thượng đế muốn người đó phải cung cấp bằng chứng.”

“Đó chính là tình trạng khó xử của tôi hiện nay,” tôi nói, tiếp tục câu chuyện. “Trong một tình huống mà mọi người đều biết, tất cả các nhân chứng đã trốn trách nhiệm và tránh đến tòa với lý do rằng ‘đó là chuyện tự nguyện,’ và do đó những lo âu cấp bách của người tôi đang cố giúp đỡ đã hoàn toàn bị bỏ qua.”

“Này,” Thầy tế Kính mến nói, “sao anh không nới lỏng dây buộc ví tiền của anh ra một chút?” Tôi lấy chiếc túi da ra cho ông ta xem những đồng tiền vàng Venice đầy nhóc bên trong; không gian rộng lớn của sân thánh đường, gương mặt của tay thầy tế, mọi thứ bất ngờ được soi sáng bởi vẻ lấp lánh của vàng. Ông ta hỏi tôi gặp phải tình huống khó xử gì.

Tôi giải thích tôi là ai. “Enishte Kính mến đang bệnh,” tôi kể. “Trước khi chết ông muốn con gái ông được chứng nhận là góa phụ và được hưởng một khoản trợ cấp.”

Tôi thậm chí không cần đề cập đến người được ủy quyền của quan tòa Uskudar. Thầy tế Kính mến hiểu ngay lập tức và nói rằng cả khu này từ lâu đã lo lắng về số phận của Shekure bất hạnh, và nói thêm rằng tình trạng này kéo dài đã quá lâu. Thay vì đi tìm một nhân chứng thứ hai theo yêu cầu cho một vụ ly thân hợp pháp ở chỗ quan tòa Uskudar, Thầy tế Kính mến đề nghị em trai ông ta. Bây giờ nếu tôi đưa thêm một đồng vàng cho người em, vốn cũng sống trong khu này và biết rõ tình trạng khó xử của Shekure và những đứa con nàng, thì tôi đã làm được một việc tốt.

Cuối cùng, chỉ vì hai đồng vàng mà Thầy tế Kính mến thỏa thuận xong với tôi về nhân chứng thứ hai. Chúng tôi lập tức đồng ý. Thầy tế Kính mến đi tìm em trai mình.

Phần còn lại trong ngày của chúng tôi hơi giống những câu chuyện “Mèo và chuột” mà tôi đã xem những người kể chuyện trong các quán cà phê Aleppo diễn xuất. Vì mọi trò phiêu lưu và lừa đảo này, nên những câu chuyện như thế, được viết thành những bài thơ tự sự và đóng thành tập, không bao giờ được coi là nghiêm túc cho dù được trình bày bằng nghệ thuật thư pháp cực đẹp; nghĩa là, chúng không bao giờ được minh họa cả. Mặt khác, tôi hoàn toàn sẵn lòng chia cuộc phiêu lưu cả ngày này của tôi thành bốn cảnh và hình dung mỗi cảnh trong những trang minh họa tưởng tượng của mình.

Trong cảnh đầu, nhà tiểu họa phải vẽ chúng tôi ngồi giữa những người chèo thuyền bắp thịt cuồn cuộn và đầy râu ria, băng qua eo Bosphorus xanh ngắt tiến về phía Uskudar trên con thuyền đỏ bốn tay chèo đã đón chúng tôi ở bến Unkapani. Ông giáo sĩ và người em đen đúa gầy gò của ông, vui sướng với chuyến hành trình thú vị này, tham gia tán chuyện vui vẻ với các tay chèo. Trong khi đó, giữa những giấc mơ hạnh phúc về cuộc hôn nhân nhảy múa không ngừng trước mắt, tôi nhìn sâu vào dòng nước eo biển Bosphorus trong hơn thường lệ giữa buổi sáng mùa đông đầy nắng này, cảnh giác tìm một dấu hiệu điềm gở trong dòng chảy của nó. Chẳng hạn tôi sợ mình có thể thấy xác của một con tàu cướp biển bên dưới. Vì vậy, cho dù nhà tiểu họa có tô màu biển và mây tươi tắn thế nào đi nữa, anh ta phải vẽ thêm một cái gì tương đương với vẻ tối đen trong những sợ hãi của tôi và cũng mạnh mẽ như những giấc mơ hạnh phúc của tôi - chẳng hạn một con cá trông khủng khiếp nằm sâu dưới nước để người đọc về cuộc phiêu lưu của tôi sẽ không cho rằng tất cả đều màu hồng.

Bức tranh thứ hai phải thể hiện những lâu đài của các vua chúa, những cuộc họp của Thượng Hội đồng, tiệc chiêu đãi các sứ thần châu Âu, và những khu nội thất đông đúc được vẽ cẩn thận và chi tiết với một sự tinh tế ngang tầm Bihzad; nghĩa là, bức tranh phải mang nét mỉa mai và những trò đùa vui nhộn. Do đó, trong khi Quan tòa Kính mến xòe tay làm động tác ngưng lại, hàm ý “không bao giờ” hoặc “không được” với khoản hối lộ của tôi thì bàn tay kia của ông ta phải được vẽ đang miễn cưỡng đút những đồng tiền vàng Venice của tôi vào túi, và kết quả cuối cùng của trò hối lộ này phải được vẽ trong cùng một bức tranh: Shahap Kính mến, người theo phái Shafii được ủy quyền chủ trì thay cho quan tòa Uskudar. Việc mô tả đồng thời những sự kiện liên tiếp chỉ có thể đạt được thông qua khả năng bố cục trang khéo léo của một nhà tiểu họa thông minh. Vì vậy, khi người quan sát, kẻ đầu tiên thấy tôi đưa tiền hối lộ, nhận ra ở một nơi khác trong bức tranh rằng người đàn ông đang ngồi xếp bằng trên nệm quan tòa là người được ủy quyền, thì, cho dù không đọc câu chuyện, anh ta vẫn sẽ nhận ra rằng vị quan tòa đáng kính đã tạm thời từ bỏ vị trí để người thừa ủy quyền của ông ta có thể phê chuẩn cho Shekure được ly dị.

Bức minh họa thứ ba phải thể hiện cũng chính cảnh đó, nhưng lần này phần trang trí trên tường phải tối hơn và được thể hiện theo phong cách Trung Hoa, những cành lá xoăn rậm rạp và rối rắm hơn, và những đám mây sặc sỡ phải xuất hiện ngay bên trên vị thừa ủy quyền của quan tòa để thủ đoạn bất lương trong câu chuyện trở nên rõ ràng. Dù Thầy tế Kính mến và em trai ông ta thực sự làm chứng riêng từng người trước mặt vị thừa ủy quyền của quan tòa, nhưng bức họa thì vẽ họ đang cùng nhau giải thích việc ông chồng của Shekure đau khổ không trở về sau chiến tranh ra sao, nàng lâm vào cảnh thiếu thốn khi không có chồng chăm sóc thế nào, hai đứa con mồ côi cha của nàng khóc liên tục và đói khát, rồi nàng không có hy vọng tái giá bởi vẫn bị coi là gái có chồng, và trong tình cảnh này nàng thậm chí không thể nhận được một khoản tiền vay mượn nếu không được chồng nàng cho phép. Họ đầy sức thuyết phục đến độ ngay cả một kẻ vô tri như đá cũng sẽ cho nàng được phép ly dị qua màn mưa nước mắt. Tuy nhiên, vị thừa ủy quyền nhẫn tâm, không có chút thương cảm, liền hỏi xem ai là người giám hộ hợp pháp của Shekure. Sau một phút do dự, tôi lập tức xen vào, tuyên bố rằng người cha đáng kính của nàng, người từng là phái viên và sứ thần cho Đức vua, vẫn còn sống.

“Chừng nào ông ta chưa ra tòa làm chứng, thì tôi chưa cho phép cô ta ly dị!” vị thừa ủy quyền nói.

Tới đây, vô cùng bối rối, tôi giải thích rằng Enishte Kính mến của tôi đang bệnh, nằm liệt giường và đang vật lộn giành sự sống, mong muốn cuối cùng của ông là được thấy con gái mình được phép ly dị, và tôi là người đại diện cho ông.

“Cô ta muốn gì nếu được phép ly dị?” vị thừa ủy quyền hỏi. “Tại sao một người đang hấp hối lại muốn thấy con gái mình được ly dị với một người chồng đã mất tích từ lâu trong chiến tranh? Nghe đây, tôi hiểu rằng nếu đã có một ứng viên đáng tin cậy cho vị trí con rể thì ông ta sẽ khỏi phải chết trong cảnh ước nguyện chưa thành, phải vậy không nào.”

“Đó là một triển vọng, thưa ngài,” tôi nói.

“Ai có thể là người đó?”

“Chính là tôi!”

“Nào! Anh là đại diện cho người giám hộ mà!” vị thừa ủy quyền của quan tòa nói. “Anh làm ở ngành nào vậy?”

“Ở các tỉnh miền đông, tôi làm thư ký, chánh thư ký và phụ tá thủ quỹ cho nhiều tổng trấn. Tôi đã hoàn tất một pho sử về các cuộc chiến tranh Ba Tư mà tôi có ý định dâng lên Đức vua. Tôi rất rành về minh họa và trang trí. Tôi đã yêu mãnh liệt người đàn bà này suốt hai mươi năm.”

“Anh là bà con của cô ta?”

Tôi quá bối rối trước việc bất ngờ này và đột ngột bị rơi vào thế nhún nhường hèn mọn trước mặt vị thừa ủy quyền của quan tòa, cuộc đời tôi bị lột trần giống như một vật thể tầm thường không có chút bí ẩn gì, đến độ tôi im lặng.

“Thay vì đỏ mặt lên như gấc, hãy cho tôi một câu trả lời, chàng trai, nếu không tôi sẽ không cho phép cô ấy ly dị.”

“Cô ấy là con gái của dì tôi.”

“Hừm, tôi biết. Anh có thể làm cho cô ta hạnh phúc chứ?” Khi hỏi câu này, tay ông ta phác một cử chỉ thông tục. Nhà tiểu họa phải bỏ qua hành động thiếu tế nhị này. Chỉ cần vẽ tôi đỏ mặt đến cỡ nào là đủ rồi.

“Tôi có thu nhập không tồi.”

“Vì tôi theo phái Shafii, nên không có gì trái ngược với Thánh Thư hoặc giáo phái của tôi khi tôi phê chuẩn ly dị cho Shekure bất hạnh này, vốn có chồng đã mất tích ngoài mặt trận bốn năm rồi,” vị thừa ủy quyền kính mến nói. “Tôi cho phép ly dị. Và tôi phán quyết rằng chồng cô ta không còn quyền hạn gì nếu anh ta trở về.”

Bức minh họa tiếp theo, thứ tư, phải mô tả vị thừa ủy quyền ghi vụ ly dị này vào sổ cái, thả ra những binh đoàn chữ nghĩa mực đen trung thành, trước khi đưa cho tôi văn bản tuyên bố rằng Shekure giờ đã là quả phụ và không có rào cản nào ngăn không cho nàng tái giá ngay. Dù có vẽ những bức tường trong phòng xử màu đỏ, hay đặt bức tranh trong những đường viền đỏ như máu cũng không biểu lộ được tia sáng hạnh phúc nội tâm tôi cảm thấy được trong lúc đó. Chạy ngược qua đám đông những nhân chứng giả và những người khác đang tập họp trước dinh quan tòa để xin ly dị cho chị em, con gái, thậm chí cả cô dì của họ, tôi bắt đầu chuyến trở về.

