Thứ Năm, 13 tháng 10, 2016

Đất Vỡ Hoang Tập I

clip_image002

 

            ĐẤT VỠ HOANG

                                      Mikhain Sô-lô-khốp

 

 

 

 

 

Tiểu thuyết hai tập

Nhà xuất bản Cầu Vồng (Mát-xcơ-va) - 1985

In theo bản dịch của Nhà xuất bản Văn học (Hà Nội)

Người dịch: Vũ Trấn Thủ

LỜI GIỚI THIỆU

Vào đầu những năm 30 của thế kỷ này, giữa lúc đông đảo bạn đọc của M.Sô-lô-khốp đang hồi hộp theo dõi số phận của Gri-gô-ri Mê-lê-khốp và những sự kiện được miêu tả trong bộ tiểu thuyết – anh hùng ca “Sông Đông êm đềm”, giữa lúc tác giả đang dồn sức viết tập 3 của tác phẩm đồ sộ này để đáp lại lòng hâm mộ của bạn đọc, thì ở quê hương của nhà văn cũng như trên toàn nông thôn Liên Xô diễn ra phong trào tập thể hoá nông nghiệp.

                Tâm hồn nhạy cảm và tính Đảng của người nghệ sỹ lớn đã thôi thúc nhà văn phải đến ngay với những sự kiện của phong trào cách mạng to lớn ấy. Bản thảo tập 3 của “Sông Đông êm đềm” đành phải tạm để lại một bên, tác giả lao vào đề tài mới.

                Và M.Sô-lô-khốp đã đi tới nhiều vùng, thăm nhiều nông trang tập thể, tìm hiểu những sự việc, những con người… để phản ánh bước ngoặt lịch sử, khi những người nông dân cá thể, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dứt khoát từ bỏ chế độ tư hữu cùng nhau xây dựng nông trang tập thể.

                Chế độ tư hữu là nguồn gốc sinh ra mọi đau khổ của loài người. Nhưng đoạn tuyệt với cái tâm lý tư hữu thâm căn cố đế ấy không phải là chuyện dễ dàng đơn giản; còn sức ỳ của những thành kiến, sức cản của những thói quen, sự chống đối của những kẻ chậm tiến, sự phá hoại của kẻ thù…vv và cả những non yếu, sai lầm của những người cộng sản trước sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ này…

                Cần phải tiếp sức cho cách mạng vượt qua mọi trở ngại tiến lên, phải tiếp sức cho con người trong cuộc đấu tranh gay go quyết liệt này.

                Mi-khai-in Sô-lô-khốp đã ý thức được điều ấy; và “Đất vỡ hoang” (tập 1) ra đời. Báo “Sự thật”, cơ quan ngôn luận của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã xác nhận thành công của nhà văn qua lời nhận xét về cuốn sách ấy trong số báo ngày 3-3-1933:”Cuốn tiểu thuyết của Sô-lô-khốp có thể được xem như là một cuốn sách giáo khoa đặc biệt về nông thôn”. Thành công ấy cũng được thể hiện ở sự đón đọc nồng  nhiệt của quần chúng; người ta đọc ở các đội sản xuất, ở các lán trại, trong giờ nghỉ ban đêm .v..v..

* * *

                Cũng như ở tập “Truyện sông Đông”, ở “Sông Đông êm đềm”, người đọc gặp lại ở “Đất vỡ hoang” ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt không khoan nhượng của Mi-khai-in Sô-lô-khốp. Từ những trang sách hiện lên sự thực phong phú đa dạng, đầy mâu thuẫn, rất phức tạp, những sự thật đôi lúc tàn nhẫn, thậm chí tàn khốc, trong sự trần trụi không che giấu, không chút xuê xoa. Nhưng đó cũng là sự thật lớn lao của lịch sử đang vận động và của chủ nghĩa anh hùng cao đẹp, từ đó đang nảy sinh cái mới cộng sản chủ nghĩa đầy hứa hẹn tươi sáng.

                Bước vào tập thể hoá nông nghiệp, ấp Grêmiatsi Lốc lồng lộn như con ngựa bất kham. Nó chỉ vừa mới thoát ra khỏi nội chiến chưa được bao lâu, kẻ thù tuy bị thất bại thảm hại vẫn chưa cam chịu bó tay; nhiều người dân kô-dắc lầm lạc còn nhớ những bài học nóng hổi, nhưng vẫn chưa thật dứt khoát đi với Chính quyền xô-viết; biết bao nhiêu thành kiến, thói tục lỗi thời đang đè nặng lên người nông dân.

                Ở Grêmiatri Lốc những con người mới cũng đã xuất hiện, nhưng họ còn ít quá. Hơn nữa, tuy đã được rèn luyện qua thực tiễn chiến đấu nhưng mỗi người vẫn còn những chỗ non yếu của mình; và trước mặt họ là một công việc hoàn toàn  mới.

                Mặc dù vậy, tương lai thuộc về họ. Vì họ có đường lối đúng đắn sáng tạo của Đảng cộng sản, có tấm lòng trung thành vô hạn đối với giai cấp, với nhân dân, với cách mạng, có niềm tin vào quần chúng, có tinh thần sẵn sàng tự phê bình và phê bình để rút kinh nghiệm tiến lên.

                Cuộc đổi đời, từ con người cá thể sang con người tập thể thật là vất vả, phải đổ mồ hôi và đổ máu (không phải là ngẫu nhiên mà ban đầu tác giả định đặt tên tác phẩm này là “Với mồ hôi và máu”). Nhưng cuộc đời mới đã thắng. Chủ nghĩa xã hội đã thắng.

                Từ ấp Grêmiatsi Lốc đã ra đời cái nông trang tập thể ngày càng vững mạnh; những nông dân cá thể đã trở thành nông trang viên; một số người tiên tiến đã trở thành đảng viên cộng sản; chi bộ đảng lớn lên.

* * *

                Ngày nay đọc hai tập  “Đất vỡ hoang” liền một mạch, độc giả thấy mình tiếp xúc với một chỉnh thể hoàn hảo; nếu không được giới thiệu tiếp xúc thì khó mà biết tập 1 và tập 2 ra đời cách nhau hơn 20 năm. Bản thảo dở dang của tập 2 đã bị huỷ hoại trong chiến tranh, tác giả phải viết lại hoàn toàn; đầu năm 1954 những chương đầu của tập 2 mới ra mắt bạn đọc; năm 1960 tác phẩm mới in xong trọn bộ. Giữa hai tập là cả một thời kỳ dài xây dựng chủ nghĩa xã hội, và một cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại.

                Tất nhiên là tầm nhìn mới, trình độ chín muồi cao hơn về nghệ thuật của tác giả và yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử mới cũng đã in dấu vào tập 2. Vì vậy trong cái hoàn chỉnh thống nhất chung, mỗi tập vẫn có nét đặc sắc riêng.

                Nếu như ở tập 1 dồn dập sự kiện bề bộn sôi động của những ngày đầu thành lập nông trang, nổi bật lên những biến đổi xã hội, những sự kiện chính trị; thì sang tập 2 dòng tự sự chậm lại, đi sâu vào những câu chuyện tâm tình, đi sâu vào sự khám phá những ngóc ngách của lòng người; những vấn đề xã hội hiện ra qua những lời tâm sự; âm hưởng trữ tình nổi bật lên.

                Nếu như trong tập 1 Đavưđốp còn đang phải vất vả đi tìm cái “chìa khoá” để mở lối vào lòng dạ những con người ở Grêmiatsi Lốc, anh còn loay hoay chưa biết làm sao để khám phá ra những bí mật giấu kín trong bao nhiêu kẻ quanh mình; thì sang tập 2, những con người ở nông trang đã cởi mở lòng mình ra với anh: Salưi, Arơgianốp, rồi Uxchin… trước mắt anh, những con người bình thường, có khi tưởng như là hâm hấp, bỗng hiện ra khác hẳn với sự phong phú và vẻ đẹp làm cho anh kinh ngạc xiết bao. Những thế giới tâm hồn bấy lâu vẫn khép kín với nhiều điều kỳ lạ bí ẩn, có những điều tưởng là sống để dạ chết mang theo, - đã mở ra với Đavưđốp. Qua những thử thách, bằng kinh nghiệm của bản thân, các nông trang viên đã nhận Đavưđốp là người của mình.

                Ngòi bút sáng tạo của Sô-lô-khốp đã chỉ ra cái “chìa khoá” giúp cho người cộng sản mở được những cái kho những kinh nghiệm, hiểu được những suy nghĩ của quần chúng; làm cho người cộng sản trở thành điểm hội tụ của tâm hồn, trí tuệ quần chúng. Quần chúng đã giúp cho Đavưđốp thấy được cái “lò xo” bí mật bấy lâu vẫn hoạt động cản trở công việc của anh, phát hiện được âm mưu phản loạn của kẻ thù.

* * *

                Sẽ là  một thiếu sót lớn nếu không nói đến nghệ thuật trào phúng dí dỏm có những lúc rất táo bạo độc đáo của Mi-khai-in Sô-lô-khốp. Thật là bất ngờ khi người đọc bắt gặp hai tính cách trái ngược nhau là Nagunốp và Suka kề vai sát cánh thành đôi bạn tri âm cùng lắng nghe “dàn nhạc gà trống” giữa đêm khuya. Cũng phải thật cao tay mới có thể dàn dựng nên cả một quá khứ với bao nhiêu nỗi đời cơ cực đắng cay đằng sau những lời lẽ bông phèng ba hoa khoác lác đến chết cười của ông lão Suka. Từ nhân vật hài hước Suka toát ra chân lý lớn mà Nagunốp đã có lần nói đến khi bàn về cái bi và cái hài là “dù cho quá khứ có đau thương cực nhục đến đâu thì nhân loại cũng từ biệt nó với một nụ cười vui vẻ”.

                Cái trào phúng dí dỏm, cũng như cái trữ tình thiết tha sâu lắng hay cái hiện thực nghiêm ngặt .v..v của Sô-lô-khốp bao giờ cũng thấm đượm một tính triết lý thâm thuý, có sức lay động đến tận những chốn sâu thẳm của tâm hồn, buộc người ta phải suy nghĩ băn khoăn cùng với tác giả, và theo sự định hướng của tác giả.

                Nhờ vậy mà “Đất vỡ hoang” tuy phản ánh một khoảnh khắc của lịch sử ở một thôn nhỏ vùng sông Đông mà đã vượt qua được thử thách của thời gian và sự sàng lọc của lịch sử để trở thành tài sản tinh thần chung của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.

                Đavưđốp, Nagunốp, Radơmiốtnốp, Maiđanhikốp, Varia, Suka, và cả Luska nữa, cùng với bao  nhiêu nhân vật khác của Sô-lô-khốp đã được vào cuộc đời và sẽ còn đi mãi giữa cuộc đời với bao nhiêu bạn đọc ở nhiều phương trời trên thế giới.

                Và tác giả đã không phụ lòng tác giả, đã thể hiện được điều ông hằng mơ ước:

                “Tôi mong muốn những cuốn sách của mình giúp được cho con người trở nên tốt hơn, tâm hồn họ trong sáng hơn, khơi dậy được tình yêu thương đối với con người, khát vọng chiến đấu tích cực vì lý tưởng nhân đạo chủ nghĩa, vì sự tiến bộ của nhân loại”

                “Đất vỡ hoang” đến với bạn đọc Việt Nam vào những năm 1959-1962, nhưng dịch qua bản tiếng Pháp. Lần này “Đất vỡ hoang” được dịch từ nguyên bản tiếng Nga.

Nguyễn Duy Bính

Tập 1

CHƯƠNG 1

Cuối tháng Giêng, gặp buổi đầu trời trở ấm, các vườn hoa anh đào toả hương thơm  ngát. Vào buổi trưa, đây đó là những quãng khuất gió, nếu như trời nắng, vỏ cây anh đào bốc lên một mùi thoang thoảng, rầu rầu, hoà với hơi ẩm nhạt nhẽo của tuyết tan, với hương vị đậm đà, cổ xưa xông lên từ dưới dải đất vừa mới ló ra khỏi lớp tuyết, và tầng lá mục.

Hương vị dịu ngọt của muôn hoa cứ quyện lấy vườn tược cho đến lúc bóng đêm xanh lam buông xuống, cho đến lúc vành trăng lưỡi liềm xanh phớt ló ra qua những cành cây trụi lá, cho đến lúc những chú thỏ rừng ăn no béo mỡ nhảy nhót vứt lại trên mặt tuyết những đốm vết chân mịn màng.

Thế rồi gió đưa về từ các ngọn đồi thảo nguyên mùi dịu dịu của cây ngải cứu héo khô vì băng giá; hương vị và âm thanh của ban ngày chìm lắng đi và bóng đêm, như một con sói cái lông xám, từ đằng Đông lặng lẽ đổ về, lướt qua những bụi ích mẫu, những đám cỏ dại, những thửa ruộng rạ héo hon, những cánh đồng ải mùa thu nhấp nhô như sóng lượn, để lại đằng sau nó trên thảo nguyên lê thê bóng hoàng hôn chạng vạng.

* * *

Một tối tháng Giêng năm 1930, trên con đường hẻm rìa thảo nguyên, có một người cưỡi ngựa đi vào ấp Grêmiatsi Lốc. Tới gần ngòi, người ấy dừng con ngựa đã mệt nhoài hai bên sườn sương đóng bết từng mảng, và nhảy xuống. Vầng trăng hạ tuần đã treo lơ lửng bên trên bóng đen ngòm của các vườn cây chạy dọc hai bên con đường hẹp, bên trên những rặng cây dương um tùm như những hòn đảo. Con đường hẻm tối và lặng ngắt. Đâu đó, bên kia con ngòi, một tiếng chó sủa rống lên, một ánh lửa le lói. Người cưỡi ngựa nghếch mũi hít một hơi cái không khí lạnh giá, thong thả tháo một bên găng tay, châm thuốc hút, rồi thít căng đai ngựa lại, lùa mấy ngón tay xuống dưới đệm yên; và, sau khi đã sờ thấy cái lưng nóng hổi và nhễ nhại mồ hôi của con ngựa, y lanh lẹn tung người cao lớn của mình lên yên. Y cưỡi ngựa đi ngang qua con ngòi không bị đóng băng ngay cả mùa đông. Con ngựa, khua móng sào sạo trên lớp sỏi phủ đầy lòng sông, muốn uống nước lắm, nhưng chủ nó thúc, và nó thót bụng nhảy phốc lên bờ sông dốc thoải.

Nghe có tiếng nói và tiếng cót két của càng xe trượt tuyết đang đi ngược tới, người cưỡi ngựa dừng cương. Con ngựa dỏng tai nghe ngóng, ngoái cổ lại. Cái đai ngực bạc và chiếc vành yên cao cao viền bạc theo kiểu kô-dắc bắt gặp một ánh trăng bỗng sáng lên trong bóng tối đường làng một tia trắng loé. Người cưỡi ngựa vắt dây cương trên vành yên, vội vã kéo cái mũ kô-dắc lông lạc đà cho tới lúc ấy vẫn thả trễ xuống bên vai, đội lên đầu sụp xuống mặt rồi thúc ngựa rảo nước kiệu. Qua khỏi chiếc xe trượt tuyết, y lại đi bước một như ban nãy, nhưng vẫn không hạ mũ xuống.

Vào tới trong ấp, y hỏi một bà đang đi ngược lại:

- Này, bác ơi, nhà ông Iakốp Ôxtơrốpnốp ở đâu, hả bác?

- Iakốp Lukits ấy hả?

- Phải, phải.

- Đấy, nhà ông ta ở sau cây dương kia kìa, lợp ngói đấy, ông trông thấy không?

- Thấy, cảm ơn bác.

Tới trước ngôi nhà rộng lợp ngói, y nhảy xuống, dắt ngựa qua cổng hàng rào và lấy cán roi gõ nhẹ vào cửa sổ.

- Ông chủ ơi! Iakốp Lukits, ra cho tôi hỏi tý.

Chủ nhà bước ra thềm, đầu trần, áo vét-tông vắt vai, nhìn chằm chằm khách lạ rồi bước xuống bậc tam cấp, vừa mỉm cười trong bộ râu điểm bạc, vừa nói:

- Ma đưa quỷ dẫn ông bà nào đến nhà tôi thế nhỉ?

- Không đoán ra à, Iakốp Lukits? Cho ngủ nhờ nào. Để con ngựa vào đâu cho ấm tí nhỉ?

- Không, anh đồng chí ạ, tôi không nhớ ra anh là ai. Chẳng hay có phải anh ở trên huyện không? Hay bên nông hội? Tôi hơi nhận ra rồi đấy…Tiếng anh nói nghe quen quen…

Khách nhếch đôi mép nhẵn thín, mỉm cười, lật mũ trùm ra:

- Pôlốptxép. Có nhớ không?

Iakốp Lukits bỗng nhớn nhác nhìn quanh, tái mặt đi, thều thào:

- Quan lớn! Ngài ở đâu tới thế vậy?...Bẩm ngài đại uý!..Ngựa để đấy con dắt…nhà có chuồng…Chà, thấm thoắt thế mà đã bao nhiêu năm rồi…

- Ấy, ấy, khe khẽ chứ! Ừ, lâu lắm rồi đấy… Có chăn đắp ngựa không? Nhà có ai lạ không?

Khách trao dây cương cho chủ. Con ngựa uể oải tuân theo những động tác của bàn tay lạ, đầu ngẩng cao, cổ vươn dài, và mệt nhọc lê đôi cẳng sau bước vào chuồng. Nó gõ móng lộp cộp vào sàn gỗ và, đánh hơi thấy cái mùi quen thuộc của một con ngựa khác, nó khịt nhặng xị lên. Bàn tay lạ đặt lên cái tảng của nó, những ngón tay thành thạo cẩn thận tháo cái hàm thiếc nhạt tanh, giải phóng cho đôi lợi ê ẩm của nó. Và con ngựa với một vẻ biết ơn sà vào đống cỏ khô.

- Con đã nói đai cho nó rồi, cứ để đóng yên như thế một lát, nó lại sức, ta sẽ tháo. – Chủ nhà vừa nói vừa chăm chút đắp lên lưng ngựa tấm chăn lạnh ngắt. Và sờ nắn bộ đồ thắng ngựa, thấy đai bụng bị kéo căng, dây treo bàn đạp trùng thõng hẳn xuống, lão tự xác định được ngay rằng ông khách đã từ xa đến và trong ngày hôm ấy đã phi một đoạn đường chẳng ngắn.

- Nhà có thóc không, Iakốp Lukits?

- Có tí ti. Ta cho nó uống nước đã, rồi cho ăn thóc. Nào mời ngài vào nhà, bây giờ xưng hô với ngài thế nào đây, thật cũng chẳng biết nữa… Gọi như trước thì không còn quen mồm, và cũng bất tiện… - Chủ nhà lúng túng mỉm cười trong bóng tối, dù biết rằng khách cũng chẳng trông thấy mình cười.

- Cứ tên cúng cơm mà gọi. Còn nhớ không? – Khách miệng hỏi chân bước đi trước ra khỏi chuồng ngựa.

- Quên sao được ạ! Dọt bọn Đức mãi với nhau mà, lại cả cái cuộc nội chiến này nữa…Tôi vẫn thường nhớ đến ông đấy Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ. Từ cái buổi chia tay nhau ở Nôvôrôxixcơ ấy, tôi chẳng được tăm hơi gì của ông. Tôi cứ ngỡ ông vượt biển sang Thổ Nhĩ Kỳ với anh em kô-dắc rồi.

Họ bước vào gian bếp có đốt lò ấm ran. Khách bỏ mũ trùm và cả chiếc mũ lông trắng đội trong ra, để lộ cái sọ chắc nịch, có góc có bướu, phủ một lớp tóc thưa bềnh bệch. Từ dưới cái trán hói đổ thẳng xuống như trán chó sói, đôi mắt đảo nhìn gian phòng. Và tươi cười nheo nheo đôi mắt màu xanh nhạt lấp lánh giận dữ trong hai ổ mắt sâu, y nghiêng đầu chào hai người đàn bà ngồi trên tấm ghế dài là mụ chủ nhà và nàng con dâu.

- Chào bà con mạnh khoẻ!

- Lạy Chúa, - mụ chủ nhà dè dặt đáp, đưa mắt nhìn chồng, chờ đợi, như muốn hỏi: “Ông dẫn ai về nhà thế vậy, và tiếp đãi người ta thế nào bây giờ cho phải?”.

Sau khi mời khách lên nhà trên ngồi vào bàn, lão chủ buông gọn một câu ra lệnh cho vợ:

- Dọn gì ăn đi.

Ngồi ăn xúp bắp cải thịt lợn, có mặt hai người đàn bà, khách chỉ nói chuyện thời tiết, chuyện bạn bè đồng đội. Cái hàm dưới bành bạnh của khách nom như đẽo bằng đá tảng, cử động một cách khó nhọc; khách nhai chầm chậm, uể oải, như một con bò mộng kiệt sức nằm trên ổ. Ăn xong, khách đứng dậy, ra trước tượng thánh đặt giữa những bông hoa giấy bám đầy bụi, cầu kinh, rồi phủi xong những vụn bánh mì bám trên tấm áo khoác cũ kỹ bó sát vai, nói:

- Iakốp Lukits, xin đa tạ về tấm lòng thành! Bây giờ ta nói chuyện.

Mụ chủ  và cô con dâu líu tíu dọn bàn; và vâng theo đôi lông mày rướn lên ra hiệu của lão chủ, họ lảng xuống bếp.

CHƯƠNG II

Bí thư huyện uỷ, đôi mắt thong manh, dáng điệu uể oải, ngồi vào bàn, liếc nhìn Đavưđốp một cái, rồi nheo nheo đôi mắt hum húp, bắt đầu xem giấy tờ của anh.

Bên ngoài cửa sổ, gió rít trên những sợi dây thép điện thoại. Trên lưng con ngựa cột vào hàng rào, một con chim ác là nhảy nhót nhởn nhơ và mổ mổ cái gì đó. Gió thổi xoè lông đuôi, bắt nó vỗ cánh bay lên, nhưng rồi nó lại đậu xuống lưng con nghẽo mệt mỏi lụ khụ đang thờ ơ với mọi sự, và nó đắc thắng đưa đôi mắt bé tí hau háu nhìn quanh. Bên trên trang ấp từng mảng mây tơi tả tà tà bay lượn. Thỉnh thoảng ánh nắng xuyên qua khoảng quang đổ xuống chênh chếch, một mảng trời xanh như trời hè bừng lên, và lúc đó khuỷu sông Đông nhìn thấy qua cửa sổ, cánh rừng bên kia sông và ngọn đèo xa xa với chiếc cối xay gió nhỏ xíu phía chân trời nom đúng là một bức tranh sơn thuỷ hữu tình.

- Thế ra cậu ốm nên phải nghỉ lại ở Rôxtốp à? Vậy đấy… Số tám anh em khác trong đoàn hai vạn rưởi (*) đã tới đây ba hôm nay rồi. Có tổ chức mít tinh. Đại biểu các nông trang đã đón tiếp anh em. – Đồng chí bí thư trầm ngâm, trệu trạo đôi môi. – Tình hình ở ta lúc này vô cùng phức tạp. Toàn huyện mới tập thể hoá được 14,8%. Và phần lớn mới chỉ là tập đoàn sản xuất. Bọn kulắc và nhà giầu còn dây dưa không chịu nộp thóc nghĩa vụ. Đang cần cán bộ. Cần ghêêê lắm! Các nông trang xin bốn mươi ba công nhân, nhưng cử về chỉ được có chín người các cậu.

Và dưới đôi mi tùm hụp, hai con mắt giờ đây nom khác hẳn soi mói nhìn thẳng vào con ngươi Đavưđốp hồi lâu, như muốn đánh giá xem anh chàng này có thể làm được trò trống gì.

- Vậy là anh bạn đồng chí thân mến làm thợ tiện à? Tôôốt lắm! Cậu làm ở nhà máy Puchilốp đã lâu chưa? Hút đi.

- Làm từ sau  ngày giải ngũ. Chín năm rồi. – Đavưđốp với tay lấy điếu thuốc lá, và đồng chí bí thư nhìn thấy trên tay Đavưđốp một hình xăm xanh xanh, khẽ nhếch đôi môi trề, mỉm cười.

- “Vinh dự và tự hào của chúng ta” (**). Hải quân hả?

- Vâng.

- Thảo nào thấy tay trổ cái neo..

- Hồi ấy tôi còn trẻ, đồng chí biết đấy…lính mới tò te và hơi quỷnh, thế là đè luôn ra xăm…- Đavưđốp tự ái kéo tay áo xuống, nghĩ bụng: “Cha này cái vớ vẩn đâu đâu thì nhìn tinh thế. Còn chuyện thóc nghĩa vụ thì lại gà mờ!”.

Đồng chí bí thư lặng thinh một lát, rồi xoá đi ngay trên khuôn mặt húp híp ốm yếu nụ cười xã giao vô nghĩa của mình.

- Đồng chí ạ, đồng chí sẽ xuống trang ấp ngay hôm nay với danh nghĩa đặc phái viên của huyện uỷ tiến hành tập thể hoá toàn diện. Cậu đã đọc chỉ thị mới đây của khu uỷ chưa? Đọc rồi hả? Thế này nhá, cậu sẽ về ấp Grêmiatsi Lốc. Nghỉ ngơi thì để sau, bây giờ đang gấp. Chú ý: tập thể hoá trăm phần trăm. Ở đấy có cái tập đoàn sản xuất bé bằng lỗ mũi, nhưng chúng ta phải dựng nên những nông trang tập thể khổng lồ. Chúng tôi tổ chức xong đội tuyên truyền sẽ cử ngay xuống chỗ các cậu. Trong khi chờ đợi, cậu cứ xuống đi và trên cơ sở khéo thít bọn kulắc lại, cậu hãy tổ chức ra một nông trang tập thể. Trung bần nông phải đưa vào nông trang hết. Rồi các cậu tổ chức một kho thóc công để giống cho toàn bộ diện tích của nông trang gieo trồng trong năm1930. Hành động phải thận trọng. Trung nông thì chớ có chạm đến! Chi bộ Grêmiatsi Lốc có ba đảng viên. Bí thư chi bộ và chủ tịch Xôviết là những anh em tốt cả, du kích đỏ ngày xưa đấy. – Và lại trệu trạo đôi môi, anh nói tiếp: - Kết quả thế nào thì cũng từ đó mà ra cả. Hiểu chưa? Anh em trình độ chính trị thấp, có thể vấp váp. Trường hợp gặp khó khăn gì, cậu cứ lên huyện. Chà, chưa có điện thoại, chán quá! À, còn cái này nữa: cậu bí thư chi bộ ở đấy có Huân chương Cờ đỏ, hơi thô bạo một chút, người độc gai với ngạnh cả, và.. gai sắc đấy.

Bí thư gõ gõ ngón tay vào cái khoá cặp da và thấy Đavưđốp đứng dậy, vội cao giọng nói:

- Khoan, còn việc này nữa: hàng ngày cho giao thông hoả tốc phóng ngựa mang báo cáo lên tôi. Thúc các cậu ở đấy tợn vào. Cậu sang gặp ngay đồng chí trưởng ban tổ chức, rồi đi đi. Để tôi bảo anh em cho ngựa của huyện đưa cậu đi. Thế nhá, cố đạt cho được 100% tập thể hoá. Chúng tôi sẽ đánh giá công tác của cậu theo con số phần trăm ấy. Chúng ta sẽ thành lập một nông trang khổng lồ gồm mười tám Xôviết thôn trang. Một nông trang tập thể kiểu Puchilốp đỏ… Chứ chẳng xoàng đâu! – Và anh mỉm cười, thú vị với câu ví von của mình.

Đavưđốp hỏi:

- Đồng chí vừa bảo tôi phải khéo với bọn kulắc. Nên hiểu là thế nào?

- Là thế này, - đồng chí bí thư mỉm một nụ cười kẻ cả, - có loại kulắc nộp đủ thóc nghĩa vụ, và có loại bướng bỉnh không chịu nộp. Với loại thứ hai thì vấn đề rõ rồi: cứ điều 107 là xong. Nhưng với loại trên thì phức tạp hơn. Như cậu chẳng hạn, cậu sẽ xử sự với bọn ấy như thế nào?

Đavưđốp ngẫm nghĩ một lát…

- Như tôi thì tôi sẽ bắt chúng nó nộp thêm.

- Hay nhỉ! Không, đồng chí ạ, thế thì không ổn rồi. Kiểu làm ăn thế có thể làm mất hết lòng tin vào chủ trương biện pháp của ta. Trung nông sẽ bảo sao? Họ sẽ bảo:”Đó, Chính quyền Xôviết là thế đó! Nó xoay nông dân như chong chóng”. Lênin đã dạy chúng ta phải thực sự nghiên cứu tâm lý nông dân, thế mà cậu lại nói chuyện “nộp thêm”. Anh bạn ơi, thế là bậy đấy.

Đavưđốp đỏ mặt lên:

- Sao lại bậy? Vậy thì, theo đồng chí, Xtalin… cũng sai chăng?

- Chẳng dính dáng gì đến Xtalin.

- Tôi có đọc một bài diễn văn của Xtalin nói tại một hội nghị các nhà Mácxít, các nhà..gì nhỉ!..Chậc, các nhà làm công tác ruộng đất ấy mà…, gọi là gì nhỉ, quái! À, các nhà nghiên cứu ruộng đất thì phải!

- Các nhà nông học phải không?

- Đúng rồi!

- Thì làm sao?

- Đồng chí cho lấy tờ báo “Sự thật” có đăng bài ấy ra đây.

Trưởng ban văn thư mang tờ “Sự thật” đến. Đavưđốp hăm hở lật tìm.

Đồng chí bí thư mỉm cười chờ đợi, mắt nhìn thẳng vào mặt anh.

- Đây. Thế này là thế nào?...”Chúng ta không thể đánh đổ được tầng lớp kulắc chừng nào mà chúng ta còn chủ trương chỉ hạn chế nó…” Và đoạn dưới đây nữa.., đây: “Nhưng bây giờ? Bây giờ thì khác rồi. Bây giờ chúng ta đã có khả năng mở một cuộc tấn công quyết định vào bọn kulắc, đập tan sự phản kháng của chúng, thanh toán chúng về mặt giai cấp…” Về mặt giai cấp, đồng chí hiểu chưa? Vậy thì tại sao lại không thể bắt chúng nộp thêm? Tại sao không thể hoàn toàn đè bẹp chúng?

Đồng chí bí thư xoá nụ cười trên mặt, lấy vẻ nghiêm trang:

- Đoạn dưới nữa có nói rằng quần chúng trung bần nông đang đánh đổ bọn kulắc bằng cách tham gia nông trang tập thể. Đúng thế không nào? Đọc tiếp đi.

- E..hèm!..

- E hèm cái gì! – Đồng chí bí thư phát bực lên giọng bắt đầu run run. – Còn cậu thì chủ trương thế nào? Dùng biện pháp hành chính đối với mọi tên kulắc, không phân biệt. Mà làm như thế ở một nơi mới tập thể hoá được 14%, ở một nơi trung nông mới đang ngấp nghé vào tập thể thôi. Làm kiểu ấy có ngày chết sớm. Các cậu về địa phương mà chẳng hiểu gì về tình hình địa phương cả…- Đồng chí bí thư nén cơn bực lại, nói tiếp, giọng đã dịu đi: - Với quan điểm như vậy thì cậu sẽ làm khối chuyện bậy bạ.

- Chuyện đó thì chưa biết chừng…

- Nhất định là thế rồi! Nếu một biện pháp như thế là cần thiết và đúng lúc thì khu uỷ ắt đã lệnh thẳng thừng cho ta: “Tiêu diệt bọn kulắc!...” Vậy thì xin mời! Một, hai! Thế là xong. Có công an và toàn bộ bộ máy trong tay đấy… Nhưng lúc này chúng ta mới làm một phần là thông qua toà án nhân dân, chiểu theo điều 107 trừng phạt về mặt kinh tế những tên kulắc tàng trữ lúa mì thôi.

- Vậy là, theo đồng chí, bần cố trung nông phản đối việc đánh đổ bọn kulắc hay sao? Họ ủng hộ bọn kulắc hay sao? Và có nên lãnh đạo họ đánh đổ bọn kulắc hay không?

Đồng chí bí thư rập mạnh cái khoá cặp, nói bằng một giọng khô khốc:

- Đồng chí muốn hiểu lời lãnh tụ như thế nào thì tuỳ, nhưng chịu trách nhiệm về công việc trong huyện là Thường vụ huyện uỷ,cá nhân tôi. Chúng tôi cử đồng chí về đâu thì đồng chí hãy chịu khó chấp hành đúng chủ trương của chúng tôi, chứ không phải làm theo ý đồng chí. Xin lỗi đồng chí, tôi không có thời giờ ngồi tranh luận với đồng chí. Tôi còn nhiều việc bận.

Và đồng chí bí thư đứng dậy.

Máu lại bốc lên mặt Đavưđốp đỏ bừng, nhưng anh trấn tĩnh lại, nói:

- Tôi sẽ chấp hành đường lối của Đảng, còn với đồng chí thì tôi xin nói thẳng, theo tác phong công nhân: chủ trương của đồng chí sai rồi, sai về mặt chính trị, thực tế thế!

- Tôi chịu trách nhiệm về đường lối đó.. Còn cái “tác phong công nhân” của đồng chí thì nó cũ rích, như…

Chuông điện thoại reo. Đồng chí bí thư vớ lấy ống nghe. Người bắt đầu kéo đầy vào phòng. Đavưđốp đi tìm trưởng ban tổ chức.

“Cha này hữu khuynh rồi…Thực tế thế!- Ở huyện uỷ đi ra, anh nghĩ bụng. – Mình sẽ đọc lại toàn văn bài nói chuyện ở hội nghị các nhà nông học. Chẳng lẽ mình lại nhầm? Không, xin lỗi ông, ông anh ơi! Ông cứ mềm mỏng thế là ông buông lỏng bọn kulắc rồi. Đó, ở khu uỷ người ta bảo ông là “một tay năng nổ”, vậy mà bọn kulắc vẫn có những đứa dây dưa thóc nghĩa vụ. Xiết chặt là một chuyện, còn đào tận gốc trốc tận rễ, như đào cỏ dại, lại là chuyện khác. Tại sao lại không lãnh đạo quần chúng, hả ông?” – Đavưđốp cứ tranh luận thầm với đồng chí bí thư như thế. Xưa nay vẫn vậy, cứ xong xuôi đâu đấy rồi thì anh mới nảy ra những lý lẽ  cứng nhất. Còn lúc ở huyện uỷ, anh đã nóng nảy, hấp tấp, vớ đâu nói đó. Đáng lẽ nên bình tĩnh hơn mới phải. Anh đi, lội bì bõm trong những vũng nước đóng băng, chân đá phải những đống phân bò đã rắn cứng rải rác trên bãi chợ.

- Đáng tiếc là chấm dứt tranh luận sớm quá, nếu không tôi sẽ dồn cho ông anh một trận. – Đavưđốp lẩm bẩm thành tiếng như vậy, rồi hậm hực nín bặt vì thấy một bà đi ngược lại sát bên anh cười tủm tỉm.

------------------------------

(*)          Năm 1929, Đảng Cộng sản Liên Xô đã phái hai vạn rưởi công nhân về nông thôn tham gia vận động tập thể hoá nông nghiệp. – ND.

(**)        Tiêu ngữ của Hải quân Liên Xô. - ND

* * *

Đavưđốp chạy tới Trụ sở kô dắc và nông dân để lấy chiếc vali nhỏ. Khi nhớ ra rằng ngoài hai bộ quần áo lót thay đổi, mấy đôi bít tất và một bộ vét tông ra thì toàn bộ hành lý của anh là mấy cái tua-vít, kìm, giũa, thước quay, thước vuông, lắc lê Thuỵ Điển và vài dụng cụ linh tinh khác vớ ở Lêningrát mang đi, anh mỉm cười: “Đời khỉ gió nào mới dùng đến nó nhỉ? Cứ tưởng để khi cần thì sửa chữa máy kéo. Thế là mình phải làm phái viên chạy nhông trong huyện. Mình sẽ tặng cho một lão phó rèn nào của nông trang, hắn muốn làm gì thì làm”, - anh quyết định như vậy và lẳng chiếc  vali lên xe trượt tuyết.

Mấy con ngựa ăn kiều mạch no nê của huyện uỷ nhẹ nhàng kéo chiếc xe trượt tuyết có đệm tựa lưng bọc vải hoa loè loẹt sặc sỡ. Vừa ra khỏi ấp, Đavưđốp đã thấy rét cóng. Anh lật cổ áo măng tô dạ sờn lên che mặt, kéo sụp mũ cát-két xuống, nhưng vô ích: gió và giá lạnh ẩm ướt cứ luồn vào trong cổ, trong cánh tay áo, ngấm vào da thịt. Nhất là hai bàn chân trong đôi giày cũ kỹ thì tê dại hẳn đi.

Từ ấp này đến Grêmiatsi Lốc là hai mươi tám cây số đường đồi dốc hoang vu. Con đường, nâu nâu vì phân súc vật ngấu rữa, chạy trên các đỉnh đồi dốc. Bốn bề là đồng hoang phủ tuyết mênh mông đến tận chân trời. Đây đó những bụi cây ngải cứu rũ xuống rầu rầu. Duy chỉ trên sườn các khe hẻm còn sót lại những mô đất sét nhô lên như những con mắt của đất mở ra nhìn đời: tuyết bị gió thổi bạt đi không bám được vào đó; ngược lại, trong các lòng khe và mương xói thì tuyết chất đầy, nén chặt, ùn ùn từng đống.

Đavưđốp bám vào thành xe chạy một quãng dài cho ấm chân, rồi nhảy lên, ngồi thu lu và ngủ thiếp đi. Đôi càng trượt nghiến ken két, móng sắt của ngựa cắm xuống tuyết dòn răng rắc, chiếc càng bên phải gõ lanh canh. Thỉnh thoảng, qua đôi hàng mi sương giá bám như bông, Đavưđốp lại trông thấy loé lên dưới ánh nắng như một tia chớp tim tím đôi cánh một chú quạ khoang từ mặt đường bay vọt lên, rồi giấc ngủ gà khoan khoái lại khép đôi mi anh xuống.

Cái rét thấu xương đã đánh thức anh dậy. Anh mở mắt, và qua hàng sương long lanh ngũ sắc bám trên mi, trông thấy một  mặt trời lạnh giá, một quang cảnh mênh mông hùng vĩ của thảo nguyên vắng lặng, một bầu trời xám ngoét như chì phía chân trời xa xa, và trên cái chỏm trắng xoá của ngọn đồi mộ gần đấy, một con cáo lông vàng hoe óng lên như ánh lửa. Con cáo đang vờn đùa. Nó đứng thẳng người trên hai chân sau, đi ngòng ngoèo, nhảy cẫng lên, đổ xuống hai chân trước, rồi sục bới tuyết, khua lên quanh mình một đám bụi trắng bạc lấp lánh, còn cái đuôi nó mềm mại và uyển chuyển lê trên tuyết như một lưỡi lửa đỏ.

Họ đến Grêmiatsi Lốc lúc trời chưa tối. Trong sân rộng của Xôviết ấp đậu một cỗ xe trượt tuyết song mã không có người. Bên thềm, một đám bảy tám người kô-dắc đứng túm tụm, miệng hút thuốc. Mấy con ngựa, lông cứng ráp vì mồ hôi đóng băng, dừng lại cạnh thềm.

- Chào đồng bào! Chuồng ngựa ta chỗ nào nhỉ?

- Chào đồng chí! – Một người kô-dắc đứng tuổi đưa tay lên mép mũ lông thỏ trả lời thay cho cả đám. -  Chuồng ngựa hả, kia kìa đồng chí ạ, lợp sậy đấy.

Đám kô-dắc cũng đi theo về  phía chuồng ngựa, trong bụng thắc mắc không biết tại sao cái ông mới đến này, nom vẻ như một cán bộ và nói tiếng “g” giọng nằng nặng theo kiểu Nga, không vào trụ sở Xôviết mà lại lẽo đẽo theo xe.

Hơi phân bốc hầm hập từng cuộn qua các cửa chuồng ngựa. Anh xà-ích huyện uỷ cho ngựa dừng lại. Đavưđốp thành thạo cởi dây tháo càng xe. Đám kô-dắc túm tụm quanh đó đưa mắt nhìn nhau. Một bố già mặc măng-tô trắng của đàn bà, cào rụng những hạt băng bám trên ria, nháy mắt một cái hóm hỉnh:

- Coi chừng, nó đá cho đấy, đồng chí ạ!

Tháo xong đai hậu ra khỏi đuôi ngựa, Đavưđốp quay sang phía bố già, mỉm cười, đôi môi thâm xì nở ra để lộ hàm răng sứt một răng cửa.

- Con đã từng là lính súng máy đấy, bố già ạ. Con đã chạy nhông với những con ngựa còn bằng mấy con này ấy chứ!

Một người đen như củ súng, râu ria xồm xoàm lấp cả lỗ mũi, nói:

- Thế cái răng sứt của anh, có lẽ là do bị con ngựa cái nào đá hẳn?

Đám kô-dắc cười ồ vui vẻ. Đavưđốp thoăn thoắt tháo cái kiềng cổ ngựa, đối đáp lại:

- Không, răng mình sứt lâu rồi, trong một vụ say rượu. Nhưng thế lại hoá hay: các bà khỏi lo bị tôi cắn. Phải không, bố già?

Câu pha trò nghe ăn giọng, và ông lão vờ làm ra bộ thất vọng, lắc đầu:

- Còn lão đây, chú nó ạ, lão chẳng còn cắn ai được nữa. Răng lão rơi rụng từ năm nảo năm nào rồi…

Anh chàng kô-dắc râu đen cười hí lên như ngựa, miệng ngoác ra để lộ hàm răng trắng bóng, và tay cứ túm khư khư lấy cái thắt lưng đỏ thắt chẽn chiếc áo tsếchmen (*), như sợ cười quá bị tung ra chăng.

Đavưđốp lấy thuốc ra mời đám kô-dắc, châm một điếu hút, rồi đi vào trụ sở Xôviết ấp. Bố già kia bám sát gót Đavưđốp, miệng nói:

- Cứ vào đi, chủ tịch nông trang đang trong đó đấy. Cả bí thư Đảng của chúng tôi nữa.

Đám kô-dắc rít hai hơi là tàn điếu thuốc, cũng bước đi cạnh. Họ rất khoái vì ông mới đến này không giống cái kiểu cán bộ huyện mà họ thường thấy: ông này không nhảy trên xe trượt tuyết xuống, ôm cặp đi ngang qua mặt mọi người vào thẳng trụ sở Xôviết, mà lại tự mình tháo ngựa, đỡ anh lái một tay, và tỏ ra thông thạo từ lâu rồi với chuyện ngựa xe. Nhưng đồng thời điều đó cũng làm họ ngạc nhiên. Anh chàng râu đen không nhịn được nữa, hỏi:

- Này, đồng chí ơi, tội gì mà đồng chí lại phải vất vả với mấy con ngựa thế nhỉ? Thiết tưởng đó đâu phải là việc của cán bộ? Thế người đánh xe thì để làm gì?

- Bà con chúng tôi thấy kể cũng kỳ. – Ông bố già thật thà thú nhận.

Đavưđốp chưa kịp trả lời thì một chàng kô-dắc trẻ măng có bộ ria vàng thất vọng thốt lên, chỉ trỏ vào hai lòng bàn tay Đavưđốp có lớp da xám xịt do cọ xát nhiều với sắt thép, và những móng tay đầy những vết xước thâm niên:

- Ô, anh này là thợ rèn đây mà!

- Thợ nguội. – Đavưđốp cải chính. – Thế các bác, các anh lên trụ sở Xôviết làm gì đấy?

- Thích thì đến, - bố già dừng lại ở bậc thềm thứ nhất, đáp thay cho mọi người. – Anh em tò mò muốn biết chẳng hay đồng chí về có việc gì vậy? Hay lại việc thóc nghĩa vụ…

- Việc nông trang tập thể.

Bố già huýt sáo một tiếng kéo dài ngán ngẩm, từ thềm cửa lui gót trở ra trước.

-----------------------

(*)          Một kiểu áo thường mặc của người kô-dắc. – ND

* * *

Từ trong căn phòng thấp nồng nặc xông ra mùi chua loét của áo varơi lông cừu bốc hơi tuyết và mùi tro củi. Một người cao lớn, vai ngang, tay vặn bấc đèn, đứng bên bàn, đối diện với Đavưđốp. Trên ngực áo kaki của anh ta nổi lên tấm Huân chương Cờ đỏ. Đavưđốp đoán ra ngay đây là bí thư chi bộ Grêmiatsi.

- Tôi là đặc phái viên huyện. Đồng chí là bí thư chi bộ phải không?

- Phải, tôi đây, Nagunốp, bí thư chi bộ. Mời đồng chí ngồi, đồng chí chủ tịch xôviết ra ngay bây giờ đấy. – Nagunốp đấm đấm vào bức vách, bước tới bên Đavưđốp.

Anh có bộ ngực rộng và đôi chân vòng kiềng của lính kỵ mã. Hai hàng lông mày đen của anh mọc nhíu lại trên đôi mắt vàng ệch có con ngươi to quá khổ, đen như bồ hóng. Nếu không có cái mũi nhỏ khoằm xuống như mỏ con diều hâu với hai lỗ mũi nom qúa thô và mắt không bị kéo màng đục, thì nom anh ta cũng đẹp trai đấy, một vẻ đẹp không nổi bật nhưng có dáng hảo hán.

Từ phòng bên bước sang một người kô-dắc chắc mập đội mũ da dê xám lật ngửa ra sau gáy, mặc tấm áo varơi dạ nhà binh, và chiếc quần sarôva (*) có đường nẹp kiểu kô-dắc, giắt vào trong bít tất len trắng.

- Đây, chính là đồng chí chủ tịch Xôviết Anđrây Radơmiốtnốp đây.

Đồng chí chủ tịch mỉm cười, một tay vuốt vuốt bộ ria mép loăn xoăn trắng nhợt, một tay trịnh trọng chìa ra cho Đavưđốp.

- Thế đồng chí là ai? Đặc phái viên của huyện uỷ à? Hèm. Đồng chí cho xem giấy tờ… Maka (**), anh đã coi chưa? Chắc đồng chí đến về việc nông trang tập thể phải không? – Anh nhìn Đavưđốp từ đầu đến chân một cách sống sượng, hấp háy đôi mắt sáng trong như nền trời hè. Khuôn mặt sạm nắng lâu ngày chưa cạo của anh, với một vết sẹo trên trán, lỗ rõ vẻ bồn chồn nóng ruột.

Đavưđốp ngồi vào bàn, trình bày những nhiệm vụ Đảng đề ra để tiến hành tập thể hoá toàn bộ trong thời gian hai tháng. Anh đề nghị ngay ngày mai họp hội nghị bần nông và cốt cán.

Nagunốp trình bày tình hình và nói về tập đoàn sản xuất Grêmiatsi Lốc.

Radơmiốtnốp tay chống lên ôm chặt lấy đôi má rám hồng, cũng chăm chú nghe anh, thỉnh thoảng chen vào một câu.

- Ở đây chúng tôi có một cái gọi là tập đoàn sản xuất góp ruộng làm chung. Nhưng tôi xin nói với đồng chí, đồng chí công nhân ạ, nó chẳng qua chỉ là một sự bôi nhọ chế độ tập thể, một thứ ăn hại Chính quyền Xôviết mà thôi, - Nagunốp nói, bực bõ ra mặt. – Có mười tám hộ tham gia, độc dân nghèo rớt mùng tơi. Và kết quả là thế nào? Cố nhiên là một trò hề. Mười tám hộ của họ gom góp lại được bốn con ngựa và một đôi bò, nhưng miệng ăn thì một trăm lẻ bảy. Thế thì múa may thế nào đây mà sống? Tất nhiên quỹ tín dụng đã cho họ vay dài hạn để mua máy móc và súc vật kéo. Họ cứ vay, nhưng họ sẽ chẳng trả nổi đâu, dù là dài hạn đi nữa. Tôi xin nói ngay để đồng chí rõ tại sao: giá như họ có được một máy kéo thì lại là chuyện khác, nhưng người ta lại không cho họ máy kéo, còn bò thì ăn ra làm nên nhanh sao được. Tôi xin nói thêm là chính trị của họ chẳng ra quái gì, và từ lâu tôi đã chỉ nhăm nhe giải tán quách họ đi cho rồi, vì cái tội cứ rúc vào nách Chính quyền Xôviết như một con bê vô phúc mà nhay, mà bú, mà chẳng thấy nhớn mẹ gì cả. Họ lại còn ăn nói giọng thế này: “Chậc, rồi thì cái gì người ta cũng sẽ cung cấp cho mình tất! Còn nợ thì tuốt xác mình ra cũng chẳng có đâu mà trả”. Cứ thế sinh ra bừa bãi vô kỷ luật,và cái tập đoàn sản xuất chỉ mai kia là ngoẻo thôi. Ý kiến thế mà hay đấy: đưa tất cả vào nông trang tập thể. Tuyệt diệu! Nhưng tôi nói anh nghe, dân kô-dắc là dân cứng đầu, bảo thủ, không dọt không xong đâu…

Đavưđốp đưa mắt nhìn hai người, hỏi:

- Trong các đồng chí ta có ai tham gia tập đoàn ấy không?

Nagunốp đáp:

- Không. Năm 1920 tôi đã tham gia một công xã. Về sau nó tan vì đầu óc tự tư tự lợi. Tôi đã tung hê hết cả của cải tư hữu đi rồi. Tôi mắc bệnh ghét cay ghét đắng của tư hữu, cho nên bò và nông cụ tôi đã đem cho công xã số 6 ở cạnh đó (nó vẫn còn đến bây giờ đấy), vợ chồng tôi bây giờ chẳng có cái gì sất. Radơmiốtnốp thì không thể làm theo gương ấy được: anh ấy goá vợ, chỉ còn độc một mẹ già. Annh ấy mà vào thì không tránh khỏi điều ong tiếng ve. Người ta sẽ bảo: “thế là bây giờ hắn bắt mình cõng mẹ hắn, như cái địu, còn hắn thì chẳng bén mảng ra đồng”. Chuyện này tế nhị lắm. Còn đảng viên thứ ba của chi bộ chúng tôi, hiện đang đi vắng, thì cụt một tay do máy tuốt lúa nghiến. Cậu ấy không dám muối mặt xin vào tập đoàn, bảo là không có mình thì người ta cũng thừa kẻ nuôi báo cô rồi.

- Đúng thế đấy, tập đoàn ấy của chúng tôi đúng là cái tai ương nghiệp chướng. – Radơmiốtnốp xác nhận. – Cậu chủ nhiệm của nó, Akaska Lôxép, là một tay làm ăn không ra thế nào. Thật là chọn ai chẳng chọn! Phải thừa nhận là trong việc này chúng tôi hớ rồi. Đáng lẽ không nên trao cho hắn chức ấy mới phải.

Đavưđốp đang lật xem qua sổ sách thống kê tài sản của bọn kulắc, hỏi:

- Sao thế?

Radơmiốtnốp mỉm cười, nói:

- Vì rằng hắn là một con người bệnh hoạn. Tính hắn thế thì làm con buôn mới phải. Cái gì cũng đổi chác, mua đi bán lại. Hắn mắc đúng bệnh ấy đấy. Hắn đã làm sạt nghiệp tập đoàn! Hắn mua một con bò giống, rồi hắn lại nảy ra ý kiến đem đổi lấy cái môtô. Hắn đặt bà con xã viên trước một việc đã rồi, hắn cũng chẳng hỏi ý kiến chúng tôi, tự nhiên thấy hắn chở cái môtô ấy từ ga về. Chúng tôi kêu làng, vò đầu bứt tai. Hắn vác về, nhưng nào ai có biết đi. Vả lại biết dùng nó làm gì bây giờ? Thật là cười dở mếu dở. Hắn mang về làng. Những dân sành chơi trong làng xem qua và bảo: “Tốt hơn hết là đem vứt quách nó đi!” Nó thiếu một số bộ phận mà chỉ nhà máy mới chế tạo ra được. Đáng kẽ nên cử Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp làm chủ nhiệm mới phải. Đó mới thật là một đầu óc. Lão ấy gửi mua tận Kraxnôđa hạt giống lúa mạch loại giống mới, hạn mấy cũng chịu được, lão biết giữ tuyết trên ruộng cày, thu hoạch của lão bao giờ cũng cao nhất. Gia súc thì lão nuôi loại nòi. Mặc dầu lão cũng có kêu quang quác khi chúng tôi bóp thuế lão, nhưng lão là một tay làm ăn giỏi, có bằng khen đấy.

Nagunốp lắc đầu tỏ vẻ nghi ngờ:

- Lão ấy như một con ngỗng hoang giữa đàn, đứng tách riêng ra một mình.

- Không phải đâu! Lão là người của ta. – Radơmiốtnốp khẳng định dứt khoát.

----------------------

(*)          Một kiểu quần ống rộng của người kô-dắc. – ND.

(**)        Maka là tên, Nagunốp là họ. - ND

CHƯƠNG III

Trong đêm mà đại uý Pôlốptxép, cựu chỉ huy đội kỵ binh kô-dắc của Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp đến nhà lão, hai người đã chuyện trò với nhau hồi lâu. Trong làng, Iakốp Lukits được tiếng là một người tinh khôn, mưu mẹo và thận trọng như một con cáo. Ấy thế mà bây giờ lão cũng chẳng đứng nổi ngoài rìa cuộc đấu tranh đang bùng lên dữ dội ở nông thôn và bị lôi tuột theo dòng thời cuộc. Từ buổi hôm ấy, cuộc đời của Iakốp Lukits đã đi vào một dốc trượt nguy hiểm.

Tối hôm ấy, cơm nước xong, Iakốp Lukits lấy túi thuốc lá ra, ngồi xuống mặt hòm, co cái chân đi bít tất len dày cộp lại, và bắt đầu dốc tuột ra mọi nỗi đắng cay chất chứa trong lòng từ bao nhiêu năm nay.

- Biết nói gì với ông bây giờ, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits? Cuộc đời chẳng có gì vui vẻ phấn khởi cả. Đấy ông xem, vừa qua bà con kô-dắc chăm lo làm ăn đã khấm khá lên một tí, có của ăn của để. Năm hăm sáu, hăm bảy, thuế má thôi thì cũng có thể nói là kham được. Nhưng bây giờ lại đảo lộn tùng phèo cả. Bên trang ấp ông ra sao, thế có nghe nói gì về tập thể hoá không?

Khách liếm nước bọt cuốn thuốc, chăm chú liếc nhìn chủ nhà đáp gọn:

- Có!

- Thế ra đâu cũng phát khóc lên vì cái trò ấy cả nhỉ. Bây giờ xin kể ông nghe chuyện của tôi: tôi trở về hồi năm hai mươi, sau khi quân ta (*) rút lui, hai đôi ngựa và toàn bộ cuả nả bỏ lại bên bờ Hắc Hải. Tôi trở lại ngôi nhà trống tuềnh trống toàng. Từ đó tôi làm ăn đầu tắt mặt tối. Đầu tiên các ông đồng chí chơi tôi một vố trưng thu lúa mì: có bao nhiêu thóc họ vét chứ tính thì cũng ra thôi: họ đánh mình và họ cấp cho mình biên lai hẳn hoi, để mình nhớ. – Iakốp Lukits đứng dậy, thò tay ra sau cái gương và cười ruồi trong hàng ria cắt ngắn, lôi ra một bó giấy: - Cái mớ ấy đây, những tờ biên lai ghi những thứ tôi đã nộp năm hai mươi mốt: lúa mì này, thịt này, bơ này, da thuộc này, lông cừu này, gà qué này, và cả những con bò đực đồ sộ dắt đến trạm trưng thu. Còn đây là biên lai thuế nông nghiệp thống nhất, biên lai lạc quyên, và lại còn biên lai bảo hiểm… Tôi đóng thuế cả khói lò sưởi, cả thuế vì cái nỗi trong chuồng có súc vật nữa…Chẳng mấy chốc mà những giấy má này tôi đóng đầy một bao tải. Tóm lại, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ, tôi vẫn cứ sống: đất nuôi tôi, và tôi lại nuôi những kẻ khác quanh tôi. Họ lột da tôi biết bao nhiêu lần rồi, nhưng lột lớp này tôi lại nuôi lớp khác mọc lên. Thoạt tiên, tôi kiếm được một đôi bò đực, vỗ nó lớn lên. Tôi đem nộp một con để làm thịt. Tôi đem bán cái máy khâu của bà nó nhà tôi, tậu một con khác. Ít lâu sau, năm hai nhăm, đôi bò của tôi sinh sôi được một đôi nữa. Thế là tôi có hai đôi bò đực và hai con bò cái. Họ không tước quyền bầu cử của tôi, tương lai họ sẽ xếp tôi vào loại trung nông lớp trên.

- Thế ngựa, anh có không? – Khách hỏi, vẻ quan tâm.

- Cứ từ từ, tôi nói sang chuyện ngựa bây giờ đây. Tôi mua được của bà hàng xóm một con ngựa cái non. Mẹ nó là ngựa sông Đông thuần chủng (cả làng còn độc một con này). Con ngựa con lớn lên, chà con nhãi nom hay đáo để. Dáng nhỏ, không dùng làm ngựa nhà binh được, thiếu mất nửa véc-sốc (**), nhưng phi nhanh thì có một không hai! Tại hội chợ triển lãm nông nghiệp của khu, tôi đã nhận được giải thưởng về nó và bằng chứng nhận ngựa nòi. Rồi tôi bắt đầu để tâm học hỏi các ông kỹ sư nông nghiệp, chăm ruộng đất như chăm vợ ốm vậy. Ngô tôi thì nhất làng, thu hoạch cao nhất. Giống, tôi đem ngâm trước khi gieo và tôi giữ tuyết trên ruộng cày. Tôi chỉ gieo lúa xuân trên ruộng cày thu, còn mùa xuân để ải, không cày; ruộng hưu canh của tôi bao giờ cũng nhất. Tóm lại là tôi trở thành lao động tiên tiến, và vì thế được giấy khen của Ban nông nghiệp khu. Kia kìa, ông xem.

Khách liếc nhìn theo hướng ngón tay của Iakốp Lukits trỏ, và thấy một tờ giấy đóng dấu đỏ, lồng khung gỗ, treo gần chỗ tượng thánh, cạnh bức ảnh Vôrôsilốp. Iakốp Lukits hãnh diện nói tiếp:

- Phải, họ đã gửi bằng đến cho tôi, và ông kỹ sư còn lấy mẫu lúa mạch của tôi mang về Rôxtốp để trình bày với các nhà chức trách. Mấy năm đầu tôi gieo năm đêxiachin (***), rồi khá giả lên, tôi bắt đầu làm đến đổ mồ hôi sôi nước mắt, gieo ba, năm, rồi bảy krúc (****), thế đấy! Vợ chồng, cha con tôi làm lấy, chỉ có hai lần, vào lúc thời vụ căng thẳng, tôi mới mướn thêm một người. Những năm này, Chính quyền Xôviết ra lệnh như thế nào? “Có sức thì cứ gieo nữa đi!” Và thế là tôi cứ gieo, lạy Chúa, thật là cứ như diều được gió. Nhưng, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits, ân nhân của tôi ạ, tôi nói xin ông tin cho, bây giờ thì tôi hãi rồi! Tôi hãi sẽ bị họ cho chết cháy vì bảy krúc ruộng gieo trồng ấy, họ nâng tôi lên thành phần kulắc mất. Lão chủ tịch Xôviết làng tôi, du kích đỏ ngày xưa, là đồng chí Radơmiốtnốp, hay còn gọi nôm na là Anđriuska, đã xui dại tôi thế đấy, mả mẹ nó! Có lần hắn bảo: “Iakốp Lukits ạ, bác cứ gieo đến mức tối đa có thể gieo được, bác hãy giúp đỡ Chính quyền Xôviết, Chính quyền Xôviết đang rất cần lúa mì”. Tôi ngờ lắm, và bây giờ thì vỡ nhẽ là cái tối đa ấy lại thít vào cổ tôi như cái thòng lọng, lạy Chúa!.

Khách đứng bên bệ lò sưởi, tay chắp sau lưng, vai rộng, đầu to, người chắc nịch như cái bao tải đầy thóc, hỏi:

- Ở đây người ta có ghi tên vào nông trang tập thể không?

- Vào nông trang ấy à? Cho tới nay họ để cho yên, nhưng mai sẽ có cuộc họp bần nông. Lúc  nhá nhem họ đã đi loan báo. Từ hôm Nôen đến nay, họ cứ nói nhai nhải, điếc cả tai:”Vào đi, vào đi thôi!” Nhưng bà con chối đây đẩy, chẳng ai chịu ghi tên. Ai tội gì chuốc vạ vào thân? Chắc là mai họ sẽ lại thúc đây. Nghe nói chiều nay mới có một thằng cha công nhân nào ở trên huyện về, hắn sẽ lùa mọi người vào nông trang. Đời chúng tôi thế là đi đứt. Tôi làm sầy vẩy, còng lưng cóp nhặt, thế mà bây giờ lại phải đem đổ tất vào cái nồi chung, cả gia súc, cả lúa mì, cả gà qué, cả nhà cửa nữa, chắc thế hẳn? Chẳng khác gì họ bảo mình: chú em đưa vợ đây cho anh, còn chú thì chịu khó đi nhà thổ vậy. Ông ngẫm mà xem, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits, tôi sẽ mang vào nông trang một đôi bò đực (cũng may là đôi kia tôi đã bán chạy cho cửa hàng thực phẩm rồi), một con ngựa cái và con con của nó, tất cả nông cụ, lúa mì, trong khi một đứa khác thì mang vào một cái bị rách đầy rận. Tôi với hắn canh ti lại, rồi lời lãi chia đôi, mỗi người một nửa. Thế thì bảo làm sao mà không cay?.. Có thể rồi suốt đời hắn cứ nằm ườn trên trốc lò sưởi mà nghĩ đến miếng ngon, miếng ngọt, còn tôi thì… nhưng thôi, nói làm gì nhỉ! Phựt! – Iakốp Lukits đưa bàn tay sần sùi lên cứa ngang cổ họng một cái dứt khoát. – Thôi, nói thế là đủ. Thưa, thế còn ông thì bây giờ sống ra sao? Làm cho sở nào hay là làm ở xưởng?

Khách bước tới bên Iakốp Lukits, ngồi xuống chiếc ghế đẩu, cuốn điếu thuốc khác; y đăm đăm nhìn túi thuốc, còn Iakốp Lukits thì nhìn cái cổ áo chật căng của tấm áo ngoài đã cũ của khách thít lấy cái cổ tròn lẳn làm nổi lên những đường gân xanh hai bên yết hầu:

- Lukits ạ, anh đã từng là lính đại đội tôi.. Anh có nhớ lần ở Êkatêrinôđa, hình như là trong khi quân ta rút lui thì phải, tôi đã có một cuộc nói chuyện với anh em kô-dắc về Chính quyền Xôviết chứ? Ngay từ hồi ấy tôi đã báo trước cho anh em biết rồi, anh có nhớ không? Tôi bảo: “Các chú sẽ sai lầm nghiêm trọng đấy! Cộng sản sẽ tuốt xác các chú, vặn cổ các chú. Các chú tỉnh ngộ thì lúc ấy đã muộn”. – Y ngừng lại một lát, hai đồng tử trong đôi mắt xanh xanh co lại, nhỏ xíu, chỉ còn như hai lỗ kim, rồi nở một nụ cười gian xảo. – Tôi nói có sai không? Tôi với anh em đơn vị đã không chạy thoát được khỏi Nôvôrôxixcơ. Quân tình nguyện và quân đồng minh đã phản bội, bỏ rơi chúng tôi. Tôi đã vào Hồng quân, chỉ huy một đại đội kỵ binh, trên đường đi mặt trận Ba Lan… Lúc ấy họ có một cái uỷ ban để kiểm tra, thanh lọc các sỹ quan cũ. Uỷ ban ấy cất chức tôi, bắt và đưa tôi ra Toà án cách mạng. Chà, suýt nữa thì các ông đồng chí đã làm thịt tôi rồi chứ chẳng chơi đâu, hoặc tống vào trại tập trung. Anh có đoán được tại sao không? Một thằng kô-dắc chó đẻ, đồng hương với tôi, đã tố giác là tôi có tham gia vụ giết Pốtchenkốp. Trên đường bị giải đi toà án, tôi đã trốn thoát…Tôi sống lẩn quất mãi, lấy một cái tên giả, và đến năm hai mươi ba thì trở về làng. Tôi còn giữ được giấy chứng nhận trước mình là đại đội trưởng một đại đội kỵ binh đỏ, lại gặp được mấy cậu cũng tốt, tóm lại là tôi thoát chết. Hồi đầu người ta lôi tôi lên khu, lên ban chính trị Sở công an sông Đông. Gỡ được xong, tôi đi gõ đầu trẻ. Tôi gõ đầu trẻ cho tới thời gian gần đây. Nhưng bây giờ… Bây giờ tình hình khác rồi. Nhân có việc đi Uxti-Khôpécxkaia, tôi tạt qua thăm anh là đồng đội cũ.

- Ông làm thầy giáo à? Vââậy đấy… Ông là người học rộng, hơn người về chữ nghĩa khoa học. Cơ sự này rồi sẽ ra sao? Với trò nông trang kia, chúng ta sẽ còn thất điên bát đảo đến tận đâu nữa, hả thưa ông?

- Đến chủ nghĩa cộng sản, anh bạn ạ. Đến cái chủ nghĩa cộng sản đích thực. Tôi đã đọc cả sách Các Mác lẫn cuốn “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nổi tiếng kia rồi. Chuyện nông trang này sẽ đi tới đâu, anh có biết không? Lúc đầu là nông trang, rồi đến công xã: thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu. Không những bò, rồi cả con cái anh người ta cũng sẽ bắt đưa nhà nước nuôi. Mọi cái sẽ thành của chung: vợ, con, chén bát, cùi dìa. Anh muốn ăn một bát mì thịt ngỗng, nhưng người ta lại bắt anh uống nước kvax. Anh sẽ là một nông nô bị cột chặt vào ruộng đất.

- Nhưng nếu tôi không thích thế thì sao?

- Người ta sẽ chẳng hỏi ý kiến anh.

- Sao lại thế được?

- Nó thế đấy.

- Hay nhỉ!

- Nhưng này! Bây giờ tôi hỏi anh: có thể sống mãi như thế này được không?

- Sống sao nổi.

- Nếu không nổi thì phải hành động, phải đấu tranh.

- Ông bảo sao, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits? Chúng ta đã thử rồi, đấu tranh rồi…Không ăn thua. Tôi chẳng buồn nghĩ đến chuyện đấy nữa!

- Cứ thử nữa xem. – Khách ghé sát vào Iakốp Lukits liếc nhìn cánh cửa bếp đã khoá chặt, rồi tự dưng tái mặt đi, thì thào: - Tôi đã nói chuyện thẳng thắn với anh: tôi hy vọng vào anh. Ở ấp chúng tôi, dân kô-dắc sắp nổi dậy rồi. Và anh đừng nghĩ là chuyện lơ mơ, làm bừa đâu. Chúng tôi có liên lạc với Mátxcơva, với các tướng tá hiện đang phục vụ trong Hồng quân, với các kỹ sư làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp, và còn xa hơn nữa, với  ngoại quốc. Phải, phải! Nếu chúng ta khéo tổ chức nhau lại và cũng hành động ngay từ bây giờ thì sang xuân, với sự giúp đỡ của các cường quốc bên ngoài, vùng sông Đông sẽ sạch bóng quân đỏ. Anh sẽ gieo lúa bằng hạt giống của anh và cho  mình anh hưởng thôi.. Khoan, để tôi nói nốt đã. Trong huyện, có nhiều người đồng tình với ta. Phải cố kết và tập hợp họ lại. Tôi đi Uxti-Khôpécxkaia chính là về việc này đây. Anh có nhập bọn chúng tôi không? Trong tổ chức của chúng tôi đã có trên ba trăm cựu chiến binh kô-dắc rồi. Ở Đubrốpxki, ở Vôxvôvôi, ở Tubianxki, ở Malưi Ônkhôvátxki và nhiều ấp khác chúng tôi đã lập nên những đội chiến đấu. Cũng nên tổ chức một đội như thế ở Grêmiatsi các anh đây…Nào, anh nói đi.

- Bà con kêu ca về chuyện nông trang và chuyện nộp thóc…

- Khoan! Không nói chuyện bà con, mà nói chuyện anh. Tôi hỏi anh cơ. Thế nào?

- Những chuyện như vậy làm sao quyết định ngay được?..Chuyện này mất đầu như bỡn.

- Anh cứ nghĩ đi…Có lệnh là tất cả các thôn ấp chúng ta sẽ đồng loạt nổi dậy. Chúng ta sẽ chiếm huyện này, dân cảnh và cộng sản thì ta sẽ sục tận nhà tóm cổ từng thằng, còn về sau thì ngọn lửa tự nó sẽ bùng lên.

- Nhưng lấy gì mà nổi dậy?

- Sẽ có! Chắc anh cũng còn giữ được chứ?

- Cũng chẳng rõ nữa…Hình như cũng có vứt lay lứt đâu đó…Một khẩu súng cổ…Kiểu Áo thì phải.

- Chúng ta chỉ cần khởi sự, và một tuần lễ sau tàu ngoại quốc sẽ chở đến cả súng trường, cả đại bác. Sẽ có cả tàu bay nữa. Thế nào?

- Thưa ngài đại uý, xin để tôi nghĩ đã! Đừng thúc ép tôi qúa…

Khách dựa lưng vào bệ lò sưởi, mặt chưa hết tái, nói giọng trầm trầm:

- Chúng tôi không đi mộ người vào nông trang, cho nên không thúc ép ai cả. Hoàn toàn tuỳ anh, nhưng cái mồm thì…liệu đấy anh Lukits ạ! Sáu viên phần anh, còn viên thứ bảy…- và khách lấy ngón tay khẽ gảy lách cách ổ đạn khẩu súng lục đút trong túi.

- Về cái mồm thì ông khỏi lo. Nhưng việc ông làm xem ra mạo hiểm đấy. Và cũng chẳng giấu gì ông: việc ấy làm tôi hãi lắm. Nhưng sống thì cũng cùng đường rồi. – Lão ngừng nói một lát. – Nếu không có chuyện o ép những người có của, tôi nai lưng ra làm, biết đâu bây giờ chẳng nhất làng rồi. Cứ như thời làm ăn tự do thì biết đâu bây giờ tôi chẳng đã có cái ô tô! – Iakốp Lukits chua chát nói sau một phút im lặng. – Nhưng đơn độc mà lao vào những chuyện ấy…Họ vặn cổ sớm.

- Sao lại đơn độc? – Khách khó chịu ngắt lời.

- Ấy là tôi nói lẩm cẩm như vậy. Nhưng thưa ông, những người khác thì thế nào? Thế giới họ sẽ thế nào? Nhân dân liệu có nghe không?

- Nhân dân chỉ là đàn cừu. Phải dẫn dắt họ. Thế nào, quyết định chứ?

- Tôi đã nói rồi, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits…

- Tôi cần biết dứt khoát: anh có đồng ý không?

- Chẳng còn con đường nào khác, vậy thì tôi đồng ý. Nhưng dẫu sao ông cứ để cho tôi nghĩ cho chín đã. Sáng mai tôi sẽ trả lời ông một tiếng cuối cùng.

Thế rồi Pôlốptxép đã lên giọng ra lệnh:

- Ngoài ra, anh còn phải thuyết phục những bà con kô-dắc nào tin cậy được. Tìm những ai có hận thù với Chính quyền Xôviết ấy.

- Cuộc sống thế này thì ai mà không hận thù.

- Thằng cháu nhà anh thế nào?

-  Cha nào con nấy. Tôi làm sao, nó làm vậy (*****)

- Thằng ấy được chứ?

- Nó đáng mặt một dân kô-dắc, - Iakốp Lukits đáp với một vẻ tự hào kín đáo.

Chủ nhà trải cho khách một tấm chăn xám và một chiếc áo khoác lót lông nằm ở gian khác, cạnh bệ lò sưởi. Khách tháo ủng ra, nhưng để nguyên quần áo mà nằm, và vừa đặt má lên chiếc gồi nhồi lông chim mát lạnh đã thiếp đi luôn.

… Trời chưa sáng hẳn Iakốp Lukits đã đánh thức bà mẹ già tám mươi nằm ngủ trong gian buồng nhỏ bên chái nhà. Lão kể vắn tắt cho mẹ nghe ông chỉ huy đại đội cũ của mình đến đây có mục đích gì. Mụ già ngồi trên bệ lò sưởi nghe, buông thõng hai chân nổi những đường gân đen và các khớp sưng phù vì cóng, một tay đưa lên banh cái vành tay vàng ệch ra.

Iakốp Lukits quỳ xuống, nói:

- Mẹ có ban phước cho con không?

- Làm đi, cứ làm, đánh cho chết bọn trời tru đất diệt ấy đi, con ạ! Chúa ban phước lành cho an! Chúng nó đóng cửa nhà thờ…Cha cố không sống nổi…Con cứ làm đi!...

Trời sáng thì Iakốp Lukits đánh thức khách dậy:

- Tôi quyết định rồi! Xin ông ra lệnh.

Pôlốptxép rút trong túi áo ra một tờ giấy:

- Đọc đi, rồi ký vào.

“ Xin Chúa che chở cho chúng con! Tôi là một người lính kô-dắc của Đại binh đoàn sông Đông, xin gia nhập Liên minh giải phóng quê hương sông Đông, và cam kết tuân lệnh các vị chỉ huy, đem hết sức lực và bằng mọi cách, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng chống bọn cộng sản bônsêvích, những kẻ thù không đội trời chung của Thiên chúa giáo, những kẻ áp bức nhân dân Nga. Tôi cam kết tuyệt đối tuân lệnh các vị thủ trưởng và chỉ huy của mình. Tôi cam kết dâng toàn bộ tài sản của tôi lên bàn thờ Tổ quốc Thiên chúa giáo giòng chính thống. Tôi cam kết và xin ký”

-------------------

(*)          Quân Bạch vệ. – ND.

(**)        Trước cách mạng, người kô-dắc đi lính Nga hoàng phải đem theo ngựa, cao tối thiểu là 2 ác-sin nửa véc-sốc. Một ác-sin là 0,71m, một véc-sốc là 0,044m. – ND.

(***)      Đêxiachin = 1,09 hec ta. – ND.

(****)   Krúc = 4 hec ta. – ND.

(*****) Nguyên văn: Ngón tay bỏ bàn tay đi đâu được? Tôi đi đâu, nó theo đó. – ND.

CHƯƠNG IV

Ba mươi hai con người – cốt cán và bần nông ấp Grêmiatsi Lốc – nín thở ngồi  nghe. Đavưđốp chẳng có tài diễn thuyết, vậy mà thoạt đầu người ta lắng nghe anh còn chăm chú hơn cả một người kể chuyện cổ tích giỏi nhất.

- Thưa các đồng chí! Tôi bản thân là công nhân nhà máy Puchilốp đỏ. Đảng cộng sản và giai cấp công nhân phái tôi về đây giúp các đồng chí tổ chức nông trang tập thể và tiêu diệt bọn kulắc là những kẻ hút máu hút mủ mọi  người chúng ta. Tôi sẽ nói ngắn thôi. Các đồng chí phải hợp lực lại vào nông trang tập thể, đem toàn bộ ruộng đất, nông cụ, súc vật làm của chung. Vì sao phải vào nông trang? Vì rằng cứ tiếp tục sống như thế này thì thật là sống không nổi. Ta gay go về lúa mì là do bọn kulắc chôn giấu, để mục nát dưới đất, ta phải dùng vũ lực mà đoạt lấy của chúng! Còn các đồng chí thì hẳn là sẽ phấn khởi mà nộp lúa mì, nhưng chính các đồng chí cũng thiếu ăn. Lúa của trung bần nông thì không nuôi nổi liên bang Xôviết. Phải gieo trồng thêm nhiều nữa. Nhưng với các cày gỗ và cày sắt một lưỡi thì làm sao  mà gieo trồng nhiều được? Chỉ có máy cày mới giúp ta thoát được khỏi tình cảnh này. Thực tế thế! Tôi không rõ ở vùng sông Đông các đồng chí, trong vụ cày thu, một cái cày thì cày được bao nhiêu…

- Nắm chắc tay cày cả ngày lẫn đêm thì đến mùa đông cày được mười hai đêxiachin.

- Hả? Mười hai à? Phải chân đất rắn thì sao?

- Ông kia nói lăng nhăng gì vậy? – Một tiếng đàn bà the thé cất lên. – Thế thì mỗi cái cày phải đóng ba, không thì bốn đôi bò đực khoẻ, mà ta thì đào đâu ra bò? Cũng có đấy, nhưng không phải ai cũng có, lải rải mỗi nơi một đôi ốm đói.., mà phần lớn lại là bò đực có vú. Nhà giàu cơ người ta mới có, họ làm ăn như diều được gió...

- Ai mà nói chuyện ấy! Đàn bà không biết thì ngồi yên nhá váy mà nghe. – Tiếng ai ồm ồm và khàn khàn đáp lại.

- Ông thì biết! Về nhà mà dạy vợ, đừng lên mặt dạy người ta.

- Thế máy cày thì cày được bao nhiêu?...

Đavưđốp chờ cho mọi người im lặng, rồi đáp:

- Một máy cày, nói máy của xưởng Puchilốp chúng tôi sản xuất ra thôi, nếu có tay lái giỏi, thạo nghề thì một ngày một đêm, hai ca thay nhau cũng cày được mười hai đêxiachin.

Cả hội nghị cùng ồ lên. Có tiếng ai kinh ngạc thốt lên:

- Cha mẹ ơi!...

- Gớm thế đấy! Cày bằng con ngựa ấy mới sướng…- Tiếng ai đó thở dài, khao khát.

Đavưđốp đưa tay lên quệt đôi môi khô đi vì cảm động, nói tiếp:

- Xưởng chúng tôi làm ra máy kéo cho các đồng chí đấy. Bần trung nông cá thể thì không mua nổi đâu: ruột tượng bà con bé quá! Nghĩa là muốn mua được thì bần cố, trung nông phải chung lưng đấu cật lại. Bà con đều biết đấy, máy kéo mà đem ra làm ở mảnh ruộng nhỏ thì lỗ vốn to. Với nó thì cứ phải là những cánh đồng lớn. Những ácten nhỏ dùng nó cũng chẳng lợi gì hơn là vắt sữa dê.

- Không được thế nữa ấy chứ! – Một giọng ồm ồm như ống lệnh cất lên từ những hàng ghế cuối.

- Nghĩa là ta nên làm thế nào? – Đavưđốp nói tiếp, không chú ý đến những tiếng đáp lại ấy. – Đảng dự kiến tập thể hoá toàn bộ để bà con có máy cày và đưa bà con ra khỏi cảnh bần cùng. Đồng chí Lênin trước khi mất đã nói như thế nào? Chỉ có nông trang tập thể mới cứu được nông dân lao động thoát khỏi nghèo khó. Không thế thì họ sẽ nguy khốn. Bọn kulắc là con quỷ khát máu sẽ hút máu của họ đến khô kiệt… Vậy thì các đồng chí phải dứt khoát, kiên quyết đi theo con đường Đảng vạch ra. Liên minh với công nhân, giai cấp nông dân tập thể sẽ coi khinh tất cả bọn kulắc và mọi kẻ thù. Tôi không nói sai đâu. Bây giờ tôi nói sang cái tập đoàn sản xuất của các đồng chí. Cỡ nhỏ quá, lực yếu, do đó công việc làm ăn của nó có thể nói là bi đát. Như vậy thì chẳng khác gì gió vào nhà trống.. Tóm lại là chẳng ăn gì cả, chỉ độc thua lỗ! Nhưng chúng ta phải đưa nó vào nông trang tập thể, làm thành cái cốt lõi, rồi quanh cái cốt lõi ấy sẽ phát triển thêm trung nông..

- Khoan, tôi có ý kiến tí đã! – Đemka Usanốp, một anh chàng rỗ hoa, mắt lác, đã có thời gian tham gia tập đoàn, đứng dậy.

- Muốn ý kiến thì phải giơ tay xin phép, - Nagunốp ngồi ở bàn chủ toạ, cạnh Đavưđốp và Anđrây Radơmiốtnốp, nghiêm nghị nhắc nhở anh ta.

Đemka tỉnh bơ đi, mỗi mắt nhìn đi một ngả, tưởng đâu như anh ta đồng thời vừa nhìn lên bàn chủ tịch, vừa nhìn cử toạ:

- Tôi cứ nói, chẳng việc gì phải xin phép. Tôi xin lỗi, chứ vậy thì vì sao chúng ta làm ăn thất bát và thành gánh nặng cho Chính quyền Xôviết? Tại vì sao, tôi xin hỏi các đồng chí, chúng ta như một bọn ăn bám vào quỹ tín dụng? Tại cái ông chủ nhiệm quý hoá của chúng ta! Tại lão Akaska Mênốc đấy!

- Cái phần tử ăn nói bố láo! – Một giọng gà trống cất lên từ mấy hàng ghế cuối. Và Akaska Mênốc huých cùi tay chen lên phía bàn chủ toạ.

- Tôi xin dẫn chứng! – Đemka tái mặt đi, hai mắt nhíu vào bên sống mũi. Mặc cho Radơmiốtnốp đang nắm bàn tay gân guốc đấm xuống bàn thình thình, anh ta quay sang phía Akaska: - Đừng có mà lấp liếm. Chúng ta nghèo hơn các nông trang khác không phải vì chúng ta ít người, mà là do những việc đổi chác của nhà anh. Anh có đổi con bò đực lấy cái môtô, chẳng hỏi ý kiến ai không? Có? Và đứa nào nghĩ ra cái chuyện đem gà đẻ đi đổi lấy…

Akaska vừa chen lên, vừa chống chế:

- Cứ bịa nữa đi!

- Chẳng phải anh thì đứa nào gạ chúng tôi bán ba con cừu đực thiến và một con bò cái tơ để mua một cỗ xe ngựa? Đồ lái buôn..nửa mùa! Úi giào ôi! – Đemka nói bằng một giọng đắc thắng.

- Từ từ chứ nào! Lối đâu đá nhau như gà chọi thế này! – Nagunốp can, và trên má anh cái thứ thịt dưới lớp da đỏ ửng lên đã bắt đầu giật giật.

Akaska đã len tới bàn chủ toạ, xin phép nói:

- Đề nghị đến lượt tôi có ý kiến.

Anh ta đưa tay lên nắm bộ râu hung hung định nói thì Đavưđốp gạt anh ra:

- Tôi phát biểu nốt, và bây giờ đề nghị đừng nói chen … Thưa các đồng chí, như tôi đã nói: chỉ có nông trang tập thể mới có thể..

Anh du kích đỏ Paven Liubiskin, ngồi ngay sát cửa ra vào, ngắt lời anh:

- Anh không phải tuyên truyền chúng tôi! Chúng tôi sẽ vào nông trang ráo.

- Đồng ý vào nông trang.

- Vào thì mới làm ăn nên nỗi đấy!

- Nhưng phải quản lý cho tử tế cơ.

Vẫn cái anh chàng Liubiskin ấy lại cất giọng, át mọi tiếng ồn. Anh ta đứng lên, trật cái mũ lông đen ra, người cao lớn, vai ngang chằn chặn, lấp cả lối ra vào:

- Anh này thật buồn cười, việc gì phải tuyên truyền Chính quyền Xôviết với chúng tôi? Chính tay chúng tôi trong thời gian chiến tranh đã dựng nó lên, chính chúng tôi đã đưa vai ra đỡ cho nó khỏi đổ. Chúng tôi biết nông trang là thế nào rồi, chúng tôi sẽ vào. Các anh hãy cho chúng tôi máy móc. – Anh chìa bàn tay nứt nẻ ra. – Máy kéo thì hay rồi, khỏi nói, nhưng công nhân các anh, các anh làm ra còn được ít quá, chúng tôi chê các anh điểm ấy đấy! Chúng tôi không có cái gì để bấu víu cả, gay go là ở chỗ đó. Còn cày bằng bò thì một tay cày, một tay gạt nước mắt, và nếu chỉ như thế thì cần gì phải có nông trang mới làm được. Trước khi có bước chuyển sang thành lập nông trang thì bản thân tôi đã định viết thư cho đồng chí Kalinin, yêu cầu giúp đỡ bà con nhà nông xây dựng một cuộc sống mới như thế nào đó. Nếu không, cứ mấy năm đầu thì chẳng khác gì dưới chế độ cũ cả: đóng thuế đi, còn sống chết mặc bay. Thế thì cái Đảng Cộng sản Nga để làm gì nhỉ? Chúng ta đã đánh thắng, được, nhưng rồi sao nữa? Lại như xưa, lẽo đẽo theo sau cái cày, ai có con gì thì mắc cày vào con đó. Còn người không có thì sao? Ngửa tay xin ở cổng nhà thờ chăng? Hay là kiếm một cái xiên, nấp dưới gầm cầu, rình những anh cán bộ thương nghiệp nhà nước hoặc nhân viên hợp tác xã tiêu thụ mà xỉa? Người ta vẫn cho phép bọn nhà giàu phát canh thu tô, cho phép chúng mướn người làm. Năm 1918, cách mạng dạy chúng ta làm như vậy sao? Các anh đã bịt mắt cách mạng! Và hễ ai mở mồm nói: ”Chúng ta đã chiến đấu để làm gì nhỉ?” thì những ông công chức chưa hề ngửi thấy mùi thuốc súng lại lấy đó làm trò cười, và đằng sau họ, cả một bầy chó trắng cũng hô hố lên cười. Không, anh không phải lên lớp chúng tôi! Chúng tôi nghe những lời bùi tai đã nhiều rồi. Anh hãy bán chịu cho chúng tôi một máy cày, hoặc bán trả dần bằng thóc, nhưng phải là máy tốt chứ đừng đưa ra cái của ba bị, hoặc đồ tầm phơ nào! Đưa đúng loại máy kéo anh vừa nói ấy! Nếu không thì tôi xơi những cái này để làm gì? – Anh bước qua đùi bà con ngồi trên các hàng ghế, đi thẳng tới  bàn chủ toạ, vừa đi vừa cởi cúc chiếc quần rách tã ra. Đến nơi, anh vén thốc tà áo sơmi lên, lấy cằm kẹp giữ vào ngực. Trên bụng và hông đen sạm của anh lộ ra những vết sẹo gớm khiếp, kéo căng da: - Tôi xơi quà này của các ngài Kađê (*) để làm gì?

- Đồ nỡm, không biết dơ! Thế thì tụt hẳn ra có được không! – Mụ goá Anhixia, ngồi cạnh Đemka Usakốp, bất bình và láu lỉnh kêu lên.

- Mụ thích tụt à? - Đemka khinh bỉ lườm mụ một cái.

- Thôi, thím Anhixia ơi, im cái mồm đi! Chìa ra cho một vị công nhân xem sẹo của tôi thì việc gì mà tôi sợ dơ? Để cho anh ta thấy! Bởi vì rằng nếu cứ tiếp tục sống như thế này thì, mẹ kiếp, tôi đến chẳng còn cái quái gì mà che tât cả những của quý ấy nữa chứ! Quần của tôi bây giờ thực ra chỉ còn là cái tên gọi thôi. Ban ngày ban mặt tôi đâu dám đi qua mặt đàn bà con gái! Họ hãi chết khiếp!

Phía đằng sau người ta cười hô hố, làm nhộn lên, nhưng Liubiskin đưa con mắt nghiêm nghị nhìn quanh một vòng. Và lại nghe thấy tiếng ngọn đèn nổ lép bép.

- Vậy là tôi đã chiến đấu chống bọn Ka-đê chỉ để cho bọn nhà giàu vẫn cứ sống đàng hoàng hơn tôi à? Để cho chúng ăn sung mặc sướng, còn tôi vẫn phải ăn bánh mì mốc với hành à? Có phải vậy không, hả đồng chí công nhân? Này anh, anh Maka ơi, việc gì phải nhấm nháy tôi! Cả năm tôi chỉ nói có một lần thôi, để yên tôi nói.

Đavưđốp gật đầu:

- Cứ nói tiếp đi!

- Tôi nói tiếp. Năm nay tôi gieo ba đêxiachin lúa mạch. Tôi có ba đứa nhỏ, một bà chị què, và một vợ ốm. Tôi có nộp thóc đúng hạn không, hả anh Radơmiốtnốp?

- Có,  nhưng đừng làm ầm lên như vậy.

- Không, tôi cứ làm ầm! Thế cái lão kulắc Phrôn Mũi toác…, mả mẹ nó!...

- Sao, sao? – Nagunốp đấm bàn một cái, nói.

- Thằng Phrôn Mũi toác có nộp thóc không? Không chứ gì?

Radơmiốtnốp, đôi mắt sáng long lanh thích thú và từ nãy vẫn nghe Liubiskin với một vẻ khoái trá ra mặt, nói chêm vào:

- Thế cho nên toà án đã phạt hắn, bắt hắn nộp đủ thóc.

Đavưđốp chợt nhớ đến bí thư huyện uỷ, nghĩ bụng: “Ông thận trọng ơi, sao ông không ở đây mà nghe?”.

- Năm nay hắn vẫn sẽ là ông Phrôn Igơnachits! Và sang xuân hắn sẽ lại đến mướn tôi làm! – Liubiskin ném cái mũ đen nhẻm xuống bên chân Đavưđốp. – Anh nói chuyện nông trang với tôi làm gì?! Các anh cứ xơi tái bọn kulắc đi, chúng tôi khắc vào! Các anh cứ tước máy móc, tước bò của chúng nó đưa cho chúng tôi, tước cái sức mạnh của chúng nó đi, chúng ta khắc có bình đẳng! Toàn chỉ thấy nói đi rồi nói lại: “tiêu diệt bọn kulắc”, còn bọn kulắc thì năm này qua năm khác cứ phình mãi ra, như cây si, và che lấp cả mặt trời của chúng tôi.

Đemka nói như đế vào:

- Anh có cho chúng tôi tài sản của lão Phrôn thì Akaska Mênốc sẽ đem đổi lấy cái tàu bay cho mà xem.

- Ha ha, hố hố!...

- Nói trúng tim đen.

- Đề nghị làm chứng cho tôi là đã bị xúc phạm!

- Không để cho ai nghe nữa à? Suỵt!

- Lũ quỷ, mất trật tự quá!

- Thôi, im lặng!...

Đavưđốp vất vả mới dẹp được tiếng ồn ào đang nổi lên.

- Đó chính là chính sách của Đảng ta! Cửa đã mở rồi, việc gì ta phải gõ nữa! Tiêu diệt bọn kulắc về mặt giai cấp, tịch thu tài sản của chúng trao cho nông trang, thực tế thế! Còn đồng chí, đồng chí du kích ạ, việc gì mà đồng chí vứt mũ xuống gầm bàn như vậy, nó còn dùng che đầu được đấy. Bây giờ thì không được có chuyện phát canh thu tô và thuê mướn nhân công nữa! Trước đây chúng ta còn gượng nhẹ bọn kulắc, đó là do hoàn cảnh bắt buộc: chúng có nhiều thóc nộp hơn các nông trang chúng ta. Nhưng bây giờ thì khác hẳn rồi. Đồng chí Xtalin đã tính toán đủ mọi đường và bảo: phải loại trừ bọn kulắc ra khỏi đời sống chúng ta! Phải đem tài sản của chúng trao cho nông trang…Đồng chí nhăn nhó mãi về chuyện máy kéo…Vậy năm triệu rúp người ta cấp cho các nông trang để mở mang thì là cái gì? Đồng chí có biết chuyện ấy không? Thế thì việc gì đồng chí cứ phải ngậu xị lên như vậy? Trước tiên phải nặn ra được cái nông trang đã, rồi mới lo đến chuyện máy móc chứ. Còn đồng chí thì muốn sắm cái vòng cổ ngựa trước, rồi đo cái vòng cổ mà tậu ngựa. Đồng chí cười cái gì? Đúng thế, đúng thế đấy!

- Cậu Liubiskin này đúng là đặt cái cày trước con bò!

- Hô hô..

- Thế thì chúng tôi tán thành vào nông trang quá rồi!

- Hắn tính chuyện cái vòng cổ ngựa..

- Thành lập ngay đêm nay đi!

- Ghi tên luôn!

- Dẫn chúng tôi đi đấu bọn kulắc!

Nagunốp đề nghị:

- Ai muốn vào nông trang, giơ tay lên!

Đếm thì thấy có ba mươi ba bàn tay giơ lên. Một bà con nào đó cuống quýt đã giơ cả hai tay.

Không khí ngột ngạt làm Đavưđốp phải bỏ áo măngtô và véttông ra. Anh cởi khuy cổ áo sơmi, mỉm cười đợi cho tiếng ồn ào lắng xuống:

- Tinh thần giác ngộ của các đồng chí rất cao, thực tế thế! Nhưng các đồng chí tưởng chỉ có việc vào nông trang là xong à? Không, chưa đủ đâu! Bần nông các đồng chí là trụ cột của Chính quyền Xôviết. Không những bản thân các đồng chí phải vào nông trang, mà còn phải lôi kéo trung nông đang nghiêng ngả nữa.

- Nhưng người ta không muốn thì lôi kéo làm sao? – Akaska Mênốc hỏi. – Họ là con bò hay sao mà bảo xỏ mũi dắt đi?

- Phải thuyết phục họ! Đồng chí là người đấu tranh cho chân lý của chúng ta, thế mà lại không lôi kéo được người khác theo mình à? Mai ta sẽ có cuộc họp. Đồng chí hãy biểu quyết “tán thành” và thuyết phục người trung nông ngồi bên mình. Bây giờ ta bàn sang chuyện bọn kulắc. Ta sẽ ra quyết định trục xuất chúng ra khỏi cương giới vùng Bắc Cápcadơ này hay là thế nào?

- Đồng ý đấy!

- Nhổ tận gốc!

- Không, không phải chỉ nhổ tận gốc, mà trốc tận rễ nữa, - Đavưđốp bổ sung, và bảo Radơmiốtnốp: - đồng chí đọc danh sách bọn kulắc lên. Ta sẽ duyệt bây giờ việc tịch thu tài sản của chúng nó.

Anđrây rút trong tập hồ sơ ra một tờ giấy, trao cho Đavưđốp.

- Phrôn Đamaxkốp. Tên này có đáng bị giai cấp vô sản trừng trị như vậy không?

Các cánh tay giơ lên nhất loạt. Nhưng đếm xong thì Đavưđốp thấy là có một người không biểu quyết. Anh dướn đôi lông mày đầy mồ hôi đang bốc hơi lên:

- Không đồng ý à, anh kia?

Anh chàng kô-dắc nom vẻ hiền lành củ mỉ, vừa rồi không giơ tay, đáp cộc lốc:

- Tôi không có ý kiến.

- Sao lại thế? – Đavưđốp gặng hỏi.

- Vì ông ấy là hàng xóm láng giềng của tôi, tôi thấy ông ấy có nhiều cái tốt. Tôi không thể giơ tay làm hại ông ấy được.

Nagunốp đứng nhổm dậy như kiểu đang ngồi trên yên ngựa, ra lệnh bằng  một giọng hơi run run:

- Cút ngay khỏi phòng họp này!

Đavưđốp nghiêm khắc ngắt lời Nagunốp:

- Đừng, ai lại làm thế, đồng chí Nagunốp! Anh đồng bào kia, đừng về! Anh  hãy giải thích rõ thái độ của anh đã. Theo anh, Đamaxkốp có phải kulắc hay không?

- Chuyện ấy tôi không biết. Tôi mù chữ, và đề nghị cho tôi rời hội nghị.

- Không được, anh hãy vui lòng giải thích cho chúng tôi nghe đã: anh đã được nó làm ơn những gì?

- Ông ấy giúp tôi luôn, nay cho mượn bò, mai cho vay thóc giống.. có ít đâu…Nhưng tôi không phản bội chính quyền. Tôi ủng hộ chính quyền…

Radơmiốtnốp nói xen vào:

- Nó có yêu cầu anh bênh vực nó không? Nó có đút lót anh tiền, thóc lúa không? Anh cứ thú nhận đi, đừng sợ! Nào, nói đi: nó đã hứa với anh những gì? – Radơmiốtnốp mỉm cười lúng túng, ngượng thay cho anh chàng kia, và ngượng vì những câu hỏi sống sượng của mình.

- Hình như chẳng hứa cái gì cả. Sao đồng chí biết?

- Chimôphây, mày nói dối! Mày là đứa đã bị mua chuộc, biến thành tay sai kulắc rồi! – Có tiếng ai trong hàng ghế kêu lên.

- Anh muốn gọi tôi thế nào thì gọi, tuỳ anh…

Đavưđốp hỏi một câu như kề dao vào cổ anh ta:

- Anh theo Chính quyền Xôviết hay theo bọn kulắc? Anh đừng bôi nhọ giai cấp nông dân nghèo khổ, anh hãy nói thẳng cho hội nghị rõ: anh đứng về bên nào?

Liubiskin bực lắm, cắt ngang:

- Hơi đâu mất thời giờ với hắn! Chỉ cần một chai vốtka là có thể mua được cả hắn lẫn ruột gan hắn. Này, Chimôphây ơi, trông mày mà tao ngứa mắt quá!

Anh chàng Chimôphây Borsép, lúc nãy không giơ tay biểu quyết, cuối cùng tỏ vẻ đấu dịu, đáp:

- Tôi ủng hộ chính quyền. Sao các anh lại xúm vào đả tôi như vậy? Tôi tối tăm dốt nát, cho nên lẫn…

Nhưng biểu quyết lần thứ hai, anh ta đã giơ tay với một vẻ miễn cưỡng ra mặt.

Đavưđốp ngoáy máy chữ vào sổ tay: “Chimôphây Borsép bị kẻ thù của giai cấp dụ dỗ. Phải giáo dục”.

Hội nghị đồng thanh quyết nghị tịch thu tài sản bốn tên kulắc nữa.

Nhưng khi Đavưđốp nói: “Tít Bôrôđin. Ai tán thành?” thì cả hội nghị ắng đi trong một không khí im lặng nặng nề. Nagunốp và Radơmiốtnốp lúng túng nhìn nhau. Liubiskin cầm mũ lau mồ hôi trán.

- Sao lại im lặng? Có chuyện gì vậy? – Đavưđốp thắc mắc đưa mắt nhìn các hàng ghế, và thấy mình nhìn ai người ấy cũng quay mắt đi bèn đưa mắt nhìn Nagunốp.

Nagunốp bắt đầu bằng một giọng ngập ngừng:

- Số là thế này. Cái cậu Bôrôđin ấy, chúng tôi vẫn gọi nôm na là cậu Titốc, hồi 1918 đã cùng với chúng tôi tình nguyện tham gia đội cận vệ đỏ. Xuất thân gia đình bần nông, hắn chiến đấu vững vàng. Hắn bị thương mấy lần và đã được thưởng một đồng hồ bạc vì thành tích cách mạng. Hắn là lính đội du kích Đumenốc. Đồng chí công nhân ạ, đồng chí có biết hắn đã làm cho chúng tôi nẫu ruột, nẫu gan vì hắn như thế nào không? Phục viên về nhà, hắn bám khư khư lấy kinh tế của hắn như con chó giữ xương… Và hắn bắt đầu làm giàu, mặc dù chúng tôi đã khuyên răn hắn. Hắn làm ngày làm đêm, râu ria lông lá mọc xồm xoàm, tứ thời đánh độc cái quần vải thô. Hắn đã tậu được ba đôi bò và chuốc lấy bệnh sa đì vì mang vác quá nặng. Nhưng thế đối với hắn vẫn chưa đủ! Hắn bắt đầu mướn người, hai người, rồi ba người. Hắn tậu một cối xay gió, rồi mua một máy hơi nước năm mã lực và xoay ra làm bơ, buôn bò. Thường hắn ăn kham khổ và để người làm đói nhăn răng, mặc dù họ phải làm việc đến hai mươi tiếng một ngày và đêm phải dậy năm lần bảy lượt cho ngựa và bò ăn. Chúng tôi đã nhiều lần gọi hắn tới chi bộ và trụ sở Xôviết, mắng cho thảm hại, bảo hắn: “Thôi đi, Tít, đừng làm cái trò chắn ngang đường chính quyền Xôviết thân yêu của chúng ta như thế nữa! Chính cậu đã hy sinh gian khổ ngoài mặt trận, chiến đấu chống bọn Bạch vệ..” – Nagunốp thở dài đánh thượt một cái, và giang rộng hai tay. – Biết làm thế nào một khi người ta bị ma xui quỷ ám? Xem ra cái tư hữu đã ăn sống nuốt tươi hắn rồi! Chúng tôi đã gọi hắn lên một lần nữa, gợi hắn nhớ lại cuộc đời chiến đấu và những chuyện đồng cam cộng khổ của chúng tôi, khuyên nhủ, đe hắn là chúng tôi sẽ đạp dí hắn xuống tận bùn đen nếu hắn to gan cản đường chúng ta, tư sản hoá đi, và không muốn đón chờ cách mạng thế giới.

Đavưđốp sốt ruột, yêu cầu:

- Nói ngăn ngắn thôi.

Nagunốp giật mình và hạ thấp giọng:

- Chuyện ấy không nói ngắn được. Nó như vết thương rỉ máu…Thế là hắn, nghĩa là cậu Titốc ấy, hắn trả lời chúng tôi: “Tôi chấp hành mệnh lệnh của Chính quyền Xôviết, mở rộng diện tích gieo trồng. Và tôi mướn  nhân công là hợp pháp: bà nó nhà tôi bị bệnh hậu sản. Xưa kia tôi chẳng bằng ai, bây giờ tôi được đầy đủ sung túc thế này thì chính vì thế mà tôi đã chiến đấu. Hơn nữa, chính Chính quyền Xôviết đứng vững được khộng phải là nhờ vào các anh. Hai bàn tay tôi đây đã cung cấp cho chính quyền Xôviết có cái để mà nhá, còn các anh, các ông quan to quan nhỏ, tôi còn lạ gì các ông nữa”. Khi chúng tôi gợi lại chuyện chiến đấu đồng cam cộng khổ thì cũng có lần mắt hắn đỏ hoe, nhưng hắn không để cho nước mắt được chảy thoải mái, hắn quay mặt đi, lên gân nói: “Ăn cơm mới nói chuyện cũ làm gì?” Chúng tôi đã tước quyền bầu cử của hắn. Và thế là hắn chạy nháo các nơi, làm đơn lên khu, lên Mátxcơva. Nhưng tôi hiểu như thế này, là ở trên các cơ quan trung ương có những nhà cách mạng lão thành nắm những cương vị chủ chốt và các ông ấy thừa hiểu: một khi anh đã phản bội thì anh là kẻ thù, và đối với anh phải thẳng tay!

- Cũng nên nói ngăn ngắn thôi…

- Tôi xong bây giờ đây. Ở trên cũng không phục hồi cho hắn và từ bấy đến nay, hắn vẫn chứng nào tật ấy. Thực ra thì hắn cũng thôi, không mướn người nữa…

Đavưđốp nhìn chòng chọc vào mặt Nagunốp:

- Ồ, thế thì có vấn đề gì nhỉ?

Nhưng Nagunốp khép hai hàng lông mi ngắn bạc nắng xuống, đáp:

- Là vì cả hội nghị im lặng. Tôi chỉ muốn giải thích rõ là tên Tít Bôrôđin, ngày nay là kulắc thì trong quá khứ thân thiết mới đây là hạng người thế nào thôi.

Đavưđốp mím chặt môi, mặt sa sầm:

- Việc gì đồng chí phải đem những chuyện ấy ra than thở với chúng tôi? Hắn đã đi du kích, đó là thành tích của hắn. Nhưng bây giờ hắn trở thành kulắc, biến thành kẻ thù, vậy thì phải tiêu diệt! Có gì mà phải nói lôi thôi?

- Tôi nói thế không phải là tôi thương hại hắn đâu. Đồng chí đừng buộc oan cho tôi.

- Ai tán thành tịch thu tài sản của Bôrôđin? – Đavưđốp đưa mắt nhìn quanh một vòng.

Các cánh tay ngập ngừng, lẻ tẻ giơ lên, nhưng rồi cũng giơ lên cả.

Tan họp, Nagunốp mời Đavưđốp về nhà mình ngủ. Anh vừa dò dẫm bước ra khỏi căn nhà tối om của trụ sở Xôviết, vừa nói:

- Để mai tôi sẽ tìm cho anh một chỗ ở.

Họ đi bên nhau, bước trên tuyết sào sạo. Nagunốp phanh ngực áo varơi ra, nói nho nhỏ:

- Đồng chí công nhân thân mến ạ, tôi thật nhẹ cả người khi nghe nói phải đưa vào nông trang toàn bộ tài sản tư hữu của nông dân. Từ bé tôi đã ghét cay ghét đắng của tư hữu. Mọi tai hoạ đều do nó sinh ra cả, các đồng chí Mác, Ăngghen tài giỏi của chúng ta viết cấm có sai. Nếu không xoá bỏ nó đi thì ngay cả dưới Chính quyền Xôviết, người ta cũng sẽ choảng nhau, chạy lăng xăng, huých nhau, như những con lợn chạy quanh máng ăn, chỉ vì cái bệnh dịch thổ tả ấy. Còn xưa kia, dưới chế độ cũ thì thế nào? Nghĩ mà khiếp! Ông cụ nhà tôi xưa là một dân kô-dắc phong lưu, có bốn đôi bò đực và năm con ngựa. Ruộng đất của ông cụ mênh mông, sáu mươi, bảy mươi, rồi đến một trăm đêxiachin. Gia đình đông, toàn tay làm được. Chúng tôi tự lực làm lấy cả. Đồng chí tính xem: tôi có ba ông anh đã lấy vợ. Và thế rồi một sự việc đã khắc sâu vào trí nhớ tôi, và làm tôi sinh ra căm ghét chế độ tư hữu. Một hôm, con lợn nhà hàng xóm lẻn vào vườn ra nhà tôi, phá mất mấy khóm khoai tây. Bà cụ tôi trông thấy, vớ luôn cái gáo, múc đầy nước sôi trong nồi, và bảo tôi:”Maka, mày ra xua nó, tao đón lối hàng rào”. Hồi ấy tôi mười hai. Cố nhiên là tôi đã ra đuổi con lợn bất hạnh ấy. Và bà cụ tôi đã cho nó tắm nước sôi. Đến nỗi lông nó bốc khói mù lên! Hồi đó đang muà hè, con lợn bị thối thịt sinh giòi, mỗi ngày một nhiều, rồi nghẻo. Lão hàng xóm để bụng thù. Và một tuần sau, hai mươi ba đụn lúa mạch nhà tôi đánh đống ngoài thảo nguyên cháy tiệt. Ông cụ tôi thừa biết đó là do bàn tay ai, ức không chịu nổi, phát đơn kiện. Và giữa hai người sinh ra thù hằn nhau đến ghê, không nhìn mặt nhau được. Tí rượu vào là choảng nhau luôn. Kiện cáo kéo dài khoảng năm năm, cho đến ngày xảy ra án mạng…Vào tuần lễ Lá. Người ta tìm thấy anh con trai của lão hàng xóm nằm chết trong một kho thóc. Có ai đó đã dùng chàng nạng xiên cho anh ta vào ngực, thủng mấy chỗ. Qua một vài điều, tôi đoán đấy là do bàn tay các ông anh tôi. Người ta tiến hành điều tra, nhưng không tìm ra thủ phạm…Người ta lập biên bản, kết luận anh ta chết vì say rượu. Và từ đó tôi bỏ nhà bỏ cửa ra đi làm mướn. Rồi tôi bị lôi cuốn vào chiến tranh. Ngoài mặt trận, có những lúc ta nằm, bọn Đức giã pháo đạn ghém vào ta, khói đen và đất cát bắn tung toé lên trời. Tôi nằm và nghĩ: “Vì ai, để giữ gìn của tư hữu cho ai mà ta chịu cái cảnh hãi hùng chết chóc này nhỉ?” Và dưới làn đạn bắn, ta chỉ ước gì biến thành cái đinh, để cắm sâu xuống đất ngập tận mũ! Ối chao ôi, rồi tôi hít phải hơi ngạt, anh ạ, bị trúng độc! Bây giờ, động leo dốc một tí là chóng mặt, máu bốc lên đầu, bước không nổi. Ở mặt trận, có những người thông minh tài trí đã vẽ đường chỉ lối cho tôi, và khi trở về, tôi đã là một người bônsêvích. Và trong nội chiến, chà, tôi mới đâm chém cái giống sâu bọ ấy nhá! Không chút thương xót! Ở Kaxtornaia tôi bị chấn thương, rồi bắt đầu lên những cơn động kinh. Và bây giờ được cái này đây. – Nagunốp đặt bàn tay hộ pháp của mình lên tấm huân chương, và trong giọng nói của anh vang lên những âm hưởng mới, ấm áp lạ thường. – Giờ đây có nó, tôi thấy trong lòng ấm thêm lên. Giờ đây, đồng chí thân mến ạ, tôi cảm thấy như trong những ngày nội chiến, như đang đứng trên vị trí chiến đấu vậy. Phải cố hết sức để lôi kéo mọi người vào nông trang. Đó là một bước nữa đi tới cách mạng thế giới.