Sau khi băng qua eo biển Bosphorus và thẳng tiến đến khu Yakutlar, tôi chia tay ông Thầy tế Kính mến, cả ông lẫn người em đều muốn làm phép cưới cho chúng tôi. Vì tôi nghi ngờ mọi người tôi thấy trên đường đang âm mưu một trò ma quái nào đó vì ghen tỵ trước hạnh phúc khó tin mà tôi sắp đạt được, tôi chạy thẳng đến con đường nhà Shekure. Làm thế nào mà lũ quạ xấu xa đoán được sự hiện diện của một xác chết trong nhà và nhảy nhót lung tung đầy kích động trên mái ngói? Tôi chìm trong cảm giác tội lỗi vì không thể khóc thương Enishte của tôi hoặc thậm chí nhỏ một giọt nước mắt; tuy vậy, qua những tấm rèm và khung cửa đóng chặt của ngôi nhà, qua sự im lặng, và thậm chí qua dáng vẻ của cây lựu, tôi biết rằng mọi thứ đang được tiến hành theo kế hoạch.

Tôi đang hành động theo trực giác một cách hết sức vội vã.Tôi ném một viên đá vào cổng sân nhưng trượt. Tôi ném một hòn khác vào nhà. Nó rớt xuống mái. Thất vọng, tôi bắt đầu ném đá liên tục vào nhà. Một cửa sổ mở. Nó là cửa sổ tầng hai nơi cách đây bốn ngày, hôm thứ Tư, lần đầu tôi thấy Shekure sau những cành lựu. Orhan xuất hiện, và qua khe hở của tấm rèm tôi có thể nghe tiếng Shekure la rầy nó. Rồi tôi thấy nàng. Trong phút chốc chúng tôi nhìn nhau đầy hy vọng, người phụ nữ duyên dáng của tôi. Nàng quá đẹp và hấp dẫn. Nàng làm một cử chỉ mà tôi cho là hàm ý “chờ” rồi đóng cửa sổ lại.

Còn khá lâu trời mới tối. Tôi chờ đợi đầy hy vọng trong khu vườn vắng vẻ, bỗng thấy sững sờ trước vẻ đẹp của thế giới, cây cối và con đường lầy lội. Không lâu sau, Hayriye đến, ăn mặc không giống đầy tớ mà như một quý cô trong nhà. Không đến gần nhau, chúng tôi đi về phía tán cây vả.

“Mọi thứ diễn biến theo kế hoạch,” tôi nói với chị ta. Tôi cho chị ta xem văn bản của vị thừa ủy quyền. “Shekure đã được ly dị. Về phần ông giáo sĩ ở khu kia...” tôi định nói thêm, “tôi sẽ lo chuyện đó,” nhưng rồi lại nói, “ông ta đang trên đường tới đây. Shekure phải chuẩn bị sẵn.”

“Shekure muốn có một đám rước dâu, cho dù nhỏ, rồi một bữa tiệc đãi láng giềng. Chúng tôi đã chuẩn bị một nồi hầm quả hạnh đào với quả mơ rồi.” Trong cơn kích động, chị ta có vẻ muốn nói với tôi về những món khác chị ta đã nấu, nhưng tôi gạt ngang. “Nếu tổ chức lễ cưới chu đáo như thế thì Hasan và người của anh ta sẽ biết,” tôi thận trọng nói, “họ sẽ đột kích ngôi nhà, làm nhục chúng ta, đám cưới sẽ bị hủy và chúng ta sẽ không thể làm gì được. Tất cả những cố gắng của chúng ta lúc đó sẽ trở nên vô ích. Chúng ta cần bảo vệ mình không chỉ trước Hasan với cha anh ta, mà còn trước kẻ ác đã giết Enishte Kính mến nữa. Chị không sợ sao?”

“Làm sao mà bọn tôi không sợ chứ?” Chị ta nói và bắt đầu khóc.

“Chị không được nói với ai bất cứ chuyện gì,” tôi nói. “Mặc quần áo ngủ cho Enishte, trải nệm của ông ra rồi đặt ông lên đó, sao cho không giống một người chết mà như thể ông đang bệnh. Đặt mấy cái ly với vài chai xi rô cạnh đầu giường ông, đóng rèm kín lại. Bảo đảm rằng không có đèn trong phòng để ông có thể đóng vai người giám hộ của Shekure, người cha đang bệnh nặng của nàng, trong lễ cưới. Bây giờ không có chỗ cho đám rước dâu đâu. Chị có thể mời dăm ba hàng xóm vào phút cuối, vậy thôi. Khi mời họ, chị phải nói đây là ước nguyện cuối cùng của Enishte...Đây không phải là một đám cưới vui, mà là một đám cưới buồn. Nếu chúng ta không tự vượt qua chuyện này, họ sẽ hủy diệt chúng ta, và cũng trừng phạt cả chị nữa. Chị hiểu rồi chứ?”

Chị ta gật đầu trong khi vẫn khóc. Leo lên con ngựa trắng, tôi nói tôi đi lo vụ nhân chứng và sẽ trở lại ngay, rằng Shekure phải chuẩn bị sẵn, rằng từ đây về sau tôi sẽ là ông chủ nhà, và rằng tôi sẽ đến chỗ ông thợ cạo. Trước đó tôi không hề nghĩ bất cứ điều gì về chuyện này. Khi tôi nói, các chi tiết đã nảy ra, và thỉnh thoảng đúng như tôi cảm thấy trong các trận chiến, tôi tin chắc rằng tôi là một đầy tớ đầy ơn phúc và được yêu thương của Thượng đế và Người đã bảo vệ tôi; vì vậy mọi thứ hóa ra tốt đẹp.

Khi bạn cảm nhận được sự tin tưởng này, hãy cứ làm bất cứ điều gì nảy ra trong đầu theo trực giác của mình rồi bạn sẽ thấy nhũng hành động của mình là đúng.

Tôi cưỡi ngựa qua bốn dãy phố từ khu Yakutlar đến phía cửa sông Halic để tìm tay giáo sĩ có khuôn mặt tươi vui và râu đen ở thánh đường Yasin Pasha ở khu kế cận; chổi trong tay, ông ta đang xua lũ chó lì lợm ra khỏi khoảng sân lầy lội. Tôi nói với ông về tình trạng khó xử của tôi. Tôi giải thích rằng, bởi ý muốn của Thượng đế, Enishte của tôi sắp chết, và theo ước nguyện cuối cùng của ông tôi sẽ cưới con gái của ông, bởi theo quyết định của quan tòa Uskudar thì nàng đã được phép ly dị người chồng đã mất tích trong chiến tranh. Nhà giáo sĩ phản đối rằng, theo các điều khoản trong luật Hồi giáo, phụ nữ đã ly dị phải chờ một tháng mới được tái giá, nhưng tôi phản bác bằng cách giải thích rằng người chồng trước đây của Shekure đã vắng mặt suốt bốn năm; và do đó không có chuyện cô ấy có thai với ông chồng đó. Tôi vội nói thêm rằng quan tòa Uskudar đã đồng ý cho ly dị hồi sáng này để cho phép Shekure tái giá, và tôi cho ông ta xem giấy chứng nhận. “Thầy tế Kính mến của tôi, ông có thể tin chắc rằng không hề có trở ngại nào với việc cưới xin này!” tôi nói. Thực tình, nàng là bà con ruột, nhưng anh em bên ngoại không phải là một trở ngại; cuộc hôn nhân trước của nàng đã bị hủy bỏ; giữa chúng tôi không hề có những khác biệt về tiền bạc, xã hội hay tôn giáo. Và nếu ông ta nhận những đồng tiền vàng mà tôi đưa trước, nếu ông cử hành nghi thức hôn lễ được dự trù sẽ tiến hành trước mặt toàn bộ hàng xóm, ông cũng sẽ hoàn thành tốt một hành vi sùng đạo trước mặt Thượng đế cho những đứa trẻ không cha của một quả phụ. “Thưa thầy tế Kính mến”, tôi hỏi, “Thầy có thích món xúp rau với hạnh nhân và mơ khô không?”

Ông ta đồng ý, nhưng vẫn còn bận tâm đến lũ chó ở cổng. Ông ta nhận mấy đồng vàng. Ông nói để ông mặc áo choàng cưới vào; sửa soạn dáng vẻ, xem lại khăn xếp và đến đúng giờ đặng tiến hành những nghi thức cưới. Ông ta hỏi dường đến nhà và tôi chỉ cho ông ta.

Cho dù đám cưới có vội vã đến đâu đi nữa - dẫu đó là một đám cưới mà chú rể đã mơ ước suốt mười hai năm qua - còn gì có thể tự nhiên hơn việc anh ta quên những lo âu và rắc rối của mình mà đầu hàng trước bàn tay trìu mến và sự chòng ghẹo nhẹ nhàng của một bác thợ cạo cho việc cạo râu và cắt tóc trước lễ cưới? Cửa hàng bác thợ cạo, nơi bàn chân tôi đưa tôi đến, nằm  gần chợ, trên con đường có ngôi nhà đổ nát ở Aksaray, mà Enishte quá cố của tôi, bà dì và Shekure xinh đẹp của tôi đã rời đi nhiều năm sau thời niên thiếu của chúng tôi. Đây là bác thợ cạo tôi đã gặp năm ngày trước đó, ngày đầu tôi trở về. Khi tôi bước vào, bác ta ôm tôi, và như bất kỳ bác thợ cạo tử tế nào ở Istanbul sẽ làm thay vì hỏi tôi đã đi đâu về đâu cả chục năm qua. Bác ta lại lao vào những chuyện đồn đãi mới nhất trong vùng, rồi kết thúc cuộc nói chuyện với một lời bóng gió về nơi mà tất cả chúng ta sẽ đến vào cuối cuộc hành trình đầy ý nghĩa được gọi là cuộc đời này.

Bác thợ cạo tài giỏi này đã già. Lưỡi dao bác cầm trong bàn tay nhăn nheo đã run khi bác quơ nó trên gò má tôi. Bác say sưa suốt và đã nhận một thợ học việc trẻ mắt xanh, môi mọng, da trắng hồng - kẻ nhìn ông thầy mình với vẻ kính sợ. So với mười hai năm trước, cửa hàng này giờ sạch sẽ và ngăn nắp hơn. Sau khi đổ đầy nước ấm vào cái chậu treo bằng một sợi dây xích mới từ trần nhà thòng xuống, ông ta cẩn thận gội đầu và rửa mặt cho tôi bằng nước lấy từ chiếc vòi bằng đồng dưới đáy chậu. Những cái chậu rộng cũ này được hàn mới lại không có dấu hiệu gỉ sét, những thùng than sưởi trông sạch sẽ, và những dao cạo có tay cầm bằng mã não thì bén ngót. Bác mặc chiếc áo chẽn lụa sạch bong, thứ bác miễn cưỡng mặc cách nay mười hai năm. Tôi cho rằng cậu thợ học việc tao nhã này, cao so với tuổi và thân hình mảnh khảnh, đã góp phần đem lại sự ngăn nắp cho cửa hàng và chủ nhân của nó, và trong khi thả mình theo những cảm giác sảng khoái của một cuộc cạo râu nhiều xà phòng ấm đẫm mùi hoa hồng, tôi không thể không nghĩ về chuyện hôn nhân mang lại sự thịnh vượng và sức sống mới không chỉ cho ngôi nhà của một người độc thân mà cả cửa hàng và công việc của anh ta nữa.