Đavưđốp chân bước miệng hỏi với một vẻ đăm chiêu:

- Anh biết rõ Tít Bôrôđin không?

- Biết quá chứ! Trước, tôi với nó là bạn thân, nhưng chính vì cái chuyện hắn mê của tư hữu quá quắt lắm nên tôi với nó đã bỏ nhau. Năm 1920 tôi với nó đã cùng đi dẹp cuộc nổi loạn trong một tổng vùng Đônét. Hai đại đội kỵ binh và một đội biệt động xông lên tấn công. Phía sau làng thấy có nhiều người Ucraina bị đâm chém nằm chết đó. Đến đêm, thằng Titốc trở về chỗ đóng quân, vác theo mấy cái bọc tướng. Hắn rũ ra, và tám cái cẳng chân chặt cụt rơi lỏng chỏng xuống đất. “Mày điên à? – Một đồng chí bảo nó như vậy. Mang cuốn xéo ngay lập tức!” Và thằng Titốc trả lời: “Mẹ kiếp, cho chúng nó hết nổi loạn! Bốn đôi ủng thì tác dụng cho tớ quá! Đủ cho cả nhà đi”. Nó hơ những ống chân ấy lên lò sưởi và cố sức kéo. Rồi mang mấy cái cẳng chân ra ngoài, vùi vào đống rơm. Nó bảo: “Chôn rồi”. Hồi ấy chúng tôi mà biết thì hẳn sẽ lôi nó ra bắn chết, như một con chó ghẻ! Nhưng anh em không nỡ tố cáo nó. Sau đó tôi có căn vặn nó: đúng có chuyện ấy không? Nó nói: “Đúng. Lúc ấy không sao tháo được ủng ra, chân chúng nó đóng băng, cứng như gỗ, mình phải lấy kiếm chặt. Mình là thợ giầy, thấy những đôi ủng tốt như thế để mục dưới đất thì tiếc của. Nhưng bây giờ chính mình cũng kinh. Có lúc đang đêm sực tỉnh, mình phải bảo bà vợ để cho mình nằm vào trong, vì nằm ngoài thấy chợn chợn…” Ủa, ta về đến nhà đây rồi. Nagunốp bước vào sân, lách cách mở then cửa.

----------------------

(*)          KĐ: đảng dân chủ lập hiến, một đảng phản động. – ND

CHƯƠNG V

Anđrây  Radơmiốtnốp bị bắt đi lính quân dịch vào năm 1913. Theo luật lệ hồi ấy, anh phải mang theo ngựa nhà nhập  ngũ. Nhưng chẳng những ngựa, mà ngay cả quân trang quy định cho một người lính kô-dắc, anh cũng chẳng lấy đâu ra tiền sắm. Bố anh chết đi để lại cho anh gia tài độc có một thanh gươm của ông nội, đút trong cái bao mòn đã mất hết nước bóng. Suốt đời, Anđrây sẽ không quên nỗi tủi nhục này! Trong một cuộc họp dân làng, các bô lão đã quyết định xuất công quỹ trang bị cho anh đi quân dịch: các cụ sắm cho anh một con nghẽo rẻ tiền lông đỏ hoe hoe, một bộ yên, hai tấm áo capốt, hai cái quần, một đôi ủng…Các cụ bảo anh: “Chú Anđrây ạ, bà con đã xuất công quỹ sắm sửa cho chú, chúng đừng quên ơn bà con, đừng làm làng xóm xấu hổ, đi phục vụ đức Sa hoàng cho tử tế…”

Còn bọn con cái nhà giàu kô-dắc thì vênh vang cưỡi những con ngựa quý của sở nuôi ngựa Kôrônkốp hoặc những con ngựa nòi chuốc từ Prôvaliê về, với những bộ yên đắt tiền, đai cương khảm bạc, trang phục mới toanh...Ruộng đất của Anđrây phải trao lại cho ban hương lý cai quản và đem phát canh trong suốt thời gian Anđrây đi lang thang khắp các mặt trận, bảo vệ sự giàu có của kẻ khác, bảo vệ cuộc sống no nê phè phỡn của kẻ khác. Tại mặt trận Đức, anh được gắn ba huân chương Thánh Ghêorghi. Tiền thưởng huân chương, anh gửi  về cho vợ và mẹ già, bà mẹ mà tuổi già cay đắng những nước mắt đã nhờ cậy được anh hơi muộn.

Chiến tranh gần kết thúc thì vợ Anđrây, từ mùa thu đã đi đập lúa mướn dành dụm được ít tiền, ra mặt trận thăm chồng. Chị sống ở chỗ chồng chỉ có vài ngày (trung đoàn kô-dắc sông Đông số 11, là trung đoàn của Anđrây, lúc ấy đang nghỉ ngơi), ngủ gối đầu lên cánh tay chồng. Những đêm ấy đã qua đi, nhanh như chớp mưa hè. Nhưng có cần gì nhiều thời gian cho ân ái của đôi chim, cho một người đàn bà khao khát hạnh phúc? Chị trở về quê, đôi mắt long lanh, rồi đến cữ, không một tiếng kêu, không một giọt nước mắt, chị đẻ rơi ngay trên đồng cỏ một thằng cu giống Anđrây như đúc.

Năm 1918, Radơmiốtnốp trở về Grêmiatsi Lốc một thời gian ngắn. Anh ở lại quê không được  bao lâu: anh sửa lại cái cày gỗ đã mục, thay mấy rui xà kho lúa, cày vỡ hai đêxiachin ruộng, rồi để cả một ngày nô với thằng cu con, đặt nó cưỡi lên cái cổ lính hôi hám như cắm thẳng xuống đôi vai của anh, chạy quanh phòng, cười như nắc nẻ; và trong khoé mắt xanh của anh thường ngày nom hơi dữ, chị vợ trông thấy rưng rưng một giọt nước mắt. Chị tái mặt đi, hỏi chồng: “Anh Anđrây, anh lại đi nữa đấy à?” – “Mai. Chuẩn bị cho ít lương ăn đường”.

Và sáng hôm sau, anh, Maka Nagunốp, Liubiskin, Tít Bôrôđin và tám chàng kô-dắc nữa ở mặt trận về, đã tập hợp trước cửa nhà Anđrây. Những con ngựa thắng yên cương, mỗi con một màu lông, đã đưa họ đi khuất dần sau chiếc cối xay gió, và trên đường cái quan một hồi lâu vẫn còn cuồn cuộn đám bụi xuân nhẹ bốc lên từ dưới vó ngựa đóng móng hè.

Ngày hôm ấy, trên bầu trời Grêmiatsi Lốc, bên trên mặt nước ngập lênh láng, bên trên những cánh đồng hoang, bên trên cái thế giới xanh ngát từ Nam chí Bắc, từng đàn ngỗng trời cánh đen lặng lẽ bay qua, không một tiếng kêu, trong không gian bao la bát ngát.

Đến Kamenxkaia, Anđrây tách ra khỏi tốp. Anh tiến về phía Môrôdốpxkaia – Txaritxưn trong một đơn vị của binh đoàn Vôrôsilốp. Còn Maka Nagunốp, Liubiskin và các anh em khác thì đi về Vôrônegiơ. Và ba tháng sau, trước thành Krivaia Mudơga, bị thương nhẹ vì một mảnh lựu đạn, nằm tại trạm cấp cứu, Anđrây tình cờ gặp một người đồng hương và được tin rằng bọn kô-dắc bạch vệ Grêmiatsi Lốc, người cùng làng với Anđrây, sau khi tiêu diệt đơn vị của Pôtchenkốp, đã giở trò dã man với vợ anh để trả thù anh về tội đi theo bên đỏ. Chuyện này cả làng đều biết, và chị Épđôkia (*) không chịu nổi nhục đã tự vẫn.

…Một ngày giá lạnh. Cuối tháng chạp. Ấp Grêmiatsi Lốc. Nhà cửa, kho, rào dậu, cây cối, tất cả đều phủ một lớp băng giá trắng. Phía sau ngọn đồi xa xa là cuộc giao chiến. Đại bác của tướng Guxensikốp nổ rền. Anđrây cưỡi con ngựa mép sùi bọt trắng, phi tới ấp vào lúc sẩm chiều. Và cho đến bây giờ anh vẫn nhớ như in, chỉ cần anh nhắm mắt lại là lập tức hình ảnh ấy của quá khứ lại hiện ngay ra trước mắt…Cái cổng hàng rào kêu kót két. Anđrây thở dốc, cầm dây cương kéo con ngựa đã mệt nhoài bước loạng choạng vào sân. Bà mẹ anh không kịp khoác áo, ở trong nhà chạy ra.

Chao ôi, tiếng bà cụ khóc người đã mất nghe sao não nuột, xé ruột xé gan Anđrây!

- Con ơi, cooon! Nó đã nhắm mắt xuôi tay rôôồi!...

Radơmiốtnốp cứ như đang vào nhà ai: anh buộc dây cương vào lan can hiên, và đôi chân anh như tự nó bước vào nhà. Đôi mắt sâu hoẳm của anh, như mắt người chết, sục nhìn gian nhà trống trơn, chiếc nôi trống trơn.

- Thằng bé đâu?

Bà mẹ úp mặt vào màn cửa, lắc lắc cái đầu lơ thơ mấy sợi tóc hoa râm.

Bà cố lắm mới trả lời nổi:

- Mẹ đã không giữ được cháu yêu của mẹ! Hai tuần sau khi Épđôkia.., vì bệnh yết hầu.

- Đừng khóc nữa…Con đây cơ, ước gì con khóc được lấy một tiếng! Đứa nào hãm hại nhà con?

- Thằng Anhikây Đêviátkin đã lôi vợ con vào cái kho lúa…Nó cầm roi ngựa quật mẹ...Nó réo thêm mấy đứa nữa vào kho. Hai cánh tay vợ con trắng trẻo thế mà nó cầm bao kiếm quật túi bụi. Vợ con về nhà mình mẩy tím bầm…Người trông chỉ còn độc hai con mắt…

- Nó có nhà không?

- Chạy rồi.

- Nhà nó còn ai không?

- Còn con vợ và ông lão. Anđrây! Đừng làm tội họ! Tội đứa khác chứ họ có tội tình gì…

- Mẹ!..Mẹ bảo con thế đấy à? – Anđrây tím bầm mặt, nghẹt thở. Anh giật đứt mấy cái khuy áo capốt, giằng cái cổ áo varơi và ngực áo sơmi ra.

Anh tỳ bộ ngực phanh trần gầy giơ xương sườn vào sanh nước, uống ừng ực, cắn cả vào miệng sanh. Rồi anh đứng dậy, mắt vẫn cắm xuống, miệng hỏi:

- Mẹ à, trước khi nhắm mắt, nhà con có dặn dò gì lại với con không?

Bà mẹ lần vào trong cái góc đầu nhà, rút sau tấm ảnh thánh ra một mẩu giấy đã vàng ố. Và bên tai anh vẳng lên những lời giối giăng như một giọng nói thân thương: “Anh Anđrây thân yêu của em! Bọn khốn nạn đã làm ô uế em! Chúng nó chà đạp lên em và mối tình của em với anh. Em còn mặt mũi nào nhìn anh và ánh sáng mặt trời nữa. Lương tâm em không cho phép em sống mà mang cái bệnh thối tha ấy. Anh Anđrây, bông hoa yêu quý của em ơi! Đêm nào em cũng chẳng ngủ được đâu, em cứ khóc ướt đầm cả gối. Tình của đôi ta em sẽ ghi lòng tạc dạ, và xuống dưới suối vàng em cũng sẽ vẫn ghi tạc, không quên. Em chỉ ân hận một điều: ân hận cho đứa trẻ và cho anh, tiếc cho cuộc sống và tình vợ chồng quá ngắn  ngủi. Anh sẽ lấy vợ khác, em mong chị ấy sẽ vì Chúa mà thương lấy thằng bé. Và cả anh nữa, hãy thương lấy nó, mụn con côi của em. Anh bảo bu là mấy cái váy của em, và cả cái khăn quàng của em, và cả cái áo cánh của em nữa, bu đưa cho con bé út em. Nó sắp lấy chồng, đang cần…”

Anđrây phi ngựa như bay tới nhà Đêviátkin và, gươm tuốt trần, xăm xăm chạy lên thềm. Bố của Anhikây Đêviátkin, một ông lão cao lớn tóc hoa râm, trông thấy anh, vội làm dấu phép và phủ phục xuống trước mấy tấm ảnh thánh.

- Anh Anđrây Xtêpanưts! – Lão chỉ kêu như vậy, dập đầu xuống trước chân Anđrây, rồi không cạy răng nói được tiếng nào nữa và không cất được cái đầu hỏi đỏ hỏn lên khỏi mặt đất nữa.

- Mày phải đền tội cho thằng con mày!

Anđrây đưa tay trái túm lấy chòm râu đốm bạc của lão già, đạp tung cánh cửa, lôi lão xềnh xệch ra hiên.

Bà lão nằm quay lơ ra bên lò sưởi, bất tỉnh nhân sự. Nhưng cô con dâu, vợ của Anhikây, vội dồn đống lũ trẻ lại (lốc nhốc tất cả sáu đứa), rồi bù lu bù loa nhảy xổ ra hiên. Anđrây, trắng bệch như một khúc xương vứt dãi dầu nắng gió, đã hoa gươm lên, sắp sửa hạ xuống cổ ông lão thì vừa lúc đó cả một bầy trẻ lớn nhỏ các cỡ, thò lò mũi xanh, vừa gào vừa rống chạy ùa ra quấn lấy chân anh.

- Chém hết chúng nó đi! Toàn là giòng giống máu mủ thằng Anhikây cả đấy! Chém cả tao nữa! – Mụ Ápđichia, vợ Anhikây, tru tréo lên và bước sấn tới trước mặt Anđrây, phanh chiếc áo cánh hồng, chìa thây lẩy ra hai cái vú răn reo như vú chó cái đã đẻ nhiều lứa.

Trong khi đó, đàn trẻ suýt soát bằng đầu nhau vẫn lúc nhúc quẩn chân Anđrây…

Anh lùi lại, đảo mắt phóng ra một cái nhìn man rợ, tra gươm vào vỏ, chuệnh choạng bước ra chỗ con ngựa, đất phẳng lỳ mà vấp luôn mấy cái. Ông lão mếu máo, nửa mừng nửa sợ, lẽo lẽo theo anh ra tận cổng ngõ, và cứ cố ghé môi vào hôn cái bàn đạp, nhưng Anđrây nhăn mặt kinh tởm, rụt chân lại, khàn khàn nói:

- Phúc tổ mày!...Không có lũ trẻ thì…

                Về nhà, ba ngày liền anh nốc rượu bí tỉ, khóc trong cơn say. Đến đêm thứ hai, anh phóng hoả đốt cái nhà kho, nơi Épđôkia treo cổ tự vẫn. Và sang hôm thứ tư, mặt mũi húp híp, nom gớm khiếp, anh lặng lẽ từ giã mẹ, và bà mẹ ôm đầu anh vào lòng, chợt thấy lần đầu tiên mái tóc vàng hoe của con trai điểm những sợi bạc.

Hai năm sau, Anđrây từ mặt trận Ba Lan trở về Grêmiatsi. Anh vào đội trưng mua và tiếp tế lương thực, đi lang thang một năm trời khắp vùng Thượng sông Đông, rồi về nhà bắt tay làm ăn. Bà mẹ khuyên anh lấy vợ, anh chỉ lặng thinh. Nhưng rồi một hôm, bà nhất định bắt anh phải trả lời cho ra nhẽ.

- Lấy vợ đi chứ, Anđrây! Xoong chảo mẹ bê chẳng nổi nữa rồi. Con gái đứa nào cũng ưng anh. Muốn dạm hỏi đứa nào thì cứ nói cho mẹ biết.

- Con không lấy vợ. Mẹ để con yên!

- Cứ một giọng thế mãi thôi! Soi gương mà xem, đầu đã hai thứ tóc rồi đấy. Thế đến bao giờ mới định lấy vợ? Phải đợi đến lúc tóc bạc trắng hay sao? Tính làm sao cho phải, để mẹ nhờ với chứ? Mẹ cứ nghĩ rằng thế nào cũng có cháu bế. Mẹ đã để dành hai bộ lông dê để đan bít tất cho trẻ…Việc của mẹ bây giờ là tắm rửa cho chúng nó. Chứ vắt sữa bò thì mẹ chả làm nổi nữa: ngón tay lóng ngóng lắm rồi. – Rồi bà xoay sang mếu máo: - Mình đẻ ra cái của nợ chứ không phải con cái! Chỉ hết đăm đăm chiêu chiêu rồi lại thở phì phò. Sao mày câm như hến thế, hả đồ ôn vật?

Anđrây cầm lấy mũ, lẳng lặng bước ra khỏi nhà. Nhưng bà chẳng chịu: nào chuyện la cà với các bà hàng xóm, nào thì thà thì thầm, nào khuyên bảo…

Anđrây cứ trơ trơ, trước sau một mực:

- Nhà con mất rồi thì con không muốn rước ai về nhà này nữa.

Thế là cơn giận của bà mẹ trút sang  người con dâu đã mất.

- Con rắn độc ấy đã bỏ bùa mê thuốc dấu cho thằng con nhà tôi rồi! – Gặp bà lão nào trong ngõ, hoặc chiều chiều ngồi chơi với nhau quanh nhà, bà than thở. – Nó đã tự treo cổ nó lên, và nó sẽ làm cho thằng ấy chết theo cho mà xem. Thằng ấy nó không muốn lấy vợ nữa. Khổ thân tôi không cơ chứ! Hi..hi…bà ơi, cứ nhìn thấy con cháu người ta là tôi ràn rụa nước mắt: người ta già thì con cháu quấn quít vui vầy, còn mình thì trơ thân cụ, như con chuột chũi trong hang…

Cũng năm ấy, Anđrây đã tằng tịu với Marina, vợ goá của anh cai kỵ binh Pôiarkốp chết trận ở Nôvôtserkaxtơ. Mùa thu ấy thì mụ đã ngoài bốn mươi, nhưng thân hình đầy đặn mạnh khoẻ và nước da bánh mật vẫn còn giữ được vẻ đẹp mộc mạc của thảo nguyên.

Dạo tháng Mười, Anđrây đến lợp nhà cho mụ. Chập choạng tối, mụ mời anh vào nhà, nhanh nhảu bày bàn ăn, đặt một bát xúp bắp cải trước mặt anh, ném vào lòng anh một chiếc khăn tay thêu giặt sạch sẽ, rồi ngồi xuống đối diện, tay chống lên gò má cao cao. Anđrây ngồi lặng thinh, lấm lét nhìn mái đầu kiêu hãnh của mụ nặng trĩu búi tóc đen nhánh. Tóc mụ dày, xem có vẻ cứng, chẳng khác gì cái bờm ngựa, nhưng ở chỗ vành tai xinh xinh thì lại xoắn tít lên, mềm mại như xoáy vào Anđrây.

- Ăn nữa nhá? – Mụ hỏi.

- Ừ thì ăn. – Anđrây đồng ý và đưa tay lên chùi bộ ria đốm bạc.

Anh bắt vào ăn tiếp. Marina lại ngồi xuống trước mặt anh, và nhìn anh bằng con mắt chờ đợi, như mắt một con thú rình mồi. Rồi bỗng Anđrây chợt thấy trên cái cổ đầy đặn của mụ một đường gân xanh nó cứ đập rộn lên, và không hiểu sao tự nhiên anh thấy bối rối, đặt thìa xuống.

- Sao thế? – Và hai cánh mi cong cong của mụ ngỡ ngàng chớp chớp.

- No rồi. Cám ơn. Sáng mai tôi sẽ lại sớm lợp nốt.

Marina đi vòng qua bàn. Nhoẻn một nụ cười từ từ để lộ ra hai hàm răng đều đặn, mụ ôm lấy Anđrây, áp vào người anh cặp vú đồ sộ núng nính, thều thào hỏi:

- Hay là ngủ lại đây?

- Thế cũng được. – Anđrây bối rối, chả còn biết trả lời thế nào khác.

Để trả miếng câu trả lời ngây ngô ấy, mụ cúi gập thân mình tròn lẳn xuống chào:

- Úi chao, xin đa tạ anh cả! Anh cả thật là quá tử tế với một con mụ goá đáng thương…Thế mà tôi, con đàn bà hư hỏng này tôi cứ lo ngay ngáy anh cả từ chối…

Mụ thổi tắt phụt ngọn đèn dầu, quờ quạng trải giường, cài chặt then cửa, và với một giọng khinh khỉnh thoáng một chút hậm hực, mụ nói:

- Anh chẳng ra dáng một anh kô-dắc tí nào. Hình như lão thợ thiếc ở Tambốp đã nặn ra anh thì phải.

- Thế là thế nào? – Anđrây tự ái đã thôi, không cởi giày nữa.

- Nghĩa là anh cũng chỉ như những anh chàng khác thôi chứ thế nào. Nhìn mắt anh thì tưởng anh táo tợn lắm, vậy mà ngồi cạnh đàn bà anh cấm dám ho he. Thế mà ra trận cũng được huân chương cơ đấy! – Mụ xoã tóc, đưa cặp tóc lên miệng ngậm, nên nói cứ lúng búng. – Anh có nhớ anh Misa nhà tôi không? Anh ấy nhỏ người hơn tôi. Còn anh thì vừa với tôi quá. Ấy thế mà tôi yêu anh ấy chỉ vì cái tính táo tợn. Ngoài quán rượu, đứa khoẻ nhất anh ấy cũng chẳng chịu, dù có hộc máu mồm máu mũi, nhưng chưa bao giờ anh ấy thua. Và có lẽ thế mà anh ấy đã chết. – Mụ thêm một câu với vẻ tự hào: - Mà anh ấy cũng hiểu vì sao tôi yêu anh ấy…

Anđrây nhớ đến câu chuyện của anh em kô-dắc trong làng, những người cùng đơn vị với chồng Marina, đã chứng kiến cái chết của hắn ta: trong một lần đi trinh sát, hắn đã dẫn đơn vị tấn công vào một đội tuần tiễu của Hồng quân đông gấp đôi. Các chiến sĩ Hồng quân đã dùng súng máy Liuyx bắn chúng chạy tán loạn, cho ngã ngựa bốn tên kô-dắc, còn bản thân Mikhain Pôiarkốp thì bị họ cắt ra khỏi đơn vị và dồn đuổi riết. Hắn vừa phi ngựa vừa bắn chết tươi ba chiến sĩ Hồng quân đuổi theo sau, và vốn là một tay “làm xiếc ngựa” giỏi nhất trung đoàn, hắn lượn vòng vèo tránh đạn, và có lẽ đã thoát nếu con ngựa không sa chân xuống hố, làm chủ nó ngã gãy cẳng. Và thế là hết đời một tên cai kỵ binh ngổ ngáo…

Nhớ lại chuyện anh em kể về cái chết của Pôiarkốp, Anđrây mỉm cười.

Marina đã nằm lên gường; mụ thở hổn hển, nhích sát vào Anđrây.

Nửa giờ sau, tiếp tục câu chuyện bỏ dở, mụ thì thào:

- Tôi yêu Misa vì anh ấy tợn, còn yêu anh thì…chẳng vì cái gì cả, - và mụ áp vào ngực Anđrây cái tai xinh xinh nóng hổi. Trong bóng tối lờ mờ, Anđrây cảm thấy đôi mắt mụ long lanh nảy lửa và ương bướng như mắt con ngựa mới, chưa thuần.

Chưa sáng, mụ đã hỏi:

- Mai có đến lợp nốt không?

Anđrây ngạc nhiên:

- Lại còn phải hỏi nhỉ!

- Thôi, không cần…

- Sao vậy?

- Vì anh lợp vụng lắm chứ sao! Bác Suka làm thạo hơn anh nhiều, - rồi mụ cười khanh khách. – Tôi nhờ anh là có ý đấy chứ!...Không thế thì sao dụ được anh đến đây? Nhưng mà này, anh hại tôi quá. Giờ phải lợp lại từ đầu.

Hai hôm sau bác Suka đến lợp lại cái mái cứ  vừa làm vừa chê ỏng chê eo trước mặt chị chủ nhà lối làm ăn không ra sao của Anđrây.

Từ bữa ấy, đêm nào Anđrây cũng mò đến nhà Marina. Và đối với anh, mối tình của mẹ nạ dòng già hơn anh đến chục tuổi ấy nó mới ngọt ngào làm sao, ngọt ngào như quả táo rừng rám đỏ dưới băng giá đầu mùa…

Chẳng bao lâu cả làng biết chuyện dan díu ấy, và mỗi người bình phẩm một phách. Bà cụ Anđrây khóc lóc, than thở với các bà láng giềng: “Xấu hổ chưa! Đi lăng nhăng với một con mụ già!” Nhưng rồi bà cũng đấu dịu, không nói gì nữa. Nhiurka, cô hàng xóm mà thỉnh thoảng Anđrây gặp vẫn đùa ghẹo, ít lâu nay tránh mặt anh. Nhưng rồi một hôm trên con đường mòn đi đẵn củi, cô chạm trán với anh, và tái mặt đi.

- Con mụ già ấy cưỡi lên anh thật đấy à? – Cô mỉm cười hỏi, đôi môi run run, và cũng chẳng buồn giấu một giọt nước mắt long lanh sau hàng mi.

- Làm mình không thở được nữa ấy chứ! – Anđrây còn cố bông phèng.

Nhiurka chân bước đi, miệng hỏi:

- Anh không tìm được đám nào trẻ trẻ hơn ư?

- Nhưng cô xem, tôi thì cũng còn trẻ trung gì nữa. – Anđrây bỏ mũ ra, chỉ vào mái tóc hoa râm của mình.

- Thế mà tôi, cái con ngu ngốc đần độn này vẫn cứ phải lòng cái mái tóc hoa râm và cái thô bạo vụng về của anh đấy! Thôi, chào anh.

Và cô bỏ đi, tự ái ngẩng cao đầu.

Maka Nagunốp thì nói ngắn gọn:

- Mình không tán thành, Anđrây ạ! Mụ ấy sẽ biến cậu thành một anh cai bạch vệ và một kẻ tiểu tư hữu cho mà xem. Thôi, thôi, mình nói đùa đấy mà, cậu không thấy à?

Rồi một hôm bà mẹ anh bỗng tỏ ra dễ dãi:

- Thì cưới xin đi cho nó đàng hoàng. Để nó được về làm dâu chứ.

- Chả cần. – Anđrây đánh trống lảng.

Marina như trút được hai mươi tuổi. Đêm đêm mụ tiếp Anđrây, đôi mắt hơi xếch long lanh một ngọn lửa ủ, ôm ghì lấy anh với một sức lực rất đàn ông, và cho đến lúc sáng bạch, hai gò má cao cao bánh mật của mụ vẫn còn đỏ ửng như hai quả anh đào chín. Cứ như mụ trở lại thời con gái vậy. Mụ lấy những mảnh lụa vụn khâu cho Anđrây những túi đựng thuốc lá thêu hoa, chăm bẵm săn đón từng cử chỉ của anh, chiều chuộng anh, rồi đến một lúc, dậy lên trong lòng mụ với một sức mạnh ghê gớm, lòng ghen tuông và nỗi lo sợ bị mất Anđrây. Mụ đi họp chỉ là để xem xem anh có đùa với cô nào không, có nhìn cô nào không? Lúc đầu Anđrây không chịu nổi cái lối kiểm soát nảy sinh ra một cách bất ngờ ấy; anh chửi Marina, thậm chí vài lần đã đánh mụ, nhưng rồi cũng quen đi, lòng hãnh diện của anh đàn ông còn làm anh lấy thế làm khoái nữa. Marina tỏ ra hào phóng, có bao nhiều quần áo của chồng đưa cho anh tất. Và thế là Anđrây trước đây vẫn ăn mặc rách rưới, nay với quyền của kẻ thừa kế, cứ đàng hoàng diện những chiếc quần sarôva dạ của hạ sĩ quan, và những chiếc áo sơmi mà cánh tay và cổ rõ rành rành là quá ngắn và quá chật đối với anh.

Anđrây giúp đỡ ả nhân ngãi của mình trong việc nhà cửa, đồng áng, đi săn mang về cho mụ lúc thì một con thỏ rừng bắn được, lúc thì một xâu chim đa đa. Nhưng Marina không bao giờ lạm dụng quyền lực của mình và không dám bớt xén phần của bà mẹ Anđrây, mặc dù trong lòng mụ ngầm ác cảm với bà cụ.

Vả lại, bản thân mụ đảm đang việc nhà chẳng phải là kém, có thể làm bay tất không cần đàn ông. Đôi lúc Anđrây lấy làm hài lòng thấy mụ cầm chàng nạng nhấc bổng lên từng bó lúa mạch nặng hàng ba pút (**) một, hoặc ngồi trên cái máy gặt thô sơ, hất xuống từ dưới cánh răng khế quay phành phạch những đợt thân lúa đại mạch nặng trĩu bông. Marina khéo chân khéo tay và khoẻ như đàn ông. Mụ thắng ngựa vào xe cũng làm như kiểu nam giới, gò lưng tỳ vào miếng gỗ ở cổ vòng ngựa, xiết chiếc đai bụng một cái là xong.

Năm tháng trôi qua, Anđrây đối với Marina ngày càng thêm tình sâu nghĩa nặng. Hãn hữu anh cũng có nhớ đến vợ cũ, nhưng những hồi tưởng ấy không còn mang lại cho anh nỗi đau đớn day dứt như trước kia nữa. Chỉ đôi lúc, gặp thằng con nhớn của nhà Anhikây Đêviátkin (thằng bố đã trốn sang Pháp), anh có tái mặt đi: chẳng là vì hai bố con nó giống nhau như đúc.

Thế rồi, một lần nữa, nỗi uất hận của anh lại dịu dần đi trong công tác, trong cuộc vật lộn cho miếng ăn hàng ngày, trong bao nhiêu cái bận rộn khác; và tiêu tan đi nỗi đau âm thầm, nhức nhối, giống như cơn đau thỉnh thoảng anh vẫn còn bị do vết thương trên trán, cái kỷ niệm mà lưỡi gươm của tên sĩ quan Hungari đã để lại cho anh hồi nào.

-----------------------

(*)          Tên của vợ Anđrây. – ND

(**)        Một pút = 16,38kg. - ND

* * *

Ở cuộc họp bần nông ra, Anđrây đi thẳng về nhà Marina. Mụ đang ngồi kéo sợi đợi anh. Trong gian phòng nhỏ, thấp lè tè, tiếng xa quay vo vo và hơi lửa lò nóng ran. Một chú dê cõn nhâng nháo, lông xoăn, gõ móng bé tí xíu xuống nền nhà đất, ý chừng muốn nhảy tót lên giường.

Radơmiốtnốp cau mày nói, giọng gắt gỏng:

- Nghỉ tay tí đã!

Marina nhấc bàn chân đi giày nhọn mũi ra khỏi cần đạp, vươn vai khoan khoái, ưỡn thẳng cái lưng bè bè như mông con ngựa cái.

- Hội nghị có gì không?

- Mai bắt đầu làm lông bọn kulắc.

- Thực à?

- Hôm nay toàn thể hội nghị bần nông đã quyết định tất cả sẽ gia nhập nông trang tập thể. – Anđrây để nguyên áo vét tông, ngả lưng xuống giường, hai tay ôm lấy con dê ấm như một cuộn len. – Mai cô cũng đưa đơn đi.

Marina ngạc nhiên:

- Đơn gì?

- Đơn xin vào nông trang.

Marina nổi khùng lên, lấy hết sức đẩy xa quay sợi về phía lò sưởi.

- Anh này rõ dở hơi! Tôi vào nông trang làm gì?

- Này, Marina, chuyện này không ý kiến ý cỏ gì cả. Cô phải vào nông trang. Nếu không người ta sẽ bảo: “Hắn rủ rê con nhà người ta vào nông trang, còn Marina của hắn thì hắn để ở ngoài”. Vậy còn ra thể thống gì nữa?

Marina đi ngang qua đầu giường, phả vào mặt Anđrây mùi mồ hôi nồng và cái hơi người ấm sực:

- Tôi không vào! Gì thì gì tôi cũng không vào!

- Nếu thế thì cô liệu đấy, đến rồi phải cô đi đường cô, tôi đi đường tôi thôi.

- Anh doạ tôi đấy phỏng?

- Ai thèm doạ, chẳng qua là cái nhẽ nó phải thế.

- Thế thì anh xéo ngay đi! Có con bò cái đem nộp cho người ta thì rồi tôi làm ăn ra sao? Rồi anh sẽ đến đây xin ăn nữa cơ mà!

- Sữa sẽ là của chung.

- Và đàn bà cũng chung chứ gì? Vì thế mà anh doạ tôi chứ gì?

- Đáng lẽ thì đây đánh đấy, nhưng đây không thèm. – Anđrây đẩy con dê xuống đất, với tay lấy cái mũ lông, quàng cái khen len vào cổ như con rắn.

Trên đường về nhà, anh hậm hực nghĩ bụng: “Mỗi cái đồ khỉ ấy lại phải giải thích, phải nói như van như lạy. Cả đến mụ Marina cũng dãy nảy lên. Mai ra hội nghị chung sẽ thế nào đây. Ép họ quá, khéo họ quại cho chứ chẳng chơi đâu”.

Anh nằm trằn trọc hồi lâu, không chợp được mắt, hai lần nghe thấy tiếng bà cụ dậy ra xem chỗ bột nhào. Trong gian nhà kho, con gà sống quang quác gáy loạn. Anh nằm, lòng ngổn ngang nghĩ đến ngày mai, đến công cuộc cải tạo toàn bộ nền kinh tế nông nghiệp đang đặt ra trước mắt. Anh lo ngại rằng Đavưđốp, khô khan và cứng nhắc quá (anh cảm thấy anh ta như thế) có thể có những hành động thiếu thận trọng nào đó sẽ làm trung nông xa lánh nông trang. Nhưng rồi anh lại  nhớ đến dáng người vạm vỡ, chắc nịch như tượng đúc, nhớ gương mặt căng thẳng tròn vành vạnh của anh ta với những nếp nhăn sâu hai bên má, và với đôi mắt thông minh hóm hỉnh, anh nhớ đến lúc, trong cuộc họp, khi Liubiskin đang phát biểu, Đavưđốp ngả người qua sau lưng Nagunốp ghé bảo anh, thở cả vào mặt anh hơi nồng dễ chịu từ cái mồm răng sứt: “Cậu du kích này hay đấy, nhưng các anh thả hoang hắn, chẳng chịu bồi dưỡng, thực tế thế! Cần đi sát giúp đỡ hắn”. Nhớ lại, anh hào hứng kết luận: “Không, chàng ấy thì không làm bậy đâu. Chính Maka cơ, cậu ấy thì đúng là phải kìm cương chặt! Cậu ấy mà bốc lên thì coi trời bằng vung. Hắn mà là con ngựa kéo xe thì thế nào cái xe cũng đi đời nhà ma… Cái gì đi đời nhỉ? À, cái xe…Sao lại chuyện cái xe vào đây  nhỉ? Maka…Titốc…mai..”. Giấc ngủ lẻn đến, cắt đứt dòng suy nghĩ, Anđrây thiếp đi, và một nụ cười hé nở trên môi anh, từ từ, như giọt sương từ rãnh lá rơi xuống.

CHƯƠNG VI

Khoảng bảy giờ sáng, Đavưđốp tới trụ sở Xôviết đã thấy mười bốn bần nông Grêmiatsi tề tựu ở đấy.

Liubiskin mỉm cười, đưa bàn tay to tướng ra bắt tay Đavưđốp:

- Chúng tôi chờ anh lâu rồi, từ sáng tinh mơ.

- Chả là nóng ruột mà…- Bác Suka giải thích.

Thì ra bác chính là người mặc áo áo măng tô trắng đàn bà đã nói đùa với Đavưđốp ở sân trụ sở Xôviết hôm anh mới đến. Từ ngày hôm ấy bác ta tự coi mình là người quen thân của Đavưđốp và đối xử với anh một cách xuề xoà thân mật, khác hẳn đối với mọi người khác. Vừa lúc nãy, Đavưđốp chưa đến, bác lại còn đã nói: “Lão với anh Đavưđốp quyết định thế nào thì rồi nó sẽ ra như thế. Hôm kia anh ấy đã chuyện trò với lão mãi. Chuyện nghiêm chỉnh cũng có mà chuyện tếu cũng có, nhưng chủ yếu là hai bác cháu bàn bạc kế hoạch xây dựng nông trang. Anh chàng vui tính đáo để chẳng khác gì lão…”

Đavưđốp nhìn cái áo khoác trắng, nhận ra bác Suka và vô tình đã làm bác bị một mẻ tẽn:

- A, bố già đấy à? Đấy bố xem: mới hôm kia bố có vẻ bực mình khi biết con về đây có việc gì, thế mà hôm nay chính bố đã trở thành một nông trang viên rồi đấy. Hoan hô!

- Hôm ấy không có thời giờ…mải quá, cho nên phải đi ngay…- Bác Suka làu bàu, rồi lảng ra chỗ khác.

Họ quyết định chia nhau làm hai đội, đi trục xuất bọn kulắc. Đội thứ nhất làm ở xóm trên, đội thứ hai ở xóm dưới. Đavưđốp đề nghị Nagunốp phụ trách đội thứ nhất, nhưng Nagunốp dứt khoát từ chối. Thấy những con mắt nhìn anh, anh lúng túng khó chịu, và kéo Đavưđốp ra một chỗ.

Đavưđốp lạnh lùng hỏi:

- Cậu định giở trò gì vậy?

- Mình sang đội hai, làm ở xóm dưới tốt hơn.

- Có gì khác nhau?

Nagunốp cắn môi, ngoảnh mặt đi, nói:

- Cái đó thì…Thôi thì đằng nào rồi đồng chí cũng biết. Con vợ tôi…con Luska đã ngủ với thằng Chimôphây, con giai tên kulắc Phrôn Đamaxkốp. Tôi không muốn đến đấy. Người ta sẽ xì xào. Tôi đi xóm dưới, để Radơmiốtnốp đi với đội một…

- Chà, anh bạn, sợ người ta xì xào à?...Thôi được, mình cũng chẳng ép. Cậu sang đội hai, đi với mình.

Đavưđốp chợt nhớ ra rằng mới sáng nay, lúc vợ Nagunốp dọn cho anh ăn sáng, anh thấy trên lông mày cô ả một vết bầm cũ nửa tím nửa vàng. Anh ngó ngoáy cái cổ, như bị mùn khô rơi vào trong cổ áo, hỏi:

- Này, cậu cho cô ấy cái quả táo trên trán đấy à? Đánh phải không?

- Không, không phải mình.

- Vậy thì ai?

- Nó.

- “Nó” là ai?

- Thằng Chimôphây chứ ai…Thằng con lão Phrôn…

Đavưđốp ngỡ ngàng, lặng thinh vài phút, rồi vặc ra một câu:

- Mặc xác nó! Chả còn hiểu ra sao cả! Thôi, ta đi thôi, chuyện ấy để sau.

Nagunốp, Đavưđốp, Liubiskin, bác Suka và ba tay kô-dắc nữa rời khỏi trụ sở Xôviết.

- Ta bắt đầu từ thằng nào trước? – Đavưđốp hỏi, mắt không nhìn Nagunốp. Sau câu chuyện vừa rồi, cả hai đều cảm thấy ngượng ngập, mỗi người một kiểu.

- Từ thằng Titốc.

Họ lặng lẽ bước đi trên đường làng. Mấy mụ đàn bà đứng sau cửa sổ tò mò nhìn theo. Trẻ con bám sát họ, nhưng Liubiskin rút ở một hàng rào ra một cái roi, và bọn trẻ láu lỉnh rút lui ngay. Tới gần nhà Titốc, Nagunốp nói bâng quơ:

- Sẽ lấy cái nhà này làm trụ sở nông trang. Rộng rãi. Còn nhà kho thì làm chuồng ngựa.

Ngôi nhà quả là rộng thật. Năm 1923, giữa lúc đói kém, Titốc đã đổi một con bò cái xổi và ba pút lúa mì lấy ngôi nhà ấy ở làng Tubianxki bên cạnh.Vợ chồng con cái nhà chủ cũ ấy đã chết sạch, sau đó chẳng còn ai để mà nghĩ đến chuyện kiện cáo Titốc về lối mua bán ăn cướp ấy nữa. Hắn dỡ ngôi nhà chở về Grêmiatsi, lợp lại mái, dựng thêm cái nhà kho bằng gỗ tròn và cái chuồng ngựa, bố trí để ăn đời ở kiếp ở đấy…Trên bức tường hoa chắn mái quét vôi vàng, người thợ quét vôi đã kẻ một dòng chữ bay bướm bằng chữ xlavơ: “T.K. Bôrôđin.1923”.

Đavưđốp tò mò nhìn bao quát toà nhà. Nagunốp đi đầu, bước vào cổng. Nghe tiếng then lách cách, một con chó to tướng, màu lông chó sói, xích ở gian kho, nhảy chồm lên. Nó chồm lên, không sủa một tiếng, dựng đứng trên hai cẳng sau, phô ra cái bụng lông trắng mịn, và bị cổ dề thít lấy họng nghẹn thở, nó gầm ghè ằng ặc. Định lao lên, nó ngã ngửa, mấy lần muốn dứt xích không xong, rồi đâm bổ về phía chuồng ngựa, kéo loảng xoảng cái vòng xích trôi theo sợi dây thép căng phía bên trên chạy dài ra tới chuồng ngựa.

- Đồ quỷ này nó đuổi theo ai thì đừng hòng thoát. – Bác Suka miệng càu nhàu, mắt lấm la lấm lét, cẩn tắc vô áy náy đi né sát vào hàng rào.

Họ kéo ùn vào nhà. Mụ vợ Titốc, người cao và gầy ngẳng, đang cho bò con uống nước trong cái bồn gỗ. Mụ nhìn với một vẻ ngờ vực và ác cảm mấy ông khách bỗng đâu kéo đến. Thay cho lời chào, mũ lẩm bẩm câu gì nghe như: “Đến làm cái chết tiệt gì thế không biết?”.

- Anh Tít có nhà không? – Nagunốp hỏi.

- Không.

- Đi đâu vậy?

- Không biết. – Mụ trả lời như đấm vào tai.

- Mụ có biết chúng tôi đến đây làm gì không?..Chúng tôi…- Bác Suka lên tiếng với một giọng bí mật, nhưng Nagunốp lừ mắt nhìn bác một cái làm bác nuốt nước bọt đánh ực, đằng hắng một tiếng rồi ngồi xuống tấm ghế dài, tay vén tà áo trắng bằng lông không thuộc với một vẻ không thiếu trịnh trọng.

- Ngựa có trong chuồng không? – Nagunốp hỏi như thể không để ý đến sự tiếp đón lạnh nhạt của mụ ta.

- Có.

- Còn bò?

- Không. Các ông đến có việc gì vậy?

- Không thể nói cho mụ biết được…- Bác Suka lại lên tiếng, nhưng lần này Liubiskin lui ra cửa, túm đuôi áo lão lôi tuột ra phòng ngoài, làm lão không kịp nói nốt câu.

- Bò đực đâu?

- Thày nó dắt đi rồi.

- Đi đâu?

- Đã bảo không biết mà.

Nagunốp nháy mắt ra hiệu cho Đavưđốp, bước ra ngoài. Vừa đi anh vừa dúi quả đấm vào tận râu bác Suka, dặn:

- Im cái mồm đi nhá, ai khiến bác nói?

Rồi quay sang Đavưđốp:

- Hỏng to rồi! Phải kiểm tra xem hắn đem bò đi đâu. Khéo không nó tẩu tán hết mất…

- Bò cũng chẳng cần lắm..

Nagunốp phát hoảng lên:

- Anh nói lạ! Bò của nó hay nhất làng đấy. Tay với không tới sừng. Sao lại thế được! Phải tìm ra cả thằng Titốc lẫn bò của nó.

Thì thầm vài câu với Liubiskin xong, họ đi về phía chuồng bò, rồi từ đó sang nhà kho và nhà đập lúa. Năm phút sau, Liubiskin cầm một cái gậy khua lên lùa con chó lùi vào góc nhà kho, còn Nagunốp thì vào chuồng ngựa dắt ra một con ngựa lông xám, thắng cương vào, rồi túm lấy bờm nhảy lên cưỡi.

Mụ chủ nhà chạy ra thềm, tay chống nạnh tru tréo lên.

- Nhà anh kia làm cái gì đấy? Sao lại tự tiện vào bắt ngựa người ta như vậy? Lão nhà tôi về, tôi sẽ bảo cho!...Ông ấy sẽ nói chuyện với nhà anh!...

- Đừng ngoạc cái  mồm lên như thế! Hắn mà có nhà thì chính tôi đây sẽ có chuyện nói với hắn. Đồng chí Đavưđốp, lại mà xem này!

Đavưđốp lúng túng chẳng biết xử sự ra sao trước hành động của Nagunốp, cứ bước tới.

- Có vết chân bò từ nhà đập lúa đi ra đường cái. Đây này. Thằng Tít đã đánh hơi biết, lùa bò đi bán tháo rồi. Xe trượt tuyết vẫn còn trong kho tất. Con mụ ấy điêu! Các đồng chí đi thanh toán thằng Kốtsêtốp đi, để tôi phóng ngược lên phía Tubianxki. Nó chỉ có thể đi về phía ấy được thôi. Bẻ hộ tôi cái roi ngựa.

Nagunốp qua sân đập lúa ra thẳng đường cái. Phía sau anh cuốn lên một đám bụi trắng, nó từ từ rơi xuống bám vào hàng rào và ngọn cỏ, lấp lánh ánh bạc nom loé mắt. Những vết chân bò, và song song là vết móng ngựa, chạy ra tới đường cái thì mất hút. Nagunốp phóng ngựa độ một trăm trượng về phía Tubianxki. Dọc đường, trông thấy trên mặt tuyết vẫn những vết chân như ban nãy bị gió phủ lên một lớp phấn tuyết, anh yên chí mình đi đúng hướng và cho ngựa bước chậm lại. Anh đi được nửa dặm thì bỗng đến một quãng tuyết các vết chân lại mất hút. Anh quay ngoắt ngựa lại, nhảy xuống chăm chú quan sát xem có phải tuyết đã quét những dấu chân ấy đi rồi không. Mặt tuyết vẫn nguyên trinh, chưa hề bị vẩn. Mãi tới phía dưới mới thấy những vết chân dẻ quạt của con chim khách. Nagunốp chửi đổng một câu, quay ngựa trở lại, bây giờ thì đi bước một, vừa đi vừa quan sát hai bên đường. Đi được một quãng ngắn thì lại gặp những dấu chân. Thì ra đàn bò đã tạt ngang ở chỗ gần bụi cây. Lúc nãy phóng ngựa nhanh anh đã không để ý. Anh đoán là Titốc đã vượt qua đồi đi tắt về phía ấp Vôixkôvôi. “Chắc là đến nhà một người nào quen”, - anh nghĩ bụng như vậy, và đi theo hút những vết chân, kìm ngựa cho bước chậm chậm. Bên kia sườn đồi, gần quãng Khe Tử, anh thấy trên mặt tuyết một đống phân bò, và dừng lại: phân còn tươi, chỉ vừa với phủ lên một lớp băng mỏng. Nagunốp thọc tay vào túi áo varơi, sờ cái báng lạnh ngắt của khẩu súng lục. Anh cho ngựa đi bước một xuống khe. Đi được độ nửa dặm nữa thì trông thấy, cách một quãng không xa, phía đằng sau lùm cây sồi trụi lá, một người cưỡi ngựa và một đôi bò đực không đóng ách. Người cưỡi ngựa ngồi gò lưng trên yên đang khua gậy lùa bò đi. Một làn khói thuốc xanh xanh bay tạt qua vai hắn, tan đi trong không trung.

- Quay lại !

Titốc dừng ngựa lại, con ngựa cái hí lên. Hắn ngoái nhìn, nhổ mẩu thuốc lá đi và thong thả tiến lên chặn đầu hai con bò, nói bằng một giọng đều đều.

- Cái gì thế? Họ!..Hooọ!.. Đứng lại!

Nagunốp cưỡi ngựa tới. Titốc đón anh bằng cái nhìn đăm đăm một lúc lâu.

- Mày đi đâu?

Titốc xỉ mũi, lấy bao tay chùi đi chùi lại bộ ria đỏ hung, quặp xuống như râu Mông Cổ:

- Chẳng giấu gì anh, tôi đi bán bò đây.

Hai người ngồi đối diện nhau trên lưng ngựa. Hai con ngựa khịt khịt mũi đánh hơi nhau. Khuôn mặt Nagunốp bị gió quất đỏ ửng, nom dữ tợn. Còn Titốc thì bề ngoài có vẻ thản nhiên, từ tốn.

- Lùa bò về! – Nagunốp ra lệnh, và lánh ngựa sang bên.

Titốc lưỡng lự một phút…Hắn đổi tay cương, cái đầu cúi rủ xuống, hai con mắt lim dim, và trong tấm áo dipun (*) xám bằng vải nhà dệt có mũ trùm đầu úp lên cái mũ rách, hắn nom như một con chim ưng đang ngủ gà. “Nếu hắn có cái gì trong áo, hắn tất cởi móc áo ra bây giờ” – Nagunốp nghĩ bụng  như vậy, mắt không rời khỏi Titốc đang ngồi trên lưng ngựa không nhúc nhích. Rồi hắn như sực tỉnh, hoa gậy lên. Hai con bò theo vết cũ quay trở lại.

- Các anh định bắt bò của tôi phải không? Tịch thu tài sản à? – Titốc hỏi sau một lúc lâu im lặng, và từ dưới cái mũ trùm đầu đội sụp xuống tận lông mày, hai lòng trắng mắt xanh xanh của hắn long lanh nhìn Nagunốp.

Nagunốp không nén nổi nữa, quát lên:

- Thì mày đã muốn thế! Tao lôi cổ mày về như một thằng tù chó chết.

Titốc so vai lại. Hắn lặng thinh cho đến lúc xuống tới chân đồi. Rồi hắn hỏi:

- Các anh sẽ tống tôi đi đâu?

- Đi đày. Cái gì kềnh kệnh dưới áo mày kia?

- Một khẩu nòng cụt. – Titốc liếc nhìn Nagunốp và phanh vạt áo ra.

Từ cái túi áo trong thò ra như một khúc xương trắng to tướng cái báng đẽo thô sơ và lấm láp của khẩu súng trường đã cưa bớt nòng đi.

- Đưa đây tao! – Nagunốp đưa tay ra, nhưng Titốc thản nhiên gạt tay anh đi.

- Không, không đưa được!

Và hắn mỉm cười, để lộ ra dưới hai hàng ria quặp hàm răng ám đen khói thuốc lá, nhìn Nagunốp bằng đôi mắt sắc như mắt chồn nhưng có vẻ vui vui:

- Không đưa đâu! Các anh lấy hết của cải của tôi, lại định tước nốt khẩu súng này sao? Một tên kulắc thì phải có khẩu súng cưa nòng chứ, báo chí vẫn nói như vậy. Nhất thiết là phải có súng. Có lẽ tôi sẽ nhờ nó mà lần hồi kiếm ăn được đấy, phải không nhỉ? Chứ tôi cần gì đến các thông tín viên nông thôn…

Hắn cười, lắc lư cái đầu, và tay không rời trốc yên ngựa. Nagunốp không gặng bắt hắn nộp súng nữa, nghĩ bụng: “Về làng tao mới cho mày một trận”.

Titốc nói tiếp:

- Anh Maka ạ, chắc anh nghĩ, hắn mang súng theo làm gì vậy? Tai hoạ với nó thôi…Tôi có nó từ hồi quỷ nào ấy…À, từ hồi đi dẹp bọn nổi loạn phản cách mạng tôi mang nó về, anh có nhớ không? Chậc, nó vẫn nằm rỉ một xó nhà. Mới đây tôi đem nó ra lau sạch, cho ăn dầu mỡ tử tế, nghĩ bụng biết đâu chẳng cần đến nó, chống thú dữ hoặc kẻ xấu bụng nào đó. Và hôm qua tôi nghe tin các anh sắp sửa đi hỏi tội bọn kulắc…Nhưng tôi không dè hôm nay các anh đã xuất quân…Nếu không thì ngay đêm qua tôi đã cho đôi bò này đi rồi…

- Ai bảo mày biết?

- Cần gì ai bảo? Đồn ầm cả thiên hạ. Phaaải, và đêm qua tôi bàn với bà nó nhà tôi đem bò gửi chỗ chắc chắn. Còn khẩu súng này tôi đem nó theo, ý đồ là đem chôn giấu ngoài thảo nguyên để các anh vào lục nhà khỏi vô tình vớ được. Nhưng tôi lấy làm tiếc: chà, ông anh đến kia rồi! Tự nhiên mình thấy buồn buồn như kiến bò ở đầu gối quá! – Hắn nói bằng một giọng sôi nổi, vừa nói vừa đảo mắt với vẻ giễu cợt, và thúc con ngựa cái của mình lấy ức ép dồn cho con ngựa của Nagunốp.

- Titốc ạ, rồi mày sẽ tha hồ mà nói đùa sau! Còn bây giờ thì ăn nói cho tử tế.

- Hà! Mình lại cứ thích nói đùa bây giờ cơ. Tôi đã chiến đấu giành cho mình một cuộc sống dễ chịu, tôi đã bảo vệ chính quyền chính nghĩa, thế mà bây giờ cái chính quyền ấy túm lấy bờm tôi…- Giọng Titốc tắc nghẹn lại.

Từ đấy hắn nín thinh, cố tình ghìm ngựa đi chậm lại, làm sao cho Nagunốp đi trước dù nửa thân ngựa thôi cũng được, nhưng Nagunốp dè chừng nên cũng đi chậm lại. Thành ra đôi bò vượt lên trước hai người một quãng khá xa.

- Rảo rảo lên! – Nagunốp giục, mắt vẫn nhìn chằm chằm theo dõi Titốc và tay nắm chặt khẩu súng lục trong túi. Anh thì hiểu rõ thằng Titốc này quá! Hiểu nó hơn ai hết! – Này, đừng có lùi lại! Nếu mày định bắn tao thì không ăn tiền, không kịp với tao đâu.

- Thế ra anh cũng hốt đấy! – Titốc mỉm cười, rồi vụt con ngựa bằng cái gậy lùa bò, phi lên trước.

-------------------------

(*)          Dipun: một kiểu áo nam giới của nông dân Nga ngày xưa, áo mặc ngoài, tà dài, bằng vải thô, không có cổ. – ND.

CHƯƠNG VII

Anđrây Radơmiốtnốp cùng với đội cuả mình tới nhà Phrôn Đamaxkốp giữa lúc cả nhà hắn đang ăn trưa. Ngồi quanh bàn có: bản thân Phrôn, một lão già loắt choắt, hom hem, có chòm râu dê nhọn và cánh mũi bên trái toạc ra (hồi còn bé hắn trèo cây táo ngã toạc mặt, chính vì thế mà có cái tên Phrôn Mũi toác), vợ hắn, một mụ già béo quay, bệ vệ, thằng con giai là Chimôphây trạc hăm hai, và đứa con gái đã đến tuổi gả chồng.

Chimôphây, nom giống mẹ, vóc người cân đối và đẹp trai, thấy khách vào liền đứng dậy. Hắn cầm khăn lau đôi môi đỏ chót dưới bộ ria mép lún phún lông măng, nheo nheo đôi mắt nhâng nháo hơi lồi, và với điệu bộ suồng sã của tay đàn phong cầm giỏi nhất làng và được gái yêu nhất làng, hắn giơ tay ra chỉ:

- Xin mời vào, mời quý vị đồng chí ngồi chơi!

- Chúng tôi không có thời giờ ngồi chơi. – Anđrây rút trong cặp ra một tờ giấy. – Hội nghị bần nông đã quyết định đuổi công dân Phrôn Đamaxkốp ra khỏi nhà này, tịch thu toàn bộ tài sản và gia súc. Vậy anh ăn mau lên, ra khỏi nhà và đi nơi khác. Bây giờ chúng tôi tiến hành kiểm kê tài sản.

Phrôn buông thìa xuống, đứng dậy:

- Sao lại thế được?

Đemka Usakốp giải thích:

- Chúng tôi tiêu diệt anh về phương diện là giai cấp kulắc.

Phrôn bước vào phòng lớn, đôi ủng dạ mới đóng đế da nện cồm cộp xuống sàn, và mang ra một tờ giấy:

- Giấy chứng nhận đây, chính tay anh ký đấy, anh Radơmiốtnốp ạ.

- Giấy chứng nhận gì?

- Chứng nhận tôi đã nộp đủ lúa mì.

- Lúa mì không dính dáng gì vào đây cả.

- Thế thì vì sao lại đuổi tôi ra khỏi nhà và tịch thu tài sản của tôi?

- Anh em bần nông đã quyết định như vậy, và tôi đã giải thích cho anh rồi.

- Có luật lệ nào như vậy? – Thằng Chimôphây kêu gắt lên. – Các ông đến ăn cướp nhà người ta đấy phỏng? Thày ạ, để con lên huyện ngay bây giờ. Cái yên ngựa đâu rồi?

Anđrây ngồi xuống bên góc bàn, rút bút chì và tờ giấy ra:

- Anh muốn đi thì cứ việc cuốc bộ. Không cho anh lấy ngựa.

Cái mũi toác của Phrôn xám ngoét lại, đầu hắn rung rung. Hắn đứng như thế, rồi buông quỵ người xuống bàn, líu ríu một cách khó nhọc, cái lưỡi sưng thâm:

- Đồồ… đồ chó! Đồ chó đẻ! Cứ ăn cướp đi! Cứ cắt cổ người ta đi!

Đứa con gái oà khóc, ôm xốc nách bố lên:

- Thày, đứng dậy đi, thày! Lạy Chúa!

Phrôn hồi hồi lại, đứng dậy, nằm vật xuống tấm ghế dài, và giờ đây lại thản nhiên nghe Đemka Usakốp và anh chàng Mikhain Igơnachênốc, cao lênh khênh và tính tình nhút nhát, xướng lên cho Radơmiốtnốp ghi:

- Giường sắt có màn trắng, một cái. Chăn lông, một cái. Gối, ba cái. Giường gỗ nữa, hai cái…

- Tủ kính gồm cả bát đĩa, một cái. Có cần nói rõ bát đĩa từng thứ không nhỉ? Nó chồng đống thế kia, cứ nói gộp cũng được!

- Ghế tựa, mười hai cái. Ghế dài có lưng tựa, một cái. Đàn phong cầm ba hàng phím, một cái.

- Không lấy được phong cầm của tôi! – Thằng Chimôphây giằng lại cây đàn từ tay Đemka. – Đừng sờ vào đấy, thằng mắt lác, ông lại đánh cho dập mũi đấy.

- Tao đây sẽ cho mày dập mũi thì có, chỉ sợ mẹ mày không kịp lau máu mũi cho mày thôi!

- Mụ chủ nhà, chìa khoá hòm đâu, đưa đây.

- Mẹ, không đưa! Mặc cho họ phá hòm ra, nếu họ có quyền làm như vậy.

Đêmít Miệng hến – cái anh chàng Đêmít vẫn có tiếng là chỉ mở miệng khi tối cần thiết thôi, còn thì chỉ lẳng lặng làm, lẳng lặng đứng hút thuốc với đám kô-dắc túm năm tụm ba ngoài đường trong những ngày lễ, lẳng lặng ngồi dự họp và thường thường chỉ bẽn lẽn mỉm một nụ cười rầu rĩ, hoạ hoằn lắm mới trả lời câu người ta hỏi – anh chàng Đêmít ấy bốc lên, hỏi:

- Ta có quyền phá không hả?

Đối với Đêmít, thế giới bao la quả là thừa những tiếng ồn ào. Chúng tràn ngập cuộc sống đến đầy phè, đêm chúng cũng chẳng lặng đi cho, làm người ta không còn nghe được cái im lặng của đêm khuya; chúng phá tan cái tĩnh mịch hiền hoà tràn ngập núi rừng thảo nguyên trong những ngày thu tới. Đemít không thích cái nhộn nhạo của nơi đông người. Anh sống tách ra một mình ở cuối làng, là người hay lam hay làm, và nói về khoẻ thì có một không hai cả vùng này. Nhưng số phận dường như hắt hủi anh, ăn bớt ăn xén của anh, chẳng khác gì dì ghẻ đối với con chồng…Anh đã đi ở cho Phrôn Đamaxkốp năm năm, rồi lấy vợ, ra làm ăn riêng. Nhà của anh chửa cất xong thì đã cháy. Một năm sau, một trận cháy nhà nữa chỉ để lại cho anh độc mấy cái cày gỗ ám khói khét lẹt. Và chỉ ít lâu sau, cô vợ bỏ đi,  bảo: “Hai năm tôi sống với anh không được nghe anh mở miệng nói cho lấy hai tiếng. Thôi thôi, xin mời anh sống một mình. Tôi vào rừng sống với con ma chó sói còn vui hơn. Chứ ở đây sống với anh thì tôi hoá dại mất! Như bây giờ tôi cũng đã bắt đầu lẩn thẩn rồi…”.

Ấy thế mà một hồi chị chàng cũng quen quen với tính tình của Đêmít. Thực ra thì mấy tháng đầu chị cũng khóc lóc, cằn nhằn anh: “Anh Đêmít ơi! Chuyện trò với em một tí đi chứ! Nói với em một câu đi nào!” Nhưng Đêmít chỉ mỉm nụ cười lặng lẽ, ngây thơ, và đưa tay gãi gãi bộ ngực lông lá. Và khi phát sốt ruột lên vì những trò mè nheo của vợ, anh mới nói bằng cái giọng ồm ồm như từ đáy thùng vang ra: “Nhà cứ như con chim khách!”, rồi bỏ đi. Và không hiểu sau, dư luận lại cho anh là kiêu, là láu, đại loại là hạng người “có thâm ý”. Phải chăng đó là vì suốt đời anh đã lánh xa những người lắm mồm lắm miệng và những cái ồn ào điếc tai?

Chính vì vậy cho nên khi nghe thấy vang lên trên đầu mình cái giọng ồm ồm như ống lệnh của Đêmít, Anđrây đã ngửng phắt lên:

- Quyền ấy à? – Anh hỏi lại và nhìn Đêmít như thể bây gờ mới trông thấy anh ta lần đầu: - Có quá đi chứ!

Đêmít đi sang gian phòng lớn, chân bước vòng kiềng, đôi giày vải đã tã và ướt sũng bôi lấm bê bết ra sàn. Miệng tủm tỉm, anh đưa tay gạt thằng Chimôphây đang đứng trấn ở cửa ra một bên, nhẹ nhàng như gạt một cành cây con, đi ngang qua cái tủ kính làm cho bát đĩa trong tủ rung lên rền rĩ, và bước tới chỗ cái hòm. Anh ngồi xổm xuống, lấy mấy ngón tay vặn cái ổ khoá to tướng. Một phút sau, cái khoá với đinh khuy bị bẻ gãy đã nằm trên mặt hòm rồi. Akaska Mênốc kinh ngạc ra mặt, nhìn Đêmít và thốt lên, phục lăn:

- Thế mới gọi là khoẻ!

Anđrây ghi không kịp. Từ trong gian phòng lớn, và ngay tại gian anh ngồi, Đemka Usakốp, Akaska, và thím Vaxilixa, người phụ nữ độc nhất trong đội của Anđrây, xướng lên tơi tới:

- Măngtô kiểu nữ sông Đông, một cái!

- Áo dài lông cừu, một cái!

- Ủng mới, kèm cả giày cao su, ba đôi!

- Dạ, bốn tấm!

- Anh Anđrây ơi! Anh Radơmiốtnốp! Chỗ này lắm lắm, ông anh ơi, một xe chở không hết! Vải hoa này, xa tanh đen này, và trăm thứ bà rằn nữa…

Đang bước sang gian lớn thì Anđrây nghe thấy ở buồng ngoài tiếng đứa con gái lu loa, tiếng mụ chủ nhà tru tréo và cái giọng khuyên bảo của Igơnachênốc. Anđrây đẩy toang cửa ra:

- Cái gì ầm ầm lên thế?

Đứa con gái nhà chủ, mũi hếch ngược, mắt khóc sưng húp, đang đứng tựa lưng vào cửa, rống lên như bị chọc tiết. Con mẹ nó đứng bên cũng làm nhặng lên, mồm quang quác. Còn Igơnachênóc thì mặt đỏ tía tai, mỉm cười bối rối, đang kéo tụt váy đứa con gái.

Anđrây chưa hiểu đầu đuôi ra sao, tức điên lên, xô mạnh Igơnachênốc một cái, làm anh ta ngã lăn chiêng ra, chổng lên trời hai cái cẳng dài ngoẵng đi đôi ủng dạ tã:

- Làm cái trò gì thế? Giữa lúc đấu tranh chính trị ! Đang tấn công kẻ thù mà cậu lại rúc vào xó sờ gái à? Tôi sẽ đưa cậu ra toà về tội…

Igơnachênốc phát hoảng lên, đứng bật dậy:

- Ấy chết, để tôi nói đã! Tôi thiết gì nó! Lại bảo tôi sờ! Đồng chí trông đây này, nó đắp vào người nó cái váy này là chín cái! Tôi đang cấm nó, thế mà đồng chí lại đẩy tôi ngã…

Lúc bấy giờ Anđrây mới vỡ nhẽ là con ranh ấy đã lôi trộm được ở phòng lớn một bọc quần áo, và đúng là đã đắp vào người mấy tầng áo, váy len. Nó đứng rúc trong xó, tay xốc váy, nom ục ịch đến nghịch mắt, cử động lóng ngóng vì vướng những váy với áo. Đôi mắt nhoe nhoét và đỏ như mắt thỏ của nó, Anđrây thấy thật là thảm hại và khó coi. Anh đóng sầm cửa lại, bảo Igơnachênốc:

- Mặc nó đấy! Cái gì nó mặc vào người rồi thì kệ mẹ nó, còn cái bọc thì mang đi.

Công việc kiểm kê tài sản trong nhà đã gần xong. Anđrây hỏi:

- Chìa khoá kho thóc đâu?

Phrôn mặt đen như trôn chảo, xua tay nói:

- Không có chìa khoá.

Anđrây ra lệnh cho Đêmít:

- Phá cửa ra!

Đêmít bước ra nhà kho. Nửa đường đi ngang qua cái xe, anh tháo lấy cái chốt càng xe.

Ổ khoá nặng đến năm phuntơ (*), có dùng rìu bổ cũng khướt.

- Khéo vỡ mất cái mi cửa! Kho này giờ là của ta rồi, chủ là ta. Nhẹ tay tí cậu! Nhẹ tay tí! – Đemka góp ý với Đêmít đang hì hà hì hục.

Họ bắt tay vào đong lường thóc. Igơnachênốc cứ mê cu tơi, đưa ra ý kiến:

- Hay là ta đem sàng luôn đi? Trong gian kia có cái sàng đấy!

Mọi người cười ồ và còn chế anh ta mãi trong khi xúc những hạt thóc tròn mẩy vào thúng đong.

- Chỗ này có thể đổ thêm vào kho nhà nước độ hai trăm pút nữa đấy. – Đemka Usakốp đi đi lại lại trên đống thóc, thụt đến tận đầu gối, nói. Anh cầm xẻng đảo thóc dồn vào một chỗ, bốc một nắm, thả cho lọt chảy qua kẽ tay.

- Thóc mỗi hạt như một hạt vàng.

- Nói quá đáng. Thóc vàng thóc bạc thật, nhưng chôn cất lâu, bị xuống mặt rồi, thấy không?

Akaska Mênốc và một cậu nữa kiểm kê chuồng súc vật. Akaska vuốt bộ râu hung hung, chỉ trỏ một bãi cứt bò còn lẫn những hạt ngô chưa tiêu:

- Thế này thì làm gì chúng nó cày chẳng khoẻ! Ăn toàn ngô, còn bò hợp tác chúng mình chỉ có ít cỏ khô.

Từ trong nhà kho bay ra một làn bụi thóc thơm phức và tiếng cười nói nhộn nhịp, thỉnh thoảng xen vào một câu đùa tếu sỗ sàng… Anđrây quay vào nhà. Mụ chủ nhà và đứa con gái đang thu vén xoong nồi bát đĩa, đút vào bao tải. Phrôn vẫn nằm sóng sượt trên tấm ghế dài, hai bàn tay chắp trước ngực như người chết, chân chỉ còn đi độc đôi bít tất. Thằng Chimôphây lúc này đã dịu đi, đưa mắt hằn học nhìn, rồi quay mặt ra phía cửa sổ.

Vào gian phòng lớn, Anđrây nhìn thấy Đêmít đang ngồi xổm đấy. Chân anh ta đi đôi ủng da mới, đóng đế da, của Phrôn… Không trông thấy Anđrây bước vào, anh ta cứ tiếp tục cầm thìa múc mật ong trong cái xô thiếc, ăn, đôi mắt khoan khoái lim dim, và để rớt xuống râu những giọt mật vàng quánh.

-------------------------

(*)          Phuntơ = 409 gam. – ND.

CHƯƠNG VIII

Giữa trưa thì Nagunốp và Titốc về đến làng. Trong lúc vắng mặt họ, Đavưđốp đã kiểm kê tài sản của hai hộ kulắc, trục xuất chủ nhà, rồi quay trở lại nhà Titốc Bôrôđin, cùng Liubiskin đong lường số lúa mì tìm thấy trong gian để phân khô (*). Bác Suka đang cho cừu ăn, thấy Titốc về nhanh chân lảng ngay ra khỏi chuồng súc vật.

Titốc đi qua sân, đầu trần, áo mở phanh. Hắn định đi thẳng xuống nhà kho, nhưng Nagunốp kéo hắn lại:

- Quay ra ngay, không tao nhốt luôn mày vào đấy đó!...

Anh nom dữ tợn, xúc động, thớ thịt trên má giần giật mạnh hơn thường lệ… Anh đã hớ hênh không thấy Titốc vứt khẩu súng từ bao giờ rồi. Chỉ đến khi đi gần đến nhà kho anh mới hỏi:

- Có nộp súng không? Không thì để chúng tao tước.

Titốc toét miệng cười:

- Ô hay, anh này đùa dai! Có lẽ anh nằm  mê thấy tôi có súng chắc?..

Khẩu súng không còn dưới áo hắn. Quay lại tìm thì rõ ràng uổng công vô ích: tuyết dày, cỏ rậm, có tìm cũng chẳng thấy. Nagunốp điên tiết lên với  mình, kể chuyện lại cho Đavưđốp, và Đavưđốp từ nãy vẫn chăm chú quan sát Titốc, bước tới chỗ hắn:

- Này, muốn yên lành thì nộp súng đi!

Titốc mỉm cười, đưa đảo đôi mắt sắc như mắt chồn:

- Tôi làm gì có súng! Nagunốp thù tôi nên nói như thế đấy thôi!

- Vậy thì tôi phải bắt anh, giải lên huyện.

- Bắt tôi?

- Phải, bắt anh. Anh nghĩ thế nào vậy? Tưởng chúng tôi phải nể cái quá khứ của anh chắc? Anh giấu thóc lúa, anh chuẩn bị…

- Bắt tôi? – Titốc thở hổn hển, hỏi lại lần nữa.

Tất cả cái dáng điệu ra vẻ vui, cái bình tĩnh tự chủ của hắn lúc này biến mất. Mấy câu Đavưđốp nói đã là cái ngòi làm nổ bung tất cả nỗi uất hận man rợ bấy lâu nay chất chứa trong lòng hắn. Hắn bước xấn tới Đavưđốp. Đavưđốp lùi lại. Hắn vấp phải cái ách cày nằm lăn lóc giữa sân, liền cúi xuống, rút vội cái thanh chốt sắt. Nagunốp và Liubiskin nhảy bổ tới chỗ Đavưđốp. Bác Suka ù té bỏ chạy. Thật trớ trêu, bác vướng tà áo dài lượt thượt, ngã quay lơ ra, rống lên như bị chọc tiết:

- Cứu tôi với! Bà con ơi! Nó giết người.

Titốc bị Đavưđốp túm lấy cổ tay trái, đã kịp dùng tay phải choang cho anh một cú vào đầu. Đavưđốp lảo đảo, nhưng vẫn còn đứng được. Máu từ vết thương toang hoác chảy ộc ra, vào đầy mắt, làm anh tối tăm mặt mũi. Anh buông tay Titốc ra, loạng choạng, đưa tay lên ôm mặt. Một đòn thanh sắt thứ hai làm anh ngã gục xuống tuyết. Vừa lúc ấy Liubiskin ôm lấy Titốc ngang lưng. Anh đã không giữ nổi hắn, mặc dù sức anh khoẻ hơn người. Hắn vùng ra được khỏi vòng tay anh, nhảy bổ tới nhà kho. Hắn đã tới cửa kho thì bị Nagunốp đuổi kịp, giáng cho một báng súng lục vào cái gáy dầy cộm tóc. Mụ vợ Titốc làm cho càng thêm hỗn loạn. Thấy Liubiskin và Nagunốp đuổi theo chồng mình, mụ chạy bổ vào kho, thả con chó xích ra. Con chó lồng ra sân, loảng xoảng cái cổ dề sắt. Tiếng kêu thất thanh của bác Suka và cái áo lông của bác giãi ra trên mặt tuyết đã thu hút sự chú ý của nó. Nó lao luôn vào bác… Từng mảnh của chiếc áo măngtô trắng và từng nắm lông cừu bị xé toạc bay lên bụi mù. Bác Suka chồm dậy, chân đá con chó túi bụi, tay cố bẻ một cọc rào. Bác lôi xềnh xệch đi mấy thước con chó như điên như dại đang bám trên lưng và cắn chặt lấy cổ áo bác mà giằng, làm bác loạng choạng. Cuối cùng, lấy hết sức bình sinh, bác nhổ được cái cọc rào. Con chó bỏ chạy, vừa chạy vừa sủa. Rốt cuộc nó cũng đã xé được tấm áo măngtô của bác ra làm hai mảnh.

Bác Suka bây giờ mới hoàn hồn, tru tréo lên, giọng khàn khàn, hai mắt trợn ngược:

- Anh Maka! Đưa tôi khẩu thúng lục!...Đưa tôi, tôi đang hăng máu đây! Để tôi đi giải quyết cái con cẩu trệ ấy, và cả con mụ chủ nó nữa nhân thể!...

Trong khi đó, anh em dìu Đavưđốp vào nhà, xén những đám tóc xung quanh vết thương vẫn còn đang đùn ra những bọt máu đen. Ngoài sân, Liubiskin đóng đôi ngựa vào chiếc xe trượt tuyết của Titốc. Nagunốp ngồi vào bàn ngoáy vội báo cáo:

“Kính gửi đồng chí Dakhartsenkô, phụ trách công an huyện. Tôi xin giải lên chỗ đồng chí tên kulắc Tít Kônxtantinôvits Bôrôđin, một phần tử phản cách mạng đểu cáng. Trong khi chúng tôi kiểm kê nhà tên này, nó đã công khai hành hung đồng chí Đavưđốp, thuộc đoàn hai vạn rưởi, và đã cầm thanh sắt choang hai nhát vào đầu đồng chí ấy.

Ngoài ra tôi xin báo cáo là đã trông thấy tên Bôrôđin đeo một khẩu súng trường kiểu Nga đã cưa ngắn nòng mà lúc ấy tôi không tiện tước do điều kiện đang ở trên đồi, sợ xảy ra đổ máu. Khẩu súng ấy nó đã quẳng xuống tuyết lúc nào tôi không biết, bao giờ tìm được, chúng tôi sẽ gửi tới đồng chí làm tang vật.

Bí thư chi bộ Grêmiatsi được thưởng Huân chương Cờ đỏ

N. Nagunốp”

Họ đưa thằng Titốc ra xe trượt tuyết. Hắn xin uống nước và đề nghị cho gặp Nagunốp. Nagunốp đứng trên thềm quát ra:

- Mày muốn gì?

Titốc giơ hai bàn tay bị trói, vẩy vẩy, và hét lên như người say rượu:

- Maka, nhớ lấy nhá! Nhớ lấy: tao với  mày sẽ còn có dịp gặp nhau! Mày đã chà đạp lên tao, rồi sẽ đến lượt tao chà đạp lên mày. Trước sau tao chỉ nói một lời thôi: tao sẽ giết mày! Thôi, đào sâu chôn chặt tình bạn giữa tao với mày!

Nagunốp phất tay, nói:

- Được rồi, cút đi, đồ phản cách mạng!

Đôi ngựa lao ra khỏi sân.

-------------------------

(*)          Phân súc vật phơi khô, dùng làm chất đốt. – ND.

CHƯƠNG IX

Trời chưa tối, Anđrây Radơmiốtnốp đã giải tán đội công tác gồm các anh em bần nông của mình, cho đánh chuyến xe cuối cùng chở của cải tịch thu rời sân nhà tên kulắc Gaiép đi về nhà Titốc, nơi tập trung tất cả tài sản tịch thu được của bọn kulắc. Xong đâu đó, anh trở về trụ sở Xôviết. Buổi sáng, anh và Đavưđốp đã hẹn sẽ gặp nhau ở đó một giờ trước khi họp hội nghị nông dân khai mạc vào lúc xẩm tối.

Tại phòng ngoài, Anđrây đã trông thấy có ánh đèn trong gian hồi. Anh mở toang cửa ra. Đavưđốp đang cúi xuống cuốn sổ tay, nghe thấy tiếng động, ngẩng cái đầu băng vải trắng lên, mỉm cười:

- Radơmiốtnốp đây rồi! Ngồi xuống, chúng mình đang cộng sổ xem thu được của bọn kulắc bao nhiêu thóc. Thế nào, đội cậu ra sao, có khá không?

- Khá… Đầu sao phải băng thế kia?

Nagunốp đang làm cái chụp đèn bằng giấy báo, miễn cưỡng đáp:

- Thằng Titốc nó choảng đấy. Bằng cái chốt sắt. Mình đã cho giải lên chỗ anh Dakhartsenkô, phòng công an huyện rồi.

- Cứ bình tĩnh, rồi mình kể cho nghe sau. – Đavưđốp kéo cái bàn tính để trên mặt bàn lại gần: - Tính đi, một trăm mười lăm. Xong chưa? Một trăm linh tám…

- Khoan đã! khoan đã! – Nagunốp băn khoăn lẩm bẩm, mấy ngón tay gẩy bàn tính một cách thận trọng.

Anđrây nhìn họ, đôi môi run run, trầm trầm nói:

- Mình chẳng làm nữa đâu.

Nagunốp đẩy bàn tính sang bên:

- Sao? Không làm cái gì?

- Không đi làm việc tịch thu tài sản bọn kulắc nữa. Việc gì cậu phải trợn tròn mắt lên như vậy? Lại muốn động kinh sao?

- Say rượu đấy à? – Đavưđốp lo ngại nhìn chằm chằm vào gương mặt Anđrây nom lì lợm một quyết tâm chẳng lành. – Cậu sao thế? Không đi nữa nghĩa là thế nào?

Cái giọng nam cao bình tĩnh của Đavưđốp làm Anđrây nổi điên lên. Anh quát ầm, líu lưỡi lại vì xúc động:

- Tôi chưa được huấn luyện! Tôi..tôi.. chưa được huấn luyện đi đánh nhau với bọn trẻ con! … Ở mặt trận nó lại ra một nhẽ! Ở đấy muốn chém đứa nào thì chém…nhưng, lao vào cái việc này! …Xin đủ!

Giọng Anđrây, như một dây đàn đang được căng lại, cứ cao lên, cao lên mãi, tưởng chừng như có thể đứt phựt lúc nào không biết. Nhưng thở dài đánh sượt một cái rồi Anđrây bỗng dưng hạ giọng xuống, thều thào:

- Công việc gì mà lạ đời! Tôi là cái gì? Một thằng đồ tể hay sao? Hay trái tim tôi là sắt đá? Tôi đã bị đẩy vào một cuộc chiến tranh…- Rồi lại chuyển sang quát tháo: - Con cái thằng Gaiép gần một tá! Bọn tôi đến, chúng nó khóc ầm lên….Tôi dựng cả tóc gáy! Anh em đuổi chúng nó ra khỏi nhà.. Còn tôi, tôi nhắm tịt mắt, bịt tai, và bỏ chạy xuống chuồng bò! Bọn đàn bà thì như chết rồi, phải té nước lạnh lên người đứa con dâu cho nó tỉnh lại.. Tôi không chịu nổi nữa đâu!..

- Khóc đi! Nó sẽ nhẹ nhõm. – Nagunốp khuyên, lòng bàn tay tì mạnh làm phồng cái bắp thịt đang giần giật trên má, và đôi mắt bốc lửa nhìn chòng chọc vào Anđrây.

- Khóc thật ấy chứ! Có thể đó là thằng bé nhà tôi…- Anđrây ngừng bặt, nhe nanh ra, quay ngoắt lưng vào bàn.

Im lặng.

Đavưđốp từ từ đứng dậy… Và cũng từ từ như vậy, cái bên má không băng của anh xám ngoét lại, vành tai nhợt đi. Anh bước tới bên Anđrây, nắm lấy hai vai anh, nhẹ nhàng xoay người anh lại. Anh cất tiếng nói, hổn hà hổn hển, nhìn Anđrây không rời, mắt lúc này nom thô lố:

- Cậu thương chúng nó… Cậu ái  ngại cho chúng nó. Nhưng chúng nó có thương ta không? Nước mắt con cái chúng ta có làm được cho kẻ thù khóc không? Chúng có khóc những đứa con mồ côi của tử sĩ chúng ta không? Thế nào? Sau một cuộc đình công, ông bố mình đã bị đuổi cổ khỏi nhà máy, đày đi Xibia.. Mẹ mình một nách bốn con.. Mình là đầu lòng, lúc ấy lên chín… Nhà chẳng còn gì ăn, và thế là mẹ mình đi làm điếm vỉa hè, để anh em chúng mình khỏi chết đói! Mẹ mình dẫn khách về gian  buồng nhỏ tí của chúng mình ở dưới tầng hầm… Nhà có độc một cái giường… Còn anh em chúng mình thì lăn dưới đất.. sau tấm màn gió.. Mà mình thì lên chín.. Về cùng mẹ mình có những gã say rượu… Mình cứ bịt mồm mấy con em nhỏ để chúng khỏi tru tréo lên… Ai lau những giọt nước mắt của anh em chúng mình? Cậu có nghe đấy không? Sáng hôm sau mình ngửa tay cầm lấy cái đồng rúp khốn kiếp ấy…- Đavưđốp dí tận mặt Anđrây cái bàn tay da ráp như da thuộc, răng nghiến ken két đến đau đớn: - cái đồng rúp mà mẹ mình đã kiếm được, và mình chạy đi  mua bánh mì.. – Và bất thần anh vung nắm tay đen chũi, như một quả chuỳ, đấm xuống bàn và quát: - Cậu. Sao cậu lại có thể thương chúng?

Và lại một lúc im lặng. Nagunốp bấu chặt vào mép bàn, khư khư như con diều hâu giữ mồi. Anđrây ngồi nín thinh. Đavưđốp thở hổn hà hổn hển, đi lại trong phòng một phút, rồi tới bá vai Anđrây, ngồi xuống bên anh trên tấm ghế dài, nói giọng khản lại:

- Chà, cậu lẩm cẩm rồi! Bỗng dưng lù lù đến, và thế là làm nhặng lên: “Không làm nữa đâu..  bọn trẻ con.. thương hại…”. Này. Những điều cậu nói, cậu ngẫm lại xem! Nào, ta thử bàn. Cậu ái ngại cho những gia đình kulắc bị trục xuất ư? Ta trục xuất chúng là để chúng khỏi ngăn cản ta xây dựng cuộc sống, một cuộc sống không còn những bọn… để trong tương lai không còn diễn ra… Cậu là chính quyền Xôviết ở Grêmiatsi này, thế mà tôi còn phải tuyên truyền cậu nữa sao? – Và anh mỉm cười, cái cười gượng gạo, méo xệch. – Chúng ta đuổi cổ bọn kulắc đi, tống đến chỗ đảo Xôlôvếtxkie. Nhưng chúng đâu có chết đói! Chúng sẽ lao động, ta sẽ cho chúng ăn uống tử tế. Và khi ta đã xây dựng thành công rồi, con cái chúng sẽ không còn là con cái kulắc nữa. Giai cấp công nhân sẽ cải tạo chúng. – Anh lấy bao thuốc lá ra, nhưng mấy cái ngón tay run run của anh lóng ngóng mãi không rút nổi một điếu.

Anđrây nhìn dán vào gương mặt Nagunốp tái xanh tái xám như chàm đổ. Và, bất thần đối với Đavưđốp, Anđrây bỗng đứng phắt dậy, và cũng ngay lúc đó, Nagunốp bật lò xo, nhảy tới trước mặt anh, thở hắt ra một giọng thều thào xe xé, hai quả đấm nắm chặt:

- Đồ khốn kiếp! Anh phục vụ cách mạng thế hả? Thương h-ại! Tôi ấy à.. anh cứ xếp hàng ra đấy một nghìn đứa, già, trẻ, trai, gái… Và bảo tôi phải làm cỏ chúng nó.. Để phục vụ cách mạng.. Tôi sẽ xả súng máy… Nagunốp bỗng quát lên man rợ: - Quét sạch! Và hai con ngươi mở ra to tướng của anh bỗng quắc lên một vẻ điên dại, đôi mép anh sùi bọt.

- Gì mà gào lên thế! Ngồi xuống nào! – Đavưđốp cảm thấy lo ngại.

Anđrây đẩy đổ ngửa cái ghế, bước vội tới Nagunốp. Nhưng Nagunốp, lưng tựa vào tường, đầu ngả ra sau, hai mắt trợn trừng, hét lên một tiếng the thé, kéo dài:

- Gi-i-iiết!...

Và anh đổ nghiêng xuống, tay trái bắt bắt không khí, tìm dao găm, tay phải quờ quạng nắm lấy cái chuôi gươm vô hình.

Anđrây kịp giang tay đỡ lấy người Nagunốp, và cảm thấy mọi bắp thịt của cái thân thể nặng trĩu của Nagunốp đều căng ra một cách kinh khủng, và đôi cẳng chân anh ta ưỡn cứng ra như cái lò xo. Anđrây quát bảo Đavưđốp:

- Động kinh… Anh giữ lấy chân cậu ấy!...

* * *

Họ tới trường thì thấy bà con tới dự đã đông nghịt. Nhiều người không còn chỗ ngồi. Đàn ông, đàn bà, con gái đứng đầy hành lang và ngoài hiên. Từ cái miệng hoác ra của mấy cánh cửa mở toang, hơi nước lẫn với khói thuốc lá bay ra.

Nagunốp mặt tái nhợt, đôi môi ngã dập còn đọng máu khô, dẫn đầu mấy người bước đi trong hành lang. Gót chân bước rành rọt của anh xéo lên hạt quỳ lép bép. Anh em kô-dắc nhìn anh ngài ngại, lánh ra nhường lối. Thấy Đavưđốp vào, họ xì xào.

Một cô quàng khăn hoa giơ cái  bọc mùi xoa đầy hạt quỳ chỉ anh, hỏi to:

- Anh Đavưđốp đấy à?

- Mặc áo măngtô đấy.. Nom cũng nhỏ người nhỉ.

Một cô khác cười ngặt nghẽo, nhấp nháy đôi mắt xám tròn xoe với Đavưđốp.

- Nhỏ người, nhưng to ngang, nom kìa, cái cổ cứ như cổ bò tót! Ở trên cử xuống cho ta để gây giống đấy!

Cô Natalia, vợ lính Ba Lan, đưa đẩy đôi lông mày kẻ, trâng tráo nói:

- Vai rộng nhỉ, dân hai vạn rưởi có khác. Chị em ơi, tay ấy mà ôm thì phải biết.

Giọng thuốc lá thô thô của một anh chàng nào châm vào một câu ác khẩu:

- Cô Natalia đú đởn nhà ta thì chung chạ với ai mà chẳng thích…

- Hình như đã bị ai củng vào đầu rồi thì phải? Phải băng…

- Chắc là đau răng…

- Đâu! Titốc đấy…

- Này, các em ơi! Sao động có người lạ đến là mắt các em cứ long lên sòng sọc vậy? Dễ thường anh đây xấu giai hay sao? – Một anh chàng kô-dắc đã khá tuổi, râu cạo nhẵn xanh, cười hô hố giang hai cánh tay nguều ngoào xâu lấy cả một xốc con gái, ép vào tường.

Các ả rú lên. Những nắm tay con gái tới tấp đấm thùm thụp vào lưng anh chàng kô-dắc kia.

Mới tới cửa lớp học, Đavưđốp đã toát mồ hôi. Từ đám đông nồng nặc xông lên mùi dầu quỳ, mùi hành, mùi thuốc lá, mùi rượu lúa mạch. Chỗ các cô, các bà mẹ trẻ thì lại sực lên mùi quần áo cất lâu trong hòm, mùi phấn sáp. Lớp học lao xao rì rầm như ong. Và bản thân những con người đó cũng là một đám đen lúc nhúc, nhốn nháo như một đàn ong mới lập tổ.

Đavưđốp bước lên bục, nói ngượng ngịu:

- Các cô làng ta cũng bạo ra phết nhỉ!

Trên bục ván có kê hai bàn học trò ghép vào nhau. Đavưđốp và Nagunốp ngồi vào. Radơmiốtnốp khai mạc cuộc họp. Chủ tịch đoàn được bầu xong ngay.

- Đồng chí Đavưđốp, đặc phái viên toàn quyền của huyện sẽ nói chuyện với chúng ta về vấn đề nông trang tập thể. – Lời Radơmiốtnốp vừa dứt thì tiếng chuyện trò lao xao lắng hẳn xuống.

Đavưđốp đứng dậy, sửa lại cái băng trên đầu. Anh nói nửa tiếng đồng hồ liền, về cuối giọng khản dần. Hội nghị ngồi nghe lặng ngắt. Không khí trong phòng trở nên ngột ngạt. Dưới ánh sáng tù mù của hai ngọn đền dầu, Đavưđốp trông thấy những khuôn mặt nhẫy mồ hôi ở trên các hàng ghế đầu, còn xa hơn nữa phía dưới thì tất cả chìm trong bóng tối lờ mờ. Không một ai ngắt lời anh, nhưng khi anh nói xong và đưa tay cầm lấy cốc nước thì câu hỏi phát ra tới tấp như mưa:

- Tất cả phải đưa vào làm của chung à?

- Nhà cửa thì sao?

- Nông trang chỉ là một thời gian thôi hay mãi mãi?

- Nông dân cá thể thì sẽ thế nào?

- Có lấy ruộng đất của họ không?

- Ăn chung mâm chứ?

Đavưđốp trả lời đầy đủ, rành mạch. Gặp những vấn đề phức tạp về sản xuất nông nghiệp thì Nagunốp và Anđrây đỡ lời anh. Bản dự thảo nội quy đã được đem ra đọc, nhưng câu hỏi vẫn chưa dứt. Cuối cùng, ở quãng hàng ghế giữa, đứng dậy một người kô-dắc đội mũ lông cáo và áo varơi đen mở phanh ngực. Anh ta xin phát biểu. Cây đèn treo rọi ánh sáng chênh chếch vào chiếc mũ lông cáo của anh ta, những sợi lông cáo hung hung đỏ rực lên và như bốc khói.

- Tôi là trung nông, và thưa bà con đồng bào, tôi xin có ý kiến là nông trang thì tất nhiên là tốt rồi, khỏi nói, nhưng cũng phải để nghĩ cho chín đã! Khộng phải cứ ào vào tắp lự, một, hai, rồi có cỗ chén ngay đâu. Đồng chí đặc phái viên huyện uỷ đã nói và cứ theo như đồng chí ấy thì chỉ cần chung sức lại là làm ăn sẽ có lợi. Nghe nói cả đồng chí Lênin nữa cũng bảo thế. Đồng chí đặc phái viên chẳng hiểu gì mấy về sản xuất nông nghiệp, suốt cả cái đời làm thợ của đồng chí ấy chưa bao giờ đi theo cái cày, và chắc là cũng chẳng biết muốn đến gần con bò thì phải đi về phía bên nào. Vì thế đồng chí ấy đã hơi nhầm một tí. Theo ý tôi, đưa người vào nông trang phải làm như thế này: những ai chăm chỉ và có gia súc thì vào một nông trang, bần nông vào một nông trang khác, những người có thì tự lập, những kẻ ăn bơ làm biếng thì cho đi đày, để công an dạy họ lao động. Không phải cứ dồn đống người ta lại là xong, như thế sẽ chẳng được cái tích sự gì, rồi lại như trong chuyện đời xưa thôi: thiên nga cất cánh bay lên, tôm càng níu lại, măng dìm xuống ao.

Hội nghị cười rinh rích. Phía cuối phòng, một cô nào đó kêu thét lên một tiếng, đồng thời tiếng ai đó bất bình nói bô bô:

- Cái bọn này tệ quá! Muốn cấu véo nhau thì lôi nhau vào chuồng ngựa ấy mà cấu. Cuốn xéo đi!

Người đội mũ lông cáo đưa khăn tay lên lau trán, lau miệng rồi nói tiếp:

- Chọn người thì cũng phải như một nhà nông giỏi chọn bò vậy. Phải chọn những con sức khoẻ và chiều cao ngang nhau. Nếu đóng hai con không bằng nhau vào, kết quả sẽ ra sao? Con khoẻ sẽ bứt lên, con yếu níu lại, và thế là con khoẻ cũng phải dừng lại: cả làng, trừ bọn kulắc ra, sẽ vào một nông trang.. Kết quả là chẳng ra cái gì cả!...

Liubiskin đứng dậy, ngó ngoáy bộ ria đen xoè ra như hai cái cánh, tỏ vẻ không hài lòng và quay về phía người vừa phát biểu:

- Anh Kudơma ạ, anh nói đôi chỗ nghe cứ ngọt như mía lùi! Tôi mà là đàn bà, tôi sẽ ngồi suốt đời nghe anh tỉ tê. (Tiếng cười lao xao). Anh khuyên nhủ hội nghị cứ như nhử mụ Palaga Kudơmitsêva nhà anh vậy…

Hội nghị cười phá lên. Cây đèn thè một ngọn lửa dài và nhọn như lưỡi rắn. Cả hội nghị đều hiểu cái ngụ ý châm chọc hẳn là phải có gì vui và tục tĩu. Cả đến đôi mắt anh chàng Nagunốp cũng như đang cười. Đavưđốp định hỏi anh lý do trận cười này thì Liubiskin đã lớn tiếng át cái ồn ào của phòng họp:

- Giọng thì đúng giọng anh, nhưng bài hát thì của người khác! Chọn người kiểu ấy thì hay cho anh quá đi rồi. Bài hát ấy, chắc là anh học được hồi chung cái máy với thằng Phrôn Mũi toác chứ gì? Cái máy nổ của các anh năm ngoái đã bị tịch thu rồi. Và bây giờ thì thằng Phrôn của anh, chúng tôi đã lấy khói lửa hun nó như hun chuột rồi! Các anh đã tập hợp lại xung quanh cái máy nổ của thằng Phrôn, cũng thành một kiểu nông trang, chỉ có điều nó là nông trang kulắc thôi. Chắc anh chưa quên cái giá thuê đập lúa cắt cổ của các anh chứ? Có phải rẽ tám không nhỉ? Hẳn là bây giờ các anh muốn như thế này: dựa vào bọn nhà giàu…

Phòng họp nhao nhao lên đến nỗi Radơmiốtnốp vất vả mới ổn định được trật tự. Và một lúc lâu nữa, tiếng la ó vẫn còn rào rào, như mưa đá mùa xuân:

- Chà, cái ácten ấy, các anh đã kiếm bẫm!

- Chỉ máy cày không thôi thì cũng không làm hết khổ.

- Lòng dạ anh cống cho bọn kulắc rồi!

- Cạo cho một trận!

- Cái đầu anh đem làm chày giã hạt quỳ thì tốt đấy!

Tiếp đó, anh trung nông lớp dưới Nhikôlai Liusnhia xin phát biểu. Nagunốp dặn trước:

- Đừng nói dài dòng. Vấn đề đã rõ rồi.

- Thế là thế nào? Thế nhỡ tôi lại có ý kiến muốn bàn cãi thì sao nhỉ? Hay là tôi không được nói trái ý kiến anh? Tôi phát biểu thế này: nông trang là chuyện tự nguyện tự giác, muốn vào thì vào, muốn đứng ngoài xem thế nào đã thì đứng. Vậy cho nên chúng tôi muốn đứng ngoài xem sao đã.

Đavưđốp hỏi:

- “Chúng tôi” là ai?

- Bà con nông dân chứ ai?

- Bố trẻ ơi, bố cứ phát biểu cho mình thôi. Ai có mồm người nấy mà.

- Thì tôi phát biểu cho tôi đây chứ sao! Tôi muốn xem xem nông trang làm ăn ra sao đã. Nếu tốt tôi sẽ làm đơn, nếu không tôi đâm đầu vào làm gì? Con cá nào dại mới chui vào nơm…

- Đúng quá!

- Ta khoan khoan hãy vào!

- Để các vị khác cứ thử cái cuộc sống mới xem nó thể nào!

- Thì vào luôn đi! Nó có phải con gái đâu mà thử với thách.

- Đến lượt anh Akhơvátkin phát biểu. Nào, nói đi!

- Thưa đồng bào, tôi sẽ nói về tôi đây: số là tôi với em tôi, là chú Piốt nó, cùng sống chung một mái. Chà, thật là lủng củng! Lúc thì hai bà kiếm chuyện với nhau, túm lấy búi tóc nhau, đổ nước cũng không can được ra, lúc thì là tôi với chú Piốt nó xích mích. Vậy bây giờ lại định dồn đống cả làng lại! Thế thì sẽ đi đến chỗ là không còn biết đằng nào mà lần nữa. Rồi đây chúng ta mà ra đồng cày thì thế nào cũng choảng nhau. Ivan bắt bò tôi làm quá sức, còn tôi thì chẳng nhòm ngó đoái hoài gì đến ngựa của anh ta… Như thế thì công an lúc nào cũng phải túc trực ngoài đồng. Rồi thì suốt ngày thắc mắc. Người này làm nhiều, người kia làm ít. Công việc của ta nó khác, không như đứng bên máy trong xí nghiệp. Ngày ngày tám tiếng xong là ung dung ra về…

- Anh đã làm nhà máy bao giờ chưa?

- Chưa, đồng chí Đavưđốp ạ, nhưng tôi biết.

- Anh chẳng biết quái gì về người công nhân cả. Và nếu anh chưa làm nhà máy, chưa trông thấy bao giờ thì đừng khua môi múa mỏ! Chuyện công nhân ung dung ra về đúng là luận điệu kulắc.

- Ừ thì thôi, không ung dung, nhưng cứ hết giờ là về. Còn chúng tôi thì chưa rõ mặt người đã dậy đi cày. Từ đó đến tối đổ có đến tám tạ mồ hôi, chân thì rộp lên như những quả trứng gà. Đêm cũng chẳng ngủ: còn dắt bò đi chăn. Nó ăn không no không kéo được. Vào nông trang tôi làm nai lưng, còn người khác, như anh chàng Kôlưba chẳng hạn, lại lăn kềnh ra luống cày mà ngủ. Chính quyền Xôviết cứ bảo bần nông không có kẻ ăn bơ làm biếng, rằng đó là luận điệu kulắc, nhưng nói thế là sai. Kôlưba suốt đời chỉ nằm ườn trên bệ lò sưởi. Cả làng ai cũng biết là anh ta đã nằm dưỡng sức trên lò sưởi suốt một mùa đông, hai chân chìa ra cửa. Sáng ra, chân thì sương tuyết bám đầy, còn mạng sườn thì cháy sém. Nghĩa là người lười chảy thây đến nỗi mót ỉa cũng chẳng buồn rời lò sưởi đứng dậy. Vậy bảo tôi làm ăn với một người như thế sao được? Tôi chẳng ghi tên vào nông trang đâu.

- Anh Kônđrát Maiđanhikốp phát biểu. Nói đi!

Một anh chàng kô-dắc mặc áo dipun xám từ những hàng ghế cuối lách lên bục. Cái mũ kỵ binh Buđiônưi đã bạc phếch của anh cứ lắc lư trên đám mũ lông, mũ bịt tai, trên đám khăn san, khăn quàng loè loẹt của các bà, các cô.

Anh bước tới, đứng quay lưng vào phía chủ tịch đoàn, thủng thẳng đút tay vào túi quần sarôva.

Đemka cười nụ, hỏi:

- Đọc diễn văn cơ à?

-  Bỏ mũ ra đã chứ!

- Cứ đọc thuộc lòng thôi, không phải giấy!

- Ông cả bao giờ cũng phải giấy cơ.

- Ha, ha! Người ta văn-hoá-cao!...

Maiđanhikốp rút ra một cuốn sổ tay nhỏ đầy vết dầu mỡ, lật vội những trang giấy chi chít chữ viết nguệch ngoạc cáu tiết nói:

- Đừng vội cười, không có lúc lại mếu. Phải, tôi ghi chép việc làm ăn của tôi. Để tôi đọc cho các anh nghe. Từ nãy nhiều người phát biểu rồi, nhưng chẳng có ai nói nghe được cả. Các anh ít chịu ngẫm nghĩ việc đời…

Đavưđốp vểnh tai nghe. Trên các hàng ghế đầu thấy có những người cười nụ. Trong phòng họp, tiếng nói lao xao. Maiđanhikốp chẳng hề bối rồi, mở đầu bằng một giọng tự tin:

- Nhà tôi là trung nông. Năm ngoái tôi gieo năm đêxiachin. Bà con đều biết, tôi có một đôi bò đực, một ngựa, một bò cái, một vợ và ba con. Còn tay làm thì đây, có độc hai bàn tay này thôi. Tôi thu hoạch: chín mươi pút lúa mạch, mười tám pút đại mạch và hai mươi ba pút yến mạch. Tôi cần sáu mươi pút làm lương ăn cho cả nhà, mười pút cho gà vịt, còn yến mạch thì để cho ngựa. Tôi có thể bán gì cho nhà nước? Bán ba mươi tám pút. Hơn bù kém, cứ tính mỗi pút là một rúp mốt thì tổng cộng lại tôi được bốn mươi mốt rúp. Còn gà vịt, tôi chở ra chợ, thêm được khoảng mười lăm rúp nữa. – Và, đôi mắt buồn rầu, anh lên cao giọng. – Ngần ấy tiền có đủ cho tôi sắm giày, may mặc, mua dầu hoả, diêm, xà phòng không? Và đóng móng bốn chân con ngựa cũng phải tiền chứ! Sao các anh lại im lặng? Tôi có thể sống như thế này mãi được không? Những năm nào có thu hoạch, thôi thì khá hay kém, còn đỡ. Nhưng nếu đùng một cái, mất mùa trắng thì sao? Lúc ấy tôi ra cái con người như thế nào? Cùng quẫn! Vậy thì, tiên sư các anh chứ, các anh có quyền gì bảo tôi đừng vào, đẩy tôi xa lánh nông trang? Chẳng lẽ vào nông trang tôi sẽ khổ hơn sao? Nói bậy! Và đối với đám trung nông nào trong đám các anh cũng thế thôi. Và vì sao các anh lại chống đối, làm mụ óc bản thân các anh và người khác, tôi sẽ nói các anh rõ bây giờ.

Liubiskin khoái quá, gào lên:

- Quạt nữa đi, Kônđrát, quạt cho bọn chó mèo ấy một trận!

- Quạt chứ sợ gì, cho họ mát mặt! Các anh phản đối nông trang chẳng qua là vì con bò cái của các anh, và túp lều của các anh đã làm các anh không còn trông thấy trời đất gì nữa. Nó có rách cũng là của tôi. Đảng cộng sản dẫn dắt các anh đến một cuộc đời mới, nhưng các anh cứ như con bê mù: người ta dắt nó đến bú tí mẹ, nhưng nó cứ đá nhặng lên, lắc đầu quầy quậy. Mà bê không bú thì sống sao nổi! Tôi có ý kiến, hết. Ngay hôm nay tôi sẽ làm đơn xin vào nông trang và kêu gọi bà con cũng làm như tôi. Còn ai không muốn vào thì đừng ngăn cản người khác.

Radơmiốtnốp đứng dậy:

- Thưa đồng bào, vấn đề đến đây đã rõ! Đèn sắp hết dầu, và đêm đã khuya. Ai tán thành vào nông trang, xin giơ tay. Chỉ cần chủ hộ giơ tay thôi.    

Trong số hai trăm mười bảy chủ hộ có mặt, chỉ có sáu mươi bảy người giơ tay.

- Ai phản đối?

Không một cánh tay nào giơ lên.

Đavưđốp hỏi:

- Thế bà con không muốn vào nông trang ư? Vậy đồng chí Maiđanhikốp nói có đúng không?

- Chúng tôi không-muốn-vào! – Một tiếng đàn bà lè nhè giọng mũi.

- Maiđanhikốp nhà anh không dạy bảo được chúng tôi!

- Cha ông xưa nay vẫn sống thế…

- Anh đừng ép chúng tôi!

Và khi những tiếng la ó vừa mới dứt thì từ những hàng ghế cuối, nơi trong bóng tối thỉnh thoảng loé lên những đốm lửa thuốc lá, một giọng ai lừng khừng cất lên, đầy hằn học:

- Không phải lùa chúng tao như lùa một lũ ngu! Titốc đã xin mày tí tiết rồi đấy, chưa hết đâu…

Đavưđốp có cảm giác như bị ai quất cho một roi. Anh đứng lặng người một phút trong cái im ắng nặng nề, tái mặt đi, cái miệng sứt răng hơi hé ra. Rồi anh quát lên, giọng khàn khàn:

- Đứa nào đấy? Cái giọng điệu kẻ địch! Xin tí tiết tao như thế chưa ăn thua gì đâu! Tao sẽ còn sống tới ngày tất cả những đứa như mày sẽ bị cho xuống lỗ hết. Nhưng nếu cần thì vì Đảng.. vì Đảng của tao, vì sự nghiệp giai cấp công nhân, tao sẽ dâng hết máu của tao! Nghe rõ không, đồ rắn độc kulắc? Tất, cho đến giọt máu cuối cùng!

Nagunốp đứng thẳng người quát lên:

- Đứa nào làm mất trật tự đấy?

Radơmiốtnốp từ trên bục nhảy bổ xuống. Phía cuối phòng, một tấm ghế dài gãy rắc, một đám độ hai chục người ồn ào đổ ra ngoài hành lang. Các hàng ghế giữa cũng lục đục đứng dậy. Tiếng kính vỡ kêu lẻng xẻng: kẻ nào đó đã đập toang một khoang cửa. Gió mát lùa qua lỗ vỡ. Khói trắng trong phòng bốc lên cuồn cuộn.

- Thằng Chimôphây, đấy cấm sai đâu! Thằng con lão Phrôn Mũi toác…

- Đuổi mẹ chúng nói ra khỏi làng!

- Không, Akim con đấy! Có cả bọn bên Tubianxki sang nữa.

- Bọn phá rối, tống cổ chúng ra!...

Quá nửa đêm thì cuộc họp bế mạc. Kẻ tán thành, người phản đối, họ nói đến khản đặc cổ, đến hoa cả mắt. Đây đó và ngay cả trước bàn chủ toạ, những người bất đồng với nhau tìm nhau, túm lấy ngực nhau mà chứng minh chân lý của mình. Maiđanhikốp bị ông bạn nối khố, láng giềng, túm lấy áo sơmi làm nó rách toạc đến tận rốn. Chỉ một ly nữa là choảng nhau. Đemka Usakốp nhảy qua các hàng ghế, qua đầu những người đang ngồi, sấn đến hỗ trợ Maiđanhikốp, nhưng Đavưđốp đã gạt được hai ông bạn nối khố ấy ra hai bên. Rồi Đemka cũng lại khích Maiđanhikốp trước:

- Này, Kônđrát, tính thử xem cậu phải cày bao nhiêu buổi để gỡ lại cái áo sơmi rách này?

- Cậu hãy về đếm xem vợ cậu có bao nhiêu…

- Này, này! Cứ đùa tếu như vậy là tôi đuổi cổ ra khỏi hội nghị đấy.

Trong khi đó thì Đêmít Miệng hến đánh một giấc bình an vô sự dưới gầm một tấm ghế dài cuối phòng, nằm theo kiểu thú rừng đầu hứng lấy ngọn gió lùa vào dưới khe cửa, nhưng đã cẩn thận lấy vạt áo dipun trùm lên đầu cho đỡ tiếng ồn ào. Các bà nạ dòng đi họp cũng mang theo đồ đan dở, thì ngủ gà ngủ gật như gà đậu trên sào, cuộn len và kim đan để rơi lăn lóc dưới đất. Nhiều người đã bỏ ra về. Và khi Akaska Mênốc, đã nhiều lần đứng lên phát biểu, định có ý kiến lần nữa bênh vực nông trang thì từ trong họng anh chỉ phát ra một cái tiếng gì như tiếng khàng khạc giận dữ của con ngỗng. Akaska nắn nắn cuống hầu, khoát tay một cái tiếc cay tiếc đắng, nhưng dẫu sao thì cũng không chịu, và ngồi xuống vẫn còn chỉ cho Nhikôlai Akhơvátkin, một kẻ quyết liệt phản đối nông trang, thấy rõ số phận của anh ta một khi đã tập thể hoá xong: anh đặt một móng tay lên mặt móng tay cái vàng khè khói thuốc, và – hấp! Nhikôlai chỉ nhổ toẹt một bãi, lẩm bẩm văng ra một tiếng.

CHƯƠNG X

Kônđrát Maiđanhikốp ở hội nghị ra về. Cao cao trên đầu anh lấp lánh chòm sao Kim ngưu như một đống lửa tắt dở. Lặng tờ đến nỗi nghe thấy rõ từ xa vọng lại tiếng nứt nẻ của mặt đất, tiếng xào xạc của một cành cây cóng rét. Tới nhà, Kônđrát đi thẳng vào chuồng bò, ném vào máng cho chúng ít cỏ khô, rồi sực nhớ là mai phải dắt bò đến chuồng nuôi chung rồi, anh ôm thêm cho chúng một bó tướng nữa, nói ra tiếng:

- Thôi, thế là sắp chia tay nhau rồi… Dịch dịch ra một tí, con hói này! Bốn năm trời nay, tao với bò, bò với tao, cùng  nhau làm lụng.. Và chúng mình cũng chẳng làm nên cơm cháo gì. Chúng bay thì đói dở, còn tao cũng chán mớ đời. Bởi thế cho nên tao đem chúng bay đổi lấy cuộc sống tập thể. Thế nào, mày vểnh tai nghe à, cứ như là mày cũng hiểu ư?

Anh lấy chân ẩy con bò cày ra, đưa tay gạt cái mõm sùi bọt của nó đang nhai nhai, và bắt gặp đôi mắt bò tim tím của nó, anh bỗng nhớ lại cách đây năm năm anh đã nóng lòng chờ đợi nó như thế nào. Hồi ấy, con bò cái già chịu đực với con bò giống lúc nào mà cả người chăn lẫn Kônđrát chẳng ai trông thấy cả. Mãi đến mùa thu vẫn chẳng có triệu chứng gì là nó chửa. Nhìn nó mà Kônđrát phát chán: “Con này xổi rồi, cái đồ chết tiệt!”. Nhưng đến cuối tháng Giêng nó chuyển dạ, như mọi ả bò cái già khác – thế nghĩa là một tháng nữa thì nó đẻ. Biết bao lần, vào dịp cuối mùa chay, giữa những đêm giá rét Kônđrát giật mình tỉnh dậy, và xỏ vội chân vào đôi ủng dạ, mặc độc chiếc quần đùi lót, chạy ra cái chuồng bò ấm sực xem nó đẻ chưa. Rét cắt ruột, con bê có thể chưa kịp được mẹ liếm sạch đã chết cóng rồi cũng nên… Những ngày cuối mùa chay Kônđrát hầu như không chợp mắt. Rồi một buổi sáng, chị Ana, vợ anh, bước vào nom hớn hở, có vẻ trịnh trọng nữa:

- Nó đang trở dạ. Khéo chỉ đêm nay.

Hôm ấy Kônđrát đi nằm từ xẩm tối, để nguyên quần áo và không tắt cây đèn bão. Anh đã ra thăm bò bảy lần! Và chỉ đến lần thứ tám, trời đã tờ mờ sáng, anh chưa kịp đẩy cửa chuồng bò thì đã nghe thấy một tiếng rên dài đau đớn. Anh bước vội vào: con bò đã đẻ xong, và chú bê lũn ca lũn cũn, lỗ mũi trắng hếu, đã được mẹ liếm sạch, lông ram ráp, đang run rẩy nom đến thương, rúc đôi môi lạnh tìm vú mẹ. Kônđrát thu vội đống nhau để con mẹ khỏi ăn (*), xong rồi anh bế bổng con bê lên, ủ nó vào vạt áo, hà hơi cho nó ấm, ôm nó chạy bổ lên nhà. Anh mừng rơn kêu lên:

- Bê đực!

Chị Ana làm dấu:

- Sáng danh Chúa! Chúa đã rủ lòng thương chúng con nghèo khó!

Và quả thật là với con ngựa cái duy nhất, Kônđrát đã đeo đẳng mãi cái cảnh nghèo khó. Thế mà đây, con bò đã lớn lên và chịu khó làm lụng cho chủ, mùa hè cũng như mùa đông tháng giá, để lại không biết bao nhiêu lần cái dấu móng chân hình hai gọng kìm của nó trên các nẻo đường và luống đất, lúc kéo cày, lúc kéo xe.

Nhìn con bò, Kônđrát bỗng cảm thấy một cục cồm cộm dâng lên chẹn lấy họng, và mắt thì cay cay. Anh khóc và rời chuồng bò, trong lòng dường như nhẹ nhõm đi vì nước mắt đã thoát ra được. Từ đó đến sáng anh chẳng ngủ, hút thuốc hoài.

… Vào nông trang rồi sẽ ra sao? Có phải ai cũng cảm thấy được, cũng hiểu được, như anh đã hiểu không? Rằng con đường đi tới đó là con đường duy nhất, rằng không thể đi ngược lại? Rằng cái việc dắt con bò gầy, con bò đã lớn lên cùng với con trẻ trong nhà trên cái nền đất của túp nhà gỗ, đem đến trao cho những bàn tay chung có đau lòng đến mấy thì vẫn cứ phải dắt. Và cái ý nghĩ khốn nạn, tiếc của tư hữu kia, phải đè bẹp nó, không cho nó luồn lỏi vào trong lòng trong dạ… Kônđrát nằm bên cạnh chị vợ đang ngáy khò khò, nghĩ miên man như vậy, nhìn bóng đêm tối đen thăm thẳm bằng đôi mắt quáng gà chẳng trông thấy gì cả. Và anh lại nghĩ: “Còn đám cừu non, dê con thì dắt đến đâu? Chà, bọn ấy thì cần nhà cửa ấm áp, săn sóc chăm bẵm. Cái lũ mới nứt mắt ấy thì làm sao phân biệt được con nào với con nào nhỉ, vì chúng nom cứ giống nhau như đúc? Chúng nó thì ngay cả đến con mẹ chúng cũng còn lẫn nữa là người. Còn bò cái thì sao? Chạy ăn cho chúng thế nào? Chúng ta sẽ mất mát biết bao nhiêu! Và nếu chỉ sau một tuần thôi, bà con thấy khó khăn, phát hoảng lên, giải tán cả thì sao? Thì mình sẽ đi ra mỏ, bỏ cái làng Grêmiatsi cho đến mãn kiếp. Không còn lý do gì để sống ở đây nữa”.

                Gần sáng thì anh ngủ thiếp đi. Và giấc ngủ của anh cũng trằn trọc, vật vã. Kônđrát vào nông trang đâu phải nhẹ tênh! Kônđrát rơi nước mắt, ứa máu đào mà rứt khỏi cái cuống rốn gắn liền anh với tài sản của anh, với bò của anh, với mảnh đất cha ông để lại…

                Sáng hôm ấy anh ăn xong và ngồi hồi lâu viết đơn xin vào nông trang, vầng trán xạm nắng xạm gió nhăn lại  một cách đau đớn. Lá đơn như sau:

“Kính gửi đồng chí Maka Nagunốp

bí thư chi bộ cộng sản Grêmiatsi.

Đơn xin

Gia nhập nông trang tập thể

                Tôi tên là Kônđrát Khrixtôphôrốp Maiđanhikốp, trung nông, đề nghị chấp nhận tôi vào nông trang tập thể cùng với vợ con, tài sản và gia súc của tôi. Đề nghị cho tôi được tham gia cuộc sống mới vì tôi hoàn toàn tán thành cuộc sống ấy.

K. Maiđanhikốp”

Chị vợ hỏi:

- Vào rồi à?

- Vào rồi.

- Sẽ đem nộp hết gia súc à?

- Đem đi bây giờ đây… Nhưng việc gì mà ngậu lên thế hả cái đồ dở hơi? Tôi đã tốn bao nhiêu hơi giải thích cho bu nó, bây giờ bu nó lại vẫn bám lấy cái cũ rích ấy à? Đồng ý rồi cơ mà!

Chị vợ vừa mỉm cười và chùi nước mắt bằng cái màn cửa.

- Anh Kônđrát ạ, tôi chỉ tiếc mỗi con bò cái thôi… tôi vẫn đồng ý. Có điều là cũng xót ruột lắm..

Con bé Khrixtina, đứa con út mới lên bốn, thấy mẹ khóc cũng oà khóc theo.

Kônđrát xuống chuồng, thả bò ra, rồi nhảy lên lưng ngựa, lùa bò ra bờ sông cho uống nước. Mấy con bò uống xong, quay gót trở về nhà, nhưng Kônđrát điên tiết lên, đưa ngựa ra chắn ngang đường chúng, lùa về trụ sở Xôviết.

Các bà ở cửa sổ nhìn ra hau háu, còn đàn ông thì ngấp nghé qua hàng rào, không ló mặt ra phố. Kônđrát cảm thấy ngượng nghịu. Nhưng qua quãng rẽ, anh trông thấy ở gần trụ sở Xôviết một đám đông cả người lẫn bò, ngựa, cừu, tấp nập như cái chợ. Từ một ngõ ngang cạnh, Liubiskin ngoặt ra. Anh ta kéo theo một con bò cái với con bê lũn cũn chạy sau, một sợi dây thừng lúc lắc ở cổ.

- Buộc đuôi chúng nó vào nhau mà lùa đi nhân thể nhỉ! – Liubiskin gượng gạo đùa, nhưng vẻ thì nom vẫn đăm chiêu, nghiêm nghị. Anh dắt được con bò đi cũng phải gay go lắm, vết cào còn mới toanh trên má anh chứng tỏ điều đó.

- Ai vạc mặt ông bạn ra thế?

- Chẳng dấu gì ông: bu nó nhà tôi đấy! Con quỷ cái ấy lao bổ ra theo con bò. – Liubiskin đút một đầu ria  vào mồm nhấm nhấm, hậm hực rít răng lại nói: - Mụ ấy xông lên tấn công, như cái xe tăng. Thế là xảy ra một trận huyết chiến bên chuồng bò, đến nỗi bây giờ mặt mo mà nhìn hàng xóm láng giềng. Mụ ấy xông ra, tay xách cái chảo, ông không tin ư? Mình mới bảo: ”Này, mày định chơi nhau với du kích đỏ hả? Bảo cho mày biết, chúng ông đã từng xiên cả tướng lẫn tá chúng nó kia!”, và quại luôn cho mụ ấy một quả vào thái dương. Ai đứng ngoài xem ắt cũng phải thấy là một tấn tuồng…

Từ trụ sở Xôviết họ kéo đến sân nhà Titốc. Ngay buổi sáng đã có thêm mười hai trung nông đêm qua nằm ngẫm nghĩ lại, đã mang đơn và lùa gia súc đến.

Trong sân nhà Titốc, Nagunốp đang cùng với hai phó mộc đang ngồi đẽo máng ăn. Những máng ăn của chuồng nuôi tập thể đầu tiên của ấp Grêmiatsi Lốc.

-------------------------

(*)          : Ở vùng Thượng sông Đông lưu truyền cái quan niệm là nếu bò mẹ ăn nhau thì sữa của nó không dùng được trong 12 ngày sau đó. – (Chú thích của tác giả).

CHƯƠNG XI

Kônđrát nện thuổng choang choang hồi lâu xuống mặt đất đóng băng, đào hố chôn cột. Liubiskin cũng hùng hục làm bên anh. Từ dưới hai cái tai mũ đen thõng xuống như đám mây dông, mồ hôi Paven rỏ xuống tong tong, và mặt anh đỏ gay. Mồm há hốc, anh bổ những nhát thuổng cật lực, như điên như dại, Những tảng, những cục đất đóng băng bắn tung toé, va chan chát vào tường. Chẳng mấy chốc họ đã dựng xong cái chuồng bò, lùa vào đó hai mươi tám đôi bò đực đã được hội đồng định giá. Nagunốp mặc độc chiếc áo sơmi kaki dính bết vào hai bả vai đẫm mồ hôi, bước vào chuồng bò.

- Mới có múa rìu có một tí mà áo đã vắt ra nước thế kia à? Lao động thế thì xoàng quá, anh Maka ạ! – Liubiskin lắc đầu. – Trông tôi đây này! Choang! Choang!... Thuổng của thằng Titốc tốt thật… Choang!... Nhưng ông anh mặc ngay áo varơi vào cho em nhờ kẻo cảm lạnh thì khốn nạn đấy.

Nagunốp khoác áo varơi lông cừu vào. Cái rám đỏ máu như màu gạch nung trên má anh bay dần đi.

- Do hơi ngạt ngày trước đấy. Bây giờ cứ động làm một tí, hoặc leo núi là lập tức thở dốc, tim đập thình thình… Gian chuồng bò cuối cùng đấy à? Hay lắm! Trông kìa, cơ nghiệp chúng ta nom hay không! – Nagunốp đưa đôi mắt bốc long lanh đảo nhìn một lượt cái dẫy dài những con bò đực đứng thành hàng dọc bên những máng ăn còn thơm mùi gỗ mới.

Trong khi người ta đang đưa bò vào dẫy chuồng lộ thiên thì Radơmiốtnốp cùng Đemka Usakốp bước tới. Radơmiốtnốp gọi Nagunốp ra một chỗ, nắm lấy tay anh:

- Này, Maka, cậu đừng giận mình chuyện hôm qua… Nghe trẻ con la khiếp quá, mình nhớ đến thằng bé nhà mình, và thế là bụng cứ rối tinh lên…

- Phải vò cho anh một trận, tiên sư anh, đồ thương vay khóc mướn!

- Thì cũng đồng ý thôi! Nhưng nhìn vào mắt cậu, mình biết cậu đã nguôi giận mình rồi.

- Thôi đi ông, ba hoa chích choè! Nhưng cậu đi đâu đấy? Phải cho chở cỏ khô về đây. Đavưđốp đâu?

- Cậu ấy đang ở trụ sở Xôviết cùng với Mênốc xét các đơn xin gia nhập nông trang. Còn mình thì đi… Mình còn nguyên một hộ kulắc phải thanh toán, nhà Xêmiôn Lápsinốp…

- Ông đến đấy, rồi ông lại tái diễn chứ gì? – Nagunốp cười tủm.

- Bỏ cái lối ấy đi! Lấy ai đi với mình được nhỉ? Lắm việc quá, rối tinh xoè, cứ như tác chiến vậy! Người dắt bò, người dắt ngựa, người chở cỏ khô. Lại có người chở thóc giống đến rồi đấy. Mình đã tống họ về. Hạt giống thì sau hãy hay. Lấy ai đi giúp mình bây giờ nhỉ?

- Kônđrát Maiđanhikốp đấy. Kônđrát ơi! Lại đây tí đã. Cậu đi giúp ông chủ tịch một tay, tịch thu nhà Lápsinốp. Không run chứ? Vì có những người ngại đấy, có những vị lương tâm không đành, kiểu như Chimôphây Bôrsép… Liếm gót giày thì hắn không biết nhục đâu, còn đi lấy lại của cướp bóc thì lương tâm lại cắn rứt…

- Sợ gì mà không đi? Tôi đi đây. Có ngay.

Đemka Usakốp bước tới. Cả ba người bước ra đường. Radơmiốtnốp đưa mắt nhìn Kônđrát, hỏi:

- Sao nom cậu tiu nghỉu thế? Phải vui lên chứ, trông mà xem làng xóm ta nhộn nhịp lên như thế nào, hệt như cái tổ kiến.

Kônđrát đáp ráo hoảnh:

- Đã có gì mà vội lạc quan! Còn gay.

- Gay cái gì?

- Gay cái gieo hạt, gay cái chăm lo bò ngựa chứ cái gì. Anh thấy đấy không: ba người làm thì mười người lỉnh ra rúc dưới hàng rào ngồi cuốn thuốc lá…

- Rồi thì ai ai cũng sẽ làm việc cả! Bước đầu nó thế. Đến khi ăn chẳng có thì chắc chắn người ta sẽ bớt hút đi.

Ở quãng đường ngoặt hiện ra một xe trượt tuyết nằm đổ nghiêng. Bên cạnh đó là đống cỏ khô tung toé, và hai cái chân chống gãy nằm chỏng trơ. Hai con bò đã tháo ách đang nhai mớ cỏ mao màu xanh tươi nổi lên trên nền tuyết trắng. Một thằng bé, thằng con của nông trang viên mới Xêmiôn Kugienkốp, đang uể oải cầm chàng nạng khều khều đống cỏ khô lại.

- Mày làm gì mà như thằng chết rồi thế hả? Ở cái tuổi mày tao đã quần quật như trâu bò rồi. Ai lại làm ăn thế kia bao giờ! Đưa chàng nạng đây tao! – Đemka Usakốp giật lấy cái chàng nạng ở tay thằng bé đang đứng tủm tỉm và, đằng hắng một tiếng, xốc cả bó tướng cỏ khô lên.

Kônđrát xem xét cái xe, hỏi:

- Mày làm ăn thế nào mà lật xe xuống thế?

- Xuống dốc, chứ sao nữa?

- Chạy đi mượn cái rìu, mau lên, đến nhà Đônhétxkốp ấy.

Họ dựng cái xe lên, vót chân chống và lắp vào. Đemka thoăn thoắt chất lại đống cỏ lên xe, lấy cào chải cho gọn.

- Chà, cái đồ Kugienkốp nhà mày! Mày thì đáng lấy roi gân bò quất cho một trận. Mà cấm kêu! Nom kìa, mày để bò xéo nát bao nhiêu là cỏ! Sao không ôm lấy một ôm, bê tận hàng rào cho chúng nó ăn? Ai lại thả bò chén tự do thế kia bao giờ!

Thằng nhãi cười xoà, xua bò đi:

- Bây giờ có phải cỏ nhà tôi nữa đâu? Cỏ nông trang.

Đemka mắc lác xệch hai bên, nhìn Kônđrát và Radơmiốtnốp, văng ra một câu chửi tục:

- Thấy chưa, quân chó đẻ!

Họ đang làm kiểm kê ở nhà Lápsinốp thì có chừng ba chục bà con kéo đến ngoài sân. Đa số là các bà mẹ quanh đấy, đàn ông chỉ có vài người. Khi Lápsinốp, một lão già cao lớn tóc hoa râm và râu dê, bị yêu cầu rời khỏi nhà thì trong đám túm năm tụm ba ấy có tiếng xì xào nhỏ to.

- Sướng chưa! Ky cóp cho cọp nó xơi.

- Chán ốm…

- Chắc lão ấy tiếc lắm đấy! Nhỉ?

- Thân làm thân chịu.

- Chắc là lão ấy không khoái trò này lắm, nhưng hồi chế độ cũ, khi lão ấy tịch thu gia sản nhà Tơriphônốp để trừ nợ, sao lão ấy chẳng nghĩ trước đến nông nỗi này?

- Ác giả ác báo…

- Cái con quỷ, con dê già ấy thế cũng đáng đời! Người ta đốt lửa cho vào đít!

- Các bà ơi, cười người trong lúc hoạn nạn là có tội đấy. Cười người hôm trước hôm sau người cười.

- Sợ quái gì! Mình thì còn có gì nữa? Độc sỏi đá. Sống cũng còn chẳng nổi.

- Dạo hè, tôi mượn của lão ấy cái liềm phát cỏ hai ngày, thế mà lão ấy bóp tôi đúng mười rúp. Ấy là chỗ thân tình đấy. Lương tâm lão để đâu không biết?

Từ lâu rồi Lápsinốp đã có tiếng lắm tiền lắm của. Người ta biết lão đã khá giả ngay từ hồi chưa chiến tranh, vì cho vay cắt cổ và lén lút mua đồ trộm cắp lão đều chẳng chê. Một dạo đã đồn ầm lên là chuồng ngựa nhà lão chứa ngựa ăn trộm. Bọn lái ngựa Digan thỉnh thoảng vẫn ghé qua nhà lão, thường là về ban đêm. Hình như ngựa ăn trộm đã qua bàn tay gân guốc của Lápsinốp mà được đưa lên đường đi Txarítxưn, Taganrốc và Uriupinxkaia. Cả làng ai cũng biết đích xác là thời xưa, mỗi năm ba lần Lápsinốp mang tiền giấy trăm lên tỉnh đổi lấy tiền vàng mười rúp. Năm 1912, bọn cướp đường đã định “nẫng hầu bao” lão, nhưng Lápsinốp là một lão già vừa lõi vừa khoẻ. Với độc một cái ngạc xe, lão đã tháo thân được, phi ngựa chạy thoát. Người ta bắt được quả tang lão ăn trộm thóc đánh đống ngoài thảo nguyên, - đó là hồi lão còn trẻ. Và về già thì lão lại càng tự nhiên hơn: mọi cái gì để hớ hênh là lão vớ tất. Lão keo kiệt đến nỗi nhiều lần đến nhà thờ lão đặt ngọn nến một côpếch trước tượng thánh Nhicôla Mirlikixki, ngọn nến vừa mới cháy một tí lão đã bước tới, thổi tắt phụt, làm dấu rồi đút ngọn nến vào túi. Thành thử một cây nến lão dùng được suốt một năm, và ai chê lão bủn xỉn quá quắt và lòng không thành với Chúa thì lão đáp: “Đồ ngu, các anh thông minh làm sao được bằng Chúa! Chúa không cần cây nến, mà cần danh dự. Chúa chẳng dạy tôi lãng phí. Chúa lại còn đánh đuổi bọn buôn bán trong nhà thờ!”.

Lápsinốp nghe tin sẽ bị tịch thu tài sản kulắc mà vẫn bình chân như vại. Lão chẳng việc gì mà sợ. Mọi cái quý giá lão đã cất giấu và gửi chỗ chắc chắn từ trước rồi. Lão lại còn tự tay giúp cán bộ làm kiểm kê tài sản, giẫm lạch bạch quát vợ không được kêu khóc. Và một phút sau lại ôn tồn nói:

- Mẹ nó đừng gào lên nữa, Chúa thấu hiểu những nỗi thống khổ của đàn con chiên. Chúa lòng lành chẳng cùng, Chúa thông biết mọi sự…

Đemka bắt chước giọng nghiêm trang của lão, hỏi:

- Thế Chúa có rõ lão giấu cái áo lông cừu mới tinh ở đâu không?

- Áo lông cừu nào?

- Cái áo chủ nhật trước lão mặc đi nhà thờ ấy.

- Tôi chẳng có áo lông cừu mới nào cả.

- Mới đây thôi mà đã tẩu đi đâu rồi!

- Chúa sẽ trừng phạt lão đấy!

- Có Chúa chứng giám, anh chớ đổ oan cho tôi…

- Anh nói thế nào chứ tôi thề trước Chúa là không có! - Lápsinốp làm dấu phép.

- Lão mang thêm tội cho linh hồn lão đấy! – Đemka nháy mắt một cái với đám đông, làm các bà các ông phải mỉm cười.

- Tôi chẳng có tội gì trước Chúa cả, thật tình như thế!

- Tội chôn cái áo lông cừu đấy! Lão sẽ phải ra trước Chúa phán xét!

Lápsinốp không chịu được nữa, rít lên:

- Áo của mình mà cũng phải chịu tội à?

- Tội chôn giấu chứ sao!

- Chúa nào mà vớ vẩn như anh, chỉ nói xằng! Chúa đâu nhúng tay vào những việc ấy!... Chẳng có cái áo lông cừu nào cả! Châm chọc một người già cả như thế thì thật là đáng hổ thẹn. Hổ thẹn trước Chúa và bà con làng nước!

Kônđrát hỏi:

- Tôi vay của lão hai thùng kê, đến mùa phải trả thành ba thì lão có hổ thẹn không?

Giọng anh nói nhỏ và khàn khàn, giữa lúc ồn ào này hầu như chẳng ai nghe rõ, thế mà Lápsinốp quay ngoắt lại phía anh, nhanh nhẹn như thanh niên.

- Anh Kônđrát! Ông cụ anh là người phúc hậu, thế mà anh.. Thiết tưởng anh nên nghĩ đến vong linh cụ mà không làm nên tội mới phải! Thánh dạy: “Kẻ đang ngã chớ đá cho ngã thêm”, thế mà anh lại ăn ở như vậy ư? Anh vay hai tôi lấy ba bao giờ? Anh không sợ Chúa à? Chúa thấy hết đấy!

Mụ Lápsinốp tru tréo méo hộc lên:

- Quân khố rách ấy, dễ thường nó muốn người ta cho không nó chắc?

- Mẹ nó, làm gì mà ầm lên thế! Chúa đã chịu đựng và khóc ra máu…- Lápsinốp đưa tay áo lên quệt một giọt nước mắt.

Các bà đang lao xao, ắng đi, thở dài. Radơmiốtnốp viết đã xong, nghiêm nghị nói:

- Thế nào, Lápsinốp, mời lão cuốn gói đi thôi. Nước mắt lão chẳng làm chúng tôi mủi lòng được đâu. Lão đã làm khổ người ta nhiều rồi, và bây giờ chúng tôi tự tay thanh toán với lão, chẳng cần nhờ đến Chúa. Đi ra!

Lápsinốp nắm lấy tay thằng con ngớ ngẩn ngọng líu ngọng lìu, chụp lên đầu nó cái mũ thỏ, bước ra khỏi nhà. Đám đông đổ xô theo. Tới chuồng bò, lão quỳ xuống sau khi đã cẩn thận lấy vạt áo lông cừu lót xuống tuyết. Lão làm dấu lên cái trán đen xạm và gục đầu xuống đất vái đủ bốn phương trời.

Radơmiốtnốp hạ lệnh:

- Đi! Đi thôi!

Nhưng đám đông lao xao, và có tiếng thốt lên:

- Thì cũng phải để người ta từ biệt nhà cửa người ta tí chứ!

- Đừng ác thế, anh Anđrây! Người ta đã một chân dưới lỗ rồi, thế mà anh…

Kônđrát quát lên:

- Đời lão ấy thế thì phải tống cả hai chân xuống đất mới đáng!

Lão thày già Glađilin ngắt lời anh:

- Mày xun xoe trước chính quyền hả? Những đứa như mày đáng nện cho một trận.

- Cái lão óc lợn kia, ông thì cho một trận đến quên cả đường về nhà bây giờ!

Lápsinốp chào, làm dấu, rồi nói to lên cho mọi người nghe thấy, cố làm động lòng trắc ẩn các bà:

- Xin vĩnh biệt bà con giáo hữu! Vĩnh biệt các cô bác, anh chị em! Cầu Chúa phù hộ cho bà con… Của xương máu của tôi đấy, bà con cứ sử dụng. Tôi đã sống và làm ăn lương thiện…

- Tôi đã mua của ăn cắp! – Đemka đứng bên thềm, nhắc.

- … đã đổ mồ hôi lần hồi kiếm ăn…

- Mày đã làm người ta khuynh gia bại sản, mày cho vay cắt cổ, chính tay mày ăn cắp! Ông thì tóm cổ đập đầu mày xuống đất bây giờ, đồ mèo mả chó hoang!

- … lần hồi kiếm ăn, và bây giờ tuổi già sức yếu…

Các bà sụt sịt kéo góc khăn vuông lên thấm mắt. Radơmiốtnốp quát: “Câm ngay cái giọng tuyên truyền kích động ấy đi, không thì…” và anh định lôi cổ Lápsinốp dậy, tống ra ngoài đường thì bỗng thấy ầm ĩ nhốn nháo lên ở hiên, chỗ Đemka đang đứng tựa lan can…

Mụ Lápsinốpvừa mới ở trong bếp nhảy bổ ra, một tay ôm giỏ trứng ngỗng đang ấp, một tay xách con ngỗng bị chói nắng, chói tuyết cứ im thin thít. Đemka đã tước lại giỏ trứng ngỗng một cách dễ dàng, còn con ngỗng thì mụ Lápsinốp cứ bám chặt lấy cả hai tay:

- Đừng sờ vào, đồ khốn nạn! Đừng sờ vào của tao!

Đemka tóm lấy cổ con ngỗng đang vươn ra, quát:

- Ngỗng này bây giờ là của nông trang!...

Mụ Lápsinốp cầm hai cẳng con ngỗng. Hai người mỗi người lôi một đằng, giằng co nhau quyết liệt trên thềm.

- Trả tao, thằng mắt lác!

- Này, trả này!

- Buông ra, tao đã bảo mà!

- Ngỗng của nông trang!... Đemka thở hổn hển, hét lên: - Sang xuân nó sẽ đẻ .. một lứa!.. Cuốn xéo đi, con mụ già, không ông đạp cho bây giờ… nó sẽ đẻ… một lứa!... Chúng mày ăn đủ phần chúng mày rồi…

Mụ Lápsinốp đầu tóc rũ rượi, đạp chân vào ngưỡng cửa mà lôi sùi bọt mép. Con ngỗng thoạt tiên còn quàng quạc được mấy tiếng, đã im bặt, - xem chừng Đemka đã bóp nó tắc thở rồi, - nhưng đôi cánh nó vẫn vỗ loạn. Lông cánh lông măng bay phơi phới trên thềm như những bông hoa tuyết trắng. Có vẻ như chỉ một tí nữa thôi là Đemka sẽ thắng, sẽ giằng được con ngỗng sống dở chết dở khỏi bàn tay xương xẩu của mụ Lápsinốp thì bỗng đánh rắc một cái, cổ con ngỗng đứt đôi. Mụ Lápsinốp lăn chiêng từ trên thềm xuống, váy tốc lên tận đầu. Còn Đemka thì bị hẫng, ối lên một tiếng, ngã bổ ngửa đè tan giỏ trứng sau lưng, tay cầm độc cái đầu ngỗng. Một trận cười như sấm làm băng trên mái rơi xuống lả tả. Lápsinốp đang quỳ dưới đất đứng phắt dậy, kéo mũ sụp xuống, hầm hầm lôi tay thằng con rớt rãi lòng thòng và bàng quan trước mọi sự, kéo nó bỏ đi ra, gần như chạy. Mụ Lápsinốp lóp ngóp đứng dậy, tím mặt lại vì giận dữ và vì đau. Mụ vừa rũ váy vừa định xông vào chụp lấy con ngỗng cụt đầu đang giãy giụa trên thềm, thì con chó săn lông vàng đang lảng vảng quanh đó, trông thấy máu ở cổ con ngỗng ộc ra, liền nhảy xổ tới, lông dựng đứng lên, vồ lấy con ngỗng ngay trước mũi mụ Lápsinốp, lôi đi xềnh xệch qua sân trong tiếng huýt và hò reo của bọn trẻ con.

Đemka cầm cái đầu ngỗng vẫn còn giương đôi mắt vàng khè kinh ngạc nhìn đời, ném theo mụ Lápsinốp, rồi quay gót vào nhà. Và trong sân, ngoài đường còn vang lên hồi lâu những đợt cười giòn tan, đủ các giọng, làm cho bọn chim sẻ trên các cành cây khô ngơ ngác sợ hãi.

CHƯƠNG XII

Cuộc sống ở Grêmiatsi Lốc đang lồng lên như một con ngựa bất kham trước một chướng ngại khó vượt. Ban ngày anh em kô-dắc túm năm tụm ba trong nhà ngoài ngõ, tranh cãi, bàn luận chuyện nông trang, đề xuất sáng kiến. Họp hành bốn đêm liên và đêm nào cũng kéo dài tới lúc gà gáy sáng.

Những ngày này Nagunốp gầy tọp hẳn đi như vừa qua một cơn bệnh nặng liệt giường dai dẳng. Còn Đavưđốp vẫn giữ được vẻ bình tĩnh, duy chỉ có hai nếp hằn bướng bỉnh ở hai bên mép anh là càng hằn sâu xuống hơn. Anh cũng đã khéo truyền được niềm tin cho cả Radơmiốtnốp thường dễ bốc và cũng dễ mất tinh thần. Anđrây chạy ngược xuôi khắp làng, đi xem xét các chuồng tập thể với một ánh cười hóm hỉnh đầy tin tưởng trong đôi mắt khó đăm đăm. Anh cứ luôn mồm nói với Akaska Mênốc, người được chỉ định phụ trách nông trang trong khi chờ đợi bầu ban quản trị:

- Ta sẽ cho họ biết tay! Rồi thì ai ai cũng sẽ vào nông trang cả cho mà xem.

Đavưđốp cho liên lạc hoả tốc phi ngựa mang lên huyện bản báo cáo trình bày mới có ba mươi hai phần trăm nông hộ gia nhập nông trang, nhưng công tác vận động đang được tiếp tục khẩn trương.

Bọn kulắc bị trục xuất khỏi nhà kéo đi ở nhờ nhà bà con bạn bè. Phrôn Mũi toác sau khi cử thằng con giai Chimôphây chạy thẳng lên khu kêu với công tố uỷ viên, đã đến ở nhà một người thân cận là Bôrsép, chính cái anh chàng trong hội nghị bần nông hôm trước từ chối không biểu quyết. Ngôi nhà nhỏ hai gian của Bôrsép đã thành nơi tụ tập những tên kulắc sừng sỏ nhất.

Để tránh con mắt theo dõi kiểm soát, bọn chúng tới nhà Bôrsép tụ tập ban ngày thường đi từng đứa hoặc hai đứa một, lẻn qua lối hậu và qua nhà đập lúa, khỏi đập vào mắt thiên hạ, và khỏi bị Xôviết để ý. Lui tới đây có Đavứt Gaiép và tên đại bợm Lápsinốp từ sau ngày bị tịch  thu gia sản đã biến thành kẻ giả vờ mất trí; thỉnh thoảng Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp cũng mò đến để thăm dò. Bám vào cái “bộ tham mưu” ấy có một số trung nông dứt khoát chống lại nông trang: Nhikôlai Liusnhia và vài người nữa. Ngoài Bôrsép ra lại còn có hai bần nông khác: Vaxili Atamatsukốp, một anh chàng kô-dắc cao lênh khênh, đầu tóc mày râu cạo nhẵn nhụi, trọc lông lóc như quả trứng vịt, và Nhikita Khốprốp, cựu pháo thủ cận vệ thuộc đội quân Pốtchenkốp, trong thời kỳ nội chiến trốn nghĩa vụ suốt và đến năm 1919 rốt cuộc lại rơi vào làm lính đội quân tiễu phạt của tên đại tá bạch vệ Astưmốp. Chính chyện ấy đã quyết định cuộc đời Khốprốp sau này dưới chính quyền Xôviết. Số là trong làng có ba người – bố con Ôxtơrốpnốp và lão già Lápsinốp – hồi 1920 trong cuộc rút lui về Kútsépka đã trông thấy anh ta ở trong đội quân tiễu phạt Astưmốp với cái lon trắng hạ sỹ quan; và cũng trông thấy anh ta cùng với ba tên kô-dắc bạch vệ khác là người dân tộc Canmức giải đám công nhân hoả xa về cho Astưmốp hỏi cung… Họ đã trông thấy… Và anh đã mất bao nhiêu hồn vía khi rời Nôvôrôxixkơ về Grêmiatsi Lốc được biết hai bố con Ôxtơrốpnốp và Lápsinốp vẫn còn sống nguyên! Anh lính pháo binh cận vệ có bộ ngực nở nang ấy đã trải qua biết bao phen hãi hùng trong những năm trấn áp phản cách mạng quyết liệt! Và anh, lúc đóng móng cho ngựa chỉ cần nắm lấy hai chân sau của nó là có thể kìm chặt được bất cứ con ngựa nào cứ run bắn lên như chiếc lá sồi héo khô vì băng giá mỗi khi bắt gặp nụ cười láu tôm láu cá của Lápsinốp. Anh hãi hắn nhất. Gặp hắn, anh lắp bắp không ra hơi:

- Lạy cụ cứu vớt cho một linh hồn kô-dắc, đừng tố giác!

Lápsinốp làm ra bộ không hài lòng, nói:

- Anh dớ dẩn lắm, anh Nhikita ạ! Nhưng tôi cũng chẳng chấp anh làm gì! Tôi chẳng đeo thánh giá trước ngực đây hay sao? Và Đấng Cứu thế đã dạy rằng: “Hãy thương yêu người ta như mình vậy”. Anh đừng có nghĩ lôi thôi, tôi sẽ không nói gì đâu! Vặn răng cũng chẳng nói. Tính tôi nó thế đấy… Nhưng anh nữa, anh cũng phải giúp tôi, nếu như… họp hành, có thể có đứa muốn hại tôi, hoặc chính quyền có đả kích tôi… Trường hợp ấy, anh hãy bênh vực tôi… Lá lành đùm lá rách. Và kẻ nào vung gươm thì sẽ chết vì gươm. Có phải thế không? À mà tôi muốn nhờ anh cày giúp cho đám ruộng. Chúa đã cho tôi thằng con dở người, chẳng nhờ vả được gì cả. Còn thuê người thì công xá đắt lắm…

Năm này qua năm khác Nhikita Khốprốp đã “giúp” Lápsinốp như vậy. Anh làm không công, cày, kéo, đứng đút những bó lúa của nhà Lápsinốp vào máy đập nhà Lápsinốp. Rồi về đến nhà mình, anh ngồi vào bàn, vùi cái mặt to bành bạnh có bộ ria hung hung vào hai lòng bàn tay như sắt nguội, ngẫm nghĩ: “Cứ thế này đến đời kiếp nào? Tao sẽ giết mày”.

Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp thì không đòi hỏi gì cả, chẳng doạ dẫm, và thừa biết rằng nếu mình có yêu cầu một chai vốtka hoặc cái gì khác thì Khốprốp cũng chẳng dám từ chối. Mà vốtka thì Iakốp Lukits tới uống ở nhà anh ta luôn, và lần nào uống xong cũng không quên cảm ơn: “Đa tạ anh”.

“Rượu vật chết cha mày đi!” – Khốprốp nghĩ bụng, hai nắm tay như hai quả tạ căm hờn bóp chặt lại dưới gầm bàn.

Pôlốptxép vẫn ở tại nhà Iakốp Lukits, trong gian phòng xép, trước đây là phòng của mẹ Ôxtơrốpnốp. Mụ già chuyển ra trốc lò sưởi. Và  Pôlốptxép suốt ngày ở tịt trong gian phòng con, nằm dài trên tấm phản ngắn, hai bàn chân không và gân guốc gác lên viên gạch nóng, hút thuốc lá liên chi hồ điệp. Đêm đêm y thường đi vơ vẩn trong ngôi nhà thiêm thiếp ngủ (không có một tiếng kẹt cửa, vì các bản lề đã được trát mỡ ngỗng cẩn thận). Đôi lúc khoác áo varơi vào, y dập tắt thuốc lá, bước ra thăm con ngựa giấu trong kho rơm vụn. Con ngựa, đứng ỳ mãi đó đã ê ẩm, đón chào chủ khẽ hí lên một tiếng run run, dường như nó cũng biết rằng chưa phải lúc bộc lộ tình cảm một cách thoải mái. Chủ vỗ về nó, đưa những ngón tay cứng đơ rắn như sắt nguội nắn nắn khớp chân nó. Có lần, vào một đêm đặc biệt tối trời, y lôi con ngựa ra phi cồm cộp lao vào thảo nguyên. Y trở về trước lúc trời sáng. Con ngựa ướt đẫm, cứ như được tắm bằng mồ hôi, rùng rùng hai bên hông, chốc chốc lại run bắn lên một cái. Đến sáng, y nói với Iakốp Lukits:

- Đêm qua tôi về làng. Chúng nó đang tìm tôi…Anh em kô-dắc đã sẵn sàng, chỉ còn đợi lệnh.

Chính là theo lời chỉ bảo của Pôlốptxép mà trong đại hội nông dân lần thứ hai của ấp Grêmiatsi Lốc bàn về chuyện nông trang, Iakốp Lukits đã xin gia nhập và kêu gọi anh em khác cũng nên theo mình. Và lão đã làm cho Đavưđốp mừng rơn vì lời phát biểu có tình có lý của lão, và vì lão là người có uy tín trong làng nên sau khi lão tuyên bố xin vào nông trang thì lập tức có ba mươi mốt người nữa xin vào.

Iakốp Lukits  nói về nông trang tập thể cứ ngọt xớt, nhưng hôm sau, đi một vòng quanh các nhà, thết rượu bằng tiền của Pôlốptxép những trung nông hắn tin cậy và phản đối nông trang, sau khi làm vài hớp rượu lão thở ra một giọng khác hẳn:

- Này chú ơi, chú lạ thật! Tôi ở cái thế buộc phải vào nông trang hơn chú chứ, và không thể nói chống được. Tôi làm ăn khá giả, họ có thể quy tôi thành phần kulắc, còn chú thì đâm đầu vào đấy làm gì? Cái ách sờ sờ ra đấy, chú không thấy sao? Chú ạ, vào nông trang người ta sẽ thúc vào lưng lùa chú đi, không mở được mắt mà trông ánh sáng mặt trời nữa đâu. Và lão hạ giọng, bắt đầu tuôn ra một tràng những chuyện đã học thuộc lòng về cuộc nổi dậy sắp tới, về cộng vợ cộng chồng, và nếu người nghe tỏ ra ăn giọng và cay cú thì lão rủ rê, gạ gẫm, đe doạ một sự trừng phạt khi “quân ta” ở ngoại quốc kéo về, và cuối cùng lão đạt tới ý định: lão ra về với sự đồng ý của người kia xin gia nhập “hội”.

Mọi chuyện trơn tru trót lọt. Iakốp Lukits đã kết nạp được gần ba mươi người, nghiêm cấm họ không được hở với ai về việc mình vào “hội” và về những chuyện đã nghe lão nói. Nhưng đến khi lão tới bộ tham mưu kulắc để hoàn thành công cuộc của mình (lão và Pôlốptxép có lòng tin tuyệt đối vào bọn kulắc đã bị tịch thu tài sản và vào những kẻ tập hợp quanh chúng, cho nên việc kết nạp bọn này được coi là chuyện dễ và gác lại để sau cùng), thì lần đầu tiên lão đã bị vấp… Iakốp Lukits khoác áo dipun vào, tới nhà Bôrsép vào lúc xẩm tối. Trong gian buồng trước đây vẫn bỏ không, cái bếp lò cháy hồng. Tất cả đông đủ. Chủ nhà là Chimôphây Bôrsép đang quỳ lom khom đút cành củi khô vào lò. Phrôn Mũi toác, Lápsinốp, Gaiép, Nhikôlai Liusnhia, Vaxili Atamantsukốp và anh lính pháo thủ Khốprốp thì ngồi trên mấy tấm ghế dài và trên đống bí ngô vỏ vằn đen vàng, kiểu vằn của dải huân chương thánh Ghêorghi. Chimôphây, thằng con lão Phrôn Mũi toác, vừa mới ở trên khu về ngày hôm ấy, đang đứng tựa lưng vào cửa sổ. Nó kể lại chuyện ông công tố uỷ viên đã tiếp nó với thái độ rất găng, không những không xét đơn khiếu nại mà lại còn định bắt nó, trả về huyện. Iakốp Lukits bước vào, Chimôphây đang nói, im bặt. Bố nó giải thích:

- Bà con ta cả, con ạ, cứ nói đi, đừng ngại.

Chimôphây kể nốt; nó nói, đôi mắt long lên sòng sọc:

- Sống khổ sở thế này thì chỉ ước gì có loạn, cháu sẽ nhảy phốc lên lưng ngựa đi cắt tiết bọn cộng sản ngay tắp lự!

Iakốp Lukits gật gù:

- Khó sống, khó sống thật đấy… Nhưng nếu chỉ như thế này thôi thì hãy còn là phúc…

Phrôn Mũi toác điên tiết lên:

- Lại còn thế nào nữa? Ông không bị đụng chạm gì, ổn quá rồi, còn tôi đây thì chết cháy. Hồi Sa hoàng ông với tôi gần như tương tự một cảnh sống, nhưng bây giờ ông béo trương béo nứt, còn tôi thì mất sạch trơn, đôi giầy chẳng còn.

- Tôi đâu sợ chuyện ấy, mà lo chuyện khác…

- Chuyện gì?

- E rồi lại nội chiến…

- Lạy Chúa ban cho nội chiến đi thì tốt quá! Cầu thánh Ghêorghi Bách chiến bách thắng phù hộ chúng ta! Sao cho nổ ra ngay đi! Kinh Phúc âm cũng dạy rằng…

- Gậy gộc choảng đi thôi, như dân Vôsenxkaia hồi năm mười chín ấy!

- Chà, tôi sẽ tuốt xác chúng nó, hưưừm!...

Atamantsukốp, bị thương vào họng trong trận gần làng Philônốpxkaia, phát biểu bằng một giọng léo nhéo khó nghe như tiếng sáo chăn cừu:

- Dân đã điên lên rồi, sẽ cắn xé moi gan chúng nó!...

Iakốp Lukits úp úp mở mở kể chuyện ở mấy làng bên xem có vẻ nhộn nhạo, thậm chí ở đôi nơi bà con đã dạy cho bọn cộng sản một bài học, theo lối kô-dắc, như xưa kia người ta đã dạy cho bọn ataman ở lại bám đít Mátxcơva, nghĩa là rất đơn giản: bao tải trùm đầu, rồi tùm luôn xuống sông. Lão nói chậm rãi, suy tính từng lời. Nhân tiện lão kể chơi rằng khắp miền Bắc Cápcadơ này tình hình bất an, rằng ở mấy thôn ấp dưới đã chung vợ chung chồng, rằng cộng sản là những kẻ đầu tiên ngang nhiên ngủ với vợ người khác, và sang xuân có thể có đổ bộ. Tin này là do một ông sĩ quan cũ cùng trung đoàn đã nói cho lão biết khi ông ta qua Grêmiatsi Lốc một tuần trước đây. Iakốp Lukits chỉ giấu một điều là viên sĩ quan ấy từ bấy đến nay vẫn sống lẩn lút ở nhà lão.

Đến đấy thì Nhikita Khốprốp từ nãy vẫn ngồi lặng thinh, hỏi:

- Ông Iakốp Lukits ạ, có điều này tôi còn chưa rõ: được rồi, ta sẽ nổi dậy, sẽ giết sạch bọn cộng sản ở ta, thế rồi sao nữa? Bọn dân vệ, ta sẽ thanh toán xong, nhưng bộ đội họ kéo về ụp ta thì lúc ấy thế nào? Ai sẽ chỉ huy chúng ta chống cự lại họ? Sĩ quan chẳng có, chúng mình thì ù ù cạc cạc, mò đường chỉ biết nhìn sao trên trời… Mà chiến đấu thì bộ đội đâu có đi mò! Bộ đội tìm đường trên giấy, các bộ tham  mưu của nó vẽ nên bản đồ. Tay thì ta có đấy, nhưng đầu thì không.

Iakốp Lukits quả quyết khẳng định:

- Đầu cũng sẽ có! Sĩ quan sẽ về. Các ông ấy thì tài giỏi hơn bọn chỉ huy đỏ. Các ông sĩ quan Iunke ngày xưa sẽ đứng ra chỉ huy, họ tinh thông võ nghệ. Còn bọn chỉ huy đỏ thì ra cái thá gì? Ta cứ lấy thằng Maka Nagunốp của ta đây mà xem. Chặt đầu người ta thì nó làm được đấy, nhưng nó mà lại chỉ huy được một đại đội ư? Có mạt kiếp! Nó mà nhìn vào bản đồ thì biết đằng nào mà lần?

- Nhưng các ông sĩ quan ấy ở đâu ra?

- Trong bụng mẹ chui ra! – Iakốp Lukits điên tiết lên. – Kiểu đâu đấy, hả anh Nhikita? Sao anh cứ bám lấy tôi như con bọ chó bám vào đuôi con chó thế? “Ở đâu ra, ở đâu ra”!.. Tôi biết được họ ở đâu ra?

- Các ông ấy ở ngoại quốc về. Thế nào cũng về! – Phrôn Mũi toác tràn trề hy vọng.

Và, thưởng thức trước cảnh đổi đời, cái vị ngọt ngào nồng hơi máu của cuộc rửa hận nay mai, hắn khoan khoái phồng cái lỗ mũi độc nhất còn lại, phì phò hít lấy hít để làn không khí xanh khói thuốc.

Khốprốp đứng dậy; đưa chân đá một quả bí rồi vuốt bộ râu rậm đỏ hung hung, dõng dạc nói:

- Ra là thế đấy… Chỉ có điều là dân  kô-dắc đã khôn ra rồi. Họ đã bị một trận nhừ tử vì cái tội nổi loạn. Họ sẽ chẳng nổi nữa đâu. Vùng Kuban sẽ không hưởng ứng…

Iakốp Lukits cười ruồi trong bộ ria đốm bạc, khẳng định:

- Dân kô-dắc sẽ nổi dậy, muôn người như một! Và tất cả vùng Kuban sẽ bùng lửa… Cái trò đánh nhau vẫn thế: bây giờ thì tôi nằm dưới, vai bẹp dí xuống đất đấy, nhưng rồi xem, chỉ lát nữa thôi, tôi sẽ cưỡi lên đối thủ và cho nó ao.

Khốprốp nói, trong lòng trỗi dậy một quyết tâm làm anh gai gai lạnh:

- Không, các ông anh ạ, tuỳ các ông anh thôi, nhưng tôi không đồng ý chuyện ấy đâu! Tôi không nổi loạn chống chính quyền và không khuyên người khác làm việc ấy. Và ông, ông Iakốp Lukits ạ, ông xúi giục người ta làm những trò ấy là sai rồi… Cái ông sĩ quan nào ăn ngủ ở nhà ông là một người lạ mặt khả nghi lắm. Ông ta sẽ khoắng nước đục lầm lên rồi lỉnh, và lại chúng ta giơ đầu chịu báng cho mà xem. Trong cuộc nội chiến vừa rồi, họ đã đẩy chúng ta ra chống lại chính quyền Xôviết, họ gắn lon cho anh em kô-dắc, nặn anh em thành những sĩ quan đẻ non, còn bản thân họ thì rúc ở hậu phương, trong các bộ tham mưu, đi nhởn với các cô tiểu thư thắt đáy lưng ong… Ông nhớ lại mà xem, đến cái lúc thanh toán nợ nần, ai đã phải è cổ ra trả giá những tội mọi người cùng làm? Ở Nôvôrôxixkơ, quân đỏ đã lôi người Canmức ra bến tàu chặt đầu, trong khi đó thì bọn sĩ quan và các ngài quý tộc khác ngồi bảnh choẹ trên tàu bể, chuồn ra nước ngoài đi tìm những nơi khí hậu ấm áp. Toàn bộ đạo quân sông Đông vón lại ở Nôvôrôxixkơ như một đàn cừu, nhưng các ngài tướng tá thì đi đâu?... Chà! Mà tiện đây tôi cũng muốn hỏi ông: cái ngài “quan lớn” hôm nọ ngủ lại nhà ông, ngài ấy vẫn còn đang chui rúc đấy phải không? Tôi có đôi lần trông thấy ông xách nước xuống nhà đập lúa. Tôi cứ thắc mắc: quái, Lukits mang nước xuống đấy làm gì thế nhỉ? Cho ma nào uống? Rồi một hôm tôi nghe thấy tiếng ngựa hí.

Khốprốp lấy làm khoái trá nhận thấy mặt Iakốp Lukits chuyển sang đồng màu với bộ ria muối tiêu của lão. Cả bọn lúng túng sợ hãi. Một niềm vui hung ác làm căng phồng lồng ngực Khốprốp. Anh ném ra từng câu, anh có cảm giác như mình đứng ngoài, anh nghe thấy tiếng mình, như nghe một người khác nói.

Iakốp Lukits ấp úng:

- Nhà tôi làm gì có ông sĩ quan nào? Con ngựa cái nhà tôi nó hí đấy chứ, tôi xách nước bao giờ? Có xách nước vo thì có.. tôi nuôi con lợn ở đấy…

- Tiếng hí con ngựa cái nhà ông, tôi còn lạ gì, ông đừng bịp tôi! Nhưng chuyện ấy tôi mặc xác ông. Còn như việc các ông vừa mới bàn thì tôi không tham gia, lý do làm sao các ông tự đoán lấy…

Khốprốp đội mũ vào, nhìn quanh một vòng, rồi bước ra cửa. Lápsinốp chạy ra cản anh lại. Chòm râu đốm bạc của hắn rung rung, hắn lom khom đến ngộ, hai tay dang ra, hỏi:

- Thằng Giuđa, mày đi tố giác đấy hả? Mày bán tao hả? Thế ngộ như tao nói toẹt ra mày đã bắt tay bọn Canmức, đi lính tiễu phạt thì mày nghĩ sao?

Khốprốp điên lên một cơn điên lạnh như tiền, dứ nắm đấm như quả tạ vào râu Lápsinốp, nói:

- Ông nội ơi, ông không cần phải bép xép! Tôi sẽ tố giác tôi trước, sẽ nói toạc ra thế này: tôi đã đi lính tiễu phạt, đóng lon hạ sĩ quan, các ông xử tôi đi.. Nhưưưng, chúng mày cũng giờ hồn! Mày, thằng cáo già… Và mày… Khốprốp thở hổn hển, lồng ngực rộng của anh phì phò như bễ lò rèn. – Mày đã hút cạn máu tao! Ít ra tao cũng được một lần cười vào mũi mày!

Chẳng cần vung tay lấy đà, anh thoi cho Lápsinốp một quả vào giữa mặt, đóng sầm cửa bước ra, chẳng thèm nhìn lão già ngã quay lơ bên bậu cửa. Chimôphây Bôrsép chạy đi lấy cái thùng không. Lápsinốp lổm ngổm quỳ dậy, úp mặt vào miệng thùng. Máu đen từ trong mũi hắn ộc ra như từ một mạch máu đứt. Trong không khí hoang mang lặng ngắt ấy chỉ còn nghe thấy tiếng Lápsinốp thở khò khè, nghiến răng ken két, và tiếng máu xuôi theo râu Lápsinốp rỏ tong tong xuống đáy thùng.

Gaiép, tên kulắc mới bị tịch thu gia sản và có đàn con nhung nhúc, nói:

- Giờ thì chết cả nút!

Và thế là Nhikôlai Liusnhia đứng bật dậy, chẳng chào ai, chẳng đội mũ, chuồn thẳng. Atamantsukốp từ tốn bước ra theo, nói với lại bằng cái giọng khản the thé:

- Giải tán đi, không thì lôi thôi to đấy!

Iakốp Lukits ngồi lặng đi vài phút. Tim lão dường như giãn bung ra, lộn lên tận cổ. Lão khó thở. Máu trong đầu đập rình rình, trán toát mồ hôi lạnh. Lão đứng dậy khi mọi người ra về đã gần hết; lão kinh tởm bước tránh Lápsinốp đang cúi gục xuống cái thùng, khẽ bảo thằng Chimôphây, con lão Mũi toác:

- Chimôphây, đi theo tôi.

Chimôphây lẳng lặng khoác áo véttông, đội mũ vào. Hai người đi ra. Trong làng, những anh đèn cuối cùng đã tắt ngấm. Chimôphây hỏi:

- Ta đi đâu?

- Đến nhà tôi.

- Làm gì?

- Tí nữa sẽ biết, rảo rảo lên!

Iakốp Lukits chủ tâm tạt qua trụ sở Xôviết: không có ánh lửa, các cửa sổ đen ngòm. Họ về đến nhà Iakốp Lukits. Tới bên thềm, Iakốp Lukits dừng lại, nắm tay áo Chimôphây, bảo:

- Đợi đây một lát. Tôi sẽ gọi anh vào sau.

- Vâng.

Iakốp Lukits gõ cửa. Cô con dâu ra mở then:

- Thày đấy phải không?

- Thày đây.

Lão cài chặt then cửa lại, lão không vào thẳng mà tới gõ cửa gian buồng xép. Một giọng trầm khê nặc hỏi:

- Ai đấy?

- Tôi đây. Vào được chứ, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits?

- Vào đi.

Pôlốptxép đang ngồi viết gì đó bên chiếc bàn con đối diện với cửa sổ che một tấm khăn vuông đen. Bàn tay rộng và gân guốc đặt úp lên che tờ giấy đang viết dở, y quay cái đầu trán dô lại, hỏi:

- Thế nào? Công việc ra sao?

- Hỏng rồi… Lôi thôi to…

- Sao? Nói mau lên!...

Pôlốptxép đứng bật dậy, đút tờ giấy viết dở vào túi, hấp tấp cài khuy cổ áo lại, rồi máu bốc lên mặt đỏ rừ, y khom mình lại trong tư thế con thú dữ chuẩn bị vồ.

Iakốp Lukits ấp úng kể lại chuyện vừa xảy ra. Pôlốptxép nghe, không hé răng một lời. Từ hai hốc mắt sâu, đôi đồng tử xanh lơ của y nhìn chòng chọc vào Iakốp Lukits. Y từ từ ưỡn thẳng người lên, hai bàn tay hết nắm lại mở, cuối cùng bĩu đôi môi cạo nhẵn thín lại nom đáng sợ, y bước sấn tới Iakốp Lukits.

- Đồ chó-o-o chết! Làm ăn thế à, thằng già đê tiện, định hại tao hả? Định phá hoại hả? Cái cơ sở ngu ngốc của mày đã phá hoại một nửa công cuộc rồi đấy. Tao đã ra lệnh cho mày thế nào? Tao đã ra lệnh cho-mày-thế-nà-o? Phải thăm dò ý tứ từng đứa một trước đã! Nhưng mày thì cứ như con bò đực lao đầu xuống khe!.. – Cái giọng thì thầm trầm trầm sôi sùng sục và cố nén lại của y làm Iakốp Lukits tái mét mặt và càng hãi, càng cuống. – Làm thế nào bây giờ? Thằng Khốprốp ấy đã đi báo cáo chưa? Thế nào? Chưa chứ? Nói đi, đồ mặt mẹt! Chưa chứ? Sau đó nó đi đâu, mày có theo dõi không?

- Không.. Thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits ân nhân của tôi, chúng ta nguy to rồi!

Iakốp Lukits ôm đầu. Một giọt nước mắt từ từ lăn trên cái má nâu xạm xuống bộ ria muối tiêu làm lão buồn buồn.

Nhưng Pôlốptxép chỉ nghiến răng ken két:

- Mày! Cái đồ đàn bà.. Phải hành động, chứ không phải là… Thằng con mày có nhà không?

- Tôi không rõ… Tôi có đưa một thằng đến đây.

- Thằng nào?

- Con lão Phrôn mũi toác.

- À… Đưa nó đến làm gì?

Bốn mắt gặp nhau, hiểu nhau chẳng cần nói một lời. Iakốp Lukits quay mặt đi trước, và nghe Pôlốptxép hỏi: “Thằng ấy có tin được không?” – chỉ im lặng gật đầu. Pôlốptxép giận dữ giật cái áo varơi treo trên đinh xuống, rút dưới gối ra khẩu súng lục mới lau chùi sạch sẽ, xoay cái ổ, và trong các lỗ của ổ đạn, các đầu đạn mạ kền ánh lên thành một vòng tròn sáng loáng. Vừa cài khuy áo varơi, Pôlốptxép vừa ra lệnh dõng dạc như ra lệnh chiến đấu:

- Đi lấy cái rìu. Xem xem đường nào gần nhất dẫn tao đi.. Từ đây đến đấy mất mấy phút?

- Gần thôi ạ, cách độ tám nhà…

- Nó có vợ con không?

- Có độc vợ.

- Hàng xóm gần không?

- Một bên là nhà đập lúa, bên kia là vườn.

- Thế trụ sở Xôviết?

- Cách xe…

- Đi!

Trong khi Iakốp Lukits đi ra đống củi lấy cái rìu thì Pôlốptxép giơ tay trái nắm lấy khuỷu tay Chimôphây, nói nhỏ:

- Tuyệt đối nghe theo lệnh tôi! Ta đến nhà nó, rồi chú đổi giọng cho khác đi, bảo nó chú là người thường trực của Xôviết ấp, có giấy cần đưa nó. Làm thế nào cho đích thân nó ra mở cửa.

- Cẩn thận đấy, đồng chí ạ, không biết gọi ông thế nào… tôi chưa được biết ông… thằng Khốprốp ấy, nó như con bò mộng, khoẻ lắm, nếu không đánh gục ngay thì với hai bàn tay không nó có thể chơi cho…- Chimôphây nói đến đây đã liến thoắng.

- Thôi! – Pôlốptxép ngắt lời nó và chìa tay ra với Iakốp Lukits: - Đưa đây tôi. Đi trước dẫn đường.

Pôlốptxép cầm lấy cái rìu cán gỗ hoè và còn âm ấm hơi tay của Iakốp Lukits, luồn vào trong áo, giắt vào thắt lưng quần sarôva, rồi kéo lật cổ áo lên.

Chúng lẳng lặng đi theo lối ngõ ngang. Bên cái bóng dáng cao lớn, chắc nịch của Pôlốptxép, Chimôphây nom như một thiếu niên. Nó đi bên viên đại đội trưởng kỵ binh đang bước những bước thấp bước cao, nhìn đăm đăm vào mặt y. Nhưng trời tối và cái cổ áo lật đứng của y làm nó không nhìn rõ mặt…

Chúng lách hàng rào qua nhà đập lúa. Pôlốptxép thì thào ra lệnh:

- Đi giẫm đúng vào lốt chân người trước, để cho có vết chân một người thôi.

Chúng đi trên tuyết còn trắng nguyên không một vết chân, bước theo một hàng dọc, người nọ dẫm vào lốt chân người kia. Tới gần cổng hàng rào, Iakốp Lukits áp lòng bàn tay ôm lấy mạng sườn trái, thều thào buồn bã:

- Lạy Chúa!...

Pôlốptxép trỏ vào cửa:

- Gõ đi!...

Chimôphây nhìn đôi môi y mấp máy mà đoán ra như vậy hơn là nghe thấy. Nó khẽ lắc cái núm cửa kêu lạch cạch và liền đó nghe thấy tiếng mấy ngón tay người lạ mặt đội mũ lông trắng đứng ở bên phải cửa, giận dữ cào cào, giằng khuy áo varơi ra. Chimôphây gõ lần nữa. Iakốp Lukits kinh hoàng thấy một con chó chui ra từ trong cái cũi sắt đặt ngoài sân. Nhưng con chó rét cóng sủa không ra tiếng. Nó rên lên và bỏ chạy về phía ngôi nhà kho lợp lá sậy.

* * *

Khốprốp về đến nhà trong bụng rối bời, tuy dọc đường có nguội đi đôi chút. Chị vợ dọn cho anh ăn tối.

Anh ăn uể oải, buồn bã nói:

- Thèm một quả dưa muối quá, Maria ạ.

Chị tủm tỉm:

- Cho giã rượu chứ gì?

- Rượu chè gì đâu! Mình ạ, mai tôi sẽ ra thú với chính quyền trước kia có đi lính tiễu phạt. Sống như thế này mãi tôi không sống nổi.

- Ồ, mình cứ nghĩ quẩn! Mà hôm nay sao nom mình rũ rượi? Tôi thật chả hiểu.

Nhikita mỉm cười, vê vê bộ ria mép rậm hung hung đỏ.

- Mình sắp sửa cho tôi ít lương khô, hoặc nướng ít mã đề. Tôi sắp đi tù.

Sau đó anh nằm hồi lâu, bỏ ngoài tai những lời khuyên can của vợ, hai mắt mở thao láo, ngẫm nghĩ: “Mình sẽ khai hết về mình, và cả về thằng Ôxtơrốpnốp để người ta tống nốt cả  bọn quỷ sứ ấy nữa vào tù!  Nhưng mình thì rồi sẽ thế nào đây? Liệu có bị đem bắn không? Mình sẽ ngồi tù vài ba năm, đẵn gỗ trên ngàn, rồi sẽ trở về sạch vết. Bấy giờ thì không còn ai trách móc quá khứ của mình được. Mình sẽ chẳng phải đi làm đầy tớ không công cho ai nữa. Mình sẽ nói thật làm sao mà mình lại rơi vào làm lính cho Astưmốp. Mình cứ nói thẳng ra thế này: mình ở mặt trận đã đào ngũ trốn về. Ai lại muốn đưa đầu ra làm bia đỡ đạn? Tuỳ họ xử, chuyện qua lâu rồi, người ta cũng nhẹ tay thôi. Mình sẽ kể hết! Tay mình chưa hề bắn ai, còn như cái chuyện roi vọt… Ừ thì mình cũng có cầm roi quật cả lính kô-dắc đào ngũ lẫn mấy anh chàng nào mà họ bảo là bônsêvích.. Hồi ấy mình tối tăm mù mịt, nào có biết ngô khoai ra sao”.

Anh ngủ thiếp đi. Vừa chợp được một tí thì tiếng gõ cửa làm anh tỉnh dậy. Anh nằm rốn một lát. “Ai mà giờ này mà còn đến thế nhỉ?” . Lại tiếng gõ nữa. Nhikita ề à một tiếng khó chịu, nhỏm dậy, định châm đèn thì chị Maria thức giấc, thì thào:

- Hay lại gọi họp? Đừng đốt đèn. Ngày không yên, đêm cũng lại chẳng yên. Mả mẹ họ, chứ họ hoá rồ rồi!

Nhikita đi chân không bước ra nhà ngoài.

- Ai đấy?

- Cháu đây, bác Nhikita ạ, cháu ở Xôviết xuống đây.

Giọng trẻ con lạ lạ… Nhikita bỗng cảm thấy trong bụng như bồn chồn, kiểu như chột dạ, và hỏi:

- Nhưng cháu là ai? Có việc gì?

- Cháu là Nhikôlai Kugienkốp đây. Có giấy của ông chủ tịch gửi bác, ông ấy bảo bác lên trụ sở Xôviết ngay.

- Cứ đút qua khe cửa.

… Phía bên ngoài cửa im lặng giây lát… Từ dưới cái mũ lông phóng ra một cái lừ mắt thúc giục, doạ dẫm, và sau một thoáng lúng túng, Chimôphây nghĩ bật ra một kế:

- Bác cứ mở ra, phải biên nhận cơ.

Nó nghe thấy Khốprốp hậm hực đi lại, hai bàn chân không bước loạt soạt trên nền đất nện. Then cửa lạch cạch. Bóng trắng của Khốprốp hiện ra trên nền đen của khoang cửa. Đúng lúc ấy Pôlốptxép bước xấn chân trái lên ngưỡng cửa, vung rìu bổ cho Khốprốp một nhát vào giữa đầu sống mũi.

Như một con bò trước khi mổ thịt bị một nhát búa tạ vào sọ, Khốprốp quỵ xuống, nhũn người đổ ngửa ra. Pôlốptxép ra lệnh nhỏ:

- Vào đi! Cài then lại!

Y sờ soạng tìm qủa đấm cửa buồng, cái rìu vẫn khư khư trong tay. Và khi tìm thấy rồi, y mở toang cửa ra.

Từ góc nhà, chỗ có kê cái giường, đưa ra tiếng vải sột soạt, và một tiếng đàn bà lo ngại:

- Lại đánh đổ cái gì rồi đấy hử? .. Ai đấy, anh Nhikita?

Pôlốptxép buông rìu ra, hai tay giơ ra đằng trước, lao vào cái giường.

- Ối làng nước ơi! Ai thế này? … Cứu…

Chimôphây vừa va đầu vào khung cửa một cái đau điếng, chạy bổ vào. Nó nghe thấy tiếng lục đục và tiếng thở hổn hển trong góc nhà. Pôlốptxép đè xấn lên người đàn bà, chẹn cái gối lên mặt chị ta và bẻ quặt cánh khuỷu, lấy khăn tay trói lại. Hai cùi tay y miết lên đôi vú núng nính mềm mềm của chị đàn bà, và dưới người y, lồng ngực chị ta lùng nhùng lún xuống. Y cảm thấy hơi ấm của cái thân thể cường sức đang giẫy giụa cố gỡ ra như một con chim bị người bắt, y nghe thấy tim chị đập. Trong y bỗng bùng lên, và chỉ trong giây lát thôi, một dục vọng bỏng rát như lửa đốt. Nhưng y gầm lên một tiếng, điên dại luồn bàn tay xuống dưới gối, móc hàm chị như móc hàm một con ngựa. Dưới mấy ngón tay quắp lại của y, hàm dưới của chị rãn ra, rồi mềm nhũn, rách hẳn. Ngón tay y nhầy nhụa máu nong nóng. Và bây giờ thì người đàn bà đã hết ú ớ rền rĩ: y đã lấy cái váy vo tròn lại, tọng vào mồm chị đến tận họng.

Pôlốptxép đặt Chimôphây đứng canh chị chủ nhà bị trói chặt, còn mình thì đi ra phòng ngoài. Y thở khò khè như con ngựa sổ mũi.

- Đánh diêm lên!

Iakốp Lukits xoè que diêm. Dưới ánh sáng lù mù, Pôlốptxép cúi xuống nhìn Khốprốp bị quật ngã bổ ngửa. Anh lính pháo thủ nằm, hai cẳng bẻ gập lại một cách oái oăm, má áp xuống sàn đất. Anh vẫn còn thở. Bộ ngực nở nổi gồ lên của anh cứ phập phồng từng cơn, và mỗi lần anh thở hắt ra thì bộ ria hung hung đỏ lại nhúng vào vũng máu. Que diêm lụi tắt, Pôlốptxép mò mẫm sờ trán Khốprốp, nắn nắn chỗ rìu bổ. Ngón tay hắn chạm vào xương vỡ, thấy xào xạo.

Iakốp Lukits thều thào:

- Ông cho tôi về… Cứ thấy máu là tôi tối tăm mặt mũi…

Lão phát sốt phát rét, chân tay bủn rủn. Nhưng Pôlốptxép không đáp, mà ra lệnh:

- Mang rìu lại đây. Trong kia kìa…cạnh giường. Lấy cả ít nước nữa.

Nước lạnh làm Khốprốp hồi tỉnh. Pôlốptxép chặn đầu gối lên ngực anh, hỏi, giọng thì thầm rin rít:

- Mày đã đi báo cáo chưa, thằng phản bội? Ê, thằng kia, đánh diêm lên!

Que diêm lại soi tỏ trong vài giây khuôn mặt và một con mắt mở he hé của Khốprốp. Tay Iakốp Lukits run run, và ngọn lửa nhỏ xíu cũng run run. Ở phòng ngoài, những ánh lửa vàng khè nhảy nhót trên bó lá sậy trên mái rủ xuống. Que diêm tàn, bén cả vào đầu ngón tay Iakốp Lukits, nhưng hắn cũng chẳng thấy rát. Pôlốptxép nhắc lại câu hỏi hai lần nữa, rồi bắt đầu bẻ ngón tay Khốprốp gãy răng rắc. Anh rên lên một tiếng rồi bỗng lật sấp xuống, và từ từ khó nhọc nhổm lên, đứng dậy. Pôlốptxép hì hục cố vật ngửa anh trở lại như cũ, nhưng sức khoẻ như sức gấu đã giúp anh đứng thẳng dậy được. Anh vung tay trái nắm lấy thắt lưng Iakốp Lukits còn tay phải thì tóm lấy cổ Pôlốptxép. Pôlốptxép rụt cổ lại để những ngón tay lạnh ngắt của Khốprốp khỏi xiết lấy họng mình, và kêu lên:

- Đánh diêm lên!... Đồ ăn hại! Bảo đánh diêm lên kìa!

Tối quá, hắn không sờ thấy cái rìu đâu cả.

Thằng Chimôphây ở trong bếp thò đầu ra, chưa biết đầu cua tai nheo ra sao, thì thào rõ mồn một:

- Ông ơi, ông! Ông cứ tương cho nó vào mạng sườn. Cho một rìu vào mạng sườn, đằng lưỡi ấy, nó khắc nói ngay!

Pôlốptxép đã vớ được cái rìu, ráng hết sức giằng ra khỏi bàn tay Khốprốp, rồi lần này thì bằng đằng lưỡi, bổ rìu xuống một nhát, hai nhát, Khốprốp ngã xuống, và trong khi ngã va đầu vào tấm ghế dài. Chiếc xô đặt trên ghế rơi đánh xoảng một cái, như tiếng súng nổ. Pôlốptxép nghiến răng bồi cho người đã nằm sóng soài dưới đất một cú chết hẳn: y lấy chân rờ tìm cái đầu, rồi cứ chỗ ấy mà bổ rìu xuống. Y nghe thấy tiếng máu phun ra ồng ộc. Rồi y đẩy dúi Iakốp Lukits vào buồng ngủ, đóng cửa lại, miệng nói khe khẽ:

- Đồ mày! Nhát như cáy! Giữ chặt lấy đầu con mẹ này, phải tra cho ra: chồng nó đã đi báo hay chưa? Còn thằng kia, đè lên cẳng nó.

Pôlốptxép tì sấp ngực xuống người đàn bà bị trói. Người y sặc mùi mồ hôi chua loét. Y hỏi, dằn từng tiếng:

- Tối hôm nay chồng mày về có lên trụ sở Xôviết hay đi đâu không?

Trong bóng đêm mờ mờ, y nhìn thấy một đôi mắt kinh hoàng dại hẳn đi, ứ nước mắt húp híp, một bộ mặt tím ngoét vì ngạt thở. Y thấy nôn nao, muốn cút ngay ra khỏi nơi đây, ra chỗ nào thoang thoáng… Y căm hờn và ghê tởm lấy ngón tay bóp vào chỗ sau tai người đàn bà. Bị đau dữ dội, chị giãy lên, ngất xỉu đi một lát. Rồi chị tỉnh lại, bỗng lấy lưỡi đẩy mạnh cái giẻ đầm nước bọt nong nóng rơi ra; nhưng chị không kêu, chỉ nghẹn ngào thều thào van lơn:

- Trăm lạy các quan! .. Tha cho làm phúc! Con xin nói hết!

Chị nhận ra Iakốp Lukits. Chẳng vì lão là chỗ thân thích của gia đình nhà chị, và sáu bảy  năm về trước, chị với lão cùng đỡ đầu thằng cháu con bà chị ruột chị. Chị khó nhọc mấp máy đôi môi bị xé rách xễ xuống, nói như người lắp:

- Bác! Ối bác ơi!.. Sao lại thế này hả bác?

Pôlốptxép sợ hãi giơ bàn tay to tướng bịt mồm chị. Trong một phút rạo rực một tia hy vọng được rủ lòng thương, chị hôn vào bàn tay ấy bằng đôi môi nhầy nhụa máu me. Chị muốn sống! Chị sợ!

- Chồng mày có đi đâu không?

Chị lắc đầu. Iakốp Lukits túm lấy tay Pôlốptxép.

- Quan…Quan lớn….Ngài Alếchxanđrơ Anhiximôvits!... Tha cho nó…Ta đe nó thì nó sẽ không nói gì đâu!.. Không dám hé răng đến già!...

Pôlốptxép đẩy lão ra. Lần đầu tiên trong suốt những giây phút ghê gớm này, y đưa mu bàn tay lên quệt mồ hôi trên mặt. Y nghĩ bụng: “Mai là nó sẽ đi tố cáo! Nhưng nó là đàn bà, một người đàn bà kô-dắc, mình là một sĩ quan, đáng xấu hổ…Mẹ kiếp!...Phải bịt mắt nó lại, cho nó khỏi trông thấy…”.

Y kéo ngược tấm áo lót vải thô của chị úp lên đầu chị. Mắt y dừng lại giây lát trên thân thể nõn nà của người đàn bà ba mươi tuổi chưa con cái ấy. Chị nằm nghiêng, chân co chân duỗi, như một con chim trắng to tướng trúng đạn rơi… Trong bóng tối lờ mờ, chợt Pôlốptxép nhìn thấy cái khe vú và cái bụng ngăm ngăm nước da bánh mật của chị bóng nhẫy mồ hôi. “Nó hiểu tại sao mình lại trùm đầu nó. Mẹ kiếp!..”. Pôlốptxép hực một cái rồi bổ lưỡi rìu xuống cái mặt người trùm kín tấm áo lót.

Iakốp Lukits bỗng cảm thấy cái thân thể chị người thân của mình rùng rùng giãy chết trong khoảnh khắc. Mùi máu tươi tanh tanh xộc vào mũi lão… Iakốp Lukits loạng choạng bước tới lò sưởi, ruột đau quặn, muốn lộn mửa.

Ra tới bậc thềm, Pôlốptxép say lảo đảo, gục áp môi vào lan can, ngoạm lấy một ít tuyết xôm xốp mát lạnh rơi bám vào đó. Chúng đi ra cổng. Chimôphây tụt lại sau; hắn đi vòng đường, hướng tới cái tiếng nhạc phong cầm réo rắt từ phía trường học vọng lại. Đám trai trái đang vui chơi ở đó. Chimôphây véo mấy cô, lách vào trong đám hỏi mượn anh bạn nhạc sĩ cây đàn. Một cô đề nghị:

- Anh Chimôphây! Làm một bài Digan! Láy ác vào.

Chimôphây đỡ lấy cây đàn từ tay chủ nó, và để tuột xuống đất. Nó gượng cười, nhấc cây đàn lên rồi lại tuột tay rơi, không sao quàng nổi sợi dây đeo lên vai trái. Nó không làm chủ được mấy ngón tay nó. Nó vẩy vẩy ngón tay, cười, trả lại đàn.

- Lại nốc vào ở đâu rồi!

- Nom kìa, chị em ơi, có đúng cậu cả say không?

- Nôn cả ra áo kìa! Say bí tỉ!

Các cô tránh xa Chimôphây ra. Người có đàn bực mình thổi phù phù những bông tuyết dính trên phím, rồi ngập ngừng kéo một bản nhạc Digan. Uliana Akhơvátkina, cô gái cao lớn nhất đám, mà làng nước đặt cho cái tên là “mụ hộ pháp”, bước ra, nện gót giày lách cách xuống đất, hai cánh tay giang thẳng như chiếc đòn gánh. “Phải ở đây đến sáng, - Chimôphây tự nhủ thầm, như nhủ ai, - để khi điều tra chúng nó khỏi nghi”. Nó đứng dậy, và lần này thì cố tình giả bộ say, bước lảo đảo, tới gục đầu vào cái đùi non nóng hổi của một cô ngồi ở ngưỡng cửa:

- Bắt hộ anh con chấy, em ơi!...

* * *

Còn Iakốp Lukits thì mặt tái xanh như tàu lá cải, vừa về đến nhà đã lăn đùng xuống giường và không ngóc đầu lên được nữa. Lão nghe thấy tiếng Pôlốptxép xát xà phòng vào tay, vốc nước ong óc, xì xục rửa ráy rồi bước về buồng. Đang nửa đêm hắn khua mụ chủ nhà dậy:

- Có món chè lê không, bà chị? Cho xin một cốc.

Y cạn cốc (Iakốp Lukits nằm úp sấp mặt vào gối, nghé một bên mắt lên nhìn) vớ lấy quả lê luộc, nhai tóp tép, đi đi lại lại, vừa đi vừa hút thuốc khói mù, tay xoa xoa bộ ngực núng nính, nhẵn thín như ngực đàn bà.

Nằm trong căn phòng xép, Pôlốptxép duỗi hai chân đặt lên viên gạch còn nóng. Đêm ngủ, y vẫn thích hơ hai bàn chân đau bệnh khớp của y như vậy. Y mắc phải bệnh ấy năm 1916, khi bơi qua sông Búc giữa mùa đông, đem hết cái lòng trung thành phụng sự Đức Hoàng đế, bảo vệ quê cha đất tổ. Từ đó viên quan ba Pôlốptxép mê cái hơi nóng, mê một đôi giày lót nỉ ấm áp…

CHƯƠNG XIII

Một tuần lễ ở Grêmiatsi Lốc, Đavưđốp đã húc phải một loạt các vấn đề như húc vào bức tường… Đêm đêm, ở trụ sở Xôviết hoặc ở trụ sở uỷ ban quản trị nông trang đặt tại ngôi nhà thênh thang của Titốc trở về nhà mình, Đavưđốp lại đi đi lại lại mãi trong gian phòng anh ở, hút thuốc, đọc báo “Sự thật” và báo “Tay búa” do người đưa thư mang đến. Và nghĩ miên man đến những con người ở Grêmiatsi Lốc, đến nông trang, đến những chuyện xảy ra trong ngày. Như một con sói bị cắm cờ (*), anh cố thoát ra cái vòng luẩn quẩn những ý nghĩ về nông trang, bồi hồi nhớ phân xưởng của mình, nhớ bạn bè, nhớ công việc ngày trước. Anh thoáng buồn khi nghĩ rằng giờ đây xưởng anh chắc đã có nhiều thay đổi, mà anh thì lại vắng mặt; rằng giờ đây anh không còn có thể thức trắng đêm ngồi nghiên cứu bản vẽ một động cơ máy kéo, cố tìm cách cải tiến cái hộp số nữa; rằng cỗ máy khó tính và khắt khe của anh đang do một người khác sử sụng, chắc hẳn là do anh chàng Gônđơsmít tự cao tự mãn kia; rằng sau những bài diễn văn nghe rất hay, nồng nhiệt tiễn đưa anh em “Hai vạn rưởi” lên đường, xem chừng giờ đây người ta đã quên anh rồi. Rồi bỗng ý nghĩ của anh lại chuyển sang Grêmiatsi Lốc, cứ như có ai vừa chuyển cầu dao cắt điện trong óc anh, lái dòng suy nghĩ của anh sang hướng khác. Anh về công tác nông thôn không đến nỗi như một dân thành thị ngây thơ, ù ù cạc cạc. Nhưng cuộc đấu tranh giai cấp phát triển phức tạp, rối như mớ bòng bong, với những hình thức thường thường là âm ỉ, bí mật, đã diễn ra trước mắt anh không phải chỉ phức tạp như những ngày đầu mới tới Grêmiatsi Lốc anh đã thấy mà thôi. Thái độ khăng khăng của đa số trung nông không chịu vào nông trang mặc dù cái lợi rành rành của kinh tế tập thể, anh thấy nó khó hiểu quá. Có nhiều người anh không tìm ra chìa khoá để hiểu được họ và mối quan hệ giữa họ với nhau. Titốc hôm qua còn là du kích, hôm nay đã là kulắc, là kẻ thù. Chimôphây Bôrsép, bần nông mà lại công khai bao che cho một tên kulắc. Ôxtơrốpnốp là một nông dân có trình độ, tự giác vào nông trang, nhưng Nagunốp lại tỏ một thái độ mặc cảm và cảnh giác với lão. Những con người Grêmiatsi Lốc lần lượt diễu qua trong óc Đavưđốp… Và ở họ có nhiều điều anh không hiểu, nó như bị phủ lên một tấm màn không nhìn thấy, không sờ thấy. Đối với anh, trang ấp này chẳng khác gì một chiếc động cơ phức tạp cấu trúc kiểu mới. Đavưđốp căng đầu óc ra, chăm chú mầy mò cố tìm hiểu nó, nghiên cứu, táy máy từng chi tiết, nghe ngóng từng chỗ trục trặc trong nhịp đập rộn rã suốt ngày không biết mỏi của cỗ máy tinh thần ấy.

Vụ án mạng bí hiểm giết hai vợ chồng anh bần nông Khốprốp đưa anh đến cái phán đoán là trong bộ máy kia có một lò xo bí mật nào đó đang tác động. Anh lờ mờ cảm thấy có một mối quan hệ nhân quả giữa cái chết của Khốprốp với cuộc vận động tập thể hoá, với cái mới đang húc đổ bức tường xiêu vẹo của chế độ làm ăn riêng lẻ. Buổi sáng hôm phát hiện ra xác hai vợ chồng Khốprốp, anh đã trao đổi hồi lâu với Radơmiốtnốp và Nagunốp. Hai anh chàng này cũng hết đoán già lại đoán non. Khốprốp là bần nông, trước kia có đi bạch vệ, thờ ơ với sinh hoạt làng xóm, không hiểu sao cứ bám riết lấy tên kulắc Lápsinốp. Có người đưa ra giả thuyết đây là một vụ giết người cướp của, nhưng rõ ràng giả thuyết ấy vô lý, vì nhà anh ta không bị lấy đi cái gì, vả lại cũng chẳng có quái gì mà lấy. Radơmiốtnốp nêu ra một ý kiến khác:

- Chắc lại chuyện gái, trêu gan thằng nào đấy thôi. Sờ vợ nó, nó giết chứ gì!

Nagunốp lặng thinh. Anh không thích ăn ốc nói mò. Nhưng khi Đavưđốp đưa ra phán đoán là thế nào cũng có một tên kulắc nhúng tay vào vụ án mạng này, và đề nghị trục xuất ngay bọn chúng ra khỏi làng, thì Nagunốp dứt khoát ủng hộ ý kiến ấy:

- Một tay trong bọn chúng nó khử Khốprốp chứ ai, còn gì phải bàn nữa! Tống cả bọn chó đểu ấy tới vùng băng giá đi thôi!

Radơmiốtnốp nhún vai cười khẩy:

- Nên tống chúng nó đi, dĩ nhiên là như thế. Chúng nó cản trở bà con nhân dân vào nông trang. Nhưng có điều là Khốprốp bị không phải do bàn tay chúng đâu. Anh ta không liên can gì với chúng. Đành rằng anh ta cứ bám lấy thằng Lápsinốp, thường xuyên đến làm cho nó, nhưng đã chắc đâu không phải vì miếng ăn? Bụng đói, thế là phải mò đến Lápsinốp. Chả nên chuyện gì cũng đổ cho bọn kulắc, thế thì cũng quá đáng, các cậu ạ! Không, muốn gì thì gì, đây nhất định là chuyện gái.

Huyện cử một nhân viên điều tra và một y sĩ về. Họ mổ tử thi, thẩm vấn các nhà xung quanh, láng giềng của Khốprốp và Lápsinốp. Nhưng cuộc điều tra cũng không tìm ra manh mối gì về thủ phạm và nguyên  nhân vụ án mạng. Ngày hôm sau, mồng 4 tháng Hai, đại hội nông trang viên nhất trí thông qua nghị quyết trục xuất các gia đình kulắc ra khỏi miền Bắc Cápcadơ. Hội nghị cũng bầu ra ban quản trị nông trang, thành phần gồm có Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp (được Đavưđốp và Radơmiốtnốp nhiệt liệt ủng hộ, mặc cho Nagunốp phản đối), Paven Liubiskin, Đemka Usakốp, Akaska Mênốc (trầy trật mới trúng cử), và người thứ năm là Đavưđốp, được thông qua một cách vui vẻ, không có ý kiến gì. Điều đó một phần cũng do hôm qua mới nhận được giấy của Nông hội huyện báo tin huyện đồng ý với Nông hội giới thiệu đồng chí Đavưđốp, đặc phái viên huyện uỷ, cán bộ đoàn “Hai vạn rưởi”, ra ứng cử chủ tịch nông trang.

* * *

Đavưđốp vẫn ở nhà Nagunốp. Anh ngủ trên chiếc giường hòm kê cách giường hai vợ chồng Nagunốp một tấm màn gió vải hoa treo thâm thấp. Bà chủ nhà, một bà goá không con, ở gian đầu. Đavưđốp biết mình cũnglàm vướng Maka, nhưng những ngày đầu bận tíu tít và căng thẳng chẳng có thời giờ đi tìm chỗ ở khác. Luska, vợ Nagunốp, đối với Đavưđốp vẫn ân cần săn đón, tuy vậy, từ sau cuộc nói chuyện tình cờ với Maka, được anh ta hở cho biết vợ mình ăn nằm với thằng Chimôphây, con lão Mũi toác, thì anh không giấu nổi ác cảm với cô ả, và thấy phiền phiền phải ở tạm đây. Sáng sáng, không bắt chuyện nhưng Đavưđốp vẫn thường đảo mắt để ý nhìn Luska. Cô ả nom vẻ không quá hai nhăm, mặt trái xoan lấm tấm tàn nhang nom từa tựa quả trứng chim khách. Nhưng trong đôi mắt đen láy như hắc ín, trong toàn bộ thân hình thon thả và khô khô của ả có một vẻ đẹp gì quyến rũ và đĩ thoã lạ lùng. Đôi lông mày cong cong mềm mại của ả lúc nào cũng hơi rướn lên, dường như lúc nào ả cũng đang đón đợi một cái gì thú vị; đôi môi đỏ chót không che kín hàm răng đều sin sít hơi hơi mái hiên, lúc nào cũng khẽ nhếch như sẵn sàng cười. Đi đứng, ả rún rẩy đôi vai xuôi, cứ như lúc nào cũng đợi sắp có người ôm chầm lấy mình. Ả ăn mặc cũng chỉ như mọi chị em kô-dắc ở Grêmiatsi, có thể có phần nào chải chuốt hơn đôi chút.

Một hôm, sớm bảnh mắt, Đavưđốp đang xỏ giầy thì nghe thấy tiếng Maka nói sau tấm màn gió:

- Trong túi áo varơi anh có nịt chun đấy. Em dặn Xêmiôn mua phải không? Hôm qua anh ấy lên phố về, nhờ anh đưa cho em.

- Thật không, anh Maka? – Giọng Luska âm ấm ngái ngủ, run run mừng rỡ…

Chị chàng mặc độc tấm áo lót nhảy tót trên giường xuống, chạy tới chỗ áo varơi của chồng treo trên đinh, rút trong túi áo ra không phải là đôi nịt tròn thít lấy bắp chân, mà là loại nịt của các bà các cô thành thị, thắt lên lưng, viền xanh. Đavưđốp nhìn thấy bóng ả trong gương: ả đứng vươn cái cổ ngẳng như cổ trẻ con, ướm thử hàng mới mua được vào cẳng chân khô khô của mình. Đavưđốp nhìn trong gương thấy đôi mắt long lanh của ả cười nheo lại, và đôi má lấm tấm tàn nhang hây hây đỏ. Vừa ngắm nghía chiếc bít tất bó sát đùi, ả vừa quay về phía Đavưđốp. Qua cổ tấm áo lót mình, trông thấy đôi vú ả núng na núng nính, đôi vú ngăm ngăm rắn chắc, thây lẩy chĩa sang hai bên và chúc xuống như vú dê cái. Vừa lúc đó, ả nhìn qua đầu màn gió trông thấy Đavưđốp, và đưa hai tay từ từ khép cổ áo lại, chẳng quay đi, đôi mắt lim dim và miệng mỉm một nụ cười quánh sệt. Đôi mắt trâng tráo ấy như muốn nói: “Anh xem, em xinh không!”.

Đavưđốp buông phịch người xuống mặt hòm làm nó kêu ken két. Anh đỏ mặt, đưa tay hất ngược mớ tóc đen nhánh xoã xuống trán: “Bố khỉ! Mụ ấy lại tưởng mình nhìn trộm mụ ấy đấy…Dấm dớ quá, tự nhiên lại đứng dậy! Khéo mụ ấy lại nghĩ là mình mê mụ ấy…”.

Nghe tiếng Đavưđốp đằng hắng khó chịu, Maka cằn nhằn vợ:

- Có người lạ mà cứ tô hô thế kia!

- Anh ấy có thấy đâu!

- Lại còn không thấy!

Đavưđốp ho húng hắng phía sau tấm màn gió. Cô ả luồn váy qua đầu, nói thản nhiên như không:

- Thì đấy! Cứ nhìn cho sướng mắt. Maka, có ai lạ đâu mà. Nay lạ, mai sẽ là của em, nếu em muốn. - Ả rũ ra cười, nhảy lăn kềnh vào giường: - Anh lành như đất ấy! Ông bụt! Ông bụt đất của em!...

* * *

Ăn sáng xong, vừa bước chân ra khỏi cổng, Đavưđốp đã nói độp:

- Con vợ cậu chẳng ra cái đếch gì.

Nagunốp nhìn Đavưđốp, khẽ đáp:

- Quan trọng gì đến cậu?

- Nhưng đối với cậu thì quan trọng đấy! Hôm nay mình sẽ dọn ngay đi nơi khác, gai mắt lắm! Đường đường một thằng cha như cậu mà cứ để nó xỏ chân lỗ mũi! Chính mồm cậu nói là nó ngủ với thằng con lão Mũi toác.

- Vậy làm thế nào, đánh à?

- Không đánh, nhưng phải uốn nắn nó! Mình cứ nói toạc móng heo: mình là một thằng cộng sản đây, nhưng về chuyện này mình hơi khó tính. Mình sẽ sửa cho một trận rồi đuổi mẹ nó đi! Nó làm cậu mất cả uy tín với quần chúng, thế mà cậu cứ im thin thít. Đêm nó đi đâu? Chúng mình đi họp về chẳng đêm nào thấy mặt nó cả. Mình không can thiệp vào chuyện nhà cửa của cậu…

- Cậu có vợ chưa?

- Chưa. Nhưng bây giờ nhìn cảnh vợ chồng cậu, mình sẽ ở vậy đến già.

- Cậu coi vợ như một thứ của riêng à?

- Ê, cha tiên nhân anh, đồ vô chính phủ nửa mùa! Của riêng! Thế chẳng còn của riêng là gì? Sao cậu đã vội thủ tiêu nó? Gia đình có còn không nào? Cậu ăn phải bùa mê của vợ, dung túng thói đàng điếm của nó, ra cái điều rộng lượng. Mình sẽ đưa vấn đề này ra chi bộ!.. Bà con nông dân phải noi gương anh. Thế mà tấm gương sáng gớm nhỉ!

- Được rồi, tôi sẽ giết nó!

- Thôi đi anh!

- Này, bảo cái đã… Cậu đừng nhảy vào chuyện này làm gì…- Maka dừng lại giữa đường, đề nghị. – Mình khắc gỡ ra, nhưng lúc này thì chẳng còn bụng dạ đâu nghĩ đến chuyện ấy. Mà chuyện đâu phải mới hôm qua, mình chịu đựng lâu rồi.. nán đợi ít nữa, rồi sẽ liệu… Mình yêu nó héo lòng héo ruột.. Nếu không thì xong lâu rồi… Cậu đi đâu bây giờ? Lên trụ sở Xôviết à? – Anh lái sang chuyện khác.

- Không, mình định đến nhà Ôxtơrốpnốp. Mình muốn đến thăm nhà, chuyện trò một tí. Lão ấy là một mugích sáng ý đấy. Mình muốn đưa lão ra làm quản lý. Cậu thấy thế nào? Đang cần một người quản lý cầm đồng côpếch của nông trang biết làm cho nó thành đồng rúp. Xem ra thì Ôxtơrốpnốp là một người như vậy.

Nagunốp bực lắm, xua tay:

- Lại cái luận điệu ấy! Cậu với Anđrây là hay khen Ôxtơrốpnốp lắm đấy! Nông trang cần đến lão ấy để làm gì.. Mình phản đối. Mình sẽ đòi cho bằng được phải khai trừ lão ấy ra khỏi nông trang! Cái thằng khốn kiếp giàu sụ ấy đã phải đóng thuế phụ thu (**) hai năm rồi đấy, trước chiến tranh nó là một tên kulắc, thế mà ta lại đưa nó lên ư?

- Lão ấy là một người làm nông nghiệp có trình độ. Theo như ý cậu thì là tôi bênh vực cho một tên kulắc hay sao?

- Nếu vừa qua chúng mình không xén lông xén cánh lão ấy thì lão ấy đã biến thành một tên kulắc từ lâu rồi!

Họ chia tay nhau mỗi người một ngả, không nhất trí được với nhau, bực nhau không chịu được.

----------------------

(*)          Đi săn chó sói, khi phát hiện ra con sói lẩn quất ở góc rừng nào, người ta chăng dây có buộc những lá cờ nhỏ, vây lấy khu vực ấy. Con sói sợ, không dám nhảy qua, cứ luẩn quẩn trong vòng vây cờ ấy. – ND.

(**)        Sau Cách mạng tháng Mười, những nhà giàu ở nông thôn ngoài thuế cơ bản, phải đóng thuế phụ thu theo phần trăm mức dư. - ND

CHƯƠNG XIV

Tháng Hai…

Cái rét làm cho đất cũng co quắp lại. Mặt trời mọc lên trên nền mầu trắng chói chang của băng tuyết. Những chỗ nào gió xua bay hết tuyết thì ban đêm đất nẻ kêu răng rắc. Gò đống mồ mả ngoài thảo nguyên nứt ra những đường ngoằn ngoèo như những trái dưa bở chín mõm. Đằng sau làng, quanh các đám ruộng cày thu, cánh đồng phủ tuyết chói chang nhức mắt. Hàng dương hai bên bờ sông long lanh vảy bạc. Từ ống khói các nhà dựng lên những cột khói màu da cam, như những thân cây mọc thẳng. Trong các nhà đập lúa, giá rét làm cho rơm rạ bốc lên thoang thoảng mùi hương của tháng Tám trong xanh, cái hơi thở nóng hổi của gió hanh, cái hương vị của trời hè…

Trong các chuồng trại lạnh buốt, bò đực và bò cái cứ tha thẩn suốt đêm. Đến sáng thì các máng không còn sót lấy một ngọn cỏ. Cừu con và dê con lứa đẻ mùa đông thì không để trong chuồng. Đêm đêm các bà mắt nhắm mắt mở bế chúng ra bú mẹ, rồi lại đùm vào vạt váy ôm trở vào trong nhà ấm hơi than. Và sự có mặt của các chú dê cõn, những chú cừu non với bộ lông măng quăn tít làm cho căn nhà thơm ngát hơi băng giá, mùi cỏ khô băm nhỏ và mùi sữa dê dìu dịu. Dưới lớp vỏ cứng bên ngoài, tuyết bên trong xôm xốp, sào sạo như hạt muối. Đêm khuya u tịch quá, khiến cho bầu trời giá lạnh với hằng hà sa số những ngôi sao lung linh nom heo hút dường như sự sống đã rời bỏ thế gian. Một con sói đi qua cánh đồng tuyết xanh lam. Nó bước không để lại lốt chân trên tuyết đã đóng băng, và ở những chỗ móng nó cào vỡ mặt băng cũng chỉ còn lại những vết xước lấp lánh ánh ngọc.

Ban đêm, nếu như có một ả ngựa cái nào nhức đôi vú sữa đen mượt như xa tanh có hí khẽ lên một tiếng, thì tiếng hí của nó vang xa, nghe thấy cách hàng bao nhiêu dặm.

Tháng Hai…

Buổi trước hoàng hôn xanh lam, u tịch.

Giải Ngân hà mênh mông hoang vắng nhạt dần.

Những ô cửa sổ đen ngòm của các nhà bừng lên ánh lửa đỏ rực, ánh lửa các bếp lò đang nhóm.

Trên sông, một chiếc cuốc chim đang gõ chan chát xuống mặt băng. Tháng Hai…

* * *

Trời chưa sáng, Iakốp Lukits đã khua con trai và cánh đàn bà trong nhà dậy. Họ nhóm lò. Xêmiôn, con trai Iakốp Lukits, đem dao ra mài. Tên quan ba Pôlốptxép cuốn cẩn thận đôi xà cạp xung quanh đôi bít tất len, đi giày lót nỉ vào. Hai bố con cùng với Pôlốptxép đi xuống chuồng cừu. Nhà Iakốp Lukits có 17 con cừu và 2 con dê. Xêmiôn biết rõ trong đàn con nào sắp đẻ, con nào đã có con. Nó cứ bắt mò, chẳng cần đèn, loại riêng ra cừu thiến, cừu đực, cừu cái, đẩy vào trong gian chuồng ấm sực. Pôlốptxép kéo cái mũ lông trắng sụp xuống trán, túm lấy chiếc sừng lạnh ngắt có khía của một con cừu thiến, vật nó xuống đất, đè cả người lên con vật nằm sóng soài, kéo ngửa nó ra, lấy dao cắt tiết. Máu đen tuôn ra ồng ộc.

Iakốp Lukits là người làm ăn căn cơ. Lão không muốn thịt cừu của lão được bày trên bàn ăn của công nhân một xí nghiệp, hoặc bàn ăn của một đơn vị Hồng quân nào đó. – Họ là những người Xôviết. Thế mà chính quyền Xôviết thì trong mười năm qua đã ức hiếp Iakốp Lukits, bóp nặn thuế má, không để cho lão mau chóng được làm giàu, mở mày mở mặt. Chính quyền Xôviết và Iakốp Lukits là hai kẻ thù, không đội trời chung được. Như một đứa bé muốn bắt lấy ngọn lửa, Iakốp Lukits suốt một đời cứ khao khát giàu sang. Trước cách mạng, lão đã bắt đầu khá giả, đã tính chuyện cho thằng con vào học trường võ bị Nôvôtsetrkaxkơ, chuyện sắm một chiếc máy sản xuất bơ – lão đã dành dụm đủ tiền rồi, chuyện mướn lấy ba người làm công. Hồi ấy, đôi lúc nghĩ đến cảnh thần tiên mà cuộc sống đang hứa hẹn cho lão, lòng lão lại đê mê vui sướng. Lão cũng tính chuyện mở một tiệm buôn nhỏ xong sẽ mua lại cái máy xay bỏ vạ bỏ vật của lão địa chủ thất cơ lỡ vận Giôrốp, thượng sĩ nhà binh… Trong mơ tưởng của lão hồi ấy, lão thấy mình, Iakốp Lukits, không phải mặc chiếc quần sarôva mạt hạng, mà là diện bộ cánh tuýt-xo với sợi dây vàng đeo lủng lẳng trước bụng, không phải với hai tay chai sạn mà là với hai bàn tay trắng trẻo, mịn màng, đã biến mất những ngón tay cáu đen ghét chẳng khác gì con rắn đã lột da vậy. Thằng con lão biết đâu sẽ chẳng đóng quan năm, sẽ lấy một tiểu thư tài sắc, và một ngày kia, Iakốp Lukits sẽ ra ga đón con không phải là đi bằng xe ngựa nữa, mà là ngồi trên chiếc ô tô riêng như ô tô của lão địa chủ Nôvôpáplốp vậy…Chà, trong cái thời vàng son ấy, khi mà cuộc đời hiện ra rực rỡ và sột soạt trong tay lão như tờ giấy bạc Nữ hoàng Êkatêrina in màu ngũ sắc, lão đã không cần ngủ mà vẫn nằm mơ thấy thiếu gì chuyện! Cách mạng đã thổi tới luồng gió lạnh của những đảo lộn kinh thiên động địa. Đất rung dưới chân Iakốp Lukits. Nhưng lão chẳng hoang mang. Với tất cả cái tỉnh táo và khôn ngoan là bản chất của lão, lão đã trông thấy trước bão táp đổ tới, và đã mau lẹ tẩu tán hết của cải, êm ru, hàng xóm dân chài chẳng ai biết… Lão đã bán chiếc máy hơi nước tậu năm 1916 đi, chôn một hộp đựng ba mươi đồng tiền vàng mười rúp và một túi da đầy đồ bạc. Lão bán bớt gia súc đi, thu hẹp diện tích gieo. Lão chuẩn bị sẵn sàng. Và cách mạng, nội chiến, các mặt trận lướt qua đầu lão như gió lốc thảo nguyên lướt qua đầu ngọn cỏ: bắt ngả, thì ngả, nhưng bẻ gục hoặc đánh tướp ra thì đừng hòng. Trong bão táp, chỉ những cây dương, cây sồi là gãy và bật rễ, còn hoa đồng cỏ dại thì chỉ nằm rạp xuống đất để rồi lại ngóc đầu lên. Ấy thế nhưng Iakốp Lukits lại không “ngóc đầu” lên được! Chính vì vậy mà lão chống lại chính quyền Xôviết, chính vì vậy mà lão sống buồn thỉu buồn thiu như một chú bò đực thiến: còn thiết gì đến sáng tạo, còn đâu niềm say rạo rực của nó. Cũng chính vì vậy mà giờ đây lão coi Pôlốptxép gần gũi hơn vợ, thân thiết hơn thằng con đẻ của mình. Được ăn cả, ngã về không: hoặc là cùng với Pôlốptxép lấy lại cuộc đời xưa rực rỡ và sột soạt như tờ giấy trăm in màu ngũ sắc, hoặc là từ giã cõi đời này! Cũng chính vì vậy mà Iakốp Lukits, uỷ viên ban quản trị nông trang Grêmiatsi, đang vật ra mổ thịt mười bốn đầu cừu. Iakốp Lukits đã nghĩ bụng: thà vứt thịt cừu cho con chó mực kia đang quẩn bên chân ông quan ba, hau háu liếm những đám máu cừu nóng hổi, còn hơn là đưa cừu vào trại nông trang để chúng béo lên, sinh sôi nảy nở, nuôi sống cái chính quyền thù địch kia! Ông quan ba là người học rộng, nói cấm có sai đâu, ông ấy bảo: “Phải giết gia súc! Phải băm nát đất dưới chân bọn bônsêvích. Mặc xác cho bò chết trương chết rũ, không chăm nom. Khi nào chiếm được chính quyền khắc lại có bò! Họ sẽ gửi bò từ bên Mỹ, bên Thuỵ Điển sang cho ta. Ta sẽ bóp chết chúng nó bằng đói rét, bằng sự rệu rã, bằng nổi dậy! Còn con ngựa cái thì đừng tiếc. Iakốp Lukits ạ, tập thể hoá ngựa thì càng hay. Tiện cho ta lắm… Bao giờ nổi dậy chiếm làng, ta chỉ  việc vào chuồng nuôi tập thể, lôi ngựa ra, và thắng yên vào, khỏi phải chạy từng nhà mà tìm”. Thật là những lời vàng ngọc. Đầu cóc ông quan ba thật đắc lực chẳng kém gì hai cánh tay ông ta…”.

Iakốp Lukits đứng trong nhà kho xem Pôlốptxép và Xêmiôn loay hoay lột da mấy con cừu treo lủng lẳng trên chiếc xà ngang. Cây đèn “Con dơi” chiếu ánh sáng gắt lên những bộ lông cừu trắng. Công việc lột da cũng đơn giản. Iakốp Lukits đưa mắt nhìn một con cừu đã cắt tiết treo  ngược, cái cổ cụt đầu chúc xuống đất, đang lột dở tới quãng cái rốm xám ngoét, nhìn chiếc sỏ cừu đen thui nằm lăn lóc bên cái thùng và tự dưng lão rùng mình một cái như bị ai gõ vào đầu gối. Lão tái mặt đi.