Tôi không biết thời gian trôi qua bao lâu. Tôi chìm vào hơi ấm của thùng than đang dịu dàng sưởi cho cửa tiệm nhỏ này và những ngón tay thành thục của bác thợ cạo. Với việc cuộc sống bất ngờ tặng cho tôi những món quà tuyệt vời nhất hôm nay, cứ như cho không, và sau quá nhiều đau khổ, tôi cảm thấy vô vàn đội ơn Allah cao cả. Tôi cảm thấy cực kỳ tò mò, tự hỏi thế giới này của Người đã xuất hiện từ thế cân bằng bí ẩn nào, và tôi buồn thương cho Enishte, người đang nằm chết trong ngôi nhà nơi mà lát nữa đây tôi sẽ trở thành ông chủ. Tôi đang sẵn sàng lao vào hành động thì có tiếng ồn ào ngay cánh cửa luôn mở rộng của tiệm hớt tóc: Shevket!

Bối rối, nhưng với vẻ tự tin thường lệ, nó chìa ra một mẩu giấy. Không nói được lời nào và linh cảm một điều tồi tệ, lòng tôi run rẩy như bị trúng một cơn gió lạnh khi tôi đọc thấy:

Nếu không có lễ rước dâu, em sẽ không cưới - Shekure.

Nắm lấy vai Shevket, tôi nhấc có lên đùi. Tôi thích trả lời cho Shekure yêu quý của tôi bằng thư. “Như em muốn, em yêu!”. Nhưng trong cửa tiệm của một bác thợ cạo thất học thì lấy đâu ra giấy với viết? Vì vậy với sự kín đáo có tính toán, tôi thì thầm câu trả lời của tôi vào tai thằng bé: “được rồi.” Vẫn thì thầm, tôi hỏi nó ông ngoại nó đang làm gì.

“Ông đang ngủ.” Bây giờ tôi có cảm giác rằng Shevket, bác thợ cạo, và cả bạn nữa đều đang nghi ngờ về tôi và cái chết của Enishte (Shevket, dĩ nhiên, cũng nghi ngờ những điều khác nữa). Thật tội nghiệp! Tôi gượng hôn nó, và nó nhanh chóng bỏ đi, bất mãn. Trong lễ cưới, mặc bộ lễ phục, nó từ xa nhìn tôi với vẻ thù địch.

Vì Shekure không rời nhà cha nàng để đến nhà tôi, và tôi sẽ dọn đến nhà cha vợ trong vai trò chàng rể, nên đám rước dâu chỉ là chuyện phụ. Dĩ nhiên tôi không đủ khả năng sắm sửa cho những họ hàng và bạn bè giàu có của tôi và nhờ họ cười ngựa đứng đợi ở cổng nhà Shekure như những chú rể khác vẫn làm.

Tôi chỉ mời có hai người bạn từ thời thơ ấu mà tôi tình cờ gặp trong sáu ngày qua từ khi trở về Istanbul (một người làm thư ký giống tôi còn người kia đang điều hành một nhà tắm) và cả bác thợ cạo thân mến của tôi nữa, đôi mắt ông ngấn lệ trong khi ông vừa cạo râu và cắt tóc cho tôi vừa chúc tôi hạnh phúc. Cưỡi trên con ngựa trắng mà tôi đã cưỡi trong ngày đầu tiên đó, tôi gõ cổng nhà Shekure yêu dấu của tôi như thể đã sẵn sàng để mang nàng đến một ngôi nhà khác và một cuộc sống khác.

Với Hayriye, người mở cổng, tôi tặng một món tiền hào phóng. Shekure, mặc chiếc áo dài cưới đỏ tươi với những băng giấy hồng của cô dâu thả đài từ tóc đến chân, xuất hiện giữa những tiếng khóc, tiếng nức nở và thở dài (một phụ nữ quở mắng bọn trẻ), những tiếng la “Cầu Thượng đế phù hộ cô” và duyên dáng trèo lên con ngựa trắng thứ nhì mà chúng tôi mang đến. Khi tay trống và người thổi sáo mà bác thợ cạo tử tế đã thu xếp cho tôi vào phút cuối, bắt đầu chơi một giai điệu chậm mừng cô dâu thì đám rước dâu buồn bã, nghèo nàn nhưng đầy tự hào của chúng tôi đã khởi hành.

Khi ngựa của chúng tôi bắt đầu đi nước kiệu, tôi hiểu rằng Shekure, với sự tinh ranh thường lệ của nàng, đã chuẩn bị cảnh tượng này để bảo vệ đám cưới. Sau khi đã thông báo lễ cưới của chúng tôi với cả khu xóm, cho dù chỉ vào giờ chót, đám rước dâu của chúng tôi về cơ bản đã giành được sự tán đồng của mọi người, do đó hóa giải được bất kỳ phản đối nào sau này đối với đám cưới của chúng tôi. Tuy nhiên, việc loan báo chúng tôi sắp cưới và tổ chức lễ cưới công khai - cứ như thách thức kẻ thù của chúng tôi, chồng trước của Shekure và gia đình anh ta - đã gây thêm nguy hiểm cho toàn bộ sự việc. Nếu chuyện này do tôi quyết định, tôi sẽ tổ chức lễ cưới trong vòng bí mật, không nói với một ai, không tổ chức lễ cưới; tôi thích trở thành chồng nàng trước và bảo vệ đám cưới sau.

Tôi dẫn đầu đoàn diễu hành trên con bạch mã tính khí thất thường của tôi, và khi chúng tôi đi qua khu xóm, tôi lo lắng dò tìm Hasan và người của anh ta mà tôi e rằng sẽ phục kích chúng tôi sau một con hẻm hoặc một cánh cổng tối nào đó. Tôi nhìn thấy những chàng trai, người lớn tuổi trong khu phố và những kẻ lạ dừng bước và đang ở cửa vẫy tay, tuy không hoàn toàn hiểu hết những gì đang diễn ra. Trong một khu chợ nhỏ mà chúng tôi ngẫu nhiên tiến vào, tôi hiểu ra rằng Shekure đã khôn khéo khởi động đường dây rỉ tai của nàng, và việc nàng ly dị rồi cưới tôi đã nhanh chóng được cả khu xóm tán đồng. Điều này thấy rõ qua vẻ hào hứng của người bán rau quả, ông này tuy không hề bỏ bê những quả táo, cà rốt và mộc qua của ông ta quá lâu song vẫn đi theo chúng tôi vài bước và gào lên “Cầu Thượng đế che chở hai người”, qua nụ cười của người bán hàng ủ rũ, qua những ánh mắt đồng tình của chủ tiệm bánh mì, người đang cho thợ học việc cạo các mảng khét bám trong nồi. Tuy nhiên tôi vẫn bồn chồn, cảnh giác đề phòng một cuộc đột kích bất ngờ, hoặc thậm chí một lời cật vấn thô bỉ. Vì lý do này, tôi hoàn toàn không bị bối rối vì sự nhộn nhạo của đám trẻ con kiếm tiền đang theo đuôi khi chúng tôi rời khu chợ. Qua nụ cười của các bà tôi thoáng thấy đáng sau các cửa sổ, song cửa và những tấm rèm, tôi hiểu rằng nhiệt tình của đám trẻ ồn ào này đã bảo vệ và ủng hộ chúng tôi.

Khi tôi thấy con đường chúng tôi đang đi nãy giờ, tạ ơn Thượng đế, sau cùng cũng quành trở lại nhà, tôi thấy thông cảm với Shekure và nỗi buồn của nàng. Thực ra, không phải nỗi bất hạnh của nàng khi phải kết hôn vào ngày cha nàng bị giết khiến tôi buồn, mà bởi vì lễ cưới này quá đơn sơ và nghèo nàn. Shekure yêu dấu của tôi xứng đáng với những con ngựa có dây cương bằng bạc và yên chạm trổ, những kỵ sĩ mặc áo lông chồn và lụa thêu chỉ vàng, hàng trăm cỗ xe chất đầy quà và của hồi môn; nàng xứng đáng được dẫn đầu một đám rước vô tận gồm các con gái những vương hầu, vua chúa và những cỗ xe chở đầy những cung nữ già đang tán gẫu về những xa hoa của một thời đã qua. Nhưng đám cưới của Shekure còn thiếu cả bốn người cầm sào giương cao tấm trướng bằng lụa đỏ thường dùng để che cho các trinh nữ nhà giàu khỏi những cặp mắt soi mói; cũng không có cả một đầy tớ dẫn đầu đám rước mang những cây nến cưới to và những cây trang trí đính hoa quả, vàng lá, bạc lá và những viên đá bóng loáng. Không chỉ áy náy, tôi còn cảm thấy một nỗi buồn khiến tôi chực trào nước mắt mỗi lần bọn thổi sáo và đánh trống thản nhiên ngừng chơi khi đám rước bị chìm trong đám người đi chợ hoặc các đầy tớ đang hứng nước tại vòi ở quảng trường vì chúng tôi không có người dọn đường hô to “Cô dâu đến.”

Khi chúng tôi về gần tới nhà, tôi thu hết can đảm quay người lại nhìn nàng, và thấy nhẹ người khi bên dưới tấm mạng đỏ và dải kim tuyến hồng của cô dâu không hề có vẻ buồn rầu bởi những thiếu sót tội nghiệp đó, nàng trông khá phấn khởi khi biết rằng chúng tôi đã kết thúc đám rước và chuyến đi mà không gặp tai nạn hay rủi ro nào. Vì vậy, như mọi chàng rể, tôi đỡ cô dâu xinh đẹp vừa mới cưới của tôi xuống ngựa, khoác tay nàng và thong thả bốc từng nắm đồng xu bạc tung qua đầu nàng vào đám đông náo nhiệt. Trong khi đám trẻ nãy giờ theo chân đám rước nghèo nàn của chúng tôi tranh nhau những đồng bạc, Shekure và tôi bước vào sân, theo lối đi lát đá, và ngay khi bước vào nhà thì phả vào chúng tôi không chỉ có cái nóng mà có cả sự khủng khiếp của mùi thối rữa nặng nề.

Trong khi mọi người theo đám rước tìm chỗ ngồi nghỉ trong nhà Shekure và đám người có tuổi, các phụ nữ và trẻ em (Orhan trong góc nhà đang nghi ngại nhìn tôi) trò chuyện huyên náo cứ như không hề có gì trục trặc và trong phút chốc tôi nghi ngờ cảm giác của mình; nhưng tôi biết các xác chết bị bỏ nằm ngoài nắng sau trận chiến thì có mùi thế nào, quần áo của họ tả tơi, giày và thắt lưng bị đánh cắp, còn khuôn mặt, mắt và môi họ thì bị sói và chim rúc rỉa. Đó là một mùi hôi thối vẫn đầy khắp miệng và phổi tôi gần như ngộp thở đến độ tôi có thể nhận ngay ra nó không chút lầm lẫn.

Xuống nhà bếp, tôi hỏi Hayriye về xác của Enishte Kính mến, với ý thức rằng tôi đang nói với chị ta lần đầu tiên trong vai trò gia chủ.

“Như ông bảo, chúng tôi để ông cụ nằm trên nệm, mặc đồ ngủ cho ông, quấn ông trong mền bông và đặt mấy chai xi rô cạnh ông. Nếu ông ấy tỏa ra mùi khó chịu, chắc là do hơi nóng của thùng than sưởi trong phòng”, chị ta nói qua nước mắt.