Trong đôi mắt vàng ệch của con vật với hai con ngươi mở thao láo còn chưa đục đi, có một vẻ khiếp đảm. Iakốp Lukits sực nhớ đến con vợ Khốprốp, đến tiếng kêu thều thào líu lưỡi, nghe đến rùng rợn của nó: “Bác!... Ôi bác ơi! Sao thế này hả bác?” Iakốp Lukits kinh tởm nhìn súc thịt cừu đỏ bầm, những đường gân, những thớ dọc lột trần. Và cũng như buổi nọ, mùi máu tanh nồng nặc lại làm lão muốn lộn mửa, lảo đảo choáng váng. Lão vội bước ra ngoài.

- Trông thịt mà sợ…Lạy Chúa!... Ngửi mùi cũng đã kinh rồi.

- Thế dẫn xác vào đây làm gì? Ai cần đến đồ nhát như cáy ấy! – Pôlốptxép mỉm cười và cứ để nguyên tay máu me và hôi mùi mỡ cừu như thế, cuốn thuốc lá hút.

Họ hì hục cho đến lúc sắp tới bữa sáng thì xong. Cừu đã mổ họ đem treo vào trong kho thóc. Đám đàn  bà nấu món đuôi cừu. Pôlốptxép nằm tịt trong gian buồng xép (ban ngày y không bao giờ thò ra ngoài). Người nhà mang vào cho y món xúp cừu bắp cải, món khấu đuôi cừu nấu. Chị con dâu vừa mới dọn bát đĩa trong buồng y đi thì bên ngoài có tiếng kẹt cổng.

- Thày ơi! Đavưđốp đến! – Xêmiôn là người đầu tiên trông thấy Đavưđốp bước vào sân, thốt lên.

Iakốp Lukits tái mét  đi như gà cắt tiết. Còn    Đavưđốp thì đã đứng ngoài hiên cầm cái chổi phủi tuyết bám đầy giầy, ho khan vài tiếng, và bước từng bước chắc nịch.

“Nguy to rồi! – Iakốp Lukits nghĩ bụng. – Nom kiểu nó đi kìa, quân chó đẻ! Cứ như chúa tể thiên hạ! Cứ như nó đang đi trong nhà nó vậy! Ôi, nguy to rồi! Chắc nó đến bắt mình về chuyện thằng Khốprốp đậy, nó biết hết rồi, quân khốn kiếp!”.

Tiếng gõ cửa. Một giọng nam cao oang oang:

- Vào được không đây?

- Xin mời. – Iakốp Lukits muốn nói to, nhưng chỉ thốt ra được một tiếng thều thào.

Đavưđốp đợi một tí, rồi mở cửa bước vào. Iakốp Lukits cứ ngồi nguyên, không đứng dậy (lão không tài nào đứng dậy nổi! Lão lại còn phải kiễng đôi chân bủn rủn cứ run bần bật lên nữa, để người ta khỏi nghe thấy tiếng gót giầy gõ lập cập xuống sàn).

- Chào ông chủ.

- Chào đồng chí! – Vợ chồng Iakốp Lukits đồng thanh đáp..

- Ngoài đường rét tợn…

- Dạ, rét lắm.

- Liệu thóc gieo có bị chết giá không nhỉ, bác thấy thế nào? – Đavưđốp thò tay vào túi rút ra một chiếc mùi soa cháo lòng, nắm lọt thỏm trong tay, xì mũi.

Iakốp Lukits mời:

- Mời đồng chí vào quá trong này, đồng chí ngồi chơi.

“Quái lạ, lão ấy sợ cái gì thế chẳng biết?” – Đavưđốp lấy làm ngạc nhiên thấy chủ nhà mặt cứ tái đi, đôi môi run bần bật lắp bắp không ra hơi.

- Thóc gieo liệu có sao không?

- Thưa chẳng sao đâu… tuyết vùi kín rồi… Chỗ nào gió thổi sạch mất tuyết thì cũng có thể.

“Hắn mào đầu bằng chuyện lúa má, và bây giờ thì chắc hắn sắp bảo: “Nào, chuẩn bị đi!” Có đứa nào đã tố giác chuyện ông Pôlốptxép rồi chăng? Khám nhà chắc?” – Iakốp Lukits nghĩ bụng như vậy. Lão dần dần đã hoàn hồn, hồi lại máu mặt. Mồ hôi lão vã ra, lăn từng giọt trên trán, chảy xuống bộ ria mép muối tiêu và cái cằm lởm chởm của lão.

- Mời đồng chí vào phòng trong, xin cứ tự nhiên.

- Tôi đến có chuyện muốn bàn với bác. À mà gọi tên bác thế nào cho tiện nhỉ?

- Tên tôi là Iakốp Lukits (*).

- Iakốp Lukits hả? Này, Iakốp Lukits ạ, hôm nọ họp, bác đã phát biểu rất hay về nông trang. Bác bảo là nông trang cần có máy móc hiện đại thì hẳn là đúng rồi. Nhưng vấn đề tổ chức lao động thì bác đã nhầm, thực tế thế! Chúng tôi định đưa bác ra làm quản lý đấy. Nghe nói bác là người làm ăn có trình độ…

- Thì mời đồng chí vào đây đã nào! Bà nhà ơi, đặt ấm samôva lên! Đồng chí xơi bát xúp nhá? Hay là dùng tạm khoanh dưa muối vậy? Mời quý khách vào quá trong này! Đồng chí đã dẫn dắt chúng tôi vào cuộc đời mới… Iakốp Lukits nghẹn ngào mừng rỡ, tưởng đâu như cất được cả một hòn núi đè nặng trên vai: - Làm ăn có trình độ, đồng chí nói quả là chí lý. Tôi muốn thoát ra khỏi  những lề thói dốt nát tối tăm của ông cha ta ngày xưa…Xem như bây giờ bà con cày cuốc đấy! Đúng là họ khảo đất lấy của! Tôi đã được một giấy khen của phòng nông nghiệp khu . Xêmiôn! Mang tờ giấy khen ra đây, tờ đóng khung ấy. Nhưng thôi ta vào đấy xem cũng được, đồng chí ạ!

Iakốp Lukits dẫn khách vào phòng khách, kín đáo nháy mắt ra hiệu cho Xêmiôn. Thằng con hiểu ý, đi ra hành lang định đóng cửa gian buồng xép của Pôlốptxép lại. Nó nhòm vào phòng và phát hoảng lên: gian phòng trống không. Xêmiôn bổ sang phòng lớn. Pôlốptxép chân đi độc đôi tất len đang đứng nép sau cánh cửa ăn ra phòng khách. Y ra hiệu bảo Xêmiôn đi ra, và áp vào cánh cửa cái tai gân guốc vểnh lên như tai thú dữ. “Tợn thật, lão quỷ!” – Xêmiôn thoáng nghĩ như vậy, bước ra khỏi phòng.

Mùa đông, gian phòng lớn lạnh lẽo của nhà Ôxtơrốpnốp bỏ không, không có hơi người ở. Trong một góc sàn gỗ sơn, chủ nhà đổ đống hạt đay năm này lưu năm khác. Cạnh cửa đặt một thùng ngâm táo. Pôlốptxép ngồi ghé xuống miệng thùng. Y nghe rõ mồn một từng lời đi tiếng lại bên ngoài. Ánh hồng chiều tà lọt qua các khoang cửa sổ mờ sương. Hai chân Pôlốptxép buốt tê, nhưng y cứ ngồi, không nhúc nhích, uất hận sục sôi lắng nghe cái giọng nam cao khàn khàn của kẻ thù cách mình độc cánh cửa. “À, đồ chó đẻ! Mày mít tinh gào lên mãi đã khản đặc tiếng! Ông thì cho  mày… Chà, ước gì được sốt sột ngay bây giờ!” Pôlốptxép ghì vào ngực hai nắm tay máu dồn đỏ tấy, móng cắm ngập vào lòng bàn tay.

Phía sau cửa có tiếng nói:

- Thưa đồng chí lãnh đạo nông trang, tôi xin thưa với đồng chí thế này: ta làm ăn theo lối cũ thì không ăn thua đâu! Lấy chuyện lúa mì chẳng hạn. Vì sao nó lại bị giá và nhiều khi mỗi đêxiachin được hai mươi pút vẫn còn là may, và có nhiều người không thu đủ bù giống nữa kia? Còn lúa của tôi thì mùa nào cũng như mùa nào, lách không được. Có lần tôi đi thăm đồng, cưỡi con ngựa cái, vắt chéo hai bông lúa qua lưng ngựa, tết lại được. Bông ra bông, nắm không lọt tay. Được như thế là do tôi giữ được tuyết, cho đất uống no nước. Người khác chặt quỳ sát tận gốc, tham mà: họ bảo để lấy củi đun. Giống ngu như bò ấy, mùa hè họ chẳng bao giờ chịu lấy phân chuồng làm chất đốt cả, họ lười chảy thây ngay từ khi còn trong bụng mẹ, đeo đẳng cái bệnh lười ấy và không hiểu nổi là nếu chỉ cắt độc ngọn thôi, để lại thân, thì cái thân còn lại sẽ giữ được tuyết, cản gió cuốn tuyết xuống khe. Sang xuân thì đất ấy còn tốt hơn cả chân ruộng cày thu kỹ nhất. Còn nếu như không giữ tuyết, nó sẽ tan uổng đi, người mất ăn và đất cũng chẳng thêm được chút màu mỡ gì.

- Đúng quá!

- Đồng chí Đavưđốp ạ, không phải vô cớ mà vị cha nuôi của chúng ta là chính quyền Xôviết đã tặng bằng khen cho tôi. Công việc tôi hiểu đâu ra đó. Mà ngay cả những nhà nông học cũng có khi sai lầm, nhưng trong khoa học thì họ cũng có nhiều cái đúng. Chẳng hạn như tôi có đặt mua dài hạn một tờ tạp chí nông nghiệp trong đó có một ông học rộng tài cao, thuộc loại các ông dạy học cho sinh viên ấy, đã viết là cây lúa chẳng chết vì băng giá đâu, mà chết vì đất bị trơ ra không có một lớp tuyết phủ sẽ nứt nẻ và làm đứt luôn cả rễ lúa.

- À, ra thế! Vậy mà tôi không biết đấy.

- Mà ông ta viết thế là đúng. Tôi đồng ý với ông ấy. Và chính tôi cũng đã làm thử xem thực hư ra sao. Tôi đào đất lên xem: những sợi rễ con, nhỏ li ti như sợi tóc nhờ nó mà hạt thóc hút chất bổ béo từ trong đất, đã bị đứt tung ra. Hạt thóc không có gì nuôi nữa, thế là chết thôi mà. Nếu ta cắt đứt mạch máu con người thì liệu người có còn sống được không? Hạt thóc cũng vậy thôi.

- Đúng, Iakốp Lukits ạ, bác nói chí lý lắm. Phải giữ lấy tuyết. Bác cho tôi mượn tờ tạp chí nông nghiệp ấy tôi đọc.

“Vô ích, mày ơi! Không kịp đọc đâu! Đời mày chẳng còn được mấy chốc!” – Pôlốptxép mỉm cười nói thầm như vậy.

- Lại còn chuyện làm cách nào giữ được tuyết trên ruộng cày thu nữa chứ! Cần có rào chắn. Và thế là tôi nghĩ ra cách làm rào chắn bằng cành khô… Phải trị cái nạn khe rãnh xói mòn nữa, hàng năm nó cũng làm chúng tôi mất mất hơn một nghìn đexiachin đấy.

- Đúng lắm. Nhưng bác cho ý kiến ta nên làm thế nào để chuồng bò được ấm hơn. Sao cho vừa tốt vừa tiết kiệm.

- Chuồng bò ấy à? Cái ấy thì chúng tôi sẽ làm. Phải bắt các bà ấy lấy đất trát kín phên vách, thế là một. Hoặc không thì có thể lấy phân khô súc vật đổ vào giữa hai lớp vách cũng được…

- À.. à…à.. Còn ngâm giống thì thế nào?

Pôlốptxép định ngồi cho ngay ngắn trên cái thùng gỗ, nhưng đã làm nắp thùng tuột ra rơi đánh xoảng xuống đất. Răng Pôlốptxép va vào nhau lập cập khi y nghe thấy Đavưđốp hỏi:

- Cái gì rơi thế?

- Chắc có ai đánh đổ cái gì đấy. Buồng ấy mùa đông chúng tôi không ở, tốn củi sưởi lắm.. À mà để tôi đưa đồng chí xem một loại gai giống. Tôi gửi đặt mua đấy. Mùa đông tôi cất trong buồng này. Mời đồng chí sang xem.

Pôlốptxép nhảy ra cái cửa thông ra hành lang, cánh cửa này nhờ đã bôi mỡ nên không cót két. Y lách ra ngoài không một tiếng động…

Đavưđốp ở nhà Iakốp Lukits đi ra, tập tạp chí cắp nách, hài lòng về kết quả cuộc thăm hỏi này và càng tin chắc rằng cần trọng dụng Ôxtơrốpnốp. “Chính là với những người như thế mà ta có thể làm cho làng xóm thay đổi hẳn đi trong vòng một năm! Cha ấy thật là một dân mugích sáng dạ, lại chữ nghĩa nữa. Lão ấy thật đúng là biết làm ăn, hiểu nghề nông! Thế mới gọi là lành nghề! Mình chẳng hiểu tại sao cậu Maka lại cứ ngờ vực hắn, rõ ràng là lão ấy sẽ giúp cho nông trang được khối việc!”. Đavưđốp chân bước về trụ sở Xôviết, bụng nghĩ như vậy.

------------------------

(*)          : Tên của người Nga gồm có ba phần: tên riêng, tên bố, họ. Tên “Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp” có thể tạm dịch là: Iakốp, con ông Luka, họ Ôxtơrốpnốp. Khi kính trọng, người ta gọi bằng hai yếu tố đầu. – ND.

CHƯƠNG XV

Bắt chước Iakốp Lukits, đêm nào ở Grêmiatsi Lốc người ta cũng làm thịt gia súc. Vừa sẩm tối đã nghe thấy đâu đó tiếng cừu be lên một tiếng cụt lủn, tắc nghẹn, lợn bị chọc tiết giẫy chết kêu eng éc, hoặc bò cái tơ rống lên. Cả nông trang viên lẫn người còn cá thể đều mổ thịt gia súc. Bò đực, cừu, lợn, và cả bò cái nữa, đều bị đè ra thịt; người ta thịt cả những con giữ lại làm giống.. Trong hai đêm, số gia súc có sừng ở Grêmiatsi Lốc đã vợi đi một nửa. Chó tha ruột, tha lòng đi khắp làng. Các nhà kho, nhà đập lúa đầy ắp những thịt. Trong hai ngày cửa hàng hợp tác mua bán đã bán bay đi gần hai trăm pút muối tồn kho từ năm rưỡi nay.

“Thịt quách đi, có phải của mình nữa đâu!”

“Thịt quách đi, đằng nào thì người ta cũng mang nó lên kho thực phẩm!”

“Thịt quách đi, kẻo rồi vào nông trang sẽ chẳng được miếng dính răng đâu!”

Những lời xì xào nhỏ to như thế cứ lan đi. Và người ta mổ thịt gia súc. Người ta ăn tống ăn táng. Già trẻ lớn bé bị bội thực ráo cả. Đến bữa ăn, bàn nào bàn nấy trĩu xuống những thịt luộc, thịt quay. Đến bữa ăn, ai nấy mồm mép nhờn nhẫy, ợ lên, cứ như đi ăn cỗ giỗ. Và mắt ai cũng đờ ra vì no nê, phè phỡn.

Bác Suka là một trong những người đầu tiên đã vật con bê mới đẻ vụ hè ra thịt. Ông lão và bà lão muốn treo con bê lên xà ngang để lột da cho dễ; hai ông bà hì hục mãi mà không treo nổi (con bê béo quá, nặng như cái cùm!), thậm chí bà lão đã bị trẹo xương hông trong khi nâng đít con bê. Và mụ lang đã phải úp nồi gang lên lưng, giác cho bà cụ suốt một tuần. Sáng hôm sau, bác Suka đã phải tự tay thổi nấu lấy. Và chẳng hiểu vì lo cho bà bị trẹo khớp tay hay vì háu ăn quá mà bữa chiều hôm ấy, lão đã ngốn thịt thăn ghê đến nỗi suốt mấy ngày sau lão không ló mặt ra khỏi ngõ nữa, quần chẳng buồn cài khuy, và bất kể ngày đêm, giá rét đại hàn, chốc chốc lại lủi ra sau nhà kho, trong vườn quỳ. Ai đi ngang qua căn lều xiêu vẹo của lão vào những ngày ấy ắt thấy cái mũ lông của lão nhô lên trong vườn, giữa đám ngọn quỳ. Nó nhô lên, không nhúc nhích. Rồi thì bỗng chính bác Suka hiện ra từ trong đám quỳ, bước thấp bước cao trở về nhà, mắt chẳng nhìn ra ngõ, vừa đi tay vừa túm giữ cái quần chẳng thiết cài khuy lại. Lão bước đi mệt rã, chân lê không nổi, và vừa tới cổng thì bỗng, như sực nhớ đến một việc gì không thể trì hoãn được, lão quay lại, chạy nước kiệu trở ra vườn. Và một lần nữa, cái mũ lông của lão lại nhô lên, trang nghiêm, im phắc, giữa đám ngọn quỳ. Và trời vẫn rét như cắt da cắt thịt. Và gió vẫn thổi hun hút trong vườn, cuốn tuyết chất lên xung quanh người lão thành từng đống dựng đứng, chỏm nhọn…

Được hai hôm như thế thì buổi chiều, Radơmiốtnốp được tin là việc giết gia súc đã mang tính chất phổ biến, vội chạy đến tìm Đavưđốp.

- Ngồi chễm chệ đấy à?

- Mình đọc quyển sách. – Đavưđốp gấp góc trang sách nhỏ bìa vàng lại trầm ngâm mỉm cười: - Sách ra sách! Cậu ạ, đọc cứ bị cuốn đi theo! – Anh cười, nhăn ra hàm răng sứt, và giang rộng hai cánh tay ngắn, chắc nịch.

- Thế ra  người ta ngồi đọc tiểu thuyết! Hoặc quyển sách hát nào chẳng biết. Trong khi đó thì khắp làng…

- Bậy nào! Ai đọc tiểu thuyết! Và làm gì ra sách hát nào! – Đavưđốp cười ha hả, kéo Anđrây ngồi xuống chiếc ghế đẩu trước mặt mình, dúi cuốn sách nhỏ vào tay anh ta: - Đây là báo cáo của Anđrâyép đọc tại hội nghị đảng bộ Rôxtốp. Cái này, cậu ạ, còn bằng mười quyển tiểu thuyết ấy chứ, thực tế thế! Mình mở ra xem, và thế là quên cả ăn, cứ đọc miết. Chà! Chán quá… Bây giờ cơm nước chắc đã lạnh tanh cả rồi.

Khuôn mặt rám nắng của Đavưđốp lộ ra vẻ ngán ngẩm, rầu rĩ. Anh đứng dậy ỉu sìu, xốc cái quần ngắn cũn lên, đút hai tay vào túi quần, đi xuống bếp, Radơmiốtnốp cáu quá, hỏi:

- Người ta nói, ông có nghe không thì bảo?

- Ô hay, sao lại không nghe! Nghe chứ! Mình lên ngay đây.

Đavưđốp mang ở dưới bếp lên một bát sành xúp bắp cải nguội ngắt, rồi ngồi xuống. Anh ngoạm luôn một miếng cái bánh mì to tướng, nhai nhồm nhoàm, làm cho hai thớ thịt phía dưới hai gò má hồng hồng của anh cứ đưa đi đảo lại, và lẳng lặng đưa cặp mắt xám mệt mỏi lim dim nhìn Radơmiốtnốp. Trên mặt xúp, mỡ bò đóng váng lại từng khoanh vàng, và một quả ớt nổi lềnh bềnh tươi như ngọn lửa đỏ.

- Xúp thịt hả? - Anđrây trỏ ngón tay vàng khè khói thuốc vào bát xúp, ranh mãnh hỏi.

Đavưđốp đang nghẹn, gượng cười gật đầu với vẻ hài lòng.

- Thịt đâu ra thế?

- Biết được! Sao?

- Trong làng người ta đã giết thịt một nửa số gia súc rồi chứ sao!

- Ai giết? - Đavưđốp xoay xoay khoanh bánh mì, rồi gạt sang một bên.

Vết sẹo trên trán Radơmiốtnốp ửng đỏ lên:

- Trời đất! Thế mà là chủ tịch nông trang đấy! Xây dựng nông trang khổng lồ đấy! Nông trang viên của ông giết chứ còn ai! Và cả đám cá thể nữa! Họ hoá rồ cả rồi! Họ giết chết tươi ráo cả, cả bò đực nữa!

- Cậu có cái thói là hơi tí.. ngoạc mồm ra, cứ như đi mít tinh… - Đavưđốp lại chúi vào bát xúp, khó chịu nói. - Thì cậu cứ bình tĩnh kể lại mình nghe đầu đuôi ra sao, ai giết, và tại sao giết?

- Nào có biết tại sao?

- Cậu thì lúc nào cũng hét lên, gào lên… Nhắm mắt lại thì tưởng đâu là hồi cách mạng năm mười bảy vậy.

- Địa vị cậu dễ cậu không hét!

Radơmiốtnốp kể lại cho Đavưđốp những điều anh biết rõ về chuyện giết gia súc mới xảy ra đây. Nghe đến gần hết chuyện thì Đavưđốp ăn hầu như nuốt chửng, không nhai. Giọng đùa cợt của anh mất hẳn, những vết nhăn rẻ quạt hằn bên đuôi mắt, và gương mặt anh dường như già sọm đi.

- Cậu đi ngay, triệu tập cuộc họp toàn thể. Bảo Nagunốp .. Thôi, để tôi ghé qua cậu ấy.

- Họp cái gì?

- Còn cái gì nữa! Ta sẽ cấm giết gia súc! Sẽ đuổi ra khỏi nông trang và truy tố. Đây là một vụ cực kỳ nghiêm trọng, thực tế thế! Lại bọn kulắc thọc gậy bánh xe ta đây! À mà này, hút điếu thuốc đã, rồi đi luôn đi… Ờ, mình cũng quên, không khoe với cậu.

Gương mặt Đavưđốp thoáng một ánh ấm áp trong khoé mắt, một nụ cười sung sướng. Anh không giấu nổi niềm vui trong lòng, mặc dầu cố mím môi lại ra vẻ nghiêm nghị:

- Hôm nay mình nhận được qùa Lêningrát… Ừ, của anh em gửi cho… - Anh cúi xuống, lôi dưới gậm giường ra một hòm con, mở nắp, và mặt anh đỏ lên vì vui sướng.

Trong hòm lổng chổng mấy bao thuốc lá, một hộp bánh quy, sách vở, một hộp thuốc lá bằng gỗ chạm và những cái gì gì nữa gói kín.

- Anh em còn nhớ đến mình, gửi cho đấy… Cậu ạ, đây là thuốc lá quê mình đấy, thuốc Lêningrát.. Này, cậu xem, lại cả sôcôla nữa. Mà mình thì cần gì đến sôcôla nhỉ? Nên gửi cho nhà nào có trẻ.. Nhưng ý nghĩa là ở sự  việc, chứ không phải ở chỗ ấy. Phải không? Điều quan trọng là anh em đã nhớ đến, gửi quà, và có cả thư nữa này…

Giọng Đavưđốp nghe dịu dàng lạ thường. Đây là lần đầu tiên Anđrây được thấy anh bạn Đavưđốp sung sướng mê mẩn lên như vậy. Và rồi, không hiểu sao, chính Radơmiốtnốp cũng thấy vui lây. Anh lầu bầu, trong thâm tâm là muốn nói với bạn một câu thân tình:

- Ờ, hay đấy! Cậu là người tốt, thế cho nên anh em mới gửi quà cho. Chỗ này đâu phải một rúp mà mua nổi.

- Vấn đề đâu ở chỗ ấy! Cậu cũng biết đấy, mình đại loại là, nói mà chán kinh, một kẻ tứ cố vô thân: vợ con chả có, chả có ai cả, thực tế thế! Vậy mà bỗng, độp một cái, đây, quà đây! Cảm động thật! Cậu xem, lá thư này có bao nhiêu là chữ ký!

Đavưđốp một tay đưa hộp thuốc lá ra mời, một tay cầm lá thư chi chít những chữ ký. Cả hai tay run run.

Radơmiốtnốp châm điếu thuốc Lêningrát hút, và hỏi:

- À mà thế nào, chỗ ở mới có vừa ý không? Bà chủ nhà được chứ? Quần áo giặt giũ thế nào? Hay là mang đến bà cụ mình giặt cho? Hoặc nhờ bà chủ nhà cũng được… Cái áo sơmi cậu mặc gươm chém không rách, và mồ hôi khét lẹt, như mùi hôi ngựa chết.

Mặt Đavưđốp ửng đỏ lên, rồi đỏ tía.

- Quả có thế thật… Mình ở nhà Nagunốp có phần không tiện.. Còn khâu vá thì mình làm lấy, giặt rũ đại loại cũng vậy! Và nói chung, từ ngày tới đây mình cũng chưa tắm giặt, có thế! Và cái áo săngđay này cũng chưa giặt… Cửa hàng đây không bán xà phòng. Mình có nhờ bà chủ nhà, nhưng bà ấy bảo: “Anh đưa xà phòng đây”. Mình sẽ viết thư cho anh em, bảo họ gửi cho mình ít xà phòng. Còn chỗ ở thì được, không có trẻ, tha hồ đọc sách, và nói chung…

- Thế thì cậu mang quần áo lại, bà cụ mình giặt cho. Cứ tự nhiên. Bà cụ nhà mình dễ lắm.

- Cám ơn, cái ấy mình khắc phục được, cậu khỏi lo. Phải xây một nhà tắm cho nông trang, nếu có lo thì nên lo chuyện ấy. Ta sẽ xây, thực tế thế! Thôi, cậu đi tổ chức họp đi.

Radơmiốtnốp hít vài hơi thuốc lá, rồi đi. Đavưđốp hờ hững xếp lại đống quà, thở dài một cái, sửa lại cái cổ áo săngđay vàng sẫm cáu ghét, vuốt lại mái tóc chải hất ngược, rồi mặc áo.

Dọc đường anh tạt qua nhà Nagunốp. Nagunốp tiếp anh, đôi mày cau lại, mắt nhìn lảng đi. Anh vừa bắt tay Đavưđốp, vừa càu nhàu:

- Họ đang thịt gia súc… Họ tiếc của tư hữu. Đây đúng là cái kiểu hoang mang tiểu tư sản, không chê được! - Rồi quay sang nói tiếp ngay nghiêm giọng bảo vợ: - Cô, cô ra ngoài một lát. Sang chơi bên bà chủ nhà. Tôi không đủ tinh thần nói chuyện trước mặt cô.

Luska bỏ đi xuống bếp, vẻ buồn bã. Mấy hôm nay, từ ngày thằng Chimôphây, con lão Mũi toác, cùng với các gia đình kulắc rời làng ra đi, cô ả cứ ngơ ngẩn như người mất hồn. Đôi mắt sưng húp của ả quầng một quầng xanh buồn rượi, biếc như màu nước hồ. Và cả mũi ả cũng nhọn ra, như mũi người chết. Xem ra cô ả đau lòng lắm vì cuộc ly biệt người yêu. Hôm bọn kulắc lên đường đi các miền băng giá Bắc cực, ả cứ lởn vởn suốt ngày quãng gần nhà Bôrsép đợi Chimôphây, công khai, không biết ngượng. Và về chiều, khi đoàn xe tải  ngựa kéo chở các gia đình kulắc và đồ lề hành lý rời khỏi Grêmiatsi Lốc thì ả kêu thét lên một tiếng thảm thiết, ngã vật xuống tuyết. Thằng Chimôphây nhảy bổ trên xe xuống lao về phía ả, nhưng lão Phrôn Mũi toác quát gọi giật nó lại. Chimôphây cuốc bộ lẽo đẽo theo xe, chốc chốc lại ngoảnh lại nhìn về phía Grêmiatsi Lốc, cắn chặt đôi môi nhợt đi vì lòng căm thù nóng bỏng.

Những lời tình tứ của Chimôphây không còn thủ thỉ bên tai ả như cành lá bạch dương nữa. Rõ ràng là từ nay Luska không bao giờ được nghe những lời ấy nữa. Cô gái yêu kiều làm sao mà tránh khỏi héo hon vì âu sầu chán nản, sao cho khỏi nẫu ruột nẫu gan? Từ nay ai là người say đắm nhìn vào mắt ả mà nói: “Luska ơi, cái váy xanh này hợp với em ghê lắm! Em mặc nom nổi hơn cả một bà vợ sĩ quan ngày xưa”. Hoặc những lời của một bài dân ca: “Em ơi, xa cách từ đây. Em xinh em đẹp anh ngây ngất lòng”. Chỉ có Chimôphây mới làm được cho Luska mê mẩn tâm thần với cái lối mơn trớn và yêu đương sỗ sàng của hắn.

Từ hôm ấy, ả hoàn toàn lạnh nhạt với chồng. Thấy vậy, Maka đã bình tĩnh nói chuyện với ả, giọng như búa tạ và nói dài một cách khác thường:

- Cô còn sống ở nhà tôi vài ngày nữa, cứ sống nốt. Rồi thì thu nhặt áo xống, nịt tất, son phấn cuốn xéo đi đâu tuỳ ý. Yêu cô, tôi đã dơ cái mặt nhiều rồi, và bây giờ không chịu nổi nữa! Cô lăng nhăng với một thằng con kulắc, tôi lơ đi cho cô. Nhưng trước mặt đông đủ bà con nông trang viên giác ngộ mà cô khóc sướt mướt vì nó thì quá quắt lắm, tôi không chịu được. Cô em ạ, sống với cô thì tôi chẳng những không kéo nổi được đến ngày cách mạng thế giới đâu, mà có thể bị rụng lúc nào không biết. Trong đời tôi, cô là cái địu quàng vào cổ. Bây giờ thì tôi muốn quẳng nó đi cho nhẹ xác! Cô hiểu chưa?

- Hiểu rồi. - Luska đáp, rồi nín thinh.

Đúng chiều hôm ấy, Đavưđốp có một buổi nói chuyện riêng với Nagunốp.

- Vợ cậu bôi gio trát trấu vào cậu qúa quắt lắm! Bây giờ cậu ăn nói làm sao với bà con nông trang viên được nữa, hả Nagunốp?

- Lại chuyện cũ rích…

- Cậu thật trơ như gỗ đá! Ương bướng như con bò! - Cổ Đavưđốp đỏ tía lên, mấy đường gân trên trán nổi phồng.

- Biết nói thế nào với cậu được nhỉ? - Nagunốp đi đi lại lại trong phòng, bẻ ngón tay răng rắc, lặng lẽ mỉm cười một nụ cười hóm hỉnh: - Lỡ mồm một tí là cậu bám ngay lấy: “Vô chính phủ! Lệch lạc!”. Cậu biết mình coi giống đàn bà là thế nào không? Và duyên cớ làm sao mà mình lại cắn răng chịu cảnh bị mọc sừng như vậy không? Hình như có lần mình đã nói với cậu là mình không có ảo tưởng gì về đàn bà cả. Cậu có ý kiến gì về cái đuôi con cừu cái không hả?

- Khôôông… - Sửng sốt trước sự đổi giọng bất ngờ của Nagunốp, Đavưđốp đáp một tiếng kéo dài.

- Mình thì mình nghĩ thế này đây: tạo hoá đã gắn thêm cho con cừu cái cái đuôi để làm gì nhỉ? Hình như chẳng để làm gì cả. Con ngựa, hoặc con chó thì đã đành: những con này dùng đuôi để xua ruồi. Còn con cừu cái thì tạo hoá đắp cho nó tám phuntơ mỡ ấy. Nó vẫy đuôi đấy, nhưng không xua nổi con ruồi nào, mùa hè có đuôi lại thêm bức, chỉ tổ cỏ gai bám vào…

- Chuyện đuôi điếc thì dính dáng gì đến đây? - Đavưđốp trong bụng đã bắt đầu phát khùng.

Nhưng Nagunốp cứ tỉnh khô đi, nói tiếp:

- Theo mình, nó được gắn thêm đuôi là để che cái của dơ dáng kia đi. Không tiện lắm, nhưng đành vậy biết làm sao bây giờ? Đối với mình cũng thế thôi, đàn bà, nghĩa là vợ, cũng cần như con cừu cái cần cái đuôi vậy. Mình hướng toàn tâm toàn ý vào cuộc cách mạng thế giới. Đấy là người yêu mà mình mong đợi… Còn đàn bà thì mình chỉ coi là cái rơm cái rác, không hơn không kém. Tóm lại là như vậy. Nhưng không có nó cũng không xong, vì người ta cần che cái của dơ dáng của mình đi… Mình là một thằng đàn ông đang sung sức, có hơi ốm yếu một tí, nhưng cái khoản ấy thì cũng có thể đáp ứng được. Còn nếu con vợ mình có ngứa trôn, đi lăng nhăng một tí thì mặc mẹ nó. Mình đã bảo với nó thế này: “Nếu cô thiếu thốn, cho cô thả cỏ, nhưng liệu đấy, chớ có vác bụng về nhà hoặc chuốc lấy bệnh vào người mà tôi vặn cổ sớm”. Ấy thế mà đồng chí Đavưđốp ạ, đồng chí chẳng hiểu cóc khô gì cả. Đồng chí cứ như cái thước sắt gấp ấy. Và nhìn cách mạng cũng nhìn bằng con mắt không đúng.. Đó, vậy anh hạch tôi cái gì về tội lỗi của con vợ tôi? Nó cũng còn sức đáp ứng tôi, và bây giờ nó dan díu với một thằng kulắc, khóc lóc vì hắn, vì một tên kẻ thù giai cấp, thì với cái tội ấy nó là một đồ sâu bọ, và mình sẽ đuổi cổ nó đi. Còn đánh nó thì mình chịu. Mình đang bước vào cuộc đời mới và không muốn bẩn tay. Còn cậu thì chắc cậu sẽ đánh chứ gì? Nhưng thế thì có khác gì nhau giữa cậu, một người cộng sản, với con người cũ, một anh công chức nào đó chẳng hạn? Bọn ấy vẫn chuyên môn đánh vợ. Thôi, anh bạn ạ, anh hãy thôi, đừng nói với tôi chuyện con Luska nữa. Tôi khắc tự giải quyết lấy, anh dây vào nữa là thừa. Đàn bà là một chuyện chẳng đơn giản tí nào. Khối cái phụ thuộc vào họ. - Nagunốp mơ màng mỉm cười và sôi nổi nói tiếp: - Bao giờ ta phá vỡ được mọi đường biên giới, mình sẽ là người đầu tiên lớn tiếng tuyên bố: “Đi đi, đi mà lấy vợ khác giống nòi!” Mọi giống người sẽ lấy nhau lẫn lộn, và trên thế gian này sẽ không còn chuyện phi lý là người này thì da trắng, người kia da vàng, người kia nữa da đen, và người da trắng thì cứ trách cứ những người kia về màu da của họ và cho họ là thấp kém hơn mình. Mọi người ai rồi cũng sẽ như ai, ngăm ngăm đen dòn. Thỉnh thoảng đêm nằm mình cứ nghĩ như thế đấy…

- Maka ạ, cậu sống cứ như trong mộng vậy! - Đavưđốp nói, vẻ không hài lòng. - Cậu có nhiều cái mình không hiểu. Chuyện thành kiến chủng tộc thì đúng thế đấy, nhưng còn những chuyện kia thì… Trong những vấn đề về sinh hoạt, mình không đồng ý với cậu. Nhưng thôi, mặc xác cậu! Có điều là mình sẽ không ở nhà cậu nữa, thực tế thế!

Đavưđốp lôi ở dưới gậm bàn ra chiếc vali (bên trong nghe loảng xoảng những dụng cụ đồ nghề để lay lứt không dùng đến), và bước ra khỏi nhà. Nagunốp tiễn anh đến chỗ ở mới, tại nhà bác Philimônốp, một nông trang viên không con cái. Suốt dọc đường đi đến nhà bác Philimônốp, hai người nói chuyện công việc gieo hạt, còn chuyện gia đình và sinh hoạt thì không đả động gì đến nữa. Từ đấy trở đi, cái không khí lạnh nhạt trong quan hệ giữa hai người cảm thấy càng rõ hơn…

Và lần này cũng vậy, Nagunốp tiếp Đavưđốp độc cứ nhìn cúi xuống đất hoặc lảng đi, nhưng Luska đi khỏi rồi thì anh nói đã hoạt bát hơn:

- Đồ chó má, chúng nó giết gia súc! Chúng nó sẵn sàng ăn nhồi ăn nhét, miễn sao khỏi phải đưa vào nông trang. Mình đề nghị thế này: ngay hôm nay đưa ra hội nghị biểu quyết đem xử bắn lũ đồ tể khốn nạn ấy đi!

- Saaao?

- Mình bảo là đem bắn. Muốn bắn thì phải xin phép ai nhỉ? Toà án nhân dân không có quyền, phải không? Cứ cho bục đôi ba thằng đã mổ thịt bò cái chửa thì những thằng còn lại chắc chắn sẽ tỉnh ngộ ra ngay! Bây giờ phải hết sức nghiêm khắc.

Đavưđốp quẳng cái mũ cátkét lên mặt hòm, đi đi lại lại trong phòng. Trong giọng anh nói có cái vẻ bực bội và phân vân:

- Cậu lại làm to chuyện… Làm việc với cậu mệt lắm, Maka ạ! Cậu ngẫm mà xem: chẳng lẽ lại có thể đem bắn người ta vì tội thịt một con bò cái? Chẳng có điều luật nào như thế cả, thực tế thế! Có quyết định của Ban chấp hành Trung ương các Xôviết và Hội đồng dân uỷ, trong đó có vấn đề này đã nói rõ: hai năm tù, có thể tịch thu ruộng đất, những kẻ ngoan cố thì cho đi đày, vậy mà cậu thì lại đòi đem bắn. Thật chả biết cậu là cái ông gì…

- Ông gì? Chả ông nào cả! Cậu thì suốt ngày chỉ đo đạc với kế hoạch. Nhưng rồi đây ta lấy cóc gì mà cày gieo? Lấy bò đâu… nếu như những người nào chưa vào nông trang đem thịt hết bò đực?

Maka bước tới sát Đavưđốp, đặt hai lòng bàn tay lên đôi vai rộng của anh ta. Anh cao hơn Đavưđốp gần một đầu. Anh từ trên nhìn xuống Đavưđốp, nói:

- Xêmiôn! Mình ái ngại cho cậu qúa! Sao đầu óc cậu lại u mê thế nhỉ? - Rồi nói gần như quát: - Không giải quyết được khâu gieo hạt thì chúng ta sẽ đi tong! Cậu không hiểu sao? Dứt khoát phải bắn ngay vài ba thằng chó má ấy để cứu gia súc! Phải lôi bọn kulắc ra bắn! Bàn tay chúng nó đấy! Phải đề nghị lên trên!

- Đồ ngu!

- Thế là tôi lại thành đồ ngu rồi…- Nagunốp buồn rầu cúi đầu, nhưng rồi lại lập tức hất lên như con ngựa bị thúc, nói oang oang: - Chúng nó sẽ thịt sạch! Tình thế lúc này chẳng khác gì ngoài mặt trận, hồi nội chiến, kẻ thù đang đột phá tứ phía, thế mà cậu thì… Những loại như cậu sẽ làm cho cách mạng thế giới thất bại mất thôi… Nó không thể đi tới được thắng lợi với những con người đầu óc đụt như các cậu! Quanh ta, ở các nước, bọn tư bản đang hút cạn máu giai cấp công nhân, tiêu diệt hồng quân Trung Quốc, tàn sát đủ các thứ dân đen, thế mà cậu cứ gượng nhẹ với kẻ thù! Thật là xấu hổ! Xấu hổ hết sức! Mình cứ khô héo cả tim gan mỗi lần nghĩ đến những anh em giai cấp ở các nơi đang bị bọn tư sản coi bằng nửa con mắt. Chính vì thế mà mình chẳng thể nào đọc báo được!.. Đọc  báo là mình cứ lộn ruột lên! Còn cậu thì.. Cậu nghĩ thế nào về những anh em giai cấp đang bị kẻ thù bỏ tù rũ xương? Cậu đâu có thương họ!...

Đavưđốp thở hổn hển, đưa tay lên vò rối mái tóc đen nhánh:

- Quỷ tha ma bắt anh đi! Sao lại không thương? Thực tế thế! Thôi xin cậu, đừng gào lên nữa. Cậu loạn óc và muốn làm người khác cũng loạn theo! Trong chiến tranh dễ thường tôi đã vì đôi mắt xanh của Luska mà tiêu diệt bọn phản cách mạng đấy phỏng? Cậu đề xuất cái gì? Ngẫm lại mà xem! Không thể có chuyện bắn giết được! Tốt hơn là cậu hãy đi làm công tác quần chúng, giải thích đường lối chính sách của ta, chứ bắn thì đơn giản quá! Cậu chỉ chuyên môn thế! Hơi trục trặc một tí là cậu rơi luôn vào cực đoan, thực tế thế! Thế vừa qua cậu ở đâu?

- Cậu ở đâu mình ở đấy!

- Vấn đề chính là ở chỗ ấy đấy! Tất cả chúng mình đã làm hỏng đợt vận động này, và bây giờ phải sửa chữa chứ không phải nói chuyện bắn giết! Hò hét điên cuồng thế là đủ rồi! Làm việc thôi! Đồ quỷ sứ, anh đúng kiểu một cô tiểu thư! Còn tồi tệ hơn một cô tiểu thư móng tay nhuộm đỏ nữa kia!

- Móng tay mình nhuộm toàn máu đào!

- Những người ra trận không đeo găng, đều thế cả, thực tế thế!

- Xêmiôn này, sao cậu lại gọi mình là cô tiểu thư?

- Tiện mồm.

- Cậu hãy rút lui danh từ ấy đi. - Nagunốp dịu giọng, nói.

Đavưđốp lặng thinh nhìn Nagunốp, rồi phì cười:

- Ừ thì rút. Thôi, cứ bình tĩnh, và đi họp thôi. Phải làm ráo riết để ngăn chặn cuộc giết hại gia súc này.

- Suốt ngày hôm qua mình chạy nhông các nhà, giải thích.

- Cách làm tốt đấy. Còn phải chạy nữa, và ta sẽ chia nhau chạy.

- Đấy, cậu lại… Hôm qua, mình đến giải thích cho một nhà, rồi khi bước chân đi ra, nghĩ bụng: “Mình nói, có vẻ họ nghe ra đấy!” Mình vừa đi khuất mắt thì nghe thấy: “Éc, eeéc!” một con lợn bột bị chọc tiết đã kêu ằng ặc rồi. Thế mà mình đã nói suốt một tiếng đồng hồ với cái tên tư hữu chó chết ấy về cách mạng thế giới và chủ nghĩa cộng sản đấy! Mà nói ra nói, chứ xoàng đâu! Nói đến nỗi mấy lần chính mình cũng ứa nước mắt. Không, không nên thừa lời giải thích cho chúng nó, cứ nện vào đầu mà bảo: “Đồ sâu bọ ăn tàn phá hại! Đừng có nghe bọn kulắc xui dại! Đừng học chúng cái đầu óc tư hữu! Đừng giết hại gia súc nữa, quân chó đểu!” Chúng nó tưởng chỉ giết một con bò cày, thực ra thì là cầm dao đâm vào lưng cách mạng thế giới!

Đavưđốp vẫn giữ ý kiến:

- Có người phải nện, có người phải giải thích.

Họ bước ra sân. Tuyết ẩm rơi lả tả. Những bông tuyết dẻo quánh phủ lên lớp tuyết cũ đông cứng trên các mái nhà và tan dần. Họ bước đi trong bóng đêm đen như mực tới trường học. Tới dự họp chỉ có một nửa số dân Grêmiatsi. Radơmiốtnốp đọc Quyết định của Ban chấp hành Trung ương các Xôviết và Hội đồng dân uỷ “Về những biện pháp đấu tranh chống nạn giết hại gia súc”. Sau đó, Đavưđốp phát biểu ý kiến. Để kết luận, anh đặt thẳng vấn đề:

- Thưa đồng bào, chúng tôi đã nhận được hai mươi sáu lá đơn xin gia nhập nông trang. Mai, chúng tôi sẽ đưa ra hội nghị xét những lá đơn ấy. Và những ai đã ăn phải bả bọn kulắc mà giết hại gia súc trước khi vào nông trang thì chúng tôi sẽ không nhận, thực tế thế!

Liubiskin hỏi:

- Thế những ai đã vào rồi mà giết thịt súc vật non thì sao?

- Những người ấy chúng tôi sẽ khai trừ.

Hội trường ồ lên một tiếng, xôn xao. Bôrsép nói tướng lên:

- Thế thì giải tán nông trang thôi! Cả làng không có nhà nào không thịt gia súc.

Nagunốp chĩa vào anh ta vung hai nắm đấm:

- Câm cái mồm, đồ tay sai kulắc! Đừng có chõ mõm vào công việc của nông trang! Không cần có anh người ta cũng khắc làm được! Chính anh cũng thịt một con bò đực ba tuổi phải không?

- Tôi là chủ con bò của tôi.

- Được, để mai tôi tống anh vào tù, rồi ngồi đấy mà làm chủ!

Giọng một người nào khàn khàn nói toáng lên:

- Quá lắm! Đặt vấn đề thế thì quá lắm!

Cuộc họp tuy ít người vẫn náo nhiệt. Tan họp, bà con giải tán lặng lẽ và chỉ khi đã bước ra khỏi trường, chia thành từng tốp nhỏ, họ mới vừa đi vừa bàn tán. Nông trang viên Xêmiôn Kugienkốp than thở với Liubiskin:

- Đúng là ma xui quỷ khiến mình mổ thịt mất hai con cừu. Bây giờ nhờ ông móc họng lôi cái thịt ấy ra dùm…

- Mình thì cũng làm xằng làm bậy như ông thôi, ông ạ, thịt béng mất con dê cái… - Liubiskin thở dài đánh sượt một cái. - Bây giờ đi họp mặt cứ đực ra! Ôi, con mụ nhà tôi! Mả mẹ nó, nó xui dại mình: “Thịt quách đi cho rồi!” Mụ ấy thèm thịt mà! Chà, cái con quỷ mặc váy ấy! Mình về bây giờ sẽ cho nó một trận.

Cụ Akim Bexkhlépnốp, bố vợ Liubiskin, vội khuyên:

- Lựa lời mà bảo nó thôi. Anh thế là sai đứt rồi, chẳng gì anh cũng đã là nông trang viên.

- Con có dám cãi đâu! - Liubiskin thở dài trong đêm tối, tay gạt tuyết  bám vào ria, và vấp dúi một cái vào mô đất.

Đemka Usakốp, hàng xóm cụ Bexkhlépnốp, ho húng hắng hỏi:

- Còn cụ, cụ Akim, cụ cũng thịt con bò đực lang rồi phải không?

- Thịt rồi, chú nó ạ. Thì đằng nào chẳng phải thịt? Nó què cái cẳng mà, con lang phải gió ấy! Số nó run rủi tự nhiên dẫn xác đến cái hầm, sa xuống đấy gẫy cẳng.

- Đúng rồi, lúc sớm tinh mơ cháu thấy cụ với bà con dâu cầm gậy xua nó chạy ra phía hầm ấy mà…

- Anh này nói lạ! Anh trông gà hoá cuốc rồi! - Cụ Akim hoảng lên, đứng sững lại giữa đường, mắt nháy lia nháy lịa trong đêm tối như nũ hút.

Đemka đấu dịu:

- Đi thôi, đi thôi, bố già ơi! Làm sao bố đứng sững đấy như bụt mọc vậy? Tay bố dồn con bò xuống hầm  mà…

- Chính nó nhảy xuống đấy chứ! Đừng nói thế phải tội. Tội tày đình chứ chơi đâu!

- Bố ranh lắm, nhưng chẳng ranh hơn con bò đâu. Con bò thè lưỡi ra liếm được đuôi, chứ bố thì cầm chắc là bố chịu, có phải không nào? Bố đã nghĩ bụng thế này chứ gì: “Mình xô cho nó ngã què, thế là hết ý kiến!”

Ngọn gió ẩm thổi lồng lộn trong làng. Dương liễu và bạch dương trong các cánh rừng trũng bên sông quật ào ào. Đêm đen như mực trùm lên thôn xóm. Trên các nẻo đường làng tiếng người còn râm ran hồi lâu, chìm trong khí ẩm. Trời đông rũ xuống những lớp sương muối cuối mùa…

CHƯƠNG XVI

Đavưđốp ở hội nghị ra về cùng với Radơmiốtnốp. Tuyết rơi dày và ướt. Trong bóng đêm, đây đó lập loè những ánh lửa nhỏ. Tiếng chó sủa, bị những cơn gió giật át đi từng quãng, vẳng lên trong xóm, nghe buồn và dai dăng dẳng. Đavưđốp nhớ lại chuyện Iakốp Lukits nói về việc giữ tuyết làm mùa, thở dài: “Năm nay thì chưa nghĩ đến chuyện ấy được! Bão tuyết thế này, giữ được thì ruộng cày được phủ có biết cơ man nào là tuyết! Tiếc đứt ruột, thực tế thế!”

Radơmiốtnốp đưa ra ý kiến:

- Ta ghé qua chuồng ngựa, thăm ngựa nông trang tí.

- Ừ, đi.

Họ rẽ vào con ngõ ngang. Đi một quãng đã thấy hiện ra một ánh lửa: đó là ánh lửa cây đèn treo bên gian nhà chứa cỏ của Lápsinốp nay dùng làm chuồng ngựa. Họ bước vào sân. Dưới hàng hiên bên cửa chuồng ngựa, có bảy tám anh chàng kô-dắc đang đứng. Radơmiốtnốp hỏi:

- Hôm nay ai trực?

Một trong những người đứng đó dụi tắt điếu thuốc rồi đáp:

- Kônđrát Maiđanhikốp.

Đavưđốp hỏi:

- Sao đứng đây đông thế này? Anh em làm gì ở đây vậy?

- Có gì đâu, đồng chí Đavưđốp… Anh em đứng làm điếu thuốc với nhau…

- Tối hôm nay chúng tôi chở cỏ khô về.

- Anh em đứng hút thuốc, tán gẫu, đợi ngớt bão tuyết.

Trong các ngăn chuồng, tiếng ngựa nhai cỏ nghe đều đều. Mùi mồ hôi, phân và nước đái ngựa hoà lẫn với mùi phảng phất nhè nhẹ của cỏ khô thảo nguyên. Trước mỗi ngăn chuồng có treo trên mắc gỗ một chiếc vòng cổ ngựa, một dây đai hoặc dây cương. Lối đi được quét dọn sạch sẽ và rải một lớp mỏng cát vàng bờ sông. Anđrây réo gọi:

- Maiđanhikốp!

Một tiếng hú đáp lại từ phía cuối tàu ngựa:

- Hú!

Maiđanhikốp bê một bó rơm xọc vào đầu chàng nạng. Anh đi tới ngăn chuồng thứ tư kể từ cửa vào, lấy chân ẩy một con ngựa ô đang nằm cho nó đứng dậy, rồi rũ rơm trải xuống. Anh giơ chàng nạng doạ con ngựa giải ngũ, cau có quát:

- Quay lại! Tiên nhân mày!

Con ngựa sợ hãi gõ móng lộp cộp xuống sàn gỗ và xem chừng đã thay đổi ý kiến, không muốn nằm xuống nữa, nó khịt mũi, bước tới máng ăn. Người sặc mùi ngựa, mùi rơm rạ, Kônđrát đi tới chỗ Đavưđốp, chìa cho anh bàn tay cứng ráp lạnh giá:

- Thế nào, đồng chí Maiđanhikốp?

- Báo cáo đồng chí chủ tịch nông trang, cũng tàm tạm.

Đavưđốp mỉm cười:

- Làm gì mà trịnh trọng khiếp thế: “đồng chí chủ tịch nông trang”..

- Tôi đang làm chức trách.

- Anh em tụ tập quanh chuồng ngựa làm gì vậy?

- Đồng chí hỏi họ ấy! - Giọng Kônđrát nghe có vẻ bực dọc. - Cứ đến giờ rải ổ đêm cho ngựa là họ lù lù dẫn xác đến. Cái dân ấy không sao từ bỏ được đầu óc tư hữu. Toàn những ông chủ ngựa cả đấy! Họ đến hỏi căn hỏi vặn: “Này, đổ cỏ cho con ngựa tía của tớ chưa?”, “Này, rải ổ cho con vàng phai chưa?”, “Con ngựa cái nhà mình còn nguyên đấy chứ?” Thế thì thử hỏi con ngựa cái của anh ta chẳng vẫn đó thì đi đâu? Dễ chừng tôi nuốt chửng nó rồi sao? Ai cũng sấn vào, đề nghị: “Để mình rải ổ ngựa cho!” Và anh nào cũng chỉ lăm le ném đẫy thêm rơm cho con ngựa của mình… Khổ thật cơ! Phải ra quyết nghị cấm những ai không có nhiệm vụ không được phất phơ ở đây.

Anđrây nháy  mắt với Đavưđốp, ngán ngẩm lắc đầu:

- Thấy chưa?

Đavưđốp nghiêm giọng ra lênh:

- Đuổi tất cả ra ngoài! Không ai được ở đây, trừ người trực nhật và người phụ việc. Cậu cho ngựa ăn bao nhiêu cỏ? Khẩu phần có cân không?

- Không, tôi không cân. Áng chừng thôi, mỗi con khoảng nửa pút.

- Rải ổ đủ cả chứ?

- Chứ sao! - Kônđrát lắc mạnh chiếc mũ kị binh Buđiônưi, làm cho mấy ngọn rơm mềm mềm rơi xuống cái gáy đen xạm và cái cổ áo dipun đã sờn của anh. - Lão quản lý Ôxtơrốpnốp nhà ta, lão Iakốp Lukits ấy, xẩm chiều hôm nay có đến đây, bảo: “Cỏ ngựa ăn còn thừa, lấy ra mà rải”. Thế mà cũng đòi ra lệnh! Lạ thật, lão ấy tự cho mình là làm ăn sành sỏi nhất, thế mà lại ăn nói hàm hồ như vậy.

- Sao?

- Còn sao nữa, hả đồng chí Đavưđốp! Đó toàn là cỏ ngon: dê cừu mà vớ được thì cứ gọi là chén hết nhẵn, không sót một ngọn, thế mà lão ấy bảo rải ổ cho ngựa nằm! Tôi vừa mở  miệng cãi lại thì lão ấy đã chặn họng: “Anh chưa đủ thớ dạy tôi”.

- Đúng, không ai lại lấy cỏ ăn thừa ra rải ổ! Mai tôi sẽ cạo cho lão ấy một trận! - Đavưđốp hứa.

- Còn việc này nữa: người ta đến chuyển đi chỗ cỏ khô đánh đống để dành bên giếng. Để làm gì vậy thế không biết?

- Iakốp Lukits bảo tôi chỗ cỏ ấy xấu. Lão ấy muốn cho ăn hết cỏ xấu trong mùa đông đi, giữ lại cỏ tốt cho vụ cày.

Kônđrát đồng ý:

- Nếu như vậy thì phải rồi. Còn chuyện cỏ ăn thừa thì đồng chí bảo cho lão biết.

- Tôi sẽ bảo. Này, hút điếu thuốc Lêningrát… - Đavưđốp khẽ ho một tiếng. - Anh em ở nhà máy gửi cho mình đấy… Ngựa khoẻ cả chứ?

- Cảm ơn. Xin đồng chí tí lửa… Ngựa khoẻ cả. Đêm qua một con bị đổ, con ngựa của lão Lápsinốp trước, chúng tôi phát hiện ngay. Còn thì yên ổn cả. À, có một con bị ma ám làm sao mà nhất định không chịu nằm. Nghe nói nó cứ đứng suốt đêm. Mai chúng tôi sẽ đóng lại móng trước cho tất cả. Có sương muối nên đanh móng bị ăn mòn hết. Thôi, chào các đồng chí. Tôi đi rải ổ.

Radơmiốtnốp đưa chân Đavưđốp về. Họ vừa chuyện trò vừa đi tới cuối xóm, nhưng đến quãng rẽ về xóm Đavưđốp ở thì Radơmiốtnốp dừng lại trước cửa nhà anh nông dân cá thể Luka Tsêbakốp, nắm lấy vai Đavưđốp, thì thầm:

- Cẩn thận!

Bên cổng hàng rào, cách họ ba bước có một bóng đen. Radơmiốtnốp thình lình nhảy xổ tới, tay trái túm lấy người nấp bên hàng rào, tay phải nắm chặt báng súng lục:

- Mày à, Luka?

- Tưởng ai, hoá ra là anh Anđrây Xtêpanôvits!

- Tay phải cầm cái gì kia? Đưa đây, mau lên!

- Ô hay, sao thế, đồng chí Radơmiốtnốp?

- Bảo đưa đây! Không tao bắn chết!...

Đavưđốp bước tới, hấp háy đôi mắt cận thị:

- Tước cái gì của hắn thế?

- Đưa đây, Luka! Không tao bắn!

- Thì đây, làm gì mà anh hung thế?

- Này, nó cầm cái này đứng rình bên cổng đây! Cái đồ mày! Đêm tối mày cầm dao đứng đây làm gì? Mày đợi ai? Đavưđốp hẳn? Tao hỏi: mày cầm dao mác đứng đây làm gì? Phản động hả? Định giết người hả?

Chỉ có đôi mắt sắc như người đi săn của Anđrây mới có thể phát hiện được lưỡi dao sáng loáng trong tay người đứng nấp bên cổng hàng rào. Thế là anh xông tới tước vũ khí. Và đã tước được. Nhưng khi anh đang thở hổn hà hổn hển truy hỏi cái anh chàng Luka đang ngây tán tàn thì anh chàng này đổi giọng, mở cổng ra nói:

- Đã đến nước này thì cũng đành phải nói các anh rõ. Lạy Chúa, các anh nghi oan cho em rồi, anh Anđrây Xtêpanôvits ạ! Em mời các anh vào.

- Vào đâu?

- Vào chuồng lợn.

- Vào đấy làm gì?

- Vào xem, rồi các anh khắc rõ em vác dao ra ngõ làm gì…

- Ta vào xem sao. - Đavưđốp đề nghị, bước đi trước vào sân nhà Luka. - Đi lối nào?

- Các anh theo em.

Trong chuồng lợn bừa bộn phân khô, có một ngọn đèn dầu đặt trên chiếc ghế đẩu. Cô vợ Luka, một chị đàn bà xinh xắn, khuôn mặt đầy đặn với đôi lông mày kẻ chỉ, đang ngồi xổm cạnh đó. Thấy người lạ vào, chị ta hoảng hốt đứng dậy, lấy người che hai thùng nước và cái chậu đặt cạnh tường. Sau lưng chị ta, tận trong góc chuồng, một chú lợn đực giống no căng đang đứng trên lớp ổ rơm xem ra mới rải, rúc đầu vào chậu nước vo to tướng, ăn sùng sục.

Luka bối rối trỏ con lợn, ấp a ấp úng kể:

- Đấy, khốn khổ thật… Vợ chồng em định mổ vụng con lợn… Mụ nhà em đang cho nó ăn, còn em vừa định vật nó ra chọc tiết thì thấy ngoài ngõ có tiếng người. Em nghĩ bụng: nào, ta ra ngó một cái xem, đêm hôm thế này, sợ có ai nghe thấy. Thế là cánh tay áo vẫn để xắn nguyên, vẫn nguyên tạp dề, và vẫn nguyên con dao trong tay em ra cổng. Và thế là gặp các anh. Thế mà các anh lại nghĩ về em thế à? Có ai đi cắt cổ người ta mà lại đeo tạp dề, xắn tay áo bao giờ không? - Luka cười gượng, cởi tạp dề ra và quát vợ, giọng bực dọc cố nén lại: - Đứng làm gì đấy, con khỉ? Đuổi lợn ra!

- Đừng thịt nó nữa. - Anđrây nói, hơi ngượng lây. - Vừa mới có cuộc họp, cấm giết gia súc đấy.

- Vâng, em cũng xin thôi thôi. Các anh đã làm em cụt cả hứng rồi…

Đavưđốp đi ra, và dọc đường về tới tận nhà cứ nói kháy Anđrây:

- Cậu đúng là đã ngăn chặn được một vụ mưu sát chủ tịch nông trang! Đã tước được vũ khí một tên phản cách mạng! Một chiến công, thực tế thế! Hà - hà - hà!

Radơmiốtnốp trả miếng:

- Chẳng gì thì mình cũng đã cứu được tính mạng một con lợn.

CHƯƠNG XVII

Hôm sau, chi bộ Đảng Grêmiatsi Lốc họp riêng đã nhất trí thông qua nghị quyết tập thể hoá toàn bộ gia súc, cả lớn lẫn nhỏ, của nông trang viên. Ngoài gia súc ra, gia cầm cũng được đưa vào tập thể.

Lúc đầu, Đavưđốp kịch liệt phản đối việc tập thể hoá gia súc nhỏ và gia cầm, nhưng Nagunốp quả quyết rằng nếu hội nghị nông trang viên không ra quyết nghị tập thể hoá toàn bộ ngành chăn nuôi thì vụ gieo xuân sẽ đi tong,  vì gia súc sẽ bị thịt sạch, và cả gia cầm nữa. Radơmiốtnốp ủng hộ ý kiến của anh, và Đavưđốp do dự một lúc rồi cũng đồng ý.

Ngoài ra đã quyết định và ghi vào biên bản hội nghị mở một chiến dịch tuyên truyền ráo riết chống việc giết hại gia súc, và để làm việc đó tất cả các đảng viên phải chia nhau đi các hộ ngay ngày hôm ấy để giải thích. Còn về những biện pháp trừng trị những ai can tội giết gia súc thì hội nghị quyết định chưa đem ra áp dụng với ai cả, mà còn đợi kết quả đợt tuyên truyền vận động này.

Nagunốp đút tờ biên bản vào cặp, hể hả nói:

- Có thế này thì mới giữ được gia súc, gia cầm. Bằng không thì sang xuân trong làng sẽ không còn nghe thấy một tiếng bò rống lẫn một tiếng gà gáy.

Hội nghị nông trang viên đã thông qua một cách thoải mái nghị quyết tập thể hoá toàn bộ gia súc, vì thực ra bò ngựa cày kéo và bò sữa đã tập thể hoá trước rồi, và nghị quyết này chỉ liên quan đến gia súc non, cừu và lợn thôi. Nhưng về chuyện gia cầm thì cuộc tranh luận kéo dài gay go. Các bà các chị phản đối hăng nhất, nhưng cuối cùng cũng xuôi. Và xuôi chủ yếu là nhờ Nagunốp. Anh đã phát biểu bằng một giọng thấm thía, hai bàn tay áp chặt lên tấm huân chương trên ngực:

- Các bà, các chị em ạ! Gà với ngỗng thì bám lấy làm gì? Cái nhà chẳng tiếc, tiếc gì cái cột? Cho nốt chúng vào nông trang đi. Sang xuân ta sẽ gửi mua một cái máy ấp, cái  máy ấy chẳng cần cục ta cục tác gì cả mà sẽ cho ta hàng trăm chú gà con. Có loại máy như thế đấy, gọi là máy ấp trứng, nó ấp giỏi đáo để. Tôi xin bà con, bà con đừng khăng khăng như thế ! Thì rồi nó cũng là gà của bà con cả thôi mà, chỉ có khác là để ở chuồng nuôi tập thể thôi. Các mẹ, các thím ạ, không nên duy trì chế độ tư hữu gà qué! Mà bà con nuôi gà thì có lợi quái gì! Đằng nào thì mùa này nó cũng không đẻ. Còn sang xuân thì bà con vất vả với nó. Lúc thì nó, mụ gà mái ấy, nhảy vào vườn rau bới lung tung, lúc thì nó, cái con chết tiệt ấy lại đẻ lang quãng nào trong kho, mất toi trứng, lúc thì nó bị cáo vặn cổ… Thật là trăm thứ tội nợ! Và mỗi lần bà con lại phải chui rúc vào chuồng gà, sờ soạng xem ổ nào có trứng, ổ nào không. Chui rúc vào đấy, bọ gà bám đầy người. Vất vả với chúng chứ được gì. Còn như vào nông trang thì gà sẽ sống ra sao? Tuyệt! Chúng sẽ được chăm sóc chu đáo: ta sẽ giao cho một cụ nào goá vợ trông nom, như cụ Akim Bexkkhlépnốp đây chẳng hạn, và suốt ngày cụ chỉ có việc sờ nắn chúng, lần xem những chỗ gà đậu. Công việc vừa vui vừa nhẹ nhàng, đúng công việc tuổi già. Làm việc ấy thì chẳng bao giờ lo lao lực mà mang bệnh cả. Các mẹ, các chị đi tới đồng ý đi.

Các bà các chị cười chán, thở dài chán, tranh luận chán, rồi cuối cùng “đi tới đồng ý”.

Ngay sau cuộc họp, Nagunốp và Đavưđốp đi một vòng các hộ. Ngay ở xóm đầu tiên đã thấy rõ là chẳng nhà nào là nhà không giết gia súc… Khoảng gần bữa chiều thì hai người rẽ vào nhà bác Suka. Nagunốp chân bước vào sân, miệng khẳng định:

- Cán bộ cốt cán đấy! Chính ông lão thường nói phải bảo vệ gia súc. Lão này thì chả mổ thịt đâu.

Ông “cán bộ cốt cán” đang nằm trên giường, cẳng co con tôm. Áo sơmi bác vén ngược lên đến tận chòm râu dê, và trên cái bụng xám ngoét lép kẹp bờm xờm một ít lông hoa râm, một chiếc nồi đất dung tích khoảng sáu lít được đặt úp ngược, cái miệng sắc cạnh cắn vào da bụng. Hai bên sườn lại thây lẩy hai ống giác bám chặt như hai con đỉa. Bác Suka chẳng buồn để ý tới khách mới vào. Hai tay bác bắt chéo trước ngực như tay người chết, cứ run lật bật. Đôi mắt bác, trợn ngược và dại hẳn đi vì đau đớn, cứ từ từ đưa đi đảo lại. Nagunốp có cảm tưởng nhà sặc mùi người chết. Bà lão Suka béo quay đứng bên lò sưởi, còn mụ lang Mamưitskha thì te tái bên giường người ốm, nhanh thoăn thoắt và đen như một con chuột chũi. Mụ nổi tiếng khắp vùng về nghề giác nồi chữa bệnh, nắn xương, thay máu và phá thai với kim đan bằng sắt và lúc này cũng lại chính mụ đang “phục vụ” ông lão Suka bất hạnh.

Đavưđốp bước vào nhà, và trố mắt lên:

- Chào bác Suka! Bác úp cái gì lên bụng thế kia?

- Lão đa..u..u! Đa...u..u bụng!.. - Bác Suka thều thào, ngắt từng tiếng. Rồi bỗng bác kêu lên nheo nhéo, rền rĩ như một con chó con: - B..b..ỏ..o cái nồi ra! Bỏ ra, con mụ phù thuỷ! Ối giời ơi, vỡ bụng mất! Ối, các anh ơi, cứu lão với!

- Cố một tí! Cố một tí! Nhẹ ngay bây giờ đây. - Mụ Mamưitskha vừa thì thào dỗ dành vừa cố hết sức gỡ miệng cái nồi đang mút chặt vào bụng bác.

Nhưng bỗng bác Suka gầm lên như một con sư tử, đạp cho mụ lang một cái và hai tay ôm chặt lấy cái nồi giác. Thấy vậy, Đavưđốp bước tới vội đỡ cho bác: anh gạt mụ Mamưitskha ra, vớ lấy thanh củi gõ mạnh một nhát  vào đít nồi. Chiếc nồi vỡ tung, bắn văng ra từng mảnh. Bác Suka sôi bụng lên ùng ục, nhẹ hẳn người, thở gấp và dứt nốt hai ống giác ra một cách dễ dàng. Đavưđốp nhìn bụng bác với cái rốn thâm tím lồi lên to tướng dưới mảnh nồi vỡ, và buông người xuống tấm ghế dài, phá ra một trận cười rũ rượi. Anh cười chảy nước mắt nước mũi, rơi cả mũ, và mớ tóc đen xoà cả xuống mắt anh.

Bác Suka quả là loại người trời đánh không chết! Mụ Mamưitskha mới vừa kịp mở miệng than vãn tiếc cái nồi vỡ, bác đã kéo áo sơmi xuống, ngồi nhỏm dậy.

- Khổ cái thân tôi! - Mụ Mamưitskha mếu máo mồm loa mép giải. - Đập vỡ mất cái nồi của người ta rồi, đồ chết tiệt! Người ta chữa bệnh cho, nhưng lại không muốn yên lành.

Bác Suka trỏ ra cửa:

- Mụ xéo đi! Xéo ngay đi cho khuất mắt ông! Suýt nữa thì ông toi mạng với mụ rồi! Lẽ ra ông phải ghè cái nồi vào đầu mụ mới phải! Xéo đi, không ông giết! Ông điên lên thì không biết thế nào đâu!

Cánh cửa vừa sập lại sau lưng mụ Mamưitskha thì Nagunốp hỏi:

- Sao mà nên nông nỗi này thế bác?

- Ôi, các cháu ơi, không nói bỡn đâu, suýt chết! Hai ngày hai đêm không còn mò được đi đâu, tay lúc nào cũng ôm khư khư cái quần.. Té re cứ như tháo cống, không giữ được nữa! Chốc chốc lại són ra, như cái đít ngỗng con…

- Lại ních thịt vào phải không?

- Phải, thịt...

- Thịt mất con bò cái tơ rồi à?

- Ừ, đi đời con bò cái tơ rồi.. Nó hỏng rồi, chả còn được tích sự gì…

Maka đằng hắng một tiếng, hằn học nhìn bác Suka một cái từ đầu đến chân, rít răng lại nói:

- Khọm già! Úp lên bụng lão cái nồi thì chưa thấm gì, úp cái thống ba thùng nước mới phải. Để nó hút lòi hết ruột non ruột già lão ra! Được, sẽ tống cổ lão ra khỏi nông trang, rồi thì thao hồ mà tháo tỏng! Sao lại thịt nó đi?

- Mụ mẫm đầu óc rồi chứ sao hả anh Maka?.. Bà lão nhà tôi xui, cái giống chim cu gáy đêm ấy, nó toàn gáy điềm gở… Các anh thương lão làm phúc… Đồng chí Đavưđốp ơi! Anh với lão là chỗ bạn bè, xin anh đừng đuổi lão ra khỏi nông trang. Lão thế này cũng đủ khốn khổ khốn nạn rồi…

- Thế là hết nói với lão! - Nagunốp khoát tay một cái. - Ta đi thôi, anh Đavưđốp. Này, lão tháo cống kia! Lấy dầu lau súng pha tí muối vào mà uống, cầm đấy.

Bác Suka phát uất lên, run run đôi môi:

- Anh giễu lão đấy hả?

- Tôi nói thật đấy. Hồi ở quân đội Sa hoàng, chúng tôi đau bụng toàn chữa thế khỏi.

- Thế dễ ruột gan lão là sắt thép chắc, mà bảo lão lấy thứ tẩy gỉ cho súng để tẩy ruột? Không chơi! Thà chết dúi trong vườn quỳ chứ lão chẳng uống món dầu lau súng ấy đâu!

Bác Suka còn nặng nợ đời, chưa chết nổi. Hôm sau, bác đã tập tễnh đi khắp làng, và gặp ai cũng kể chuyện Đavưđốp cùng Nagunốp đến thăm lão, hỏi ý kiến lão về việc tu sửa nông cụ chuẩn bị cho vụ gieo và về một số công việc khác của nông trang. Kết thúc câu chuyện, lão ngừng lại hồi lâu, cuốn điếu thuốc hút, rồi thở dài:

- Lão mới chỉ mệt xoàng, ấy thế mà các anh ấy đã đến. Không có mình là không xong mà! Các anh ấy cứ giục uống thuốc. Các anh ấy bảo: “Thuốc thang đi cho khỏi, cố ơi, chứ nói gở mồm gở miệng, cố mà chết thì chúng tôi gay go to, biết trông cậy vào ai?” Và lạy Chúa, gay go thật ấy chứ. Động có chuyện gì là các anh ấy lại mời lên chi bộ xin ý kiến: được, để xem, và rồi lão góp với các anh ấy tí ý kiến. Lão ít nói, nhưng đã nói là cấm sai bao giờ. Lời lão nói đâu phải lời tào lao mà bỏ qua được!

Và lão ngước đôi mắt đục lờ, mãn nguyện nhìn người nghe, thăm dò xem câu chuyện mình kể đã gây tác động thế nào

CHƯƠNG XVIII

Ấp Grêmiatsi Lốc ắng đi một hồi, lại nhộn nhạo lên… Bà con đã ngừng giết gia súc. Suốt hai ngày, họ xua đi và dắt đi những con dê, con cừu đủ các loại lông, mang đến chuồng nuôi tập thể. Còn gà thì mang trong bao bì. Làng xóm rộn lên tiếng dê cừu kêu và tiếng gà ngỗng quang quác.

Nông trang đã có một trăm sáu mươi hộ, chia làm ba đội sản xuất. Ban quản trị uỷ nhiệm cho Iakốp Lukits đem đống áo varơi, ủng và đồ mặc khác tịch thu của bọn kulắc, chia cho bà con bần cố thiếu quần áo giày dép. Họ lập một bản danh sách, và phát hiện ra rằng không đủ khả năng thoả mãn mọi người.

Sân nhà Titốc, nơi Iakốp Lukits phân chia quần cáo tịch thu của bọn kulắc, suốt ngày ồn ào tiếng người cho đến tận tối mịt. Ngay tại chỗ, bên gian nhà kho, giữa sân tuyết, họ tụt giày ra ướm thử những đôi giày còn tốt nguyên của bọn kulắc, khoác vào người những tấm áo măngtô, véttông, áo cánh, áo varơi. Những người may mắn được hội đồng phân phối cho quần áo giày dép tính trừ vào công điểm vụ sắp tới, cởi phăng ngay quần áo cũ tại chỗ. Đằng hắng mãn nguyện, mắt sáng lên, khuôn mặt đen sạm rạng rỡ một nụ cười dè dặt trên đôi môi run run, họ hấp tấp vo tròn những quần áo cũ vá chằng vá đụp, và diện luôn những đồ mới không còn hở da hở thịt nữa. Và chọn được một thứ gì thì phải mất bao nhiêu là lời bàn đi tính lại, góp ý, chửi rủa, do dự thốt ra miệng… Đavưđốp ra lệnh phân phối cho Liubiskin một chiếc véttông, một quần sarôva và một đôi ủng. Iakốp Lukits mặt khó đăm đăm lôi ở trong hòm ra một mớ quần áo, vứt phịch xuống chân Liubiskin.

- Chọn kỹ đi!

Bộ râu mép ataman của anh mấp máy, hai bàn tay run run … Thế là anh chọn. Anh chọn một chiếc véttông, và mồ hôi anh vã ra như tắm! Anh ghé răng cắn thử độ bền của dạ, soi lên trời xem có bị nhậy nhấm không, vần đi vần lại cái áo trong hai bàn tay cáu đen của mình đến mươi phút. Và quanh anh hơi thở nóng ngột, tiếng người nói nhao nhao:

- Thôi lấy đi, đời con còn mặc tiếp được đấy.

- Mắt với mũi! Áo lộn rồi, không thấy à?

- Điêu!

- Có mày gà mờ ấy!

- Lấy đi thôi, Paven!

- Đừng lấy, thử cái khác xem!

Mặt Liubiskin đỏ lên như gạch nung; anh nhấm nhấm hàng ria đen, lấm lét nhìn quanh rồi đưa tay với lấy một áo khác. Anh chọn nhặt một cái. Áo này thì tuyệt rồi! Anh xỏ hai cánh tay dài ngoẵng vào: cánh tay áo chỉ ngắn đến khuỷu và đường chỉ ở vai bục ra. Và một lần nữa, mỉm cười bồi hồi và lúng túng, anh lại lục bới đống quần áo. Mắt anh nhớn nhác như mắt một thằng cu con trước cảnh la liệt đồ chơi của hội chợ; đôi môi anh nở một nụ cười con nít rạng rỡ quá đến nỗi người ta muốn âu yếm xoa đầu anh chàng ataman Liubiskin to lớn như ông hộ pháp ấy một cái. Cứ thế rồi nửa ngày anh chưa chọn xong. Anh xỏ chiếc quần sarôva, đi đôi giày vào, thở dài một cái, nói với lão Iakốp Lukits mặt quằm quặm:

- Mai tôi sẽ đến chọn nốt.

Anh bước ra ngõ với tấm quần sarôva kẻ sọc và đôi ủng cổ bẻ, nom trẻ ngay đi đến mươi tuổi. Anh cố tình rẽ ra đường cái mặc dù chẳng tiện đường về nhà anh, đến các ngã tư thì dừng lại luôn, lúc châm điếu thuốc, lúc trò chuyện vài câu với ai đó. Anh mải khoe, đi ba tiếng đồng hồ mới mò về tới nhà, và xẩm tối thì khắp làng người ta đã kháo nhau: “Họ làm đỏm cho Liubiskin cứ như để đi quân dịch vậy! Hắn chọn quần áo hết cả một ngày hôm nay… Trên đường về, diện toàn đồ mới, quần sarôva đẹp tuyệt. Hắn đi nom oai như cóc tía, khéo chẳng cảm thấy chân chạm đất đâu..”.

Còn cô vợ Đemka Usakốp thì cứ đứng ngây ra trước hòm quần áo. Chị ta mặc vào người chiếc váy len gấp nếp trước kia là của mụ Titốc, xỏ chân vào một đôi giày cao gót, choàng lên đầu một tấm khăn san hoa. Và chỉ đến lúc ấy mới đập vào mắt mọi người, chỉ đến lúc ấy người ta mới vỡ nhẽ ra là cái nhà chị Đemka kia hoàn toàn chẳng xấu gái tí nào, trái lại nom hay đáo để. Và bảo làm sao một người đàn bà khốn khổ như chị không đứng chết lặng đi trước đống của cải ấy khi mà, suốt cuộc đời cay đắng của mình, chị chưa hề được biết một miếng ngon, chưa được khoác lên vai một tấm áo mới? Bảo làm sao đôi môi chị, nhợt nhạt do quanh năm ngày tháng thiếu ăn, không tái mét đi khi Iakốp Lukits lôi trong hòm ra cả một ôm quần áo phụ nữ? Chị đẻ sòn sòn năm một, đụp con bằng những vuông tã rách và những mảnh da cừu nát. Còn bản thân chị thì suốt mùa hè mặc độc có một chiếc váy vải thưa như rây bột, sắc đẹp thuở xưa, sức khoẻ và vẻ tươi tắn tiêu ma đi trong cảnh cơ cực túng bấn triền miên; còn mùa đông, khi giặt chiếc áo cánh độc nhất lúc nhúc những rận, chị cởi trần ngồi với đàn con bên lò sưởi, vì chẳng còn áo nào thay…

- Các bà ơi!.. Các bà ơi!.. Khoan tí đã, có lẽ tôi chả lấy cái váy này đâu… Tôi đổi cái khác… Có cái gì cho lũ trẻ không nhỉ… Cho thằng Misa… con Đunhia… - Chị thều thào cuống quýt, tay bám khư khư lấy nắp hòm, hai mắt long lanh không rời khỏi đống quần áo sặc sỡ màu sắc.

Đavưđốp tình cờ được mục kích cảnh ấy, cảm thấy lòng mình thắt lại… Anh len tới chỗ cái hòm, và hỏi:

- Thím được mấy cháu?

Chị Đemka, trong lòng tràn trề một niềm hy vọng rạt rào làm chị không dám ngửng đầu lên nhìn, thì thào đáp:

- Bảy cháu…

Đavưđốp hỏi nhỏ Iakốp Lukits:

- Có quần áo trẻ con không bác?

- Có.

- Thím ấy cần những gì cho các cháu, bác cấp cho thím ấy đủ.

- Thế thì thím ấy bở quá!...

- Cái gì?.. Sao?.. - Đavưđốp khó chịu nhe chiếc răng sứt ra, và Iakốp Lukits vội cúi xuống hòm quần áo.

Đemka Usakốp bình thường mau mồm mau miệng và ác khẩu, lúc này đứng sau lưng vợ cứ nín thở, lẳng lặng liếm đôi môi khô nẻ. Nhưng Đavưđốp vừa dứt lời thì anh ta đưa mắt liếc nhìn anh một cái… Và bỗng đôi mắt lác xệch của Đemka ứa ra hai hàng nước mắt, như nước mật ứa ra từ một trái quả chín mõm. Anh vùng bỏ chạy ra cổng, tay trái gạt người xung quanh, tay phải che mắt. Vọt qua hàng rào, Đemka bỏ ra đi, xấu hổ, không muốn để ai thấy mình khóc. Và từ dưới hai lòng bàn tay đen xạm của anh, những giọt nước mắt cứ thế tuôn ra, ròng ròng trên má, trong và long lanh như những hạt sương.

Xẩm chiều bác Suka mới hối hả tới chỗ chia quả thực. Bác xồng xộc vào trụ sở ban quản trị nông trang, thở không ra hơi, nói với Đavưđốp:

- Chào đồng chí Đavưđốp! Nom đồng chí khoẻ đấy nhỉ?

- Chào bác.

- Đồng chí biên cho xin cái giấy.

- Giấy gì?

- Giấy lĩnh quần áo chia.

Nagunốp đang ngồi cạnh Đavưđốp, dướn đôi lông mày lên, hỏi:

- Bác được cái tích sự gì mà đòi chia quần áo? Tích sự làm thịt con bê hẳn?

- Ăn cơm mới nói chuyện cũ làm gì, hả anh Maka? Anh bảo lão tích sự gì à? Thế ai đã bị khốn khổ khốn  nạn khi đến tịch thu nhà thằng Titốc? Lão đây với đồng chí Đavưđốp chứ ai? Anh ấy bị nó đánh cho suýt bể đầu, nhưng thế vẫn còn là xoàng, lão đã bị con chó của nó cho đi tong mất cái áo lông cừu cơ. Cả một cái áo chỉ còn làm được độc đôi xà cạp! Lão đã hy sinh cho chính quyền Xôviết, thế mà lại bảo không được gì à? Chẳng thà thằng Titốc đập lão bể sọ mà cái áo của lão không bị làm sao còn hơn. Chẳng là vì cái áo ấy của bà lão mà lị. Bà ấy có thể làm cho lão sống dở chết dở vì chuyện cái áo ấy! Đúng thế đấy!

- Ai bảo bác chạy? Đừng chạy thì áo có làm sao?

- Không chạy mà được à? Anh Maka ơi, thế anh có biết con quỷ cái vợ thằng Titốc ấy nó giở trò gì ra không? Nó xuỳ chó xông vào lão và mồm nó tru tréo: “Xéckê, túm lấy nó! Xé xác nó ra, chính nó là thằng đầu sỏ!” Đồng chí Đavưđốp đây có thể làm chứng cho lão.

- Bác già mà điêu thế!

- Đồng chí Đavưđốp, đồng chí làm chứng cho lão!

- Tôi cũng chẳng nhớ…

- Thề có Chúa, đúng là nó tru tréo thế thật! Thành thử lão hết hồn hết vía, rốt cuộc phải đánh bài tẩu. Ấy nếu như nó là một con chó như mọi con chó thường thì đã chẳng sao, đằng này nó lại dữ hơn hổ nữa kia!

- Ai xuỳ chó đuổi bác? Bác chỉ bịa!

- Anh Maka ơi, đấy là anh không nhớ ra thôi! Chính anh lúc ấy cũng hoảng, mặt tái xanh tái xám, thế thì còn nhớ làm sao được! Lúc ấy lão cũng tầm bậy, thoáng nghĩ: “Cậu Maka khéo sắp chuồn bây giờ!” Còn chuyện con chó lôi lão xềnh xệch trong sân thì lão nhớ rõ từng ly từng tí! Không có con chó ấy thì thề có Chúa, thằng Titốc đừng hòng sống sót thoát nổi tay lão đây! Lão thì ghê lắm!

Nagunốp nhăn mặt lại như người đau răng, bảo Đavưđốp:

- Cho lão ấy cái giấy, để lão ấy xéo đi cho rảnh.

Nhưng bác Suka lúc này hơn lúc nào hết, đang hứng chuyện:

- Anh Maka ạ, lão ấy à, hồi trẻ lão chọi khiếp lắm nhá…

- Ôi giào ôi, thôi đừng ba hoa nữa, chán tai lắm rồi! Có lẽ phải biên cho bác lĩnh cái nồi gang đấy nhỉ? Không thì đau bụng lấy gì mà giác?

Bác Suka tức điếng người, lẳng lặng cầm lấy tờ giấy, bỏ đi ra chẳng thèm chào ai. Nhưng sau khi được Iakốp Lukits trao tay cho một chiếc áo varơi mềm rộng thùng thình, bác lại chuyển sang một tâm trạng hết sức phấn khởi. Bác mừng híp mắt lại, mê cu tơi. Bác lấy hai ngón tay kẹp lấy tà áo như nhón hạt muối, vén ngược lên như các bà vén váy qua quãng lội; bác tặc lưỡi, khoe với bà con kô-dắc:

Áo varơi đây nhá! Lão được nó cũng đáng công đáng của. Cả làng biết đấy: khi chúng tôi đến tịch thu nhà thằng Titốc, nó đã cầm cái chốt sắt nhảy bổ vào đồng chí Đavưđốp. Lão nghĩ bụng,: “Chết cha anh Đavưđốp rồi!” Thế là lão liền xông ra cứu, ra tay yêng hùng đánh bật được nó ra! Không có lão thì Đavưđốp toi mạng rồi còn gì!

Một người trong đám bà con đứng nghe đế vào:

- Sao người ta bảo bác bị con chó đuổi chạy ngã quay lơ và bị nó cắn toạc tai như cắn tai con lợn?

- Láo toét! Thiên hạ rỗi hơi: không dưng họ cứ đặt điều! Con chó thì là quái gì! Một giống vừa bẩn vừa ngu. Nó có hiểu cái chết tiệt gì… - Bác Suka lái khéo sang chuyện khác.

CHƯƠNG XIX

Đêm…

Xa, rất xa về phía bắc Grêmiatsi Lốc, sau những dãy núi đồi thảo nguyên âm u, sau những khe lũng, sau những cánh rừng trùng điệp, là thủ đô của Liên bang Xôviết. Trùm lên thủ đô là một bể ánh điện. Ánh sáng xanh lung lịnh của nó, như ráng lửa một đám cháy âm thầm, lơ lửng bên trên những toà nhà nhiều tầng, át cả cái ánh sáng vô dụng của trăng sao lúc đêm khuya.

Ở cách Grêmiatsi Lốc một nghìn rưởi cây số, thành phố Mátxcơva được tạc bằng đá, ngay cả giữa đêm hôm vẫn rộn ràng sức sống: còi xe lửa hú lên những hồi dài lanh lảnh, còi ô tô vang lên như những nốt nhạc của cây đàn phong cầm khổng lồ, xe điện đi lại rầm rập, bánh xe nghiến ken két. Và phía sau lăng Lênin, sau bức tường điện Kremli, cao cao trong làn gió lạnh, trên nền trời rực sáng phần phật tung bay một lá cờ đỏ. Trong ánh điện trắng sáng quắc chiếu hắt từ dưới lên, lá cờ cháy rực, phùn phụt như một dòng máu đào. Gió trên cao cuồn cuộn thổi thốc lá cờ lên, và lá cờ đang rủ xuống nặng nề chốc lát rồi lại tung cánh, lúc hướng sang phương tây, lúc hướng sang phương đông, đỏ rực như ngọn lửa khởi nghĩa, kêu gọi vùng lên đấu tranh…

Cách đây hai năm, Kônđrát Maiđanhikốp, lúc ấy đang ở Mátxcơva dự Đại hội các Xôviết toàn Nga, đã đến Hồng trường vào một buổi đêm khuya. Anh nhìn lăng Lênin, nhìn lá cờ đỏ chói lọi tung bay trên bầu trời, và vội cất cái mũ kỵ binh Buđiônưi trên đầu xuống. Rồi đầu trần, áo dipun vải thô mở phanh, anh đã đứng hồi lâu, không nhúc nhích…

Ở Grêmiatsi Lốc đây thì ban đêm im lặng như tờ. Những gò đống hoang vắng quanh làng lấp lánh một lớp tuyết non, trắng như lông thiên nga. Bóng đêm xanh ngát trùm lên các khe lũng, nếp đồi, bụi rậm. Chòm sao Bắc đẩu gần như chạm sát chân trời. Cây thuỳ dương mọc bên trụ sở Xôviết vươn lên như một cây nến đen trên nền trời đen thăm thẳm. Dòng nước suối thì thầm bí hiểm, róc rách chảy ra sông. Nhìn dòng sông chảy, ta trông thấy sao lặn. Trong không khí tịch mịch bề ngoài của đêm trường, nếu lắng tai nghe bạn sẽ thấy con thỏ rừng đang gặm cành non bằng hàm răng vàng khè nhựa cây của nó. Trên thân cây anh đào mờ mờ ánh lên dưới ánh trăng một cục nhựa đông màu hổ phách. Bạn hãy bóc nó xuống mà xem: cục nhựa trông giống như một quả mận chín nục chưa ai đụng tới, được phủ một lớp phấn mịn. Thỉnh thoảng một cục băng trên cành rơi xuống, rồi tiếng động pha lê ấy chìm đi trong cái tịch mịch của đêm trường. Những nhành non của cành anh đào với những nụ xám vân vân - mà bọn trẻ gọi là “nước mắt chim cu” - im lìm như chết…

Bốn bề tịch mịch…

Mãi đến sớm tinh mơ, khi từ phương bắc, luồn qua dưới mây đen, ngọn gió Mátxcơva bay về, phe phẩy đôi cánh lạnh buốt trên mặt tuyết, thì ở Grêmiatsi Lốc mới cất lên những tiếng nói ban mai của cuộc sống: cành dương trụi lá rì rào trong các lùm cây, đàn chim đa đa về trú rét quanh làng, và đêm đêm đi kiếm ăn trong các nhà chứa thóc, ríu rít gọi nhau. Chúng bay đi nghỉ ngày trong các bụi cây, trên sườn cát thoải của các khe rãnh, để lại trên mặt tuyết quanh các nhà kho những cọng rơm, những dấu vết chân xoè nan quạt. Bê rống lên gọi mẹ; gà sống mới tập trung thi nhau gáy loạn; toả ra khắp làng mùi khói phân ngựa hăng hắc cay cay.

Nhưng khi xóm làng còn chìm trong đêm tối, trong cả Grêmiatsi Lốc có lẽ Kônđrát Maiđanhikốp là người duy nhất không ngủ. Miệng anh đắng hơi thuốc lá, đầu nặng như chì và bụng nôn nao…

Nửa đêm. Và thoáng hiện ra trước mắt Kônđrát vầng ánh điện huy hoàng phủ lên thành phố Mátxcơva. Anh trông thấy lá cờ đỏ rực đang tung bay, đầy đe doạ và giận dữ, bên trên nóc điện Kremli, bên trên cái thế giới bao la vô tận ở đó còn đổ biết bao nhiêu là nước mắt, nước mắt của những người cũng lam lũ như anh, sống ngoài biên giới Liên bang Xôviết. Anh nhớ lại những lời mẹ anh hồi còn sống đã nói với anh một hôm, khi anh còn bé, để dỗ anh nín:

- Nín đi, bé Kônđrát của bu đừng làm Chúa giận. Những người nghèo khổ trên khắp thế gian ngày nào cũng than khóc, kêu ca với Chúa cảnh mình túng đói, cảnh người giàu vơ vét hết của cải. Mà Chúa thì dạy người nghèo phải biết chịu đựng. Thế nên Chúa giận vì những người nghèo đói cứ khóc mãi, Chúa thu hết nước mắt của họ, biến thành mây mù rải xuống biển cả, làm cho trời đất mù mịt, không trông thấy gì nữa. Và thế là tàu bè bị lênh đênh trên mặt biển, lạc đường, va vào đá ngầm mà đắm. Hoặc là Chúa biến nước mắt thành sương. Rồi một đêm, sương muối sẽ đổ xuống đồng ruộng khắp thế gian, ở làng ta cũng như ở các nơi xa khác. Những giọt nước mắt đắng cay ấy sẽ làm cho lúa mới trổ đòng chết khô chết héo, nạn đói nạn dịch sẽ lan tràn khắp thế gian… Thành thử người nghèo không nên than thân trách phận, để khỏi chuốc vạ vào thân… Hiểu chưa hả con? - Và bà nghiêm nghị kết luận: - Cầu nguyện đi, Kônđrát ạ! Cầu nguyện thì dễ thấu đến tai Chúa hơn.

Chú bé Kônđrát hỏi lại bà mẹ ngoan đạo:

- Thế ta là người nghèo, hả bu? Thày cũng nghèo à?

- Phải.

Chú bé Kônđrát đã quỳ phục xuống trước tấm ảnh thánh của tín đồ cựu giáo, chắp tay cầu nguyện và lau mắt đến ráo hoảnh, để Chúa đang nổi giận khỏi trông thấy dù chỉ một giọt nước mắt của Kônđrát.

Kônđrát nằm, lần lại chuỗi kỷ niệm xa xưa như lần một mạng lưới. Anh xuất thân là dân kô-dắc sông Động, và bây giờ đã là một nông trang viên tập thể. Anh đã suy nghĩ nhiều trong nhiều đêm dài, những đêm dài như những con đường mòn thảo nguyên. Bố anh hồi sinh thời đi lính quân dịch, đã từng cùng với đồng đội vung roi quất, vung gươm chém giết những người thợ dệt thành phố Ivanôvô Vôdơnexenxcơ, bảo vệ quyền lợi của bọn chủ nhà máy. Ông cụ chết đi, Kônđrát lớn lên và đến năm 1920, anh đã vung gươm chém bọn Bạch quân Ba Lan và bọn quân Vranghen, bảo vệ Chính quyền Xôviết của anh, bảo vệ chính quyền của chính những người thợ dệt Ivanôvô Vôdơnexenxcơ, chống lại bọn chủ nhà máy và lính đánh thuê của chúng.

Từ lâu rồi Kônđrát không còn tin ở Chúa nữa, mà tin ở Đảng cộng sản đang dẫn dắt lao động toàn thế giới giành lấy giải phóng, giành lấy một tương lai tươi đẹp. Anh đã dắt đến chuồng nuôi tập thể toàn bộ gà vịt, không sót một cái lông. Anh tán thành rằng chỉ những ai có làm thì  mới được ăn, mới được xéo chân lên cỏ. Anh gắn bó chặt chẽ với chính quyền Xôviết, không gì tách rời nổi. Ấy thế mà bao đêm nay anh trằn trọc không ngủ… Anh không ngủ được vì trong anh vẫn còn cái lòng luyến tiếc khốn kiếp đối với của cải tư hữu của anh mà chính anh đã tự nguyện từ bỏ… Lòng luyến tiếc ấy bó tim anh, làm anh tê tái buồn bực…

Số là trước kia anh bận rộn suốt ngày: bảnh mắt ra cho bò đực, bò cái, cừu và ngựa ăn uống; đến trưa lại lôi trong kho ra những bao lưới rơm rạ và cỏ khô, chú ý không để vương vãi một cọng, để đến tối lại thu dọn cất vào kho. Rồi lại ban đêm nữa, mấy lần ra thăm chuồng thú, thu nhặt cỏ vãi, bỏ vào máng ăn. Nhọc thì có nhọc nhưng lòng người chủ vẫn vui. Nhưng bây giờ chuồng súc vật nhà Kônđrát vắng tanh vắng ngắt. Chả còn con gì để thăm nom. Máng ăn bỏ không, cánh cửa bằng cành ghép mở toang, và suốt đêm cũng chẳng nghe thấy cả đến tiếng gà gáy, chẳng còn biết giờ giấc và đêm hôm sớm muộn ra sao.

Chỉ những hôm nào trực nhật ở chuồng ngựa nông trang, Kônđrát mới nguôi đi nỗi buồn. Còn thường ngày, anh kiếm đủ cớ bỏ nhà đấy chuồn đi đâu cho mau, để khỏi nhìn thấy gian chuồng trống tuềnh trống toàng, khỏi nhìn thấy đôi mắt âu sầu của vợ.

Lúc này đây chị đang nằm bên anh, hơi thở đều đều. Con bé Khrixtina nằm trên trốc lò sưởi đang trở mình, chem chép đôi môi, nói líu ríu trong mơ: “Khẽ chứ, thày ơi!... Khẽ khẽ chứ…”. Chắc hẳn nó đang mơ những giấc mơ con trẻ, trong sáng, những giấc mơ của riêng loại tuổi nó; nó thì sống thoải mái quá, hít thở thoải mái. Chỉ một bao diêm không cũng làm nó vui thích. Nó lấy bao diêm làm thành cỗ xe trượt tuyết cho con búp bê vải. Với chiếc xe trượt tuyết ấy nó chơi được đến tối, và hôm sau một trò chơi khác sẽ lại làm nó tủm tỉm cười.

Còn Kônđrát thì nằm nghĩ liên miên. Anh giẫy giụa trong những ý nghĩ ấy như con cá mắc lưới… “Bao giờ mày mới chịu buông tha tao, hả cái lòng tiếc rẻ khốn kiếp kia? Bao giờ mày mới chịu chết khô, chết héo, hả cái giống sâu bọ độc hại kia?... Mà không biết nó ở đâu chui ra thế nhỉ? Mình đi qua tàu ngựa, thấy ngựa người ta, mình thản nhiên như không, nhưng cứ động đến chỗ con ngựa nhà mình, trông thấy cái lưng vằn đen đến khấu đuôi của nó, thấy cái tai trái có vết của nó là y như lòng mình se lại, tưởng đâu như lúc ấy mình quý nó hơn vợ. Và mình cứ tìm đủ mọi cách ném cho nó thứ cỏ nào thơm ngon nhất, mịn nhất. Và anh nào cũng thế cả: ai cũng xoắn xuýt con ngựa của mình, còn ngựa người khác thì phớt lờ, ấy là bây giờ không còn chuyện của anh của tôi nữa, tất cả là của chúng ta rồi vậy mà vẫn thế đấy… Nhiều người bây giờ thờ ơ, chẳng buồn quan tâm săn sóc gì súc vật… Hôm qua là phiên Kugienkốp trực nhật. Cậu ta không tự mình dẫn ngựa đi uống nước mà sai thằng bé đưa đi. Thằng nhãi nhảy phốc lên lưng một con, xua cả đàn ra sông. Con nào uống rồi, con nào chưa uống, mặc xác, nó lại vớ lấy gậy, xua về chuồng. Và đừng có dại mà nói, nói thì họ sẽ khịa lại: “Vâng, ngựa ông thì phải ưu tiên rồi!” Tất cả là do mình kiếm được đâu phải dễ. Nhà nào mà lắm của thì có lẽ cũng chẳng tiếc lắm đâu… Mai thế nào cũng phải nói cho Đavưđốp biết chuyện Kugienkốp cho ngựa đi uống nước. Với kiểu chăm sóc ngựa như thế, sang xuân nó kéo cái bừa cũng chẳng nổi. Sáng mai phải đi xem xem họ chăn đàn gà ra sao: các mẹ ấy kháo nhau đã mất toi bảy con rồi, vì chuồng chật. Chà, gay thật! Nhưng lúc này tập trung gà qué lại làm quái gì nhỉ? Chí ít thì cũng phải để lại cho mỗi nhà một con gà sống để làm đồng hồ chứ… Cửa hàng hợp tác chẳng có hàng họ gì bán cả, và con Khrixtina cứ chân đất hoài. Đến muốn làm toáng lên: phải có giày cho nó đi chứ! Hỏi xin Đavưđốp thì ngượng chết.. Thôi đành thế  vậy, mùa đông này cứ để nó ngồi tịt trên trốc lò sưởi, còn sang hè thì giày lại không cần nữa”. Kônđrát nghĩ đến những gian khổ đất nước phải chịu đựng trong khi thực hiện kế hoạch năm năm và xiết chặt nắm đấm lại dưới mền chăn thô, anh thầm mắng nhiếc thậm tệ những anh công nhân phương Tây nào không chịu theo cộng sản: “Các anh đã bán đứng chúng tôi lấy đồng lương cao bọn chủ thí cho! Các anh đã đem đổi chúng tôi, các ông anh ơi, lấy cuộc sống phè phỡn!... Chẳng hiểu tại sao mà đến bây giờ các anh vẫn chưa có chính quyền Xôviết? Làm sao mà các anh muộn màng thế nhỉ? Nếu cuộc sống các anh trước đây chẳng ra chó gì thì chắc là bây giờ các anh đã làm cách mạng xong rồi đấy, nhưng xem ra các anh chưa bị lửa đốt đít (*): các anh cứ gãi đầu gãi tai hoài, lay chẳng chuyển, lại thiếu đoàn kết; dao động ngả nghiêng… Nhưng rồi lửa sẽ đốt đít các anh đó! (**)… Hay vì biên giới ngăn cách nên các anh không thấy chúng tôi đang khôi phục kinh tế gian khổ như thế nào? Chúng tôi đang chịu thiếu thốn như thế nào, giày dép chẳng có mà đi, quần áo chẳng có mà mặc, nhưng chúng tôi cắn răng lại, làm việc. Các ông anh ơi, các ông chơi lối chờ ăn cỗ sẵn thì xấu hổ cho các ông anh lắm đấy! Giả sử như có một cái cột cao, cao đến nỗi tất cả các anh đều trông thấy thì thế nào tôi cũng leo lên ngọn cột mà xỉ vả cho các anh một trận thậm tệ!...”.

Kônđrát ngủ thiếp đi. Điếu thuốc lá anh ngậm trên môi rơi xuống, làm chiếc áo sơmi độc nhất của anh cháy thủng một lỗ to tướng. Bị bỏng, anh giật mình thức giấc, nhổm dậy; mồm lầm bầm chửi rủa, anh sờ soạng trong bóng tối tìm cái kim để díu lỗ thủng trên áo, kẻo đến sáng chị Ana trông thấy sẽ lại làm rầy rà anh hai tiếng đồng hồ vì cái lỗ thủng ấy… Tìm mãi chẳng thấy kim đâu, anh lại nằm xuống ngủ tiếp.

Rạng sáng anh thức giấc, bước ra sân đi tiểu tiện, và bỗng nghe thấy một thứ tiếng ồn thật là kỳ dị: đàn gà sống đưa vào tập thể, nhốt chung một chuồng đang đồng thanh gân cổ lên gáy thành một bản đồng ca trăm giọng, hào hùng. Kônđrát kinh ngạc trố đôi mắt húp híp lắng nghe trong một hai phút tiếng gà gáy liên chi hồ điệp ấy, và khi tiếng “ò ó o” tụt lại cuối cùng tắt đi một cách vội vã, anh mỉm một nụ cười còn ngái ngủ: “Chà, khiếp quá, lũ quỷ sứ! Đúng là một đội kèn đồng. Anh nào sống cạnh chuồng chúng nó thì ngủ không yên với chúng nó chứ chẳng chơi đâu. Trước kia thì đầu xóm một tiếng, rồi cuối xóm một tiếng, chẳng ra cái trật tự gì… Chà, đời nghĩ cũng hay!”.

Rồi anh vào nằm ngủ rốn.

--------------------------

(*)          Nguyên văn: “Xem ra con gà quay chưa mổ vào đít các anh”, lấy từ một thành ngữ Nga là: “con gà quay rồi mà nó còn mổ vào đít”, ý nói “khổ quá”. Câu của tác giả có nghĩa: Các anh chưa biết mùi khổ”. – ND.

(**)        Nguyên văn: “Nhưng rồi nó sẽ mổ các anh đó, và mổ đau!”. – ND.

* * *

Ngủ dậy, ăn sáng xong, anh đi đến sân gà tập thể. Ông lão Akim Bexkhlépnốp tiếp anh bằng một câu gắt gỏng:

- Làm gì mà bảnh mắt đã đi lượn thế hả?

- Đến thăm bác và thăm gà đây. Ổn không bác?

- Trước thì ổn đấy, nhưng bây giờ thì sống dở chết dở.

- Sao vậy?

- Đến chết tử chết tiệt với cái chuồng gà này mất!

- Thế là thế nào?

- Anh cứ ngồi đây một ngày, khắc biết: lũ gà sống quỷ sứ nhà trời này suốt ngày chọi nhau, đuổi theo chúng mà rời cả cẳng. Rồi lại lũ gà mái kia nữa, tưởng chúng là giống đàn bà con gái, ấy thế mà cũng túm lấy bờm nhau, lôi nhau xềnh xệch khắp sân! Xin vái cái công tác khỉ gió này thôi! Lão sẽ đến anh Đavưđốp ngay hôm nay, đề nghị cho lão rút lui, đi nuôi ong.

- Bác ơi, rồi chúng nó sẽ quen mà.

- Chờ đến lúc chúng quen thì lão Akim này cũng toi rồi. Mà đây đâu phải việc đàn ông đàn ang? Chẳng gì lão cũng là một anh kô-dắc, lão đã từng tham gia cuộc chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ. Thế mà bây giờ được cử làm tổng tư lệnh gà, rõ sướng chưa! Mới nhận nhiệm vụ có hai ngày, lão đã không còn đi đâu được với lũ trẻ ranh nữa. Cứ động ra đường về nhà là lũ ôn vật ấy chắn ngang đường, réo lên: “Lão mò gà! Lão Akim mò gà!” Trước đây lão  vẫn được mọi người kính trọng để bây giờ về già lại mang theo xuống lỗ cái tên là lão mò gà hay sao? Không ạ, lão không dại!

- Thôi đi, bác Akim ơi! Chấp trẻ mỏ làm gì?

- Đâu phải chỉ có bọn trẻ ranh nói láo, mà cả các mẹ chúng nó cũng về hùa với chúng nó nữa chứ. Hôm qua lão đi về nhà nghỉ trưa. Con mụ Naxchia, con gái của Đônhétxkốp đang đứng múc nước giếng, thấy lão, hỏi: “Thế nào, gà qué có trị được không, cụ?” Lão nói: “Có đấy, nhưng ít ít thôi”. Ấy thế là con mụ trời đánh thánh vật ấy làm ngay  một câu: “Này, cụ ơi, cụ phải cố làm sao cho đến vụ cày có được một rổ trứng, nếu không người ta sẽ bắt cụ phải đạp mái đấy!” Già nua như lão thế này mà còn phải nghe  những câu nói đùa kiểu ấy! Công tác này nhục nhã quá lắm!

Ông lão định nói nữa, nhưng vừa lúc ấy bên hàng rào có hai chú gà trống giương cổ lên chọi nhau. Một chú thì máu ở mào chảy xuống ròng ròng, một chú thì cổ trụi từng mảng lông. Bác Akim te te chạy tới chỗ chúng, vừa chạy vừa giật lấy cái sào.

Mới sáng sớm mà trụ sở nông trang đã đầy những người. Một chiếc xe trượt tuyết đóng hai ngựa đậu ngoài sân, cạnh thềm, chờ đưa Đavưđốp lên huyện. Con ngựa của Lápsinốp đóng đủ yên cương đang lấy chân cào cào tuyết, còn Liubiskin thì đang loanh quanh bên nó, rút căng lại dây yên. Anh cũng chuẩn bị để đi Tubianxki, gặp ban quản trị nông trang bên ấy để thương lượng về máy chọn giống.

Kônđrát bước vào phòng đầu. Bác kế toán trên xã mới về mấy hôm nay đang ngồi bên bàn lục tìm trong đống sổ sách. Iakốp Lukits, thời gian qua gầy tọp đi và nom lầm lì, đang ngồi đối diện hí hoáy viết cái gì. Liền bên đấy, một tốp nông trang viên được đội trưởng cử đi chở cỏ khô, đứng túm tụm. Anh chàng Agaphôn Đúpxốp rỗ hoa, đội trưởng đội ba, và Akaska Mênốc thì đứng trong góc tranh luận gì với bác thợ rèn độc nhất trong làng, bác Ipôlít Salưi. Từ phòng bên vang sang giọng nói vui vẻ của Radơmiốtnốp.

Anh vừa mới tới, và kể luôn cho Đavưđốp nghe, vừa kể vừa cười:

- Sớm tinh mơ bốn cụ bà đã lò dò đến chỗ mình. Dẫn đầu là bà cụ Uliana, mẹ cậu Mikhain Igơnachênốc. Cậu biết bà cụ không? Không biết à? Một bà lão nặng trên dưới bảy pút, mũi có mẩu thịt thừa. Các mẹ kéo nhau đến. Mẹ Uliana nổi cơn tam bành lên, giận thở không ra hơi, mẩu thịt thừa trên mũi cứ nhảy tưng tưng. Và vừa đặt chân tới, xỉa xói luôn: anh là cái đồ nọ, anh là cái đồ kia! Trụ sở Xôviết đang đông, bà cụ càng làm già. Tất nhiên mình phải nghiêm sắc mặt, bảo: “Bà có câm mồm bà đi không, không tôi cho giải lên xã vì tội thoá mạ chính quyền bây giờ. Cớ làm sao mà bà lồng lộn lên thế?” Bà lão đáp: “Các anh định giở trò ma mãnh gì với các lão bà chúng tôi? Sao các anh dám đem tuổi già chúng tôi ra làm trò cười?” Mình gặng hỏi mãi xem đầu đuôi câu chuyện ra sao. Té ra là các cụ nghe phong phanh ban quản trị nông trang đã quyết định sang xuân này, giao cho các cụ bà ngoài sáu mươi đã hết khả năng lao động phải làm cái việc… - Radơmiốtnốp phồng má lên, cố nhịn cười, và nói tiếp: - phải làm cái việc ấp trứng thay cho máy ấp trứng bằng hơi nước hiện chưa có. Thế là các cụ nổi điên lên. Bà cụ Uliana tru tréo như bị chọc tiết: “Thế nào? Bắt tôi ấp trứng gà à? Cái loại trứng để tôi ấp thì chưa ai đẻ nổi đâu! Bọn các anh thì tôi cứ lấy que cời than vụt cho một trận, rồi tôi nhảy xuống sông chết đi cho rảnh!” Mình phải giải thích mãi cho các cụ. Mình bảo: “Tôi can bà, bà Uliana ơi, đừng nhảy xuống sông làm gì, sông ta cạn nước bà có nhảy xuống cũng chẳng chết được đâu. Đó toàn là những chuyện láo toét do bọn kulắc bịa đặt ra đấy thôi”. Đầu đuôi là thế đấy, đồng chí Đavưđốp ạ. Kẻ địch tung ra đủ các thứ chuyện bịa đặt, hòng chọc gậy bánh xe chúng ta. Mình mới căn vặn các cụ nghe đâu ra chuyện ấy, thì được biết: hôm kia có một con mụ nhà dòng ở Vôxkôvôi sang, nghỉ đêm tại nhà Chimôphây Bôrsép. Con mụ ấy đã kể lể với các cụ rằng ta tập trung gà là để gửi ráo lên tỉnh mổ thịt nấu mì và ta sẽ làm một kiểu ghế đặc biệt, có lót rơm cho các cụ bà, bắt các cụ ấp trứng thay gà, cụ nào chống lại sẽ bị trói chặt vào ghế.

Nagunốp nghe chuyện liền hỏi:

- Bây giờ con mụ ấy đâu rồi?

- Chuồn rồi. Nó khôn chán: phao tin, rồi cút ngay.

- Giống quạ đen ấy là phải tóm cổ, tống đi cái nơi cần tống. Phúc tổ nó không rơi vào tay tôi! Tôi thì cứ lộn ngược váy nó lên đầu, đét đít một trận… Còn cậu, cậu là chủ tịch Xôviết, thế mà kẻ nào đến ngủ trong làng cậu cũng không biết. Hay thật!

- Ma kiểm soát được chúng nó!

Đavưđốp, mình mặc áo lông khoác ra ngoài áo măngtô,  ngồi bên bàn xem xét lại lần chót bản kế hoạch sản xuất vụ xuân đã được hội nghị nông trang viên thông qua; anh nói, mắt vẫn nhìn xuống giấy:

- Vu khống xuyên tạc là mánh lới cũ rích của kẻ địch. Chúng là bọn ngồi không ăn bám, chuyên môn bôi nhọ công cuộc xây dựng của ta. Nhưng chúng ta đôi khi cũng lại tiếp tay cho chúng, như trong việc gà qué này chẳng hạn…

Nagunốp phổng mũi lên, hỏi:

- Tiếp tay là thế nào?

- Ta đưa vào tập thể cả gà vịt nữa là tiếp tay cho chúng chứ sao.

- Đâu phải!

- Đúng thế đấy! Đáng lẽ ta không nên phân tán sức lực vào những việc vụn vặt. Đây nhá, hạt giống gieo chúng ta chưa chuẩn bị xong, thế mà đã vội lao vào chuyện gà vịt… vớ vẩn thật! Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?.. Lên huyện thế nào họ cũng vò đầu cho mình một trận về chuyện hạt giống, thực tế thế đấy! Chán ghê cơ…

- Anh bảo tại sao không nên tập thể gà vịt? Hội nghị đồng ý rồi cơ mà?

Đavưđốp cau mày:

- Vấn đề không phải là hội nghị! Cậu làm gì mà không hiẻu rằng gà vịt là chuyện vặt, mà chúng ta thì đang phải giải quyết việc chủ yếu này: củng cố nông trang, đạt tới tỷ lệ gia nhập trăm phần trăm, và cuối cùng là gieo hạt. Cho nên, Maka ạ, mình nghiêm chỉnh đề nghị với cậu như thế này: chúng ta đã phạm một sai lầm về chính trị với cái chuyện gà qué chết tiệt này, thực tế thế, ta sai rồi! Đêm qua mình có đọc một số tài liệu về vấn đề tổ chức nông trang, và mình hiểu ra sai ở chỗ nào: ta có một nông trang, nghĩa là một ácten, nhưng ta có xu hướng coi nó là một công xã. Đúng vậy không? Đó đích thị là tả khuynh. Cậu nghĩ lại mà xem. Mình mà ở địa vị cậu (vì cậu là người đưa ra chủ trương ấy và thuyết phục chúng mình) thì mình sẽ nhận sai lầm với một thái độ dũng cảm bônsêvích và ra lênh cho trả gà qué của ai về nhà nấy. Thế nào? Còn như nếu cậu không làm thì mình sẽ làm, mình nhận trách nhiệm, đi về mình sẽ làm luôn. Thôi, mình đi đây. Chào các cậu.

Đavưđốp chụp mũ cátkét lên đầu, lật đứng cái ve cao còn sặc mùi băng phiến của tấm áo da lông tịch thu của một tên kulắc, và vừa buộc cặp giấy vừa nói:

- Bây giờ đủ các loại nhà dòng lọt lưới đi lang thang phao tin đồn nhảm, kích chị em phụ nữ, các bà già chống lại chúng ta. Mà việc xây dựng nông trang lại là một công việc mới mẻ quá, và cấp thiết ghê lắm. Ta cần phải được mọi người ủng hộ! Cả phụ nữ, cả bà già. Trong nông trang phụ nữ cũng có vai trò của họ, thực tế thế!

Rồi anh đi ra, chân bước dài và nặng.

- Thôi, Maka ạ, ta giải tán gà, trả lại cho các nhà thôi. Đavưđốp nói đúng đấy.

Radơmiốtnốp nhìn Nagunốp hồi lâu, đợi câu trả lời… Nagunốp ngồi bên bệ cửa sổ, áo varơi mở phanh, quay quay cái mũ trên tay và môi mấp máy không thành tiếng. Vài ba phút trôi qua như vậy. Rồi Maka ngẩng phắt đầu lên, và Radơmiốtnốp bắt gặp ánh mắt cởi mở của anh.

- Ờ, trả lại thôi. Ta sai toét rồi. Đúng thế! Chà, cái cậu Đavưđốp ấy, thằng sứt ấy nói thế mà đúng…

Và anh mỉm cười, có đôi chút ngượng nghịu.

Đavưđốp ngồi vào xe trượt tuyết. Kônđrát Maiđanhikốp đứng bên anh. Hai người đang chuyện trò gì với nhau sôi nổi. Kônđrát hoa tay lên nói có vẻ hăng hái lắm; bác đánh xe sốt ruột, mân mê dây cương, cài lại cái roi  ngựa giắt dưới ghế ngồi. Đavưđốp cắn môi, nghe.

Trên bậc tam cấp bước xuống, Radơmiốtnốp nghe thấy Đavưđốp nói:

- Cứ bình tĩnh, đừng lo.. Tất cả đã ở trong tay chúng ta, đâu sẽ vào đó, thực tế thế! Ta sẽ quy định một chế độ phạt tiền, sẽ bắt các đội trưởng sản xuất phải chịu trách nhiệm theo dõi kiểm tra. Thôi, đi nhá!

Chiếc roi vung lên đen đét trên lưng đôi ngựa. Cỗ xe trượt tuyết vạch lên mặt tuyết hai vòng tròn xanh xanh, rồi khuất sau cổng.

Hàng trăm con gà rải ra trên sân nuôi gà vịt, nom như một lớp đá cuội đủ màu sắc. Bác Akim, tay cầm một cành cây, đi đi lại lại trong sân. Ngọn gió nhẹ thổi lơ thơ chòm râu xám của bác, làm khô mồ hôi lấm tấm trên trán bác: “Lão mò gà” vừa bước đi vừa lấy chân đi ủng dạ xua gà; bác đeo một cái bị lưng lửng thóc lép. Bác rải thóc thành một vệt dài từ chuồng đến kho, và dưới chân bác lũ gà cứ sôi lên sùng sục, không ngớt tiếng “cục-cục-cục-cục” tíu tít bận rộn.

Trong sân phơi có rào bao bọc đàn ngỗng nổi trắng lên nom như những đống đá vôi ngổn ngang. Từ đó vang ra tiếng cúc cục, quàng quạc, tiếng cánh vỗ, ồn ào nhộn nhạo như từ vùng ngập nước vào mùa xuân chim muông chuyển vùng. Cạnh kho thóc, một đám người chen chúc nhau xúm xít. Chìa ra ngoài chỉ có những cái lưng và mông chổng. Nnhững cái đầu cúi chúi xuống, còn những con mắt hau háu thì nhìn cái gì dưới đất, giữa vòng người.

Radơmiốtnốp bước tới, nhòm qua lưng họ, xem xem chuyện gì. Đám người thở phì phò, lời đi tiếng lại í ới.

- Con tía thắng!

- Thắng cái khỉ gió! Nom kìa, rũ xuống rồi còn gì.

- Chà, đá cú khiếp quá!

- Há mỏ rồi, cu cậu nhược…

Và tiếng bác Suka:

- Đùng thúc! Đùng thúc! Tự nó lao vào bây giờ đấy! Bảo đừng thúc mà, thằng ranh này!... Ông thì thúc cho mày một cái vào mạng mỡ bây giờ!…

Trong vòng người, hai chú gà sống đang xoè cánh vờn nhau, một con màu đỏ tía, một con lông đen biếc như lông quạ. Mào chúng rách toạc, thâm tím máu đọng, dưới chân chúng tơi tả những chiếc lông đỏ, lông đen. Hai đấu thủ đã thấm mệt. Chúng lảng nhau, làm ra vẻ mổ mổ kiếm ăn, chân cào bới tuyết, nhưng mắt vẫn cảnh giác theo dõi nhau. Cái giả vờ của chúng không được bao lâu; con đen  bất thình lình bay vọt lên như mũi tên, con tía cũng nhảy cẫng. Chúng chọi nhau một phát ở trên không, rồi một phát nữa…

Bác Suka đứng xem, không còn biết trời đất gì nữa. Đầu mũi bác rung rinh một giọt nước mũi, nhưng  bác cũng chẳng để ý. Tất cả sự quan tâm của bác tập trung vào con gà tía. Con tía phải thắng. Bác Suka đã đánh cuộc với Đêmít Miệng hến. Bỗng một bàn tay ai kéo bác ra khỏi trạng thái căng thẳng đến tột độ ấy: bàn tay ấy thô bạo túm lấy cổ áo varơi bác, lôi tuột ra ngoài vòng. Bác Suka quay phắt lại, mặt cau có một cơn giận dữ không thốt lên lời, sẵn sàng lao vào đối thủ với quyết tâm của một chú gà trống. Nhưng nét mặt bác đột nhiên thay đổi, biến thành tươi tỉnh hoà nhã: đó là bàn tay Nagunốp. Nagunốp mặt cau có giãn đám đông ra, xua đôi gà chạy, hầm hầm nói:

- Thế ra các người rỗi hơi, đứng chơi chọi gà hả!.. Giải tán đi, đi làm việc, đồ ăn hại cả nút! Không có việc gì làm thì đi vác rơm về chuồng ngựa, chở phân ra ruộng rau. Hai người đi quanh làng báo cho các nhà, nhà nào có gà thì đến mà bắt về.

Một anh nông dân cá thể đội mũ tai cáo, thuộc dân mê chọi gà và được mệnh danh là Banhích, hỏi:

- Giải tán nông trang gà à? Xem ra trình độ giác ngộ của chúng nó chưa đủ để vào nông trang. Này, thế lên chủ nghĩa xã hội thì gà có còn chọi nhau nữa không nhỉ?

Nagunốp tái mặt đi, trừng mắt nhìn anh chàng vừa hỏi một cái từ đầu đến chân:

- Này, có nói đùa thì cũng tuỳ cái nói đùa! Những con người tinh hoa nhất đã vì chủ nghĩa xã hội mà hy sinh, thế mà mày, đồ chó chết, mày lại nói láo hả? Cút ngay cho khuất mắt, đồ phản cách mạng, không tao lại cho một phát giữa ngực về chầu trời bây giờ. Xéo đi, đồ rắn độc trong khi tao còn để cho mày sống! Mày tưởng tao không biết đùa hả!

Anh bỏ đám kô-dắc đứng im thin thít đó, đưa mắt nhìn mảnh sân gà một lần cuối cùng, rồi lững thững bước ra cổng, vai hơi gù gù và nén một tiếng thở dài nặng trĩu.

CHƯƠNG XX

Ở trụ sở huyện uỷ, khói thuốc lá cuộn lên từng đám xanh lam, máy chữ nổ lách cách, chiếc lò sưởi Hà Lan cháy ấm ran. Hai giờ chiều thường vụ huyện uỷ sẽ phải họp. Bí thư huyện uỷ - râu cạo nhẵn nhụi, mồ hôi mồ kê, cổ chiếc áo dạ mở phanh vì bức – đang vội: anh chỉ cho Đavưđốp ngồi vào bàn, gãi gãi cái cổ trắng nần nẫn, nói:

- Thời giờ mình ít, cậu chú ý. Thế nào, tình tình chỗ cậu ra sao? Tập thể hoá bao nhiêu phần trăm rồi? Nay mai liệu có đạt được trăm phần trăm không. Nói ngăn ngắn thôi.

- Đạt được. Nhưng vấn đề không phải ở con số phần trăm, mà là ở chỗ xử trí tình hình nội bộ như thế nào đây? Tôi có đem theo bản kế hoạch làm vụ xuân, đồng chí có thể xem qua được không?

- Không, không! – Đồng chí bí thư phát hoảng lên, và nheo nheo đôi mắt tùm hụp với một vẻ ốm yếu, đưa mùi xoa lên lau mồ hôi trán. – Cậu cứ đem sang chỗ Lupêtốp, ở Nông hội huyện. Cậu ấy sẽ xem và duyệt, còn mình thì không có thời gian: có một đồng chí trên khu về, thường vụ sắp họp bây giờ. Mà này, cho mình hỏi, cậu cho giải bọn kulắc lên chỗ chúng mình làm cái khỉ gió gì thế? Rõ là mua lấy vạ… Mình đã dặn dò kỹ cậu bằng tiếng Nga hẳn hoi: “Việc ấy đừng có hấp tấp, trong khi ta chưa có chỉ thị  dứt khoát”. Đáng lẽ cậu nên hoàn thành tập thể hoá toàn bộ đi thì tốt hơn là chạy theo bọn kulắc và chưa thành lập được nông trang đã đi tịch thu tài sản bọn kulắc. Còn việc kho thóc giống thì sao lại thế? Cậu có nhận được chỉ thị của huyện uỷ tổ chức ngay lập tức kho thóc giống không? Tại sao cho đến bây giờ chưa thực hiện được tí gì? Hôm nay tôi bắt buộc phải đưa vấn đề cậu với cậu Nagunốp ra trước ban thường vụ. Tôi đến đòi phải ghi vấn đề này vào lý lịch các cậu mất. Bậy hết sức! Coi chừng đấy, Đavưđốp ạ! Việc không thi hành những chỉ thị tối quan trọng của huyện uỷ sẽ đưa tới những hậu quả rất không hay cho cậu! Theo thống kê cuối cùng cậu đã thu được bao nhiêu thóc giống? Để tôi kiểm tra lại xem… - Đồng chí bí thư rút trong ngăn kéo ra một tờ giấy kẻ thành từng cột, nheo mắt đọc lướt qua và đỏ bừng ngay mặt lên: - Biết ngay mà! Không thêm được một pút nào! Sao cậu cứ ngồi im thin thít thế?

- Đồng chí có để tôi nói được câu nào đâu. Đúng là chúng tôi chưa lo được việc lập kho thóc giống. Hôm nay về tôi sẽ cho tiến hành ngay. Suốt thời gian qua ngày nào chúng tôi cũng họp hành, tổ chức nông trang, thành lập ban quản trị, các đội sản xuất, thực tế thế! Việc thì rất nhiều, có phép thần thông đâu mà làm được như ý đồng chí muốn: là chỉ một lúc mà lập xong nông trang, tịch thu tài sản bọn kulắc, thu thóc giống… Tất cả những việc ấy rồi chúng tôi sẽ hoàn thành, đồng chí đừng vội ghi lý lịch chúng tôi, sau này muốn ghi cũng còn kịp chán.

- Không vội làm sao được, trong khi khu và tỉnh cứ thúc, không để cho mình thở nữa! Phải lập xong kho thóc giống trước mồng một tháng Hai, thế mà cậu…

- Tôi sẽ lập xong trước ngày rằm, thực tế thế! Sang tháng Hai chúng tôi đã chẳng phải gieo hay sao? Hôm nay tôi đã cử một uỷ viên ban quản trị sang Tubiaxki mượn cái máy chọn hạt giống. Ông Gơnhêđức, chủ tịch nông trang bên ấy lại giở trò ấm ớ ghi vào lề lá thư của chúng tôi hỏi khi nào máy rảnh thì cho mượn: “Hạ hồi phân giải”. Đúng cái giọng ma bùn, thực tế thế!

- Nói chuyện Gơnhêđức với tôi làm gì? Hãy nói chuyện nông trang các cậu.

- Chúng tôi đã mở một chiến dịch chống giết hại gia súc, thực tế thế! Bây giờ thì việc thịt gia súc chấm dứt rồi. Vừa qua chúng tôi đã ra quyết định tập thể hoá gà vịt và tiểu gia súc, vì e rằng người ta sẽ thịt hết, và nói chung… Nhưng hôm nay tôi đã bảo Nagunốp đem trả lại hết gà vịt rồi…

- Sao lại trả?

- Tôi cho việc tập thể hoá tiểu gia súc và gia cầm là sai lầm, nông trang hiện chưa cần đến những thứ ấy.

- Hội nghị nông trang viên có thông qua quyết nghị như thế à?

- Có.

- Thế thì sao nào?

- Chưa có chuồng, tinh thần bà con không phấn khởi, thực tế thế! Không nên làm bà con hoang mang vì những chuyện vặt vãnh… Không nhất thiết phải tập thể hoá gia cầm, ta sẽ xây dựng nông trang, chứ không phải công xã.

- Lý luận hay nhỉ! Cậu lấy lý do gì để trả lại gà vịt? Tất nhiên không nên động chạm đến gà vịt, nhưng một khi đã tiến hành rồi thì không việc gì mà phải lùi. Cái lối ấy là dẫm chân tại chỗ, lập lờ nước đôi… Phải làm ráo riết lên chứ! Kho thóc giống chưa lập, trăm phần trăm tập thể hoá chưa đạt, nông cụ chưa sửa…

- Tôi đã bàn với bác thợ rèn hôm nay rồi.

- Đấy, thấy không, tôi đã bảo là các cậu làm ăn lề mề mà ! Đến phải cho đội tuyên truyền xuống ngay chỗ các cậu, họ sẽ dạy cho các cậu cách làm việc.

- Đồng chí cứ cho xuống. Càng hay, thực tế thế!

- Mà cái việc không nên vội thì các cậu lại nhanh nhẩu đoảng. Hút đi, - đồng chí bí thư chìa ra hộp thuốc lá. – Bỗng đâu đùng đùng cho xe chở bọn kulắc đến. Đồng chí Dakhartrenkô bên công an gọi điện thoại sang hỏi tôi: “Tống chúng đi đâu bây giờ? Khu uỷ chưa có chỉ thị gì cả. Cần một đoàn xe lửa cho chúng nó. Lấy gì mà chở chúng nó, và chở đi đâu?”. Cậu xem, các cậu làm ăn như thế đấy! Làm bừa đi, chẳng hỏi ý kiến ai cả…

- Thế đồng chí bảo chúng tôi phải giải quyết chúng nó như thế nào?

Đavưđốp phát cáu lên. Và những lúc bực thì anh nói hấp ta hấp tấp, giọng hơi rin rít, vì lưỡi cứ ấn vào chỗ răng sứt và làm cho tiếng anh nói nghe lắp bắp, không rõ. Lúc này cũng vậy, anh hăng lên, cất cao cái giọng nam cao rè rè, nói hơi rin rít:

- Tôi phải đeo chúng nó lên cổ tôi chắc? Chúng nó đã giết hai vợ chồng anh bần nông Khốprốp.

Bí thư ngắt lời anh:

- Cuộc điều tra không xác nhận như thế. Chuyện ấy có thể có những nguyên nhân khác.

- Điều tra tồi, cho nên mới không xác nhận được. Còn nguyên nhân khác thì vô lý! Rõ ràng là bàn tay kulắc! Chúng tìm mọi cách ngăn cản chúng ta tổ chức nông trang, chúng phản tuyên truyền, thế thì phải tống chúng đi cho rảnh chứ sao. Tôi không hiểu tại sao đồng chí cứ nhắc lại mãi chuyện ấy? Có vẻ như đồng chí không thú lắm..

- Cậu chỉ ăn ốc nói mò! Nói năng phải cẩn thận! Tôi phản đối cái lối làm việc tự tiện, đem chủ nghĩa du kích thay thế cho kế hoạch, cho một công việc tiến hành quy củ. Và cậu là người đầu tiên nghĩ ra cái trò tống khứ bọn kulắc ra khỏi làng, đặt chúng tôi vào một tình trạng khó khăn ghê gớm. Và lối đâu địa phương chủ nghĩa như vậy? Tại sao cậu chỉ cho xe chở chúng nó lên đến huyện thôi? Sao không đưa thẳng chúng nó ra ga, lên khu?

- Vì xe chúng tôi đang bận.

- Thật đúng là địa phương chủ nghĩa. Thôi nói như thế đủ rồi. Và đây là nhiệm vụ của cậu trong thời gian tới: thu xong toàn bộ thóc giống dự trữ, sửa chữa nông cụ cho vụ gieo, đạt tới trăm phần trăm tập thể hoá. Nông trang của cậu sẽ đứng độc lập. Địa thế nó cách xa những điểm dân cư khác, và đáng tiếc là nó sẽ không nhập vào nông trang “Người khổng lồ”. Về điểm này các ông trên khu cứ làm rối tinh lên, chán các ông ấy ghê! Lúc thì bảo tập trung lại thành những nông trang “khổng lồ”, lúc thì bảo phân tán! Đến điên đầu!

Đồng chí bí thư ôm lấy đầu, ngồi im lặng một hai phút, rồi nói, giọng đã đổi khác:

- Cậu sang Nông hội huyện thông qua kế hoạch đi, rồi về nhà ăn trưa. Nếu nhà ăn hết giờ rồi thì cậu về chỗ tôi, nhà tôi sẽ dọn cho cậu ăn. Khoan! Để tôi viết cho vài chữ.

Anh ngoáy vội vài chữ vào một mảnh giấy, đưa cho Đavưđốp, rồi chúi mũi vào đống giấy tờ, anh chìa ra một bàn tay lạnh ngắt, nham nháp mồ hôi:

- Xong thì về ngay đi. Chúc cậu khoẻ. Họp thường vụ tôi sẽ đặt vấn đề cậu. À nhưng mà, thôi. Nhưng các cậu phải dấn lên. Nếu không thì kỷ luật đấy.

Đavưđốp đi ra, mở mảnh giấy xem, thấy nguệch ngoạc mấy chữ bằng chì xanh:

“Lida, dứt khoát yêu cầu em dọn ăn ngay cho người cầm giấy này, không được ý kiến

G. Korghinxki”.

Đọc xong, Đavưđốp đang đói meo, ngán ngẩm nghĩ bụng: “Thôi, thà nhịn một bữa còn hơn là vác cái lệnh này đến”. Rồi anh đi sang Nông hội.

CHƯƠNG XXI

Theo kế hoạch thì diện tích cày xuân năm nay của Grêmiatsi Lốc gồm 472 hécta, trong đó có 110 hécta đất hoang. Mùa thu năm  ngoái – còn làm ăn cá thể - đã cày ải được 643 hécta, và gieo ngâm giống qua đông 210 hécta. Tổng số diện tích gieo trồng được phân chia cho lúa mạch và các loại cây có dầu theo những con số sau đây: lúa tiểu mạch 667 hécta; quả mạch 210; đại mạch 108; yến mạch 50; kê 65; ngô 167; quỳ 45; gai 13. Tổng cộng 1325 hécta, cộng thêm 91 hécta đất pha cát chạy dài từ Grêmiatsi Lốc đến khe Ugiátsi để trồng dưa.

Tại cuộc họp mở rộng bàn về sản xuất họp ngày mười hai tháng Hai, gồm hơn bốn chục anh chị em cốt cán trong nông trang, bà con đã thảo luận về vấn đề lập kho thóc giống, về định mức công điểm, về sửa chữa nông cụ cho vụ gieo, và trích một số cỏ khô dự trữ cho súc vật làm vụ xuân.

Theo lời khuyên của Iakốp Lukits, Đavưđốp đề nghị mỗi hécta tiểu mạch gieo tròn bảy pút, tổng cộng là 4669 pút. Lập tức hội nghị nhao nhao lên. Mạnh ai nấy gào, chẳng ai nghe ai, ồn đến nỗi cửa kính nhà Titốc rung lên bần bật.

- Nhiều quá!

- Thế thì ỉa ra quần!

- Chân đất cát xám của chúng tôi chưa bao giờ gieo đến thế.

- Chỉ nói tào lao!

- Năm pút là hết nước.

- Cho năm pút rưỡi đi!

- Chân đất màu có thể gieo bảy pút một đêxiachin, ta có mấy tí? Phải cày đồng cỏ đi chứ, chính quyền dự kiến thế nào?

- Hoặc là cày cái khoảnh bên khe Panhiuskin.

- Hờ! Cày cái đống cỏ mọc như rừng ấy à? Nói thế mà cũng nói!

- Hãy nói về lúa mì ấy, cần bao nhiêu kilô cho một hécta.

- Cậu đừng nói kilô, hãy tính bằng thúng hoặc bằng pút chứ!

- Im lặng, đồng bào ơi! Im lặng! Tiên sư!... suỵt… hoá dại rồi cả chắc! Lặng yên cho tôi phát một câu nào! – Liubiskin, đội trưởng đội hai nói thét lên.

- Thì cứ phát tất đi, cho đấy!

- Nom kìa, người với ngợm! Đúng là cái đồ lục súc… Igơnát! Việc gì mà cậu phải rống lên như bò thế? Rống mà tái xanh tái xám cả mặt mũi lên kìa…

- Còn mày thì sùi bọt mép, khác gì con chó dại!

- Yên cho Liubiskin phát biểu.

- Không chịu được nữa, điếc cả tai!

Hội nghị loạn lên những tiếng la ó. Và cuối cùng, khi những người to mồm đã bắt đầu khan tiếng, Đavưđốp mới quát lên bằng một giọng dữ dội ít thấy ở anh:

- Họp hành kiểu gì thế? .. Lối đâu rống lên như vậy? Phát biểu người một, còn người khác im lặng mà nghe! Bỏ cái lối như kẻ cướp ấy đi! Phải biết tự giác chứ! – Rồi anh dịu giọng lại nói tiếp: - Bà con  nên học tập giai cấp công nhân cách họp hành có tổ chức. Phân xưởng chúng tôi chẳng hạn, hoặc câu lạc bộ, họp hành trật tự đâu vào đấy, thực tế thế! Một người nói, các người khác nghe, còn bà con ta thì mạnh ai người nấy gào, không còn hiểu cái chết tiệt gì nữa!

Liubiskin đứng dậy, vung cái then cửa gỗ sồi to tổ bố:

- Mẹ kiếp, ai chõ mõm vào trong khi người khác đang phát biểu thì đây cứ phang cho một chày giữa sọ! Loại ra khỏi vòng chiến đấu.

Đemka Usakốp nêu một giả định:

- Thế thì họp chưa xong, ông đã oánh chúng tôi bể đầu ráo cả!

Mọi người cười ồ, lấy thuốc ra hút, rồi bắt đầu thảo luận bây giờ thì đã nghiêm chỉnh rồi, về mức gieo giống. Và vỡ nhẽ ra là cũng không có gì đáng phải tranh luận và làm nhao nhao lên như vậy… Iakốp Lukits phát biểu đầu tiên và giải quyết ngay được mọi ý kiến phản đối.

- Chúng ta gân cổ lên hò hét thế thật chả nghĩa lý gì. Tại sao đồng chí Đavưđốp lại đề nghị mỗi hécta bảy pút? Rất đơn giản, đó là ý kiến chung chúng tôi góp như vậy. Ta có phải đưa giống vào máy sàng sẩy không? Có. Có hao hụt không? Có. Và có thể sẽ hao hụt nhiều, vì có một số bà con ta cẩu thả đã để lẫn thóc giống với thóc thịt. Họ cất thóc giống lẫn với thóc ăn, sàng sẩy thì qua quýt. Và nếu như có phải loại ra nhiều thì có mất đi đâu không? Không, ta sẽ đem nuôi gia súc, gà vịt.

Hội nghị thông qua con số bảy pút. Tình hình thảo luận gay hơn khi bàn sang định mức năng suất mỗi công cày. Lời đi tiếng lại đốp chát nhau đến nỗi Đavưđốp đâm ra hoang mang.

Anh chàng Agaphôn Đúpxốp vạm vỡ và rỗ hoa, đội trưởng đội ba, gào lên đả Đavưđốp:

- Chưa biết thời tiết xuân như thế nào thì anh làm sao có thể định mức cho tôi năng suất một công cày? Liệu anh có biết trước tuyết sẽ tan như thế nào, đất ráo hay ướt. Thế nào, anh nhìn thấu được dưới đất chắc?

Đavưđốp hỏi:

- Vậy thì anh Đúpxốp, anh đề nghị thế nào?

- Tôi đề nghị đừng ghi cái gì trước cả mà phí giấy vô ích. Chờ đến lúc gieo rồi đâu nó sẽ rành rành ra đấy.

- Anh là đội trưởng mà anh lại vô ý thức, phản đối làm việc có kế hoạch à? Theo anh thì không cần đến kế hoạch hay sao?

Bất ngờ là Iakốp Lukits lại ủng hộ Đúpxốp:

- Đầu cua tai nheo thế nào, ta không nên nói trước! Làm sao mà định mức trước được? Gải dụ như anh, anh mắc vào cày ba đôi bò khoẻ, cày thạo, còn tôi thì chỉ có bò ba tuổi, mới choai choai chẳng hạn. Vậy thì tôi có thể cày được bằng anh không? Mạt kiếp cũng chẳng được!

Nhưng đến đây, Kônđrát Maiđanhikốp xen vào

- Ông Ôxtơrốpnốp là quản lý mà lại nói như thế thì chúng tôi rất lấy làm lạ! Không quy định nhiệm vụ thì rồi ông làm ăn thế nào? Gặp chăng hay chớ sao? Tôi không rời tay cày, còn anh thì ngồi giơ lưng ra sưởi nắng, thế rồi hai chúng ta lại lĩnh bằng nhau sao? Ông Iakốp Lukits ơi, ông phát biểu hay gớm nhỉ!

- Lạy Chúa, anh Kônđrát Khrixtôphôưts ơi, anh làm thế nào mà đánh đồng được sức bò và chất đất? Anh đất mềm, còn tôi đất cứng, anh chân đất trũng còn tôi đất đồi. Anh khôn ngoan tài giỏi thế thì mách cho biết nào.

- Đất rắn một mức, đất mềm một mức. Bò thì có thể đóng xen con khoẻ, con yếu cho đồng đều. Cái gì rồi cũng có thể tính được hết, ông không phải nói khích tôi!

- Usakốp muốn phát biểu đấy.

- Nói đi.

- Thưa anh em, tôi xin có ý kiến thế này: xưa nay bò gầy bao giờ cũng phải bồi dưỡng cho nó một tháng trước vụ gieo hạt, cho ăn tốt: cỏ ngon, ngô, thóc. Cho nên vấn đề là: tình hình thức ăn cho bò của ta thế nào? Vừa qua có hạt thóc thừa nào thì thu mua hết rồi…

- Chuyện gia súc ta sẽ bàn sau. Nói bây giờ là lạc đề, thực tế thế! Ta đang phải giải quyết vấn đề định mức cho một buổi cày. Đất rắn thì bao nhiêu hécta một công cày, một công gieo.

- Máy gieo thì cũng khác nhau! Tôi gieo bằng loại mười một hàng thì không thể bằng loại mười bảy hàng.

- Thực thế! Anh đề nghị thế nào thì đưa ra đi. Còn đồng bào kia, sao suốt từ nãy kín tiếng thế? Anh trong nhóm cốt cán, thế mà tôi chưa thấy anh phát biểu.

Đêmít Miệng hến ngạc nhiên nhìn Đavưđốp, đáp lại giọng ồm ồm:

- Tôi đồng ý.

- Đồng ý cái gì?

- Đồng ý  phải cày, và … phải gieo nữa chứ.

- Sao nữa?

- Thế thôi.

- Có thế thôi à?

- À.., ờ…

- Thế thì hết chuyện bàn rồi. – Đavưđốp mỉm cười và nói thêm câu gì nữa nghe không rõ vì mọi người cười ồ.

Đến đây thì bác Suka đỡ lời Miệng hến.

- Đồng chí Đavưđốp ạ, bà con dân làng chúng tôi đặt tên cho anh ta là Miệng hến đấy. Cả đời anh ta chả nói, bần cùng lắm mới mở miệng, và vì thế mà vợ cũng không chịu nổi, phải bỏ. Anh ta là một anh kô-dắc không đến nỗi đần độn, nhưng đại để cũng có ngớ ngẩn, hoặc là cám hấp thì cũng được. Hồi cu cậu còn bé tí, lão nhớ lắm, cu cậu thò lò mũi xanh, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm, quần chả có, cứ tô hô, và chẳng thấy có cái tài quái gì cả. Và bây giờ thành người nhớn rồi vẫn câm miệng hến. Và chính vì cái tội ấy mà hồi chế độ cũ cha đạo bên Tubianxki đã không chịu làm phép thông công cho cu cậu. Một lần cu cậu đến xưng tội (vào tuần thứ bảy mùa chay thì phải), cha đạo trùm cái khăn vuông đen lên cu cậu, hỏi: “Con có trộm cắp không?”. Cu cậu im. “Có chơi bời lêu lổng không?”. Lại im. “Có thuốc sái không? Có tằng tịu với đàn bà con gái không?”. Vẫn im. Đáng lẽ cậu chàng ngốc ấy chỉ cần nói”Trình cha, con là kẻ có tội!” là lập tức mọi tội sẽ được rửa sạch..

Sau lưng bác, tiếng cười và tiếng một người nói:

- Đút nút lại thôi, bác ơi!

- … Xong bây giờ đây, tí ti thôi! Vậy nghĩa rằng thì là cu cậu cứ đứng thở phì phà phì phò, giương đôi mắt ếch. Cha cụ hoang mang đẫy, phát hoảng lên nữa, tấm khăn quàng trên người rung rung, nhưng cũng cố gặng hỏi: “Hay là có lúc nào con muốn vợ người ta, hoặc con lừa nhà hàng xóm, hoặc con vật nào của láng giềng không?”. Và linh tinh một số câu khác nữa theo Thánh kinh… Cậu Đêmít vẫn cứ ngậm miệng làm thinh. Mà cu cậu còn biết nói làm sao? Vì dù cu cậu có tơ tưởng vợ ai chăng nữa thì cũng chẳng đi đến đâu; chẳng ả nào, dù là đui què mẻ sứt đi nữa, lại thèm…

- Thôi thôi, bác ơi! Chuyện bác chẳng dính dáng gì đến vấn đề đang thảo luận cả. – Đavưđốp nghiêm giọng ra lệnh.

- Dính chứ sao lại không dính, lão vào đề ngay bây giờ đây. Vừa rồi mới là mào đầu thôi. Để lão nói tí ti nữa! Đang nói thì cắt ngang.. Chà, đầu óc lão bây giờ chán quá! Quên béng mất rồi, không còn biết đang nói chuyện gì! Mả mẹ nó…! Trí nhớ ơi là trí nhớ!.. À, nhớ ra rồi! – Bác Suka vỗ đánh đốp một cái vào chỗ đầu hói, tuôn ra một tràng như súng máy: - Là đang nói chuyện vợ người ta thì Đêmít chẳng hòng xơ múi, còn như lừa hoặc con vớ vẩn nào khác thì cu cậu tơ hào làm gì? Cũng có khi là muốn đấy, vì cu cậu không có ngựa mà, nhưng ở ta thì đào đâu ra lừa, và cu cậu cả đời có trông thấy con lừa bao giờ. Vậy tôi xin hỏi đồng bào, ta bói đâu ra lừa? Từ thuở khai thiên lập địa nào có thấy bóng nó ở ta? Cả hổ, cả lừa, và cả lạc đà nữa…

Nagunốp hỏi:

- Bác có im cái mồm đi không? Không tôi tống cổ ra  ngoài sân bây giờ.

- Này anh Maka ơi, hôm mồng một tháng Năm, ở trường học, anh đã nói chuyện cách mạng thế giới suốt từ trưa đến tối. Anh nói lải nhải mãi, nghe chán bỏ mẹ. Lão cứ lẳng lặng ngả lưng xuống ghế, nằm co con tôm, đánh một giấc, chứ đâu có dám ngắt lời anh, thế mà bây giờ anh lại ngắt lời lão…

Radơmiốtnốp vốn ưa bông phèng và chuyện tếu, phát biểu:

- Cứ để bác ấy nói nốt. Còn nhiều thời gian mà.

- Có lẽ chính vì thế mà cu cậu cứ nín thinh, chẳng ai hiểu ra sao nữa. Cha cụ ngạc nhiên quá lắm. Cha cúi xuống cậu Đêmít đang trùm cái khăn, gặng hỏi: “Chẳng hay con có câm không đấy?”. Thế là cậu Đêmít trả lời cha: “Câm đâu mà câm, cha chán bỏ mẹ!”. Cha cụ cáu ghê lắm, khỏi nói, xanh xám cả mặt mũi, càu nhàu khẽ để các bà cụ quanh đó khỏi nghe thấy : “Đồ của khỉ, thế sao từ nãy mày cứ câm như hến thế?”. Rồi cầm cái đài nến cho cu cậu một cái vào mặt, nổ đom đóm mắt!

Hội nghị cười ồ, nhưng cũng không át nổi giọng ồm ồm như ống lệnh của Đêmít:

- Chỉ điêu! Đánh đâu mà đánh.

- Không đánh thật à? – Bác Suka ngạc nhiên ngẩn mặt ra. – Chẳng sao, không đánh thì cũng định đánh… Thế là cha không ban phép thông công cho cu cậu. Thưa đồng bào, Đêmít chẳng nói thì kệ thây cậu ấy, việc ta ta cứ nói. Nói lời hay lẽ phải, như lời lão nói đây, thì giá trị bằng bạc nén, nhưng im lặng thì lại bằng vàng cơ.

Nagunốp khuyên:

- Bác nên đem bạc nén của bác mà đổi lấy vàng đi thôi! Đỡ khổ tai bà con…

Tiếng cười lúc thì bùng rộ lên như lửa củi khô, lúc thì tắt ngấm. Câu chuyện của bác Suka đã làm nguội đi tinh thần hăng hái thảo luận của hội nghị. Nhưng Đavưđốp xoá nụ cười trên mặt, hỏi:

- Bác có ý kiến gì về định mức lao động? Phát biểu vào đề đi!

- Lão ấy à? – Bác Suka đưa ống tay lên quệt mồ hôi trán, hấp háy đôi mắt: - Lão chẳng có ý kiến gì cả.. Lão chỉ làm sáng tỏ vấn đề cậu Đêmít thôi… Và chuyện định mức thì chẳng dính dáng gì đến vấn đề ấy cả.

- Từ giờ cho đến hết hội nghị, tôi không cho bác phát biểu nữa! Phải bàn vào thực chất vấn đề, rồi sau muốn tán róc gì thì tán, thực tế thế!

Nông trang viên Ivan Batansikốp, phụ trách kỹ thuật, đề nghị:

- Một đêxiachin một công cày.

Nhưng Đúpxốp giẫy nảy lên:

- Anh này điên! Những chuyện vớ vẩn ấy anh đem về mà nói với bu nó ở nhà! Một ngày cày làm sao được một đêxiachin! Có chết rũ ra đấy cũng chẳng nổi.

- Tôi đã cày rồi. Kém một tí thôi…

- Nghĩa là có kém chứ gì!

- Nửa đêxiachin một công cày. Đấy là nói chân đất rắn.

Bàn cãi chán chê, hội nghị ngã ngũ về định mức cày như sau: đất rắn 0,60 hécta một công cày, đất mềm 0,75 hécta, và định mức gieo: máy mười một hàng 3 hécta một phần tư, máy mười ba hàng 4 hécta, máy mười bảy hàng 4 hécta 3 phần tư.

Grêmiatsi Lốc có cả thảy 184 đôi bò đực và 73 ngựa, như vậy vụ xuân cũng không đến nỗi căng. Về vấn đề này, Iakốp Lukits cũng phát biểu như vậy:

- Ta sẽ gieo xong sớm, nếu ta chịu khó làm cả vụ, mỗi đầu bò và ngựa phải làm 4 đêxiachin rưỡi. Thế là nhẹ lắm, các anh em ạ! Chẳng có gì mà phải bàn cãi.

Liubiskin kể:

- Bên Tubianxki mỗi con làm tám đêxiachin cơ.

- Họ muốn rũ xương thì mặc họ! Thu năm ngoái trước mùa sương giá, ta cày ủ, còn họ thì từ ngày lễ xá tội đã đi nhặt củi, làm ăn chẳng ra thế nào.

Hội nghị quyết định trong ba ngày tập trung xong thóc giống. Rồi nghe lời phát biểu không lấy gì làm phấn khởi của bác thợ rèn Salưi. Bác nói to, vì nặng tai, và cứ vần vần trong hai bàn tay lao động sần sùi và đen nhẻm cái mũ tai cáo lọ lem muội lò. Phát biểu trước hội nghị đông người thế này, bác xấu hổ:

- Có thể sửa xong tất. Tôi sẽ không để bê trễ đâu. Nhưng về món sắt thì gay go đấy, phải kiếm cho ra ngay. Sắt đánh lưỡi và láng cày không có lấy một mẩu. Thế thì lấy gì mà làm! Mai tôi bắt đầu sửa máy gieo hạt. Than rèn và người phụ việc cũng cần. Thế còn công xá thì nông trang trả tôi thế nào?

Đavưđốp giải thích cặn kẽ cho bác về chuyện công xá và đề nghị Iakốp Lukits ngày mai lên huyện kiếm sắt và than. Vấn đề dự trữ cỏ khô cũng được giải quyết nhanh chóng.

Sau đó Iakốp Lukits phát biểu:

- Thưa bà con, ta nên bàn cho kỹ, xem xem nên gieo cái gì, gieo ở đâu và gieo thế nào, và chọn người có trình độ am hiểu để giao phó công việc phụ trách. Như đấy, trước khi thành lập nông trang ta đã có năm cán bộ kỹ thuật, nhưng chẳng thấy các anh em ấy hoạt động gì cả. Người phụ trách thì phải chọn trong đám lão nông kô-dắc am hiểu đồng đất ta, cánh gần cũng như cánh xa. Trong khi ta chưa áp dụng chế độ canh tác mới thì một người như thế rất có ích cho ta! Tôi có ý kiến thế này: hầu như cả làng ta đã vào nông trang. Dần dần rồi người ta sẽ vào nốt. Chỉ còn độ dăm chục hộ cá thể, nhưng những bà con này ngày mai tỉnh dậy cũng có thể không còn là cá thể nữa.. thế cho nên ta cần gieo theo lối khoa học đã dạy. Tôi nói thế nghĩa là trong hai trăm đêxiachin đất cày vỡ, nên để một nửa hưu canh theo phương pháp Kherxôn. Xuân năm nay ta sẽ vỡ hoang một trăm mười đêxiachin, vậy chỗ đất ấy ta hãy để hưu canh theo phương pháp Kherxôn.

- Nào ai đã nghe thấy cái trò ấy bao giờ!

- Phương pháp Kherxôn là cái quái gì nhỉ?

- Bác hãy giải thích cụ thể chuyện ấy cho chúng tôi nghe, - Đavưđốp đề nghị, trong bụng lấy làm hãnh diện về sự am hiểu của người quản lý giàu kinh nghiệm của mình.

- Kiểu hưu canh ấy, người ta còn gọi là hưu canh có đào rãnh, hoặc hưu canh lối Mỹ. Nó rất lạ, và ai nghĩ ra được kể cũng tài! Ví dụ, đất cày rồi, năm nay ta gieo chẳng hạn là ngô hay hạt quỳ, và gieo thưa hàng, thưa gấp đôi như ta thường gieo. Do đó thu hoạch của ta cũng chỉ bằng nửa số thu hoạch bình thường. Khi bẻ ngô hoặc quỳ, ta để gốc lại. Và đến mùa thu ta sẽ gieo hạt giống mì vào rãnh giữa các hàng gốc ấy.

Kônđrát Maiđanhikốp từ nãy vẫn ngồi há mồm nghe như nuốt từng lời, lên tiếng hỏi:

- Thế thì gieo làm sao được? Máy gieo sẽ nghiến gãy hết các gốc ấy chứ còn gì?

- Sao lại gãy? Hàng thưa, máy không đụng chạm gì đến  các gốc ấy cả, chỉ đi sát mé mé thôi. Thành thử tuyết rơi sẽ được gốc cây giữ lại. Tuyết sẽ tan dần dần, cung cấp thêm nhiều độ ẩm cho đất. Và sang xuân, khi lúa đã mọc, ta sẽ nhổ những gốc ấy đi và làm cỏ. Cách làm ấy ai nghĩ ra kể cũng hay. Tay tôi chưa gieo thế bao giờ thật, nhưng cũng định năm nay sẽ thử xem sao. Tính toán kỹ rồi, không sợ hỏng ăn đâu.

- Ra là thế đấy! Tôi ủng hộ! – Đavưđốp đá ngầm Nagunốp một cái dưới gậm bàn, rỉ tai nói: - Thấy chưa? Thế mà cậu cứ không ưa lão ấy…

- Ngay bây giờ mình cũng không ưa…

- Thế là anh ngoan cố, thực tế thế! Ương bướng như bò đực…

Hội nghị chấp nhận đề nghị của Iakốp Lukits. Sau đó thảo luận một lô vấn đề linh tinh khác rồi giải tán.

Đavưđốp và Nagunốp chửa tới trụ sở Xôviết thì đã thấy một anh chàng người thâm thấp mặc áo bludông da cởi phanh và y phục thanh niên xung kích, từ trong sân trụ sở bước rảo tới chỗ họ. Anh ta đi vội tới, tay giữ khư khư chiếc mũ cátkét kẻ ô vuông kiểu thành thị, chống lại ngọn gió đang thổi giật từng cơn.

Nagunốp nheo nheo mắt:

- Có ai trên huyện về.

Anh thanh niên bước tới sát hai  người, đưa tay lên lưỡi trai mũ chào theo lối quân sự:

- Các đồng chí có phải ở Xôviết ấp không?

- Anh muốn gặp ai?

- Đồng chí bí thư chi bộ hoặc chủ tịch Xôviết.

- Tôi là bí thư chi bộ đây, còn đồng chí này là chủ tịch nông trang.

- Thế thì tốt quá. Thưa các đồng chí, tôi ở đội tuyên truyền. Anh em chúng tôi vừa mới tới và đang đợi các đồng chí ở trụ sở Xôviết.

Anh thanh niên, mũi hếch và da ngăm đen, đảo liếc nhìn Đavưđốp một cái, rồi mỉm nụ cười dò hỏi:

- Chẳng hay đồng chí là Đavưđốp phải không?

- Tôi đây.

- Tôi cũng đoán đoán ra. Cách đây hai tuần tôi đã gặp đồng chí trên khu uỷ. Tôi làm việc trên khu, là công nhân xưởng ép dầu.

Đến lúc ấy Đavưđốp mới hiểu tại sao lúc anh chàng đi tới, bỗng anh ngửi thấy mùi dầu quỳ thơm phức; tấm áo bludông da của anh ta đã thấm đẫm cái mùi thơm không phai ấy.

CHƯƠNG XXII

Đavưđốp đi tới trụ sở Xôviết thì thấy trên thềm đứng quay lưng ra một người lùn mập, đầu đội mũ Kuban đen chụp sâu xuống, chóp mũ đính một chữ thập trắng, mình mặc áo varơi đen lông thuộc có chiết nếp. Vai người đội mũ Kuban ấy rộng đặc biệt, và lưng như cái cánh phản lấp kín cả cửa ra vào lẫn mi cửa. Người ấy đứng dạng hai cẳng chân ngắn và khoẻ, nom thấp và chắc nình nịch như một cây du thảo nguyên. Đôi ủng vẹt gót với hai ống rộng xun lại như cắm rễ xuống sân thềm, đè nó lún xuống dưới sức nặng tấm thân hộ pháp của ông ta.

- Đồng chí Kônđrátkô, đội trưởng đội tuyên truyền chúng tôi đấy. – Anh chàng thanh niên đi bên Đavưđốp, nói. Và thấy Đavưđốp mỉm cười, anh khẽ tiếp: - Xin nói thêm là chúng tôi thường gọi đùa đồng chí ấy là “bátkô Kvađrátkô” (*)… Đồng chí ấy làm tại nhà máy chế tạo đầu máy xe lửa Luganxkơ đấy. Thợ tiện. Kể tuổi thì đáng vai cha chú, nhưng trẻ trung hăng hái ra phết!

Vừa lúc đó Kônđrátkô nghe có tiếng người nói, quay về phía Đavưđốp khuôn mặt đỏ gấc của mình, và dưới bộ ria quặp hung hung một nụ cười nở ra để lộ hàng răng trắng bóng:

- A, các đồng chí chính quyền địa phương đây phỏng? Chào các anh em!

- Chào đồng chí. Tôi là chủ tịch nông trang, còn đây là đồng chí bí thư chi bộ.

- Tốt quá! Ta vào nhà đi, kẻo các chú đội viên đợi các đồng chí đã mòn con mắt rồi đấy. Tôi là đội trưởng đội tuyên truyền đây, và muốn trao đổi với các đồng chí ít việc. Tôi tên là Kônđrátkô, nhưng nếu các chú ấy có bảo các đồng chí tên tôi là Kvađrátkô thì xin các đồng chí cứ bỏ ngoài tai, vì họ nghịch như quỷ sứ ấy…- Ông ta nói ồm ồm như lệnh vỡ, vừa nói vừa nghiêng người lách vào cửa.

Ôxíp Kônđrátkô đã làm việc ở miền nam nước Nga hơn hai mươi năm ròng. Đầu tiên là ở Taganrốc, rồi Rôxtốp trên sông Đông, rồi Mariupôn và cuối cùng là Luganxcơ, tại đó ông đã gia nhập đội cận vệ đỏ, đưa đôi vai rộng ra chống đỡ cho Chính quyền Xôviết non trẻ. Qua bao nhiêu năm quan hệ với người Nga, giọng Ukrain của ông đã bị pha đi, nhưng nhìn dáng người và bộ ria quặp xuống kiểu Séptsenkô, người ta vẫn có thể nhận ra ông là người Ukrain. Năm 1918 ông đã cùng anh em thợ mỏ Đônhét trong đoàn quân Vôrôsilốp tiến về Txaritxưn qua các thôn ấp kô-dắc đang bùng lên cuộc nổi loạn phản cách mạng… Và về sau mỗi lần chuyện trò gợi đến những năm nội chiến đã trôi vào quá khứ, những năm mà dư âm còn lại mãi mãi trong trái tim và ký ức của những ai đã từng tham gia, Kônđrátkô thường nhỏ nhẹ nói bằng một giọng tự hào: “Vôrôsilốp của chúng ta là người Luganxcơ đấy… Tôi với đồng chí ấy quen nhau lắm mà, biết đâu sẽ chẳng có ngày gặp lại. Đồng chí sẽ nhận ra tôi ngay! Hồi còn ở Txaritxưn, đánh bọn bạch quân, đồng chí ấy còn nói đùa tôi: “Thế nào, Kônđrátkô, làm ăn ra sao? Vẫn sống đấy hả, sói già?”. Tôi đáp: “Vẫn sống nguyên, đồng chí Vôrôsilốp ạ, thời giờ đâu nghĩ đến chuyện chết hả đồng chí, đang bận chơi nhau với bọn phản cách mạng mà! Chơi ra chơi!”. Bây giờ mà gặp lại nhau, đồng chí ấy sẽ động viên tôi ghê lắm đấy!” – Kônđrátkô kết luận với giọng tin tưởng.

Sau nội chiến ông trở về Luganxcơ, công tác tại cơ quan công an đường sắt, rồi chuyển sang công tác Đảng, cuối cùng lại trở lại nhà máy. Tại đây ông được Đảng huy động về nông thôn giúp đỡ công cuộc tập thể hoá. Mấy năm gần đây, Kônđrátkô phì nộn ra, phát triển mạnh chiều ngang.. Bây giờ anh em đồng đội cũ chắc cũng chẳng nhận ra ở ông anh chàng Ôxíp Kônđrátkô ở Txaritxưn năm 1918 đã chém tại trận bốn tên lính kô-dắc và tên đại đội trưởng người Kuban là Mamalưga, kẻ đã được đích thân Vranghen trao tặng thanh gươm bạc nạm vàng “vì thành tích chiến đấu dũng cảm”. Ôxíp phát phì ra, bắt đầu về già, mặt nổi lên những đường gân xanh xanh, tim tím… Thời gian đã nhuốm tóc ông màu sương cũng như đường xa và mệt nhọc phủ lên mình con ngựa một lớp bọt trắng. Và màn sương ấy cũng lén lút thấm cả vào bộ ria trễ xuống của ông. Nhưng ý chí và sức lực thì vẫn trung thành với Ôxíp Kônđrátkô, còn cái chuyện cứ béo trương béo nứt ra mãi thì cũng chẳng sao: “Tarax Bunba còn béo hơn tôi, nhưng ông ấy quại bọn Balan không khiếp à? Đấy, nếu như bây giờ lại phải chơi nhau với bất cứ thằng sĩ quan nào mình cũng vẫn còn có thể chém một nhát bổ đôi! Còn bảo mình đã ngũ tuần ư? Thì đã sao? Ông cụ mình dưới chế độ Sa hoàng còn sống đủ trăm tuổi, thì mình bây giờ dưới chính quyền ta, mình sẽ sống trăm rưởi tuổi cho mà xem!”. Ông nói như vậy mỗi lần có ai kháy đến tuổi tác và cái béo trương béo nứt của ông.

Kônđrátkô bước trước đi vào gian phòng trụ sở Xôviết:

- Yêu cầu các chú im lặng! Đây là đồng chí chủ tịch nông trang, còn đây, đồng chí bí thư chi bộ. Bây giờ ta hãy nghe qua tình hình địa phương, rồi mới biết được phải làm ăn ra sao. Nào, mời tất cả ngồi xuống!

Khoảng mười lăm đội viên đội tuyên truyền lao xao ngồi xuống, trừ hai người đi ra ngoài, chắc là để thăm đàn ngựa. Nhìn mặt đám khách, Đavưđốp nhận ra ba cán bộ huyện; một cán bộ canh nông, một giáo viên phổ thông cấp hai và một bác sỹ; còn lại là những anh em trên khu phái về, một số người có vẻ là công nhân xí nghiệp.

Trong khi mọi người lục tục ngồi xuống, kéo ghế lịch kịch và ho húng hắng, Kônđrátkô rỉ tai Đavưđốp:

- Nhờ đồng chí bảo anh em ném cho ngựa chúng mình ít cỏ, và những người đánh xe chớ đi đâu đấy. – Và nháy mắt một cái ranh mãnh: - Có lẽ đồng chí có thóc yến mạch cho ngựa đấy nhỉ?

- Không có cho ngựa, chỉ còn thóc giống thôi, - Đavưđốp đáp, rồi lập tức cảm thấy trong bụng ruột gan lạnh toát, ngượng không tả được, và khó chịu với chính mình.

Yến mạch thì còn hơn trăm pút, nhưng anh đã từ chối vì phải giữ để gieo vào đầu vụ xuân như giữ gìn đôi con ngươi; và Iakốp Lukits đã suýt phát khóc khi phải lấy hạt thóc quý như vàng ấy cho ngựa ăn (mà chỉ cho ngựa văn phòng thôi, và cũng chỉ những khi chúng phải chạy đường dài khó nhọc).

Đavưđốp thoáng nghĩ: “Đúng kiểu đầu óc tiểu tư hữu! Nó bắt đầu nhiễm cả vào mình nữa rồi đấy… Trước kia mình đâu có như vậy, thực tế thế! Chà.. Hay là, cho ông ấy một ít? Thôi, không tiện, trót từ chối rồi”.

- Đại mạch thì chắc có?

- Cũng không có.

Đại mạch thì quả là không có thật, nhưng Đavưđốp vẫn đỏ rừ mặt trước ánh mắt hóm hỉnh của Kônđrátkô.

- Không có, tôi nói thật đấy, đại mạch quả là không có.

- Đằng ấy mà làm ông chủ thì cừ đấy… Mà có lẽ làm một anh kulắc cũng hay… - Kônđrátkô mỉm cười dưới hàng ria, nói giọng ồm ồm, nhưng thấy Đavưđốp cau mày lại thì ôm lấy anh, khẽ nhấc bổng lên: - Ồ, mình nói đùa đấy mà. Không có thì thôi! Nhưng cố mà dành dụm lấy một ít cho ngựa có cái ăn.. Thôi, anh em ơi, ta làm việc! Yêu cầu yên lặng như tờ. – Rồi quay sang phía Đavưđốp và Nagunốp: - Chúng tôi về đây để giúp đỡ các đồng chí một tay, chắc các đồng chí đã được báo tin rồi. Bây giờ các đồng chí trình bày cho biết tình hình địa phương ra sao?

Sau khi nghe Đavưđốp báo cáo tường tận việc tiến hành tập thể hoá và thu thóc giống dự trữ, Kônđrátkô quyết định như sau:

- Chúng tôi ở lại đây tất cả thì chẳng có việc gì làm. – Ông ta đằng hắng, rút trong túi áo ra một cuốn sổ tay và một tấm bản đồ, đưa ngón tay chuối mắn lần trên mặt bản đồ: - Chúng tôi sẽ sang Tubianxki. Đấy với đây xem thì cũng gần thôi, và chúng tôi sẽ để lại một đội bốn anh em, giúp các đồng chí trong công tác vận động. Còn về việc làm sao thu thóc giống cho nhanh thì tôi muốn góp ý kiến với các đồng chí như thế này: trước tiên phải khai hội, giải thích đầu đuôi xuôi ngược cho bà con rõ, sau đó hãy triển khai thu rộng rãi, - ông nói chi tiết và chậm rãi.

Đavưđốp nghe ông ta nói rất lấy làm thú vị. Đôi chỗ có một vài thành ngữ Ukrain anh nghe không rõ nghĩa lắm, chỉ hiểu lơ mơ, nhưng anh cảm thấy một cách sâu sắc rằng Kônđrátkô đang đưa ra một kế hoạch vận động thu thóc giống về cơ bản là đúng. Và cũng vẫn chậm rãi như vậy, Kônđrátkô vạch ra phương sách đối xử với những nông dân cá thể và phần tử khá giả trong làng nếu thảng hoặc họ không chịu, hoặc bằng cách này hay cách khác chống lại các biện pháp thu thóc giống của ta; ông giới thiệu những phương pháp vận động có hiệu qủa nhất rút ra từ kinh nghiệm hoạt động của đội tại các trang ấp khác; và lúc nào lời lẽ cũng ôn tồn, không thể hiện chút gì là có ý muốn lãnh đạo và dạy đời, và trong khi nói, thỉnh thoảng lại hỏi ý kiến lúc thì Đavưđốp, lúc thì Radơmiốtnốp hoặc Nagunốp: “Nên tiến hành như vậy đấy. Anh em Grêmiatsi Lốc thấy thế nào? Tôi thì nghĩ thế đấy”.

Và Đavưđốp tươi cười nhìn vào gương mặt đỏ như gấc nổi những đường gân xanh của bác thợ tiện Kônđrátkô, nhìn đôi mắt sâu ánh lên một ánh ranh mãnh của ông ta, nghĩ bụng: “Chà, cha này khéo thật! Cha ấy không bó buộc sáng kiến của chúng ta, chỉ làm ra vẻ góp ý kiến thôi, nhưng cứ thử phản đối những ý kiến đúng đắn của cha ấy mà xem, thế nào cha ấy cũng lái ngọt mình theo cha ấy, thực tế thế! Những tay như thế mình đã từng thấy rồi!”.

Một việc nhỏ nữa đã làm tăng thêm mối thiện cảm của anh đối với đồng chí Kônđrátkô: trước khi ra đi, ông đã gọi riêng ra một chỗ anh tổ trưởng ở lại Grêmiatsi Lốc cùng với ba anh em khác và giữa hai người lời đi tiếng lại vài câu:

- Cậu đeo súng lục ra ngoài áo làm gì thế? Có cất ngay đi không?

- Nhưng, đồng chí Kônđrátkô ạ, bọn kulắc… đấu tranh giai cấp…

- Cậu bảo cái gì? Bọn kulắc à, thì sao? Cậu đến đây để tuyên truyền vận động, nếu cậu sợ bọn kulắc thì cứ mang súng lục đi, nhưng đừng phô trương ra ngoài. Chán cậu thật! Ra vẻ ta đây có súng! Cứ như trẻ con! Khệnh khạng khẩu súng bên hông… Đút ngay nó vào túi cho tôi kẻo bọn tay chân kulắc lại sắp  bảo: “Nom kìa, bà con, họ vác súng lục đến tuyên truyền vận động bà con đấy!” – Và ông lẩm bẩm kết thúc: - Ngớ ngẩn qúa!

Và ngồi vào xe trượt tuyết rồi, ông còn gọi Đavưđốp đến, cầm khuy áo măngtô của anh xoay xoay:

- Các chú ấy sẽ làm việc, và làm ác đấy! Các đồng chí cũng cố gắng làm cho tốt, sao cho mọi việc nhanh chóng, xuôi lọt. Tôi sẽ ở bên Tubianxki, có chuyện gì, báo cho tôi biết. Sang bên ấy, có thể phải tổ chức tối kịch ngay hôm nay. Giá cậu được xem mình đóng vai kulắc nhỉ! Cái thân xác mình thế này, đóng kulắc thì ăn vai ghê lắm…Chà, bố Kônđrátkô đã về già mà còn phải làm bao nhiêu chuyện! Còn về chuyện thóc yến mạch thì cậu đừng nghĩ ngợi gì nhá, mình không khó chịu gì cậu đâu. – Rồi ông mỉm cười, ngả tấm lưng cánh phản vào vai ghế xe trượt tuyết.

Radơmiốtnốp cười khà khà:

- Cái đầu khiếp thật! Vai cũng khiếp, lại cái cẳng nữa! Như chiếc máy kéo! .. Một mình ông ta mắc vào cày thì kéo thay được cho ba đôi bò đực chứ chẳng chơi. Mình cứ thắc mắc: những dân hộ pháp như thế thì đúc bằng gì nhỉ? Ý kiến cậu thế nào, Maka?

Nagunốp cáu kỉnh gạt đi:

- Bây giờ cậu đâm ra lẩm cẩm như lão Suka: lắm mồm!

--------------------------

(*)          Chơi chữ: bátkô, bằng tiếng Ucraina: Bố. Kvađrát là hình vuông. – ND

CHƯƠNG XXIII

Viên quan ba Pôlốptxép ăn ở tại nhà Iakốp Lukits ráo riết chuẩn bị cho cuộc bạo động mùa xuân. Trong gian phòng xép, đêm đêm y thức cho đến lúc gà gáy, ngồi hí hoáy viết, vẽ những bản đồ gì bằng cây bút chì hoá học, đọc sách. Đôi lúc, Iakốp Lukits nhòm vào thì thấy y đang nghiêng mái đầu trán dô xuống bàn, cắm cúi đọc, cái miệng rắn rỏi khẽ mấp máy. Nhưng cũng có đôi khi Iakốp Lukits lại bắt gặp y đang đắm đuối tư lự. Những phút ấy Pôlốptxép thường ngồi chống khuỷu tay lên bàn, mười ngón tay thọc vào mái tóc thưa đã ngả bạc, bờm sờm vì lâu không cắt. Cái hàm bạnh và chắc nịch của y đưa đảo, cứ như y đang nhai gì dai ngoách, và đôi mắt y lim dim. Gọi mấy tiếng y mới ngẩng đầu lên, đôi con ngươi nhìn trừng trừng nom đến rợn của y ánh lên một ánh giận dữ. “Có việc gì?” – y hỏi, giọng ồm ồm như chó sủa. Những phút ấy Iakốp Lukits càng hãi y và bất giác càng kính nể y.

Iakốp Lukits có nhiệm vụ hàng ngày báo cáo với Pôlốptxép về tình hình xóm ấp, tình hình nông trang; lão làm việc ấy một cách tận tuỵ, nhưng mỗi ngày một đem tới cho Pôlốptxép thêm những mối lo ngại mới, đào sâu thêm những đường nhăn chạy ngang trên má y…

Sau hôm bọn kulắc bị đày đi khỏi Grêmiatsi Lốc, Pôlốptxép suốt đêm không ngủ. Cho đến sáng còn nghe thấy tiếng bước chân nặng nề nhưng êm của y, và Iakốp Lukits rón rén tới cửa gian phòng xép thì nghe thấy y nghiến răng lẩm bẩm:

- Chúng nó đào đất dưới chân mình! Làm mình mất chỗ dựa… Giết! Giết! Phải thẳng tay giết!

Im lặng một lát, rồi y lại đi, nhẹ bước đôi chân đi giày da mềm. Nghe thấy tiếng ngón tay y cào cào trên mình, gãi ngực theo một cái tật quen, và một lần nữa y lại nói giọng u uất:

- Giết! Phải giết!.. – Rồi dịu giọng xuống, với một tiếng khò khè trong họng: - Chúa lòng lành, Chúa công minh sáng suốt!.. Xin Chúa đỡ con cùng! .. Bao giờ mới đến giờ khởi sự? .. Lạy Chúa, mong sao cho sự trừng phạt của Chúa tới sớm!

                Trời sáng rõ Iakốp Lukits thấp thỏm lại đến dán tai vào cửa buồng: Pôlốptxép đang lầm rầm đọc kinh, rên rỉ quỳ xuống, phục lạy. Sau đó y tắt đèn, đi nằm, và thiu thiu ngủ rồi còn thì thầm một lần nữa nghe rất rõ: “Giết sạch…, không để sót một mống”, kèm theo một tiếng rên.

Vài hôm sau, đang đêm Iakốp Lukits nghe thấy tiếng gõ cửa sổ. Lão bước ra nhà ngoài:

- Ai?

- Mở cửa, ông chủ ơi!

- Ai đấy?

Tiếng thì thào bên ngoài cửa:

- Tôi cần gặp ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits.

- Ông nào? Đây chả có ông nào thế cả?

- Thưa giùm với ông ấy tôi ở chỗ ông Tsiornưi, có thư.

Iakốp Lukits lưỡng lự một lát, rồi mở cửa: “Muốn đến đâu thì đến này!”.

Một người lạ mặt thấp bé, đầu đội mũ trùm, bước vào. Pôlốptxép đưa người ấy vào buồng, đóng chặt cửa lại, rồi trong khoảng tiếng rưỡi đồng hồ, trong buồng vọng ra tiếng chuyện trò rì rầm, hấp tấp. Trong khi đó thằng con của Iakốp Lukits đem cỏ cho ngựa người liên lạc mới tới ăn, nới dây yên, tháo hàm thiếc cho nó.

Từ đó, hầu như đêm nào cũng có liên lạc cưỡi ngựa đến, nhưng không phải vào quãng  nửa đêm, mà về gần sáng, khoảng ba bốn giờ. Xem ra họ đến từ những nơi xa hơn chỗ người thứ nhất.

Những ngày này Iakốp Lukits sống một cuộc sống hai mang, không bình thường. Sáng ra, lão đến trụ sở nông trang, trao đổi bàn bạc với Đavưđốp, Nagunốp, với anh em thợ mộc, đội trưởng sản xuất. Việc bận rộn xây dựng chuồng gia súc, ngâm hạt giống, sửa chữa nông cụ không để lão còn giờ phút nào nghĩ đến những chuyện khác. Chẳng dè cho chính lão, con người năng nổ Iakốp Lukits đã rơi vào một tình cảnh đầu tắt mặt tối xưa nay vẫn là nguồn vui đối với lão, một tình cảnh không lúc nào hết lo, như người lo con mọn. Chỉ có một điều khác cơ bản là bây giờ lão chạy lăng xăng khắp làng, đi công tác xa không phải là để kiếm riêng cho mình nữa mà là làm việc cho nông trang. Nhưng chính như thế lão lại thích: khỏi bận lòng với những tâm tư u uất, khỏi nghĩ ngợi lôi thôi. Công tác thu hút lão, lão muốn làm, trong đầu lão nảy ra đủ mọi thứ đề án. Lão hăng hái bắt tay vào việc chống rét cho súc vật, xây dựng một chuồng ngựa lớn, chỉ đạo việc di chuyển những nhà kho công hữu hoá và xây dựng một nhà kho mới cho nông trang; và buổi chiều, khi cảnh náo nhiệt của ngày lao động đã lắng đi và đã đến giờ về, chỉ riêng cái ý nghĩ rằng ở nhà mình, trong căn phòng xép, có Pôlốptxép đang ngồi đó, như một con diều hâu ăn xác chết đậu trên ngôi mộ cổ, lầm lầm lì lì và nom đáng sợ trong sự cô đơn trơ trọi của y, cũng đủ làm cho Iakốp Lukits thấy nhoi nhói trong dạ, chân tay uể oải, toàn thân mệt mỏi lạ lùng… Lão trở về nhà, và trước khi ăn tối, vào gặp Pôlốptxép

Pôlốptxép đang nóng lòng nghe, miệng ra lệnh, tay cuốn thuốc lá:

- Nói đi!

Và Iakốp Lukits kể lại những chuyện diễn ra ở nông trang trong ngày hôm ấy. Pôlốptxép thường lẳng lặng nghe, chỉ có một lần ngắt lời lão, là khi Iakốp Lukits báo cáo về việc phân phát quần áo giày dép tịch thu được của kulắc chia cho dân nghèo; y đã nổi điên lên, quát, khò khè trong họng:

- Những đứa nào nhận, sang xuân ta sẽ móc họng chúng nó ra! Tất… anh ghi lấy danh sách tất cả bọn chó má ấy! Rõ không?

- Có danh sách rồi, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits.

- Có mang theo đấy không?

- Có đây.

- Đưa xem!

Y cầm lấy tờ giấy, sao lại cẩn thận, ghi rõ tên họ từng người và của được chia, đánh dấu chữ thập cạnh tên những người được nhận quần áo, giày dép.

Báo cáo với Pôlốptxép xong, Iakốp Lukits đi ăn tối, và trước khi đi ngủ lại vào gặp y, nhận chỉ thị cho ngày hôm sau.

Chính là theo ý kiến của Pôlốptxép mà mồng 8 tháng Hai, Iakốp Lukits đã lệnh cho người chấm công đội hai bố trí bốn xe đủ người ngựa đi chở cát bờ sông về rải chuồng bò. Họ chở cát về. Iakốp Lukits ra lệnh cho quét dọn sạch sẽ nền đất chuồng bò và rải cát lên. Công việc làm gần xong thì Đavưđốp tới chuồng chăn nuôi của đội hai. Anh hỏi Đêmít Miệng hến là người phụ trách chuồng bò của đội hai:

- Lấy cát về làm gì đấy?

- Rải nền.

- Sao lại phải rải?

Im lặng.

- Tôi hỏi cậu: Sao lại phải rải?

- Không biết.

- Ai cho lệnh rải cát?

- Quản lý.

- Ông ấy bảo sao?

- Bảo phải giữ vệ sinh… Chỉ bày chuyện, quân chó đẻ!

- Tốt đấy! Như thế sạch sẽ hơn, chứ để phân hôi thối thế, bò dễ mắc dịch. Bò cũng cần sạch, anh em thú y vẫn bảo như vậy, thực tế thế! Và cậu tỏ vẻ khó chịu thế .. là sai. Trông đã thấy thích mắt: rải cát sạch đấy chứ? Cậu thấy thế nào?

Nhưng Đavưđốp không cậy răng được anh chàng Miệng hến nói thêm một lời: anh chàng lẳng lặng bỏ đi ra chỗ kho rơm vụn. Còn Đavưđốp thì đi ăn cơm, trong bụng tán thành sáng kiến của viên quản lý.

Xẩm chiều, Liubiskin chạy tới gặp anh, hậm hực hỏi:

- Thế ra bây giờ người ta lại rải cát lót ổ cho bò nằm à?

- Ở, rải cát.

- Lão Ôxtơrốpnốp ấy, nó làm sao vậy? H… h… hoá rồ rồi chắc? Ai lại làm thế bao giờ? Và đồng chí, đồng chí Đavưđốp, chuyện điên rồ như thế mà đồng chí tán thành à?

- Có gì mà cậu ngậu xị lên thế, hả Liubiskin? Vấn đề là phải giữ vệ sinh, và Ôxtơrốpnốp làm vậy là đúng. Sạch sẽ chẳng có hại gì cả: đỡ dịch bệnh.

- Vệ sinh khỉ gió gì thế, lão ấy nói nghe muốn ỉa vào mồm lão ấy! Đồng chí trông đấy, rét đến chết người đi được! Cho nó nằm ổ rơm còn ấm một tí chứ, còn trên cát thì… anh thử nằm xem!

- Thôi, xin anh đừng ý kiến ý cỏ gì nữa! Phải bỏ cái lối chăn nuôi cũ rích ấy đi! Bây giờ cái gì cũng phải làm theo phương pháp khoa học.

- Khoa học kiểu gì thế? Ôi giào…- Liubiskin cầm chiếc mũ lông đen phát một cái vào ống giày ủng, nhẩy đi ra, mặt đỏ như gà chọi.

Và sáng hôm sau, hai mươi ba con bò đực, không con nào cất mình đứng dậy nổi. Đêm qua, cát đã đóng băng lại, làm cho nước đái bò không thấm đi đâu được, bò nằm ướt đã bị cóng… Vài con đứng dậy được đã để lại từng mảng da dính chặt vào cát đóng băng. Bốn con đuôi đóng cứng lại gãy rời ra. Những con còn lại ốm hết, run cầm cập.

Vì phải thi hành mệnh lệnh của Pôlốptxép, Iakốp Lukits cố gắng hết sức mới giữ nổi cái chức quản lý. “Bò thì cứ dùng cách cho chết cóng như vậy! Chúng nó ngu lắm, sẽ tưởng thế là vệ sinh. Nhưng ngựa thì anh chú ý cho tôi, sao cho khi cần là có ngay!”. Tối hôm trước, Pôlốptxép đã nói như vậy. Và Iakốp Lukits đã làm đúng răm rắp.

Đến sáng Đavưđốp gọi lão vào gặp mình; anh cài chặt cửa, rồi mắt không ngửng lên, hỏi:

- Ông làm cái trò gì thế?...

- Thưa đồng chí Đavưđốp, tôi đã sai lầm nghiêm trọng! Tôi… Lạy Chúa… Thật tôi muốn cắn lưỡi mà chết..

- Ông làm gì thế hả, đồ rắn độc!... – Đavưđốp tái xanh mặt, giận ứa máu mắt lừ nhìn Iakốp Lukits: - Ông định phá hoại hả?.. Ông mà lại không biết là không nên rải cát lót chuồng bò à? Không biết là bò có thể bị cóng à?

- Tôi tưởng… Tôi không biết thật, có Chúa chứng giám!

- Ông im mồm đi!... Tôi không tin. Ông là một nông dân giàu kinh nghiệm thế mà lại không biết!

Iakốp Lukits bưng mặt khóc, lau mũi xụt xịt, và chỉ lắp bắp một điều:

- Tôi muốn giữ vệ sinh… Khỏi cứt đái… Ngờ đâu cơ sự lại ra như thế…

- Ông đi đi. Bàn giao công việc lại cho Usakốp. Chúng tôi sẽ đem ông ra xử.

- Thưa đồng chí Đavưđốp!...

- Tôi bảo ông đi ra!

Iakốp Lukits đi ra rồi, Đavưđốp ngồi suy nghĩ lại sự việc một cách bình tĩnh hơn. Nghi ngờ Iakốp Lukits phá hoại – bây giờ thì anh cảm thấy thế là vô lý. Vì Ôxtơrốpnốp đâu có phải kulắc. Và nếu đôi lúc có ai gọi lão như vậy thì chẳng qua là thù ghét cá nhân. Một lần, ít lâu sau khi Ôxtơrốpnốp được đưa ra làm quản lý, Liubiskin đã buông ra một câu, như tiện mồm: “Bản thân lão Ôxtơrốpnốp trước kia là kulắc!”. Ngay hồi ấy Đavưđốp đã kiểm tra lại và xác định được rằng trước đây nhiều năm Iakốp Lukits quả là có phong lưu thật, nhưng sau đó mất mùa đã làm lão sa sút, trở thành trung nông. Đavưđốp nghĩ đi nghĩ lại, nghĩ tới, nghĩ lui, và đi đến kết luận rằng Iakốp Lukits không có lỗi trong chuyện không may xảy đến với bò, rằng lão cho rải cát lót chuồng chỉ là vì muốn giữ vệ sinh, và một phần có thể là do tính lão luôn luôn thích cải tiến. Anh nghĩ bụng: “Nếu lão là phần tử phá hoại thì đã chẳng làm việc gương mẫu như thế, vả lại cả đôi bò đực lão cũng bị. Không, Ôxtơrốpnốp là một nông trang viên một lòng một dạ với ta, và câu chuyện cát ấy chỉ là một sai lầm đáng buồn, thực tế thế!”. Anh nhớ lại Iakốp Lukits đã xây dựng chuồng ấm cho súc vật với một thái độ chu đáo và tháo vát như thế nào, giữ gìn cỏ khô như thế nào, và lần ba con ngựa của nông trang bị ốm, lão đã thức thâu đêm đến sáng ở chuồng ngựa, tự tay thụt cho ngựa, đổ cho chúng uống dầu gai, trị cho chúng bệnh đường ruột; rồi sau đó lão là người đầu tiên đề nghị đuổi ra khỏi nông trang kẻ đã gây bệnh cho ngựa là Kugienkốp, người chăn ngựa của đội một, suốt một tuần liền, như về sau đã phát hiện ra, chỉ cho ngựa ăn độc một thứ rơm lúa đại mạch. Theo nhận xét, chăm sóc ngựa thì nhất Iakốp Lukits. Nhớ lại tất cả những chuyện ấy, Đavưđốp cảm thấy xấu hổ, thấy mình có lỗi với lão quản lý vì cơn giận vô lý của mình. Anh cảm thấy áy náy bứt rứt vì đã quát tháo thô bạo như thế một nông trang viên tốt, một uỷ viên quản trị nông trang được bà con kính nể, và lại còn nghi lão phá hoại nữa, trong khi tội của lão chỉ là sơ xuất vô ý. “Vớ vẩn quá!”, Đavưđốp vò đầu rối bù lên, ngượng nghịu đằng hắng một tiếng, bước ra khỏi phòng.

Iakốp Lukits đang trao đổi với viên kế toán, tay cầm chùm chìa khoá, đôi môi hậm hực run run…

- Tôi bảo này, Ôxtơrốpnốp … Đừng bàn giao nữa, ông cứ tiếp tục làm việc, thực tế thế. Nhưng nếu ông lại để xảy ra cái trò ấy lần nữa… Tóm lại, là ông liệu đấy… Bây giờ, cho đi mời thú y trên huyện, và bảo cho các đội trưởng là bò ốm đừng bắt làm.

Âm mưu phá hoại nông trang lần đầu của Iakốp Lukits thế là đã kết thúc mỹ mãn cho lão. Pôlốptxép tạm thời không giao cho lão nhiệm vụ gì kế tiếp, vì y đang bận một việc khác: một nhân vật mới đã đến tìm y, vào ban đêm như thường lệ. Người ấy cho xe quay về, bước vào nhà. Lập tức Pôlốptxép kéo luôn hắn vào trong buồng, và ra lệnh cấm cửa mọi người. Hai đứa trò chuyện với nhau tới khuya, và sáng hôm sau Pôlốptxép tươi tỉnh gọi Iakốp Lukits vào:

- Này, anh Iakốp Lukits thân mến, đây là một hội viên của đồng minh chúng ta, bạn chiến đấu của chúng ta, như thường nói, quan một Liachépxki Vátxláp Ápguxtôvits. Anh hãy quý trọng chăm sóc ông ấy. Còn đây là chủ nhà của tôi, lính kô-dắc kỳ cựu, nhưng hiện nay chuyển ra làm quản lý nông trang… Có thể nói là một viên chức xôviết….

Viên quan một đang ngồi trên giường đứng dậy, chìa cho Iakốp Lukits cái lòng bàn tay to và trắng. Nom hắn trạc tuổi ba mươi, gầy và mặt vàng. Mái tóc đen quăn quăn của hắn chải ngược, chấm đến tận cổ chiếc áo cánh xa tanh đen. Hàng ria thưa mọc loăn xoăn trên đôi môi thẳng nét và tươi vui. Mắt trái hắn thành tật lim dim, xem chừng là do chấn thương; bên dưới con mắt ấy, da mặt hắn bất động, sần sùi những vết nhăn chết cứng, nom khô héo như ngọn lá thu. Nhưng con mắt lim dim ấy chẳng làm giảm đi, mà lại còn làm tăng thêm vẻ tươi vui, hóm hỉnh của khuôn mặt viên cựu quan một Liachépxki. Có cảm tưởng như con mắt nâu nâu của hắn sắp nháy một cái ranh mãnh, da mặt hắn sẽ căng ra, làm những đường nhăn rẻ quạt giãn đến thái dương, và viên quan một yêu đời ấy sẽ phá lên một tiếng cười trẻ trung và dễ lây. Kiểu ăn mặc xem có vẻ luộm thuộm của hắn là cố ý, và nó không ảnh hưởng gì đến dáng điệu nhanh nhẹn mà vẫn để lộ ra vẻ phong lưu đài các.

Ngày hôm ấy Pôlốptxép đặc biệt vui, tỏ ra ân cần với cả Iakốp Lukits nữa. Trong chốc lát, y đã kết thúc câu chuyện thường ngày; rồi quay mặt về phía Ôxtơrốpnốp, y tuyên bố:

- Ông quan một Liachépxki sẽ ở lại nhà anh độ hai tuần, còn tôi hôm nay, tối xuống là tôi đi. Ông ấy cần gì, anh giúp, mọi mệnh lệnh của ông ấy là lệnh của tôi. Rõ chưa? Như thế nhá, Iakốp Lukits! – Rồi y đặt bàn tay gân guốc lên đầu gối Iakốp Lukits, dằn giọng nhấn mạnh: - Sắp bắt đầu rồi! Nán chờ ít lâu nữa thôi. Anh cứ nói như thế với bà con kô-dắc ta, cho họ phấn khởi. Thôi, bây giờ anh đi ra, chúng tôi cần bàn chuyện tiếp.

Có chuyện gì bất thường đây làm cho Pôlốptxép phải rời Grêmiatsi Lốc hai tuần lễ. Iakốp Lukits nóng lòng muốn biết lắm. Vì thế lão lẻn vào trong căn buồng mà bữa nọ Pôlốptxép đã nấp ở đó nghe trộm chuyện của lão với Đavưđốp. Lão áp tai vào bức vách mỏng. Lão chỉ nghe hơi rõ rõ câu chuyện nói phía bên kia tường.

Liachépxki. Nhất thiết anh cần bắt liên lạc với Bưkôđôrốp… Dĩ nhiên, khi gặp thế nào Ngài cũng sẽ thông báo cho anh rõ là các kế hoạch... tình hình thuận lợi… Tuyệt! Ở khu Xanxcơ… một đoàn xe lửa bọc sắt… trong trường hợp thất bại…

Pôlốptxép. Suỵt.

Liachépxki. Chắc chả có ai nghe đâu.

Pôlốptxép. Nhưng dẫu sao… Đề phòng vẫn hơn…

Liachépxki. (nói nhỏ đi, làm cho Iakốp Lukits nghe câu được câu chăng, chẳng có mạch lạc gì). Thất bại… tất nhiên… Ápganixtan… Nhờ sự giúp đỡ của họ mà luồn đi…

Pôlốptxép. Nhưng phương tiện… GPU (*)… (rồi sau đó chỉ còn độc nghe thấy một tiếng liên tục: “bu-bu-bu-bu-bu…”).

Liachépxki. Phương án là như sau: vượt biên giới… Minxcơ… Vòng tránh… Tôi đảm bảo với anh là quân biên phòng… Tất nhiên, họ sẽ tiếp ở bộ tham mưu… Ông đại tá, tôi biết tên ông ta… nơi họp kín… Thế thì là một sự hỗ trợ mạnh mẽ! Một sự yểm hộ như vậy… Vấn đề không phải là ở chỗ trợ cấp…

Pôlốptxép. Ý kiến của Ngài thế nào?

Liachépxki. Tôi tin rằng Ngài đại tướng sẽ nhắc lại… nhiều! Tôi được lệnh miệng… vô cùng căng thẳng, trong khi lợi dụng… không bỏ lỡ thời cơ…

Tiếng nói chuyển thành tiếng thì thào, và Iakốp Lukits nghe lõm bõm câu được câu mất như vậy chẳng hiểu gì cả, thở dài một cái, bỏ đi lên trụ sở nông trang. Và một lần nữa, đi tới ngôi nhà xưa kia của Titốc, lướt mắt nhìn lên tấm biển trắng treo trên cổng với dòng chữ: “Ban quản trị nông trang Grêmiatsi”, lão lại thấy cảm giác quen thuộc một dạ hai lòng. Rồi lão lại nhớ đến viên quan một Liachépxki, đến lời nói chắc như đinh đóng cột của Pôlốptxép: “Sắp bắt đầu rồi!”, và với một niềm vui độc ác, điên tiết lên với mình, lão nghĩ bụng: “Mau mau lên chứ! Không thì mình sẽ bị xé xác làm đôi mất, một nửa cho họ, một nửa cho nông trang, như con lợn đem mổ thịt!”.

Đến tối, Pôlốptxép thắng ngựa, đút tất cả giấy má vào túi dết, lấy lương thực và từ giã lên đường. Iakốp Lukits nghe thấy bên cửa sổ con ngựa của Pôlốptxép vui sướng được sổ lồng, nhún nhảy quay mấy vòng, gõ móng lóc cóc xuống mặt đường.

Ông khách mới đã tỏ ra là một con người hiếu động, ngồi không yên một chỗ, và suồng sã lối lính tráng. Suốt ngày hắn mò mẫm khắp trong nhà ngoài sân, vui vẻ, nụ cười trên miệng, nói dỡn đám đàn bà, làm cho bà lão Ôxtơrốpnốp vốn ghét cay ghét đắng khói thuốc lá sống không yên; hắn cứ lang thang, chẳng sợ ai trông thấy, đến nỗi Iakốp Lukits cũng phải lưu ý hắn:

- Ngài nên cẩn thận… Nhỡ có ai vào, bắt gặp quan lớn.

- Thế trên trán ta có ghi rõ ta là “quan lớn” à?

- Không, nhưng họ có thể hỏi ngài là ai, ở đâu đến…

- Thế thì, ông chủ ơi, giấy tờ tôi đầy túi đây và nếu gặp trường hợp gay go, người ta không tin, thì tôi chỉ việc đưa ra cái giấy uỷ nhiệm này… Cầm nó thì đi đâu cũng lọt! – Và hắn rút trong túi áo ra một khấu Maude xanh biếc miệng vẫn tươi cười như thế và con mắt dại đờ lấp dưới lớp da nhăn gồ lên nhìn với một vẻ khiêu khích.

Cái bắng nhắng của viên quan một ngông nghênh kia làm cho Iakốp Lukits khó chịu trong bụng, đặc biệt là từ sau lần buổi tối lão ở trụ sở về thì nghe thấy trong nhà có tiếng nén giọng nói nhỏ, tiếng cười khúc khích, tiếng lục đục, và đánh que diêm lên, lão trông thấy phía sau thùng cám con mắt độc nhất long lanh của Liachépxki, và bên cạnh là ả nàng dâu của mình mặt đỏ như hoa mào gà, đang luống cuống kéo váy xuống và sửa lại tấm khăn vuông tụt xuống tận gáy… Iakốp Lukits chẳng nói chẳng rằng, đi xuống bếp, nhưng tới cửa bếp thì Liachépxki đuổi kịp, vỗ vai lão, thì thào:

- Này, bố ơi, bịt chuyện này đi nhá.. Đừng làm khổ thằng con bố! Con nhà binh chúng ta thì phải thế! Thần tốc và dũng mãnh! Tuổi trẻ ai mà tránh khỏi, hèm… Này, thuốc lá đây, hút đi… Thế đằng ấy không làm cái trò ấy với con dâu bao giờ à? Thôi đi, lão dê cụ!

Iakốp Lukits hoang mang quá đến nỗi đã cầm lấy điếu thuốc, châm vào que diêm ở tay Liachépxki, rồi mới bước vào bếp. Còn tên này thì châm thuốc mời chủ nhà xong, nén một cái ngáp, lên giọng dạy đời:

- Khi người ta giúp anh việc gì chẳng hạn châm lửa cho anh hút thuốc, thì phải cảm ơn chứ. Chà, cái đồ anh bất lịch sự, thế mà lại là quản lý nông trang! Như xưa kia thì tôi chẳng thèm lấy anh làm lính hầu đâu.

Iakốp Lukits nghĩ bụng: “Ma quỷ nào trút lên đầu mình lão khách trọ này thế không biết!”.

Thói ngỗ ngược của Liachépxki làm lão phát ớn. Thằng Xêmiôn, con trai lão, hôm ấy không có nhà, nó được giao cho lên huyện mời thú y sĩ. Nhưng Iakốp Lukits quyết định không hở gì cho nó biết, và tự mình giải quyết lấy: lão gọi cô con dâu vào trong kho lúa, lặng lẽ dạy dỗ con dâu, quật cho cô nàng một trận roi da; lão không quật vào mặt mà vào lưng và thấp hơn nữa một tí, nên không ai trông thấy vết roi. Đến cả Xêmiôn cũng không để ý thấy gì. Tối hắn ở huyện về, cô vợ dọn cơm ra cho chồng, và khi thấy vợ chỉ ngồi ghé vào đầu ghế, hắn vô tình hỏi:

- Mình làm sao mà ngồi rón rén như khách thế?

- Tôi bị cái mụn… - Vợ Xêmiôn đỏ mặt tía tai đứng dậy.

- Nhá một củ hành với ruột bánh mì đắp lên đấy, khỏi ngay. – Iakốp Lukits đang bện một sợi thừng, ân cần bày cách cho con dâu.

Cô con dâu ném về phía lão một cái nhìn nảy lửa, nhưng đấu dịu đáp:

- Cám ơn thày, mặc nó, nó khắc khỏi…

Thỉnh thoảng lại có người mang thư đến cho Liachépxki. Hắn đọc xong thư ném luôn vào lò đốt đi. Về sau, đêm nào hắn cũng uống rượu, thôi cái trò trai lơ với cô con dâu Iakốp Lukits, đâm ra lầm lì và luôn mồm hỏi Iakốp Lukits hoặc Xêmiôn cho xin “một chai bố”, dúi vào tay họ những tờ giấy bạc mới tinh, kêu sột soạt. Say rượu, hắn quay sang nói chuyện chính trị, thiên về những vấn đề khái quát rộng lớn, và theo hắn thì là sự đánh giá tình hình một cách khách quan. Một lần hắn đã làm cho Iakốp Lukits bị một mẻ hoang mang tợn. Hắn gọi lão vào buồng, mời lão uống rượu vốtka, rồi nháy mắt một cái khả ố, hỏi:

- Lão đang phá hoại nông trang đấy à?

- Không, sao lại phá hoại? – Iakốp Lukits giả vờ làm vẻ ngạc nhiên.

- Phương pháp hoạt động của lão thế nào?

- Phương pháp nào ạ?

- Thế thì lão làm việc gì? Lão là nhân mối tay trong chứ gì… Vậy ở đấy lão làm những gì? Có đánh thuốc độc ngựa bằng mã tiền không, có phá dụng cụ sản xuất hoặc cái gì khác không?

- Hoàn toàn ngược lại, tôi được lệnh không được đụng chạm đến ngựa… - Iakốp Lukits thú nhận.

Ít lâu nay lão ta hầu như đã bỏ rượu, do đó cốc vốtka làm lão choáng váng ngây ngất, ruột gan có gì muốn dốc tuột ra hết. Lão muốn than thở nỗi khổ tâm của lão vì đồng thời vừa phải xây dựng vừa phải phá hoại cơ sở kinh tế tập thể hoá của trang ấp. Nhưng  Liachépxki chẳng để cho lão nói; chẳng buồn rót mời Iakốp Lukits nữa, hắn nốc cạn chỗ vốtka và hỏi:

- Thế thì đồ ngu si đần độn ạ, lão dính với chúng tôi làm gì? Tôi hỏi lão dính vào làm khỉ gì? Ông Pôlốptxép và tôi là những kẻ cùng đường, một liều ba bảy cũng liều.. Phải liều! Hoặc là chúng tôi sẽ thắng, mặc dầu, lão có biết không, phần thắng ít một cách đáng buồn… Một phần trăm thôi, không hơn! Nhưng chúng tôi như thế là vì chúng tôi không có cái gì để mất cả, trừ xiềng xích, như bọn cộng sản nói. Thế còn lão? Theo tôi, lão chỉ là một vật hy sinh. Đời lão, lão cứ sống cho thoải mái, đồ ngu ạ… Cứ cho rằng tôi chẳng tin những bọn ngu xuẩn như lão có thể xây dựng nên chủ nghĩa xã hội, nhưng dẫu sao… ít ra bọn lão cũng khuấy đục được vũng bùn thế giới. Đằng này, khi nổi lên bạo động, người ta sẽ cho lão một phát, con quỷ bạc đầu ạ, hoặc chỉ tống lão vào tù thôi, và vì lão chỉ là theo đóm ăn tàn nên người ta sẽ đầy lão lên tỉnh Arkhanghenxkơ. Lão sẽ đẵn gỗ ở đấy cho đến ngày chủ nghĩa cộng sản thắng thế lần thứ hai… Chà, lão là đồ con lừa! Như tôi đây, tôi hiểu rõ vì sao phải nổi dậy, tôi là quý tộc mà! Ông thân sinh tôi ngày trước có năm nghìn đêxiachin đất cày cấy, và gần tám trăm đêxiachin đất rừng. Đối với tôi và những người như tôi, thật là đau lòng nát ruột phải rời bỏ quê hương xứ sở, lang thang nơi đất khách quê người, đổ mồ hôi kiếm ăn, như người ta thường nói. Nhưng lão? Lão thì là cái gì? Một dân cổ cày vai bừa, ăn no vác nặng! Một giống bọ hung ăn cứt! Chó đẻ mẹ các anh chứ trong nội chiến, bọn kô-dắc các anh bị chúng nó đâm chém như thế chưa đã đời hay sao?

- Chúng tôi sống không nổi! – Iakốp Lukits phản ứng lại. – Thuế má bóp nghẹt, súc vật bị thu, đời sống riêng chẳng có, chứ nếu không thì chúng tôi cần quái gì đến các ông, các ông quý tộc cũng như các ông khác cùng giuộc. Và đời nào tôi lại chuốc vạ vào thân như thế này.

- Thuế với má! Cứ làm như ở nước khác, nông dân không phải đóng thuế vậy. Họ còn đóng nặng hơn ấy chứ!

- Vô lý.

- Đúng thế đấy!

- Nhưng ông làm sao biết được ở các nước ấy người ta sống thế nào và đóng thuế ra sao?

- Tôi sống ở đấy rồi, tôi biết.

- Ông chắc ở nước ngoài về?

- Hỏi làm gì?

- Tôi muốn biết.

- Biết lắm chỉ tổ chóng già. Thôi, đi lấy ít vốtka nữa vào đây.

Iakốp Lukits sai thằng Xêmiôn đi lấy vốtka, còn lão, đang thèm được yên tĩnh một mình, vào kho lúa nằm dúi trong đống rơm hai tiếng đồng hồ, ngẫm nghĩ: “Đồ khỉ đột! Nó nói mình nghe mà muốn điên đầu. Hoặc là nó thử mình, xem xem mình ăn nói ra sao và có chống lại bọn họ không, rồi đợi Pôlốptxép về sẽ báo cáo… và lão này sẽ khử mình như khử Khốprốp chăng? Hay biết đâu nó nghĩ thế thật. Người ta lúc tỉnh có cái gì để bụng thì lúc say nói ra mồm… Có lẽ cũng chẳng dây dưa dính dáng với Pôlốptxép làm gì, nén chịu ở nông trang độ một hai năm chăng? Biết đâu một năm nữa, chính quyền thấy nông trang làm ăn không ra gì sẽ chẳng giải tán nó đi? Và mình sẽ trở lại sống ra con người… Ôi, lạy Chúa tôi! Tôi biết xoay thế nào bây giờ? Sẽ mất toi cái đầu thôi… Rõ ràng là đằng nào cũng vậy… Đem con cú quất vào gốc cây, hay đem gốc cây quất vào con cú, thì đằng nào con cú cũng về chầu giời…”.

Gió băng qua hàng rào thổi thốc vào nhà kho. Gió cuốn những cọng rơm vương vãi quanh cổng bay tới chân đụn rơm, đắp vào những lỗ chó bới, chải lại những chỗ bờm xờm chất không chặt, quét tuyết hanh trên nóc đụn rơm xuống rơi lả tả. Gió to, thổi mạnh và lạnh buốt. Iakốp Lukits cố nhìn mãi mà không biết được gió từ phía nào lại. Dường như gió chỉ luẩn quẩn quanh đống rơm và lần lượt từ bốn phía đông, tây, nam, bắc thổi tới. Gió động, làm bọn chuột trong đống rơm sợ chạy lục đục. Chúng kêu chút chít, lủi chạy theo những con đường bí mật của chúng, đôi lúc sát vào lưng Iakốp Lukits đang nằm chúi vào đống rơm. Lắng nghe tiếng gió rít, tiếng rơm xào xạc, tiếng chuột rúc rích và tiếng cót két tời nước ngoài giếng, Iakốp Lukits dường như thiu thiu: tất cả những tiếng động ban đêm ấy lão nghe như một khúc nhạc buồn, xa xăm và kỳ lạ. Đôi mắt lim dim rơm rớm nước mắt, lão nhìn bầu trời sao, hít lấy mùi rơm và hương gió thảo nguyên; mọi cảnh vật chung quanh, lão thấy nó đẹp và bình dị…

Nhưng nửa đêm, có người cưỡi ngựa từ ấp Vôxkôvôi mang thư Pôlốptxép tới. Liachépxki đọc lá thư ngoài bì có ghi “Hoả tốc”, rồi lay Iakốp Lukits đang ngủ dưới bếp dậy:

- Này, đọc đi.

Iakốp Lukits dụi mắt, đón lấy lá thư của Pôlốptxép gửi cho Liachépxki. Thư viết bằng bút chì tím trên một trang giấy sổ tay, nét chữ rõ ràng, đôi chỗ viết theo cách viết cổ:

“Ông một,

Chúng tôi đã nhận được tin chắc chắn rằng Ban chấp hành Trung ương của bọn bônsêvích đang trưng thu lúa mì của nhà nông, nói là để làm giống gieo cho các nông trang. Nhưng thực tế là lấy lúa để bán ra nước ngoài, và nhà nông, kể cả nông trang viên, sẽ bị lâm vào cảnh chết đói. Chính quyền Xôviết thấy trước ngày tận số của nó sắp tới và không thể tránh được, đem thóc bán sạch, làm cho nước Nga hoàn toàn phá sản. Tôi ra lệnh cho ông phải lập tức triển khai trong dân chúng Grêmiatsi Lốc, ở đó giờ đây ông là người đại diện cho liên minh của chúng ta,một cuộc tuyên truyền chống lại việc trưng thu lúa mì dưới chiêu bài thóc giống. Yêu cầu ông truyền đạt cho I. L rõ nội dung lá thư này, và trao cho ông ta nhiệm vụ lập tức tiến hành công việc tuyên truyền giải thích. Bất kỳ giá nào cũng phải phá cho bằng được việc trưng thu lúa mì này”.

                Đến sáng, Iakốp Lukits không đến trụ sở mà tới tìm Banhích và bọn đồng mưu đã được lão kết nạp vào “Liên minh giải phóng sông Đông”.

--------------------------

(*)          GPU: Tên tắt ngành công an Xôviết hồi đó. – ND.

CHƯƠNG  XXIV

Tổ ba người do Kônđrátkô, đội trưởng đội tuyên truyền, đặt ở lại Grêmiatsi Lốc đang tiến hành việc thu thóc giống! Họ đặt trụ sở tại một ngôi nhà kulắc bỏ không. Từ sáng sớm, anh cán bộ canh nông trẻ tuổi Vêchiunép đã cùng với Iakốp Lukits vạch ra và hoàn chỉnh kế hoạch gieo vụ xuân, giải đáp cho bà con kô-dắc đến hỏi về những vấn đề kỹ thuật nông nghiệp. Thời giờ còn lại, anh theo rõi không mệt mỏi việc chọn và ngâm thóc giống nhập kho, và thỉnh thoảng “đi thú y một cái”, như anh thường nói: chữa cho nhà nào đó con bò cái hoặc con cừu. “Công” khám bệnh anh nhận bằng “hiện vật”: chén một bữa tại nhà chủ có súc vật ốm, và đôi lần còn mang được cả một bình sữa hoặc nồi khoai tây luộc về cho anh em. Hai người còn lại – Porphiri Lúpnô, thợ dát của nhà máy xay quốc doanh trên khu, và Ivan Naiđênốp, đoàn viên Kômxômôn của nhà máy ép dầu, thì triệu tập bà con Grêmiatsi Lốc tới trụ sở, kiểm tra trên danh sách của thủ kho xem người được triệu đến đã nộp bao nhiêu thóc giống, và tuỳ theo khả năng và hiểu biết của mình mà tuyên truyền giải thích cho họ.

Ngay mấy ngày đầu đã chứng tỏ việc thu thóc giống có những khó khăn không nhỏ và khó mà hoàn thành đúng hạn. Mọi biện pháp của tổ công tác và của chi bộ địa phương đưa ra để đẩy nhanh nhịp độ tập trung thóc giống đều vấp phải sự chống đối kịch liệt của đại bộ phận nông trang viên và nông dân cá thể. Trong làng có tin đồn là thu thóc để xuất khẩu, rằng năm nay sẽ không gieo, rằng chiến tranh sắp nổ ra đến nơi… Nagunốp ngày nào cũng triệu họp, và với sự giúp đỡ của tổ công tác, anh giải thích, bác bỏ những tin đồn nhảm, đe doạ sẽ áp dụng những biện pháp trừng trị ác liệt nhất đối với những ai bị phát hiện đã “tuyên truyền chống Chính quyền Xôviết”, nhưng việc thu lúa mì vẫn cứ tiến hành một cách chậm chạp. Đàn ông thì sáng đã kiếm cớ bỏ nhà ra đi, hoặc là vào rừng kiếm củi, hoặc là đi cắt cỏ khô, hoặc sang nhà hàng xóm cùng chủ nhà ngồi vào chỗ khuất, thấp thỏm đợi cho qua ngày, tránh mặt người đến gọi lên trụ sở Xôviết hoặc trụ sở tổ công tác. Cánh đàn bà thì cũng thôi hẳn, không đi họp nữa, và khi có liên lạc của Xôviết ấp đến thì tống khứ đi bằng một câu gọn lỏn: “Ông nhà tôi đi vắng, còn tôi thì không biết”.

Cứ như có một bàn tay khổng lồ nào đang giữ lúa mì lại…

Tại trụ sở tổ công tác thường diễn ra những lời qua tiếng lại như thế này:

- Bác nộp thóc giống chưa?

- Chưa.

- Sao thế?

- Chả có hột nào cả.

- Chả có là thế nào?

- Có gì là lạ… Tôi có giữ để gieo, còn thừa bao nhiêu sau đó đã nộp thuế hết, hốc xịt không còn gì để nhá. Thế là phải đổ thóc giống ra ăn.

- Thế bác không định gieo à?

- Có chứ, nhưng chả còn gì mà gieo…

Nhiều người viện cớ đã đem cả thóc giống ra đóng thuế. Đavưđốp tại trụ sở nông trang, và Naiđênốp tại trụ sở tổ công tác ngồi lục bới sổ sách, biên lai chứng từ đóng thuế, kiểm tra lại và vạch cho người ngoan cố thấy họ đã khai láo: rõ ràng là còn thóc giống. Để làm được như thế, đôi lúc phải tính toán ước lượng số thóc tuốt trong năm hăm chín, xem lại số thóc đã nộp thuế và tính ra số dư. Nhưng khi đã rành rành là còn thóc, người ngoan cố vẫn không chịu:

- Có dư một ít, tôi không chối cãi. Nhưng chuyện vợ chồng con cái ăn thì các đồng chí biết nó như thế nào rồi. Chúng tôi quen cái lối ăn chẳng có cân kẹo gì cả, cứ xúc, chẳng đong. Định mức để lại cho chúng tôi là mỗi miệng ăn một tháng một pút, nhưng như tôi đây chẳng hạn, mỗi ngày tôi xơi hết ba bốn phuntơ. Ăn như thế vì thức ăn chẳng có quái gì cả. Thế cho nên mới lạm. Chả còn thóc đâu, xin cứ khám!

Họp chi bộ, Nagunốp đề nghị cho khám những dân khá giả nhất trong làng không chịu nộp thóc giống, nhưng Đavưđốp, Lúpnô, Naiđênốp và Radơmiốtnốp phản đối. Vả lại trong chỉ thị của huyện uỷ về thu thóc giống cũng cấm ngặt khám xét nhà.