Một hai giọt nước mắt của chị ta rớt xuống, kêu xèo xèo trong cái chảo chị ta đang dùng để chiên thịt cừu. Qua cách chị ta khóc, tôi cho rằng Enishte Kính mến đêm đêm đã dẫn chị ta vào giường của ông. Esther, nãy giờ ngồi im lặng và tự hào trong một góc bếp, nuốt những gì chị ta đang nhai rồi đứng dậy.

“Hãy coi hạnh phúc cho cô ấy là ưu tiên hàng đầu của anh,” chị ta nói. “Hãy công nhận giá trị của cô ấy.”

Trong ý nghĩ tôi như nghe có tiếng đàn luýt mà tôi đã nghe được trên đường ngày đầu tiên tôi về đến Istanbul. Ngoài nỗi buồn, giai điệu của nó còn có sự mãnh liệt. Sau này tôi còn nghe được giai điệu đó một lần nữa trong căn phòng mờ tối nơi Enishte của tôi đang nằm trong bộ đồ ngủ, khi Thầy tế Kính mến làm phép cưới cho chúng tôi.

Bởi vì Hayriye đã ngầm mở cửa cho thông gió căn phòng trước đó và đặt một ngọn đèn dầu trong góc cho nó chỉ sáng lờ một nên người ta khó mà nghĩ rằng Enishte của tôi bị bệnh chú đừng nói là đã chết. Vì vậy, ông đã đóng vai người giám hộ hợp pháp cho Shekure trong suốt buổi lễ. Người bạn thợ cạo của tôi, cùng với một ông già hàng xóm cái-gì-cũng-biết làm nhân chứng. Trước khi buổi lễ kết thúc với những lời chúc phúc và khuyên răn của ông giáo sĩ và những lời cầu nguyện của mọi người tham dự, một ông già thóc mách, do quan tâm đến sức khỏe của Enishte của tôi, định cúi cái đầu hoài nghi của ông ta xuống người chết; nhưng ngay khi giáo sĩ vừa hoàn tất nghi lễ, tôi liền nhảy ra khỏi chỗ đứng, chộp lấy cánh tay cứng ngắc của Enishte của tôi mà hét thật to:

“Xin đừng lo lắng, Enishte thân yêu. Con sẽ làm mọi chuyện trong khả năng mình để chăm sóc Shekure và bọn trẻ, bảo đảm cho chúng được ăn ngon, mặc đẹp, được yêu thương và không gặp rắc rối.”

Kế đến, làm như Enishte của tôi đang cố thì thào với tôi trên giường bệnh, tôi cẩn thận và đầy tôn kính áp tai sát miệng ông, giả như đang chăm chú lắng nghe ông với đôi mắt mở to như những người trẻ vẫn làm khi một người già mà họ tôn trọng đưa ra mấy lời khuyên rút ra từ toàn bộ cuộc đời, những lời khuyên mà lúc đó họ nuốt ừng ực như một loại thánh dược. Thầy tế Kính mến và ông già hàng xóm có vẻ trân trọng và tán đồng lòng trung thành và sự tận tụy đến cùng mà tôi thể hiện với cha vợ. Tôi hy vọng không ai nghĩ rằng tôi có dính dáng vào vụ giết ông.

Tôi thông báo với khách dự đám cưới vẫn còn trong phòng rằng ông cụ khốn khổ này muốn được ở một mình. Lập tức họ bắt đầu rút lui, đi qua phòng kế bên nơi mọi người tập họp để thưởng thức món cơm chiên thập cẩm và thịt cừu của Hayriye (lúc này tôi không còn phân biệt nổi mùi của xác chết với mùi thơm của hành tây, cây thìa là và thịt cừu rán). Tôi bước ra hành lang rộng, và giống như một gia chủ đãng trí và đăm chiêu đi lang thang khắp nhà mình, tôi mở cửa vào phòng Hayriye, không để ý đến những phụ nữ đang hoảng hốt vì có một người đàn ông xuất hiện giữa bọn họ, trìu mến nhìn Shekure, đôi mắt nàng ánh lên niềm hạnh phúc khi thấy tôi, rồi tôi nói:

“Cha gọi em, Shekure. Chúng ta đã cưới nhau, em nên hôn tay cha.”

Đám phụ nữ hàng xóm mà Shekure mời vào phút chót và các cô gái trẻ mà tôi nghĩ là bà con tỏ vẻ đã trấn tĩnh và che mặt lại đồng thời liên tục ngắm nghía tôi đến thỏa thuê.

Ngay sau hồi chuông báo giờ cầu kinh tối, khách dự đám cưới giải tán, sau khi nhiệt tình nạp đầy bụng những quả óc chó, hạnh đào trái cây khô và kẹo trái cây. Trong khu vực của các bà, tiếng khóc không ngớt của Shekure và tiếng cãi nhau của lũ trẻ ngỗ nghịch làm không khí lễ hội mất vẻ hào hứng. Giữa các ông, sự im lặng lạnh lùng của tôi trước những chọc ghẹo của hàng xóm về đêm tân hôn thú vị được cho là bởi lo lắng về bệnh tình của cha vợ. Giữa tình cảnh chẳng lấy gì làm vui ấy, hình ảnh ghi khắc rõ nhất trong ký ức của tôi là cảnh tôi đưa Shekure vào phòng của Enishte trước bữa tối. Sau cùng chúng tôi cũng được ở một mình với nhau. Sau khi hai đứa tôi hôn bàn tay lạnh và cứng của người chết với lòng kính trọng chân thành, chúng tôi rút vào một góc tối trong phòng và hôn nhau như cố thỏa mãn một cơn khát dữ dội. Trên đầu lưỡi nóng bỏng của vợ, mà rốt cuộc tôi cũng nút được vào miệng mình, tôi nếm được những viên kẹo mà lũ trẻ đã ăn lấy ăn để.

CHƯƠNG 34
TÔI, SHEKURE

Những vị khách cuối cùng trong đám cưới buồn hiu của chúng tôi che mạng lên và mặc áo ấm, mang giày, lôi bọn trẻ của họ ra, chúng vừa theo cha mẹ vừa tọng những viên kẹo cuối cùng vào miệng, để chúng tôi lại với sự im lặng sâu lắng. Tất cả chúng tôi đang ở trong sân, chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng động sẽ sàng của con chim sẻ rón rén uống nước trong cái xô đựng nước giếng lưng phân nửa. Con chim sẻ này, với những chiếc lông trên cái đầu bé xíu lấp lánh trong ánh sáng của lò sưởi lát đá, bất ngờ biến mất vào đêm đen, và tôi cảm thấy sự hiện hữu bất di bất dịch của xác chết trên giường cha tôi trong ngôi nhà trống trải của chúng tôi bây giờ bị bóng đêm nuốt chửng.

“Này mấy đứa,” tôi nói bằng ngữ điệu mà Orhan và Shevket nhận ra ngay là giọng tôi dùng để thông báo một điều gì đó, “lại đây cả hai đứa.”

Chúng đến.

“Siyah bây giờ là cha các con. Các con hôn tay cha đi.”

Chúng làm theo, lặng lẽ và ngoan ngoãn. “Vì chúng lớn lên mồ côi cha, nên bọn trẻ bất hạnh này không biết vâng lời cha, không chú ý đến lời của cha trong khi nhìn vào mắt cha, hoặc tin cậy vào cha,” tôi nói với Siyah. “Vì vậy, nếu chúng cư xử vô lễ, ngang bướng, non nớt hoặc trẻ con với anh, em biết rằng trước hết anh sẽ dung thứ, hiểu rằng chúng lớn lên mà chưa từng một lần vâng lời cha chúng, người mà thậm chí chúng không nhớ nữa.”

“Con nhớ cha con,” Shevket nói.

“Im... nghe này,” tôi nói. “Từ giờ trở đi lời của Siyah thậm chí còn quan trọng hơn cả lời của mẹ.” Tôi đối mặt với Siyah. “Nếu chúng không nghe anh nói, nếu chúng không vâng lời hay thậm chí có dấu hiệu hỗn láo nào dù nhỏ nhất, hư hỏng hoặc bất lịch sự trước hết anh hãy cảnh cáo chúng, nhưng hãy tha thứ cho chúng,” tôi nói, bỏ ý định đề cập đến việc roi vọt vốn đang chực thốt ra. “Nếu em chiếm được chỗ nào trong tim anh, thì chúng cũng được chia sẻ chỗ đó.”

“Anh không cưới em chỉ để làm chồng em, mà còn để làm cha những đứa trẻ đáng yêu này nữa.” Siyah nói.

“Hai đứa có nghe thấy không?”

“Ôi đấng tối cao, cầu xin Người không quên chiếu ánh sáng của Người xuống chúng tôi,” Hayriye đột ngột lên tiếng từ trong góc phòng. “Lạy Thượng đế, cầu xin Ngài che chở chúng con.”

“Cả hai đứa nghe thấy rồi, phải không?” tôi nói. “Tốt cho các con đấy, hai con trai của mẹ. Vì cha đã yêu các con như vậy, nên nếu các con bất ngờ mất tự chủ và coi thường lời của cha, cha sẽ tha thứ cho các con vì chuyện đó từ trước rồi.”

“Và sau này anh cũng tha thứ cho chúng luôn,” Siyah nói.

“Tuy nhiên nếu hai đứa coi thường lời cảnh cáo của cha lần thứ ba... lúc đó các con đáng bị ăn đòn đấy,” tôi nói. “Hai đứa hiểu chứ? Cha mới của các con, Siyah, đến đây từ những trận đánh tồi tệ nhất, xấu xa nhất, từ những cuộc chiến vốn dĩ chính là cơn phẫn nộ của Thượng đế và từ những cuộc chiến mà người cha quá cố của các con không trở về; phải, cha là người đàn ông cứng rắn, ông ngoại đã làm hư các con vì nuông chiều quá mức. Ông ngoại hiện bệnh rất nặng.”

“Con muốn đến với ông,” Shevket nói.

“Nếu con không lắng nghe, Siyah sẽ dạy chúng con biết một trận đòn địa ngục nghĩa là gì. Ông ngoại sẽ không cứu các con thoát khỏi tay Siyah theo cách ông cứu các con khỏi tay mẹ đâu. Nếu không muốn chịu cơn thịnh nộ của cha, các con không được gây lộn nữa, các con phải nhường nhau mọi thứ, không nói dối, đọc kinh cầu nguyện, không đi ngủ trước khi thuộc bài, không ăn nói thô lỗ với Hayriye hay chọc ghẹo chị ấy...Các con hiểu chưa?”

Bằng một động tác, Siyah cúi xuống bế Orhan lên. Shevket vẫn giữ khoảng cách. Tôi thoáng muốn ôm nó và khóc. Đứa con côi cút bất hạnh tội nghiệp của tôi, Shevket cô đơn đáng thương của tôi, con quá cô độc trong thế giới mênh mông này. Tôi nghĩ về chính mình khi còn nhỏ, giống như Shevket, một đứa trẻ hoàn toàn cô độc trên đời, và nhớ tôi đã từng nằm trong vòng tay người cha yêu quý của tôi như Orhan hiện đang nằm trong vòng tay Siyah. Nhưng không như Orhan, tôi không lúng túng trong vòng tay của cha tôi, giống như một quả không quen với cái cây của nó. Tôi thấy hài lòng, tôi nhớ lại cha tôi với tôi thường ôm nhau, ngửi mùi da thịt của nhau như thế nào. Tôi sắp khóc, nhưng cố kìm lại.