Sau ba ngày cố gắng của tổ công tác và ban quản trị nông trang, chỉ thu được có 480 pút ở khu vực tập thể, và ở khu vực cá thể thì chỉ vẻn vẹn có 35 pút. Anh em cốt cán trong nông trang đã nhập kho đủ phần mình. Kônđrát Maiđanhikốp, Liubiskin, Đúpxốp, Đêmít Miệng hến, bác Suka, Akaska Mênốc, bác thợ rèn Salưi, Anđrây Radơmiốtnốp và anh em khác đã đem thóc đến ngay buổi đầu. Sáng hôm sau, hai cha con Iakốp Lukits và Xêmiôn ngồi trên hai xe trượt tuyết lững thững tới nhà kho tập thể. Iakốp Lukits lên thẳng ban quản trị, còn Xêmiôn thì dỡ các bao thóc trên xe xuống. Đemka Usakốp đứng nhận và cân. Xêmiôn đã đổ được bốn bao đang cởi dây bao thứ năm thì Usakốp nhảy vồ lấy hắn như con chim ưng vồ mồi:

- Bố mày định gieo bằng thóc này đấy à? – Và dúi vào mũi Xêmiôn một nắm thóc.

Xêmiôn đỏ mặt tía tai lên:

- Thóc  này thì làm sao? Mắt ông lác, ông nhìn gà hoá cuốc rồi!

- Gà với cuốc cái gì! Tao lác, nhưng con tinh hơn máy chán, quân ăn cắp! Hai bố con mày thì tốt lắm, chúng tao thừưưưa biết rồi! Thóc giống mà lại thế này à? Tao hỏi sao mày cứ quay mặt đi? Mày còn đổ cái gì vào chỗ thóc sạch của tao nữa đấy, hả đồ sâu bọ?

Đemka dúi lòng bàn tay vào mặt Xêmiôn, và trong lòng bàn tay là một nắm thóc bẩn, lẫn đất cát và hạt giả đậu.

- Để tao gọi thiên hạ đến xem…

Xêmiôn đâm hoảng:

- Bác làm gì mà tru tréo lên thế! Chắc là tôi lấy nhầm bao đấy thôi… Để tôi về nhà đổi lấy bao khác… Bao thật tuyệt vời! Mà việc gì bác phải nhẩy chồm chồm như ngựa tháo cương vậy? Tôi bảo là nhầm, sẽ đổi mà…

Đemka trả lại, bắt đổi sáu trong số mười bốn bao chở tới. Và khi Xêmiôn nhờ anh bốc giúp hắn lên vai một trong những bao thóc bị trả lại ấy, Đemka quay ra phía cái cân, làm như không nghe thấy.

- Bác không hộ cho à? – Xêmiôn hỏi, giọng đã run run.

- Không biết ngượng! Ở nhà mày vác giỏi thế, mà đến đây mày lại õng ẹo! Vác lấy, kệ mẹ mày!

Xêmiôn ráng sức đỏ rừ cả mặt, ôm ngang cái bao, xốc lên đi…

Trong hai ngày sau, hầu như không có ai đến nộp nữa. Hội nghị chi bộ quyết định đi thu từng nhà. Ngày hôm trước, Đavưđốp đã sang huyện bên, tới trạm chọn giống để xin thêm ngoài kế hoạch, đủ gieo vài hécta thôi cũng được, thứ giống xuân tiểu mạch chịu được hạn kéo dài và năm ngoái đã cho năng suất cao trên ruộng thí nghiệm của trại. Iakốp Lukits và đội trưởng sản xuất Agaphôn Đúpxốp đã nói nhiều về giống lúa mới này mà trạm đã gây được bằng cách lai giống “Caliphorni” nhập cảng với giống “hạt trắng” của địa phương. Và Đavưđốp, ít lâu nay đêm nào cũng dùi mài nghiên cứu các tập chí nông nghiệp, đã quyết định đi lên trạm xin cho được thứ giống mới ấy về.

Anh trở về hôm mồng 4 tháng Ba, và trước đó một ngày đã xảy ra sự việc như sau: Maka Nagunốp đến tăng cường cho đội hai từ sáng sớm đã cùng Liubiskin đi vòng một lượt được gần ba chục nhà, và đến chiều, khi Radơmiốtnốp và người thư ký rời trụ sở Xôviết, anh đã triệu lên trụ sở những chủ hộ mà hôm ấy anh không tới nhà được. Anh đã phải cho về bốn người mà chẳng đạt được kết quả cụ thể nào cả. Họ cứ một mực: “Không còn hạt thóc giống nào. Nhà nước phải cấp cho thôi”. Lúc đầu Nagunốp còn bình tĩnh giảng giải thuyết phục, rồi bắt đầu đập bàn đập ghế.

- Các anh bảo hết thóc là thế nào? Như anh Kônxtantin Gavrilôvits đây chẳng hạn, thu vừa rồi anh lại không đập đến ba trăm pút ấy à!

- Thế anh có nộp thóc thuế hộ tôi không?

- Anh đã nộp bao nhiêu?

- Một trăm ba  mươi pút.

- Thế chỗ còn lại đâu rồi?

- Đâu anh không biết à? Chén hết rồi!

- Nói láo! Nốc vào ngần ấy thì có mà vỡ bụng! Nhà anh sáu miệng, mà ăn hết ngần ấy thóc cơ à? Mang nộp ngay không ý kiến gì cả, không tôi tống cổ ra khỏi nông trang ngay tắp lự!

- Cứ tống cổ đi, anh muốn làm gì tôi thì làm, nhưng lạy Chúa, thóc thì không còn! Đề nghị chính quyền Xôviết cho vay, lãi cũng được…

- Anh quen cái thói bòn rút Chính quyền Xôviết rồi mà. Tiền anh vay quỹ tín dụng mua máy gieo và máy cắt cỏ anh đã trả chưa? Đấy, thấy chưa! Tiền ấy anh quỵt, bây giờ lại còn định gỡ gạc thóc nữa à?

- Máy gieo và máy cắt cỏ bây giờ thuộc nông trang rồi còn gì, tôi có được dùng đâu. Anh trách tôi thế nào được!

- Mang thóc đến đi, không thì khốn nạn cho anh đấy! Nói dối quanh mãi! Không biết ngượng!

- Nếu còn thóc thì tôi tiếc gì…

Nagunốp muốn lồng lộn thế nào thì lồng lộn, muốn thuyết thế nào thì thuyết, và muốn doạ thế nào thì doạ, rốt cuộc vẫn phải để cho mấy người không chịu nộp thóc ra về.

Họ đi ra, đứng ngoài hiên bàn tán hai ba phút, rồi cót két bước xuống thềm. Một lát sau, anh nông dân cá thể Grigori Banhích bước vào. Chắc hẳn anh ta đã biết câu chuyện với mấy nông trang viên vừa ở trụ sở Xôviết ra đã kết thúc như thế nào, và khoé miệng anh ta thoáng một nụ cười tự tin thách thức.

Nagunốp tay run run vuốt lại cho phẳng bản danh sách trên bàn, hậm hực nói:

- Mời anh ngồi.

- Dạ, xin vô phép.

Banhích ngồi xuống, hai chân dạng háng.

- Grigori Mátvêits, sao anh không đem thóc giống đến nhập kho?

- Nhưng sao tôi lại phải nhập?

- Thì hội nghị toàn thể đã quyết định như thế rồi thôi: cả nông trang viên lẫn bà con cá thể đều phải nhập thóc giống. Anh có để giống chứ?

- Tất nhiên là có rồi.

Nagunốp ngó bản danh sách: cạnh tên của Banhích, trong cột “Diện tích dự trù gieo vụ xuân năm 1930” có ghi con số 6.

- Năm nay anh định gieo sáu hécta tiểu mạch phải không?

- Đúng vậy.

- Nghĩa là anh có bốn mươi hai pút thóc giống phải không?

- Đủ ngần ấy, sàng sảy, phơi khô quạt sạch, đẹp như hạt vàng.

- Thế thì anh quả là một anh hùng! – Nagunốp thở hắt ra một cái nhẹ nhõm, biểu dương. – Mai anh chở nó đến kho tập thể. Cứ để nguyên bao. Thóc của bà con cá thể chúng tôi nhận nguyên bao, nếu bà con không muốn bị lẫn với thóc người khác. Anh cứ cân đong giao cho thủ kho, anh ấy sẽ đánh dấu xi vào bao, giao cho anh biên lai, rồi sang xuân sẽ trả lại anh nguyên vẹn, không suy suyển. Nhiều bà con cứ tiếc rẻ đã không giữ được giống, đổ ra ăn mất hết. Để ở kho đây thì đảm bảo hơn.

Banhích đưa tay lên vuốt bộ ria vàng hoe, toét miệng ra cười:

- Thôi đi, đồng chí Nagunốp ơi, cái tiết mục ấy của đồng chí không ăn tiền rồi! Tôi chẳng nộp thóc đâu.

- Tại sao vậy, tôi xin hỏi anh?

- Tại vì giữ nó ở nhà tôi thì đảm bảo hơn. Chứ đem nộp anh thì sang xuân, bao không cũng chẳng còn. Bây giờ chúng tôi khôn ra rồi, không đánh lừa được chúng tôi đâu!

Nagunốp nhíu đôi mày lại, hơi tái mặt:

- Sao anh lại có thể nghi ngờ Chính quyền Xôviết như vậy được? Nghĩa là anh không tín nhiệm?

- Đúng đấy, tôi không tín nhiệm! Tôi chán tai nghe những lời nói dối của bọn các anh rồi.

- Ai nói dối? Và nói dối cái gì? – Nagunốp tái mặt đi trông thấy, từ từ đứng dậy.

Nhưng Banhích thản nhiên như không, vẫn cứ nhăn hai hàm răng thưa và chắc nịch ra cười khúc khích, chỉ có giọng anh ta là run lên vì uất ức và giận dữ khi anh nói:

- Các anh thu thóc, rồi cho xuống tàu thuỷ đưa ra nước ngoài chứ gì? Để sắm ô tô cho các ông đảng viên đi dạo cùng các bà đầu súp-lơ phải không? Chúng tôi biết to-o-ỏng các anh phung phí thóc lúa của chúng tôi vào những cái gì rồi! Chán cái bình đẳng lắm!

- Mày hoá rồ rồi hay sao, hả đồ sâu bọ? Mày lảm nhảm cái gì đấy?

- Anh mà bị người ta bóp cổ lè lưỡi ra thì anh cũng đến hoá rồ! Tôi đã bỏ ra một trăm mười sáu pút đóng thuế rồi! Bây giờ còn tí thóc giống, anh định lấy nốt… để con cái tôi… chết đói hả?

Nagunốp đập bàn:

- Câm mồm! Nói láo, đồ chó chết!

Cái bàn tính rơi xuống đất, lọ mực lăn kềnh ra. Một dòng mực đặc sánh, tím biếc, trườn qua mặt giấy, đổ xuống vạt áo varơi lông thuộc của Banhích. Banhích lấy tay xoa vết mực đi, đứng dậy. Mắt anh ta nheo lại, mép sùi bọt trắng. Nén cơn điên lại, anh ta tru tréo:

- Anh đừng có khoá miệng tôi! Anh về mà đấm con vợ Luska nhà anh ấy, chứ tôi đâu phải vợ anh! Bây giờ không phải là năm 1920 nữa, anh hiểu không? Tôi không nộp thóc… Đừng hòng!...

Nagunốp toan chồm qua bàn túm lấy Banhích, nhưng rồi lại lập tức loạng choạng?... Mày dám nhạo báng chủ nghĩa xã hội à, đồ rắn độc?... Ông thì… - Anh hổn hển, tìm không ra lời, nhưng rồi tự chủ lại được, đưa mu bàn tay lên quệt mồ hôi nhễ nhại trên mặt, nói: - Mày viết ngay cho tao một tờ giấy cam đoan sẽ mang thóc đến nộp, và  ngay ngày mai, tao sẽ cho mày đến chỗ cần đến. Ở đấy người ta sẽ tra hỏi mày đã nghe được những luận điệu ấy ở đâu!

- Anh bắt tôi thì cứ bắt, còn giấy thì tôi không viết, và thóc tôi không nộp!

- Tao bảo mày viết!...

- Đợi tí đã…

- Tao yêu cầu tử tế…

Banhích bước ra cửa, nhưng xem chừng trong bụng tức sôi lên sùng sục, không nén được. Tay nắm lấy qủa đấm cửa, anh ta buông ra một câu:

- Về bây giờ, tôi sẽ đổ hết thóc ấy cho lợn! Cho chúng nó vỡ bụng ra còn hơn nộp cho các anh, những kẻ ăn không ăn hớt!...

- Thóc giống mà đem đổ cho lợn hả?

Nagunốp nhảy hai bước ra đến cửa, rút khẩu súng lục trong túi ra, đánh cho Banhích một báng súng vào thái dương. Banhích loạng choạng, tựa vào tường, miết lưng vào tường vôi gục xuống đất. Anh ta ngã lăn kềnh, máu đen từ vết thương ở thái dương rỉ ra, bết vào tóc. Nagunốp lúc này không còn tự chủ được nữa, đá phốc cho anh ta vài cái nữa, rồi quay đi. Banhích, như con cá trên cạn, ngáp ngáp một hai cái, rồi bám vào tường vôi lóp ngóp đứng dậy. Và anh ta vừa đứng thẳng người lên thì máu ộc ra. Anh ta lẳng lặng đưa cánh tay áo lên chùi. Phấn bụi trên lưng áo trắng xoá của anh ta rơi xuống. Nagunốp tu thẳng vào cái bình đựng nước ấm lờm lợm, răng va lạch cạch vào miệng bình. Lừ mắt nhìn Banhích lúc ấy đã đứng dậy, anh bước tới, nắm lấy hai khuỷu tay anh ta như kẹp vào hai gọng kìm, đẩy anh ta tới bàn, ấn cây bút chì vào tay:

- Viết đi!

- Tôi viết, nhưng chuyện này rồi sẽ tới tai ông công tố… Súng lục doạ thì cái gì tôi chẳng phải viết… Dưới chính quyền xôviết không được phép đánh người… Đảng cộng sản không cho phép anh thế đâu! – Banhích lẩm bẩm, giọng khàn khàn, buông phịch người xuống chiếc ghế đẩu.

Nagunốp đứng đối diện, ngón tay đặt sẵn lên cò súng.

- Hà, đồ phản cách mạng, còn nhớ đến chính quyền Xôviết, đến Đảng à! Mày thì sẽ không phải là toà án nhân dân xử, mà là tao xử ngay đây, theo lối của tao. Mày mà không viết, tao sẽ cho mày một phát chết tươi như giết một con rắn độc, rồi tao sẽ đi tù mười năm cũng được! Tao không cho phép mày nói láo lếu về Chính quyền Xôviết! Viết đi: “Giấy cam đoan”. Xong chưa? Viết: “Tôi nguyên là một tên lính bạch vệ, phần tử tích cực trong đội quân Mamôntốp đã từng cầm súng đánh lại Hồng quân, xin rút lui những lời…”. Xong chửa? Viết tiếp: “… những lời không tha thứ được của tôi thoá mạ Đảng Cộng sản toàn Liên bang (b)”. Chữ Đảng, Cộng và Liên viết hoa, xong chưa? “… và Chính quyền Xôviết. Tôi xin lỗi Đảng và Chính quyền, và xin hứa từ nay, mặc dù tôi đích thị là một tên phản cách mạng giấu mặt…”

- Tôi không viết. Sao mà ức hiếp tôi quá thế?

- Không, mày phải viết! Mày tưởng thế nào? Mày tưởng tao đây, tao bị thương, bị tàn phế vì bàn tay của bọn bạch vệ, tao sẽ bỏ qua cho mày lời lẽ của mày hả? Mày thoá mạ Chính quyền Xôviết trước mặt tao, tao lại ngậm miệng làm ngơ hả? Viết, không thì mày hết ngáp!...

Banhích bò soài xuống mặt bàn, và cây bút chì trong tay anh ta lại chậm chạp đưa đẩy trên trang giấy. Ngón tay vẫn đặt trên cò súng, Nagunốp đọc rành rọt từng tiếng:

- “… mặc dù tôi đích thị là một tên phản cách mạng giấu mặt, tôi sẽ không dám nói một điều gì, viết một điều gì, làm một điều gì có hại đến Chính quyền Xôviết thân yêu của mọi người cần lao và đã giành được nhờ bao  nhiêu hy sinh xương máu của nhân dân lao động. Tôi sẽ không dám chửi bới, xúc phạm Chính quyền Xôviết, và sẽ kiên trì chờ đợi cách mạng thế giới sẽ đưa tất cả chúng tôi, những kẻ thù không đội trời chung của nó trên phạm vi toàn thế giới, đến ngày tận số. Tôi cũng xin cam đoan sẽ không cản đường Chính quyền Xôviết, không giấu diếm thóc giống, và ngày mai, mồng 3 tháng Ba năm 1930, sẽ mang đến nộp vào kho công cộng…”.

Vừa lúc đó, người thường trực bước vào phòng, có ba nông trang viên theo sau.

- Đợi tôi ngoài ấy một tí! – Nagunốp quát bảo họ, và quay lại phía Banhích, đọc tiếp: - “… bốn mươi hai pút hạt giống tiểu mạch. Tôi cam đoan và xin ký”. Ký đi!

Bannhích, mặt đã đỏ dừ, ký nguệch ngoạc và đứng dậy.

- Anh Maka Nagunốp, việc này anh sẽ chịu trách nhiệm!

- Tao với mày, đứa nào chịu trách nhiệm phần đứa đấy, mai mà mày không đem thóc đến, tao giết chết toi!

Nagunốp gấp tờ giấy, đút vào túi ngực áo kaki, ném khẩu súng lục xuống bàn, đưa Banhích ra tới cửa. Anh ở lại trụ sở Xôviết tới nửa đêm. Anh ra lệnh cho người thường trực không được vắng mặt, và với sự giúp sức của anh ta, tống giam khoá trái lại trong một gian phòng bỏ không ba nông trang viên nữa đã không chịu nộp thóc giống. Quá nửa đêm, lả người vì mệt và vì những cơn xúc động vừa qua, anh ngủ thiếp đi bên bàn trụ sở Xôviết, cái đầu rối bù gục xuống hai bàn tay dài nghêu. Gần sáng, anh nằm mơ thấy từng đoàn người lũ lượt mặc quần áo ngày hội, trùng trùng điệp điệp kéo nhau đi, như dòng nước lũ tràn ngập thảo nguyên. Xen quãng vào người là những đoàn ngựa. Những con ngựa đủ màu lông bước đi trên mặt đất mềm của thảo nguyên, nhưng không hiểu sao tiếng vó ngựa lại rền vang, rầm rập, cứ như có những đội kỵ binh đang diễu qua trên những lá tôn trải rộng. Bỗng, ngay sát bên Maka, kèn đồng bóng loáng của đoàn quân nhạc cử bài “Quốc tế ca” và, hệt như lúc thật, Maka cảm thấy nao nao xúc động, một cục gì nong nóng nghèn nghẹn trong cổ… Ở cuối đội kỵ binh đang diễu qua, Maka trông thấy Michia Lôbáts, một anh bạn đã hy sinh, bị bọn Vranghen chém chết năm 1920 trong trận Kakhốpka. Anh cũng chẳng ngạc nhiên, mà lại mừng và, chen lấn xô đẩy những người xung quanh, anh nhảy bổ tới chỗ đội kỵ binh đang tiến. “Michia! Michia! Đứng lại!”. Anh gọi, nhưng miệng gọi mà tai lại chẳng nghe thấy tiếng mình. Michia ngồi trên yên quay đầu lại, nhìn Maka một cái nhìn thản nhiên, như nhìn một người nào không quen biết, rồi phóng đi nước kiệu. Liền lúc đó, Maka trông thấy anh lính cần vụ cũ của mình là Chiulim, chết vì một viên đạn Ba Lan trong trận Brôđư cũng cùng năm ấy, phi ngựa đến chỗ anh. Chiulim mỉm cười, tay phải nắm lấy dây cương con ngựa của Maka. Còn con ngựa, vẫn cái con chân trắng mặt xương ấy, thì bước đi nghênh ngang, cao lớn, đầu ngẩng lên kiêu hãnh, cái cổ cong cong..

Gió xuân lay cánh cửa chớp cót két suốt đêm, Maka nằm mơ ngỡ là tiếng nhạc, còn tiếng mái tôn loảng xoảng thì là tiếng vó ngựa rầm rập… Radơmiốtnốp tới trụ sở Xôviết vào quãng sáu giờ sáng thấy Nagunốp vẫn còn đang ngủ. Trên cái má vàng vọt của Maka rọi ánh ban mai tím ngắt của một sáng tháng Ba, ngưng đọng một nụ cười căng thẳng, chờ đợi. Đôi lông mày rộng của anh dướn lên dướn xuống trong một vẻ kích động, đau khổ… Radơmiốtnốp huých Maka dậy mắng té tát:

- Làm lung tung beng ra đấy rồi ngủ khì à? Mơ cái gì thú lắm hay sao mà nhăn răng ra thế? Vì lý do gì mà cậu đánh đập Banhích? Sáng bảnh mắt hắn đã chở thóc giống đến giao, rồi đâm bổ ngay lên huyện. Cậu Liubiskin chạy đến tìm tôi, bảo là Banhích lên đồn dân cảnh kiện cậu. Đánh đã sướng tay chưa. Hôm nay Đavưđốp về, cậu ấy sẽ bảo sao? Ông Maka ơi là ông Maka…

Nagunốp đưa lòng bàn tay xoa xoa cái mặt phị ra vì kiểu ngủ gục không thoải mái, và mơ màng mỉm cười:

- Anđrây ạ! Mình vừa mới mê một giấc ra-a-a-a mê! Hay vô kể!

- Cậu dẹp cái chuyện mê mẩn đi! Trình bày mình nghe chuyện Banhích xem sao nào.

- Nói làm thèm vào chuyện cái giống sâu bọ ấy! Cậu bảo là nó chở thóc đến rồi à? Ồ, thế có nghĩa là có tác động đấy… Bốn mươi hai pút thóc giống, có phải tầm xoàng đâu. Nếu chỉ cần một báng súng lục để làm cho mỗi tên phản cách mạng chịu xuỳ ra bốn chục pút, thì suốt đời mình sẽ chỉ làm cái việc ấy: đi lùng, rồi choảng! Nó ăn nói như thế thì một đòn như vậy chưa đủ! Nó phải lấy làm mừng là mình chưa tháo cặp giò nó ra đấy! – Rồi điên tiết lên anh nói tiếp, mắt long sòng sọc: - Chính nó, thằng khốn nạn ấy, đã lẽo đẽo bám đít tên tướng Mamôntốp. Nó chống lại ta mãi đến khi bị cho tắm nước Hắc Hải mới thôi, thế mà bây giờ nó lại còn đứng chắn ngang đường, làm hại cách mạng thế giới! Nó nói với mình về Chính quyền Xôviết và về Đảng như thế nào cậu có biết không? Mình nghe ức đến hộc máu mồm!

- Chấp làm đếch gì! Mà cũng chẳng nên đánh, bắt thì hơn.

- Không, bắt làm gì, nó thì cứ phải bắn chết tươi! – Nagunốp giang tay ra, tiếc rẻ: - Sao lúc ấy mình lại không cho nó một phát nhỉ? Đầu óc mình lúc ấy thế nào ấy! Bây giờ mới tiếc!

- Bảo cậu là ngu ngốc thì cậu giận, nhưng ngớ ngẩn thì cậu không để đâu cho hết! Đợi Đavưđốp về, anh ta sẽ lý thuyết cho cậu  một trận về cái lối ấy!

- Đavưđốp về sẽ tán thành mình, anh ta không ngang phè phè như cậu đâu.

Radơmiốtnốp cười, gập ngón tay gõ gõ lên bàn, rồi gõ vào trán Maka, nói:

- Cũng một tiếng kêu như vậy!

Nhưng Maka cáu kỉnh gạt tay anh ra, mặc áo varơi vào. Ra đến cửa rồi, tay nắm quả đấm cửa, anh mới làu bàu, đầu chẳng quay lại.

- Này, ông thông minh tài giỏi thế thì nhờ ông thả hộ mấy thằng tiểu tư sản ở phòng bên ra, và bảo chúng nó chở thóc đến ngay hôm nay, kẻo tôi đi rửa ráy về tôi tống cổ giam lại chúng nó vào đấy đấy.

Radơmiốtnốp trợn mắt lên sửng sốt… Anh nhảy bổ tới gian phòng bỏ không, chỗ để lưu trữ công văn giấy tờ của xôviết và những mẫu lúa trưng bày ở triển lãm nông nghiệp huyện năm ngoái. Anh mở cửa ra và thấy ba nông trang viên trong đó: Kraxnôkutốp, Anchíp Gráts, và anh chàng Apôlôn Pexkôvátxkốp oắt tì xà lai. Đêm qua họ đã rải những tập báo cũ xuống đất đánh một giấc ngon lành. Thấy Radơmiốtnốp vào, họ lóp ngóp đứng dậy.

- Bà con ạ, tất nhiên là tôi phải… - Radơmiốtnốp mào đầu định nói, thì một trong ba người bị bắt, ông lão kô-dắc Kraxnôkutốp nhanh nhẩu ngắt lời anh:

- Biết nói với anh thế nào, anh Anđrây Xtêpanưits ạ, chúng tôi có lỗi đứt đuôi đi rồi… Anh cho chúng tôi về, chúng tôi sẽ mang nộp thóc ngay… Đêm qua chúng tôi có trao đổi với nhau vài ba ý kiến và đã bảo nhau phải nộp thóc…Nói dối phải tội, đúng là chúng tôi muốn găm thóc giống…

Radơmiốtnốp đang định xin lỗi về hành động thiếu chín chắn của Nagunốp, trước tình hình đó đã tuỳ cơ ứng biến đổi luôn giọng:

- Đáng lẽ bà con phải nộp lâu lắm rồi mới phải! Bà con là nông trang viên cơ mà! Găm thóc giống là sai lắm đấy!

- Anh vui lòng thả cho chúng tôi về, và thôi, chuyện cũ bỏ qua… - Anchíp Gráts mỉm cười ngượng ngùng trong bộ râu đen như bồ hóng.

Radơmiốtnốp mở toang cửa ra, đi trở lại bàn giấy, và phải nói rằng lúc này, trong đầu anh luẩn quẩn một ý nghĩ: “Khéo cậu Maka đúng cũng nên? Già đòn non nhẽ, ép mạnh tí nữa khéo chỉ một ngày là thu xong!”.

CHƯƠNG XXV

Đavưđốp lên trạm giống, mang về được mười hai pút hạt tiểu mạch loại chọn lọc, phấn khởi, hài lòng về chuyển đi thành công. Trong khi dọn cho anh ăn sáng, bà chủ nhà kể lại anh nghe trong thời gian anh đi vắng, Nagunốp đã đánh nhừ tử Grigori Banhích và bắt ba nông trang viên giam lại một đêm tại trụ sở Xôviết. Tin này rõ ràng là đã lan đi khắp Grêmiatsi Lốc. Đavưđốp ăn vội ăn vàng rồi đi lên trụ sở Xôviết, trong bụng lo ngay ngáy. Ở đó anh được nghe xác nhận câu chuyện bà chủ nhà kể, thêm vào đấy nhiều chi tiết cụ thể. Về hành động của Nagunốp, mỗi người đánh giá một phách: một số tán thành, một số khác phản đối, một số nữa im lặng dè dặt. Liubiskin chẳng hạn dứt khoát đứng về phía Nagunốp, còn Iakốp Lukits thì mồm giảu ra như cái tĩ gà, nom hậm hực ra mặt, cứ như chính lão đã bị Nagunốp mắng mỏ vậy. Lát sau, Maka tới trụ sở, nom vẻ lầm lì hơn thường lệ. Anh bắt tay Đavưđốp một cái dè dặt, liếc nhìn anh, chờ đợi và lo ngầm trong bụng. Còn lại hai  người với nhau, Đavưđốp không nén được nữa, gay gắt hỏi:

- Nghe nói cậu có chuyện gì lạ lắm hả?

- Biết rồi còn hỏi làm gì…

- Bằng những phương pháp kiểu ấy cậu định tuyên truyền vận động thu thóc giống à?

- Ai bảo nó ăn nói láo xược như thế với tôi? Mình đã không thể tha thứ những lời phỉ báng của kẻ địch, của bọn chó má bạch vệ ấy!

- Nhưng cậu có nghĩ chuyện ấy sẽ tác động đến những người khác như thế nào không? Kết quả về mặt chính trị sẽ như thế nào?

- Lúc ấy còn thời giờ đâu mà nghĩ.

- Cậu trả lời thế mà nghe được à? Đáng lẽ cậu phải bắt giam hắn về cái tội lăng mạ chính quyền, chứ không đánh đập. Đó là một hành động đáng xấu hổ đối với một người cộng sản, thực tế thế! Ngay hôm nay, chúng tôi sẽ đặt vấn đề cậu ra trước chi bộ. Bằng hành động của cậu, cậu đem lại bao nhiêu tác hại! Chúng ta phải đem ra phê phán! Và mình sẽ nói về chuyện này ở đại hội nông trang viên, không cần xin ý kiến huyện uỷ, mình nói thật đấy! Vì nếu chúng mình im lặng thì bà con nông trang viên sẽ tưởng chúng mình với cậu là cùng một giuộc và bao che cậu trong việc này. Không, anh bạn ạ! Chúng tôi không về hùa với cậu, và sẽ phê phán cậu! Cậu là một người cộng sản nhưng cậu hành động như một thằng cảnh sát ngày xưa. Thật là nhục nhã! Làm ăn như thế, quỷ tha ma bắt cậu đi cho rồi!

Nhưng Nagunốp bướng bỉnh như một con bò đực. Đáp lại tất cả những lý lẽ Đavưđốp đưa ra để giải thích cho anh rằng một hành động như thế là không thể dung thứ được đối với người cộng sản và có hại về chính trị, anh trả lời:

- Tôi đánh nó là đúng! Mà tôi đã đánh gì nó đâu, chỉ mới gõ có một cái thôi, chưa thấm tháp gì. Thôi để tôi yên! Bây giờ uốn nắn tôi, thì muộn rồi; là chiến sĩ du kích, tự tôi thừa biết cách bảo vệ Đảng của mình chống lại sự tấn công của bất cứ quân chó má nào!

- Thì mình có bảo thằng cha Banhích ấy là người của ta đâu, trời đánh thánh vật nó! Mình chỉ bảo cậu không nên đánh nó. Bảo vệ Đảng chống lại những lời thoá mạ thì thiếu gì cách, thực tế thế! Để cho cái đầu của cậu nó nguội nguội đi, cậu nghĩ lại rồi tối nay ra hội nghị chi bộ thế nào cậu cũng bảo là tôi nói đúng, thực tế thế!

Đến tối, trước khi họp chi bộ, Maka vừa mới hầm hầm bước vào Đavưđốp đã hỏi luôn:

- Nghĩ chưa?

- Nghĩ rồi

- Thế nào?

- Quân chó đẻ ấy, tôi đánh nó thế chưa ăn thua gì. Giết chết tươi mới phải!

Tổ ba người của đội tuyên truyền hoàn toàn đứng về phía Đavưđốp và biểu quyết tán thành thi hành kỷ luật nghiêm khắc đối với Nagunốp. Anđrây Radơmiốtnốp không biểu quyết, suốt buổi chỉ nín thinh, nhưng đến lúc sắp ra về rồi thấy Maka vẫn bướng bỉnh làu bàu: “Quân điểm của tôi đúng, tôi bảo lưu”, thì Radơmiốtnốp đứng bật dậy, bỏ chạy ra ngoài, vừa khạc nhổ ầm ĩ vừa chửi vung lên.

Đứng dưới mái hiên tối om châm thuốc hút, dưới anh lửa que diêm nhìn khuôn mặt Nagunốp chỉ một ngày qua mà phờ phạc hẳn đi, Đavưđốp làm lành, nói:

- Này, Maka, cậu giận chúng mình là sai, thực tế thế!

- Giận gì đâu.

- Cậu làm việc theo lối du kích ngày xưa, nhưng bây giờ là một thời kỳ mới, không thể đánh đột kích được nữa, mà phải đánh trận địa… Tất cả chúng ta đều mắc cái bệnh du kích chủ nghĩa, đặc biệt là lính thuỷ chúng mình, và tất nhiên là cả mình nữa. Cậu có bị thần kinh thật, nhưng Maka thân mến ạ, ta phải… cầm cương được mình, có phải không? Này, cậu nhìn lứa trẻ mà xem: cậu đoàn viên Kômxômôn của đội tuyên truyền, Vanhiuska Naiđênốp, đã làm được những việc thật lỳ diệu! Khu vực cậu ấy phụ trách đã thu được nhiều thóc nhất, gần như nộp hết rồi. Nom thì không có vẻ tháo vát gì lắm, rỗ hoa, bé lũn cũn, ấy thế mà làm việc giỏi hơn mọi người chúng ta. Cái thằng ma mãnh ấy, hắn cứ đi từng nhà, chuyện trò vui vẻ, nghe nói hắn kể cho bà con mugích nhà ta nghe những chuyện trời đất gì chẳng biết… Thế rồi người ta cứ kìn kìn chở thóc đến cho hắn, chẳng cần đánh ai vỡ đầu và chẳng cần tống ai vào “nhà đá” cả, thực tế thế! – Trong giọng nói của Đavưđốp nghe có những âm hưởng ấm áp và như có ẩn một nụ cười khi anh nói về Naiđênốp. Và Nagunốp cảm thấy dâng lên trong lòng một cái gì đó giống như ghen với anh chàng thanh niên Kômxômôn tháo vát kia. Đavưđốp nói tiếp:

- Mai cậu thử đi tò mò với hắn một vòng các nhà xem xem hắn đạt được kết quả thế bằng cách nào. Làm như vậy thì chẳng có gì là mất thớ cho cậu cả. Cậu ạ, thanh niên đôi lúc có những cái đáng cho chúng mình học tập, thực tế thế! Họ lớn lên có những cái không giống như chúng ta, họ dễ thích nghi hơn…

Nagunốp nín thinh, và sáng hôm sau, vừa ngủ dậy đã mò đến tìm Naiđênốp, và như nhân tiện, nói:

- Hôm nay mình rỗi, mình định đi với cậu, đỡ cậu một tay. Ở đội hai các cậu còn nhiều người chưa nộp không?

- Chả còn mấy, đồng chí Nagunốp ạ! Ta đi đi, hai  người càng vui.

Họ đi. Naiđênốp đi cái kiểu bước nhanh thoăn thoắt mà Nagunốp không quen, người lắc lư như con vịt. Tấm áo dạ của anh ta thơm mùi dầu quỳ để phanh ngực, và chiếc mũ kêpi kẻ ô vuông đội sụp xuống tận mắt. Nagunốp tò mò liếc nhìn khuôn mặt rất bình thường, lấm tấm tàn hương như mặt trẻ con của người thanh niên Kômxômôn mà hôm qua Đavưđốp đã gọi là “Vanhiuska” với một giọng trìu mến không phải thói thường của anh. Trên khuôn mặt ấy có một cái gì dễ gây thiện cảm, gần gũi với ta lạ thường: phải chăng đó là đôi mắt thao láo màu tro lấm tấm hay cái cằm nhô ra một cách bướng bỉnh chưa mất hết cái dáng của tuổi thiếu niên…

Họ đến nhà cụ Akim Bexkhlépnốp đã có hồi bị mệnh danh là “lão mò gà”, giữa lúc cả nhà đang ngồi quanh bàn ăn sáng. Ông lão ngồi ở góc phía ngoài, bên cạnh là ông con trai trạc tuổi bốn mươi, cũng tên là Akim, thường gọi là bác Hai, bên phải bác là bác gái và bà mẹ vợ già lụ khụ goá chồng. Hai cô con gái lớn ngồi phía cuối bàn, còn hai bên bàn thì bọn trẻ lúc nhúc bâu lại như ruồi.

Naiđênốp cất chiếc mũ kêpi thấm dầu quỳ trên đầu xuống, vuốt lại mớ tóc dựng ngược bờm xờm:

- Chào cả nhà!

- Xin chào các anh! Chắc là có việc đấy chứ, - anh Hai Akim vốn tính vui vẻ xởi lởi, khẽ nhếch mép cười, đáp.

Đáp lại câu chào đùa ấy, Nagunốp đã muốn cau mày lại và nói giọng nghiêm khắc nhất: “Chúng tôi không có thì giờ đùa với các người. Tại sao đến giờ chưa đem thóc đến nộp?”. Nhưng Naiđênốp làm như không thấy cái vẻ giữ ý hơi lạnh nhạt trên gương mặt của chủ nhà, mỉm cười nói:

- Mời cả nhà xơi cơm!

Anh Hai Akim không muốn mời khách, chưa kịp mở miệng buông ra một câu gọn lỏn “vâng” hoặc đùa một câu sỗ sàng: “Vâng, cơm ai người ấy ăn, mời các anh ngồi chơi” thì Naiđênốp đã nói tiếp luôn:

- Xin cứ tự nhiên! Mặc chúng tôi! Nhưng nếu mời thì cháu cũng chẳng làm khách đâu… Thú thật là sáng nay chưa có gì lót dạ. Đồng chí Nagunốp là người sở tại, tất  nhiên đã ních đầy bụng rồi, nhưng anh em chúng cháu thì cả ngày mới được một bữa…

Anh Akim phì cười:

- Nghĩa là không gieo, không gặt, mà vẫn cứ no chứ gì?

- No hay đói thì đời vẫn cứ vui như thường.

Miệng nói, tay cởi cáo da thoắt một cái là xong, anh ngồi luôn vào bàn trước con mắt sửng sốt của Nagunốp.

Thấy khách tự nhiên như thế, cụ Akim đằng hắng một tiếng, còn anh Hai Akim thì cười ha hả:

- Thế mới đúng là ba cùng! May mà anh đã kịp cướp lời tôi đấy. Nghe anh mời cơm, tôi đã định nói: “Vâng, cơm ai người ấy ăn, mời các anh ngồi chơi!”. Con bé kia, lấy cho anh cái thìa!

Một trong hai cô gái đứng vụt dậy, chúi vào sau tấm màn phì cười, rồi chạy đi lấy thìa. Cô đưa cho Naiđênốp một cách trịnh trọng, đúng cung cách mời một người đàn ông. Không khí bàn ăn vui nhộn hẳn lên. Anh Hai Akim cũng mời cả Nagunốp, nhưng Nagunốp khước từ, ra ngồi xuống mặt hòm. Chị Akim, có đôi lông mày trắng, tủm tỉm đưa một khoanh bánh mì mời khách. Cô con gái đưa thìa xong, chạy vào buồng mang ra một tấm khăn sạch đặt vào lòng Naiđênốp. Anh Hai Akim nhìn khuôn mặt lốm đốm tàn nhang của anh chàng thanh niên “tự  nhiên như người thành thị” với vẻ tò mò và hài lòng ra mặt, nói:

- Này, đồng chí ạ, anh làm thế nào mà con bé nhà tôi phải lòng anh rồi đấy: nó cấm bao giờ đưa cho bố được cái khăn sạch thế đâu, thế mà anh mới đặt đít ngồi đã có ngay. Anh ưng thì tôi cho luôn đấy!

Cô con gái bị bố trêu, đỏ dừ mặt; cô ta che mặt đứng dậy bỏ chạy, Naiđênốp đế thêm vào không khí vui vẻ ấy, cũng nói đùa:

- Chắc là cô ấy chẳng mê được bộ mặt lấm tấm gỉ này đâu. Cháu chỉ có thể đi hỏi vợ vào lúc nhá nhem thôi, lúc ấy thì cháu mới đẹp giai và mới được các cô ấy thích.

Họ dọn ra món chè lê. Chuyện trò tạm ngừng. Chỉ còn nghe thấy tiếng mồm nhai tóp tép và tiếng thìa gỗ khua đáy bát. Không khí im lặng chỉ chấm dứt khi thìa của một thằng nhãi bắt đầu ngoáy lộn bát lên tìm quả lê. Lúc ấy, cụ Akim liếm sạch cái thìa, cầm gõ đánh cộc một cái vào trán thằng bé háu ăn, mắng:

- Ngoáy vừa chứ!

- Sao tự nhiên lại ắng đi như ở nhà thờ ấy nhỉ! – Chị Akim lên tiếng:

Ivan đã ních đẫy món cháo mì và chè lê, nói:

- Nhà thờ không phải lúc nào cũng im lặng đâu, bác ạ. Đấy như ở quê cháu, lễ Phục sinh vừa rồi có một chuyện, cười đến vỡ bụng.

Chị Akim đang lau bàn, ngừng tay. Anh Hai Akim cuốn xong điếu thuốc lá, ra ngồi xuống tấm ghế dài, đón nghe chuyện, và cả cụ Akim nữa, vừa ợ vừa làm dấu phép, cũng vểnh tai nghe Naiđênốp. Nagunốp, nom sốt ruột ra mặt, nghĩ bụng: “Đến bao giờ hắn mới nói chuyện thóc giống? Xem chừng cũng khó nhá đây! Chuyển được cả hai bố con Akim chẳng phải dễ, hai tay cứng đầu cứng cổ nhất trong toàn Grêmiatsi này. Và đe thì đe làm sao được thằng Hai Akim kia, là đứa đã đi Hồng quân về, và nói chung là một anh kô-dắc tốt? Nhưng thóc thì hắn sẽ chẳng chịu nộp đâu, vì hắn bo bo của tư hữu, lại keo kiệt. Giữa mùa đông cũng đừng hòng xin được hắn nắm tuyết, còn lạ gì nó!”.

Trong khi đó thì Ivan Naiđênốp ngừng một tí, rồi tiếp:

- Cháu quê ở huyện Tátxinxki. Ở quê chúng cháu một lần, vào dịp lễ Phục sinh có xảy ra một chuyện như thế này ở nhà thờ: hôm ấy là buổi lễ lớn, con chiên tập hợp đông đủ tại nhà thờ, chen chúc đến ngốt người. Ông giáo trưởng và ông trợ tế ề à hát và đọc kinh, còn bên hàng rào chấn song thì bọn nhãi nô. Làng cháu có một con bò cái tơ một tuổi, nó dữ đến nỗi hơi đụng đến nó, nó đã lao đến như mũi tên, húc túi bụi. Con bò đang đứng gặm cỏ yên lành bên hàng rào, nhưng bọn nhãi trêu ghẹo nó thế nào mà nó lồng lên đuổi một thằng, và đuổi theo đã sát đít! Thằng bé chạy vào sân, còn bò chạy vào theo, thằng bé lên thềm, con bò bám gót luôn. Bên cửa nách, người đứng đông lèn. Con bò cái lấy đà, rồi chơi cho cu cậu một cú ra-a-a dáng vào đít nhá! Thằng nhóc lộn tùng phèo vào chân một bà lão. Bà lão ngã quay lơ, cộc đầu xuống đất, và tru tréo lên: “Ối làng nước ơi! Cứu tôi với! Ối đau quá!”. Ông chồng bà lão cầm nạng phang cho thằng nhãi một cái vào lưng: “Cho mày chết đi, con nhà ôn vật!...”. Còn ả bò cái thì: “Bê-ê-ê!”, rồi chĩa sừng tiến về phía ông lão. Thế là hoảng cả lên nhá! Đám ở sát bên bệ thờ, chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, nghe thấy ngoài cửa ồn ào, ngừng đọc kinh, đứng ngẩn ra xôn xao người nọ hỏi người kia. “Ai làm gì ồn lên ngoài ấy thế nhỉ?”, “Có chuyện gì thế?”.

Ivan hứng lên, bắt chước điệu bộ của bà con dân làng ngơ ngác xì xào với nhau khéo đến nỗi bác Hai Akim không nhịn được nữa, và là người đầu tiên cười ha hả:

- Con bò đáo để nhỉ!

Ivan cũng cười, phô ra hai hàm răng trắng bóng, kể tiếp:

- Một anh chàng nào đó nói tếu: “Khéo có chó dại, chuồn đi thôi!”. Một bà bụng chửa phưỡn đứng bên hoảng quá, hét toáng cả nhà thờ lên: “Ối mẹ ơi! Nó cắn cho thì chết hết!”. Người đằng sau xô ép người đằng trước, đài nến đổ lăn kềnh, khói um lên.. Thế là tối sầm lại. Có tiếng ai hô hoán: “Cháy!”. Thế là mạnh ai người nấy kêu: “Chó dại!, “Cha-a-áy!”, “Chuyện gì thế?”, “Tận thế rồi!”, “Saaao?... Tận thế à? Nhà nó ơi! Đi về thôi!”. Người ta xô ra các cửa nách và ùn lại đến nỗi không ai ra lọt. Ngai thờ lộn nhào, những đồng năm kôpếch lăn lông lốc, lão trợ tế ngã dúi, kêu toáng: “Kẻ cướp!...”. Các bà các mẹ xô lại chỗ bệ thờ, như một đàn cừu. Lão trợ tế cầm lư trầm gõ vào đầu họ: “Ơ kìa, điên cả đấy à?... Đi đâu? Lũ phải gió này, không biết là cấm đàn bà con gái đến gần bệ thờ à?”. Còn lão lý trưởng, béo quay cu lơ, sợi giây chuyền lủng lẳng trước bụng thì chen lấn ra phía cửa, miệng quát tháo: “Tránh ra! Tránh ra! Tránh ra nào, đồ tử tiệt! Ông đây mà, ông là lý trưởng đây!”. Nhưng còn biết tránh đi đâu được nữa khi mà đã … “tận thế rồi!”.

Tiếng cười ha hả làm Ivan phải ngừng lại một lát, rồi kể nốt:

- Làng cháu có một gã ăn trộm ngựa tên là Arkhíp Tsôkhốp. Tuần nào hắn cũng kiếm chác được một con ngựa mà chẳng ai làm cách nào tóm được hắn. Hôm ấy hắn cũng đi nhà thờ rửa tội. Và khi nghe thấy tiếng hô hoán : “Tận thế rồi! Chết cả nút rồi, làng nước ơi!” Arkhíp lao ra cửa sổ, đạp tung cánh cửa, định nhảy ra ngoài, nhưng cửa sổ lại có chấn song! Dân làng xô bẹp nhau ở các cửa ra vào. Anh chàng Arkhíp chạy lồng lên trong nhà thờ, rồi đứng sững lại, chắp tay vái giời: “Sa bẫy rồi! Đúng là như con chuột sa bẫy!”.

Hai vợ chồng Akim và hai cô con gái cười chảy nước mắt nước mũi, cười đến phát sặc. Cụ Akim cũng lặng lẽ nhe hai hàm đã rụng tiệt răng. Riêng bà lão tai nghễnh ngãng nghe không thủng câu chuyện, chẳng rõ đầu cua tai nheo thế nào, không hiểu sao tự nhiên lại khóc thút thít. Bà lão lau đôi mắt đỏ hỏn ràn rụa nước mắt, lí nhí nói:

- Khổ thân, thế anh ta bị sa bẫy à? Lạy Đức Mẹ đồng trinh! Người ta có làm gì anh ta không?

- Làm gì ai hả cụ?

- Cái anh cháu vừa nói chuyện ấy…, cái anh ngoan đạo ấy.

- Anh ngoan đạo nào ạ?

- Nào bà có biết đâu, cháu ơi… Bà bị nặng tai, điếc đặc cháu ạ… Nghe có được câu gì đâu…

Chuyện bà lão lại gây nên một trận cười sặc sụa nữa. Bác Hai Akim lau nước mắt chảy ràn rụa vì cười, hỏi đến năm lần bảy lượt:

Thế nào, thằng ăn trộm ấy bảo sao? “Như chuột sa bẫy” à? Này, chú nó ạ, chú nó kể chuyện nghe đến chết cười! – Bác Hai Akim vỗ vai Ivan một cái, phục lăn một cách ngây thơ.

Nhưng Ivan đã chuyển ngay sang nói chuyện nghiêm trang chẳng ai để ý lúc nào. Anh thở dài:

- Chuyện ấy thì đúng là buồn cười thật, nhưng bây giờ có những chuyện thật là chẳng muốn cười tí nào… Hôm nay cháu đọc báo mà thấy xót cả ruột…

- Xót ruột à? – Bác Hai Akim hỏi, chắc mẩm sắp được nghe một chuyện vui khác.

- Vâng. Xót ruột vì thấy ở các nước tư bản con người đang bị rẻ rúng và hành hạ rất là dã man. Cháu đọc được một bài như thế này: ở Rumani, có hai thanh niên Kômxômôn đã đi tuyên truyền giác ngộ, mở mắt cho bà con nông dân, bảo họ phải tước lại ruộng đất của bọn địa chủ mà chia nhau. Dân cày Rumani sống rất là cực khổ…

- Khổ chết cha, tôi biết, chính mắt tôi trông thấy hồi năm mười bảy, khi trung đoàn tôi ở mặt trận Rumani. – Bác Hai Akim xác nhận.

- Vậy đấy! Hai anh thanh niên làm việc tuyên truyền lật đổ chế độ tư bản và xây dựng ở Rumani một Chính quyền xôviết. Nhưng bọn cảnh sát dã man bắt hai anh, đánh chết tươi một anh, còn anh kia thì chúng đem tra tấn. Chúng moi mắt anh, nhổ sạch tóc trên đầu. Rồi chúng nung đỏ một cái dùi, châm vào kẽ móng tay anh…

- Quân khô-ô-ốn kiếp! – Chị Akim kêu thốt lên, hai tay chắp lại. – Châm vào kẽ móng tay à?

- Vâng, vào kẽ móng tay… Chúng tra hỏi: “Chi bộ mày còn những ai thì khai ra, và phải ly khai đoàn Kômxômôn đi”. Anh thanh niên Kômxômôn kia trả lời kiên quyết: “Đừng hòng tao khai, quân quỷ hút máu, và tao cũng không ly khai gì cả!”. Thế là bọn cảnh binh lấy gươm cắt tai, xẻo mũi anh: “Có khai không?” Anh đáp: “Không! Tao thà chết vì bàn tay đẫm máu của mày chứ nhất định không khai! Chủ nghĩa cộng sản muôn năm!”. Chúng liền trói tay anh treo lên trần nhà, đốt lửa bên dưới…

- Cái quân khốn kiếp, trên đời này vẫn còn những kẻ uống máu người không tanh như vậy đấy! Khốn khổ! – Bác Hai Akim kêu lên phẫn nộ.

- … chúng nó thiêu anh, nhưng anh chỉ ứa máu mắt chứ nhất định không khai bất cứ một đồng chí thanh niên Kômxômôn nào, và trước sau chỉ một câu: “Cách mạng vô sản và chủ nghĩa cộng sản muôn năm!”.

- Không khai đồng chí của mình thì cái anh ấy giỏi đấy! Mà thế mới phải! Cắn răng mà chết, chứ phản bạn thì không được! Thánh kinh cũng dạy là “Hãy quên mình vì bằng hữu… .- Ông lão Akim đấm bàn một cái, giục kể nốt: - Sao, rồi sao nữa?

- … chúng nó tra tấn anh, hành hạ anh đủ tình đủ tội, nhưng anh cứ nín thinh. Suốt từ sáng đến chiều tối như vậy. Anh ngất đi, bọn cảnh binh dội nước lạnh lên người anh, rồi lại tái diễn. Đến khi thấy rõ là không moi được của anh cái gì, chúng liền bắt mẹ anh, điệu đến sở cảnh sát. Chúng bảo bà: “Chúng tôi sẽ tẩn con trai bà cho bà xem! Bà phải bảo nó quy phục đi, không thì chúng tôi giết chết, quẳng xác cho chó!”. Bà mẹ chết ngất đi, rồi khi tỉnh lại, bà lao tới hôn hai bàn tay máu me đầm đìa của anh…

Ivan mặt tái đi, ngừng kể và đưa đôi mắt mở to nhìn mọi người: hai cô con gái miệng há hốc, mắt rưng rưng. Chị Akim xỉ mũi vào tấm màn cửa, vừa sụt sịt vừa thều thào: “Tội nghiệp.. bà mẹ… con đẻ dứt ruột… lạy Chu-u-úa!...”. Anh Hai Akim thì bỗng đằng hắng một tiếng, vớ lấy túi thuốc lật đật cuốn vội điếu thuốc lá. Duy chỉ có Nagunốp ngồi trên chiếc giường hòm, là vẫn giữ được vẻ bình tĩnh, nhưng ngay cả anh nữa, lúc này má cũng giần giật một cách khả nghi và mồm thì méo xệch sang một bên…

- “.. Con ơi! Mẹ chắp tay lạy con! Con khai đi, không thì bọn lòng lang dạ thú ấy giết chết con mất!”. Bà mẹ bảo anh như thế, nhưng anh nghe bà nói, chỉ đáp: “Không, mẹ ơi, con không phản bội anh em đồng chí, con sẽ chết cho lý tưởng của con, tốt hơn hết là trước khi con lìa đời mẹ hãy hôn con đi, con chết sẽ được thảnh thơi hơn…”

Ivan giọng run run, kết thúc câu chuyện về cái chết của anh thanh niên Kômxômôn Rumani bị bọn cảnh binh đao phủ tra tấn. Không khí lặng đi một phút, rồi chị Akim khóc khóc mếu mếu hỏi:

- Tội nghiệp, anh ấy bao nhiểu tuổi?

- Mười bảy, - Ivan đáp không chút lúng túng, đồng thời kéo sụp chiếc mũ cát két kẻ ô vuông xuống. – Vâng, người anh hùng ấy của giai cấp công nhân, người đồng chí thân yêu của chúng ta, người thanh niên Kômxômôn Rumani ấy đã chết. Anh chết để những người lao động có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp đỡ họ lật đổ chế độ tư bản, thành lập chính quyền công nông, và muốn thế phải xây dựng nông trang, củng cố nền kinh tế tập thể. Nhưng ở ta hiện nay còn có những bà con nông dân đã nối giáo một cách không tự giác cho những bọn cảnh binh ấy: họ không chịu nộp thóc giống… Chà, bữa cơm ngon quá, xin cám ơn cụ với hai bác đã mời! Bây giờ xin nói đến cái việc mà hôm nay chúng tôi đến nói với nhà ta: nhà ta nên mang thóc giống nộp ngay hôm nay đi thôi. Tính ra thì nhà ta phải nộp đúng bảy mươi bảy pút. Thế thì nộp đi thôi chứ!

- Để xem xem đã… Thóc thì nhà tôi gần như nhẵn.. – Anh Hai Akim cháng váng trước đòn tấn công bất ngờ, ngập ngừng đáp. Nhưng chị Hai trừng mắt nhìn anh, ngắt lời anh bằng một giọng gay gắt:

- Còn xem xem cái gì nữa! Đóng bao chở luôn đi cho xong!

Anh Akim chống đỡ một cách yếu ớt:

- Bảy mươi pút thì chả có… Vả lại cũng chưa sàng sảy.

Cụ Akim về hùa với con dâu:

- Nộp đi, anh Hai ạ. Đằng nào chẳng phải nộp, dây dưa làm gì.

Ivan xung phong ngay:

- Anh em chúng tôi chẳng nề hà gì đâu, chúng tôi sẽ sàng sảy giúp. Nhà ta có sàng chứ.

- Có… Nhưng không được tốt lắm…

- Không sao. Ta sẽ chữa. Thôi, nhanh nhẩu lên, hai bác! Anh em chúng tôi vui chuyện ngồi đây lâu quá rồi…

Nửa giờ sau, anh Hai Akim dắt trên trụ sở nông trang về hai chiếc xe bò, và Ivan, mặt lấm tấm những giọt  mồ hôi li ti như nốt tàn nhang, lôi từ trong gian để trấu ra hiên kho lúa những bao tiểu mạch đã sàng sẩy kỹ, hạt chắc và mẩy, óng ánh như hạt vàng mười. Anh nháy mắt một cái hóm hỉnh hỏi một trong hai cô con gái bác Akim:

- Sao nhà ta lại cất thóc vào gian để trấu? Kho thóc rộng rãi thế không để, để đây thóc dễ hư.

Cô gái ngượng ngùng đáp:

- Chả hiểu bố em nghĩ sao…

Khi nhà Bexkhlépnốp đã chở bảy mươi bảy pút thóc của họ lên kho tập thể rồi, Ivan và Anđrây chào gia chủ, đi tiếp sang nhà khác. Anđrây hớn hở nhìn gương mặt mệt mỏi của Ivan, hỏi:

- Chuyện anh Kômxômôn, cậu bịa phải không?

Ivan lơ đãng đáp:

- Không. Tôi có đọc thấy trong một tờ tạp chí Cứu tế đỏ, lâu rồi.

- Thế mà cậu bảo mới đọc hôm nay…

- Thì cũng vậy chứ sao? Quan trọng là chuyện ấy có thật, kể cũng thương, đồng chí Nagunốp nhỉ?

- Nhưng cậu… chắc cậu cũng có giấm ớt một tí cho thêm lâm li chứ gì?

- Thế thì đã sao? – Ivan tự ái khoát tay một cái, và co ro rét, anh cài khuy áo da lại, nói tiếp: - Điều quan trọng là làm sao cho bà con căm thù bọn đao phủ và chế độ tư bản, và đồng tình với các chiến sĩ ta. Điều quan trọng là họ chịu nộp thóc giống… Vả lại tôi cũng chẳng giấm ớt thêm gì mấy. Cái món chè lê nhà ấy ngon không chê được! Đồng chí Nagunốp ạ, đồng chí không ăn là dại!

CHƯƠNG XXVI

Mồng mười tháng Ba, từ chiều tối, sương mù đổ xuống Grêmiatsi Lốc. Trời sắp sáng thì tuyết tan trên các mái nhà rỏ xuống róc rách: từ mạn nam, từ núi đồi thảo nguyên thổi tới làn gió nồm ẩm. Đêm đầu tiên đón xuân về thoáng hơi mát gió xuân, đêm chìm trong tĩch mịch, trong màn sương bồng bềnh nom như một màn lụa đen, trùm lên Grêmiatsi Lốc. Đến nửa buổi, màn sương đã hồng lên mới tan đi, để lộ ra bầu trời và vầng thái dương; từ phương nam gió thốc tới, bây giờ thì ào ào từng đợt. Tuyết to hạt lún xuống, tan chảy thành từng dòng, chỗ róc rách, chỗ cuồn cuộn. Các mái nhà trở lại sâm sẫm, đường xá sũng lên những vũng nước đen đen. Khoảng trưa thì nước trên núi, trong vắt như nước mắt, cuộn lên sùng sục qua các khe, lũng lòng chảo, ào ào đổ xuống thành hằng hà sa số những giòng thác nhỏ chảy vào các khu đất trũng, các cánh rừng thấp ven sông, các vườn tược, ngâm sũng các nhánh rễ đắng của cây anh đào, dâng ngập những đám lau sậy hai bên bờ sông.

Ba ngày sau, gò đống đã phô trơ đất ra đón gió bốn phương, các sườn đồi được rửa sạch sáng ánh lên lớp đất sét ướt, nước khe đá đục ngầu lại, cuốn theo dòng chảy cuộn sóng sùng sục của mình những đám bọt phồng lên vàng vàng, những khóm rễ sạch bong, những túm cỏ khô còn sót trên các ruộng cày, những bụi kim ngư bị nước cuốn đi.

Con ngòi chảy qua Grêmiatsi Lốc nước dâng tràn bờ. Từ đâu đó trên thượng nguồn của nó lềnh bềnh trôi về những tảng băng xanh xanh lấp lánh ánh nắng. Ở những quãng uốn khuỷu, chúng trôi ra khỏi dòng, quay tròn và va vào nhau, như những con cá khổng lồ trên bãi đẻ trứng. Đôi lúc dòng nước hất chúng lên bờ dốc ngược, và có lúc một tảng băng trôi theo dòng lũ đổ ra sông, lao vào trong các vườn tược, lềnh bềnh giữa cây cối trong vườn, va chan chát vào các thân cây, làm gãy những cây non, làm xây xát những cây táo, vít cả những bụi anh đào rậm rạp xuống.

Ngoài làng những đám ruộng ải đã sạch tuyết nổi sẫm lên như vẫy gọi. Xế trưa, lớp đất đen màu mỡ bị lưỡi cày xới lộn lên bốc hơi nghi ngút. Một không khí tĩnh mịch bát ngát và dễ chịu ngự trị thảo nguyên vào những giờ trưa. Bên trên ruộng cày, vầng mặt trời, làn hơi nước trắng màu sữa, tiếng hót rộn ràng của con sơn ca đầu mùa, và tiếng gọi nhau của đàn sếu bay thành hình tam giác đều, lao mũi nhọn khoảng không xanh biếc của bầu trời không gợn bóng mây. Trên đỉnh các gò đống, hơi nóng bốc lên tạo thành ảo ảnh mặt nước lăn tăn; ngọn cỏ non xanh, dài và nhọn như lưỡi mác, chọc thủng thân cỏ năm qua đã chết khô, vươn lên ánh sáng. Lúa mì gieo đông gió thổi hong khô dường như kiễng chân ngỏng lên, vươn ngọn lá nhỏ hứng lấy tia nắng rực. Nhưng trên thảo nguyên sự sống vẫn còn rời rạc lẻ tẻ. Cu ly và chuột đồng vẫn còn say sưa giấc ngủ mùa đông, các giống thú vẫn ẩn náu trong rừng và khe vực. Thảng hoặc mới thấy một chú chuột đồng lủi qua bãi cỏ dại và những con đa đa chia đàn thành từng cặp vợ chồng bay về những cánh đồng ủ đông.

Đến ngày 15 tháng Ba thì ở Grêmiatsi Lốc thóc giống đã nhập xong. Nông dân cá thể giao thóc vào một kho riêng, chìa khoá kho do ban quản trị nông trang giữ, còn thóc của nông trang viên thì chất đầy ắp sáu gian kho tập thể. Người ta mang thóc ra sàng sảy bằng máy cả ban đêm nữa, dưới ánh sáng ba cây đèn bão. Trong lò rèn của bác Ipôlít Salưi, chiếc bễ miệng rộng hoác thở phì phà phì phò tới tận tối mịt, búa dọt làm bắn văng những hạt lửa vàng và đe vang rộn rã. Bác Salưi làm dấn một lèo đến 15 tháng Ba thì sửa xong tất cả những đồ mang đến cho bác: bừa, cày, máy gieo. Và tối hôm 16, tại trường học, trước mặt đông đủ bà con nông trang viên, Đavưđốp đã trao tặng bác những dụng cụ đồ nghề anh mang ở Lêningrát đến, làm phần thưởng. Anh phát biểu:

- Chúng tôi trong ban quản trị nông trang xin trao những dụng cụ này cho bác phó rèn thân mến của chúng ta, đồng chí Ipôlít Salưi, để tặng thưởng bác đã làm việc thực sự gương mẫu đáng để tất cả bà con nông trang viên ta noi theo.

Đavưđốp -  để đi dự buổi lễ trao giải thưởng long trọng này cho bác thợ rèn làm việc gương mẫu đã cạo mặt nhẵn nhụi và mặc chiếc áo săngđay giặt sạch tinh tươm – cầm đống dụng cụ bày trên vuông vải đỏ nhấc lên, còn Anđrây Radơmiốtnốp thì đẩy lên bục bác Ipôlít mặt đỏ dừ.

- Thưa đồng bào, cho đến ngày hôm nay đồng chí Salưi đã hoàn thành một trăm phần trăm công việc sửa chữa nông cụ, thực tế thế! Tổng cộng đồng chí ấy đã lắp xong năm mươi tư lưỡi cày, sửa được mười hai máy gieo các loại sẵn sàng hoạt động, mười bốn chiếc cày xới.v.v. Xin đồng chí vui lòng nhận món quà anh em này của chúng tôi tặng đồng chí làm phần thưởng, và để làm sao cho sau này, lạy trời, bố già nhà ta bao giờ cũng xung phong gương mẫu như vậy; làm sao cho nông cụ của ta luôn luôn được bảo quản tốt, thực thế! Và bà con ta nữa cũng phải xung phong gương mẫu như thế trong sản xuất, có như vậy ta mới xứng đáng với tên gọi của nông trang ta, nếu không thì chúng ta chỉ là một trò cười nhục nhã cho toàn Liên bang xôviết mà thôi, thực tế thế!

Dứt lời, Đavưđốp bọc món tặng phẩm lại bằng tấm xatanh đỏ dài ba mét, trao cho bác Salưi. Bà con Grêmiatsi chưa biết vỗ tay hoan hô, nhưng khi bác Salưi đưa hai bàn tay run rẩy ra đón lấy gói xatanh đỏ thì cả hội trường nhao nhao lên:

- Đáng công đáng của lắm!

- Cũ mà sửa thành mới toanh.

- Đồ nghề để ông lão, còn xatanh thì mang về cho bà lão may áo dài!

- Ipôlít, khao đi thôi, ông nhọ chảo ơi!

- Tung nào (*)

- Thôi đi, quỷ sứ! Ông ấy tung hoành quanh đe như thế là đủ rồi!

Tiếp đó là tiếng hò hét chuyển thành một tiếng ầm ầm liên tục, nhưng rồi bác Suka cũng át được tiếng ồn ấy bằng cái giọng đàn bà the thé của mình:

- Sao đứng ỳ cục thịt ra thế, ông ơi! Mở miệng ra đi! Phát biểu tí cảm tưởng chứ! Người đâu mà lành như đất vậy! (**)

Bà con hưởng ứng bác Suka, hò la, nửa thật, nửa tếu:

- Đêmít Miệng hến phát biểu thay đi thôi!

- Ông Ipôlít ơi, phát biểu mau lên, kẻo quay lơ ra đấy bây giờ!

- Nom kìa, chân cẳng ông ấy run bần bật!

- Mừng quá nuốt chẳng mất lưỡi rồi chắc?

- Phát biểu thì gay hơn quai búa rồi!

Nhưng Anđrây Radơmiốtnốp vốn thích nghi thức long trọng và hôm nay điều khiển buổi lễ trao giải thưởng, đã dẹp được ồn ào, đưa hội nghị đang nhốn nháo trở lại trật tự:

- Từ từ chứ nào, bà con ơi! Làm gì mà loạn lên như vậy? Mùa xuân động cỡn cả rồi hay sao? Vỗ tay cho tử tế chứ ai lại gào lên thế bao giờ! Yêu cầu im lặng, để cho người ta có vài ý kiến chứ! – Rồi anh quay sang bác Salưi, thúc ngầm cho một quả vào mạng mỡ, rỉ tai bảo: - Hít mạnh một cái lấy hơi rồi phát biểu đi, ông nội ơi. Đề nghị nói dài dài tí vào, như một nhà thông thái ấy chứ. Hôm nay bác là đầu trò của buổi lễ long trọng này đấy, phải đọc một bài diễn văn chính quy, đàng hoàng vào.

Bác Ipôlít, xưa nay vốn chẳng được đề cao, suốt đời chưa từng đọc một bài diễn văn “đàng hoàng” bao giờ cả, và làm giúp bà con làng xóm công xá thường chỉ là một chầu cay gọi là mà thôi, hôm nay trước tặng phẩm của ban quản trị và buổi lễ trao quá ư long trọng này, có bao nhiêu tinh thần bay đi đâu mất sạch. Hai tay bác ôm khư khư bọc lụa đỏ vào ngực cứ run bắn; hai cẳng chân bác xưa nay đứng trong lò rèn giạng háng ra vững như bàn thạch, cũng run bắn… Vẫn ôm khư khư cái bọc, bác đưa cánh tay áo lên quệt giọt nước mắt rưng rưng, chùi cái mặt nhân dịp đặc biệt nay đã được lau rửa kỳ cọ đến phát đỏ ửng lên. Rồi phát biểu, giọng khàn khàn:

- Dụng cụ này, đối với chúng tôi, tất nhiên là rất cần.. Xin đa tạ… Đa tạ ban quản trị, đa tạ gói tặng phẩm này… Một lần nữa xin rất là một sự đa tạ! Nghĩa rằng thì là… tôi bố mẹ sinh ra là thợ rèn và có thể… bây giờ lại làm nông trang viên rồi, tôi xin hết lòng… Còn tấm xatanh này, dĩ nhiên là để dành cho bà nó nhà tôi… - Bác nhớn nhác nhìn quanh gian lớp học chật nêm người, tìm bà lão, trung bụng ngầm hy vọng bà lão sẽ cứu nguy cho bác. Nhưng không nhìn thấy bà lão đâu cả, bác thở dài đánh sượt một cái và kết thúc bài diễn văn chẳng lấy gì làm đàng hoàng lắm của bác: - Thưa đồng chí Đavưđốp, xin rất là một sự cám ơn đồng chí, cám ơn nông trang… về cái món dụng cụ bọc trong tấm xatanh này, về sự cố gắng của chúng ta!

Radơmiốtnốp thấy bài diễn văn bối rối của bác Salưi sắp hết đến nơi rồi, cuống quýt ra hiệu hoài cho bác. Bác chẳng thèm để ý đến hiệu của anh, cúi chào hội nghị, rời khỏi diễn đàn, hai tay bưng gói tặng phẩm giơ ra đằng trước như bê một đứa trẻ đang ngủ.

Nagunốp giật vội cái mũ lông trên đầu xuống, vẫy ra hiệu; ban nhạc gồm hai cây đàn và một vĩ cầm cử hành bài “Quốc tế ca”.

---------------------------

(*)          Phong tục phương Tây: để hoan hô ai, người ta xúm lại tung người ấy lên trời, đỡ lấy khi rơi xuống, tung tiếp nhiều lần. – ND.

(**)        Nguyên văn: ông ấy do hai khúc gỗ lấy nhau đẻ ra. – ND.

* * *

Các đội trưởng sản xuất Đúpxốp, Liubiskin, Đemka Usakốp ngày nào cũng cưỡi ngựa ra thảo nguyên xem xem đồng đã có thể cho cày, gieo được chưa. Mùa xuân tràn về thảo nguyên trên những ngọn gió khô hanh. Ngày đã đẹp trời, và đội sản xuất số 1 đã chuẩn bị sẵn sàng để cày khoảng ruộng cát xám thuộc diện tích của đội.

Tổ tuyên truyền đã được gọi về ấp Vôxkôvôi, nhưng theo đề nghị của Nagunốp, Kônđrátkô đã để Ivan Naiđênốp ở lại Grêmiatsi trong thời gian gieo hạt.

Phát phần thưởng cho bác Salưi hôm trước thì hôm sau Nagunốp cắt đứt với Luska. Cô ả dọn đến ở với bà dì họ sống riêng biệt ở một nơi, ở lì đó hai ngày không ló mặt đi đâu, rồi một bữa gặp Đavưđốp quãng gần trụ sở nông trang, ả giữ anh lại hỏi:

- Bây giờ tôi sống làm sao đây, hả đồng chí Đavưđốp? Góp ý kiến với tôi một tí.

- Thế mà cũng hỏi tôi à! Sắp tới, chúng tôi định tổ chức vườn trẻ, hay cô vào đấy mà làm?

- Cám ơn, chứ chịu thôi! Con cái chả có, bây giờ lại đi dỗ con người ta à? Anh xem còn cách nào khác không?

- Thế thì xuống đội sản xuất.

- Tôi không phải người chân lấm tay bùn, làm đồng là bị hoa mắt chóng mặt…

- Xin lỗi, cô yểu điệu quá nhỉ! Thế thì cô cứ việc đi nhởn, rồi đừng ăn nữa. Nguyên tắc của chúng ta là “không làm không ăn”.

Luska thở dài, lấy giày mũi nhọn bới bới mặt cát ẩm và cúi đầu nhìn xuống:

- Anh bạn Chimôphây của tôi có gửi cho tôi một lá thư từ Kốtlax trên miền bắc… Anh ấy hẹn nay mai sẽ về.

- Chuyện phất phơ! – Đavưđốp mỉm cười; - Và nếu hắn về thật, chúng tôi sẽ tống đi xa hơn.

- Nghĩa là đối với anh ấy thì không có khoan hồng?

- Không! Cô đừng đợi làm gì, và đừng ăn bơ làm biếng nữa. Phải lao động đi, thực tế thế! – Đavưđốp trả lời gay gắt và định bỏ đi nhưng Luska níu anh lại, vẻ hơi bối rối. Giọng ả run run có chiều lả lơi giễu cợt khi ả dài giọng ra hỏi:

- Anh có thể giới thiệu cho tôi một anh chàng ế xưng nào làm chồng được không?

Đavưđốp điên tiết nhe nanh ra, cấm cảu nói:

- Tôi rỗi hơi đi làm việc ấy! Thôi, chào cô.

- Hượm đã! Tôi hỏi thêm cái này!

- Hỏi gì?

- Thế anh không muốn lấy tôi à? – Giọng Luska rõ ra cái ý giễu cợt và khiêu khích trắng trợn.

Bây giờ đến lượt Đavưđốp bối rối. Anh đỏ dừ mặt, môi mấp máy mà không nói được câu gì.

Luska làm bộ nhũn nhặn, nói tiếp:

- Nhìn thử em một tí, đồng chí Đavưđốp ơi! Em xinh đấy chứ, để mà yêu thì cũng tuyệt… Anh xem đây: mắt em đẹp này, lông mày cũng đẹp này, đùi cẳng nom cũng hay, tóm lại là tất… - Ả lấy đầu ngón tay khẽ vén tà váy len màu hoa lý lên, uốn éo quay một vòng trước mặt Đavưđốp đang đứng ngây tán tàn: - Đẹp hay xấu? Thế nào, nói đi chứ, anh…

Đavưđốp hất ngược cái mũ cátkét ra sau gáy trong một cử chỉ tuyệt vọng, đáp:

- Cô thì mê ly rồi, khỏi nói. Đùi cẳng đẹp thật, chỉ có điều là… có điều là với đùi cẳng ấy thì cô không đi đến chỗ cần đi thôi, thực tế thế!

- Thì em muốn đi đâu thì cứ đặt chân đến đấy chứ! Thế nghĩa là em không nên hy vọng gì ở anh ư?

- Tốt hơn hết là cô không nên hy vọng.

- Anh đừng tưởng em chết mê chết mệt vì anh hay muốn bám lấy anh đâu. Em chỉ thương hại anh mà thôi. Em nghĩ bụng: “Anh chàng này vợ con chả có, sống một mình, xa lánh với đàn bà…”. Và mỗi lần anh nhìn em, em đâm ra thấy ái ngại: anh có vẻ thèm rõ dãi.

- Cái cô này, có thánh mà hiểu cô… Thôi, xin chào cô! Tôi đang bận, không có thì giờ đứng với cô. – Và tiếp thêm một câu dí dỏm: - Chờ đấy, gieo xong, lúc ấy tha hồ cho cô tấn công anh chàng cựu thuỷ binh này, có điều là phải xin phép Maka đi đã!

Luska cười khanh khách, nói đuổi theo anh:

- Anh Maka lúc nào cũng giơ cách mạng thế giới ra đánh bài lảng với tôi, còn anh thì gieo giống! Xin kiếu thôi, các ông anh ơi! Hạng như các anh tôi chả thiết! Tôi cần tình yêu rạo rực kia, còn cái kiểu này thì chán lắm! Công tác đã làm máu trong người các anh nguội lạnh đi rồi, cảnh sống này thì chán ngấy lắm rồi.

Đavưđốp đi đến trụ sở, miệng lơ đãng mỉm cười. Anh nghĩ bụng: “phải giao cho cô ả một công tác gì, kẻo cô gái yêu kiều này lại lạc đường lối. Ngày thường mà cô ả cứ diện, và ăn nói đến hay…”. Rồi chậc lưỡi, nghĩ: “Chà, thì mặc xác nó! Nó còn bé bỏng gì nữa, tự nó phải hiểu. Mình đâu phải một bà tư sản chuyên lo việc từ thiện? Mình đã xếp công ăn việc làm cho  nó, nó không muốn. Thì cứ việc nhởn nhơ!”.

Gặp Nagunốp, anh hỏi gọn lỏn:

- Cắt đứt rồi à?

- Thôi, đừng hỏi nữa! – Nagunốp vừa càu nhàu vừa ngắm nghía đầu móng những ngón tay dài ngoẵng của anh với một vẻ quá chăm chú.

- Mình muốn hỏi…

- Mình không muốn trả lời!

- Quỷ tha ma bắt cậu đi! Bây giờ lại cấm hỏi nữa đấy!

- Đội một đáng lẽ phải xuất quân hôm nay rồi, nhưng họ cứ lần lữa.

- Cậu nên uốn nắn Luska, cô ấy sẽ làm bừa bãi bây giờ.

- Mình là cha cố để cứu vớt nó đấy à? Anh mặc xác tôi! Tôi nói chuyện với anh về đội một, chuyện mai phải bắt họ ra đồng…

- Mai đội một sẽ ra đồng… Cậu tưởng là đơn giản thế ư: cắt đứt, thế là hết chuyện à? Sao cậu không muốn giáo dục một người đàn bà theo tinh thần cộng sản? Cậu chẳng được cái tích sự gì cả, thực tế thế!

- Mai mình cũng sẽ ra đồng với đội một… Mà sao cậu cứ  bám lấy mình như đỉa đói thế vậy? Giáo dục, lúc nào cũng giáo dục! Mình giáo dục thế quái nào được nó trong khi chính mình cũng chẳng được giáo dục tí chó nào? Mình cắt đứt với nó rồi. Còn muốn gì nữa? Cậu dai thật, Xêmiôn ạ, cứ như chão rách!... Lại còn chuyện thằng Banhích kia nữa! … Mình còn phải lo chuyện mình, thế mà cậu cứ lải nhải mãi với mình về con vợ cũ của mình…

Đavưđốp vừa định đối đáp lại thì ngoài sân trụ sở vang lên tiếng còi ô tô. Chiếc xe “Pho” của huyện lắc lư chạy vào, thanh lá chắn rẽ nước tuyết tan thành vũng. Xamôkhin, trưởng ban kiểm sát huyện, mở rộng cửa xe, bước xuống.

- Đến về việc mình đây…- Nagunốp nhăn mặt lại và hầm hầm nhìn Đavưđốp: - Cậu chú ý, đừng có nói linh tinh gì với hắn về con vợ mình, kẻo hắn đút mình vào nhà tu kín đấy! Lão Xamôkhin này, cậu có biết hắn thế nào không? Hắn sắp vặn vẹo: “Tại sao li dị, và li dị trong hoàn cảnh nào?”. Đối với hắn, một anh cộng sản mà li dị vợ là một nhát dao đâm vào tim hắn. Hắn là cha cố chứ không phải là uỷ viên kiểm sát công nông. Mình không sao chịu nổi cái con quỷ trán dô ấy! Chà, mình mà vớ được thằng Banhích bây giờ nhỉ! Quân chó má ấy, lẽ ra phải giết quách nó đi và…

Xamôkhin bước vào, tay vẫn ôm cái cặp vải sơn, chẳng chào hỏi, nửa nạc nửa mỡ hỏi luôn:

- Thế nào, Nagunốp, cậu làm lôi thôi gì vậy? Vì cậu mà trời đất thế này mình phải chạy nhông đây. Anh đồng chí nào đây nhỉ? Có phải Đavưđốp không? À, xin chào! – Anh bắt tay Nagunốp và Đavưđốp, rồi ngồi vào bàn: - Này đồng chí Đavưđốp ạ, cho chúng mình nói chuyện riêng độ nửa tiếng, mình có tí việc với con người độc đáo này (và trỏ Nagunốp).

- Vâng, cứ tự nhiên.

Đavưđốp đứng dậy đi ra, rất đỗi ngạc nhiên nghe thấy Nagunốp, vừa mới rồi còn yêu cầu anh đừng hở ra chuyện anh ta cắt đứt vợ, càu nhàu nói với Xamôkhin (chắc là sau khi đã kết luận rằng nói gần nói xa chẳng qua nói thật):

- Tôi đã đánh nhừ từ một tên phản cách mạng, đúng thế, nhưng chưa hết đâu, đồng chí Xamôkhin ạ…

- Lại còn cái gì nữa?

- Tôi đuổi cổ con vợ tôi đi rồi!

- Sa-a-ao? – Anh chàng Xamôkhin gầy nhẳng, trán dô, hoảng hốt thốt lên một tiếng, và thở phì phà phì phò, lẳng lặng lục cặp, lôi giấy tờ sột soạt…

CHƯƠNG XXVII

Đêm hôm ấy, trong giấc ngủ Iakốp Lukits nghe thấy tiếng chân bước, tiếng lịch kịch ngoài cổng, nhưng không làm sao tỉnh dậy được. Và khi đã ráng hết sức dứt mình được ra khỏi giấc ngủ, thì là nghe thấy, lần này chính tai nghe thấy một tấm gỗ hàng rào kêu cót két như dưới sức nặng của người ai đè lên, và đâu như có một cái gì bằng sắt kêu loảng xoảng. Lão nhảy bổ ra cửa sổ, dán mắt vào khe cửa, và trông thấy trong bóng tối như hũ nút của lúc trước rạng đông một bóng ai cao lớn, nặng nề nhảy qua hàng rào, nghe đánh huỵch một cái. Nhìn bóng cái mũ nổi lên trăng trắng trong đêm, lão đoán ra là Pôlốptxép. Lão khoác véttông vào, lôi đôi ủng da trên lò sưởi xuống, xỏ vào, bước ra ngoài. Pôlốptxép đã dắt con ngựa vào sân, đóng cổng, cài then lại. Iakốp  đón lấy cương ngựa ở tay y. Con ngựa ướt sũng đến tận đầu sống lưng, thở dốc ruột và bước đi loạng choạng. Pôlốptxép không đáp lại lời chào, thì thào hỏi, giọng khản đặc:

- Anh chàng … Liachépxki vẫn đấy chứ?

- Đang ngủ. Đến là khổ với ông ta… thời gian qua độc nốc rượu…

- Quỷ tha ma bắt hắn đi! Quân ôn vật… Con ngựa của mình, hình như đã bắt nó chạy quá sức…

Giọng Pôlốptxép nghe nhỏ khác thường, không nhận ra nữa, và trong giọng nói ấy Iakốp Lukits cảm thấy có một cái gì tan vỡ , một nỗi lo ngại  lớn và sự mệt mỏi…

Vào tới gian phòng xép, Pôlốptxép tháo ủng, rút trong xắccốt ra một chiếc quần sarôva kô-dắc màu xanh có nẹp đỏ, mặc vào, còn cái vừa thay ra thì ướt đẫm đến tận thắt lưng, y treo hong lên trên đầu giường.

Iakốp Lukits đứng tựa cửa, theo dõi những động tác cử chỉ chậm chạp của viên chỉ huy của mình; tên này ngồi xuống phản, hai tay ôm đầu gối, hơ sưởi hai lòng bàn chân để trần ngồi đờ ra thiu thiu đi một phút. Rõ là y buồn ngủ rũ, nhưng y ráng sức cậy mắt ra, đăm đăm nhìn một lúc lâu tên Liachépxki đang đánh giấc li bì của kẻ say rượu, và hỏi:

- Rượu thế lâu chưa?

- Ngay từ những hôm đầu. Uống say bí tỉ! Tôi đâm ra khó ăn khó nói với người ta… Ngày nào người ta cũng thấy mình vác vốtka về… Họ có thể nghi.

- Ôn vật! – Pôlốptxép rít răng lại nói, bằng một giọng hết sức khinh bỉ. Và lại ngồi thiếp đi, gật gà gật gù cái đầu to hoa râm.

Nhưng chỉ sau vài ba phút cơn ngủ ập đến như vậy, y lại giật mình tỉnh dậy, buông hai bàn chân xuống, mở mắt ra.

- Ba ngày đêm nay không ngủ rồi… các sông tràn bờ hết. Con sông Grêmiatsi này cũng phải bơi qua mới được.

- Đi nằm đi, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ.

- Đi nằm đây. Xin tí thuốc. Thuốc tôi ướt cả. 

Rít hai hơi ra rít xong, Pôlốptxép tỉnh táo hẳn lại. Cơn buồn ngủ díp biến khỏi đôi mắt y, giọng y rắn rỏi lại.

- Thế nào, công việc ra sao?

Iakốp Lukits kể lại vắn tắt; rồi đến lượt lão hỏi:

- Thắng lợi đến đâu rồi, hả ông? Sắp chưa?

- Trong những ngày này đây, hoặc là… không bao giờ cả. Đêm mai, anh sẽ đi với tôi sang Vôxkôvôi. Phải nổi dậy từ đấy nổi đi. Gần huyện lỵ hơn. Ở đấy hiện có một đội tuyên truyền. Ta sẽ thử sức với nó. Đi chuyến này tôi rất cần đến anh. Anh em kô-dắc bên đấy biết anh, lời anh nói sẽ kích động được họ. – Pôlốptxép ngừng lại, đưa bàn tay rộng bè bè âu yếm vuốt ve hồi lâu con mèo đen vừa nhảy vào lòng y. Rồi thều thào, và trong cái giọng thều thào ấy có một  vẻ thiết tha trìu mến không phải là thói thường của y: - Meo! Miu! Sao lông mày đen thế hả mèo? Anh Iakốp Lukits ạ, mình thích chơi mèo lắm nhá! Ngựa và mèo là những con vật sạch sẽ nhất... Nhà mình trước có con mèo Xibia, to, lông  mịn mà… Bao giờ nó cũng ngủ với mình… Lông nó màu… - Pôlốptxép lim dim mắt mơ màng, mỉm cười, mấy ngón tay xua xua: - xám xám tro lốm đốm trắng. Một con mèo tuyê-ê-ệt đẹp! Thế anh không thích chơi mèo à, hả Iakốp Lukits? Còn chó thì mình không ưa, mình ghét cay ghét đắng. Này, hồi bé ấy mà, mình bị một chuyện, lúc ấy mình lên tám thì phải. Nhà mình hồi ấy có một con chó con, bé tí. Một hôm mình đùa với nó, mình xem chừng đã làm nó đau. Thế là nó đớp lấy ngón tay mình, cắn vãi máu ra. Mình cáu quá, vớ lấy thanh củi khô, vụt. Nó chạy, mình đuổi sát và cứ thế vụt, vụt… bằng thích tay! Nó chạy vào nhà kho, mình vào theo, nó chui xuống gậm thềm, nhưng vào đấy mình cũng với tới và cứ quất, quất. Mình quất đến nỗi nó đái tung té ướt hết người nó, và không còn kêu ăng ẳng được nữa, mà chỉ rên khừ khừ và nấc lên… Thế là lúc ấy mình ôm nó lên… - Pôlốptxép mỉm cười bẽn lẽn, ngượng ngịu, chỉ nhếch một bên mép. – Mình ôm nó lên rồi thương nó quá, oà khóc, khóc đến thắt ruột thắt gan lại! Bà cụ mình chạy tới, còn mình nằm lăn dưới đất cạnh con chó, bên nhà xe, chân giẫy đành đạch… Từ hồi ấy mình không chịu nổi giống chó. Còn mèo thì mình thích ghê lắm. Cả bọn trẻ con nữa. Bọn bé bé ấy. Mình yêu chúng nó lắm, thành như một cái tật. Nghe trẻ con khóc mình không chịu nổi, ruột gan cứ nao nao… Còn anh, anh bạn già, anh có thích mèo không?

Iakốp Lukits lắc đầu, vô cùng sửng sốt trước biểu hiện của những tình cảm giản dị đầy tính người như vậy, trước những lời chuyện trò ít thấy ở viên chỉ huy của mình, viên sĩ quan già đời ngay từ hồi chiến tranh chống Đức đã khét tiếng tàn bạo đối với người kô-dắc. Pôlốptxép im lặng một lát, nghiêm sắc mặt lại, và hỏi, bây giờ thì  bằng giọng bàn việc khô khan:

- Lâu nay có thư từ gì không?

- Nước lũ, sông ngòi dâng lên đầy ắp cả, đường xá xấu. Tuần rưỡi nay không có chuyến thư nào.

- Trong làng có nghe nói gì về bài của Xtalin không?

- Thưa bài nào ạ?

- Bài đăng báo, nói về chuyện nông trang ấy.

- Không, không nghe thấy gì. Chắc là các báo ấy không về đến ta. Trong bài nói cái gì vậy, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits?

- Chậc, chả có gì… Chả lý thú gì đối với anh. Thôi, đi ngủ đi. Ba tiếng nữa nhớ cho ngựa uống nước. Và tối mai xoay lấy đôi ngựa nông trang, xẩm tối là ta sẽ đi Vôxkôvôi. Anh đi không thôi, không cần yên, đây sang đấy cũng gần.

Sáng hôm sau Pôlốptxép ngồi nói chuyện hồi lâu với Liachépxki lúc ấy đã dã cơn say. Chuyện trò xong, Liachépxki đi xuống bếp, mặt hầm hầm, tái mét.

- Có lẽ, cần tí cay chăng? – Iakốp Lukits hỏi đón trước, nhưng Liachépxki nhìn đi tận đâu đâu, qua đầu lão, và đáp dằn từng tiếng:

- Bây giờ thì không cay đắng gì hết!

Rồi hắn trở vào phòng, nằm úp sấp  mặt xuống giường.

Trực chuồng ngựa nông trang đêm ấy là Ivan Batansikốp, một trong những người đã được Iakốp Lukits kết nạp vào “Liên minh giải phóng sông Đông”. Nhưng với hắn Iakốp Lukits cũng không nói rõ là mình đi đâu, có việc gì. Khi Batansikốp hỏi, lão chỉ trả lời lấp lửng; “Phải đi đàng này, việc sự nghiệp của chúng ta”. Batansikốp không chút ngần ngừ, dắt luôn hai con ngựa hay nhất ra. Iakốp Lukits dẫn chúng đi vòng sau kho thóc, buộc vào hàng rào, và đi gọi Pôlốptxép. Đến gần cửa gian buồng xép, lão nghe thấy tiếng Liachépxki kêu lên: “Nhưng như thế có nghĩa là chúng ta sẽ bị đánh bại, ông có hiểu không?” Đáp lại, Pôlốptxép nói một câu gì gay gắt bằng giọng ồm ồm. Iakốp Lukits, trong lòng canh cánh cái linh cảm về một chuyện gì chẳng lành, đưa tay gõ cửa.

Pôlốptxép vác yên ngựa ra. Họ ra cổng, tháo ngựa. Rồi phóng nước kiệu. Ra khỏi làng, họ lội qua sông. Suốt dọc đường Pôlốptxép không nói không rằng, cấm hút thuốc và ra lệnh tránh đường cái, đi men cách dăm chục xagien (*).

Ở Vôxkôvôi người ta đang đợi họ. Khoảng hai chục dân làng tụ tập tại nhà một lão kô-dắc bạn bè với Iakốp Lukits. Đa số là ông già. Pôlốptxép bắt tay mọi người, rồi kéo một người ra cửa sổ, thì thầm nói gì trong dăm phút. Những người khác ngồi lẳng lặng, hết nhìn Pôlốptxép lại nhìn Iakốp Lukits. Ngồi bên bậu cửa, giữa đám người lạ, ít quen biết, Iakốp Lukits cảm thấy lúng túng, ngượng ngịu…

Các cửa sổ đều che kín bên trong bằng vải bố, cánh cửa đóng chặt, ngoài sân có anh con rể của chủ nhà đứng canh, mặc dù vậy, Pôlốptxép vẫn nói nhỏ:

- Thưa các vị kô-dắc, giờ của chúng ta sắp điểm! Thời nô lệ của các vị sắp chấm dứt, ta phải hành động. Tổ chức chiến đấu của ta đã sẵn sàng. Tối ngày kia, ta sẽ khởi sự. Một bán đại đội kỵ binh sẽ tới Vôxkôvôi đây, và nghe thấy loạt súng đầu tiên, các ông sẽ xông vào những nhà… bọn đội tuyên truyền đóng. Làm sao cho không một thằng nào sống sót! Tôi trao cho ông quản Marin trách nhiệm chỉ huy phân đội của các ông. Tôi khuyên các ông trước khi hành động nên khâu vào mũ mỗi người một chiếc băng trắng, để trời tối khỏi bắn nhầm nhau. Mỗi người phải chuẩn bị sẵn sàng một con ngựa, vũ khí của mình sẵn có – gươm, súng trường, hoặc súng săn cũng được – và lương ăn ba ngày. Sau khi thanh toán xong đội tuyên truyền và bọn cộng sản địa phương các ông, phân đội các ông sẽ nhập vào bán đại đội tới tăng viện cho các ông. Quyền chỉ huy sẽ chuyển giao sang tay ông chỉ huy bán đại đội ấy. Ông ta dẫn các ông đi đâu, các ông phải tuân lệnh đi đấy. – Pôlốptxép thở dài sâu một cái, rút mấy ngón tay của bàn tay trái ra khỏi thắt lưng tấm áo kiểu Tônxtôi, đưa mu bàn tay quệt mồ hôi trên trán, lên cao giọng nói tiếp: - Vị kô-dắc Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp mà các ông ở đây đều biết cả, là người trung đoàn tôi, ở Grêmiatsi Lốc hôm nay đi cùng với tôi sang đây. Ông ấy sẽ nói để các ông rõ dân chúng Grêmiatsi Lốc đã sẵn sàng đi cùng chúng ta tới mục tiêu vĩ đại giải phóng vùng sông Đông khỏi ách cộng sản. Nói đi, Ôxtơrốpnốp!

Cái nhìn nặng ngàn cân của Pôlốptxép đã lôi bật Iakốp Lukits rời khỏi mặt ghế đẩu. Lão đứng phắt dậy, cảm thấy sức nặng ấy đè lên toàn thân lão, và một cái gì nóng bỏng trong cổ họng khô đắng. Nhưng lão không kịp nói: một trong những người tới dự cuộc họp này đã cướp lời nói trước, một lão kô-dắc nom vẻ già nhất đám, uỷ viên ban quản trị nhà xứ, trước chiến tranh là trùm trưởng trường dòng Vôxkôvôi. Lão đứng dậy cùng một lúc với Iakốp Lukits, và không để cho Iakốp Lukits kịp mở miệng, hỏi luôn:

- Bẩm quan lớn, bẩm ngài quan lớn, thế vậy ngài đã nghe tin về cái chuyện rằng là… Nghĩa là trước khi ngài tới, mấy chúng tôi có hội ý.. Là mới có cái tờ báo hay lắm ạ…

- Sa-a-ao? Ông nội bảo cái gì? – Pôlốptxép hỏi, giọng khàn lại.

- Dạ, tờ báo ạ, tôi bảo có tờ báo ở Mátxcơva về, trong ấy đăng bức thư của ông chủ tịch toàn Đảng…

- Ông bí thư chứ! – Tiếng ai trong đám ngồi bên bếp lò đính chính lại.

- …À phải, của ông bí thư toàn Đảng, tức là đồng chí Xtalin. Đây, tờ báo ấy đây, đề ngày mồng hai tháng này. – Ông lão nói, giọng già chậm rãi, the thé, miệng nói, tay đã rút ở túi áo trong ra một tờ báo gấp cẩn thận làm tư. – Mấy bà con chúng tôi đã xướng lên đọc cho nhau nghe, ấy chỉ có một tí trước khi ngài tới thôi, và… thành thử là nhờ có tờ báo ấy mà ngài đi đường ngài còn chúng tôi sẽ đi đường chúng tôi thôi ạ! Đường chúng tôi, nghĩa là anh em dân cày chúng tôi, là con đường khác, thành thử là… Hôm qua chúng tôi nghe nói có tờ báo ấy, và thế là sáng nay, tôi lên ngựa, và chẳng quản tuổi già sức yếu đâm bổ đi lên quận lỵ. Qua vực Lépsốp phải bơi, phát khóc lên, nhưng rồi cũng qua được. Tôi đến hỏi một bà con trên quận lỵ, viện cả Chúa ra nữa mới mua được tờ báo, trả tiền ông ta. Giá là mười lăm rúp! Mua xong mới xem thì tờ báo đề giá có năm kôpếch! Chậc, tiền thì rồi tập thể sẽ góp trả tôi, thu mỗi nhà một hào, chúng tôi đã quyết nghị như thế. Nhưng tờ báo cũng đáng tiền đáng của, còn rẻ nữa ấy chứ…

- Cụ cứ nói hươu nói vượn cái gì vậy? Già đâm ra lẫn rồi chắc? Ai cử cụ thay mặt tất cả những người ngồi đây phát biểu? – Pôlốptxép hỏi vặn, giọng giận dữ run lên.

Thế là một bác kô-dắc dáng người bé nhỏ, nom trạc bốn mươi, có bộ ria mép vàng hoe cắt ngắn và cái mũi tẹt, tiến ra. Bác ta tiến ra từ chỗ đám người ngồi ven tường, lên tiếng thách thức và uất hận:

- Đồng chí cựu sĩ quan ơi, ông đừng có quát tháo các cụ chúng tôi, thời xưa các ông quát tháo các cụ đã nhiều. Các ông làm cha làm mẹ thế đã đủ rồi, bây giờ không được ăn nói sỗ sàng. Dưới chính quyền xôviết, chúng tôi không còn quen nghe những giọng ấy nữa, ông hiểu chưa? Và cụ đây nói đúng đấy, chúng tôi có hội ý với nhau, và cứ như cái bài đăng trên báo “Sự thật” thì chúng tôi quyết định không nổi dậy nữa. Chúng tôi và ông, ai đi ngả người nấy! Chính quyền ấp chúng tôi có làm nhiều chuyện bậy bạ, ép bừa người ta vào nông trang, quy sai cho nhiều bà con trung nông thành kulắc, và có một điều này các ông chính quyền ấp chúng tôi không hiểu ra, là người ta có thể ép duyên chứ không ép dân được. Như cái ông chủ tịch xôviết chúng tôi, ông ta khoá mõm chúng tôi ghê quá đến nỗi vào họp, cấm ai dám phát biểu chống lại một câu. Ông ta thít dây đai bụng chúng tôi chặt quá đến nỗi không còn thở được nữa, mà một ông chủ tốt thì qua bãi cát, qua quãng đường xấu, sẽ thả lỏng cương cho ngựa, sao cho con ngựa được thoải mái hơn… Trước đây, tất nhiên là chúng tôi tưởng từ trên trung ương có cái lệnh như vậy, bảo phải vắt chúng tôi như vắt quả chanh; thế cho nên chúng tôi cũng ngỡ là cái sự tuyên truyền này là do từ Ban chấp hành Trương ương cộng sản đưa xuống, bà con chúng tôi bảo nhau là không có lửa thì làm gì có khói (**). Vì thế chúng tôi mới quyết định nổi dậy và tham gia “liên minh” của các ông. Ông rõ chưa? Nhưng bây giờ hoá ra là những anh cộng sản địa phương cứ lùa ép dân vào nông trang và đóng cửa nhà thờ chẳng thèm hỏi ai, thì bị Xtalin cạo cho nên thân và cách chức. Và hoá ra là dân cày đã dễ thở rồi, dây đai bụng được nới ra rồi, muốn vào nông trang thì vào, muốn ở cá thể thì ở. Thế là chúng tôi quyết định: chia tay vui vẻ với ông… Ông trả chúng tôi những tờ giấy chúng tôi đã dại dột ký đưa ông, rồi ông đi đâu tuỳ ông, chúng tôi sẽ chẳng hại gì ông đâu, vì cái lẽ chúng tôi cũng dơ mặt…

Pôlốptxép bước ra chỗ cửa sổ, tựa lưng vào khung cửa, tái mặt đi đến nỗi ai cũng trông thấy, nhưng giọng y vẫn rắn rỏi, khô đanh khi y đảo nhìn một vòng, hỏi:

- Thế là thế nào, anh em kô-dắc? Phản bội à?

Một cụ già khác đáp:

- Ông muốn gọi là gì thì gọi, nhưng bây giờ thì ông đi đằng ông, chúng tôi đi đằng chúng tôi thôi. Khi mà chính vị to nhất đứng ra bênh vực chúng tôi, thì chúng tôi việc gì phải rẽ ngang rẽ ngửa đi đâu nữa? Như tôi đây đã bị tước oan mất quyền bầu cử, họ đe doạ trục xuất tôi, nhưng thằng con tôi đi Hồng quân, và thế là quyền bầu cử của tôi sẽ được trả về cho tôi. Chúng tôi không chống lại Chính quyền xôviết, chỉ chống lại những cái bừa bãi trong xóm ấp mình thôi, thế mà ông lại muốn hướng chúng tôi chống lại Chính quyền xôviết. Không, chuyện ấy chúng tôi không mê đâu! Ông hãy trả lại chúng tôi giấy tờ trong khi chúng tôi còn đề nghị tử tế.

Một bác kô-dắc khác nữa đã cứng tuổi phát biểu, vừa nói vừa từ tốn đưa tay trái lên vuốt bộ râu xoăn tít:

- Chúng tôi lầm to rồi, đồng chí Pôlốptxép ạ… Chúa chứng kiến là chúng tôi đã lầm to! Chúng tôi dính với ông là lầm đường lạc lối rồi đấy. Trước, chúng tôi nghĩ: cứ thử cái xem, chẳng mất gì, nhưng bây giờ thì chúng tôi sẽ thẳng đường cái mà đi thôi, không loanh quanh nữa… Lần trước, chúng tôi nghe ông nói hứa hẹn với chúng tôi những núi vàng núi bạc mà chúng tôi cứ lấy làm lạ: những điều ông hứa nghe ngon quá! Ông bảo chúng tôi là ta nổi dậy thì quân đồng minh sẽ gửi tắp lự sang cho chúng ta súng ống và đồ quân dụng. Ta chỉ độc có việc bắn giết cộng sản thôi. Nhưng sau đó chúng tôi suy nghĩ lại, và kết quả nó là thế nào? Họ sẽ đổ bộ vũ khí sang cho ta, cái đó chẳng đáng bao nhiêu, nhưng cẩn thận đấy, liệu rồi họ có đổ bộ chính họ lên đất ta không? Họ vào, rồi thì mời được họ ra cũng khó đấy! Rồi lại đến phải dùng súng gươm mà tống cổ họ ra khỏi đất Nga này thôi. Cộng sản là người giống nòi ta, họ là ta, xuất thân như thế rồi, còn bọn quỷ sứ nhà giời kia thì xì xà xì xồ cái thứ tiếng gì chả biết, lại vênh váo, giữa mùa đông cũng đừng hòng xin được họ nắm tuyết, và nếu rơi vào tay họ thì đợi đấy họ buông tha! Hồi năm hai mươi tôi đã ra nước ngoài rồi, đã nếm thử bánh mì Pháp ở Galipôli, và chỉ muốn chạy thoát khỏi đấy thôi! Chà, bánh mì của họ, sao mà nó cay đắng thế! Tôi đã được mắt thấy nhiều nước, và tôi xin nói là ngoài cái dân Nga ra, chả có dân nào đáng yêu hơn, tốt bụng hơn. Tại Kônxtantinôpôn (***) và Aphitnư (****), tôi đã làm ở cảng, đã từng thấy bọn Anh, bọn Pháp chán rồi. Cái quân ôn vật quần áo bảnh bao ấy đi qua gần mình thì bĩu môi nhăn mặt, bởi vì rằng, tôi nói ông nghe, mình râu tóc bù xù, bẩn như hủi, mồ hôi khét lẹt nó trông thấy mình nó đã muốn buồn nôn. Nó cứ như con ngựa sĩ quan, được rửa ráy kỳ cọ đến tận khấu đuôi, và nó lấy thế làm vênh vang, và ghê tởm mình. Bọn lính thuỷ của họ vào quán rượu sinh sự với anh em ta, hơi tí giở bốc ra với mình. Nhưng bà con sông Đông và Kuban ta sống ở nơi đất khách quê người rồi cũng quen dần, và cũng bắt đầu chơi lại! – Bác kô-dắc mỉm cười, hàm răng sáng xanh lên giữa chòm râu như một ánh dao sắc loáng. – Một dân chọi nhà ta đã cho thằng Anh một đòn kiểu Nga, thằng cha này ngã quay lơ ra, nằm thẳng cẳng, tay ôm đầu, miệng thở dốc. Đối với quả đấm Nga thì xương thịt họ mềm quá, họ ăn thì đẫy, thế mà yếu như sên. Các vị đồng minh ấy chúng tôi đã va chạm và biết tỏng rồi! Thôi, thôi, chúng tôi sẽ tìm cách nào tự mình dàn xếp hoà hảo với chính quyền của chúng tôi thôi, trong nhà có điều gì không hay thì đóng cửa bảo nhau… Những giấy tờ ấy xin ông hãy trao trả lại chúng tôi!

“Hắn sắp nhảy qua cửa sổ bây giờ, còn trơ khấc lại mình, như con tôm trên bãi cát! Sướng cái thân đời chưa… Ôi mẹ ơi, mẹ đẻ ra con vào cái giờ chết giẫm rồi! Tự nhiên đi dính vào cái thằng hai lần trời đánh này! Thật là ma đưa lối, quỷ dẫn đường!” – Iakốp Lukits nhấp nha nhấp nhổm trên chiếc ghế đẩu, nghĩ bụng như vậy, mắt theo dõi Pôlốptxép không rời. Nhưng Pôlốptxép vẫn thản nhiên đứng bên cửa sổ, và bây giờ má y không phải là tái nữa mà tím bầm vì giận dữ và quyết tâm. Hai đường gân xanh to chạy ngang trên trán y nổi phồng, hai bàn tay bám chặt lấy thành cửa sổ:

- Đã thế thì, thưa các vị kô-dắc, nhân tâm tuỳ các vị, các vị không  muốn đi với chúng tôi, chúng tôi không yêu cầu, không van nài. Còn giấy tờ thì tôi không trả, tôi không mang theo đây, mà để trên bộ tham mưu. Các vị đừng ngại, tôi đây không tố giác các vị với GPU đâu…

- Thế cũng được. – Một cụ già tỏ vẻ đồng ý.

- … Mà đáng sợ không phải là GPU đâu… - Pôlốptxép từ nãy giờ vẫn nói thong thả, nhỏ nhẹ, bỗng quát tướng lên: - Đáng sợ là chúng tao đây! Chúng tao sẽ bắn chết hết chúng mày, như những tên phản bội!... Thôi, dãn ra! Đứng sang một bên! Sát vào tường! … Và rút súng lục, cầm lăm lăm giơ ra đằng trước, y tiến ra cửa.

Đám kô-dắc dãn cả ra, kinh ngạc. Iakốp Lukits đi trước Pôlốptxép lấy vai đẩy tung cánh cửa, vọt ra hiên, như viên sỏi bắn vút ra từ chiếc súng cao su.

Họ tháo ngựa mò trong tối, rồi phi nước kiệu, chuồn. Từ trong nhà vẳng tới tai họ những tiếng giận dữ nhao nhao thốt lên, nhưng không ai chạy ra, không một ai trong đám kô-dắc nghĩ đến chuyện bắt giữ họ lại.

* * *

Về tới Grêmiatsi Lốc, sau khi Iakốp Lukits đã đi trả lại chuồng ngựa nông trang đôi ngựa nhễ nhại mồ hôi sau một cuộc phi nhanh, Pôlốptxép gọi lão vào căn phòng xép của y. Y để nguyên quần áo, mũ mãng; vừa bước chân về, y đã ra lệnh cho Liachépxki chuẩn bị, đọc lướt qua bức thư do liên lạc cưỡi ngựa mới mang tới trước khi họ về một lát. Đọc xong thư, y ném vào lò đốt đi và bắt đầu xếp đồ lề vào xắccốt.

Iakốp Lukits bước vào phòng thì thấy y đang ngồi bên bàn. Liachépxki, mắt long lanh, đang lau khẩu Maude bằng những động tác nhanh nhẹn và chính xác lắp lại các bộ phận tháo rời đã bôi dầu mỡ. Nghe tiếng kẹt cửa, Pôlốptxép nhấc bàn tay đang ôm lấy trán ra, quay mặt về phía Iakốp Lukits, và đây là lần đầu tiên lão trông thấy những giọt nước mắt lăn ra từ đôi mắt trũng sâu đỏ hoe của viên quan ba, và long lanh trên sống mũi rộng của y..

- Tôi khóc vì công việc của chúng ta không thành… không thành lần này… - Pôlốptxép nói oang oang, và bằng cử chỉ dứt khoát, kéo chiếc mũ lông trắng xoăn xoăn trên đầu xuống, cầm lau nước mắt: - Sông Đông đã vợi hết những người kô-dắc chân chính rồi, sinh sôi nảy nở ra toàn những loại chó má: bọn phản bội và bọn vô lại… Bây giờ chúng tôi đi, Iakốp Lukits ạ, nhưng chúng tôi sẽ trở lại! Tôi vừa nhận được lá thư này… Ở Tubianxki và ở quê tôi, bọn kô-dắc cũng từ chối, không muốn nổi dậy. Xtalin đã nhờ bài báo ấy lôi kéo được họ. Chà, ước gì… ước gì mình… - Trong họng Pôlốptxép có thứ tiếng gì sôi lên òng ọc, dưới hai bên gò má bắp thịt hàm nổi cuộn lên, mười ngón tay của hai bàn tay chắc nịch quắp lại, nắm chặt đến tấy lên ở những quãng đầu khớp. Thở hắt ra một hơi dài khò khè, y từ từ duỗi mười ngón tay ra, nhếch một bên mép, cười khẩy: - Dân ngu-u-u-u lạ! Súc sinh!... Đần độn, trời đánh thánh vật!... Chúng nó không hiểu rằng bài báo ấy chỉ là một sự lừa bịp xấu xa, một mưu kế mà thôi! Và chúng nó tin… như lũ con nít. Ôi, bọn dân ngu khu đen! Bọn ngu xuẩn ấy, người ta nhử mồi chúng nhằm một mưu đồ chính trị, như thả mồi câu nhử cá, người ta nới dây đai cho chúng để chúng khỏi nghẹt thở mà chết, tất cả những thứ bạc giả ấy, chúng lại ngỡ là bạc thật… Nhưng, thôi được! Chúng sẽ hiểu ra, và sẽ hối tiếc, chỉ có điều lúc ấy đã quá muộn. Chúng tôi đi đây, anh Iakốp Lukits. Chúa ban phước lành cho anh vì lòng mến khách của anh, vì tất cả. Đây là mệnh lệnh của tôi, anh hãy chấp hành: cứ ở nông trang, đừng ra, và tìm mọi cách gây thiệt hại cho chúng. Còn với những người đã vào “liên minh” của chúng ta, anh hãy bảo họ như thế này, và coi đó là những lời tôi nói như đinh đóng cột: tạm thời chúng tôi rút lui, nhưng chúng tôi không phải đã bị đánh bại. Chúng tôi sẽ còn trở lại, và lúc ấy thì liệu hồn những kẻ xa lìa chúng tôi, phản bội chúng tôi và sự nghiệp…, sự nghiệp vĩ đại giải phóng quê hương sông Đông khỏi chính quyền của bọn bônsêvích. Chết dưới lưỡi gươm kô-dắc, đó sẽ là sự trừng phạt đối với họ, anh cứ nói với anh em như thế.

Lời nói và những giọt nước mắt của Pôlốptxép đã làm lão mủi lòng, trong thâm tâm lão mừng thầm đã thoát được mấy ông khách trọ nguy hiểm kia, và tất cả câu chuyện này đã kết thúc một các êm đẹp như vậy: từ nay không còn phải lo sợ cho tài sản, cho cái đầu của lão nữa.

- Tôi sẽ nói. – Lão nhắc lại và đánh bạo hỏi: - Thế bây giờ các ông đi đâu, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits?

- Anh hỏi làm gì? – Pôlốptxép cảnh giác vặn lại.

- Thưa, phòng có việc gì cần, hoặc có ai đến tìm ông chăng?

Pôlốptxép lắc đầu, đứng dậy:

- Không, tôi đi đâu không thể nói anh biết được. Nhưng khoảng ba tuần nữa, anh đợi tôi. Thôi, chào anh! – Và y chìa ra bàn tay lạnh giá.

Y tự tay đóng yên cương cho ngựa, vuốt cẩn thận tấm dạ lót yên, kéo căng đai bụng. Liachépxki đang từ biệt Iakốp Lukits ở sân, dúi vào tay lão hai tờ giấy bạc.

- Thưa, ông đi bộ ạ? – Iakốp Lukits hỏi hắn.

- Đi mấy bước ra khỏi cổng đây thôi; ngoài đường cái đằng kia là ô tô riêng của tôi đợi đấy rồi. – Viên quan một vẫn nói đùa, chẳng tỏ ra mất tinh thần tí nào, và đợi cho Pôlốptxép ngồi lên yên xong, hắn nắm lấy dây đeo bàn đạp: - Nào, phi đi, hoàng tử, một mạch tới trận địa quân thù, chưa biết chừng đi bộ tôi lại tới trước đấy!

Iakốp Lukits tiễn khách ra quá ngoài cổng, nhẹ hẳn cả người, cài then cửa lại, làm dấu phép, và băn khoăn rút trong túi ra món tiền nhận được của Liachépxki. Trong bóng đêm trước buổi rạng đông, lão căng mắt ra cố xem xem món tiền là bao nhiêu, và sờ soạng, nghe tiếng giấy sột soạt mà xác định là bạc thật hay giả.

------------------------

(*)          Xegien = 2,13m. – ND.

(**)        Nguyên văn: Không có gió thì cánh quạt cối xay quay thế quái nào được. – ND.

(***)      Kônxtantinôpôn – Một thành phố lớn ở Thổ Nhĩ Kỳ. – ND.

(****)   Aphinư – Thủ đô Hy Lạp (Tiếng Pháp là Aten). – ND.

CHƯƠNG XXVIII

Ngày hai mươi tháng Ba, giao thông đã mang tới Grêmiatsi Lốc những báo chí ùn lại do nước lũ, trong đó có số đăng bài của Xtalin “Choáng váng vì thắng lợi”. Ba số báo “Tay búa” chỉ nội một ngày đã được chuyền đi khắp các nhà, và đến chiều tối đã biến thành những mảnh giấy tã, nhem nhuốc mỡ, ẩm xì xì. Từ thuở có ấp Grêmiatsi Lốc đến nay, chưa từng có tờ báo nào đã tập hợp được quanh nó lắm người nghe như ngày hôm ấy. Người ta đọc, túm năm tụm ba trong nhà, ngoài ngõ, đằng sau chuồng bò, trên hiên kho… Một người xướng lên, mọi người khác nghe, chỉ lo sót mất chữ nào, và giữ tuyệt đối im lặng. Quanh bài báo này đã nổ ra khắp nơi những cuộc tranh cãi kịch liệt. Mỗi người hiểu theo ý riêng của mình, đa số là hiểu theo ý mình muồn. Và hầu như ở đâu cũng thế, cứ động xuất hiện Nagunốp hoặc Đavưđốp thì không hiểu sao người ta vội vàng chuyền tờ báo qua tay nhau, và tờ báo như một con chim trắng bay lượn giữa đám người cho đến lúc nó biến mất hút vào trong cái túi to bè của ai đó.

Banhích đắc chí, đầu tiên đưa ra nhận định:

- Nào, bây giờ thì các nông trang sẽ bục ra như cái áo tã.

Đemka Usakốp đối đáp lại:

- Rác rưởi sẽ trôi đi, màu mỡ sẽ đọng lại.

- Coi chừng là ngược lại đấy! – Banhích bác lại và hấp tấp bỏ đi đến chỗ khác, rỉ tai những người tâm đắc với mình: “Cứ làm toáng lên, xin rút ra khỏi nông trang đi, người ta đã tuyên bố tự do cho nông nô rồi!”.

Paven Liubiskin trỏ cho đám nông trang viên trung nông đang chuyện trò sôi nổi, nói với Mênốc:

- Các bố trung nông đang giạng háng ra kìa! Một chân đặt trong nông trang, chân kia thì ghếch lên, lắc la lắc lư, lăm le nhảy tót ra khỏi nông trang trở về xó đất nhà mình.

Các bà nhiều điều chưa hiểu rõ, đoán già đoán non với nhau theo kiểu đàn bà. Và đầu làng cuối xóm các bà bàn tán:

- Sẽ giải tán nông trang đấy!

- Bò sẽ trả lại, lệnh của Mátxcơva.

- Đám kulắc sẽ được về và đưa vào nông trang.

- Ai bị tước quyền bầu cử sẽ được trả lại.

- Bên Tubianxki đã mở cửa lại nhà thờ và lấy lúa mì trữ trong nhà thờ chia cho nông trang viên làm lương ăn.

Sắp diễn ra những sự kiện quan trọng đây. Ai cũng cảm thấy như vậy. Tối hôm ấy chi bộ họp kín. Đavưđốp phát biểu gay gắt.

- Bài báo của đồng chí Xtalin ra thật đúng lúc! Ví dụ như Maka chẳng hạn, bài báo ấy không phải phang vào lưng mà là phang vào giữa mặt đồng chí ấy! Maka đã choáng váng vì thắng lợi, và cả chúng mình nữa cũng có phần nào choáng váng… Đề nghị các đồng chí cho ý kiến, ta sẽ sửa cái gì. Gà  vịt ta đã trả lại rồi, ta đã kịp thời trông thấy vấn đề, nhưng cừu với bò cái thì bây giờ thế nào đây? Giải quyết chúng nó thế nào bây giờ, các đồng chí! Nếu ta giải quyết việc ấy thiếu chính trị thì, thực tế thế, kết quả… kết quả là chẳng khác gì bảo người ta: “Thôi, mạnh ai nấy chạy!”, “Cao chạy xa bay ra khỏi nông trang đi thôi!”. Và họ sẽ chạy, lôi súc vật về hết, và ta sẽ đứng trơ mắt ếch ra đấy. Rõ như ban ngày!

Nagunốp, đến dự họp sau rốt, đứng lên, đưa cặp mắt rơm rớm đỏ ngầu nhìn Đavưđốp chòng chọc, phát biểu (và lúc đó Đavưđốp ngửi thấy Maka sặc mùi rượu mạnh):

- Đồng chí bảo bài báo ấy phang vào giữa mặt tôi hả? Không, không phải vào mặt, mà xuyên trúng tim! Xuyên suốt tận lưng! Và tôi choáng váng không phải khi chúng ta thành lập nông trang đâu, mà chính là bây giờ đây, sau khi có bài báo này…

- Nhất là sau khi làm một chai vốtka. – Ivan Naiđênốp đế nhẹ một câu.

Anđrây mỉm cười, nháy mắt một cái tỏ ý tán thành, Đavưđốp cúi đầu xuống bàn, còn Maka thì phồng hai lỗ mũi trắng nhợt lên, đôi mắt đục ngầu giận dữ long sòng sọc:

- Này, chú nó ơi, chú nó còn ít tuổi quá, không lên lớp bắt bẻ anh được đâu! Chú nó chưa rụng rốn thì lúc ấy anh đã chiến đấu cho chính quyền xôviết và đã có chân trong Đảng rồi… Thế đấy! Còn chuyện hôm nay anh có làm vài hớp thì, nói bắt chước đồng chí Đavưđốp, thực tế thế. Và không phải một chai đâu, hai kia!

Radơmiốtnốp hậm hực buông ra một câu:

- Thế còn khoe! Say thế nên nói ba lăng nhăng…

Maka lườm anh một cái, nhưng nói đã hạ giọng đi, tay không hoa loạn lên nữa, mà nắm chặt lại ép vào ngực, và cứ đứng như thế cho đến hết đoạn phát biểu sôi nổi và chẳng có mạch lạc gì của anh:

- Đâu phải tôi ba lăng nhăng, anh nói linh tinh rồi, Anđrây ạ! Tôi uống rượu nguyên do là vì bài báo ấy của Xtalin đã xuyên qua người tôi như một viên đạn, và trong tôi máu cứ sôi lên sùng sục… - Giọng Maka run run và càng hạ thấp nữa: - Ở đây tôi là bí thư chi bộ, đúng không nào? Tôi đề ra cho nhân dân, đề ra với đồ khỉ gió các anh là phải tập trung gà ngỗng vào nông trang, thế chứ gì? Tôi đã vận động thành lập nông trang như thế nào? Như thế này đây: tôi đã bảo thẳng vài quân chó má, mặc dầu nó là trung nông, như thế này: “Mày không vào nông trang hả? Thế nghĩa là mày chống lại Chính quyền xôviết phải không? Hồi năm mười chín mày đã đánh nhau với chúng tao, chọi với chúng tao, bây giờ mày cũng lại chống lại hả? Được, thế mày đừng hòng tao để cho mày yên. Tao sẽ cho mày một trận rũ xương, đồ chó đểu, cho đến nỗi ma quỷ trông thấy cũng phải táng đởm kinh hồn!”. Có đúng tôi đã nói thế không? Đúng! Tôi còn đập súng lục xuống bàn nữa. Tôi không chối cãi! Thực ra không phải với ai tôi cũng nói thế cả, mà chỉ nói với những đứa trong bụng chống lại ta đặc biệt kịch liệt mà thôi. Và hôm nay tôi có say đâu, xin đừng ăn nói hàm hồ! Bài báo ấy làm tôi không chịu nổi, vì nó nên nửa năm nay rồi hôm nay lần đầu tiên tôi lại uống. Bài báo nào vậy? Bài báo của đồng chí Xtalin viết chứ bài báo nào, và tôi đây, nghĩa là Maka Nagunốp, đã oạch một cái, ngã lộn cổ, mắt úp sấp xuống bùn, chổng vó… Thế là thế nào? Thưa các đồng chí! Tôi đồng ý là về chuyện gà qué và súc vật linh tinh khác, tôi đã tả khuynh… Nhưng, thưa các anh em, tại sao tôi làm thế mới được chứ? Và các đồng chí cứ tròng thằng Tơrốtxki vào cổ tôi, đánh đồng tôi với nó, bảo tôi ý hợp tâm đầu với nó? Anh ấy, anh Đavưđốp ạ, anh lúc nào cũng chụp mũ tôi là tơrốtxkít tả khuynh. Tơrốtxki chủ trương thế nào, tôi không biết, nhưng tôi không phải như nó… tôi vào Đảng không phải như một nhà thông thái rởm, mà bằng trái tim, bằng giọt máu của mình đổ ra vì Đảng!

- Nói vào đề đi, Maka! Thời gian quý báu thế này mà cứ con cà con kê mãi thế? Thời giờ gấp lắm rồi. Những sai lầm chung của chúng ta, ta nên sửa thế nào, đồng chí có ý kiến gì thì nêu ra, việc gì phải nhai nhải, hệt như Tơrốtxki: “Tôi ở trong Đảng, tôi và Đảng…”.

- Để yên tôi nói! – Maka gầm lên, mặt đỏ tía tai, bàn tay phải càng xiết chặt hơn nữa vào ngực: - Tôi đâu có cấu kết với Tơrốtxki! Tôi rất lấy làm xấu hổ bị vứt vào cùng một rọ với nó! Tôi không phải là một tên phản bội, và tôi báo trước các anh biết: anh nào bảo tôi là tơrốtxkít, tôi đập cho vỡ mõm! Tôi đập cho nhừ xương! Và tôi có tả khuynh trong chuyện gà thì đó không phải vì Tơrốtxki, mà vì muốn mau đi tới cách mạng thế giới! Qua chuyện ấy tôi mốn cho mọi việc đi nhanh hơn, thít chặt hơn với bọn tư hữu tiểu tư sản. Tất cả là để tiến gần tới ngày thủ tiêu chủ nghĩa tư bản thế giới! Nào, sao các anh im tịt thế? Bây giờ thế này: theo bài báo của đồng chí Xtalin, tôi là hạng người như thế nào? Đây, ở quãng giữa bài có viết như thế này. – Maka rút một tờ “Sự thật” từ trong túi áo varơi, mở ra, đọc chậm chậm: - “Những lệch lạc ấy, cách vận động hợp tác hoá bằng những sắc lệnh quan liêu ấy, những sự đe doạ không đáng làm ấy đối với nông dân, tất cả những cái ấy có lợi cho ai? Không có lợi cho ai cả ngoài kẻ thù của chúng ta! Những lệch lạc ấy có thể dẫn tới đâu? Dẫn tới chỗ làm kẻ thù mạnh lên và làm mất lòng tin của quần chúng vào tư tưởng hợp tác hoá. Chẳng rõ ràng là những người chủ trương những lệch lạc ấy tự cho mình là “tả”, thực ra đã đổ nước vào cối xay của bọn cơ hội hữu khuynh hay sao?”. Thế này hoá ra là, trước hết, tôi quan liêu mệnh lệnh, tôi đã làm mất lòng tin của nông trang viên, và tôi đã đổ nước vào cối xay của bọn cơ hội hữu khuynh, làm cho nó quay. Và tất cả những cái đó chỉ vì mấy con cừu, mấy con gà chết toi! Và vì tôi đã làm co vòi vài thằng bạch vệ cũ vào nông trang mà cứ giở lối lừng khà lừng khừng. Đâu phải như thế! Chúng ta loay hoay, loay hoay mãi mới lập xong được cái nông trang, bây giờ bài báo lại đánh bài rút lui. Tôi đã từng dẫn một đại đội kỵ binh đánh cả bọn Ba Lan, cả bọn Vranghen, tôi biết: một khi đã xông lên tấn công thì chớ có quay lại nửa đường!

- Nhưng anh lại vượt lên trước đại đội của anh đến trăm mét… - Radơmiốtnốp, ít lâu nay vẫn kiên quyết ủng hộ Đavưđốp, sa sầm mặt xuống, nói: - Này, Maka, đề nghị phanh lại thôi, bàn vào công việc đi! Để bao giờ người ta bầu đồng chí làm tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương thì đồng chí tha hồ cắm đầu lao đi tấn công, còn bây giờ đồng chí là một chiến sĩ đứng trong hàng ngũ thì phải tôn trọng kỷ luật, không thì chúng tôi phê cho một trận đấy!

- Anđrây, anh đừng chặn họng, để yên tôi nói! Tôi phục tùng mọi mệnh lệnh của Đảng, và lúc này tôi muốn nói thì không phải với ý định chống lại Đảng thân yêu của tôi, mà vì  muốn có lợi cho Đảng. Đồng chí Xtalin có viết là phải vận dụng tình hình địa phương, đúng thế không? Thế  vậy thì, Đavưđốp, tại sao anh lại bảo bài báo ấy phang vào mặt tôi? Trong bài báo ấy có ghĩ rõ Maka Nagunốp là quan liêu, là làm bậy chăng? Hay là những tiếng ấy cũng chẳng dính dáng gì đến tôi cả? Ấy nếu như đồng chí Xtalin có về Grêmiatsi Lốc, thế nào tôi cũng phát biểu với đồng chí ấy: “Thưa đồng chí Iôxíp Vixariônưits thân mến của chúng tôi, thế nghĩa là đồng chí không tán thành việc chúng tôi răn đe những anh trung nông của chúng tôi ư? Đồng chí thương xót họ và muốn ăn nói nhẹ nhàng với họ ư? Nhưng nếu cái anh trung nông ấy, ngày xưa nó đi lính bạch vệ kô-dắc và tới giờ vẫn trung thành đến cùng với chế độ tư hữu thì tôi phải vuốt ve mơn trớn nó ở quãng nào để nó vui lòng vào nông trang và kiên trì đi tới cách mạng thế giới? Nhưng cái thằng cha trung nông ấy, nó vào nông trang mà vẫn không từ bỏ được đầu óc tư hữu của nó, vẫn bám khư khư lấy, dù chỉ là để ném cho con bò của nó ăn no hơn một tí mà thôi. Nó là loại người như vậy đấy!”. Và nếu đồng chí Xtalin sau khi đã xem xét loại người như vậy, vẫn khăng khăng bảo là tôi lệch lạc, tôi làm mất lòng tin của nông trang viên, thì lúc ấy tôi sẽ nói thẳng với đồng chí ấy: “Thưa đồng chí Xtalin, thế thì để ma quỷ gây lòng tin cho họ vậy, còn tôi thì xin chịu, do tình hình sức khoẻ của tôi đã tiêu ma ngoài mặt trận rồi. Đồng chí hãy điều tôi ra biên giới Trung Quốc, ở đây tôi sẽ phục vụ Đảng được tốt hơn, còn việc tập thể hoá ấp Grêmiatsi thì xin mời anh Anđrây Radơmiốtnốp. Xương sống anh ấy mềm hơn, anh ấy cúi rạp xuống chào bọn bạch vệ cũ thì không chê được, và rỏ vài giọt nước mắt… Cái ấy anh ta cũng làm được!”.

- Này, đừng chọc vào tôi, không thì tôi chọc lại đấy…

- Thôi, đủ rồi! Hôm nay giải quyết thế thôi! – Đavưđốp đứng dậy, tiến sát đến Maka, hỏi bằng giọng lạnh lùng ít thấy ở anh: - Đồng chí Nagunốp, bức thư của Xtalin là đường lối của Ban chấp hành Trung ương đấy. Có phải đồng chí không tán thành nội dung bức thư ấy không?

- Phải.

- Vậy những sai lầm của đồng chí, đồng chí có nhận không? Tôi chẳng hạn, tôi nhận sai lầm của tôi. Không thể nhắm mắt trước sự thật và không thể cắm đầu làm liều. Tôi không những thừa nhận là chúng ta đã đi quá đà trong việc tập thể hoá gia súc nhỏ, mà tôi sẽ còn sửa chữa những sai lầm ấy. Chúng ta quá lao theo con số phần trăm tập thể hoá, mặc dù trong chuyện này huyện uỷ cũng có khuyết điểm, và chúng ta coi quá nhẹ việc củng cố nông trang một cách thiết thực. Đồng chí có thừa nhận như vậy không, đồng chí Nagunốp.

- Tôi thừa nhận.

- Thế thì còn thắc mắc nỗi gì?

- Bài báo ấy sai.

Đavưđốp đưa lòng  bàn tay xoa xoa một lát tấm vải sơn rải bàn bẩn nhem nhuốc, và không hiểu tại sao tự nhiên vặn cho cháy to lên cái bấc đèn đang cháy vừa ngọn, xem có vẻ anh đang cố nén bực nhưng không nén được:

- Cái đồ cậu! Cám hấp! Con tườu!... Cứ những câu ăn nói như vậy thì ở chỗ khác người ta đuổi cổ cậu ra khỏi Đảng rồi! Thực tế thế! Cậu loạn óc rồi sao? Hoặc là cậu chấm dứt ngay cái… cái lối… cái thái độ chống đối của cậu đi, hoặc là chúng tôi sẽ… Thực tế thế! Chúng tôi ngồi nghe cậu thao thao thế là quá kiên nhẫn rồi, và nếu cậu đặt vấn đề ấy một cách thực sự thì cũng được thôi! Chúng tôi sẽ chính thức báo cáo lên huyện uỷ về lời phát biểu của cậu chống lại đường lối của Đảng.

- Cứ việc báo cáo

Nghe giọng nói bối rối của Maka, Đavưđốp hơi dịu đi phần nào, nhưng trong lòng vẫn không nguôi hậm hực, nhún vai nói:

- Này, Maka, cậu đi ngủ một giấc đi, rồi ta sẽ nói chuyện sau với nhau một cách tử tế. Nếu không, tôi với cậu bây giờ cứ như trong truyện hai con bò trắng vậy: “Hai ta có đi với nhau không? – “Có”. – “Vớ được cái áo mền phải không?” – “Phải”. – “Vậy thì ta chia nhau cái áo như đã thoả thuận” – “Cái áo nào?”. – Thế thì ta có đi với nhau không?” – Có…”. Và cứ luẩn quẩn như thế mãi, không bao giờ hết. Cậu bảo cậu nhận sai lầm, và vừa mới nói buông mồm xong thì lại bảo bài báo sai. Nếu theo cậu, bài báo là sai, thì cậu nhận những sai lầm nào? Cậu quẫn rồi, thực tế thế! Thêm nữa, có đời thuở nào một anh bí thư chi bộ vác cái xác say bí tỉ đến hội nghị chi bộ không? Thế là nghĩa lý gì, hả đồng chí Nagunốp? Thế là vi phạm kỷ luật Đảng, đồng chí là đảng viên kỳ cựu, là du kích đỏ, có Huân chương Cờ đỏ, thế mà tự dưng lại giở cái trò này ra… Naiđênốp đây là thanh niên Kômxômôn, anh ta sẽ nghĩ như thế nào về đồng chí? Thêm nữa, nếu đến tai ban kiểm tra huyện chuyện đồng chí say rượu, mà lại vào một lúc quan trọng như lúc này, chuyện đồng chí không những giơ súng ra doạ dẫm nạt nộ trung nông mà còn có thái độ chẳng bônsêvích tí nào trước sai lầm của mình, thậm chí phát biểu chống lại đường lối của Đảng, thì anh sẽ khốn nạn đấy. Anh không những sẽ không còn là bí thư chi bộ nữa, mà không còn là đảng viên nữa kia, anh nên biết như thế! Tôi nói thực đấy! – Đavưđốp vò đầu, ngừng nói một lát, cảm thấy mình đã điểm trúng huyệt Maka. Rồi nói tiếp: - Làm rùm beng về bài báo làm gì vô ích. Anh không lái được Đảng theo mình đâu, những người còn bằng mấy anh ấy chứ, Đảng còn bẻ cho gãy sừng kia kìa, và bắt phải phục tùng. Những điều ấy mà anh không hiểu sao?

- Hoài hơi mà mất thời giờ ngồi dài dòng với cậu ấy! Cậu ấy làm om sòm suốt một tiếng đồng hồ, mà nghe chẳng ra chuyện gì cả. Để cậu ấy về, cho cậu ấy ngủ đi. Về đi, Maka! Xấu hổ quá! Soi gương thử một cái xem, cậu sẽ phát khiếp: mặt mũi húp híp, mắt thì như mắt chó dại, sao mà lại nhếch nhác thế kia không biết? Về đi! – Radơmiốtnốp chồm lên, túm lấy vai Maka lay lấy lay để, nhưng Maka uể oải, thẫn thờ gạt tay anh ta ra, và cùng gù lưng xuống…

Đavưđốp gõ nhịp ngón tay xuống bàn trong không khí im lặng nặng nề. Ivan Naiđênốp, suốt từ nãy cứ mỉm cười ngơ ngác nhìn Maka, đề nghị:

- Đồng chí Đavưđốp ạ, đề nghị kết thúc thôi.

Đavưđốp hoạt bát lên:

- Thế này nhé, các đồng chí, tôi đề nghị như sau: trả lại cho nông trang gia súc nhỏ và bò cái, nhưng những ai đã góp hai con thì vận động họ để lại cho đàn bò tập thể của nông trang. Ngay sáng mai phải triệu tập họp, tiến hành công tác giải thích. Trọng tâm bây giờ  là tuyên truyền giải thích! Tôi e rằng sẽ có những người xin ra nông trang, trong khi nay mai ta đã phải xuất quân ra đồng rồi… Đây, Maka ạ, đây chính là chỗ cho đồng chí thi thố bản lĩnh của mình đấy. Đồng chí hãy giải thích cho người ta, mà không cần dùng đến súng lục, sao cho người ta không xin ra nông trang, đó sẽ là một việc làm thiết thực. Thôi, thế ta biểu quyết chứ? Lấy ý kiến đề nghị của tôi để biểu quyết. Ai tán thành? Anh không biểu quyết ư, Maka? Được, ta cứ ghi: “một phiếu trắng…”.

Radơmiốtnốp đề nghị ngay ngày mai tổ chức trừ chuột đồng. Hội nghị quyết định huy động vào việc này một số nông trang viên, lấy trong số những người không bận vào việc làm đồng, cấp cho họ vài đôi bò đực để chở nước, và sẽ yêu cầu ông giáo Spưn, phụ trách trường, dẫn học sinh ra đồng tham gia diệt chuột.

Suốt từ nãy Đavưđốp trong bụng cứ phân vân: có nên siết Maka không? Có nên đặt vấn đề cậu ta vi phạm kỷ luật Đảng qua lời phát biểu chống lại bài báo của Xtalin, qua việc từ chối không chịu thanh toán hậu qủa của những sai lầm “tả khuynh” đã phạm phải trong quá trình thành lập nông trang không? Nhưng đến cuối hội nghị, nhìn khuôn mặt Maka nhợt nhạt như người chết rồi, nhễ nhại mồ hôi, có mấy đường gân xanh nổi phồng lên hai bên thái dương, anh quyết định: “Không, không nên! Tự câu ta sẽ hiểu ra. Để cậu ta tự giác, không có một sức ép nào ở bên ngoài. Linh tinh lắm chuyện, nhưng là đồng chí ta trung thành lắm đấy chứ! Lại thêm cái bệnh kia nữa… động kinh. Thôi, ta ỉm đi thôi!”.

Còn Maka thì cho đến hết hội nghị cứ ngồi lặng thinh, bề ngoài không tỏ ra xúc động gì cả. Đavưđốp nhìn anh ta và chỉ có một lần trông thấy hai bàn tay Maka buông thõng trên đầu gối tự nhiên run bắn lên một cái như có một làn sóng lướt qua…

- Lôi Nagunốp về nhà cậu ngủ, theo sát, cho hắn khỏi uống rượu. – Đavưđốp rỉ tai Radơmiốtnốp. Radơmiốtnốp gật đầu đồng ý.

Đavưđốp đi một mình về nhà. Gần nhà của Luka Tsêbakốp có một đám kô-dắc ngồi chơi trên một hàng dậu đổ, và từ phía ấy vẳng lại tiếng chuyện trò sôi nổi. Đavưđốp đi bên lề đường bên kia. Đi ngang qua chỗ họ, anh nghe thấy tiếng ai lạ lạ nói một cách dứt khoát, giọng ồm ồm pha ý chế giễu:

-  “…đưa bao nhiêu, nộp bao nhiêu, chúng nó vẫn thấy chưa vừa!”.

Và một giọng khác:

- "Chính quyền xôviết bây giờ lại sinh ra có hai cánh: cánh hữu và cánh tả. Bao giờ thì họ cất cánh bay cút mẹ nó đi cho mình thoát nợ?".

Một tiếng cười nhiều giọng rộ lên, rồi im bặt. Một tiếng thì thào hoảng hốt:

- Suỵt!... Đavưđốp.

Và liền đó, vẫn cái giọng nói ồm ồm lúc nãy những bây giờ thì không còn một tí gì ỡm ờ nữa, ề à nói, ra bộ lo làm lo ăn.

- Pha-a-ải… Nếu không mưa, ta gieo xong cũng chóng thôi… Đất khô nhanh lắm… Thôi chứ, anh em, ta về ngủ thôi chứ? Xin chào!

Một tiếng ho. Tiếng chân đi…

CHƯƠNG XXIX

Hôm sau có hai mươi ba đơn xin ra nông trang. Phần lớn những người xin ra là trung nông, trong số những người gia nhập nông trang sau rốt, đến họp hành thường ngồi im, hay cãi cọ với cán bộ phụ trách phân công, ra đồng làm thì lừng khừng, miễn cưỡng. Đó là những người mà Nagunốp bảo là: "Thế cũng gọi là nông trang viên à? Chẳng ra dơi, cũng chẳng ra chuột!". Họ thực chất chỉ là một gánh nặng cho các đội, họ có trở thành nông trang viên thì hoặc là vì sợ chính quyền trù, hoặc chẳng qua chỉ là vì bị lôi cuốn theo trào lưu mạnh mẽ chung thúc đẩy mọi người vào nông trang bắt đầu từ tháng Giêng năm nay.

Nhận đơn của họ, Đavưđốp đã cố thuyết phục họ, khuyên nên nghĩ kỹ, nán chờ ít lâu xem sao đã, nhưng họ cứ khăng khăng một mực. Và rốt cuộc Đavưđốp đành khoát tay nói:

- Thôi được, bà con ra, nhưng nhớ lấy một điều: bao giờ bà con xin trở lại nông trang thì lúc ấy chúng tôi sẽ còn phải cân nhắc chán, xem có nên nhận hay không?

- Chả chắc gì chúng tôi xin trở lại! Chúng tôi chỉ mong sao lại được sống chẳng nông trang nông triếc gì cả… Vì rằng là anh Đavưđốp ạ, trước đây chẳng có nông trang, chúng tôi sống cũng chẳng đến nỗi nào, chẳng chết đói, mình làm chủ tài sản của mình, chẳng bị những anh cha căng chú kiết dạy bảo mình phải cày thế nào, chẳng bị ai thúc… Vậy cho nên chúng tôi nghĩ bây giờ lại sống không có nông trang cũng không lấy gì làm buồn! - Cựu nông trang viên Ivan Batantsikốp cười nụ trong bộ ria loăn xoăn màu hạt dẻ, đáp thay cho cả đám.

Đavưđốp cắt ngang:

- Chúng tôi cũng vậy, chẳng có các bạn, chúng tôi sống cũng không đến nỗi nào! Chúng tôi sẽ chẳng khóc, chẳng buồn đâu, thực tế thế! Đàn bà xuống xe, ngựa kéo càng nhẹ.

- Tốt hơn hết là chúng ta chia tay nhau một cách thân ái. Vỡ nồi vỡ niêu, rồi vui vẻ ai đi đường nấy. Anh cho chúng tôi rút gia súc của chúng tôi ở đội về chứ?

- Không, vấn đề này còn phải đưa ra ban quản trị bàn đã. Đợi mai.

- Chúng tôi không nấn ná được. Nông trang các anh chắc là sau lễ Ba ngôi mới gieo, nhưng chúng tôi thì phải ra đồng ngay. Chúng tôi sẽ đợi đến mai, nhưng nếu mai các anh vẫn giữ gia súc của chúng tôi lại, thì chúng tôi cũng cứ lấy!

Batantsikốp ăn nói giọng đe doạ ra mặt, Đavưđốp lộn ruột, hơi đỏ mặt lên, đáp:

- Rồi xem anh có dám lấy bất cứ cái gì ở chuồng ngựa nông trang ra mà không có phép của ban quản trị không! Một là, không ai để cho anh lấy; hai là, nếu anh cứ lấy, anh sẽ ra toà.

- Gia súc của chúng tôi kia mà?

- Nó còn đang là của nông trang.

Chia tay với những người nguyên là nông trang viên ấy, Đavưđốp không có một chút gì là quyến luyến, nhưng đơn xin ra nông trang của Đêmít Miệng hến đã làm anh sửng sốt không vui. Sẩm tối Đêmít mới đến, say luý tuý càn khôn nhưng vẫn cứ lì xì ít nói như thế. Chẳng chào hỏi ai, anh dúi đưa một tờ báo nhàu nát có mấy chữ nguệch ngoạc viết đè ngang qua bài báo: "Cho tôi ra nông trang".

Đavưđốp lật qua lật lại trong tay lá đơn lời lẽ cộc lốc của Miệng hến. Anh hỏi, giọng lộ ra vẻ hơi băn khoăn không hài lòng:

- Cậu sao thế hả?

- Tôi chuồn. - Miệng hến ồm ồm đáp.

- Chuồn đi đâu? Tại sao?

- Tôi ra nông trang, chứ gì nữa!

- Nhưng sao lại ra? Cậu định đi đâu?

Đêmít nín thinh, dang rộng hai tay, Radơmiốtnốp giải nghĩa cái cử chỉ ấy của anh:

- Định cao chạy xa bay à?

- Phải!

- Nhưng tại sao cậu lại ra nhỉ? - Đavưđốp, ngạc nhiên trước việc xin ra của anh bần nông cốt cán ít lời này, gặng hỏi.

- Người ta ra… Tôi cũng ra.

Radơmiốtnốp cười rinh rích, hỏi;

- Thế nếu người ta đâm đầu xuống khe thì cậu cũng đâm à?

- Không anh ạ, đời nào! - Miệng hến cười ông ổng. Tiếng cười của anh giống hệt tiếng cái thùng tônô rỗng đang lăn.

Đavưđốp thở dài:

- Thôi, cậu ra thì ra, con bò cái của cậu, cậu có thể dắt về. Cậu là bần nông, chúng mình trả luôn, khỏi phải bàn. Ta trả cậu ấy chứ, hả Radơmiốtnốp.

- Nên trả. - Radơmiốtnốp đồng ý.

Nhưng một lần nữa, Đêmít lại cười lên ông ổng, nói:

- Con bò cái ấy, tôi chả cần! Tặng nông trang đấy. Tôi sắp đi làm rể rồi. Sao? Lạ lắm hả? - Rồi anh đi ra, chẳng chào hỏi ai.

Đavưđốp nhìn ra cửa sổ: Miệng hến đang đứng im không cựa, gần bậc thềm. Ánh nắng tà đỏ rực hậu hĩnh chiếu lên tấm lưng gấu của anh, lên cái gáy chắc nịch đen sạm của anh phủ một lớp tóc vàng hoe lăn xoăn chờm đến tận cổ áo. Sân trụ sở nông trang lênh láng nước. Nước vũng lại một mảng lớn từ thềm nhà đến tận kho lúa. Từ bậc thềm đi ra, có một cái bờ nhỏ chạy men theo hàng dậu, người đi nhiều nhão nhoét bùn và tuyết. Tránh vũng nước, người ta thường phải đi sát vào hàng dậu, tay bám lấy các cọc dậu. Đêmít vẫn đứng ngây ra đó, trầm ngâm. Rồi anh lắc lư và bỗng, với vẻ thản nhiên của người say, anh đâm thẳng vào giữa vũng nước, lững thững bước một và ngất nga ngất ngưởng đi tới nhà kho.

Chăm chú theo dõi anh ta, Đavưđốp thấy Miệng hến cầm lấy cái xà beng dựa ở hiên rồi đi ra cổng.

- Khéo thằng hộ pháp ấy lại định đập phá cái gì của mình chắc? - Radơmiốtnốp cũng đã bước tới bên cửa sổ, phì cười, nói. Xưa nay anh vốn có thiện cảm với Miệng hến, quý và trong bụng phục lăn sức khoẻ vô địch của anh ta.

Miệng hến mở hé cổng ra và bổ xuống đống tuyết đã đóng băng một nhát xà beng dữ dội đến nỗi làm vỡ ra một mảnh băng tưởng nặng đến ba pút. Những mảnh băng vụn bắn ra rào rào, va chan chát vào cổng, và liền sau đó nước trong sân lặng lẽ chảy ra theo đường rãnh vừa được khơi.

- Ai chứ cậu ấy thì sẽ trở lại nông trang thôi! - Radơmiốtnốp bá vai Đavưđốp, trỏ Miệng hến, nói. - Hắn thấy chuyện không ổn, hắn sửa, rồi hắn bỏ đi. Nghĩa là bụng hắn vẫn ở trong nông trang! Đúng thế không?

* * *

Ít lâu sau khi số báo có đăng bài của Xtalin về đến huyện, huyện uỷ đã gửi cho chi bộ Grêmiatsi một bản chỉ thị tràng giang đại hải, lủng củng và tối nghĩa về việc thanh toán hậu qủa của những sai lầm phạm phải trong thời gian qua. Qua mọi cái, cảm thấy trên huyện hoang mang tợn. Không một người lãnh đạo nào của huyện ló mặt xuống nông trang, và khi các địa phương xin chỉ thị về cách giải quyết tài sản những người xin ra thì cả huyện uỷ lẫn nông hội huyện chẳng đâu trả lời. Và chỉ sau khi nhận được bản nghị quyết mới của Ban chấp hành Trung ương "Đấu tranh chống những lệch lạc trong việc chấp hành đường lối của Đảng về tập thể hoá nông nghiệp", huyện uỷ mới rối rít tít mù lên: Grêmiatsi Lốc nhận được tới tấp như mưa những chỉ thị bắt gửi gấp danh sách những tên kulắc bị tịch thu tài sản, bắt trả lại nông trang viên những gia súc nhỏ và gia cầm đã tập thể hoá, bắt xét lại danh sách những người bị tước quyền bầu cử. Đồng thời cũng nhận được giấy triệu tập chính thức mời Nagunốp lên dự cuộc họp liên tịch của thường vụ huyện uỷ và ban thanh tra huyện vào hồi 10 giờ sáng 28 tháng Ba.

CHƯƠNG XXX

Trong một tuần, ở Grêmiatsi Lốc có gần một trăm hộ xin rút ra khỏi nông trang. Phong trào xin ra đặc biệt mạnh ở đội hai, ở đấy chỉ còn lại vẻn vẹn hai mươi chín hộ, chưa kể trong số đó có vài người, theo cách nói của đội trưởng Liubiskin, "đang tấp tểnh chuồn".

Làng xóm rung chuyển. Mỗi ngày lại mang tới cho Đavưđốp thêm những chuyện đau đầu. Đáp lại lời thỉnh thị lần thứ hai của anh hỏi nên trả ngay cho người xin ra súc vật kéo và nông cụ của họ, hay nên đợi gieo xong, nông hội huyện và huyện uỷ trả lời bằng những mệnh lệnh đao to búa lớn mà nội dung tóm lại là chi bộ Grêmiatsi phải dốc hết sức bằng mọi giá giữ cho nông trang khỏi tan, nông trang viên khỏi xin ra, càng được nhiều bao nhiêu càng tốt, và tất cả mọi sự thanh toán với những người ra, kể cả việc trả lại tài sản, phải hoãn lại đến mùa thu.

Sau đó ít bữa, Bêglức, trưởng ban nông nghiệp huyện, uỷ viên thường vụ huyện uỷ, về thăm Grêmiatsi Lốc. Anh ta tìm hiểu tình hình qua loa (trong ngày hôm ấy, anh ta còn phải đi vài xôviết ấp khác nữa), rồi chỉ thị:

- Bây giờ súc vật và nông cụ của người ra, kiên quyết không trả. Đợi đến sang thu hãy hay.

- Thế thì họ sẽ túm lấy cổ mình! - Đavưđốp cố cãi lại.

Bêglức vốn là người kiên quyết và cứng rắn, chỉ mỉm cười:

- Thì cậu cứ việc túm lại. Xét cho cùng, dĩ nhiên ta sẽ phải trả họ, nhưng khu uỷ có chỉ thị như thế này: chỉ trả lại trong những trường hợp đặc biệt và phải nắm vững lập trường giai cấp.

- Nghĩa là thế nào?

- Điều ấy thì anh phải hiểu lấy, không có "nghĩa là thế nào" gì cả! Trả lại cho bần nông, còn trung nông thì hứa với họ cho đến sang thu. Rõ chưa?

- Thế có thể lại xảy ra như chuyện trăm phần trăm tập thể hoá không, đồng chí Bêglức! Vì huyện uỷ có chỉ thị như thế này: "Đạt cho bằng được trăm phần trăm, và càng sớm càng tốt". Kết quả là choáng váng… Không trả lại súc vật cho trung nông, thế có nghĩa là ta dồn ép họ không nhỉ? Họ lấy gì mà cày, mà gieo?

- Cậu không phải lo cho bò trắng răng. Cậu phải lo cho nông trang của cậu, chứ việc gì lo cho người cá thể. Nếu cậu trả súc vật, cậu sẽ lấy gì mà làm? Với lại, đó không phải là chủ trương của chúng mình, mà là chỉ thị của khu uỷ và chúng ta là những chiến sĩ cách mạng, có nhiệm vụ tuyệt đối phục tùng. Thử hỏi, cậu định làm thế nào để hoàn thành kế hoạch nếu như năm mươi phần trăm số súc vật của cậu trở về tay cá thể? Không bàn cãi và ý kiến ý cỏ gì cả! Đem cả tay và cả răng ra mà giữ lấy súc vật. Cậu không hoàn thành kế hoạch gieo, chúng tôi sẽ vặn cổ cậu!

Ngồi vào xe rồi, anh còn buông ra:

- Nói chung là ga-a-ay! Làm quá trớn thì có khi phải giơ đầu ra chịu báng đấy, cậu ạ, phải hy sinh một anh nào để làm gương… Thường là như thế. Anh em trên huyện cáu Nagunốp lắm đấy. Hắn đã giở những trò gì thế không biết? Xamôkhin bảo mình là hắn đã nện một anh trung nông nào, bắt bớ, rút súng lục doạ. Có cả một hồ sơ về hắn. Đu-u-úng, Nagunốp là một tay "tả" ác. Chỉ thị trên bây giờ như thế nào, cậu biết không? Kỷ luật, tới mức khai trừ khỏi Đảng! Thôi, chào cậu. Súc vật thì phải giữ lấy đấy!

Bêglức phóng đi Vôxkôvôi. Gió chưa kịp thổi se vết bánh xe anh ta thì Agaphôn Đúpxốp, đội trưởng đội ba, hớt hơ hớt hải chạy đến:

- Đồng chí Đavưđốp ơi! Bò ngựa đội tôi, họ lấy ráo rồi, cái bọn ấy, bọn xin ra ấy! Họ xông vào lấy bừa đi!

Đavưđốp máu bốc lên mặt, quát:

- Họ lấy thế nào?

- Lấy tự nhiên như không! Họ nhốt người trông bò vào nhà cỏ khoá trái lại, tháo bò lùa ra thảo nguyên. Mười tám đôi bò đực và bảy đầu ngựa. Làm thế nào bây giờ?

- Thế cậu? Lúc ấy cậu ở đâu, đồ ăn hại? Sao lại để họ lấy? Quỷ tha ma bắt cậu đi đâu?... Chà!

Khuôn mặt rỗ nhằng của Agaphôn lang bệch ra từng đám. Anh cũng to tiếng lại:

- Tôi đâu có nhiệm vụ phải ngủ ở chuồng ngựa hay chuồng bò! Việc gì anh quát tháo tôi! Anh đã giỏi thế thì đi mà dắt bò về xem nào! Khéo không lại được một gậy gãy xương sống đấy!

Mãi gần tối họ mới lấy lại được đàn bò mà những người chủ bò đã lùa ra đồng cỏ thảo nguyên với hộ tống mạnh. Liubiskin, Agaphôn Đúpxốp cùng với sáu nông trang viên của đội ba đã lên ngựa, phóng ra thảo nguyên tìm. Trông thấy đàn bò đang gặm cỏ ở sườn khe bên kia, Liubiskin chia toán mấy người của mình ra làm hai:

- Agaphôn, cậu lấy ba người, phi nước kiệu qua khe, quặp sườn bên phải, còn tôi sẽ quặp sườn trái. - Liubiskin vuốt bộ ria mép đen nhánh, ra lệnh: - Thả cương! Nước kiệu, theo tôi! Tiến lên!

Xong được việc không phải là không có ẩu đả: Dakha Liubiskin, anh em con chú con bác với Liubiskin, đang canh bò cùng với ba người thoát ly khác, đã nhanh nhẹn túm được cẳng Mikhain Igơnachênốc đang lao về chỗ đàn bò, lôi anh ta từ trên lưng ngựa lăn xuống đất, và trong chớp mắt đánh anh ta một trận nhừ tử, mình mẩy thâm tím, chiếc áo sơmi rách sả vai. Trong khi Paven Liubiskin, vẫn ngồi trên lưng ngựa, cầm roi gân bò to tướng và dài quất túi bụi đứa em họ của mình, thì các anh em khác đã đánh đám người canh bò chạy ra, lấy lại đàn bò, lùa về làng.

Đavưđốp ra lệnh đêm phải khoá chặt các chuồng bò ngựa, và đặt người canh gác.

Nhưng dù cho đề phòng, canh gác thế nào, trong hai ngày sau, đám thoát ly cũng vẫn lùa đi được bảy đôi bò đực và ba con ngựa. Họ lùa ra thảo nguyên, đến những khu đồng cỏ xa hơn, và sợ rằng người lớn vắng mặt thì sẽ  bị chú ý, họ cho trẻ con đi theo bò chăm nom.

Từ sáng đến tối, trụ sở nông trang và trụ sở xôviết đầy những người. Đã sờ sờ trước mắt, với tất cả tầm nghiêm trọng của nó, nguy cơ những người ra nông trang chiếm lại ruộng đất của nông trang. Họ vây lấy Đavưđốp:

- Các anh chia ngay ruộng đất cho chúng tôi, không thì chúng tôi cứ cày vào những khoảnh cũ của chúng tôi đấy!

Đavưđốp đả thông:

- Các bạn cá thể đừng lo, chúng tôi sẽ chia ruộng cho các bạn. Mai bắt đầu chia. Các bạn cứ gặp Ôxtơrốpnốp, ông ta phụ trách việc này. Tôi nói thật đấy.

- Các anh định chia cho chúng tôi ruộng chỗ nào? Đất ra ssao?

- Chỗ nào còn thì chia.

- Còn thì chắc lại khoảnh ruộng cuối đồng chứ gì?

- Này, đồng chí Đavưđốp, đồng chí đừng giở lối khôn vặt! Bao nhiêu ruộng gần thì dành cho nông trang tất, nghĩa là chúng tôi thì toàn những chân ruộng xa phải không? Súc vật các anh không trả, có lẽ chúng tôi đến phải đem vai mình, đem bò cái ra kéo cày, thế mà lại còn đẩy cho chúng tôi những chân ruộng xa lắc xa lơ ư? Chà, chính quyền công minh gớm nhỉ!

Đavưđốp thuyết phục, giảng giải cho họ nghe rằng anh không thể chia ruộng theo ý muốn từng người, vì không thể cắt nát ruộng nông trang ra được, xáo lộn việc quy hoạch đồng ruộng tiến hành trong mùa thu qua. Những người ra nông trang làm om sòm một lúc rồi bỏ ra về, và vài phút sau lại một đám khác tới, vừa đặt chân đến cửa đã ầm ĩ:

- Trả ruộng cho chúng tôi! Lối đâu thế này? Các anh có quyền gì giữ lại ruộng của chúng tôi? Các anh không để cho chúng tôi gieo chắc? Vậy đồng chí Xtalin đã viết như thế nào? Chúng tôi cũng có thể viết thư lên đồng chí ấy lắm chứ, chúng tôi sẽ báo cáo là không những các anh không trả chúng tôi súc vật, mà cả ruộng đất nữa cũng thế, các anh tước hết mọi quyền sinh sống của chúng tôi. Đồng chí ấy sẽ không khen các anh về cái lối làm ăn như vậy đâu!

- Iakốp Lukits, sáng mai bác đem cánh ruộng bên kia Đầm Tôm chia cho bà con.

Đám người xin ra nhao nhao lên;

- Đất hoang à?

- Ruộng hoá, chứ hoang đâu mà hoang? Xưa kia có cày cấy, rồi bỏ hoá, từ mười lăm năm nay. - Iakốp Lukits giải thích.

Thế là lập tức tiếng la ó nổi lên loạn xạ:

- Thèm vào cái đất rắn như đá ấy!

- Lấy gì mà cày được nó?

- Cho chúng tôi chân đất mềm!...

- Trả bò ngựa đi thì chân đất rắn cũng được!

- Chúng tôi sẽ cử người lên tận Mátxcơva, khiếu nại với Xtalin!

- Các anh định giải quyết đời sống cho chúng tôi thế nào?

Các bà nổi tam bành lên. Đám đàn ông kô-dắc đồng tình ủng hộ họ. Phải cố gắng lắm rồi mới dẹp được yên. Đavưđốp như thường lệ cứ đến lúc cuối cùng thì mất bình tĩnh, quát tướng:

- Các ông các bà muốn gì? Muốn cái đất tốt nhất hả? Đừng hòng, thực tế thế! Chính quyền xôviết dành mọi ưu tiên cho các nông trang chứ không phải cho những người chống lại nông trang. Giải tán ngay cho khuất mắt!...

Đây đó có những người cá thể đã bắt đầu cày những đám ruộng trước kia là của họ về sau góp vào nông trang. Liubiskin ra đuổi họ đi, còn Iakốp Lukits thì vác cây thước gỗ một xagien đi ra thảo nguyên, và trong hai ngày đã chia xong đất bên kia Đầm Tôm thành từng khoảnh cho các người cá thế.

Ngày 25, đội của Đemka Usakốp ra cày khu đất cát xám. Đavưđốp phân phối lực lượng điều những nông trang viên lao động khoẻ nhất giao cho những người thạo công việc đồng áng phụ trách. Phần lớn những ông già xung phong vào các đội máy gieo, cày và bừa. Người ta quyết định bỏ gieo tay. Ngay cả cụ già lụ khụ Akim Bexkhlépnốp - nguyên là "lão mò gà" - cũng phát biểu nguyện vọng được giao cho sử dụng máy gieo. Đavưđốp giao cho bác Suka nhiệm vụ chăn ngựa của ban quản trị. Tất cả đã sẵn sàng. Công việc gieo giống đã phải hoãn lại vì những trận mưa rào hai ngày hai đêm trút nước xuống núi đồi, xuống những cánh ruộng cày thu sáng sáng bao phủ một màn sương trắng bạc.

Tình trạng xin ra nông trang đã chấm dứt. Còn lại ở trong nông trang là cái hạt nhân vững chắc, đáng tin cậy. Người xin ra cuối cùng là Marina Pôiarôva, ả nhân ngãi của Anđrây Radơmiốtnốp. Đã có một cái gì trục trặc trong cuộc sống chung đụng của hai anh ả. Marina sinh ra tin Chúa, trở thành con chiên ngoan đạo, suốt mùa chay toàn ăn chay, đến tuần thứ ba thì ngày nào cũng đi lễ nhà thờ Tubianxki, xưng tội và chịu lễ. Ả im lặng nhẫn nhục nghe những câu trách móc của Anđrây, không đối đáp lại những lời anh xỉ vả, càng ngày càng lầm lì ít nói, không muốn để  "nhơ mình Thánh Chúa". Một hôm, đến nhà Marina vào lúc đã khuya, Anđrây thấy có ngọn đèn sáng ở bàn thờ thánh. Chẳng cần nghĩ một hai gì, anh bước tới, cầm cây đèn lên, dốc tuột dầu ra lòng bàn tay, bôi vào đôi bốt đã khô của anh, chà sát kỹ. Xong xuôi, anh lấy gót giày đập vỡ tan chiếc đèn.

- Cái bọn ngu ngốc này, đã bảo mãi tất cả những trò ấy chỉ là thuốc phiện, là nhồi sọ. Nhưng nói như nước đổ đầu vịt! Cứ lạy mãi mẫy mẩu gỗ, đốt phí dầu, phí sáp làm nến… Này, Marina, cô ngứa thịt, nhớ cái roi đấy phỏng? Chẳng phải không dưng mà cô lại đâm mê muội những cái khỉ gió gì ở nhà thờ…

Và đúng là không dưng thật: ngày 26, Marina đưa đơn xin rút khỏi nông trang, viện cớ rằng vào nông trang là "trái ý Chúa".

Liubiskin nghe thế, mỉm cười hỏi mụ:

- Thế ngủ chung chăn chung chiếu với Anđrây không phải là trái ý Chúa à? Hay là sự khoái lạc tội lỗi?

Marina nghe, nín thinh, chắc chẳng hề ngờ rằng chỉ vài phút sau sự nhẫn nhục của mụ đã biến thành cơn tam bành và chính miệng mụ đã làm "nhơ nhuốc" cả "mình thánh Chúa".

Anđrây giận tái xanh tái xám chạy bổ từ bên trụ sở Xôviết. Anh đưa ống tay áo lên quệt mồ hôi trên cái trán sẹo, năn nỉ, có cả mặt Đavưđốp và Iakốp Lukits:

- Marina! Em Marina! Đừng hại anh, đừng bôi gio trát trấu vào anh! Chà, sao em lại ra nông trang? Nỡm ạ, anh không chiều em, yêu em đấy hay sao? Còn bò sữa đã trả em rồi… Em còn muốn gì nữa? Sau chuyện này, anh còn chia sẻ tình yêu với em thế nào được nữa nếu em cứ lao theo cuộc sống cá thể? Gà vịt của em, đã trả lại rồi, cả con gà sống trụi nữa… với lại con ngỗng Hà Lan nữa, con ngỗng mà em cứ khóc lóc mãi, nó đã trở về nằm yên trong chuồng nhà em rồi đấy thôi… Em còn muốn ông giời gì nữa? Rút đơn về đi!

- Không, không! - Marina hét lên, đôi mắt giận dữ xếch ngược. - Anh có lạy tôi cũng không rút! Tôi không thích ở nông trang! Tôi không muốn chui vào con đường tội lỗi của các anh! Trả lại tôi cái xe và cày bừa của tôi.

- Marina, bình tĩnh lại đi! Nếu không, sự thể thế này, anh tất phải bỏ em.

- Thôi, cút cha mày đi, thằng quỷ tóc trắng! Chó đẻ ra mày, đồ khốn nạn! Mày chớp chớp mắt cái gì, hả đồ quỷ dữ? Mày trợn đôi mắt chó dại lên hả? Thế đứa nào đêm qua đứng đường đứng ngõ với con Malaska Igơnachênốc? Không mày thì ai? Chao ôi, đồ mặt mo, đồ chó đẻ! Cứ bỏ bà đi, không có mày bà vẫn sống! Mày định bụng bỏ bà lâu rồi, bà cứ biết tỏng!

- Marina, em nghe ai nói vậy? Con Malaska nào? Từ thuở cha sinh mẹ đẻ anh có đứng ngồi với nó bao giờ! Và chuyện nông trang thì có dính dáng gì vào đấy cơ chứ? - Anđrây ôm lấy đầu, nín bặt, xem chừng có vẻ cạn lý…

Liubiskin sốt tiết nói chen vào:

- Hơi đâu anh phải lạy lục nó, con mụ thối thây ấy? Không phải van nó, phải giữ tư thế anh chứ? Anh đã từng là du kích đỏ, việc gì phải van xin, báu lắm đấy mà phải van! Vả vào mặt nó ấy! Đét vào đít, khắc câm ngay!

Marina mặt ửng lên lang từng đám đỏ như mận chín, giẫy nẩy lên nhử đỉa phải vôi, ưỡn bộ ngực đồ sộ, lắc lư đôi vai rộng tiến đến chỗ Liubiskin, xắn thốc tay áo lên với một điệu bộ đàn ông, điệu bộ dân chọi:

- Việc gì mày chõ mõm vào việc người khác, đồ cóc chết? Đồ quái thai Digan, con quỷ mặt đen! Tởm! Để bà sửa cho cái  mặt mày ngay bây giờ! Mày tưởng mày là đội trưởng mà bà sợ phỏng? Những thằng như mày bà đã  gặp khối và đã từng quẳng xác qua đầu!

- Bây giờ là tao đây sẽ quẳng mày! Tao sẽ rút bớt ít mỡ ở xác cho mày đi… - Liubiskin hầm hầm nói, giọng ồm ồm, và lui vào góc nhà, sẵn sàng đối phó với mọi bất trắc.

Anh còn nhớ rõ lắm, một hôm tại cối xay gió bên Tubianxki, Marina đã đọ sức với một anh chàng kô-dắc trông có vẻ lực lưỡng, người bên kia sông Đông. Và mọi người đứng xem đã lấy làm khoái trá thấy mụ quật được anh chàng ngã quay lơ, đánh cho nhừ tử nữa, và làm anh chàng mất sạch nhuệ khí bằng một câu nanh nọc: "Chú nó ơi, chú nó nằm đè lên trên đàn bà thì cũng chẳng làm được trò trống gì đâu! - Rồi lấy hơi, mụ nói tiếp: - Cái sức chú, bộ dạng chú thì chỉ nằm dưới mà thở hổn hển thôi". Rồi mụ bỏ đi ra chỗ cái cân, vừa đi vừa sửa lại tóc và chít lại khăn bị sổ ra trong lúc đánh nhau. Liubiskin còn nhớ đôi má anh chàng bị đánh ngã đỏ dừ lên khi anh ta lổm ngổm đứng dậy, người ngợm bê bết những bột và cứt bò ngựa vãi đầy dưới đất.

Anh khuỳnh khuỳnh cánh tay trái ra đằng trước giữ thế thủ, và cảnh cáo:

- Đừng có nhảy cẫng vào đây, ông oánh cho tan xác! Khôn hồn thì cút!

- Có cái này mày chưa ngửi phỏng?... - Loáng một cái, Marina đã tốc ngược váy lên, quạt phành phạch vào mũi Liubiskin, và lồ lộ ra cái nét đầy đặn của hai đầu gối hồng hào, cái màu kem sánh như mứt mật của thân thể tròn lẳn của mụ.

Cơn điên của mụ lên tới cực độ. Liubiskin đã nhìn thấy nhiều rồi, chẳng còn lạ gì nữa, mà cũng hoa mắt trước da thịt đầy đặn trắng phau của Marina. Anh lùi, làu bàu chịu thua:

- Con mẹ này hoá dại rồi! Chà, đồ quỷ! Ngựa cái chứ không phải đàn bà! Lui ra, con ba lần trời đánh kia!... - Và cứ ne né, anh lách qua Marina đang xỉa xói như điên như dại, thoát được ra ngoài, vừa nhổ nước bọt vừa chửi.

Đavưđốp cười rũ rượi, gục đầu xuống bàn mà cười, cười híp cả mắt. Radơmiốtnốp chạy theo gót Liubiskin ra ngoài, sập cửa đánh rầm một cái. Còn lại mình Iakốp Lukits cố giảng giải khuyên can mụ vợ cai kỵ binh đang nổi tam bành.

- Này, làm cái gì mà mồm năm miệng mười thế? Đàn bà đâu mà dơ dáng! Ai lại tốc cả váy lên thế bao giờ? Trước mặt ông già bà cả như tôi đây, nhà chị cũng phải biết xấu hổ tí chứ!

Marina vừa bước ra cửa, vừa quát lại lão:

- Thôi, im cái mồm đi! Tôi biết ông già rồi! Ngày lễ Ba ngôi hè năm ngoái, tôi đi chở cỏ, ông đã lơn tôi như thế nào? Quên rồi à? Thôi đi ông! Đàn ông các người thì cùng một giuộc, lòng vả cũng như lòng sung (*).

Mụ lao qua sân như cơn gió lốc. Iakốp Lukits nhìn theo mụ, ho húng hắng chữa thẹn, lắc đầu dè bỉu…

Và nửa giờ sau lão được mục kích cảnh Marina đứng vào càng chiếc xe bò của mụ, chở chiếc cày và chiếc bừa kéo nhẹ tênh đi ra khỏi sân đội một. Đemka Usakốp bị mưa phải bỏ đồng về, cứ lẽo đẽo theo mụ cách một quãng kha khá, xem chừng không dại gì mạo hiểm sán đến quá gần mụ và năn nỉ:

- Marina! Ô hay, bà chị Pôiarkôva ơi, nghe tôi bảo cái đã nào! Chị Marina Chêrenchiépna! Tôi không trả được cho chị đâu. Nông cụ đội tôi kiểm kê  lên danh sách cả rồi!

- Anh trả được.

- Chị này ương quá, chị hiểu cho tôi, đấy là tài sản của tập thể rồi. Chị làm ơn trả lại đi, đừng có liều thế! Chị là người hay là cái giống gì? Lối đâu ăn cướp thế nhỉ? Cái tội này là ra toà đấy! Không có chữ ký của Đavưđốp, tôi không thể trả chị cái gì được đâu.

- Anh trả được! - Marina đáp gọn lỏn.

Đemka hoang mang mắt càng lác xệch, ấp hai tay vào ngực trong một cử chỉ van lơn; còn Marina thì mồ hôi nhễ nhại, mặt đỏ bừng bừng vì nóng bức, cứ trơ như đá vững như đồng kéo chiếc xe bò đi. Và chiếc bừa đặt trên xe va vào thành ghế khẽ kêu lên than vãn…

"Phải thu lại cái xe bò cho mụ biết thân, đừng toe toét cái miệng. Nhưng lấy thế nào được chứ? Dính dáng với mụ chẳng hay ho gì cho cam!" - Iakốp Lukits nghĩ vậy rồi phòng ngừa quay gót lẻn đi.

* * *

Hôm sau Radơmiốtnốp đến nhà Marina nhặt nhạnh đồ lề của mình, khẩu súng trường, bao đạn, giấy má, mang về nhà. Anh bị day dứt, nát ruột nát gan vì cuộc tan vỡ với Marina, anh khổ và muốn trốn tránh cô đơn. Vì thế anh đến chơi Nagunốp chuyện gẫu vài câu "tiêu sầu".

Đêm buông xuống Grêmiatsi Lốc. Vành trăng thượng tuần được mưa rửa sạch, như một lưỡi liềm bạc treo lơ lửng ở góc trời phía tây. Cái tịnh mịch của đêm tháng Ba đen như mực tràn ngập thôn ấp, chỉ còn nghe thấy tiếng thì thầm không ngơi của những con suối đã thông dòng. Anđrây rút chân òm ọp ra khỏi bùn lầy hoà lẫn với bóng đêm, bước đi lẳng lặng, một mình với nỗi riêng tây của mình. Trong không khí nồm ẩm đã cảm thấy xao xuyến những hương vị mùa xuân: đất xông lên một mùi lờn lợt cay cay , các nhà kho toả ra mùi nồng ải, vườn tược đượm hương rượu vang găn gắt, và dọc các hàng dậu, mầm cỏ non nhú lên ngây ngất một mùi thơm hăng hắc, trẻ trung.

Anđrây hít căng lồng ngực những hương vị đa dạng của buổi đêm, nhìn thấy dưới chân mình bóng sao in hình dưới vũng nước tan ra thành muôn nghìn tia sáng lăn tăn. Anh nghĩ đến Marina và cảm thấy mắt mình cay xè những giọt nước mắt đau buồn và hờn giận.

-----------------------------

(*)          Nguyên văn: Con ngựa vác móng của nó đi đâu thì con tôm vác càng cuả nó đi đấy. - ND.

CHƯƠNG XXXI

Bác Suka lấy làm phấn khởi nhận chức xà ích thường trực của ban quản trị nông trang. Giao cho bác hai con ngựa giống tịch thu của bọn kulắc giành riêng ban quản trị để đi công tác, Iakốp Lukits dặn:

- Phải giữ gìn chúng nó như giữ gìn con ngươi của bác ấy! Sao cho trong tay bác, chúng nó có da có thịt, chú ý đừng bắt nó chạy nhanh quá, đừng thúc. Con xám, ngựa giống của Titốc kia kìa, nó là ngựa nòi đấy, và con nâu kia nữa, cũng là giống sông Đông tốt nhất đấy. Ở đây ta không đi nhiều lắm đâu, ít bữa nữa ta sẽ cho chúng nó đi nhảy cái. Bác phải chịu trách nhiệm về chúng nó!

Bác Suka đáp:

- Xin phép ông chứ, lão đây mà lại không biết săn sóc ngựa như thế nào à? Đời lão đã từng thấy thiếu gì ngựa. Khối người tóc trên đầu cũng không bằng số ngựa đã qua tay lão ấy chứ.

Thực ra thì suốt đời bác Suka cả thảy mới chỉ có hai con nghẽo qua tay bác. Một con bác đã đem đổi lấy con bò cái, còn con thứ hai thì là cả một giai thoại.

Hai mươi năm trước, vào một hôm bác Suka ngà ngà say trên đường từ bên Vôxkôvôi về đã mua được con ngựa cái ấy của một đám dân Digan đi qua với giá ba mươi đồng. Lúc mua, bác ngắm thì nom nó có vẻ đầy đặn, tròn trịa, màu xám lông chuột, tai cụp, một bên  mắt có vẩy cá, nhưng dáng nhanh thoăn thoắt. Bác Suka mặc cả với lão Digan mất nửa ngày. Ba bốn chục lần bắt tay nhau ăn giá, rồi lại bỏ đi, rồi lại quay lại.

- Vàng đấy, chứ không phải là ngựa! Nó mà phi, ông cứ nhắm tịt mắt lại thì cấm nhìn thấy đất đâu. Nhanh như cắt, thoắt như tên bay! - Lão Digan khẳng định và thề sống thề chết, phun cả nước bọt vào bác, tay túm lấy vạt áo bác Suka lúc ấy đã xuôi xuôi vì mệt quá rồi.

- Rụng gần hết răng hàm rồi, chột một mắt, móng sứt sẹp cả, bụng ỏng… Thế mà bảo vàng à? Của chết cay chết đắng, chứ vàng gì! - Bác Suka chê ỏng chê eo, trong bụng xuôi lắm rồi và chỉ còn mong lão Digan bớt cho một rúp nữa thôi, cái đồng rúp mà hai người cứ cò kè nhau mãi, không ai chịu ai.

- Răng của nó thì ông cần quái gì đến? Ít răng càng đỡ ngốn. Ngựa non đây mà, tôi nói sai thì trời đánh tôi. Con nít chứ không phải con ngựa, nó rụng răng là vì chẳng may bị bệnh đấy thôi. Còn cái vẩy cá trong mắt thì đã sao? Mà cũng chẳng phải vẩy cá, mà là cái vỏ hầu! Còn móng thì rồi nó sẽ mọc ra, nhẵn nhụi đi… Lông nó xám, nom không đẹp lắm, nhưng ông mua về đâu phải để ăn nằm với nó, mà để cày, tôi bảo thật đấy! Ông nhìn mà xem, tại sao bụng nó lại to? Là vì nó khoẻ! Nó chạy thì đất rung, nó ngã thì nó sẽ nằm ba ngày… ôi chao, bố già ơi! Với ba mươi đồng bạc bố lại muốn sắm được ngựa đua chắc? Chả mua được ngựa sống đâu, mua ngựa chết thôi, cũng được bộ khung…

May mắn sao lão Digan kia cũng là người biết điều: có kè chán, lão đã bằng lòng bớt thêm đồng rúp cuối cùng ấy, rồi tiền trao cháo  múc, đưa cương cho bác Suka, lão ta còn giả vờ sụt sịt, đưa ống tay tấm áo dài thượt màu xanh nhạt lên lau cái trán nâu xạm.

Cương ngựa vừa trao qua tay bác Suka thì con ngựa đã mất ngay cái dáng nhanh nhẹn vừa mới đấy của nó. Nó theo sau bác, thúc đến mấy cũng chỉ lừng khừng miễn cưỡng cất không nổi bốn chiếc cẳng vòng kiềng. Đến lúc bấy giờ, lão Digan mới cười phà, nhăn hai hàm răng trắng nhở và đều sin sít, nói với theo bác Suka:

- Này, bố già ơi! Bố kô-dắc sông Đông ơi! Nhớ cho cái lòng tử tế của em nhá! Con ngựa ấy đã giúp việc em bốn mươi năm rồi, và nó sẽ giúp bác cũng ngần ấy năm nữa, nhưng nhớ mỗi tuần cho nó ăn một bữa thôi, kẻo nó hoá rồ đấy!.. Ông cụ nhà em cưỡi nó bên Rumani về đấy, cụ lấy được của bọn Pháp mà, khi chúng nó bỏ chạy khỏi Mátxcơva. Ngựa quý đấy!

Lão ta còn réo theo cái gì nữa với bác Suka đang vất vả kéo theo sau cái của mới sắm được; bên lều và quẩn quanh chân lão Digan, bọn trẻ Digan hò la, quang quác và đen như một đàn quạ; bọn đàn bà Digan quát tháo và cười ha hả. Còn bác Suka thì cứ đi chẳng thèm để ý đến cái gì, bụng lâng lâng phấn khởi nghĩ: "Của mình mua, mình biết chứ! Sẵn tiền thì mình đã chẳng mua con này đâu, mua con khác kia. Mà cái lão Digan ấy cũng nhộn đấy chứ, vui tính, cũng như mình… Thôi thế là bây giờ ngựa cũng có rồi. Chủ nhật này mình với bà lão sẽ nhong nhong đi chơi chợ huyện".

Nhưng bác chưa về tới Tubianxki thì đã xảy ra bao nhiêu chuyện lạ đời cho con ngựa.. Vô tình quay lại nhìn nó, bác Suka hoảng lên: lão đẽo theo sau bác không phải là con ngựa no nê béo tốt bác vừa mua nữa mà là một con nghẽo gầy rạc, bụng lép kẹp, mình hốc hác có bao nhiêu xương thì giơ ra hết. Mới có nửa tiếng thôi nó đã tọp đi một nửa. Bác vội làm dấu, miệng thều thào: "Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi!", bác để buông sợi dây cương trên tay rơi xuống, dừng lại, và cảm thấy như có bàn tay nào đã xua tan hơi men trong bác. Đi quanh con ngựa cái một vòng, bác mới phát hiện ra nguyên nhân của sự gầy tọp đi nhanh không thể tưởng tượng được ấy: từ dưới cái đuôi nhỏ thuôn của nó đang vểnh cong sang một bên nom đến dơ dáng dại hình, hơi nén và phân lỏng cứ phun ra phì phì, bồm bộp. "Chà, ra là thế đấy!", bác Suka ôm đầu thốt lên.

Sau đó, với một sức mạnh tăng lên gấp mười lần, bác túm lấy dây cương kéo con ngựa đi. Từ đó cho đến tận Tubianxki, con ngựa cứ tiếp tục tháo ruột phì phì, để lại trên đường cái những vết tích nhơ nhuốc. Có thể bác Suka cũng về được tới Grêmiatsi Lốc bình yên vô sự đấy nếu như bác cứ dắt ngựa thế, nhưng sắp đi tới nhà đầu ấp Tubianxki ở đó bác có ông bạn con chấy cắn đôi và nhiều bà con quen biết khác, bác đã quyết định không dắt ngựa nữa, mà cưỡi nó, dù có phải đi lững thững bước một cũng được. Trong bác bỗng thức tỉnh một niềm kiêu hãnh vốn chưa từng có ở bác và cái tính vỗ ngực ta đây vốn vẫn là thói thường của bác. Bác muốn tỏ cho mọi người thấy rằng tay Suka này đã thoát cảnh nghèo rớt mùng tơi rồi và đã có ngựa đi, ngựa không ra gì thật nhưng vẫn cứ là ngựa của lão. "Brrr.., con chết tiệt này! Cứ đứng đấy mà gõ móng đấy à!", bác Suka quát tướng lên: bác vừa mới liếc mắt trông thấy một anh kô-dắc quen biết bước ra khỏi ngôi nhà bác đang dừng lại trước cửa. Và miệng quát, tay lôi dây cương, người ưỡn thẳng lên. Con ngựa của bác, nếu có gõ móng và đá hậu thì chắc cũng từ hồi măng trẻ xa xưa lắm rồi, lúc này thực ra cũng chẳng hề nghĩ đến chuyện gõ móng. Nó đứng lại, đầu rù rù buồn bã, hai cẳng sau khuỵu xuống. "Qua nhà ông bạn phải cưỡi mới được. Cho ông ta lác mắt!". Bác Suka nghĩ vậy, liền nhảy úp sấp bụng lên cái lưng nhọn hoắt của nó. Thế là đã xảy ra một chuyện mà về sau này bà con kô-dắc Tubianxki còn nhắc đến mãi: chính là ở đây bác Suka bị một phen nhục nhã chưa từng thấy mà tai tiếng vẫn còn đến ngày nay, và chắc sẽ còn lưu truyền đến các thế hệ con cháu mai sau.. Bác Suka chân vừa cất lên khỏi mặt đất, người còn đang lủng lẳng vắt ngang lưng con ngựa, đang cố leo lên cưỡi thì nó loạng choạng, trong bụng nó có cái gì kêu đánh ọc một tiếng, và thế là đang đứng, nó khuỵu xuống đường, đuôi vắt ngỏng sang bên. Bác Suka, tay chới với, bay qua đường, ngã sóng soài xuống bãi cỏ bụi bặm bên đường. Bác cay lắm, đứng phắt dậy, và biết là anh chàng kô-dắc kia đã chứng kiến nỗi ô nhục của mình, bác quát lên chữa thẹn: "Con phải gió này! Chỉ được cái đá hậu là giỏi!". Bác vừa quát vừa đá con ngựa. Nó cứ đứng ỳ cục thịt. vươn mõm tới đám cỏ úa bên đường, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra cả.

Anh chàng kô-dắc được chứng kiến cảnh đó là một tay bông phèng, cây nhộn. Anh ta nhảy qua hàng dậu, tới bên bác Suka:

- Chào bác Suka! Thế nào, bác tậu ngựa đấy à?

- Ờ, tậu đấy, nhưng chán quá, hình như chọn nhầm phải cái con khỉ này xấu tính xấu nết; cứ động cưỡi lên nó là nó nằm bẹp xuống đất. Xem chừng chưa ai cưỡi nó bao giờ, nó chưa quen.

Anh chàng kô-dắc nháy mắt một cái, đi quanh con ngựa hai vòng, ngó hàm răng nó, rồi nói bằng một giọng hết sức nghiêm chỉnh:

- Ờ, đúng rồi, nó chưa quen đấy mà! Nhưng ngựa này xem ra là giống ngựa quý đấy. Nhìn răng thì biết nó khoảng dăm chục tuổi chứ không kém đâu, nhưng vì nó là giống ngựa quý nên chẳng ai trị nổi nó.

Bác Suka thấy anh ta đồng tình với mình, đánh bạo hỏi:

- Nhưng này, anh Igơnachi Pôrphinits ạ, không hiểu sao tự nhiên nó gày tọp đi nhanh ghê lắm? Lão dắt nó đi, thế rồi nó cứ teo đi trông thấy: nó đánh rắm thối hoăng và cứt cứ phọt ra như tháo cống. Be bét khắp dọc đường!

- Thế bác mua ở đâu? Có phải của bọn Digan không?

- Của bọn ấy đấy, họ cắm lều hạ trại gần nhà anh kia kìa.

Anh chàng kô-dắc là người thông thạo cả về ngựa lẫn về bọn lái buôn Digan liền giải thích cho bác:

- À, thế thì nó tọp đi như vậy duyên do là vì trước khi bán cho bác, họ đã thổi cho nó phồng lên đấy. Con ngựa nào gày móp vì già quá rồi, trước khi đem bán họ đem đút một ống sậy vào lỗ đít nó, rồi cả bày đàn thay phiên nhau thổi cho đến lúc nó trương phình ra, nom có vẻ tròn trĩnh, béo tốt. Và khi đã thổi cho nó phồng lên như cái bong bóng, họ rút ống  sậy ra rồi lấy miếng giẻ tẩm hắc ín hoặc cái nút rơm đút nút lỗ đít nó lại cho hơi khỏi phì ra. Vậy là bác đã mua phải một con ngựa thổi như thế đấy. Chắc là dọc đường nút đã bật ra, cho nên con ngựa bác mới gày tọp đi… Bác quay lại tìm cái nút đi thôi… Rồi chúng cháu thổi lại cho, tí xong thôi mà…

- Ma quỷ thổi cho quân khốn nạn ấy chết trương chết phình ra! - Bác Suka tuyệt vọng kêu lên rồi đâm bổ về phía trại Digan.

Nhưng leo tới ngọn gò, bác phát hiện ra là phía bờ sông chẳng còn lều trại, và chẳng còn bóng xe ngựa nào cả. Ở nơi mới đây là trại cháy dở, và xa xa, trên con đường mòn, một đám bụi xám đang cuộn lên tan theo gió. Đám Digan đã biến mất tăm, y như trong chuyện cổ tích.

Bác Suka oà khóc, quay gót trở lại. Anh chàng Igơnachi Pôrphinits dễ thương kia lại ở trong nhà bước ra, đề nghị:

- Để cháu chui xuống bụng giữ cho nó khỏi khuỵu… vì tính con này bướng mà, rồi bác nhảy lên cưỡi nhá.

Người ngợm ướt đẫm vừa vì xấu hổ, bực dọc, vừa vì mồ hôi, bác Suka chấp nhận sự giúp đỡ đó, và cũng loay hoay ngồi được lên lưng ngựa.

Nhưng hoạ vô đơn chí, con ngựa lần này không khuỵu xuống nữa, nhưng nó đã tỏ ra có một lối chạy lạ đời, không thể tưởng tượng được: hai chân trước chồm ra đằng trước, hai chân sau đá hậu vọt lên quá lưng, y như phi. Cứ cái kiểu như thế nó đưa bác Suka đến cái ngõ đầu tiên. Trong cuộc nhảy cỡn cuồng dại ấy, mũ bác đã văng đâu mất và ba bốn lần, vì bị lắc kinh khủng quá, ruột gan bác như có cái gì thắt lại rồi như vỡ bung ra. "Lạy Chúa! Đi kiểu này thì ông xin kiếu thôi!...", bác Suka quyết định như vậy, và ngựa đang chạy bác cứ nhảy liều xuống. Bác quay trở lại tìm mũ, nhưng thấy có nhiều người ở trong ngõ đổ ra xem, bác vội quay trở lại dắt ra khỏi làng con ngựa tai quái vừa rồi đã tỏ ra nhanh nhẹn khác thường. Bọn nhãi theo gót bác ra tới cối xay gió mới buông tha.

Bây giờ thì bác Suka không dám cưỡi lên cái "tên bay" kiểu Digan kia nữa. Bác vòng xa làng qua lối gò, nhưng lên đến đỉnh gò, kéo nó mãi mệt quá rồi, bác quyết định xua con ngựa đi trước. Và đến lúc ấy mới vỡ nhẽ ra rằng con ngựa bác đã mất bao nhiêu công phu mới tậu được, bị loà cả hai mắt. Nó đi cứ đâm thẳng vào hố rãnh, chẳng nhảy qua, mà lại sa xuống đấy, rồi chống hai chân trước run lẩy bẩy, lóp ngóp nhổm lên, thở khó nhọc đi tiếp. Thêm vào đó, nó đi kiểu gì đến lạ đời, cứ loanh quanh… Điếng người trước phát hiện mới của mình, bác Suka để con ngựa hoàn toàn tự do, và thấy rằng con ngựa bác đi một đường vòng tròn xong, lại tiếp một vòng nữa, và cứ thế mãi, theo một đường xoáy ốc vô hình. Tới đây thì không cần ai giúp, bác Suka đã đoán được ra rằng con ngựa bác vừa tậu đã sống suốt cuộc đời dài đằng đẵng và vất vả của nó bên một chiếc guồng quay, đã loà và già đi bên guồng quay đó.

Bác thả con ngựa trên gò cho gặm cỏ đến sẩm tối, vì bác xấu hổ không dám vác nó về làng giữa ban ngày ban mặt. Tối mịt bác mới tới nhà. Bác Suka gái, một bà lão to béo phốp pháp và dữ đòn, đã đón tiếp bác như thế nào, và bác Suka còm nhom nhà ta đã phải chịu đựng những gì về vụ mua bán ẩm ương này, điều đó theo cách nói của ông thợ giày Lôkachêép hồi ấy đang đánh bạn dập dìu với bác Suka, "còn bao phủ trong màn bí mật". Chỉ biết rằng chẳng bao lâu sau con ngựa phát ghẻ lở, rụng tiệt lông, và trong cái bộ dạng thiểu não ấy, nó đã lặng lẽ về chầu tổ tại vườn nhà bác vào hồi nửa đêm, giờ tí. Bộ da của nó, bác Suka đã đem bán, nhậu một chầu với ông bạn nối khố Lôkachêép.

Khi quả quyết với Iakốp Lukits rằng bác, Suka, trong đời mình đã biết thiếu gì ngựa, bác thừa hiểu rằng Iakốp Lukits chẳng bao giờ lại tin lời bác, vì cuộc đời của bác Suka, từ trẻ đến già, đã diễn ra trước mắt Iakốp Lukits. Nhưng tạo hoá sinh ra bác như thế, bác không thể không khoác lác, không nói điêu. Có một sức mạnh khách quan nào không phụ thuộc vào bác, cứ bắt buộc bác phải nói những điều mà chỉ vài phút sau bác lại lấy làm bằng lòng mà phủ nhận…

Tóm lại, bác Suka đã trở thành xà ích kiêm bồi ngựa. Và phải nói rằng nhiệm vụ chẳng lấy gì làm khó khăn phức tạp ấy, bác đã hoàn thành không đến nỗi kém. Chỉ có một điều làm Nagunốp không thích là anh đi đâu thì muốn đi mau mau chóng chóng, mà bác thì cứ la cà dừng xe lại luôn. Chửa ra khỏi sân bác đã ghìm cương lại: "Họ-ọ-ọ, các con ơi!". Nagunốp hỏi: "Cái gì thế?", bác Suka đáp: "Cho ngựa giải lao, ỉa đái", và bác cứ ngồi mà huýt dục ngựa ỉa đái cho đến lúc Nagunốp giật lấy roi ở gầm ghế bác, quật lên lưng ngựa một cái.

"Bây giờ không phải thời Sa hoàng nữa mà bảo xà ích ngồi ghế gỗ đằng trước, còn ông chủ thì nhún nhảy trên ghế đệm bông đằng sau. Bây giờ lão đây là xà ích, thế mà lão ngồi cạnh đồng chí Đavưđốp trên ghế lò xo. Đôi lúc thèm điếu thuốc, lão đề nghị với đồng chí ấy: "Này, anh cầm lấy cương, tôi cuốn điếu thuốc tí". Đồng chí ấy trả lời: "Sẵn sàng!". Anh ấy cầm lấy cương và có lần giữ đến tiếng đồng hồ, còn lão thì oai vệ, ngắm cảnh trời đất". Bác Suka khoác lác với bà con kô-dắc như vậy. Bây giờ bác nom có vẻ quan trọng, thậm chí đỡ mồm mép đi nữa. Ngủ thì chẳng đếm xỉa gì đến thời tiết xuân băng giá, bác đến ngủ ở chuồng ngựa, để được gần lũ ngựa hơn. Nhưng được một tuần thì bà lão đến điệu cổ bác về, đánh cho một trận tàn tệ và chửi té tát trước mặt công chúng vì cái tội, theo lời bà lão, có những con mụ nào tre trẻ đêm đêm vẫn lần đến chỗ bác Suka. Có mấy anh chàng thanh niên trêu bà lão nên đã đặt điều cho ông lão như vậy thôi, nhưng bác Suka đâu dám trái ý bà, đành về nhà ngủ, và mỗi đêm lại hai lần lóp  ngóp đi thăm ngựa dưới sự hộ tống của bà lão cả ghen.

Bác Suka đã học đóng xong móng ngựa nhanh đến mức có thể thi tài với đội cứu hoả Grêmiatsi, và dắt ngựa ra đóng xe bao giờ bác cũng sang sảng mắng mấy con ngựa đứng chờ cứ hí nhặng lên" "Chà-à-à! Cứ rống lên, con khỉ!... Mày tưởng con kia là ngựa cái hẳn, nó cũng chỉ là ngựa dái như mày thôi!", và đóng ngựa xong, ngồi yên vị trên xe, bác mãn nguyện nói: "Nào, ta đi thôi, lão lại sắp được thêm một gạch (*) nữa đây. Anh em ơi, cuộc sống thế này thì lão cũng bắt đầu thấy hay hay đấy!".

----------------------

(*)          Gạch chấm điểm. - ND

* * *

Ngày hai mươi bảy, Đavưđốp quyết định đi thăm đồng đội một, kiểm tra xem có thực đội ấy đã bừa dọc luống, trái với lời anh dặn không. Anh được tin này do bác thợ rèn Ipôlít Salưi ra đồng sửa máy gieo trông thấy họ bừa dọc chứ không bừa ngang luống, đã báo cáo với anh. Trở về làng, bác Salưi lập tức lên ban quản trị; bắt tay Đavưđốp, bác nói gay gắt:

- Đội một cứ kéo bừa dọc theo luống. Lối bừa ấy thì ra cái mẹ gì. Đồng chí ra mà xem và lệnh cho họ làm ăn cho tử tế. Tôi cũng bảo với họ rồi, nhưng cái thằng quỷ sứ mắt lác Usakốp lại nói: "Việc của ông là quai búa, thổi  bễ, đừng chõ mũi vào đây mà chúng tôi lấy lưỡi cày xẻo đi bây giờ đấy!". Tôi mới đáp: "Này, cái anh mắt lác kia, vừa vừa chứ không thì trước khi về quai búa, tôi quai cho anh một trận đấy!". Tí ti nữa là choảng nhau.

Đavưđốp gọi bác Suka:

- Đánh xe ra!

Nóng ruột không chịu được, anh nhảy bổ ra tự tay giúp bác Suka đóng ngựa. Rồi họ ra đi. Bầu trời xám xịt và ngọn gió nồm thổi nhẹ từ phía tây-nam báo trước sắp có mưa. Đội một làm ở khoảnh xa nhất của khu ruộng đất cát xám, cách làng mười cây số, bên kia đèo, gần Đầm Dữ. Đội đang chuẩn bị đất gieo. Đất đã cày rồi cần phải được bừa kỹ để nước mưa được giữ lại trên mặt ruộng đã san phẳng chứ không theo luống mà trôi đi.

- Mau lên, nhanh nhanh lên, bác! - Đavưđốp nhìn mây ùn ùn đặc kịt, giục.

- Thì vẫn mau đây. Trông con Xám, sùi cả bọt mép ra kia kìa.

Trên gò, cách đường không xa, học sinh đang nối đuôi nhau đi dưới sự hướng dẫn của cụ giáo già Spưn. Theo sau chúng có bốn xe chở thùng nước.

Bác Suka giơ roi chỉ đám học sinh:

- Bọn nhãi đi săn chuột đồng kìa!

Đavưđốp nhìn bọn trẻ, khẽ nhếch miệng cười. Khi xe đi qua chỗ chúng, anh yêu cầu bác Suka đỗ lại. Rồi nhìn đám trẻ đắn đo một lát, anh chọn một thằng bé trạc lên bảy, chân đất, tóc bềnh bệch trắng:

- Lại đây cháu.

- Lại làm gì cơ? - Thằng bé hỏi một cách rất tự nhiên, tay hất ngược ra sau gáy chiếc kêpi của bố nó, chiếc mũ có viền đỏ và bên trên lưỡi trai có hình huy hiệu đã bạc màu.

- Cháu đã diệt được bao nhiêu chuột rồi?

- Mười bốn.

- Là con nhà ai?

- Cháu là Phêđốtka Usakốp.

- Nào, thế thì lên đây với chú, Phêđốtka, chú cho đi một quãng. Cháu kia nữa, lên đây! - Đavưđốp trỏ một em bé quàng khăn vuông. Thu xếp cho hai đứa trẻ ngồi đâu vào đấy, anh ra lệnh: - Đi! - Rồi quay sang hỏi thằng bé: - Cháu ở tổ mấy?

- Tổ một.

- Tổ một à. Thế thì phải xỉ mũi đi chứ, thực tế thế.

- Xỉ sao được. Cháu bị cảm mà.

- Sao lại không xỉ được? Đưa mũi đây chú xem! - Đavưđốp chùi kỹ ngón tay vào quần, thở dài: - Lúc nào đến trụ sở nông trang chơi, chú cho kẹo, kẹo sôcôla cơ! Cháu đã ăn kẹo sôcôla bao giờ chưa?

- Chưa-ư-ưa…

- Thế thì đến trụ sở thăm chú, chú sẽ thết.

- Gì chứ kẹo thì cháu chả thiết!

- Gớm nhỉ! Nhưng sao thế, hả Phêđốtka?

- Răng cháu gãy, hàm dưới bị rụng, đây chú xem này! - Thằng bé há cái miệng môi đỏ chót ra: hàm dưới khuyết hai răng thật.

- Tưởng thế nào chứ, Phêđốtka, hoá ra là cháu sứt à?

- Chú sứt thì có!

- Hừ… Thằng bé này… Tinh gớm nhỉ?

- Răng cháu còn mọc, nhưng răng chú chắc là không mọc nữa nhỉ?

- Thôi cháu đừng đùa dai! Răng chú rồi cũng mọc, thực tế thế!

- Ê, điêu! Người nhớn rồi không mọc răng nữa. Mà cháu thì cũng chỉ cần răng trên cháu cũng cắn được, thật đấy mà!

- Bịa, cắn thế nào được!

- Không tin đưa tay cháu cắn thử!

Đavưđốp mỉm cười, chìa ngón tay trỏ ra, rồi kêu ối một tiếng, rụt lại: phía trên đốt ngón tay anh hằn mấy vết răng cắn tím bầm.

- Nào, Phêđốtka, bây giờ đến lượt cháu đưa tay chú cắn thử.

Nhưng thằng bé Phêđốtka lưỡng lự một tí, rồi bỗng trong lúc xe đang chạy, nó nhảy vọt xuống đường như một con châu chấu voi to tướng; rồi lò cò một chân, réo theo xe:

- Chú là chỉ thích chơi cắn! Ê, không cắn được cháu nhá!...

Đavưđốp cười như nắc nẻ. Anh cho nốt con bé xuống xe và còn nhìn theo mãi cái vành mũ của Phêđốtka đỏ đỏ bền đường. Anh mỉm cười, cảm thấy lòng rạo rực một nỗi niềm ấm áp ít thấy, và mắt mình ươn ướt: "Chúng ta sẽ xây dựng cho chúng một cuộc sống tươi đẹp, thực tế thế! Bây giờ thằng Phêđốtka còn chạy nhông với cái mũ kô-dắc của bố trên đầu, nhưng hai mươi năm sau, nó sẽ cày mảnh đất này đây bằng máy cày chạy điện… Nó thì sẽ chắc chắn không phải như mình sau khi bà cụ nhà mình mất: giặt giũ cho bọn em gái, rồi lại khâu vá, rồi lại cơm nước, rồi lại ù té đến nhà máy… Bọn Phêđốtka này sẽ sướng, thực tế thế!". Đavưđốp nghĩ thầm như vậy và đưa mắt nhìn bao quát mảnh đất thảo nguyên bao la, xanh mơn mởn. Anh lắng nghe một lúc tiếng hót véo von của con chim sơn ca, nhìn anh thợ cày ở xa xa đang khom lưng đẩy cày, và bên cạnh đôi bò là người dắt bò đang bước thấp bước cao đi dọc theo luống. Anh thở dài đánh sượt: "Máy móc sẽ làm thay cho người mọi công việc nặng nhọc… Đến lúc ấy, chắc là người ta sẽ quên, không còn biết đến mùi mồ hôi chua loét nữa… Cha mẹ ôi, ước gì sống được đến ngày ấy nhỉ!... Dù chỉ để trông thấy thôi! Bởi vì, chú Đavưđốp ạ, chú sẽ nghẻo, và sẽ chẳng có một thằng bé Phêđốtka nào nhớ đến chú đâu. Chú sẽ nghẻo mà, không thoát được! Và thay cho con cháu  nối dõi tông đường, chú sẽ để lại cho đời cái nông trang Grêmiatsi Lốc. Nông trang sẽ thành một công xã, và biết đâu lúc ấy người ta sẽ chẳng lấy tên anh thợ tiện nhà máy Puchilốp, Xêmiôn Đavưđốp để đặt tên cho nó…" Đavưđốp mỉm cười với cái ý nghĩ nhộn nhộn của mình. Rồi quay sang hỏi bác Suka:

- Sắp tới chưa?

- Vài ba cái nháy mắt nữa thôi.

- Chà, cụ bô ơi, ta còn bao nhiêu là đất bỏ hoài bỏ phí, trông mà khiếp! Trong hai kế hoạch năm năm, chúng ta sẽ dựng lên đấy khối nhà máy. Của chúng ta tất, trong tay ta tất, thực tế thế! Dấn lên, cố sống lấy chục năm nữa thì cụ bô sẽ không phải cầm cương nữa, mà cầm tay lái ô tô. Cụ bô sẽ dận ga nhá, oai ra phết!

Bác Suka thở dài:

- Muộn quá rồi! Giá như cách đây bốn chục năm lão được đi làm công nhân thì có lẽ đã thành con người khác rồi… Đời lão làm nông dân thúi quẩy lắm. Từ thuở bé đời lão đã nhầy nhụa rồi, rồi cứ thế cho đến tận gần đây. Suốt đời lão cứ như bị gió cuốn đi, hết vật vào cái nọ, lại va vào cái kia, có khi lại bị dần cho nhừ tử nữa.

Đavưđốp lấy làm lạ, hỏi:

- Sao thế, bác?

- Để lão kể anh nghe tận chân tơ kẽ tóc. Cho con ngựa nó chạy từ từ, rồi lão tâm sự với anh. Dù anh có là người hơi khó tính đấy, nhưng anh sẽ hiểu và xông cảm với lão… Đời lão thì trăm phen tứ đốm xảy ra những việc rất chi là nghiêm trọng. Thoạt tiên là lão ra đời thì bà mụ đã bảo ngay mồ ma bà cố lão: "Cậu nhà ta lớn lên sẽ làm đến ông tướng. Diện mạo thế kia không tướng thì là gì? Nào nhá: trán hẹp, đầu cá trê, bụng ỏng, tiếng ông ổng như ngỗng như ngan. Mừng cho bác, bác Matơriôna ạ!". Nhưng chỉ hai tuần sau mọi sự đã trái ngược hẳn với lời mụ kia nói… Lão sinh vào ngày đức thánh bà Épđôkia, vào cái ngày ấy thì không những gà qué chẳng còn kiếm được ra cái gì nhồi diều, mà như bà cụ lão nói, chim sẻ đang bay cũng còn chết cóng rơi xuống nữa kia! Lão được đưa đi đặt tên thánh bên Tubianxki. Nhưng, anh ngẫm mà xem: đời thuở nhà ai trời rét như thế mà lại đem thằng bé nhúng vào chậu nước thánh bao giờ không? Họ đun nước lên, lão thày cả và lão cụ đạo thì say luý tuý như những đồ chó chết. Nước đun xong, một người đổ vào chậu, còn người kia cũng chẳng buồn thử xem nước nóng nguội ra sao, miệng nói: "Xin Chúa cao cả hãy nhận con vào đàn chiên Chúa" và nhúng tũm luôn thằng bé vào chậu nước sôi, chìm lút đầu… Da lão tuột sạch! Người ta bế lão về nhà, mình mẩy bỏng rộp hết. Và lẽ dĩ nhiên là do đó lão bị thối rốn, sưng lên đau không chịu được, cứ gào… Từ đó lão cứ thúi quẩy mãi. Và duyên do tất cả đều là vì lão sinh ra ở trên đời này trong cái lò dân cày. Cho đến năm lên chín hết chó cắn lại ngỗng đớp, quá thể lắm, và có lần một con ngựa non đá hậu cho lão một cái mà lão quay lơ ra, tưởng chết. Và từ năm lên chín trở đi bắt đầu xảy ra cho lão những chuyện ngày càng nghiêm trọng hơn. Lão đang tuổi lên mười thì bị móc lưỡi câu vào mồm…

- Lưỡi câu gì? - Đavưđốp nghe chuyện bác Suka không phải không thú vị, ngạc nhiên hỏi.

- Lưỡi câu thường này này, lưỡi câu người ta dùng để câu cá ấy. Ở Grêmiatsi chúng tôi hồi ấy có một ông lão già lụ khụ, điếc đặc, được đặt biệt hiệu là Kupưrơ. Mùa đông lão ta đánh bẫy và đánh lưới chim đa đa, còn mùa hè thì lão bám lấy con sông, câu cá. Con sông làng chúng tôi hồi ấy sâu hơn bây giờ cơ, cho nên thằng Lápsinốp đã dựng ở đấy chiếc cối xay nước một bộ cối của nó. Dưới chân đập có những con cá chép và cá măng to gộc. Lão ấy ngồi bên một bui cây, rải ra bảy cần câu, cần thì mồi giun, cần thì mồi thính, cần thì mồi cá nẹp để câu cá măng. Thế là bọn trẻ chúng mình xoay xở cắn trộm lưỡi câu của lão. Tai lão ấy nặng như đá, có đái vào tai lão ấy, lão ấy cũng chẳng biết. Bọn chúng mình tụ tập lại gần chỗ lão ấy, nấp sau bụi cây, cởi truồng ra, và một đứa trong bọn rón rén xuống nước, để khỏi động nước mà, lặn xuống dưới đám cần của lão, túm lấy đầu sợi cước, ghé răng cắn đứt lấy lưỡi câu, rồi lại quay lại đống bụi cây, ngoi lên bờ. Khi lão kéo cần câu lên, người lão ấy run bắn lên nhá, và lão ấy càu nhàu: "Đức Mẹ ôi! Lại con chết tiệt nào cắt đứt mất rồi!". Đấy là lão ấy nói con cá măng, và lẽ dĩ nhiên là mất lưỡi câu, lão ấy cáu lắm. Lưỡi câu của lão, lão mua ở hiệu, còn bọn mình thì đào đâu ra tiền mà mua, thế là phải thiến của lão ấy vậy. Mình cũng đã lấy được một cái rồi, nhưng muốn cắn thêm cái nữa. Mình nhìn, thấy lão ấy đang mải mắc mồi, thế là mình lặn luôn. Mình đang khe khẽ quờ quạng tìm sợi dây cước, ghé mồm vào cắn thì bỗng lão ấy giật cần câu lên một cái ra-a-a giật! Sợi dây cước tuột khỏi tay mình, còn cái lưỡi câu thì móc luôn vào môi trên mình. Mình mới kêu lên, thế là nước ộc vào mồm. Lão ấy kéo cần câu, cố lôi mình lên mặt  nước. Mình đau quá, lẽ dĩ nhiên là chân đạp nhặng lên, lôi lưỡi câu lại, và thế là mình cảm thấy lão ta luồn cái vợt xuống dưới định vớt mình lên.. Rồi lẽ dĩ nhiên là mình ngoi lên khỏi mặt nước, kêu rống thiên địa. Lão ta đứng chết lặng, định làm dấu mà không làm nổi, sợ quá mặt mũi xanh xám như chàm đổ. Bảo làm sao mà lão ấy lại không sợ? Tưởng kéo lên con cá măng, hoá ra là một thằng nhóc. Lão ấy đứng ngây ra đấy, rồi ù té chạy nhá!... Chạy mà văng cả giày! Mình về đến nhà, mồm vẫn mắc cái lưỡi câu như thế. Ông cụ mình mới gỡ lưỡi câu ra cho, rồi quật một trận đến quay lơ ra bất tỉnh nhân sự… Thử hỏi, mình làm thế thì được cái ích lợi gì? Môi thì sẽ liền da lại, nhưng từ đấy, thiên hạ cứ Suka (*) mà réo lão. Cái tiếng khỉ gió ấy cứ bám riết lấy lão, không rũ ra được nữa.. Sang năm sau, mùa xuân lão lùa đàn ngỗng ra chăn ở chỗ cối xay gió. Cối xay đang quay, đàn ngỗng của lão vặt cỏ gần đấy, và trên đầu chúng một con diều hâu cứ lượn. Những chú ngỗng con lông vàng, nom ngon mắt lắm, và anh chàng diều hâu kia muốn vồ một chú đây, nhưng lẽ dĩ nhiên là lão cảnh giác, xuỳ ầm lên đuổi nó: Su-uỵ-t!". Vừa lúc ấy thì bọn trẻ con, bạn lão hồi ấy, kéo đến, và chúng mình bắt đầu chơi cái trò leo lên cánh cối xay: bám lấy một cánh, để nó nhấc bổng lên cách mặt đất độ hai ácsin rồi buông tay ra, rơi xuống đất, và nằm bẹp xuống, để cánh sau khỏi va phải. Trẻ con thì anh biết đấy, như giặc! Chúng nó đặt ra cái lệ: đứa nào lên được cao hơn thì được làm "vua", và được công kênh từ cối xay ra đến kho thóc. Rồi đứa nào cũng muốn làm "vua". Lão mới nghĩ: "Lần này mình phải lên cao hơn tất cả bọn nó!" và quên béng đi chuyện ngỗng. Cánh quạt nhấc bổng mình lên, lúc ấy mình mới nhìn, con diều hâu sà xuống, sắp vồ đến nơi rồi. Lão hoảng quá, khỏi nói: chuyến này thì cứ là chết đòn… Lão mới kêu toáng lên: "Chúng bay ơi! Con diều! Đuổi tao con diều!...". Trong bụng lúc bấy giờ quên đứt đi mình đang ở trên cánh cối xay… Khi sực nhớ ra thì ôi thôi, không biết ma quỷ nó bốc mình lên đến tận đâu rồi! Và nhảy xuống thì hãi, bay lên cao lại càng hãi hơn. Làm thế đếch nào bây giờ? Trong khi mình đang tơ lơ mơ nghĩ xem làm thế nào, thì cánh cối xay đã dựng lên, và mình thì vẫn bám lấy nó, chân cẳng chổng ngược lên giời. Và cánh vừa bắt đầu hạ xuống, mình buông tay ra luôn. Không rõ bay bao nhiêu lâu như thế thì tới đất, nhưng lúc ấy thì thấy là lâu ghê lắm, nhưng được cái cũng đã bay tới đất, và lẽ dĩ nhiên là mình nằm bẹp xuống. Choáng váng đứng dậy, lão nhìn thì ở cổ tay, cái xương ống lòi hẳn ra ngoài. Và đau thì chưa bao giờ đau đến như thế, không còn thiết đến cái gì nữa: con diều hâu thế là đã bắt mất một con ngỗng, nhưng lão không có thèm để ý tí gì. Mụ lang đã nắn lại cho lão khúc xương ấy, nhưng ích lợi gì mới được chứ? Đằng nào thì sang năm sau nó cũng lại bị trẹo lần nữa. Và lão còn bị lưỡi máy gặt chém phải. Sau ngày lễ thánh Piốt lão đi gặt cùng với ông anh. Lão điều khiển ngựa, còn ông anh thì đứng ném lúa xuống. Lũ ruồi trâu xoắn lấy mấy con ngựa. Trời nắng chang chang và bức đến nỗi lão xỉu cả người, ngủ thiếp đi, đang ngồi trên ghế mà ngã xuống. Đến lúc mở được mắt ra thì thấy, trên luống cày bên cạnh, một con chim báo bão to tổ bố nằm đấy, dài như cái roi ngựa. Lão cho ngựa dừng lại, ông anh bảo: "Để tao cho nó một nhát chàng nạng!". Nhưng lão bảo: "Anh để tôi nhảy xuống, bắt sống!. Ông anh bảo: "Ờ!". Thế là lão vồ, túm lấy ngang mình con chim. Nó lồng lên, chạy nhá! Nó xoè cánh ra, quật cho lão tối tăm mặt mũi, nhẩy cẫng lên, lôi lão xềnh xệch theo nó. Rồi nó sợ quá (nghĩa là cu cậu hoảng lắm) phụt cứt ra đầy người lão, và lôi lão xềnh xệch như con ngựa bất kham lôi cái bừa vậy. Rồi không rõ nó nghĩ thế nào, nó lại vòng lại. Nó lao vào chân lũ ngựa, rồi lại nhảy vọt sang bên, mà mấy con ngựa này thì nhát: chúng nó nhảy qua mình lão, hí lồng lên. Thế là lão nằm dưới hàng lưỡi hái. Ông anh vội hạ cần xuống, nâng lưỡi hái lên. Lão bị lôi tuột vào gầm máy, mà cái máy thì cứ quay. Nó đã ngoạm vào chân một con ngựa, lòi cả xương, đứt cả gân, còn lão thì nó làm cho tàn phế, người ngợm nom không nhận ra nữa. Ông anh rồi cũng dừng ngựa lại được, tháo một con ra, đặt lão nằm vắt ngang lưng ngựa, rồi nhảy phốc lên, phóng về làng. Lão thì bất tỉnh nhân sự, người bê bết những cứt chim và đất, còn con chim chết giẫm kia thì dĩ nhiên là nó bay đi mất. Lão bị ốm liệt một trận… Nửa năm sau, một bữa, lão ở nhà hàng xóm đi ra, gặp một con bò mộng chắn ngang đường. Lão đã định vòng tránh nó, nhưng nó ngoáy ngoáy cái đuôi, hệt như con hổ dữ, và chĩa sừng ra tiến về phía lão. Dễ anh tưởng lão khoái cái trò nằm chết lòi ruột ra trên mũi sừng của nó lắm đấy hẳn? Không, lão ù té chạy chứ, nhưng nó đuổi kịp, húc cho lão một cái vào quãng xương sườn cụt, hất tung qua hàng rào. Thế là gãy mẹ nó mất một cái xương sườn. Giá như xương sườn ấy, mình có độ trăm cái, thì mất một cái cũng chẳng hơi đâu mà tiếc, nhưng tự dưng chẳng đâu vào đâu mất toi cái xương sườn thì chán quá… Vì chuyện ấy lão đã được miễn quân dịch. Về sau này nữa, bọn giống vật các loại đã gây cho lão những chuyện rắc rối gì nữa không sao kể xiết! Cứ như có ma xui quỷ khiến vậy: động có con chó nào xổng xích, thì dù nó đang ở đâu, mả mẹ nó, nó cũng cứ nhè lão mà xông tới, không thì là lão vô tình dẫn xác đến chỗ nó. Ấy thế là nó cắn, nó xé quần, và như thế thì được cái ích lợi gì nhỉ? Rồi thì chồn cáo đuổi lão chạy té từ khe Ugiátsi ra đến tận đường cái, rồi thì lợn lòi nhảy xổ vào lão ở ngoài thảo nguyên. Vì một con bò mộng mà lão đã bị một trận nhừ từ và mất toi đôi giày. Một lần, tối khuya rồi, lão đi trong làng, đến trước cửa nhà Đônétxkốp thì lại thấy một con bò mộng đang đi ngược lại. Nó bảo: "Bò-ò-ò!" và ngoáy ngoáy cái đuôi. Lão nghĩ bụng: "Không, tôi đếch chơi, tôi có kinh nghiệm xương máu về bọn các anh lắm rồi!". Lão đi sát vào nhà, con bò đi theo, lão co cẳng chạy, con bò đã thở hồng hộc sau lưng. Cửa sổ ăn ra phố của nhà ấy để ngỏ toang. Lão bay luôn vào, hệt như con dơi vậy… Lão nhìn quanh: buồng chẳng có ai cả. Lão nghĩ bụng: ta không nên làm phiền thiên hạ, ta lại cứ cửa sổ ta ra. Con bò rống lên một lúc, dũi sừng vào cái bạ đất của tường, rồi bỏ đi. Lão đã sắp nhảy qua cửa sổ ra đường thì có ai chộp lấy tay lão, và môt cái gì cưng cứng nện vào gáy. Thì ra là lão chủ nhà, lão Đônétxkốp, nghe thấy động đã túm lấy lão. "Mày vào đây làm gì, thằng ôn!" - "Tôi chạy trốn con bò mộng" - "Nói láo, ông biết tỏng lũ bò mộng chúng mày rồi! Mày định mò con dâu Ôliútka nhà ông phỏng?". Miệng nói, tay đấm lão thùm thụp, đầu tiên là còn đánh chơi, rồi càng ngày càng nện khoẻ. Lão ấy già rồi nhưng còn dẻo dai ra phết, vẫn bờm xơm với con dâu, thế cho nên lão ấy, nổi điên lên, đánh lão gãy cái răng hàm. Đánh xong hỏi: "Mày còn đến mò con Ôliútka nữa không?". Tôi bảo: "Không, tôi chả dại, vả vào miệng ông! Ông cứ đeo cô Ôliútka của ông lên cổ ấy, thay cho thánh giá". Lão ấy bảo: "Mày muốn sống thì cởi ngay đôi giày ra, không chết với tao!". Thế là phải cởi giày ra, vô cớ mất không đôi giày với lão ấy. Mất đôi giày cuối cùng như thế thì có kỳ lạ không cơ chứ! Cái con Ôliútka ấy, lão thù nó đến năm năm, nhưng như thế thì được cái ích lợi gì nhỉ? Thế đã hết tội nợ cho đâu… Chỉ cần lấy một xí dụ này nữa thôi: khi lão đi với các anh đến tịch thu nhà thằng Titốc, thử hỏi cớ làm sao mà con chó của nó lại cứ áo bành tô của lão mà cắn xé? Phận sự của nó là phải nhảy xổ vào anh Maka hoặc vào anh Liubiskin chứ, nhưng mả mẹ nó, nó lại chạy vòng cái sân, đâm sầm vào lão. May làm sao nó không nhảy được tới cổ họng lão, chứ không thì nó chỉ xơi cho hai miếng thôi là anh có thể đọc kinh cầu hồn cho lão Suka rồi đấy. Khô-ô-ông, những tiết mục ấy ta biết quá rồi. Tất nhiên nó xảy ra như vậy là do lão không có khẩu thúng nục. Phúc tổ chứ lão mà có khẩu thúng nục thì không biết sẽ như thế nào rồi? Chỉ có là án mạng chết người! Lão mà đã điên lên thì khiếp lắm. Lúc ấy lão có thể  giải quyết cả đời con chó, cả đời con vợ Titốc. Và cả thằng Titốc nữa lão cũng sẽ tương cho cả cối đạn vào họng chứ chẳng chơi đâu. Thế là xảy ra án mạng, và người ta có thể tống lão Suka vào tù… Mà lão thì hoàn toàn chẳng cần gì đến đi tù cả, lão có công có việc của lão. Phải… Đấy, số lão làm nên ông tướng là thế đấy. Con mụ đỡ ấy mà còn sống, lão sẽ nuốt tươi!... Để đừng có đoán lăng nhăng! Đừng có làm khổ trẻ mới lọt lòng! Ủa, ta tới nơi rồi, lều của đội ấy kia kìa!

----------------------------

(*)          Suka, tiếng Nga nghĩa là "cá măng". - ND.

CHƯƠNG XXXII

Đứng ngoài hiên cầm cái chổi chùi bùn dính bê bết từng mảng vào ủng, Radơmiốtnốp thấy một vệt ánh sáng xiên xiên lọt qua khe cửa buồng Nagunốp. "Cậu Maka chưa ngủ. Còn làm gì mà chưa đi ngủ thế nhỉ?" - Anđrây thoáng nghĩ, và khẽ đẩy cửa.

Cây đèn dầu hoả năm dây có cái chụp bằng giấy bạc đã cháy sém hắt ánh sáng lờ mờ xuống chiếc bàn trong góc phòng và cuốn sách nhỏ mở rộng. Mái đầu bù xù của Maka đang chăm chú cúi xuống bàn, tay phải chống má, còn mấy  ngón tay trái thì túm xiết lấy bờm tóc trước trán.

- Chào cậu Maka! Làm gì mà chưa đi ngủ thế?

Nagunốp ngẩng đầu lên, nhìn Anđrây với vẻ khó chịu.

- Có việc gì đấy?

- Đến nói chuyện tí. Phiền gì không?

- Phiền thì chả phiền. Thì cứ ngồi xuống, ai đuổi.

- Cậu đọc gì thế?

- Đọc chơi. - Maka úp bàn tay lên che quyển sách, nhìn Radơmiốtnốp, ý chờ đợi.

Anđrây thở dài, buông phịch người xuống tấm ghế đẩu:

- Mình bỏ Marina rồi. Bỏ đứt…

- Bỏ lâu rồi mới phải.

- Sao vậy?

- Nó là cái cản trở cậu, và cuộc sống bây giờ là mọi cái thừa vướng phải gạt hết. Lúc này không phải lúc cho những người cộng sản chúng mình bị cuốn vào những chuyện linh tinh bên ngoài.

- Đây là chuyện yêu đương giữa hai chúng mình với nhau, sao lại là chuyện bên ngoài?

- Thế mà là yêu đương à? Nó là cái gông đeo cổ, chứ đâu phải tình yêu. Cậu điều khiển hội nghị, còn nó thì ngồi lù lù đấy, không rời mắt theo dõi cậu, đánh ghen. Đó không phải là tình yêu, anh bạn ơi, mà là cái tội cái nợ.

- Thế là theo cậu, người cộng sản không nên dính vào phụ nữ à? Lấy chỉ thắt lại, rồi cứ chạy nhông như con bò thiến hay sao?

- Đúng, không nên dính. Thế cậu nghĩ thế nào? Những anh nào đã trót dại lấy vợ trước rồi, thì cứ việc sống nốt cuộc đời tàn với vợ con cho xong đi, còn như thanh niên trẻ, mình mà có quyền thì mình sẽ ra sắc lệnh cấm chúng nó lấy vợ. Sẽ còn ra cái anh cách mạng gì nữa, nếu cứ quen cái thói bám vấy vợ? Đối với chúng ta, đàn bà là mật ngọt chết ruồi đấy. Sa vào là ngập đến cổ. Mình đã có kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm quá đi rồi! Có khi, buổi tối ta ngồi đọc sách mở mang con người, nhưng vợ thì lại đi ngủ. Ta đọc một tí, rồi lên giường nằm, thế là nó quay ngay lưng lại với anh thôi. Thái độ của nó như thế, anh không thể chịu được, và hoặc là anh chửi nhau, hoặc là anh sẽ lặng thinh hút thuốc, bụng tức anh ách, và thế thì còn ngủ cái đếch gì nữa. Kém ngủ, sáng dậy đầu nặng chình chịch, gặp công việc gì là y như rằng giải quyết sai chính sách ngay. Kinh nghiệm thực tế lắm rồi! Còn anh nào đã mang con cái vào rồi, anh ấy đối với Đảng là người bỏ đi. Hắn được cái học rửa đít cho con và quen với hơi sữa thì nhanh lắm, và thế thôi, đời coi như tàn! Hắn ta làm người chiến sĩ thì là chiến sĩ tồi, làm người lao động thì phất phơ. Thời Sa hoàng mình có huấn luyện cho bọn thanh niên tân binh kô-dắc  và đã quan sát đủ chuyện: đứa nào là trai chưa vợ thì mặt mũi tươi tỉnh, lanh lợi, còn đứa nào đến trung đoàn để lại cô vợ trẻ ở nhà thì y như là buồn rũ rù và sinh ra mụ mẫm. Đứa ấy thì chỉ ba gai ba đồ, và có nói rót vào tai cũng không hiểu. Mình giảng cho nó về điều lệnh, nó giương mắt ếch lên. Thằng khốn nạn ấy rõ ràng đang nhìn mình, nhưng sự thực là mắt nó đang hướng vào trong ruột gan nó, nó chỉ trông thấy vợ nó, quân đê tiện. Thế thì có ra cái gì không? Không, anh bạn đồng chí ơi, trước anh muốn sống thế nào tuỳ anh,, nhưng bây giờ, đã vào Đảng rồi thì hãy rũ bỏ những cái ngu ngốc ấy đi. Theo mình, cách mạng thế giới thành công rồi thì cậu có chết gục trên bụng đàn bà mình cũng mặc xác cậu, nhưng bây giờ cậu phải toàn tâm toàn ý hướng vào cuộc cách mạng ấy. - Maka đứng dậy, vươn đôi vai rộng chắc nình nịch làm các khớp kêu răng rắc, rồi vỗ vai Radơmiốtnốp, khẽ nhếch mép cười. - Cậu đến mình, chắc định than thở với mình để rồi hai đứa cùng rên rỉ với nhau chứ gì: "Ờ, cảnh cậu buồn thật đấy, Anđrây ạ, sống không có đàn bà thì khó sống lắm. Bạn ơi, bạn làm sao chịu đựng nổi cái cảnh gay go ấy?...". Có phải thế không? Không, Anđrây ạ, muốn gì thì gì, nhưng cái ấy thì cậu đừng mong đợi ở mình. Mình lại còn lấy làm mừng là cậu đã cắt đứt với con vợ cai lính tẩy của cậu là khác. Lẽ ra phải lấy gậy quất vào cái đít lồng bàn của nó từ lâu rồi mới phải! Ví như mình đây, mình đã cắt đứt với con Luska, và mình thấy sướng lắm. Không còn ai quấy rầy mình nữa, bây giờ mình như mũi lê sắc bén chĩa thẳng vào bọn kulắc và mọi kẻ thù khác của chủ nghĩa cộng sản. Mình lại còn có thể tự học, tu dưỡng nữa.

Radơmiốtnốp lạnh lùng hỏi kháy:

- Cậu học gì thế? Những môn khoa học ghê gớm gì vậy?

Trong bụng anh thấy khó chịu vì lời lẽ của Maka, vì thái độ của anh ta chẳng những không thông cảm với đau khổ của anh, mà còn thẳng thừng tỏ ra vui mừng và ba hoa xích thố về chuyện hôn nhân. Có một lúc, ngồi nghe cái giọng nghiêm trang và đầy sức thuyết phục của Maka, Anđrây đã không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: "Cũng may mà con bò hay gây gổ thì trời không cho nó có sừng, chứ nếu Maka mà có quyền hành trong tay thì chưa biết hắn có thể làm những chuyện gì? Với cái điệu của hắn, hắn có thể làm cho toàn thế giới lộn chổng vó lên giời! Chưa biết chừng hắn sẽ đem thiến toàn bộ giai cấp đàn ông đi cũng nên, để họ khỏi xao lãng chủ nghĩa xã hội!".

- Học gì à? - Maka nhắc lại câu hỏi của Anđrây và gấp mạnh quyển sách lại! - Học tiếng Anh.

- Ca-a-ái gì?

- Tiếng Anh. Quyển này là sách tự học tiếng Anh.

Nagunốp e ngại nhìn Anđrây, sợ anh ta có ý chế giễu gì chăng, nhưng Anđrây bị bất ngờ quá đến nỗi ngoài sự kinh ngạc ra, Nagunốp không đọc thấy ý gì khác trong đôi mắt tròn xoe sốt ruột của anh ta.

- Thế vậy là… cậu đã đọc, hoặc đã nói được cái… tiếng ấy rồi à?

Nagunốp đáp, trong bụng ngầm tự hào:

- Chưa, không phải cứ học là nói được ngay đâu. Nhưng, tóm lại là mình bắt đầu học được chữ in rồi. Mình học đã bốn tháng nay.

Radơmiốtnốp không khỏi đưa mắt khâm phục nhìn Maka và quyển sách con, nuốt nước bọt, hỏi:

- Cái trò ấy có khó không?

Maka thấy Radơmiốtnốp biểu lộ sự quan tâm sâu sắc đến việc học tập của mình, hết e ngại, nói đã thoải mái:

- Khó không tả được! Bốn tháng trời mình chỉ mới thuộc được… có tám chữ. Nhưng tiếng ấy nó cũng hơi na ná tiếng mình. Có nhiều chữ họ lấy của ta, chỉ cái đuôi là khác thôi. Ví dụ ta nói "prôlêtariát" (*), thì họ cũng thế, chỉ khác cái đuôi. Chữ "rêvôliútxia" (**) và "cômmunixmơ" (***) cũng vậy. Những cái đuôi ấy học đọc rin rít, có vẻ như họ căm ghét những tiếng ấy lắm, nhưng họ cũng chẳng thể trốn được những tiếng ấy. Những tiếng ấy đã bắt rễ ra khắp thế giới rồi, muốn hay không họ vẫn phải dùng.

- Vây-â-ậy đấy… ra là thế! Cậu học. Nhưng, Maka này, cậu cần gì tiếng ấy mà học? Lưỡng lự một lát, - Radơmiốtnốp lên tiếng hỏi.

Nagunốp mỉm một nụ cười kẻ cả, đáp:

- Cậu hỏi hay nhỉ! Đơn giản thế mà cậu cũng không hiểu thì lạ thật… Mình là người cộng sản chứ gì? Và ở Anh rồi cũng sẽ có chính quyền xôviết chứ gì? Cậu gật đầu, nghĩa là sẽ có, phải không? Nhưng những người cộng sản Nga chúng ta đây, có nhiều người nói được tiếng Anh không? Ít lắm anh ơi! Mà bọn tư sản Anh lại thống trị Ấn độ, thống trị gần một nửa thế giới, và áp bức đủ các thứ dân da đen, da nâu. Thử hỏi, cái lệ đâu lại như thế? Ở những nơi đó rồi cũng sẽ có chính quyền xôviết, nhưng nhiều người cộng sản Anh lại chưa rõ kẻ thù giai cấp trong bộ mặt thật của nó ra sao, và lúng túng chưa biết thanh toán chúng nó như thế nào. Đến lúc ấy mình sẽ đề nghị cho mình sang hướng dẫn họ. Và vì mình biết tiếng họ rồi, cho nên sang tới nơi mình sẽ bảo thẳng ngay với họ: "Ở nước các bạn đang có rêvolutson (****) phải không? Các bạn là comunixtison (*****) phải không? Thế thì, các bạn ơi, bọn tư bản và bọn tướng tá, các bạn hãy đánh gục chúng nó đi! Ở nước Nga chúng tôi, hồi mười bảy, do chúng tôi ngây thơ, chúng tôi đã để cho lũ sâu bọ ấy được tự do, thế là sau đó chúng nó lại cắt gân chúng tôi. Để khỏi phạm sai lầm, các bạn hãy tuốt các chúng ra, thế là onrai (******) đấy!" - Maka phổng mũi lên, nháy mắt với Radơmiốtnốp. - Đó, mình cần tiếng Anh làm gì đó. Hiểu chưa? Đêm đêm mình sẽ không ngủ, mình sẽ dốc hết chút sức lực còn lại, nhưng… - và nghiến chặt hai hàm răng nhỏ và đều sít, anh tiếp, - mình sẽ học bằng được thứ tiếng ấy! Mình sẽ nói chuyện bằng tiếng Anh, không chút nương nhẹ gì với bọn phản cách mạng thế giới! Quân chó má ấy, chúng hãy run sợ trước đi thì vừa! Chúng nó cứ giờ hồn, hừ… Maka Nagunốp đây chứ không phải ai đâu! Không có thương xót, khoan dung gì cả. "Mày đã uống máu giai cấp công nhân Anh, uống máu nhân dân Ấn độ và bao nhiêu dân tộc bị áp bức khác phải không? Mày đã bóc lột lao động của người khác phải không? Con quỷ khát máu đứng tựa lưng vào tường kia!". Chỉ nói thế thôi! Những câu ấy mình đã thuộc lòng trước tiên. Để nói cho trơn, khỏi vấp váp.

Họ còn chuyện trò linh tinh với nhau độ nửa tiếng nữa, rồi Anđrây ra về, và Nagunốp lại chúi mũi vào quyển sách tự học. Miệng lẩm nhẩm, mồ hôi nhễ nhại và lông mày nhíu lại vì sự cố gắng tập trung, anh ngồi học cho đến hai giờ sáng.

Hôm sau, anh dậy sớm, làm hai cốc sữa rồi đi lên chuồng ngựa nông trang. Anh yêu cầu người trực chuồng.

- Bắt cho tôi con ngựa nào chạy kha khá một tí.

Người trực chuồng dắt ra một con ngựa lông vàng nhạt, đít thấp, nổi tiếng dai sức và nhanh, rồi tò mò hỏi:

- Đồng chí có đi xa không?

- Lên huyện. Nói lại với đồng chí Đavưđốp là đến tối tôi về.

- Đồng chí cưỡi à?

- Ờ. Mang yên ra đây.

Maka đóng yên, tháo sợi thừng buộc cổ ngựa ra, thắng cho nó bộ cương rất đẹp tịch thu của Titốc. Động tác thành thạo, anh xỏ một chân vào bàn đạp.

Con ngựa ra đi, bước kiệu nhún nhẩy. Qua cổng bỗng nó hụt chân khuỵu xuống, suýt ngã, nhưng nó ưỡn lên, nhanh nhẹn đứng phắt dậy. Bác Suka vừa tới cổng, né sang bên tránh, réo theo:

- Quay về thôi, đồng chí Nagunốp ơi, điềm gở dẩy!

Maka không đáp, cho ngựa chạy nước kiệu qua.

Gần trụ sở Xôviết có khoảng hai chục bà con đang mồm năm miệng mười cái gì sôi nổi lắm. Maka quát đùa:

- Tránh ra, mấy con quạ cái, không ngựa xéo chết bây giờ!

Các mụ tránh sang bên đường, nín thinh. Và khi đã vượt qua chỗ họ, Nagunốp nghe thấy một giọng hằn học rít lên theo anh:

- Sao người ta không xéo chết mày đi, hả thằng ba lần trời đánh! Rồi xem mày có phi mãi được thế không…

-----------------------------

(*)          Prôlêtariát - giai cấp vô sản. - ND.

(**)        Rêvôliútxia - cách mạng. - ND.

(***)      Cômmunixmơ - chủ nghĩa cộng sản. - ND.

(****)   Revolution (tiếng Anh) - cách mạng. - ND.

(*****) Comunist (tiếng Anh) - người cộng sản. Nagunốp nói nhầm, thêm cái đuôi vào là comunixtison. - ND.

(******) All right! (tiếng Anh) - ổn. - ND.

* * *

Cuộc họp thường vụ huyện uỷ bắt đầu hồi mười một giờ. Chương trình nghị sự có mục Bêglức, trưởng ban nông nghiệp huyện, báo cáo về tình hình gieo hạt trong năm ngày đầu vụ. Ngoài các uỷ viên thường vụ ra, dự họp còn có trưởng ban thanh tra huyện Xamôkhin và công tố uỷ viên huyện.

Trưởng ban tổ chức Khômutốp dặn Nagunốp:

- Anh cứ chờ đấy, hội nghị sẽ thảo luận vấn đề anh vào mục linh tinh.

Bản báo cáo dài nửa tiếng đồng hồ của Bêglức đã được theo dõi trong một không khí im lặng căng thẳng và nặng nề. Nhiều nơi trong huyện chưa bắt đầu gieo mặc dầu đất đã cày bừa xong; một số thôn ấp khác chưa thu xong thóc giống; ở Vôxkôvôi những người ra nông trang đã lấy lại gần hết thóc giống; ở Ônkhôvátxki tự ban quản trị nông trang đã trả lại thóc giống cho người ra. Báo cáo viên trình bày tỉ mỉ nguyên nhân không đạt yêu cầu của công việc gieo hạt, và cuối cùng kết luận:

- Thưa các đồng chí, rõ ràng là tình hình chậm trễ của chúng ta trong việc gieo hạt, có thể nói là không phải chậm trễ nữa, mà là trì trệ, giẫm chân tại chỗ là do tại một loạt thôn ấp, cán bộ địa phương chạy theo con số phần trăm tập thể hoá, đã dùng cưỡng bức để tổ chức ra nông trang, thậm chí có nơi, như các đồng chí đã biết, đã giơ súng lục bắt người ta vào nông trang. Những nông trang không có gì vững chắc ấy giờ đây đang tan rữa như những tường đất bị xói lở. Chính ở những nông trang ấy, công việc bê trễ, vì nông trang viên không chịu ra đồng, và nếu có ra thì cũng chỉ làm buông tay lấy lệ.

Bí thư huyện uỷ cầm bút chì gõ gõ vào cái nút bình nước thuỷ tinh, bảo:

- Đồng chí nói hết giờ rồi đấy!

- Thưa các đồng chí, tôi xong đây! Tôi xin phép rút ra kết luận: như tôi đã trình bày, theo con số của ban nông nghiệp huyện, trong năm ngày đầu vụ toàn huyện mới gieo được cả thảy tám mươi ba hécta. Tôi cho rằng cần động viên ngay tất cả cán bộ huyện, tung xuống các nông trang. Theo tôi, cần phải ngăn chặn bằng mọi biện pháp phong trào xin ra nông trang, giao nhiệm vụ cho các ban quản trị nông trang và các bí thư chi bộ phải tiến hành hàng ngày công tác tuyên truyền giải thích trong quần chúng nông trang viên, đặt trọng tâm công tác vào việc thông tin rộng rãi cho các nông trang viên… kể chuyện rộng rãi về những cái lợi mà nhà nước dành cho các nông trang, bởi vì ở nhiều địa phương anh em thậm chí cũng chẳng tuyên truyền gì cả. Rất nhiều nông trang viên cho đến bây giờ cũng không biết nông trang được nhà nước trợ cấp như thế nào, và nhiều chuyện khác nữa. Ngoài ra, tôi xin đề nghị: xem xét gấp những trường hợp sai phạm chính sách đã làm cho chúng ta không tiến hành được tốt vụ gieo, và theo nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương ngày mười bốn tháng Ba thì những người sai phạm cần phải bị đình chỉ công tác. Tôi đề nghị xem xét gấp và thi hành kỷ luật nặng về Đảng với tất cả những người ấy. Tôi xin hết.

- Ai có ý kiến gì về bản báo cáo của đồng chí Bêglức không? - Bí thư huyện uỷ vừa hỏi vừa đưa mắt nhìn quanh hội nghị, cố tình tránh ánh mắt của Nagunốp.

Một uỷ viên thường vụ, trưởng ban công an huyện, một anh chàng lực lưỡng, chắc nình nịch, lúc nào cũng nhễ nhại mồ hôi, đầu cạo trọc bóng chằng chịt sẹo và nom có tác phong quân sự, thở dài nói:

- Vấn đề rõ rồi, phát biểu gì nữa.

- Vậy ta lấy những kết luận của đồng chí Bêglức làm cơ sở cho nghị quyết của chúng ta được không? - Bí thư hỏi.

- Được đấy.

- Bây giờ đến việc Nagunốp. - Lần đầu tiên trong suốt cuộc họp, đồng chí bí thư đưa mắt nhìn Nagunốp, dừng lại vài giây cái nhìn ngơ ngác, xa lạ. - Các đồng chí đã biết rằng, là bí thư chi bộ Grêmiatsi Lốc, đồng chí Nagunốp đã phạm một loạt tội lỗi nghiêm trọng chống lại Đảng. Bất chấp chỉ thị của huyện uỷ, đồng chí ấy đã tiến hành một đường lối tả khuynh trong việc tập thể hoá và thu thóc giống. Anh ta đã dùng súng lục đánh đập một trung nông cá thể, bắt giam một số nông trang viên. Đồng chí Xamôkhin đã thân hành về Grêmiatsi Lốc điều tra vụ này và đã phát hiện việc Nagunốp vi phạm trắng trợn pháp chế cách mạng, bóp méo đường lối của Đảng, gây thiệt hại cho Đảng. Bây giờ để đồng chí Xamôkhin phát biểu ý kiến. Đồng chí Xamôkhin, đồng chí hãy trình bày trước thường vụ cuộc điều tra của đồng chí về những hoạt động tội lỗi của Nagunốp. - Đồng chí bí thư nhắm đôi mắt mi mọng hum húp lại, nặng nề chống hai khuỷu tay xuống bàn.

Nagunốp ngay từ lúc đặt chân tới huyện uỷ đã biết việc của mình lôi thôi to rồi và không nên mong chờ được xử lý nhẹ. Bí thư huyện uỷ đã bắt tay anh với một thái độ dè dặt chưa từng thấy và, rõ ra mặt là muốn tránh chuyện trò với anh, quay ngay sang nói một chuyện gì đó với chủ tịch huyện.

Maka có ý rụt rè hỏi anh ta:

- Đồng chí Korghinxki ạ, việc tôi thế nào rồi?

Anh ta miễn cưỡng đáp:

- Thường vụ sẽ quyết định.

Và các người khác cũng thế, tất thảy đều tránh cái nhìn dò hỏi của Maka và lảng anh. Vấn đề của anh, rõ ràng là họ đã quyết định với nhau xong xuôi cả rồi. Duy chỉ có trưởng ban công an Balabin là đã mỉm cười thông cảm với Maka và bắt tay anh chặt:

- Nagunốp ạ, chả việc  gì mà bi quan! Cậu đã phạm khuyết điểm chứ gì? Cậu đã làm linh tinh, bậy bạ chứ gì? Thì đó là vì chúng ta về chính trị chưa được già dặn lắm. Khối người đầu óc còn khá hơn cậu nhiều mà vẫn sai lầm đấy! - Anh ta ngó ngoáy cái đầu tròn xoe, chác nịch và nhẵn thí như hòn sỏi bờ sông, lau mồ hôi trên cái cổ rụt đỏ ửng, chem chép đôi môi dày tỏ vẻ ái ngại.

Maka trở lại vững dạ, nhìn khuôn mặt đỏ như gà chọi của Balabin, mỉm một nụ cười biết ơn, hiểu rằng anh chàng này đã nhìn thấu suốt bụng anh, hiểu và thông cảm với anh. "Họ sẽ thi hành kỷ luật mình nặng, cất chức bí thư  mình đây", Maka nghĩ bụng như vậy và lo ngại đưa mắt nhìn Xamôkhin. Cái con người bé nhỏ, trán to, không chịu nổi những chuyện ly dị kia làm anh ớn nhất. Và khi Xamôkhin rút trong cặp hồ sơ dầy cộp, Nagunốp cảm thấy trong bụng phát hoảng lên, đau nhói. Tim anh đập thình thình, máu dồn lên đầu, thái dương nóng bừng bừng, ruột gan nao nao dâng lên đến họng. Sắp động kinh anh bao giờ cũng bị như thế. "Lạy giời đừng nhá!". Lắng nghe lời phát biểu chậm rãi của Xamokhin, anh rùng mình.

- Theo uỷ nhiệm của huyện uỷ va ban thanh tra huyện, tôi đã tiến hành điều tra vụ này. Qua thẩm vấn chính bản thân Nagunốp, thẩm vấn những nông trang viên và nông dân cá thể ấp Grêmiatsi Lốc nạn nhân những hành động của anh ta, mặt khác căn cứ vào lời khai của các nhân chứng, tôi xác định như sau: không còn nghi ngờ gì nữa, đồng chí Nagunốp đã không xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng, và qua cách giải quyết công việc của mình đã gây tổn thất lớn cho Đảng. Chứng cớ là trong thời gian tiến hành tập thể hoá, vào tháng Hai, đồng chí ấy đã đi khắp  làng, dùng súng lục doạ, cưỡng bức dân vào nông trang. Bằng cách đó, anh ta gọi là đã "lôi kéo" được bảy trung nông vào nông trang. Chuyện ấy chính bản thân Nagunốp cũng thừa nhận…

Nagunốp rời ghế đứng dậy, khàn khàn nói:

- Đó là mấy tên bạch vệ ngoan cố!

Bí thư nghiêm khắc ngắt lời anh:

- Đồng chí chưa được phát biểu. Phải giữ trật tự!

- … Thế rồi trong thời gian thu thóc giống, anh ta đã dùng súng lục đánh chết ngất một trung nông cá thể, ngay trước mắt những nông trang viên có  mặt tại đó và nhân viên thường trực xôviết. Người trung nông kia bị đánh đập vì đã từ chối, không chịu mang ngay lập tức thóc đến kho…

- Nhục nhã thật! - Công tố viên nói oang oang.

Nagunốp đưa tay xoa họng, tái mặt đi nhưng vẫn ngồi im lặng.

- Cũng trong đêm hôm ấy, thưa các đồng chí, anh ta đã hành động như một tên trương tuần, giam ba nông trang viên trong một căn phòng lạnh, giữ họ ở đấy suốt đêm, thêm vào đó lại dùng súng lục đe doạ họ vì đã từ chối không chịu mang ngay thóc giống đến nộp.

- Những người ấy tôi có doạ đâu…

- Tôi nói thế là nghe từ miệng họ, đồng chí Nagunốp ạ, và yêu cầu không được ngắt lời tôi! Do đồng chí Nagunốp khăng khăng chủ trương như vậy, nên trung nông Gaiép đã bị tịch thu tài sản, đưa đi đày. Người này hoàn toàn không đáng bị tịch thu bởi vì căn cứ vào tài sản của ông ta thì không có bất cứ lý do gì để quy thành phần kulắc cả. Do tác động của Nagunốp, địa phương đã tịch thu tài sản người này, lấy cớ rằng năm 1928 ông ta có mướn một nhân công. Nhưng mướn như thế nào? Thưa các đồng chí, đó là mướn một chị phụ nữ cũng ở Grêmiatsi Lốc làm công trong một tháng, vào thời vụ gặt hái. Và Gaiép mướn chị ta chỉ là vì năm 1927, con trai ông ta đã được gọi đi Hồng quân, nhà ông ta đông con nhỏ, làm không xuể. Pháp luật Xôviết không cấm việc sử dụng sức lao động trên cơ sở hợp đồng ký với uỷ ban nhân công, và công xá trả sòng phẳng, việc này tôi đã kiểm tra lại. Ngoài ra, Nagunốp còn hủ hoá bừa bãi, và đó không phải là một điểm không quan trọng để đánh giá một người đảng viên. Nagunốp đã ly dị  vợ, mà cũng chẳng ly dị nữa kia, mà là đuổi vợ đi như đuổi một con chó, chỉ là vì dường như chị ta có cảm tình với một anh chàng nào đó ở Grêmiatsi theo đuổi chị ta. Tóm lại, Nagunốp đã vin vào những chuyện ngồi lê đôi mách mà đuổi vợ đi để được rảnh tay. Hiện nay anh ta trai gái như thế nào, tôi không rõ, nhưng thưa các đồng chí, có đủ căn cứ để nói rằng anh ta sống bê tha truỵ lạc. Nếu không thì việc gì anh ta phải đuổi vợ đi như vậy? Bà chủ nhà Nagunốp trọ có kể với tôi là ngày nào anh ta cũng về rất khuya, anh ta đi đâu, bà ấy không rõ, nhưng thưa các đồng chí, chúng ta thì chúng ta rõ! Chúng ta không phải bé bỏng gì, và chúng ta thừa biết một anh đàn ông mê gái đuổi vợ thì thường hay đi đâu… Ta biết rõ lắm! Đó, thưa các đồng chí, đó là bản liệt kê vắn tắt những sự tích anh hùng (phát biểu lời buộc tội đến đây, Xamôkhin mỉm một nụ cười cay nghiệt) mà người bí thư chi bộ đáng buồn là Nagunốp đã thi thố được trong một thời gian ngắn ngủi. Ở đây phải nói thẳng ra rằng đó không phải là choáng váng vì thắng lợi, như đồng chí Xtalin, lãnh tụ của chúng ta đã nêu ra một cách tài tình, mà là một thiên hướng tả khuynh, một sự vi phạm đường lối chung của Đảng. Chẳng hạn, Nagunốp không những đã giở trò tịch thu tài sản của trung nông và dùng súng lục dồn ép người ta vào nông trang mà còn đưa ra chủ trương tập thể hoá gia cầm, gia súc nhỏ vàbò sữa. Theo lời một số nông trang viên, anh ta còn muốn đặt ra cho nông trang một thứ kỷ luật mà ngay cả thời Nhikôlai khát máu cũng không từng thấy.

- Về gia cầm và gia súc nhỏ, huyện uỷ bỏ mặc, không cho chúng tôi phương hướng. - Nagunốp u uất nói nhỏ.

Anh đã đứng lên, ưỡn thẳng hết tầm cao của anh, bàn tay trái co quắp áp chặt vào ngực.

Bí thư huyện uỷ đỏ bừng mặt lên:

- Không phải, đồng chí đừng nói thế! Huyện uỷ đã chỉ rõ rồi! Làm không nên thì đừng đổ quanh! Đã có điều lệ của ácten, và đồng chí không phải đứa con nít còn bú tí mà bảo không hiểu!

Xamôkhin nói tiếp:

- … Ở nông trang Grêmiatsi mọi sự phê bình tự phê bình đều bị bóp chết. Nagunốp thi hành chính sách khủng bố, không để cho ai mở miệng. Đáng lẽ phải tuyên truyền giải thích thì anh ta quát tháo bà con nông dân, giậm chân, giơ súng doạ. Do đó ở nông trang Grêmiatsi đang xảy ra lộn xộn. Ở đó hiện nay người ta ồ ạt xin ra nông trang, công việc gieo hạt bây giờ mới bắt đầu và chắc chắn là không hoàn thành được. Ban thanh tra huyện có nhiệm vụ quét sạch ra khỏi Đảng mọi phần tử sa đoạ, những bọn cơ hội đủ mọi màu sắc đã gây cản trở cho chúng ta trong công cuộc xây dựng vĩ đại của chúng ta, ban thanh tra nhất định sẽ có những kết luận của mình về trường hợp Nagunốp.

- Hết chưa? - Bí thư hỏi.

- Dạ, hết.

- Đến lượt đồng chí Nagunốp phát biểu. Đồng chí hãy kể rõ làm sao mà đồng chí đi tới nông nỗi ấy. Nói đi, Nagunốp.

Cơn giận ghê gớm, bừng bừng như lửa đốt trong lòng Nagunốp vào lúc Xamôkhin trình bày gần xong, bỗng ta biến đi đâu mất tăm, và thay vào đó là sự bối rối, lo sợ. "Họ sẽ làm gì mình? Sao lại thế được nhỉ? Họ muốn hại mình!". Anh hoang mang thoáng nghĩ như vậy, bước tới bên bàn. Những lời phản đối quyết liệt anh đã chuẩn bị trong lúc Xamôkhin nói, lúc này anh đã quên sạch. Đầu anh rỗng tuếch, tịnh không nảy ra một ý kiến. Đã xảy ra với Maka một cái gì đó không bình thường…

- Các đồng chí, tôi vào Đảng từ hồi cách mạng… Tôi đã vào Hồng quân…

Bí thư huyện uỷ sốt ruột ngắt lời anh:

- Cái ấy chúng tôi biết rồi. Nói thẳng vào đề đi!

- Tôi đã đánh nhau với bọn bạch vệ trên khắp các mặt trận… Và ở Binh đoàn kỵ binh số một… Tôi đã được huân chương…

- Nói vào vấn đề đi chứ!

- Thế đấy không phải vấn đề ư?

Chủ tịch huyện ngắt lời anh:

- Đừng loanh quanh nữa, Nagunốp! Bây giờ không phải lúc kể công.

- Thì để yên cho đồng chí ấy nói nào! Sao các anh cứ chặn họng người ta thế? - Balabin bất bình kêu thốt lên, cải đỉnh nhẵn bóng của cái đầu tròn xoe như hòn sỏi lập tức đỏ dừ lên như người sắp bị trúng phong.

- Nhưng                 phải nói vào cụ thể đi!

Nagunốp vẫn đứng nguyên như thế, bàn tay trái vẫn quắp chặt vào ngực, còn bàn tay phải thì từ từ đưa lên cổ họng khô rát. Mặt anh bệch đi và anh khó nhọc nói tiếp:

- Để tôi nói. Tôi không phải địch, sao đối với tôi lại như thế này? Tôi đi bộ đội bị thương… Bị chấn thương ở Kaxtornaia… Vì một quả trọng pháo trong đồn bắn ra… - Nói đến đấy anh im bặt, đôi môi thâm lại hổn hển đớp đớp không khí.

Balabin vội với lấy cái bình rót nước, đưa cốc cho anh mà mắt không nhìn anh.

Korghinxki liếc nhìn Nagunốp, quay vội ngay đi: bàn tay Nagunốp nắm chặt cái cốc đang run lên bần bật.

Trong không khí lặng ngắt nghe rõ tiếng cốc va lạch cạch vào răng Maka.

- Bình tĩnh lại nào, nói đi! - Balabin hậm hực bảo anh.

Korghinxki cau mặt lại. Một lòng thương hại bất ưng len lỏi vào trái tim anh ta, nhưng anh đã tự chủ lại được. Anh ta tin chắc như đinh đóng cột rằng Nagunốp có hại cho Đảng và không những phải đình chỉ công tác anh ta mà còn phải khai trừ ra khỏi Đảng nữa. Anh thống nhất quan điểm với mọi người, trừ Balabin.

Maka nốc một mạch cạn cốc nước; anh lấy lại hơi, nói tiếp:

- Tôi thừa nhận những điều đồng chí Xamôkhin nói. Đúng, những cái ấy tôi có làm. Nhưng không phải vì tôi muốn hại Đảng. Điều ấy, Xamôkhin nói điêu. Anh ta điêu như một con chó cái, kể cả về chuyện tôi sống bê tha. Toàn là bịa đặt! Tôi không thiết gì đàn bà, không hơi đâu nghĩ đến họ…

- Thế vì sao đồng chí lại đuổi vợ? - Trưởng ban tổ chức Khômutốp ác ý hỏi vặn.

- Chính là vì thế đấy, - Maka nghiêm nghị đáp. - Nhưng, tất cả những điều ấy, tôi đã làm… Tôi muốn làm lợi cho cách mạng. Có thể tôi đã có sai lầm… Tôi cũng chẳng rõ nữa. Các đồng chí được học hành, giỏi hơn tôi. Các đồng chí đã qua nhiều lớp, sáng suốt hơn tôi. Khuyết điểm của tôi, tôi không muốn làm giảm nhẹ. Các đồng chí xử thế nào thì tuỳ. Chỉ mong các đồng chí hiểu cho  một điều… - Một lần nữa anh lại như đứt hơi, giữa câu ngừng bặt, lặng đi  một phút. - Các anh em hiểu cho, tôi không có ý đồ gì xấu chống lại Đảng. Còn thằng Bannhích thì tôi đánh nó là vì nó nhạo báng Đảng ta và định đổ thóc giống cho lợn…

- Đấy là anh nói thế! - Xamôkhin chế giễu đế vào.

- Tôi nói điều có thật. cho đến bây giờ tôi vẫn tiếc sao không giết quách thằng Banhích ấy đi. Thôi, tôi nói thế thôi.

Korghinxki ngồi thẳng người lên. Chiếc ghế kêu có két dưới sức nặng của anh ta. Anh ta muốn mau mau chóng chóng kết thúc cái câu chuyện đau đầu này. Và hấp tấp nói:

- Thôi chứ. Các đồng chí, thế là rõ cả rồi. Chính Nagunốp đã thừa nhận. Tuy rằng về chi tiết đồng chí ấy có lảng tránh, thanh minh, nhưng những lời thanh minh ấy nghe không thuyết phục. Những người bị kỷ luật bao giờ cũng cố rũ bớt khuyết điểm của mình đi hoặc đổ trách nhiệm lên đầu người khác… Tôi cho rằng Nagunốp là một người đã phá hoại một cách xấu xa đường lối của Đảng trong phong trào tập thể hoá nông nghiệp, là một người cộng sản sa đoạ trong sinh hoạt, đáng phải kha-a-ai trừ ra khỏi Đảng! Chúng ta không cần xem đến thành tích cũ của Nagunốp, đó là giai đoạn đã qua rồi. Phải nghiêm trị, để làm gương cho người khác. Mọi kẻ nào định bôi nhọ Đảng và kéo Đảng sang tả hoặc hữu, chúng ta sẽ đánh không thương xót. Đối với Nagunốp và những người như anh ta, không nên dừng lại ở những biện pháp nửa vời. Chúng ta đã nói ngọt với anh ta nhiều rồi. Mới năm ngoái, trong thời gian tổ chức các tập đoàn sản xuất, anh ta đã tả khuynh, hồi ấy tôi đã ngăn ngừa trước anh ta. Nhưng một khi anh ta không muốn nghe thì anh ta cứ việc è cổ ra mà chịu! Thôi ta biểu quyết chứ? Ai tán thành khai trừ Nagunốp ra khỏi Đảng? Tất nhiên chỉ các đồng chí thường vụ biểu quyết thôi. Thế là bốn phiếu tán thành, phải không? Đồng chí không tán thành à, đồng chí Balabin?

Balabin đập bàn một cái. Những đường gân rối nhằng trên hai thái dương anh nổi phồng lên.

- Không những tôi không tán thành mà còn dứt khoát phản đối! Đó là một quyết định sai lầm đến tận gốc.

Korghinxki lạnh lùng nói:

- Đồng chí có thể bảo lưu ý kiến.

- Không, đồng chí cho phép tôi nói!

- Muộn rồi, đồng chí Balabin ạ. Quyết định khai trừ Nagunốp đã được thông qua bằng đa số.

- Đó là thái độ quan liêu trong cách xem xét con người! Tôi nói thư-ực đấy, chuyện này tôi không để yên đâu! Tôi sẽ viết thư lên khu uỷ! Khai trừ một đảng viên lâu năm, một người được thưởng huân chương Cờ đỏ… Các đồng chí hoá rồ cả rồi hay sao? Cứ làm như không còn hình thức kỷ luật nào khác vậy!

- Chuyện này, không có gì bàn cãi nữa. Biểu quyết rồi!

- Biểu quyết như vậy thì đáng đập vỡ mặt ra!... - Giọng Balabin chuyển thành một tiếng rít the thé, cái cổ nùng nục của anh phình ra đến nỗi tưởng như khẽ đụng ngón tay vào là máu phọt ra.

- Về chuyện mặt mũi thì anh nên ăn nói tử tế hơn một tí. - Trưởng ban tổ chức Khômutốp nói bằng một giọng xúc xiểm hằn học. - Chúng tôi có thể nhắc nhở cả anh nữa phải tôn trọng kỷ luật đấy. Đây không phải là ban công an, mà là huyện uỷ.

- Tôi không cần anh dạy! Thế tại sao các anh cấm tôi phát biểu?

- Bởi vì tôi cho việc ấy là thừa! - Korghinxki phát khùng lên, và cũng như Balabin, đỏ mặt tía tai, tay nắm chặt lấy thành ghế. - Ở đây tôi là bí thư huyện uỷ. Tôi không cho đồng chí nói nữa, và nếu muốn nói thì ra ngoài sân kia mà nói!

Chủ tịch huyện vội can người trưởng ban công an:

- Đừng nóng thế, Balabin! Việc gì mà đỏ mặt tía tai thế! Có ý kiến gì, đồng chí cứ viết lên khu đi, chứ đây thì biểu quyết xong rồi mà, khổ lắm, bây giờ đồng chí lại giơ đấm giơ đá lên sừng sộ.

Anh ta nắm cánh tay áo quân phục của Balabin kéo ra góc phòng, nói nhỏ cái gì.

Trong khi đó, Korghinxki cáu vì câu chuyện to tiếng với Balabin đưa mắt nhìn Maka một cái nhìn giận dữ long sòng sọc dưới đôi  mi tùm hụp, bảo anh bằng một giọng bây giờ thì hằn học ra mặt:

- Không có ý kiến gì nữa, Nagunốp! Theo nghị quyết của thường vụ, anh bị khai trừ ra khỏi hàng ngũ chúng tôi. Những người như anh Đảng không cần đến. Anh để thẻ Đảng lại đây! - Và bàn tay lông lá hung hung của anh ta đập xuống mặt bàn.

Nagunốp tái nhợt như người chết rồi. Toàn thân anh run bắn lên, và giọng anh thều thào hầu như nghe không rõ khi anh nói:

- Tôi không trả thẻ Đảng.

- Chúng tôi sẽ bắt anh phải trả.

- Lên khu đi, Nagunốp! - Balabin đứng trong góc quát ra, và bỏ dở câu chuyện đang nói với đồng chí chủ tịch, anh đi ra, đóng sầm cửa.

- Tôi không trả thẻ Đảng cho anh!... - Maka nhắc lại. Giọng anh rắn rỏi trở lại, và màu tái mét từ từ biến đi trên trán và trên đôi gò má cao của anh. - Đảng còn cần đến tôi… Và không có Đảng, tôi sống làm sao! Còn anh thì tôi không phục tùng!... Đây, thẻ Đảng ở túi ngực tôi đây… Anh thử lấy xem! Tôi cứ vặn cổ!...

- Bi kịch rồi đây! - Công tố uỷ viên nhún vai. - Thôi đừng hoá rồ như vậy, không nên…

Chẳng thèm để ý đến lời anh ta, Maka nhìn thẳng vào mặt Korghinxki, chậm rãi và dường như trầm ngâm nói:

- Không có Đảng thì tôi biết đi đâu? Và để làm gì? Không, tôi không trả lại thẻ Đảng! Tôi đã hiến tất cả đời tôi… tất cả… - Rồi bỗng anh rối rít lên chẳng đâu vào đâu và thiểu não như một ông già, đưa tay sờ soạng mặt bàn, lắp bắp câu nọ nhằng ra câu kia, hấp tấp và chẳng ra đầu đuôi mạch lạc gì. - Tốt hơn là anh cứ… bảo anh em… Thế thì cứ thủ tiêu tôi đi… Không còn gì nữa… Tôi cần gì đến đời tôi nữa nhỉ, tước nốt thẻ đời của tôi đi… Thế nghĩa là con chó Xéckô còn sủa, người ta còn cần đến nó… Nó già rồi, thì tống cổ nó đi…

Gương mặt Maka cứng đờ lại, như đắp bằng thạch cao, duy chỉ có đôi môi là run run mấp máy, nhưng anh nói đến câu cuối cùng thì từ trong đôi mắt ngây dại của anh, lần đầu tiên trong suốt cuộc đời đã dài của anh, nước mắt trào ra dàn dụa. Nó chảy xuống đầm đìa đôi má, đọng lại trong bộ râu cứng ráp lâu ngày chưa cạo, loang lổ thành những vết đen trên ngực áo.

Bí thư huyện uỷ nhăn mặt đau khổ:

- Thôi đi! Làm thế chẳng giải quyết được gì đâu, đồng chí ạ!

Nagunốp quát:

- Anh không phải đồng chí của tôi! Anh là một đồ lang sói! Và tất cả các anh toàn là đồ rắn độc! Các anh đã có chức có quyền! Các anh đã học được lối giỏi nói! Này, Khômutốp, việc gì mày phải giơ nanh ra với tao? Mày cười những giọt nước mắt của tao phải không? Mày!... Năm hai mươi mốt, khi thằng Phômin đem quân tràn vào khu ta, mày đã lên khu, có nhớ không? Có nhớ không, đồ chó cụp đuôi?... Mày lên khu, trả thẻ đảng viên, bảo là mày  muốn về làm ruộng… Mày hãi thằng Phômin! Chính vì thế mà mày tung hê thẻ đảng viên đi… rồi sau đó mày lại luồn lách vào Đảng, như một con chạch luồn bùn vậy!... Và bây giờ mày biểu quyết chống lại tao hả? Mày cười cái đau khổ chết người của tao hả?

- Thôi, Nagunốp ạ, đề nghị không nên quát tháo thế. Hội nghị còn nhiều vấn đề khác phải bàn. - Anh chàng Khômutốp đẹp trai, da ngăm đấu dịu đáp, không hề bối rối, miệng vẫn nhếch một nụ cười khuất sau bộ ria đen.

- Nói với các anh thế là đủ, nhưng tôi sẽ làm cho ra nhẽ! Tôi sẽ lên Ban chấp hành Trung ương!

Khômutốp cười khẩy:

- Ồ, cứ đi đi! Trên ấy mọi việc người ta giải quyết nhanh như chớp. Người ta đợi anh từ lâu rồi…

Maka lẳng lặng đi ra, va bốp thái dương vào khung cửa, rên lên một tiếng. Cơn giận vừa qua đã làm anh mệt lử. Anh bước đi vô tri vô giác ra tới cổng, tháo con ngựa buộc ở hàng rào ra, rồi không hiểu sao cầm cương dắt nó đi. Ra khỏi làng anh muốn lên ngựa nhưng không sao lên nổi: bốn lần anh đặt chân lên bàn đạp, bốn lần anh loạng choạng như say rượu, buông yên ra.

Bên ngôi nhà gianh cuối làng, một ông lão già rồi nhưng nom còn nhanh nhẹn, đang ngồi trên cái bệ đất. Ông lão ngước mắt nhìn lên từ dưới vành lưỡi trai nứt rạn của chiếc mũ kô-dắc, chăm chú theo rõi Maka đang cố nhảy lên mình ngựa, rồi mỉm cười động viên:

- Chú đại bàng non kia gớm không! Mặt trời mới tròn bóng mà đã không nhấc nổi chân lên kìa. Nhân dịp gì mà bảnh mắt ra đã luý tuý càn khôn thế? Hay hôm nay là ngày lễ gì hẳn?

Anh hàng xóm nhòm qua hàng dậu, réo sang ông lão:

- Ngày lễ đấy mà, cố Phêđốt ạ! Hôm nay là ngày lễ Thánh Nhậu nhẹt, rước đi một vòng các quán rượu đấy.

Ông lão cười nụ:

- Thảo nào! Lão xem ra không có ông tướng nào mạnh hơn ông tướng rượu vang, phải không nhỉ? Khéo con ngựa hất anh chàng lăn kềnh trên yên xuống mất! Cố lên, chú kô-dắc ơi!

Maka nghiến răng lại, và mũi giày vừa chạm bàn đạp anh đã bay lên yên ngựa như một con chim.

CHƯƠNG XXXIII

Sáng sớm hôm ấy có hai mươi ba xe từ bên ấp Iarxki đi sáng Grêmiatsi Lốc. Banhích gặp họ ở chỗ cối xay gió. Vai vắt sợi thừng, hắn ra thảo nguyên tìm con ngựa cái. Chiếc xe đi đầu tới ngang chỗ hắn.

- Chào các đồng bào kô-dắc!

Một anh chàng râu đen cầm cương mấy con ngựa cụt đuôi đáp:

- Lạy Chúa!

- Xe ở đâu đến đấy?

- Bên Iarxki đây.

- Sao ngựa bên các anh lại không có đuôi thế? Chặt đuôi chúng nó đi làm gì vậy?

- Brrr…, họ! Con nỡm này! Chặt đuôi rồi mà vẫn cứ động cỡn… Ông hỏi sao không có đuôi hả? Cắt đi nộp nhà nước rồi. Các ông bà tỉnh thành cần đuôi để xua ruồi mà… Có gì hút không, ông bạn phúc đức ơi! Đãi anh em một điếu, món thuốc hút bọn chúng tôi khan lắm.

Nói xong anh chàng kô-dắc nhảy trên xe xuống.

Các xe sau cũng chững lại. Banhích lấy làm tiếc là đã bắt chuyện với họ. Hắn miễn cưỡng móc túi lấy thuốc lá ra, mắt đã nhìn thấy có thêm năm người nữa bỏ xe đấy bước tới, vừa đi vừa xé giấy báo để cuốn thuốc.

- Các ông chơi nhẵn túi thuốc của anh em rồi. - Anh chàng kiệt xỉ Banhích rên lên.

- Bây giờ là nông trang, ông biết không? Mọi cái đều phải là của chung. - Anh chàng rậm râu nghiêm nghị nói, và coi túi thuốc cứ như của mình, nhúm lấy một nhúm to ra dáng.

Họ châm thuốc hút. Banhích đút vội túi thuốc vào túi quần sarôva, cười khẩy thương hại và khinh bỉ nhìn những đuôi ngựa cắt cụt đến tận sát khấu. Đám ruồi xuân đói máu lăn xả vào đàn ngựa, đậu lên những mảng sườn nhễ nhại mồ hôi và lên những đôi vai chai đi vì kiềng cổ. Mấy con ngựa theo thói quen vẫy vẫy đuôi xua ruồi, nhưng những mẩu đuôi cụt lủn, không còn lông nữa, nom dơ dáng, chẳng tác động gì đến bọn ruồi cả. Banhích hỏi xỏ:

- Con này nó lấy đuôi chỉ trỏ cái gì vậy?

- Vẫn trỏ mãi có một chỗ thôi: nông trang. Thế bên các anh không cắt à?

- Có, nhưng chỉ cắt hai vécsốc thôi.

- Đó là lệnh của ông chủ tịch Xôviết bên chúng tôi đấy, ông ta được thưởng, nhưng đến mùa ruồi thì lũ ngựa khốn nạn! Thôi, ta đi thôi chứ. Cảm ơn cái khoản thuốc. Làm được vài hơi mát cả lòng cả dạ chứ suốt dọc đường, thèm thuốc mà muốn hoá dại.

- Các anh đi đâu bây giờ?

- Sang Grêmiatsi.

- Vậy là sang bên chúng tôi. Có việc gì thế?

- Đi lấy thóc giống.

- … Thế là thế nào?

- Trên huyện lệnh cho sang bên các anh lấy thóc giống. Bốn trăm ba chục pút. Nào, đi thôi!

- Mình đã biết mà! - Banhích kêu thốt lên và tức tốc chạy về làng.

Đoàn xe làng Iarxki chưa kịp tới trụ sở nông trang thì nửa làng đã biết tin bên Iarxki sang lấy thóc giống. Banhích đã không tiếc đôi chân, chạy sục hết nhà này sang nhà khác, loan báo.

Thoạt tiên là đám đàn bà túm tụm lại trên các đường ngõ, mồm loa mép giải, om sòm, như những đàn chim đa đa bị náo động.

- Họ đến lấy thóc của ta, các bà chị ơi!

- Sẽ không còn lấy một hạt để gieo đâu!

- Khổ cái thân tôi không cơ chứ!

- Những người biết đã bảo chớ có dại đổ thóc kho công mà…

- Các lão ấy mà chịu nghe chúng mình thì đâu đến nỗi!

- Phải đi báo cáo các lão ấy để mà giữ thóc!

- Chị em ta ra mà giữ lấy cũng được! Đi thôi, các bà ơi. Lên kho! Kiếm lấy cái gậy, không cho đứa nào bén mảng sờ đến ổ khoá cả.

Rồi xuất hiện đám đàn ông. Và giữa họ quanh quẩn cũng ngần ấy lời đi tiếng lại. Từ ngõ này sang ngõ kia, đường này sang đường khác, họ dồn lại thành một đám khá đông kéo nhau ra sân kho.

Trong khi đó Đavưđốp đọc lướt qua thư của chủ tịch Nông hội huyện do bà con bên Iarxki mang đến. Thư viết:

"Đồng chí Đavưđốp, kho các đồng chí còn giữ 73 tạ thóc thuế tiểu mạch chưa nộp. Yêu cầu các đồng chí giao số thóc đó (tất cả 73 tạ) cho nông trang Iarxki. Nông trang ấy thiếu thóc giống. Tôi đã trao đổi và có sự đồng ý của Phòng lương thực rồi".

Đavưđốp đọc xong, cho lệnh giao thóc. Đám Iarxki đánh xe rời trụ sở nông trang ra sân kho, nhưng sắp tới thì bị dân đổ ra chặn đường. Khoảng hai trăm đàn bà, đàn ông vây lấy đoàn xe.

- Các anh đi đâu?

- Đến lấy thóc của người ta hả? Quỷ tha ma bắt các anh đi!

- Quay xe về!

- Không cho lấy!

Đemka Usakốp chạy bổ đi gọi Đavưđốp. Đavưđốp rảo cẳng chạy ra kho.

- Cái gì thế, đồng bào? Tụ tập lại làm gì thế này?

- Tại sao anh lại giao thóc của chúng tôi cho bên Iarxki? Chúng tôi đem thóc nhập kho để cho họ lấy à?

- Anh Đavưđốp, anh lấy quyền gì mà cho họ?

- Chúng tôi lấy gì mà gieo?

Đavưđốp leo lên thềm nhà kho gần đấy nhất, bình tĩnh giải thích rõ rằng anh giao thóc theo lệnh của Nông hội huyện và không phải là giao thóc giống mà là số thóc thuế còn thiếu.

- Đồng bào cứ yên tâm, thóc của chúng tôi còn nguyên. Mà bà con cũng không nên láng cháng ở đây cắn hạt quỳ, mà nên ra đồng làm đi thôi. Bà con nên nhớ là các đội trưởng sẽ ghi tên những ai không đi làm đấy. Ai vắng mặt, chúng tôi sẽ phạt.

Một số đàn ông bỏ đi. Nhiều người nghe Đavưđốp giải thích, yên chí ra đồng làm. Thủ kho bắt đầu trao thóc cho bên Iarxki. Đavưđốp quay về trụ sở. Nhưng nửa giờ sau, trong tâm trạng của đám đàn bà vẫn túc trực quanh kho thóc có một sự thay đổi ngoắt lại. Iakốp Lukits hùn thêm vào, rỉ tai mấy anh kô-dắc:

- Đavưđốp nói dối! Chở thóc giống đi đấy! Giữ lại đủ thóc cho nông trang gieo, còn thóc gieo của nông dân cá thể thì họ đưa cho nông trang Iarxki.

Các bà xôn xao lên. Banhích, Đêmít Miệng hến, ông lão Đônétxkốp và khoảng 3 chục anh kô-dắc nữa bàn bạc với nhau xong, tiến đến chỗ đặt cân.

Đônétxkốp thay mặt mọi người, tuyên bố:

- Chúng tôi không cho lấy thóc đâu.

Đemka Usakốp vặc lại:

- Ai cần xin phép anh!

Thế là bắt đầu đấu khẩu. Đám bên Iarxki ủng hộ Đemka. Chính cái anh chàng râu đen lúc nãy Banhích đãi thuốc lá, đứng cao lớn sừng sững trên xe chửi rủa năm phút rồi bắt đầu quát tháo:

- Thế ra các người phá hoại chính quyền hả? Các người cà khịa với chúng tôi cái gì? Giữa lúc thời vụ căng thẳng chúng tôi phải bỏ ra đi bốn mươi dặm đường, thế mà các người không chịu giao thóc chính phủ hả? Công an GPU đang hỏi thăm các người đấy! Lũ chó đẻ các người là cứ phải tống đi tù Xôlốpki mới biết thân! Cứ như con chó nằm đống rơm, nhá thì không nhá được, mà bò muốn ăn thì không cho! Các người đứng đây làm gì, sao không ra đồng làm? Hôm nay ngày lễ chắc?

- Mày muốn gì hả? Ngứa râu hẳn? Được, để chúng tao gãi cho!... Gì chứ cái ấy thì có ngay! - Anh Hai Akim, con lão Bexkhlépnốp gào lên, xắn tay áo, lên tới chỗ chiếc xe.

Anh chàng rậm râu bên Iarxki nhảy trên xe xuống. Anh ta chẳng buồn xắn tay chiếc áo nâu bạc phếch nữa, tống luôn cho anh Hai Akim một quả như trời giáng vào giữa quai hàm, làm Akim bay đi hai thước, xô giãn đám đông, hai tay khua lên như cánh quạt cối xay gió.

Bắt đầu một cuộc loạn đả lâu lắm không thấy có ở Grêmiatsi Lốc. Đám Iarxki bị một trận đòn đau, máu me đầm đìa, bỏ lại các bao thóc, nhảy lên xe, quất ngựa lao bừa qua đám các mụ đang chu tréo, chuồn thẳng.

Thế là một làn sóng phẫn nộ lan đi khắp Grêmiatsi Lốc. Người ta định tước của Đemka Usakốp chìa khoá kho thóc, nhưng Đemka khôn hồn nhân lúc đánh nhau lộn ẩu lỉnh qua đám đông, chạy về trụ sở.

- Giấu chìa khoá đi đâu bây giờ, đồng chí Đavưđốp ơi! Bên ta đánh bên Iarxki, chắc họ sắp kéo nhau đến đây bây giờ đây!

Đavưđốp bình tĩnh nói:

- Đưa đây cho tôi.

Anh cầm lấy khoá, đút túi, đi ra kho. Trong khi đó thì các mụ đã lôi được Anđrây Radơmiốtnốp ở trụ sở xôviết ra hò hét om sòm:

- Mít tinh đi!

- Các bà ơi! Các thím, các mẹ, các em ơi! Không mít tinh gì cả! Bây giờ là phải gieo hạt, chứ đâu phải lúc mít tinh! Mít tinh làm gì mới được chứ? Mít tinh là cái tiếng con nhà binh đấy. Trước khi mở miệng nói đến tiếng ấy, phải qua ba năm chui rúc hầm hố chiến hào đã! Phải ra trận, nuôi béo chấy rận đã rồi hãy nói đến tiếng mít tinh! - Radơmiốtnốp cố lý lẽ giải thích cho đám đàn bà.

Nhưng họ chẳng thèm nghe; họ túm lấy quần sarôva của anh, túm cánh tay, túm vạt áo lôi anh xềnh xệch đến trường học, la lối lên:

- Bà thiết gì chui rúc hầm hố!

- Ai thiết gì ra trận!

- Tuyên bố khai mạc mít tinh đi, không thì các bà khai lấy đấy!

- Thằng chó đẻ, nó nói láo chứ sao lại không mít tinh được? Mày là chủ tịch, mày làm được!

Anđrây đẩy các mụ ra, bịt tai lại, gào lên cố át tiếng la ó của họ:

- Các bà hãy im đi đã! Mít tinh về việc gì cơ chứ?

- Việc thóc! Chúng tôi muốn nói chuyện với các anh về việc thóc!

… Rốt cuộc Radơmiốtnốp đã bắt buộc phải tuyên bố:

- Tôi tuyên bố khai mạc.

Mụ goá Ekachêrina Guliatsaia lên tiếng:

- Tôi có ý kiến!

- Thì nói đi, đồ quỷ liếm!...

- Này anh chủ tịch, đừng giơ ma quỷ ra với tôi! Không thì tôi cho anh đi đời nhà ma đấy… Ai cho phép các anh đưa thóc của chúng tôi đi đâu? Ai lệnh giao thóc cho bên Iarxki, và để làm gì?

Nói xong, mụ Guliatsaia chống nạnh, ưỡn ngực đợi trả lời.

Anđrây xua mụ như xua một con ruồi quấy dai.

- Chuyện này đồng chí Đavưđốp có đầy đủ thẩm quyền đã giải thích các bà rõ rồi. Còn tôi, tôi khai mạc họp không phải để nói những chuyện dấm dớ ấy, mà là vì… - Anđrây thở dài, đồng bào thân mến ạ, ta phải dốc toàn lực ra mà diệt chuột đồng…

Mưu mẹo của Anđrây không đạt kết quả.

- Chuyện chuột đồng lôi thôi gì vào đây!

- Ai thèm nói chuyện chuột đồng!

- Trả thóc chúng tôi đây!

- Cái lão bẻm mép kia, bôi vôi vào mép anh! Lại lái sang chuyện chuột đồng! Thế chuyện thóc để ai nói?

- Chuyện ấy có gì mà nói!

- Ha-a-ả? Không có gì nói hả? Trả thóc đi!

Các bà, dẫn đầu là mụ Guliatsaia tiến sát đến sân khấu. Anđrây đứng bên cái lêu vách tôn của người nhắc kịch. Anh nhìn đám đàn bà với một nụ cười chế giễu, nhưng trong bụng cũng lo lo: cánh đàn ông kô-dắc đứng đằng sau đám khăn vuông phụ nữ lố nhố như một vườn hoa cúc trắng, nom vẻ cứ lừ lừ đáng ngại.

- Nhà anh mùa hè cũng như mùa đông, quanh năm diện ủng còn chúng tôi thì làm bán xác không mua nổi đôi giày!

- Người ta là ông chính uỷ rồi mà!

- Này, diện quần sarôva thằng chồng mụ Marina đã lâu chưa đấy!

- Nó ăn béo trương béo nứt.

- Lột hắn ra, các bà ơi!

Tiếng la ó  rộ lên như đạn bắn loạn xạ. và ba chục mụ đứng xúm lại ngay sát sân khấu. Anđrây cố lập lại trật tự mà không được: tiếng anh nói bị át đi.

- Lột ủng hắn ra! Các bà ơi, chờ gì nữa!

Lập tức một lô cánh tay với lên sân khấu. Họ túm lấy cẳng trái Anđrây. Anh bám chặt vào vách lều người nhắc kịch, giận tái mặt, nhưng họ đã giật được một bên ủng của anh, quẳng xuống cuối phòng. Bao nhiêu bàn tay giơ lên vớ lấy chiếc ủng ném ra ngoài xa. Lan ra một tiếng cười ác cảm hằn học. Từ những cuối cất lên những giọng đàn ông hùn vào:

- Lột giày hắn ra!

- Cho nó tồng ngồng chạy nhông đi!...

- Rút nốt chiếc kia ra!...

- Nào, các bà ơi! Đè con lợn này ra!...

Thế là chiếc ủng kia của Anđrây cũng bị lột nốt. Anđrây lắc lắc chân, rũ xà cạp ra, gào lên:

- Đây cho nốt cái xà cạp này! Cầm về! Làm khăn chùi mép được đấy!

Mấy anh chàng thanh niên chen vội tới sân khấu. Một anh, là anh nông dân cá thể Êphim Tơrubatsép, con một lão ataman (*), vóc người cao lớn, đẩy rãn các mụ ra, bước lên sân khấu. Anh ta mỉm cười, hổn hển nói:

- Xà cạp của anh chúng tôi không cần, nhưng cái quần sarôva của anh kia kìa, anh chủ tịch ạ, thì chúng tôi lột đấy…

Một anh chàng khác, trẻ và nhỏ người hơn nhưng nom cà lơ, anh chị hơn, trâng tráo lý sự:

- Anh em đang thiếu quần ghê lắm! Dân nghèo cái quần chả có, và chẳng vớ được cái nào của kulắc cả.

Anh chàng ấy, biệt hiệu là Đưmốc (**), có bộ tóc quăn tít hiếm thấy. mái tóc màu xám khói, quăn như lông cừu của hắn dường như cả đời chưa biết mùi lược; nó thòi ra dưới vành mũ kêpi kô-dắc tàng tàng của hắn thành từng mớ loăn xoăn, vô trật tự. Ông bố của Đưmốc đã tử trận trong cuộc chiến tranh Nga - Đức, còn mẹ thì chết vì bênh thương hàn. Thằng bé Đưmốc đã được một bà cô nuôi nấng. Còn bé nó đã lẻn vào vườn rau nhà người ta ăn cắp dưa chuột và củ cải, vào vườn cây ăn quả bẻ trộm anh đào và táo, còn dưa bở ngoài ruộng thì nó vác đi hàng bao tải. Lớn lên, nó chuyên môn làm hại đời các cô gái làng, và về khoa ấy hắn khét tiếng thành tích bất hảo đến nỗi không  một bà mẹ nào ở Grêmiatsi có con gái lớn lại có thể thản nhiên nhìn hắn, nhìn cái dáng người nhỏ nhưng cân đối như dáng chim ưng của hắn. Các bà nhìn, rồi y như rằng nhổ toẹt một bãi, và rít lên:

- Thằng quỷ sứ mắt trắng dã đã lượn rồi đấy! Chạy nhông khắp làng cứ như chó dái…

Và mắng con gái:

- Này, con kia, làm sao mắt mày cứ long lên sòng sọc thế? Mày thập thò ra cửa sổ làm gì? Cứ mang bụng về đây xem thử, bà thì bóp chết tươi! Kéo một bao phân khô ra đây cho tao chất bếp, con ranh ạ, rồi ra dắt bò về!

Trong khi đó thì Đưmốc cứ men theo hàng dậu, chân đi đôi giày rách bước êm như bước chân thú rừng, miệng khe khẽ huýt sáo, và từ dưới hai hàng mi cong, con mắt nó kiểm soát các cửa sổ, các sân nhà. Và chỉ cần thấp thoáng đâu đó một bóng khăn vuông con gái, thế là cái anh chàng Đưmốc nom uể oải lóng ngóng kia thay hình đổi dạng đi ngay tức khắc. Nó quay ngoắt đầu lại, nhanh và nhằm đúng hướng như con chim ưng săn mồi, và ưỡn thẳng người lên. Nhưng không có một vẻ gì là thú dữ lộ ra trong đôi mắt trắng dã của hắn cả, mà là một vẻ dịu dàng, trìu mến vô biên; thậm chí lúc ấy, đôi mắt Đưmốc dường như thay đổi cả màu sắc đi, trở thành xanh thẳm như nền trời tháng Bảy.

- Phếkchiuska! Bông hoa thắm của anh! Xẩm tối hôm nay anh sẽ đến chỗ đằng sau nhà. Đêm nay em ngủ ở chỗ nào đấy?

- Ô hay, cái anh này độc ăn nói vớ vẩn! – Cô gái vừa bỏ chạy vừa đáp lại bằng một giọng nghiêm nghị, đoan trang.

Đưmốc mỉm một nụ cười đi guốc vào bụng nhau, nhìn theo bóng cô gái, rồi cũng bỏ đi. Xẩm chiều, hắn ở quanh sân kho tập thể, kéo cây đàn phong cầm của anh bạn thân bị đi đày của hắn là Chimôphây con lão Mũi toác. Nhưng bóng tối xanh lam vừa mới giăng lên vườn tược và các lùm cây, tiếng người lao xao và tiếng súc vật rống chưa lắng đi hẳn, Đưmốc đã từ từ theo con đường dẫn tới nhà Phếkchiuska. Và cao cao bên trên đỉnh những cây phong đang thì thầm buồn bã, bên trên xóm làng lặng ngắt, chị Hằng đang tha thẩn, cô đơn và mặt cũng tròn vành vạnh như anh chàng Đưmốc kia.

Đưmốc không phải chỉ lấy gái làm niềm an ủi duy nhất trên đời: hắn thích cả rượu vốtka, và thích hơn thế nữa là thích đánh lộn. Đâu có đánh lộn, đó có Đưmốc. Thoạt tiên, hắn đứng xem, hai hay nắm chặt chắp sau lưng, cổ rụt lại. Sau đó hai đầu gối hắn bắt đầu run bần bật lên từng lúc, rồi cái run ấy trở thành không kìm chế được. Và Đưmốc không còn sức cưỡng lại cái máu hăng thôi thúc hắn, bước luôn vào vòng chiến. Cho đến năm hai mươi tuổi, hắn đã kịp bị đánh rụng nửa tá răng. Nhiều lần hắn bị đánh hộc máu mồm máu mũi. Hắn bị đánh vì tội lơn gái, vì tội cứ can thiệp vào các đám cãi nhau kết thúc bằng thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Đưmốc ho lụ khụ, khạc ra máu, nằm đến một tháng trên trốc lò sưởi nhà bà cô, lúc nào cũng thấy mếu máo. Rồi sau đó hắn lại xuất hiện trong các đám vui chơi, đôi mắt xanh của hắn lại càng long lanh một khát vọng không được thoả mãn, ngón tay hắn càng nhảy nhót thoăn thoắt hơn trên hai hàng phím cây đàn phong cầm. Duy chỉ có giọng nói hắn sau cơn bệnh có trầm xuống và rè rè, như tiếng thở dài của buồng hơi đã tã một cây phong cầm cũ kỹ.

Kết liễu được đời Đưmốc là một việc khó: hắn sống dai như mèo. Hắn đã bị khai trừ khỏi đoàn Kômxômôn, đưa ra toàn vì tội lưu manh và đốt nhà. Đã nhiều lần Anđrây cho bắt hắn vì những tội bậy bạ của hắn, giam suốt đêm trong nhà để xe của trụ sở xôviết. Đưmốc để bụng thù anh từ lâu rồi, và thế là giờ đây, coi lúc này là thời cơ ngàn năm có một để tính sổ với anh, hắn bước lên sân khấu định thanh toán món nợ…

Hắn tiến mỗi lúc một tới gần Anđrây hơn. Đầu gối hắn rung lên, do đó nom hắn như đang nhún nhảy một điệu vũ.

Đưmốc thở hắt ra một giọng oang oang:

- Đưa quần đây… Thế nào, cởi ra, mau!...

Đám đàn bà đã tràn lên đầy sân khấu. Đám đông nghều ngoào hàng trăm bàn tay một lần nữa lại vây lấy Anđrây, thở vào mặt và vào gáy anh nóng hầm hập, thành một vòng vây không có kẽ hở.

Radơmiốtnốp quát:

- Tôi là chủ tịch! Xúc phạm đến tôi là xúc phạm đến Chính quyền xôviết! Rãn ra! Tôi không cho phép ai được động đến thóc cả! Cuộc họp bế mạc!...

- Chúng tao cứ lấy!

- Ha ha! Bế mạc!

- Thì chúng tao khai mạc!

- Đi tìm thằng Đavưđốp nữa, sửa cho cả thằng ấy một trận!

- Đi, diễu hành lên ban quản trị!

- Phải giam thằng Radơmiốtnốp lại chứ!

- Đánh nó đi, anh em ơi!

- Còn nể nang gì nó nữa hả?

- Nó chống lại Xtalin!

- Giam nó vào!

Một mụ đứng sau lưng Radơmiốtnốp giật lấy tấm khăn trải bàn chủ tịch bằng xa tanh đỏ, chụp lấy đầu anh. Trong lúc anh đang giãy giụa cố giằng cái khăn hôi mùi mực và mùi bụi mốc ra thì Đưmốc chẳng cần vung tay lấy đà, thoi cho anh một quả vào mạng mỡ.

Gỡ thoát được cái đầu, vừa đau, vừa điên tiết lên, Anđrây thở hổn hển rút súng lục trong túi ra. Đám đàn bà kêu rú, dạt sang bên, nhưng Đưmốc, Êphim Tơrunatsép và hai anh chàng kô-dắc nữa đã len được đến sân khấu túm lấy tay anh, tước luôn vũ khí.

- Thằng này định bắn vào nhân dân! Quân chó đẻ! - Tơrubatsép đắc chí hét lên, tay hoa trên đầu khẩu súng ổ đạn rỗng không, không có lấy một viên đạn…

Đavưđốp chột dạ chậm bước lại khi nghe thấy tiếng la ó nhao nhao đầy vẻ đe doạ vang lên từ phía sân kho lại. Tiếng đàn bà the thé vút lên, át cả những giọng đàn ông ồm ồm. "A-ia-ia-ia-ia!" Nó nổi bật lên giữa tiếng nhao nhao chung chẳng khác gì tiếng sủa nấc lồng lộn của con chó săn cái nổi bật lên giữa tiếng sủa chung của bầy chó rượt theo lốt chân còn nóng hổi của con thú trong cánh rừng thu dưới sương giá đầu mùa.

"Phải cho gọi đội hai về, không họ tẩu tán hết thóc mất". Đavưđốp nghĩ bụng như vậy. Anh quyết định quay trở lại trụ sở, tìm chỗ nào giấu chùm chìa khoá kho thóc. Đemka Usakốp đang đứng hoang mang bên cổng.

- Tôi chuồn đây, đồng chí Đavưđốp ạ. Họ dám chơi tôi lắm, để lấy chùm chìa khoá.

- Tuỳ cậu. Naiđênốp đâu?

- Cậu ấy ở đội hai.

- Đội hai có ai ở đây không?

- Có Kônđrát Maiđanhikốp.

- Hắn ta đâu? Hắn lên đây làm gì?

- Cậu ấy lên lĩnh thóc giống. Ờ mà cậu ấy đang chạy đến kia kìa!

Maiđanhikốp rảo cẳng bước tới. Từ xa anh ta đã hoa roi ngựa, kêu ầm lên:

- Đám họ bắt giam Anđrây Radơmiốtnốp rồi! Nhốt dưới hầm, và bây giờ đang kéo nhau ra kho. Tránh đi, đồng chí Đavưđốp, không thì mang vạ vào thân đấy… Họ hoá rồ háo dại ráo cả rồi!

- Tôi không trốn đi đâu cả! Cậu điên à? Cậu cầm lấy chìa khoá kho thóc chạy về đội, báo cho Liubiskin cho ngay mười lăm anh em phóng ngựa về đây ngay lập tức. Cậu thấy đấy, ở ta đây… họ bắt đầu làm loạn. Mình không muốn phiền đến trên huyện, tự ta giải quyết lấy cũng được. Cậu đi gì đấy?

- Đi xe.

- Tháo lấy một con ngựa, nhảy phốc lên mà vù đi!

- Xong ngay! - Maiđanhikốp đút chùm chìa khoá vào túi, chạy theo lối ngõ.

Đavưđốp lững thững đi ra nhà kho. Trong khi chờ anh đến, đám đông đã nguôi đi phần nào. "Thằng giặc đến kia rồi". Một mụ nào chẳng rõ hét lên như điên, chỉ Đavưđốp. Nhưng anh chẳng vội, dừng lại châm thuốc hút, quay lưng che gió, đánh diêm, cố tình cho mọi người trông thấy.

- Lại đây, lại đây! Rồi tha hồ hút!

- Xuống âm phủ mà hút!

- Cầm chìa khoá đấy không?

- Dứt khoát là nó cầm! Biết thân phận thì bỏ ra!

Miệng phì phèo thuốc lá, tay đút túi quần, Đavưđốp bước tới đám người đứng hàng đầu. Vẻ bình tĩnh tự tin của anh đã tác động đến đám đông theo hai hướng khác nhau: một số cảm thấy trong thái độ tự tin ấy cái ý thức của Đavưđốp biết rõ sức mạnh và ưu thế thuộc về mình, một số khác trước thái độ bình tĩnh của anh lại càng điên lên. Tiếng la ó nổi lên như mưa đá rơi xuống mái tôn:

- Bỏ chìa khoá đây!

- Giải tán nông trang!

- Cuốn xéo đi! Ai mời mày về làng này?!

- Trả thóc giống đây!

- Cớ sao không cho chúng tao gieo?

Ngọn gió nhẹ thổi phất phơ những tà khăn vuông, lay xào xạc những cành sậy trên mái nhà kho, đưa từ ngoài thảo nguyên về cái mùi lờn lợt của đất đang ráo và hương thơm ngây ngất của cỏ non. Mầm nụ cây dương toả ra một hương mật ngọt sắc đến nỗi khi mở miệng nói, Đavưđốp có cảm giác như môi mình dinh dính, thậm chí khi lưỡi chạm vào thành miệng thì thấy như miệng ngọt vị mật.

- Thế nào, đồng bào? Đồng bào định thôi không tuân lệnh Chính quyền xôviết nữa đấy phỏng? Cớ làm sao đồng bào không chịu giao thóc giống cho bên nông trang Iarxki? Đồng bào không biết là chuyện này có thể bị truy tố ra toà coi như phá hoại vụ gieo xuân hay sao? Thực tế sẽ như thế đấy! Chuyện này Chính quyền xôviết sẽ không dung tha đâu!

- Chính quyền xôviết nhà anh, chúng tôi đã giam cố nó lại rồi! Nó đang ngồi dưới hầm đằng kia kìa, như cô gái cấm cung! - Anh nông dân cá thể Mirôn Đôbrôđêép, một anh kô-dắc lùn tịt chân cà nhắc, ám chỉ chuyện họ đã bắt Radơmiốtnốp.

Một tiếng ai cười. Nhưng Banhích tiến xấn lên, hầm hầm quát tháo:

- Chính quyền xôviết đâu có cho phép các anh giở những trò ấy! Cái chính quyền xôviết như cuả anh với thằng Maka Nagunốp bày đặt ra thì chúng tôi không phục tùng! Kiểu gì mà lại ngăn cản nhà nông gieo! Lối đâu như vậy? Thế là xuyên tạc đường lối của Đảng!

- Chúng tôi ngăn cản anh gieo bao giờ?

- Lại còn không ngăn!

- Anh có nhập thóc giống vào kho công không?

- Sao lại không?

- Anh đã được trả lại chưa?

- Rồi. Sao nữa?

- Vậy thì ai cấm anh gieo? Anh láng cháng quanh kho đây làm gì?

Banhích luống cuống vì câu hỏi vặn bất ngờ nhưng vẫn cố chống chế:

- Tôi ức không phải cho tôi, mà cho những người đã ra nông trang rồi mà các anh vẫn không chịu trả người ta thóc giống và tài sản. Nói là chuyện ấy đấy! Còn như tôi thì các anh cắt cho miếng đất như thế có coi được không? Xa tít mù tắp.

Đavưđốp không nén được nữa.

- Xéo ngay đi cho được việc! Anh thì chúng tôi sẽ nói chuyện với anh sau, thực tế thế! Anh đừng có chõ mõm vào công việc nông trang, không thì chúng tôi xé xác ra đấy! Anh định xúi giục bà con đây hả? Có xéo không thì bảo?

Banhích rút lui, miệng lầm bầm một câu doạ dẫm, nhưng đám đàn bà nhất loạt sấn lên thế chân hắn. Các mụ đồng thanh lu loa om sòm, không để Đavưđốp xen vào được một câu. Anh cố kéo dài thời gian, đợi Liubiskin dẫn anh em trong đội về, nhưng các mụ ỷ thế có đám đàn ông đứng sau im lặng đồng tình, vây lấy anh vòng trong vòng ngoài, hét đinh tai váng óc.

Đavưđốp đưa mắt nhìn quanh, thoáng thấy Marina Pôiarkôva. Mụ đứng xa xa, hai cánh tay chắc nịch xắn tới khuỷu khoanh trước ngực, đang hăng tiết nói năng gì với mấy mụ khác, đôi lông mày đen nhánh nhíu cau lại gần liền tịt trên sống mũi. Đavưđốp bắt gặp một ánh mắt hằn học của mụ, và hầu như liền đó trông thấy Iakốp Lukits đứng bên mụ, vẻ xúc động, miệng nhếch lên một cái cười chờ đợi và đang rỉ tai điều gì với Đêmít Miệng hến.

- Bỏ chìa khoá đây! Yên lành tử tế đưa ra đi, nghe chửa?

Một mụ túm lấy vai Đavưđốp, thọc tay vào túi quần anh.

Đavưđốp đẩy mụ một cái thật lực. Mụ lùi lại, ngã lăn chiêng, lu loa ăn vạ:

- Ối, nó giết người! Làng nước ơi, cứu tôi với!…

Một giọng nam cao run run của ai cất lên phía cuối đám đông:

- Thế là cái gì? Nó lại giở lối vũ phu hả? Anh em ơi, tẩn cho thằng này một trận, cho nó hộc máu mũi ra!...

Đavưđốp bước tới, định đỡ mụ kia dậy, nhưng một đòn làm chiếc mũ cátkét cuả anh bay vèo xuống đất, rồi anh bị đấm tới tấp vào mặt, vào lưng, và cánh tay bị túm chặt. Anh hẩy vai, xô dãn các mụ ra, nhưng rồi các mụ lại hò la xông vào bâu lấy anh, xé cổ áo anh rách toạc, lục lọi và lộn trái hết túi quần túi áo anh ra nhanh như chớp.

- Không thấy chìa khoá!

- Chìa khoá đâu?...

- Bỏ chìa khoá đây, không chúng tôi phá cửa đấy!

Một mụ già nom vĩ đại, mẹ sinh ra Mikhain Igơnachênốc, thở hổn hà hổn hển lách tới trước Đavưđốp, văng ra một câu đáo để, rồi nhổ toẹt một bãi vào giữa mặt anh:

- Này, thằng ranh con Xatăng, quân vô đạo!

Đavưđốp giận tái xanh tái xám, lấy hết sức cố vùng ra, nhưng không được: chắc hẳn phải có một tay nam giới nào đã tới giúp sức các mụ. Những ngón tay chai cứng và khoẻ kẹp chặt lấy cánh khuỷu anh từ phía đằng sau, như những gọng kìm sắt. Đến lúc ấy Đavưđốp mới chịu, không giãy giụa nữa. Anh hiểu câu chuyện đã đi quá xa và không một ai trong những người có mặt tại đây bênh vực anh cả. Anh quyết định xoay kế khác.

- Đồng bào ơi, tôi không giữ chìa khoá kho mà! Chìa khoá để ở… - Đavưđốp nói đến đây bỗng ngừng bặt. Anh định nói chìa khoá không để ở nhà anh, nhưng chợt nghĩ ra là nói như vậy thì không ổn. Đám này sẽ bổ đi tìm Đemka Usakốp, thế nào cũng sẽ tìm ra, và Đemka Usakốp sẽ ốm đòn: họ đánh chết chứ chẳng bỡn. "Mình sẽ bảo chìa khoá mình để ở nhà, nếu họ dắt mình về, mình tìm rồi bảo rơi đâu mất rồi. Kéo dài thời gian cho Liubiskin kịp dẫn anh em tới. Còn như họ giết mình thì chả chắc họ đã làm. Chà, quỷ tha ma bắt lũ này đi!" Anh lẳng lặng đưa  vai lên quệt máu trên má bị cào toạc, rồi nói:

- Chìa khoá tôi để ở nhà, nhưng tôi không đưa cho các bà đâu. Còn như các bà mà phá cửa thì sẽ rắc rối to cho các bà đấy! Tôi báo trước cho các bà biết thế!

Mụ mẹ Igơnachênốc thúc:

- Dẫn chúng tao về nhà mày! Bà sẽ về tận nhà mày lấy chìa khoá.

Mụ điên đến nỗi đôi má chảy xệ và cái mụn cóc to tướng trên mũi cứ rung rung, và mồ hôi chảy ròng ròng trên khuôn mặt răn rúm của mụ. Mụ là người đầu tiên đẩy Đavưđốp đi. Đavưđốp cũng chịu đi, nhưng chỉ lững thững bước một dẫn họ về nhà mình.

Mụ Ápđôchia, vợ Banhích, tra khảo:

- Nhưng chìa khoá có đúng ở nhà mày thật không? Hay lãi lú lẫn để đâu mất rồi?

- Đúng mà, đúng mà, bà chị ơi! - Đavưđốp quả quyết, đầu cúi xuống giấu một nụ cười.

Bốn mụ giữ chặt hai cánh khuỷu anh, mụ thứ năm đi đằng sau, tay nắm khư khư một cọc giậu to ra dáng; mụ già Igơnachênốc đi bên phải anh, toàn thân rung lên bần bật và bước huỳnh huỵch như đàn ông, còn phía bên trái là các mụ lốc nhốc kéo nhau đi từng tốp. Đám đàn ông ở lại sân kho đợi chìa khoá.

Đavưđốp yêu cầu:

- Thím ơi, cứ buông tay tôi ra. Tôi không chạy đâu mà sợ.

- Buông ra để mày chạy đằng thổ tả nhà mày à?

- Đã bảo không chạy mà!

- Cứ đi như thế này chúng tao mới yên chí.

Họ về tới nhà Đavưđốp. Xô đổ hàng giậu và cánh cổng ghép bằng cành, họ ùa vào sân.

- Vào lấy chìa khoá! Mày mà không mang ra đây bà sẽ gọi ngay các ông ấy để họ xúm vào đánh lộn mề mày ra!

- Chà, các thím ơi, sao các thím đã vội quên Chính quyền xôviết thế vậy. Tội này Chính quyền xôviết không bỏ qua cho các thím đâu!

- Một liều ba bảy cũng liều! Không có gì gieo, đến mùa thu chết đói nhăn răng, hay là ra toà bây giờ thì đằng nào cũng vậy! Đi, có mau lên không!

Đavưđốp bước vào phòng mình; biết các mụ để ý theo dõi, anh làm ra vẻ lục lọi tìm kỹ lắm. Anh bới trong vali, bới tung giấy má trên bàn, chui xuống gầm giường, gầm chiếc bàn khập khiễng…

Anh trở ra hiên, nói:

- Không có đây.

- Thế đâu?

- Chắc là ở nhà Nagunốp.

- Nó đi vắng cơ mà!

- Có sao đâu! Anh ta đi vắng, nhưng chìa khoá thì có thể để lại nhà lắm chứ. Và chắc là để nhà thôi. Hôm nay chúng tôi phải giao thóc cho đội hai mà.

Họ lôi anh đến nhà Nagunốp. Dọc đường, họ bắt đầu đánh đập anh. Thoạt tiên cũng chỉ xô đẩy, chửi bới thôi, nhưng về sau thấy anh cứ ăn nói ỡm ờ, các mụ sôi tiết lên, nện anh đến nơi đến chốn.

- Các bà các chị ơi! Bà con chị em quan tâm đến tôi thế này cũng được thôi, nhưng đừng đánh bằng gậy! - Miệng anh van còn tay anh thì véo mấy bà đi gần bên anh, và đầu anh rụt lại, cố gượng cười.

Các mụ thẳng tay đấm thùm thụp vào tấm lưng rộng cúi lom khom của anh, nhưng anh chỉ thỉnh thoảng khẽ kêu, lắc vai, và đau thì đau vẫn cố pha trò:

- Này bà ơi! Bà xuống lỗ đến nơi rồi mà còn đấm khoẻ thế! Để tôi đấm thử bà một cái xem sao nhá?

- Thằng mặt sứa gan lim! Trơ như đá! - Cô Naxchia Đônétxkôva trẻ măng tru tréo, muốn phát khóc lên, giơ hai nắm tay nhỏ xíu nhưng chắc nịch ra công giã giò vào lưng Đavưđốp: - Đấm sái cả tay mà nó vẫn cứ như không!...

- Đánh gậy là không được đâu đấy! - Đavưđốp chỉ có một lần nghiêm giọng, nghiến răng lại lẩm bẩm như vậy và giằng lấy cái cọc giậu bằng cành liễu khô ở tay một mụ nào tỳ vào đầu gối bẻ gãy đôi.

Họ đánh anh xẻ tai bật máu, đánh anh dập môi, dập mũi nhưng đôi môi sưng vều của anh vẫn mỉm cười, để hở ra chiếc răng cửa sứt. Anh từ tốn và nhẹ nhàng đẩy dãn ra những mụ nào đặc biệt hung hãn. Mẹ già Igơnachênốc với cái mụn cóc nhảy tưng tưng trên mũi một cách giận dữ, sấn sổ bám riết lấy anh. Mụ đánh ác, nhằm vào sống mũi hoặc vào thái dương, và không thụi như người khác mà dùng quả đấm với những ngón tay xương xẩu nắm chặt lại mà nện. Đavưđốp vừa đi vừa cố xoay lưng ra đỡ đòn mụ mà không được với mụ. Mụ sùi bọt mép, đẩy dãn các mụ khác ra, chạy tới trước mặt anh, rít lên:

- Xê ra, để tôi đập vào cái mặt nó! Đập vỡ mặt nó ra!

"Đư-ư-ược, đợi đấy, đồ cóc chết! - Đavưđốp giận tái người, né tránh đòn mụ, nghị thầm trong bụng. - Ló bóng Liubiskin là tao sẽ cho mày một cú thấy ông bà ông vải!"

Nhưng mãi vẫn chẳng thấy Liubiskin dẫn anh em cưỡi ngựa về. Họ đã đi gần đến nhà Nagunốp. Lần này các mụ theo gót Đavưđốp kéo vào nhà. Các mụ lục tung tất cả, vứt bừa bãi giấy tờ, sách vở, quần áo, vào cả gian bà chủ nhà để tìm chìa khoá. Tất nhiên là họ không tìm thấy. Họ đẩy Đavưđốp ra hiên.

- Chìa khoá đâu? Không bà đánh chết!

Đavưđốp chợt nhớ có trông thấy lão quản lý đứng trong đám đông ở sân kho miệng cười khẩy. Anh liền trả lời:

- Chìa khoá Ôxtơrốpnốp cầm.

- Nói láo! Bà đã hỏi lão ấy rồi! Lão ấy bảo đúng là mày cầm…

Đavưđốp đưa ngón tay lên nắm nắm cái mũi sưng vù, khẽ cười:

- Bà con chị em ơi! Bà con đánh đập tôi oan quá… Chìa khoá tôi để trong ngăn kéo bàn, ở trụ sở ấy, thực tế thế. Đúng rồi, bây giờ tôi mới nhớ ra.

Ekachêrina Guliatsaia ở sân kho vừa chạy đến, rít lên:

- Mày lỡm chúng tao đấy phỏng?

- Thì cứ dẫn tôi về trụ sở. Tôi nỡm làm gì? Nhưng đề nghị thôi, không được giở cái lối quân sự với tôi nữa đấy!

Đavưđốp bước xuống thềm. Anh khát khô cả cổ và trong bụng điên lên vì bất lực. Đời anh đã nhiều lần bị đánh đập, nhưng bị đàn bà con gái đánh thì đây là lần đầu tiên, và chính vì thế mà anh cảm thấy nó làm sao ấy. "Miễn sao đừng kềnh. Kềnh ra đây, họ điên lên, đánh chết mất. Chết thế này thì thật lẩm cẩm quá, thực tế thế!". Anh nghĩ bụng, mắt hy vọng ngước lên phía ngọn đồi xa xa. Nhưng chẳng thấy lấy một đám bụi do vó ngựa bốc lên trên đường cái, chẳng thấy bóng dáng anh em cưỡi ngựa dàn thành đội hình tấn công đâu cả. Ngọn đồi vắng tanh vắng ngắt, chạy dài tới tận khu đồi mộ cổ xa xa phái chân trời… Đường làng cũng vắng tanh như vậy. Dân làng đã kéo nhau ra hết sân kho, từ đó vọng tới tiếng nhao nhao của trăm nghìn giọng người.

Trên đường tới trụ sở, họ đánh Đavưđốp nhừ tử, đến nỗi anh loạng choạng đứng không vững. Anh không còn pha trò được nữa, đường phẳng phiu mà cứ vấp luôn, và luôn luôn ôm lấy đầu, mặt tái đi yêu cầu bằng một giọng khàn khàn:

- Thôi! Đánh thế này chết tôi mất. Đừng đánh vào đầu… Tôi không giữ chìa khoá! Có lôi tôi đi hết ngày cũng chẳng ra chìa khoá đâu… Tôi không đưa cho các bà!

- À-à-à-à, hết ngày hả? - Các mụ sôi tiết rền rĩ lên, và một lần nữa lại bâu vào Đavưđốp lúc ấy đã lả, như một đàn đỉa đói, cào cấu, đánh đập, và cắn nữa.

Tới sát bên sân trụ sở nông trang, Đavưđốp ngồi phệt xuống mặt đường. Tấm áo sơmi vải thô của anh bê bết máu, chiếc quần ống ngắn may kiểu thành phố, cũ quá gấu đã sờn, bị xé to toạc ở chỗ đầu gối, và cổ áo rách toang để lộ ra bộ ngực đen sạm trổ chàm. Anh thở khò khè, nặng nhọc, nom thiểu não.

Mụ già Igơnachênốc giậm chân bành bạch:

- Đi, đồ cho-ó-ó đẻ!...

- Đồ khốn nạn, tôi giữ thế này là cho các người đấy! - Đavưđốp bất thần nói giọng lanh lảnh và đưa đôi mắt sáng lên một cách lạ thường nhìn quanh một vòng. - Giữ cho các người đấy!... Thế mà các người lại định đánh tôi chết… Chà, quân khốn nạn! Tôi không đưa chìa khoá đâu. Rõ chưa? Không đưa đâu, thực tế thế! Làm gì nào?

Một cô hớt hải chạy đến, kêu tướng:

- Mặc mẹ nó đấy!... Các ông ấy đã đập chìa khoá ra rồi, và đang chia thóc!

Các mụ bỏ Đavưđốp lại bên cổng trụ sở, chạy ùa về sân kho.

Anh ráng hết sức đứng dậy, bước vào sân trụ sở, xách một xô nước âm ấm ra đầu hè, uống một hơi dài, rồi đổ nước lên đầu. Anh rên rỉ rửa sạch máu trên mặt, trên cổ, rút chiếc khăn vải bố vắt trên lan can lau khô đi, rồi ngồi xuống bậc cửa.

Sân không một bóng người. Một ả gà mái lo ngại cục te cục tác gần đâu đó. Một chú sơn ca lông đen nhánh đậu trên nóc chiếc lồng chim sáo đá, ngó nghiêng cái đầu, hót líu lo. Nghe có tiếng chuột đồng rúc rích ngoài thảo nguyên. Những đám mây nhẹ màu tím kéo lớp lớp che phủ mặt trời, nhưng mặc dầu vậy, khí trời vẫn ngột ngạt khó chịu đến nỗi ngay cả bọn chim sẻ rỉa lông trên đống tro giữa sân cũng nằm kềnh không cựa, cổ nghển lên, chỉ thỉnh thoảng đập đập đôi cánh buông xoè như những chiếc quạt nhỏ xíu.

Nghe thấy tiếng vó ngựa bình bịch, Đavưđốp ngẩng đầu lên: một con ngựa cái lông màu vàng nhạt yên cương đầy đủ, mông xuôi, phi nước đại lao qua cổng vào sân. Nó vòng ngoặt lại, hai chân sau cào tung đất, hục hặc chạy vòng quanh sân, để nhỏ qua chiếc hàm thiếc xuống mặt đất nóng rát từng đám bọt mép trắng. Tới trước cửa chuồng ngựa, nó dừng lại, hít hít đánh hơi sàn ván.

Bộ cương ngựa sang trọng khảm bạc trên mình nó đứt tung, các đầu dây cương buông lòng thòng, yên xô lệch lên đến tận vai, dây đai ngực đứt thõng xuống tận đất, chạm cả vào vành móng tím đen. Nó nặng nề rùng rùng hai mạng sườn, hếch phồng hai lỗ mũi hồng hồng; cỏ dại năm cũ màu nâu giắt từng túm vào mái bờm trán vàng óng và vào lớp bờm cổ rối bù của nó.

Đavưđốp ngạc nhiên nhìn con ngựa. Vừa lúc đó cảnh cửa nhà chứa cỏ khô kêu lên ken két, và cái đầu bác Suka thò ra. Một lát sau thì là chính bác Suka lò dò bước ra, sau khi hết sức thận trọng đẩy cửa ra và nhớn nhác nhìn quanh.

Cọng rơm cọng rạ bám đầy chiếc áo sơmi đẫm mồ hôi của bác. Bộ râu xồm của bác lủa tủa những cuộng rau dại, lá cỏ khô, cánh hoa cỏ vàng. Mặt bác đỏ gay lộ ra vẻ kinh hoàng tột độ. Mồ hôi ròng ròng qua thái dương chảy xuống má và râu ria bác…

Bác rón rén đi tới bên thềm, thì thào năn nỉ:

- Đồng chí Đavưđốp! Trốn đi, lạy Chúa! Họ đã đập phá thế này thì nghĩa rằng là họ có thể giết người như bỡn. Họ tẩn đồng chí khiếp quá nhỉ, nom mặt không nhận ra nữa! Lão phải trốn trong đống cỏ đấy… Ngạt thở lắm, không chịu nổi, khắp người mồ hôi ra như tắm, nhưng được cái yên trí, lạy Chúa! Ta cùng tránh đi, cho qua cái lúc hỗn quân hỗn quan này, được không? Trốn một mình kể cũng hãi hãi… Ờ, bị đánh chết thì lý thú quái gì nhỉ, chẳng được ích lợi gì. Đồng chí nghe đấy, các con mẹ ấy nhao nhao như ong vỡ tổ, cứ là ỉa vào mồm chúng nó! Còn anh Nagunốp xem chừng cũng bị họ làm lôi thôi to rồi. Đây ngựa của anh ấy đã chạy về đấy… Con ngựa này hôm nay anh ấy cưỡi lên huyện. Sáng nay, lúc qua cổng, con ngựa vấp một cái, lão đã bảo anh ấy: "Quay về thôi, anh Maka ơi, điềm gở đấy!". Nhưng tính anh ta có chịu nghe điều hay lẽ phải bao giờ? Bao giờ cũng làm theo ý mình, thế cho nên mới chết. Nếu lúc ấy anh ta quay về thì có phải đã thoát rồi không.

Đavưđốp ngập ngừng hỏi:

- Biết đâu bây giờ cậu ấy đang ở nhà?

- Ở-ở-ở nhà? Thế thì sao con ngựa lại chạy về không và cứ hít khìn khịt như đánh hơi thấy mùi người chết vậy? Lão thì những điều ấy lão thừa biết rồi! Rõ ràng nhá: anh ấy trên huyện về, anh ấy thấy họ đang cướp thóc ngoài kho, thế là anh ta nói nặng, anh ta nóng như lửa, thấy thế chịu sao được (***), và thế là bị họ giết chết toi…

Đavưđốp nín thinh. Phía sân kho vẫn nghe thấy tiếng nhao nhao của trăm nghìn giọng nói, tiếng xe ngựa cót két, tiếng bánh xe lăn lộc cộc.

Đavưđốp nghĩ bụng: "Họ đang chở thóc đi… không biết Maka có làm sao không? Không nhẽ họ đánh chết rồi? Ta phải ra!". Anh đứng dậy.

Bác Suka ngỡ Đavưđốp định cùng mình trốn vào kho thóc, rối rít lên:

- Ta đi thôi, tẩu vi thượng sách! Không nhỡ có đứa khỉ gió nào dẫn xác đến đây, nom thấy lão với anh thì chết ráo cả. Gì chứ chuyện ấy thì chúng làm nhậy lắm! Mà nằm trong đống cỏ cũng khoái đáo để. Cỏ thơm, êm như ru, lão có thể nằm đấy cả tháng, nếu có cái chén. Chỉ hiềm nỗi có con dê nó làm lão phải bật dậy… Con ăn hại ấy, lão đã định quật nó chết tươi đấy! Lúc nghe thấy các con mẹ ấy cướp phá nông trang và hành tội đồng chí về chuyện lúa mì, lão nghĩ bụng: "Này, lão Suka ơi, khéo chuyến này thì lão chết hoài chết uổng mất thôi!". Vì các con mẹ ấy đứa nào chẳng biết chỉ có lão với đồng chí là từ ngày cách mạng đến nay vẫn giữ vững lập trường, và hai ta đã lập ra nông trang ở Grêmiatsi đây, đã đấu thằng Titốc. Họ muốn giết thì phải giết ai trước nhất? Rõ rành rành là giết lão với đồng chí! Lão mới nghĩ bụng: "Gay go to rồi, phải trốn đi thôi, kẻo giết xong Đavưđốp, họ dờ đến mình thì rồi lấy ai mà trình bày với ông thẩm phán về cái chết của đồng chí Đavưđốp nhỉ?". Thế là trong nháy mắt lão chui tọt vào đống cỏ, chúi ngập đến lút đầu, nín thở, không thế thì hãi lắm. Thế rồi bỗng nghe thấy có ai xéo lên đống cỏ lão nằm ở dưới… Nó xéo lên và lẽ dĩ nhiên nó hắt hơi vì hít phải bụi. Lão nghĩ bụng: "Cha mẹ ôi! Đúng là họ lùng mình rồi, đúng là họ đi cách cái mạng mình đây!". Nó cứ xéo, cứ xéo, thế rồi nó giẫm cả lên bụng lão… Lão nằm im thin thít nhá! Sợ quá ba hồn bảy vía bay mất sạch, nhưng lão cứ nằm như thằng chết rồi, vì đến cái nước này thì còn biết chạy đi đâu! Ấy thế rồi nó giẫm vào giữa mặt lão. Lão thò tay ra, túm một cái: một cái móng giò và toàn những lông với lá. Lão dựng tóc gáy, rụng rời chân tay… Hãi không thở được! Sờ thấy cái móng lông lá ấy lão nghĩ gì, đồng chí có biết không? Lão nghĩ: "Đúng là quỷ sứ rồi!". Nhà cỏ tối như hũ nút, mà ma quỷ thì vẫn ưa chỗ tối. Lão nghĩ bụng: "Thế này là nó định xéo mình, vật mình cho đến chết đây… Thà để lũ đàn bà kia hành hạ còn hơn". Ờ-ờ-ờ, lão hãi quá, không để đâu cho hết! Cậu nào non gan mà ở trường hợp như lão thì cứ là vỡ tim vỡ mật ra mà ngoẻo. Những thứ ấy thì dễ bị sợ đột ngột là nó vỡ ra thôi mà. Nhưng lão chỉ hơi lạnh gáy tí thôi, và cứ nằm yên. Thế rồi bỗng lão thấy nồng nặc lên mùi dê đực… Lão chợt nhớ ra là con dê tịch thu của thằng Titốc vẫn nhốt ở đây, thế mà mình đã quên khuấy đi mất, cái con chết tử chết tiệt ấy! Lão ngó ra, đúng nó rồi, đúng con dê thằng Titốc! Nó xéo lên đống cỏ, đi tìm máng ăn, miệng nhẩm một cành ngải… Thế là lẽ dĩ nhiên lão đứng bật dậy và nện nó một trận! Lão choảng cho tới số, túm râu, làm cho đủ tình đủ tội! "Làng người ta đang nổi loạn kia kìa, mày mò vào đống cỏ này làm gì, đồ quỷ rậm râu! Cho mày thôi cái lối xéo lung tung lên này, đồ quỷ hôi hám!". Lão cáu quá, định đánh chết mẹ nó đi cho xong! Vì nó là con vật đi chăng nữa thì nó cũng phải giác ngộ là lúc nào thì có thể vào xam quan đống cỏ được, còn lúc nào thì phải nằm im thin thít, không cựa chứ… Đồng chí Đavưđốp, đồng chí đi đâu vậy?...

Đavưđốp không đáp, đi ngang qua nhà cỏ, ra cổng.

Bác Suka hoảng hốt thì thào:

- Đi đâu thế kia?...

Ngó nhìn qua cánh cổng hé mở, bác thấy Đavưđốp đi về phía sân kho, bước rảo, nhưng loạng choạng, như bị  một cơn gió quật thổi thúc sau lưng.

---------------------------

(*)          Ataman: chức cai trong quân đội kô-dắc. - ND.

(**)        Tiếng Nga ""Đưmốc" là Làn khói. - ND.

(***)      Nguyên văn: trái tim nóng bỏng của anh ta không chịu nổi. - ND.

CHƯƠNG XXXIV

Bên đường là một ngọn đồi mộ. Trên đỉnh đồi dãi dầu sương gió, những thân cành trụi thui lụi của cây ngải và cỏ kim hoa lứa năm ngoái rì rào buồn bã. Những bụi cỏ lau nâu nâu rầu rĩ ngả rạp xuống đất. Những đám cói dại vàng vàng lông tơ phơi ra trên sườn đồi, từ đỉnh xuống đến chân. Xám xịt một màu ảm đạm, phai bạc nắng mưa, chúng rải ra trên mảnh đất cổ xưa bị phong hoá này những cành ngọn xơ xác của chúng, nom già nua héo hắt, cằn cỗi, ngay cả vào mùa xuân giữa lúc muôn loài cây cỏ tưng bừng nở hoa, và chỉ đến lúc cuối thu về chúng mới rực rỡ lên, lóng lánh màu trắng kiêu hãnh của tuyết sương. Và chỉ đến mùa thu thì ngọn đồi mộ mới dường như thức tỉnh dậy trong tấm áo giáp vẩy bạc, đứng lên sừng sững trấn giữ thảo nguyên.

Mùa hè, chiều chiều, một con đại bàng thảo nguyên từ trên chín tầng mây nhào xuống đỉnh đồi mộ. Nó vỗ cánh phành phạch buông mình đậu xuống ngọn đồi, vụng về nhảy vài ba bước, rồi lấy chiếc mỏ