Dù tôi không có ý định nói một điều gì đại loại như thế, nhưng tôi vẫn nói:

“Bây giờ các con gọi Siyah là ‘Cha’ cho mẹ nghe xem.”

Đêm quá lạnh và ngoài sân quá yên tĩnh. Xa xa chó sủa, tru lên thống thiết và buồn bã. Vài phút trôi qua. Im lặng bao trùm và thầm kín lan rộng như một bông hoa đen.

“Được rồi, các con,” hồi lâu sau tôi nói. “Vào trong nhà kẻo không lại nhiễm lạnh ngoài đây mất.”

Không chỉ Siyah với tôi cảm thấy sự bẽn lẽn của một cô dâu và chú rể bị bỏ lại một mình với nhau sau lễ cưới, mà cả Hayriye và bọn trẻ, tất cả chúng tôi, đều ngập ngừng bước vào nhà của mình như thể nó là ngôi nhà tối tăm của một kẻ lạ. Chúng tôi gặp phải mùi xác chết của cha tôi, nhưng không ai tỏ vẻ nhận ra điều đó. Chúng tôi lặng lẽ leo lên lầu, và những chiếc bóng hắt lên trần qua ánh sáng của ngọn đèn dầu, như mọi khi, xoay tròn và hòa vào nhau, lúc giãn ra, khi co lại, nhưng có vẻ như đang làm thế lần đầu. Trên lầu, khi chúng tôi cởi giày ngoài hành lang, Shevket hỏi:

“Trước khi đi ngủ con hôn tay ông ngoại được không?”

“Tôi vừa vào thăm ông xong,” Hayriye nói. “Ông ngoại cậu đau đớn và khó chịu đến độ ta thấy rõ là ác thần đã tóm được ông. Sốt cao làm ông kiệt sức. Lên phòng cậu đi, để tôi dọn giường cho cậu.”

Hayriye dắt chúng vào phòng. Trong khi trải nệm và khăn phủ mền ra, chị ta làm như mọi món chị ta cầm là một thứ độc đáo lạ thường trên thế giới và lẩm bẩm về chuyện ngủ ở đây, trong căn phòng ấm giữa những tấm khăn sạch và mền ấm, thì chẳng khác gì qua đêm trong cung điện nhà vua.

“Hayriye, kể chuyện cho tụi em nghe đi,” Orhan nói trong khi ngồi trên bô.

“Ngày xửa ngày xưa có một người màu xanh,” Hayriye kể, “và bạn thân nhất của ông ta là một âm hồn.”

“Tại sao người đó có màu xanh?” Orhan hỏi.

“Lạy thánh thần, Hayriye,” tôi nói. “Ít nhất thì tối nay cũng đừng kể chuyện âm hồn hay ma quỷ nữa.”

“Sao không được kể?” Shevket hỏi. “Mẹ ơi tụi con ngủ rồi mẹ sẽ qua chỗ ông ngoại hả?”

“Ông ngoại con, cầu xin Allah che chở, bệnh nặng lắm”, tôi nói. “Dĩ nhiên ban đêm mẹ sẽ ở cạnh ông để chăm sóc. Sau đó mẹ sẽ quay lại với các con, đúng không?”

“Có Hayriye chăm sóc ông rồi,” Shevket nói. “Bộ ban đêm Hayriye không chăm sóc ông sao?”

“Cậu xong chưa?” Hayriye hỏi Orhan. Khi chị ta chùi đít Orhan bằng miếng giẻ ướt, mặt nó bơ phờ. Chị ta nhìn vào bô và nhăn mặt, không phải vì cái mùi, mà như thể những gì chị ta thấy là chưa đủ.

“Hayriye,” tôi nói. “Đổ bô rồi đem nó vô đây nghe. Tôi không muốn Shevket rời phòng lúc nửa đêm.”

“Sao con không được rời khỏi phòng?” Shevket hỏi. “Sao Hayriye không được kể chuyện ma quỷ?” Bởi vì có âm hồn trong nhà này rồi, ngốc ạ,” Orhan nói, không phải vì sợ hãi, mà với tinh thần lạc quan ngu ngốc mà tôi luôn nhận thấy sau khi nó đi ỉa xong.

“Mẹ, có âm hồn ở đây hả?”

“Nếu con rời khỏi phòng, nếu con cố đi gặp ông ngoại, âm hồn sẽ bắt con.”

“Siyah bày giường ở đâu?” Shevket hỏi. “Tối nay ông ấy ngủ ở đâu?”

“Mẹ không biết,” tôi nói. “Hayriye sẽ dọn giường cho ông ấy.”

“Mẹ ơi mẹ ngủ với tụi con, phải không?” Shevket nói.

“Mẹ đã nói với con bao nhiêu lần rồi? Mẹ vẫn ngủ với hai con như trước đây.”

“Lúc nào cũng vậy hả?”

Hayriye đi đổ bô. Từ trong tủ nơi tôi đã cất giấu, tôi lấy ra chín bức tranh còn lại mà tên giết người khốn nạn đã bỏ lại rồi ngồi xuống giường. Dưới ánh nến, tôi nhìn chúng chăm chú hồi lâu, cố hiểu bí mật của chúng. Những bức minh họa này đủ đẹp để ta có thể lầm chúng là những ký ức đã quên mất của chính ta; và với phần chữ viết, khi ta nhìn vào chúng, chúng liền lên tiếng.

Tôi đắm mình vào những bức tranh. Qua mùi thơm từ cái đầu xinh đẹp của Orhan mà tôi dụi mũi vào, tôi hiểu rằng nó cũng nhìn vào màu Đỏ đáng ngờ và kỳ cục đó. Như đôi khi vẫn xảy ra, tôi bị thôi thúc muốn vạch vú ra cho nó bú. Sau đó, khi Orhan sợ hãi trước bức tranh khủng khiếp vẽ Thần chết, nó nhẹ nhàng và dịu dàng thở bằng cái miệng đỏ tươi, bất chợt tôi muốn ăn thịt nó.

“Mẹ sẽ ăn thịt con, con hiểu không?”

“Mẹ, cù lét con đi,” nó nói và nằm lăn ra.

“Đứng dậy, nhanh lên nhóc con,” tôi hét lên và phát vào mông nó. Nó đã nằm lên các bức tranh. Tôi kiểm tra các bức minh họa; rõ ràng chưa có thiệt hại gì. Hình ảnh con ngựa của bức tranh trên cùng hơi bị nhàu, nhưng khó phát hiện.

Hayriye bước vào với chiếc bô không. Tôi gom các bức tranh lại và sắp rời phòng thì Shevket bật khóc:

“Mẹ ơi mẹ tính đi đâu?”

“Mẹ trở vô liền mà.”

Tôi băng qua hành lang lạnh ngắt. Siyah ngồi đối diện chiếc nệm trống của cha tôi, đúng vị trí anh đã ngồi bàn về hội họa và luật phối cảnh với ông suốt bốn ngày. Tôi trải những bức tranh lên giá đọc sách, trên nệm và dưới sàn nhà trước mặt anh. Màu sắc bất chợt tràn ngập căn phòng đốt nến với một sự ấm áp và sống động kỳ lạ, như thể mọi thứ được đưa vào chuyển động.

Hoàn toàn bất động, chúng tôi nhìn những bức tranh hồi lâu im lặng và đầy thành kính. Thậm chí khi chúng tôi làm động tác nhẹ nhàng nhất, bầu không khí yên tĩnh, vốn mang mùi cái chết từ căn phòng bên kia hành lang rộng, cũng làm ánh nến đung đưa và những bức minh họa bí ẩn của cha tôi cũng có vẻ như chuyển động. Phải chăng những bức tranh có ý nghĩa quan trọng như thế đối với tôi bởi chúng là nguyên nhân dẫn đến cái chết của cha tôi? Tôi có bị mê hoặc bởi nét đặc biệt của con ngựa hay vẻ lạ thường của màu Đỏ, bởi sự khốn khổ của cội cây hay nỗi buồn của hai tín đồ khổ tu lang thang, hay đó là do tôi sợ tên sát nhân đã giết cha tôi và có lẽ còn giết những người khác nữa vì mấy bức minh họa này? Một lát sau, Siyah và tôi đều hiểu rõ rằng sự im lặng giữa chúng tôi có thể do những bức tranh gây ra, mà cũng do chúng tôi ở một mình với nhau trong cùng căn phòng vào đêm tân hôn của chúng tôi. Cả hai đều muốn lên tiếng:

“Sáng mai khi thức dậy, chúng ta phải nói với mọi người rằng người cha bất hạnh của em đã qua đời trong giấc ngủ.” tôi nói. Dù điều tôi nói là đúng, nhưng có vẻ như tôi không thành thực.

“Sáng mai mọi thứ sẽ ổn cả.” Siyah nói với cùng một vẻ lạ kỳ như thế, không thể tin vào sự thật của những gì anh vừa nói.

Khi anh làm một động tác gần như không thấy được để tiến đến gần tôi hơn, tôi bị thôi thúc muốn ôm chầm lấy anh, như tôi đã làm với bọn trẻ, để ôm lấy đầu anh trong tay mình.

Ngay lúc đó, tôi nghe tiếng cửa phòng cha tôi bật mở, bật dậy trong kinh hoàng, tôi chạy tới, mở cửa phòng chúng tôi mà nhìn ra: Qua ánh sáng hắt ra hành lang, tôi choáng váng khi thấy cửa phòng cha tôi hé mở. Tôi bước ra hành lang lạnh ngắt. Phòng của cha tôi, được sưởi bằng thùng than vẫn cháy, bốc đầy mùi thối rữa. Shevket hay ai đó đã đến đây sao? Xác ông, trong bộ đồ ngủ vẫn nằm bình yên, chìm trong ánh sáng yếu ớt của thùng sưởi. Tôi nghĩ đến cảnh mà trong nhiều đêm tôi thường nói:

“Chúc ngủ ngon, cha thân yêu.” trong khi ông đọc Kitab al-Ruh dưới ánh nến trước khi ngủ. Hơi nhóm người dậy, ông đón chiếc ly tôi mang đến cho ông và nói: “Cầu mong cho người mang nước đến không bao giờ thiếu thốn thứ gì,” trước khi hôn lên má tôi và nhìn vào mắt tôi như ông thường làm khi tôi còn con gái. Tôi nhìn xuống khuôn mặt khủng khiếp của cha tôi và, tóm lại, tôi thấy sợ. Tôi muốn tránh nhìn vào ông, trong khi đồng thời, bị Quỷ sứ thôi thúc, tôi muốn thấy ông đã trở nên kinh khủng đến mức nào.

Tôi rón rén trở về phòng có cánh cửa xanh rồi Siyah chồm vào tôi. Tôi đẩy anh ra, do vô tâm hơn là do giận dữ. Chúng tôi giằng co trong ánh sáng chập chờn của ngọn nến, dù không thực sự vật lộn mà chỉ bắt chước một cuộc vật lộn. Chúng tôi thích thú với việc đụng vào nhau, chạm tay, chân và ngực của nhau. Sự bối rối này tôi cảm thấy giống tình trạng xúc cảm mà Nizami đã mô tả về Husrev và Shirin: Có thể nào Siyah, người đã đọc Nizami quá kỹ, cảm thấy rằng, giống như Shirin, khi tôi nói: “Đừng hôn em mạnh quá đến độ làm bầm cả môi em” thì tôi cũng hàm ý “Tiếp tục đi”?

Em không ngủ chung giường với anh chừng nào chưa truy tầm ra kẻ ác đó, chừng nào kẻ giết cha em chưa bị bắt.” tôi nói.

Khi chạy khỏi phòng, tôi cảm thấy bối rối. Tôi đã nói bằng một giọng the thé như thế, đến độ có vẻ như tôi muốn cho bọn trẻ và Hayriye nghe được những gì tôi nói - thậm chí có lẽ cho cả người cha tội nghiệp và người chồng quá cố của tôi, mà thân xác từ lâu đã thối rữa và hóa thành đất bụi trên vùng đất khô cằn nào đó không ai biết.

Ngay khi tôi quay lại với bọn trẻ, Orhan nói, “Mẹ ơi, Shevket ra ngoài hành lang.”

“Con ra đó hả?” tôi hỏi, ra vẻ như sắp phát vào mông nó.

“Hayriye,” Shevket nói và ôm chị ta.

“Cậu ấy không ra đó,” Hayriye nói. “Cậu ấy ở trong phòng suốt.”

Tôi rùng mình và tránh nhìn vào mắt chị ta. Tôi nhận ra rằng sau khi cái chết của cha tôi được thông báo, bọn trẻ từ đó sẽ tìm chỗ che chở ở Hayriye, nói với chị ta tất cả những bí mật của chúng tôi, và rồi người đầy tớ hèn mọn ấy sẽ lợi dụng cơ hội này để tìm cách điều khiển tôi. Chị ta sẽ không dừng lại ở đó, mà sẽ đặt trách nhiệm việc giết cha tôi lên vai tôi, sau đó chị ta sẽ đưa việc giám hộ bọn trẻ sang cho Ha san! Phải, thực tế chị ta sẽ làm như vậy! Tất cả mưu đồ trơ trẽn này là do chị ta đã ngủ với cha tôi - cầu cho ông được yên nghỉ. Tại sao tôi lại phải tiếp tục giấu giếm tất cả những chuyện này với bạn? Dĩ nhiên thực tế chị ta đang làm chính điều này đây. Tôi mỉm cười ngọt ngào với chị ta. Sau đó, tôi bế Shevket lên đùi mà hôn nó.

“Con nói với mẹ là Shevket đã ra ngoài hành lang mà,” Orhan nói.

“Vào giường đi hai đứa. Để mẹ nằm giữa kể cho tụi con nghe câu chuyện con chó rừng không đuôi và vị hắc thần.”

“Nhưng mẹ nói Hayriye không được kể cho tụi con nghe chuyện thần thánh ma quỷ mà,” Shevket nói. “Sao tối nay Hayriye không được kể chuyện cho tụi con?”

“Họ đến Thành phố của những đứa trẻ bị từ bỏ hả?” Orhan hỏi.

“Phải!” tôi nói. “Không đứa bé nào trong thành phố đó có mẹ hay cha. Hayriye, xuống nhà kiểm tra cửa nẻo lần nữa đi. Chúng tôi chắc sẽ ngủ giữa chừng câu chuyện.”

“Con không ngủ đâu,” Orhan nói.

“Tối nay Siyah ngủ ở đâu?” Shevket hỏi.

“Trong xưởng,” tôi nói. “Nằm sát mẹ cho ấm. Chân đứa nào lạnh dữ vậy?”

“Chân con đó,” Shevket nói. “Hayriye ngủ ở đâu?”

Tôi bắt đầu kể chuyện, và như thường lệ, Orhan thiếp ngủ trước, sau đó tôi hạ thấp giọng.

“Con ngủ rồi, mẹ đừng đi đâu mẹ nhá?” Shevket nói.

“Ừ mẹ không đi đâu.”

Thật tình tôi không có ý định rời giường. Sau khi Shevket ngủ, tôi ngẫm nghĩ rằng thú vị làm sao khi được ngủ bên các con tôi vào đêm động phòng của lần tái giá - trong khi người chồng thông minh, đẹp trai, đầy khao khát của tôi thì ngủ trong căn phòng kề cận. Tôi ngủ lơ mơ với những ý tưởng như thế, nhưng giấc ngủ của tôi chập chờn. Sau này, những gì tôi nhớ lại được về cái trạng thái bồn chồn kỳ lạ giữa mơ và tỉnh đó là thế này: Trước tiên, tôi thanh toán sòng phẳng với tấm linh hồn giận dữ của người cha quá cố của tôi, sau đó tôi chạy trốn tên giết người tàn ác vốn muốn đưa tôi đi theo cha tôi. Khi hắn đuổi theo tôi, tên giết người sắt đá đó, thậm chí còn đáng sợ hơn linh hồn của cha tôi bắt đầu gây náo loạn ầm ĩ. Trong giấc mơ, hắn ném đá vào nhà tôi, bay trúng cửa sổ và rơi trên mái. Sau đó, hắn ném một viên đá vào cửa chính đến mức gần như phá tung cánh cửa. Kế đó khi cái linh hồn xấu xa nọ bắt đầu rên rỉ như một con thú quái quỷ nào đó thì tim tôi bắt đầu đập thình thịch.

Tôi thức dậy mồ hôi đầm đìa. Phải chăng tôi nghe được những âm thanh đó trong giấc mơ, hay là tôi thức giấc vì những âm thanh ở đâu đó trong nhà? Tôi không xác định được. Thế là tôi rúm lại với lũ trẻ, và không dám cử động, tôi chờ đợi. Tôi gần như đã tự trấn an rằng những tiếng động đó chỉ là trong giấc ngủ của mình thì lại nghe tiếng rên rỉ. Ngay lúc ấy, một vật gì rất lớn rơi huỵch xuống sân. Chỉ là một cục đá, có lẽ vậy chăng?

Tôi cứng người vì sợ. Nhưng tình hình lập tức còn tồi tệ hơn.

Tôi nghe có tiếng động ngay trong nhà. Hayriye ở đâu? Siyah ngủ thiếp đi trong phòng nào? Thi thể đáng thương của cha tôi hiện ra sao? Ôi Thượng đế, tôi cầu xin, hãy bảo vệ chúng con. Bọn trẻ vẫn ngủ say.

Nếu chuyện này xảy ra trước khi tôi kết hôn, hẳn tôi đã rời khỏi giường và đi kiểm soát tình hình như người đàn ông trong nhà, tôi hẳn đã trấn áp được nỗi sợ hãi và xua đi mọi ma quỉ âm hồn. Tuy nhiên, trong tình cảnh hiện nay tôi rúm người lại và ôm lấy lũ trẻ. Làm như chẳng còn một ai khác trên đời này. Sẽ chẳng có ai đến trợ giúp lũ trẻ với tôi. Trong cảnh chờ đợi một điều gì khủng khiếp xảy rồi tôi cầu xin đấng Allah cứu giúp. Giống như trong những giấc mời tôi luôn cô độc. Tôi nghe tiếng cổng ngoài sân mở ra. Đó là cổng vào sân, phải không? Phải, dứt khoát là thế.

Tôi bất thần chồm dậy, chộp lấy áo khoác ngoài và rời khỏi phòng mà thậm chí không biết mình đang làm gì.

“Siyah!” Tôi đứng ở đầu cầu thang trầm giọng kêu lên.

Sau khi vội vã thọc chân vào đôi giày, tôi đi xuống cầu thang, ngọn nến tôi thắp ở thùng than tắt phụt ngay khi tôi ra tới lối đi lót đá ngoài sân. Một cơn gió mạnh nổi lên, dù trời rất trong.

Ngay khi mắt đã quen với bóng tối, tôi thấy vầng trăng trung tuần rọi sáng khắp sân. Thánh Allah kính yêu ơi! Cánh cổng vào sân mở toang. Tôi đứng sững sờ, run rẩy trong khí lạnh.

Sao tôi không đem theo một con dao? Mà tôi cũng không cầm theo cái giá nến hay khúc củi nào. Trong khoảnh khắc, trong bóng tối, tôi thấy cánh cổng tự động nhúc nhích. Sau đó, khi nó có vẻ đứng yên, tôi nghe nó rít lên. Tôi nhớ khi đó mình nghĩ, đây có vẻ giống một giấc mơ.

Khi đó tôi nghe tiếng động từ trong nhà cứ như ngay bên dưới mái nhà, tôi hiểu rằng linh hồn cha tôi đang vật vã để rời khỏi thân xác. Việc biết linh hồn cha tôi đang trong trạng thái dằn vặt như thế khiến tôi cảm thấy vừa dễ chịu vừa đau đớn cực độ.

Tôi nghĩ nếu Cha là nguyên nhân gây ra những tiếng động này thì sẽ không có điều xấu nào xảy ra với tôi. Mặt khác, hình ảnh linh hồn bị dằn vặt của ông, điên cuồng bay lung tung, cố thoát đi và bay lên, khiến tôi quá đau khổ đến độ tôi cầu xin thánh Allah vỗ về ông. Nhưng khi tôi chợt nghĩ ra rằng linh hồn ông sẽ bảo vệ tôi và bọn trẻ, một cảm giác vô cùng nhẹ nhõm trùm lấy tôi. Nếu thực sự có một thứ ma quỷ nào đó đang mưu điều ác đằng sau cánh cổng, hãy để hắn khiếp sợ linh hồn xáo động của cha tôi.

Ngay sau đó, tôi lo rằng có lẽ chính Siyah đã khiến cha tôi khó chịu như thế. Cha tôi gây điều xấu cho Siyah chăng? Anh ấy đâu rồi? Ngay khi ấy, ngoài cổng, trên đường, tôi nhận ra anh và cứng người lại. Anh đang nói chuyện với ai đó.

Người đàn ông đang nói chuyện với Siyah bên hàng cây trong sân trống tuốt bên kia đường. Tôi có thể suy ra rằng tiếng rú tôi nghe khi nằm trên giường là do người đàn ông này mà tôi biết ngay là Hasan. Có một sự căng thẳng buồn rầu, một vẻ bi thương trong giọng nói của chú ấy, nhưng cũng hàm ý đe dọa.

Tôi đứng từ xa lắng nghe họ. Trong đêm yên tĩnh, họ mải miết lăng mạ nhau.

Tôi hiểu rằng tôi hoàn toàn lẻ loi trên đời này cùng bọn trẻ.

Tôi nghĩ rằng tôi yêu Siyah, nhưng nói thật, điều tôi muốn là chỉ yêu một mình Siyah - vì giọng nói u sầu của Hasan làm cháy xém tim tôi.

“Ngày mai tôi sẽ trở lại mang theo quan tòa, binh lính và nhân chứng, họ sẽ thề rằng anh trai tôi vẫn còn sống và vẫn đang chiến đấu ở vùng núi Ba Tư”, chú ấy nói. “Đám cưới của các người là bất hợp pháp, các người phạm phải tội thông dâm rồi đó.”

“Shekure không phải là vợ anh, nàng là vợ của người anh quá cố của anh.” Siyah nói.

“Anh trai tôi vẫn còn sống,” Hasan nói đầy tự tin. “Có nhân chứng đã thấy anh ấy.”

“Sáng nay, dựa trên việc anh ta không trở về sau bốn năm đi chiến dịch, quan tòa Uskudar đã cho phép Shekure ly dị. Nếu anh ấy còn sống, hãy bảo các nhân chứng của anh nói với anh ta rằng hiện anh ta là người đã ly dị.”

“Shekure bị cấm tái giá trong một tháng,” Hasan nói. “Nếu không thì đó là một sụ xúc phạm kinh Koran. Làm sao cha của Shekure có thể đồng ý một điều nhảm nhí tồi tệ như thế?”

“Enishte Kính mến bệnh rất nặng.” Siyah nói. “Ông ấy đang hấp hối...và quan tòa đã thừa nhận cuộc hôn nhân của chúng tôi.”

“Các người hẳn đã cùng nhau đầu độc Enishte của anh chứ gì?”, Hasan nói. “Các người đã lên kế hoạch chuyện này với Hayriye phải không?”

“Cha vợ tôi hết sức giận dữ vì những gì anh đã làm với Shekure. Anh trai anh, nếu quả thực còn sống, có thể cũng sẽ yêu cầu anh giải thích thái độ sàm sỡ của anh.”

“Toàn những lời dối trá”, Hasan nói. “Đó chỉ là những cái cớ Shekure bịa ra để cô ấy rời bỏ chúng tôi.”

Có một tiếng gào từ trong nhà, người gào lên đó là Hayriye.

Kế đến Shevket thét lên. Họ la hét lẫn nhau. Bất ngờ và sợ hãi, không kìm được mình, tôi cũng hét lên và chạy vào nhà mà không biết mình đang làm gì.

Shevket chạy xuống cầu thang và phóng ra sân.

“Ông ngoại lạnh như nước đá,” nó khóc.

“Ông ngoại con chết rồi.”

Chúng tôi ôm nhau, tôi bế nó lên. Hayriye vẫn la hét. Siyah và Hasan nghe thấy tiếng hét và những câu nó nói.

“Mẹ ơi người ta giết ông ngoại rồi,” lần này Shevket nói.

Mọi người cũng nghe câu này. Hasan có nghe không? Tôi ôm chặt Shevket, và bình tĩnh đi với nó vào trong. Trên đầu cầu thang Hayriye đang tự hỏi làm sao thằng bé thức giấc mà lẻn ra đây được.

“Mẹ đã hứa là không bỏ tụi con mà.” Shevket nói, và bắt đầu khóc.

Đầu óc tôi lúc này mải nghĩ về Siyah. Bởi đang bị vướng với Hasan nên anh không nghĩ đến việc đóng cổng. Tôi hôn hai má Shevket và ôm nó chặt hơn, hít mùi thơm ở cổ nó, an ủi nó. Cuối cùng tôi vừa trao nó cho Hayriye vừa thì thầm: “Cả hai lên lầu đi.”

Họ lên cầu thang, tôi quay lại và đứng cách cổng vài bước chân, cho rằng Hasan không thấy được tôi. Chú ấy đã đổi vị trí trong khu vườn tối đen bên kia đường, có lẽ đã chuyển ra đằng sau hàng cây dọc theo con đường chăng? Tuy nhiên, hóa ra chú ấy đã thấy tôi, và khi nói, chú ấy nói cả với tôi nữa. Thật khó chịu khi tụ họp trong bóng tối với ai đó mà mình không thể thấy mặt, những còn tồi tệ hơn thế, như Hasan đã buộc tội tôi, buộc tội chúng tôi, ấy là khi tôi nhận ra tự đáy lòng rằng chú ấy đúng. Với chú ấy, và với cha tôi, tôi luôn cảm thấy mình có tội, mình luôn luôn sai trái. Hơn nữa, bây giờ, tôi biết với nỗi buồn sâu sắc rằng tôi đã yêu người đàn ông đang buộc tội mình. Xin đấng Allah yêu quý hãy giúp tôi. Tình yêu không phải là đau khổ chỉ vì đau khổ, mà là một phương tiện để đến với Người, có đúng vậy không?

Hasan đã khẳng định rằng tôi cấu kết với Siyah để giết cha tôi. Chú ấy nói chú đã nghe những lời của Shevket, và thêm rằng mọi chuyện đã bị phơi bày và chúng tôi đã phạm một tội không thể tha thứ, đáng bị những hình phạt trong Hỏa ngục. Đến sáng chú ấy sẽ đi gặp quan tòa để giải thích tất cả. Nếu tôi được chứng minh là vô tội, nếu bàn tay tôi không vấy máu cha tôi, chú ấy thề sẽ đưa tôi và bọn trẻ trở về nhà chú ấy, ở đó chú sẽ làm một người cha cho đến khi anh trai chú trở về. Tuy nhiên, nếu tôi có tội, một Phụ nữ như tôi, kẻ đã nhẫn tâm ruồng bỏ chồng mình - người đàn ông sẵn sàng thực hiện hành động hy sinh cao cả nhất - thì với cô ấy không hình phạt nào là quá nghiêm khắc cả. Chúng tôi kiên nhẫn lắng nghe cơn giận dữ của chú ấy, sau đó nhận thấy có một sự im lặng đột ngột giữa đám cây.

“Nếu bây giờ cô tự ý trở về nhà người chồng thực sự của cô”, Hasan nói bằng một giọng điệu hoàn toàn khác, “nếu cô lặng lẽ trở về cùng bọn trẻ mà không để ai trông thấy, tôi sẽ quên trò đám cưới giả này, những tội ác mà cô phạm phải, tất cả, tôi sẽ tha thứ hết. Và chúng ta sẽ cùng nhau chờ, Shekure ạ. từ năm này sang năm khác, cho đến lúc anh trai tôi trở về. Chú ấy say rồi chăng? Có một điều gì quá trẻ con trong giọng của chú ấy và những điều chú ấy đang đề xuất với chồng tôi đến độ tôi sợ nó có thể khiến chú ấy mất mạng.

“Cô có hiểu không?” Chú gọi vọng ra từ hàng cây.

Tôi không thể xác định chính xác chú ấy ở đâu trong bóng tối. Thượng đế lòng lành, hãy đến giúp chúng con, những đầy tớ tội lỗi của Người.

“Bởi vì cô không thể sống cùng mái nhà với người đã giết cha cô, Shekure. Điều đó tôi biết.”

Bất chợt tôi nghĩ rằng chú ấy có thể là người đã giết cha tôi, và có lẽ chú ấy hiện đang chế nhạo chúng tôi. Tay Hasan này là hiện thân của Quỷ sứ. Nhưng tôi không thể chắc chắn bất cứ điều gì.

“Nghe tôi này Hasan Kính mến,” Siyah nói vọng ra từ bóng tối, “Cha vợ tôi bị giết, thật sự như vậy. Những kẻ tột cùng đê tiện đã giết ông ấy.”

“Ông ấy bị giết trước đám cưới, đúng thế chứ?” Hasan nói. “Hai người đã giết ông ta vì ông ta phản đối đám cưới giả này, vụ ly dị giả này, những nhân chứng giả, và tất cả trò lừa dối của các người. Nếu ông ta cho rằng Siyah thích hợp thì ông ta đã gả con gái mình cho anh nhiều năm trước rồi.”

Sau khi sống nhiều năm với người chồng quá cố của tôi, với chúng tôi, Hasan biết quá khứ của chúng tôi như chính chúng tôi vậy. Và với nỗi đam mê của một người tình bị ruồng bỏ, chú ấy nhớ được đến từng chi tiết nhỏ về tất cả những gì tôi đã bàn bạc với chồng tôi tại nhà nhưng sau đó đã quên, hoặc bây giờ muốn quên. Qua bao năm, chúng tôi - chú ấy, anh trai chú ấy và tôi - đã có chung nhiều kỷ niệm đến độ tôi e rằng Siyah có vẻ lạ lẫm, mới mẻ và cách xa tôi làm sao nếu Hasan bắt đầu nhắc lại quá khứ.

“Chúng tôi nghi anh chính là kẻ đã giết ông ta,” Siyah nói.

“Trái lại, các người mới là kẻ giết ông ta để lấy nhau. Điều đó quá rõ. Về phần tôi, tôi không có động cơ.”

“Anh giết ông ấy để chúng tôi không lấy nhau được,” Siyah nói. “Khi anh biết rằng ông ta cho phép Shekure ly dị và chúng tôi cưới nhau, anh đã mất trí. Ngoài ra anh rất giận Enishte Kính mến vì ông ta đã khuyến khích Shekure trở về sống với ông ta. Anh muốn trả thù. Chừng nào ông ta còn sống, anh biết mình sẽ không bao giờ có được Shekure.”

“Dẹp cái trò quanh co của anh đi,” Hasan nói dứt khoát. “Tôi không thèm nghe điều nhảm nhí này. Ở đây lạnh quá. Tôi chết cóng ở ngoài này khi cố đánh động anh bằng mấy viên đá - anh có nghe tiếng ném đá không?”

“Siyah đang lo nghiên cứu những bức minh họa của cha tôi,” tôi nói.

Tôi đã hành động sai khi nói điều này chăng?

Hasan nói bằng chính giọng điệu giả dối mà đôi khi tôi phải sử dụng với Siyah: “Shekure, vì cô là vợ của anh tôi, nên cách hay nhất của cô bây giờ là cô hãy cùng các con quay về ngôi nhà của người lính kỵ binh anh dũng mà cô vẫn còn là vợ theo kinh Koran.

“Tôi từ chối,” tôi nói, như rít vào màn đêm. “Tôi từ chối, Hasan ạ. Không.”

“Vậy trách nhiệm và lòng tận tâm với anh trai tôi buộc tôi phải báo với quan tòa ngay sáng mai về những gì tôi nghe được ở đây. Vả lại họ sẽ yêu cầu tôi giải thích.”

“Dù sao thì họ cũng sẽ yêu cầu anh giải thích,” Siyah nói. “Ngay lúc anh đến chỗ quan tòa, tôi sẽ tiết lộ rằng anh là kẻ đã giết Enishte Kính mến, người đầy tớ yêu thương của Đức vua…Đúng sáng mai.”

“Được lắm,” Hasan nói một cách điềm tĩnh. “Cứ tố giác đi.”

Tôi hét lên. “Họ sẽ tra tấn cả hai người!” tôi kêu lên. “Đừng đến chỗ quan tòa. Đợi đã. Mọi thứ sẽ rõ ràng thôi.”

“Tôi không sợ tra tấn.” Hasan nói. “Trước đây tôi đã hai lần bị tra tấn rồi, và cả hai lần tôi đều hiểu đó là cách duy nhất để phân biệt kẻ tội lỗi với người vô tội. Cứ để bọn vu khống sợ tra tấn. Tôi sẽ nói với quan tòa, chỉ huy binh lính,Thượng thư tôn giáo vụ, tất cả mọi người về cuốn sách và những bức minh họa của Enishte Kính mến. Mọi người đang bàn về những tranh minh họa này. Có chuyện gì với chúng vậy? Có cái gì trong những bức tranh minh họa đó?”

“Chẳng có gì trong đó cả”, Siyah nói.

“Điều có có nghĩa là anh đã xem xét chúng ngay khi có cơ hội.”

“Enishte Kính mến muốn tôi hoàn tất cuốn sách đó.”

“Rất tốt. Tôi hy vọng, theo ý Thượng đế, rằng họ sẽ tra tấn cả hai chúng ta.”

Cả hai đều im lặng. Kế đó, Siyah và tôi nghe tiếng chân trong sân vắng vẻ. Chúng đang rời xa hay đến gần chúng tôi? Chúng tôi không thấy được Hasan mà cũng không biết chú ấy đang làm gì. Chú ấy quả là điên rồ nếu cứ băng càn qua những bụi gai, lùm cây và những bụi mâm xôi trồng dài theo mé cuối vườn trong đêm tối như mực này. Chú ấy có thể bỏ đi dễ dàng mà không bị ai thấy, nếu chú ấy băng qua đám cây và rẽ ngay trước mặt chúng tôi, nhưng chúng tôi không nghe tiếng chân nào gần chúng tôi cả.

Tôi liều la lên, “Hasan!” Không có tiếng trả lời.

“Suỵt”, Siyah nói.

Cả hai chúng tôi run lên vì lạnh. Không chút do dự, chúng tôi đóng chặt cổng và các cửa lại. Trước khi bước vào cái giường ấm hơi bọn trẻ, tôi kiểm tra cha tôi lần nữa. Trong khi đó, Siyah lại ngồi trước những bức tranh.

[1]Tamerlane: tên Latinh của Timur Lenk hoặc Timur-e Lang (1336-1405): kẻ chinh phục phần lớn Tây và Trung Á, lập ra đế quốc Timurid. [Mọi chú thích đều của người dịch].

[2]Ibn Arabi (1165-1240): học giả Hồi giáo, triết gia phái thần bí.

[3]Effendi: Quí ngài đáng kính,- trong tiếng Thổ. Chúng tôi tạm dịch là “kính mến” khi danh xưng này đứng sau tên gọi.

[4]Nusret Hoia: Có lẽ tác giả lấy nguyên mẫu từ Mehmed xứ Birgi (1522-1573), một giáo sĩ chủ trương chống lại mọi cải cách trong hành đạo Hồi giáo, cho rằng mọi ảnh hưởng phương Tây, cho đến cà phê, thuốc lá, bài ca, điệu múa đều ngược với giáo luật Hoja hoặc Khoja, nghĩa là “thủ lãnh, người giảng giải kinh sách.”

[5]Nhà tiểu họa: thợ vẽ tranh trang trí, nhất là cho các bản thảo thời đế quốc Ottoman.Họ thường dùng màu sáng, thậm chí dát vàng bạc vào tranh. Tiểu họa Ottoman không theo luật phối cảnh vì theo tinh thần Hồi giáo, vẽ tranh hiện thực là một tội lỗi. Nhân vật chính trong truyện là một nhà tiểu họa.

[6]Halic (người Anh gọi là Golden Horn - Sừng vàng - theo tên gọi bằng tiếng Hy Lạp): Cửa sông chia Istanbul làm hai.

[7]Enishte có nghĩa là “dượng” (theo cách gọi của miền Nam) hay “chú” (theo cách gọi miền Bắc) tức chồng của dì (em gái mẹ mình).

[8]Đơn vị tiền tệ của Hy Lạp.

[9]Khổ tu: (dervish, tiếng Ba Tư, nghĩa đen, kẻ ăn mày, khất sĩ) Những tín đồ thường thuộc phái Sufi, một hệ phái thần bí muốn tìm đến Thượng đế thông qua chay tịnh, nhịn ăn, tham thiền, nhảy múa, ca hát…Đôi khi họ bị lên án là dị giáo ở các tỉnh miền đông Thổ Nhĩ Kỳ. Một chi phái cực đoan của hệ khổ tu là Kalenderi cũng được nhắc tới trong tiểu thuyết này. Họ chủ trương tránh mọi sự phô trương, biểu tượng bề ngoài và tổ chức giáo phẩm; họ giữ kín việc thờ phượng, coi thường mọi tập tục chính thức của đạo Hồi và ít nhiều chống đối chính quyền.

[10]Nghi lễ ngày thứ 40: một phong tục tang chế Hồi giáo, gồm việc cầu kinh cho người chết và phân phát thực phẩm cho người sống, được cử hành vào ngày thứ 40 sau cái chết.

[11]Hang động.

[12]Tác giả ám chỉ thi phẩm Khusraw o Shirin (“Khusraw và Shirin”), còn viết là Husrev o Shirin của nhà thơ Nezami Ganjavi hoặc Nizami Gancevi (1141-1209) người Azerbaijan, được coi là tác giả sử thi trữ tình lớn nhất trong văn học Ba Tư.

[13] Hai nhân vật trong thi phẩm Leyla o Meinun (Leyli và Mejnun) cũng của Nezami.

[14] Kitab al-Ruh (Sách về linh hồn): Tác phẩm của tôn Qayyim Al-Jawziyya (trong đây được viết thành El-jevziyye) trình bày quan niệm của Hồi giáo về kiếp sau theo kinh Koran và học thuyết của các giáo sĩ khác, trong đó khẳng định rằng người chết nghe được và biết rõ người sống.

[15] Trong truyền thống Hồi giáo, Satan được gọi theo tiếng Ả Rập là Shaitan. Tên gọi này vốn là một tĩnh từ, có nghĩa là “lạc lối” vì Shaitan chuyên cám dỗ loài người đi lạc lối. Kinh Koran còn gọi Shaitan bằng một tên khác là Iblis. Pamuk giành chương 47 của tiểu thuyết này để kể về Satan, chủ yếu là dựa theo kinh Koran.

[16] Có hai bản Sur-nama (còn viết là Sumama-i Humayun), một về các lễ hội dưới triều vua Armet III (1673-1736) được hoàn tất năm 1720 , và một về lễ hội dưới triều vua Murad III (1574-1595) hoàn tất năm 1582. Cả hai đều có nhiều minh họa. Tranh trong cuốn thứ nhất đã chịu ảnh hưởng của hội họa phương Tây nên ở đây tác giả muốn nói đến cuốn thứ nhì.

[17] Hegira: cuộc di cư của Muhammad và các đồ đệ đến thành Medina năm 622, năm này được coi là năm thứ nhất trong lịch Hồi giáo.

[18] Bản tiếng Anh dùng chữ Seal, vừa có nghĩa là con dấu, vừa là dấu niêm phong. Thời xưa người ta niêm phong bằng cách đổ một ít sáp gắn hai mép phong bì lại rồi áp con dấu riêng của mình (thường là mặt của chiếc nhẫn) vào lớp sáp nóng.

[19] Âm hồn (Ả Rập jinniy): Trong thần thoại Ả Rập, một lớp hữu thể siêu nhiên thấp hơn cấp thiên thần hay ác quỷ, tên gọi này trong tiếng Anh được viết thành jinn, jinni, genie hoặc genii. Với bản chất là lửa hoặc khí. Âm hồn có khả năng đội lốt người hoặc thú, và được cho là hiện diện trong mọi vật vô tri. Theo truyền thuyết, âm hồn thích hành hạ con người vì bất cứ hành vi gì làm hại tới chúng dù vô tình hay cố ý, và được coi là thủ phạm của nhiều chứng bệnh và các tai nạn trên đời; tuy nhiên những người biết pháp thuật có thể khai thác âm hồn để làm lợi cho mình.

[20] Bảy ngai vàng.

[21] Ihya Ulum al- Din: (Phục sinh của khoa học tôn giáo). Tác phẩm của Imam Gazzali (1058-1111), được đọc nhiều nhất trong thế giới Ả Rập sau kinh Koran, viết về những đòi hỏi của đức tin, những kiến thức cần thiết của đời người, những đức tính cần có và những thói xấu phải khắc phục và việc chăm lo đời sống linh hồn.

[22] Zafernameh: Sách các chiến thắng.

[23] Khamse: bộ ngũ thư của Nizami, gồm Makhzan al-Asrar (Kho tàng những bí ẩn) Husrev o Shirin, Leyla o Mejnun, Haft peykar (Bảy nhan sắc) và Eskandamama (Chuyện Alexander Đại đế).

[24] Jami al-Tawarikh: Lịch sử thế giới.

[25] Tarih: Lịch sử.

[26] Sách các trang phục.

[27] Hediye al-Siki-dostluk: Quà tặng bạn tình.

[28] Garagoýunly: Xem phần Niên biểu ở cuối sách.

[29] Mehmet: Kẻ chinh phục.

[30] Shahnameh: Sách các Vua.

[31] Gulistan: Vườn Hồng.

[32] Makhzan al- Asrar: Kho tàng những bí ẩn.

[33] Masnawi: Những câu thơ đôi thông linh.

[34] Tarih-i Residi: Lịch sử Residi.

[35] Kitab aL-Qiyamah: Sách tận thế

[36] Yusuf o Zuleyha (Zulaikha): (Yusuf và Zuleyha): Truyện dân gian của thế giới Hồi giáo, là tựa của một trường ca được cho là của Firdusi, cũng là chuyện thứ năm tập Haft Awrang (Bảy ngai vàng) gồm bảy chuyện của Jami.

[37] Huner-nama: Sách được làm ở Istanbul, gồm nhiều tập, trong khoảng 1523-1588 kể lại các kỹ năng mà giới cầm quyền thường rèn luyện và hữu dụng trong chiến tranh (như cưỡi ngựa. bắn cung, săn với chim ưng...).

[38] Kaaba là tòa nhà bằng đá hình khối vuông ở Mecca nơi có Tảng đá đen mà truyền thống Hồi giáo cho là một phần của ngôi đền nguyên thủy thờ Tiên tri Abraham. Hòn đá và tòa nhà này là tâm điểm của cuộc hành hương hàng năm về Mecca. Năm 630 Mohammed cho phá hủy chừng 360 ngẫu tượng đặt quanh tòa nhà này. Nhưng ông cũng ra lệnh giữ lại tượng Jesus và Đức bà Maria.

[39] Đoạn này phản ảnh giáo luật cấm thờ ngẫu tượng (hình người nói chung) của Hồi giáo. Giáo luật này lý giải tại sao Taliban cho đại bác bắn vào các tượng Phật to nhất thế giới ở Afghanistan, và những nghề như nhiếp ảnh, điện ảnh, điêu khắc, chân dung... khó phát triển trong thế giới Hồi giáo.

[40] Al- Furqan: Tiêu chuẩn.

[41] Al-Isra: Hành trình trong đêm.

[42] Kitab al-Ruh:Sách về linh hồn.

[43] Kitab al-Qiyamah: Sách tận thế.

[44] Aal-e-Imran: Gia đình Imran.

[45] Bukhari: Bukhari. Còn gọi là Al-Bukhari hoặc Imam Bukhari (810-870), một học giả Hồi giáo phái Sunni người Ả Rập, được coi là tác giả bộ sách giai thoại có tên là Sahih Bukhari (Sahih tiếng Ả Rập nghĩa là chân thực), được phái Sunni coi là chân thực nhất sau kinh Koran.

[46] Ayyub: Nhân vật được nhắc tới trong Kinh Koran, được coi như một tiên tri của đạo Hồi. Trong tiếng Ả Rập, tên gọi này biểu tượng cho đức kiên nhẫntuy nó không hề mang nghĩa đó. Ayyub chính là nhân vật Job trong Cựu ước, người đã bình thản chịu đựng mọi bất hạnh mà không oán than Thượng đế, và sau đó được ban nhiều ơn phước.

[47] Những viên ngọc tuyệt vời trong kinh Koran.

[48] Miraj: một từ trong tiếng Ả Rập để chỉ phần thứ nhì trong một cuộc hành trình của Muhammad trong một đêm vào năm thứ nhất lịch Hồi giáo (tức năm 621) từ Mecca đến Jerusalem, trong đó có việc Muhammad bước vào thiên đàng. Đa số tín đồ Hồi giáo tin rằng đây là chuyến đi thật, còn nhiều học giả cho rằng đấy chỉ là giấc mơ.

Không có nhận xét nào: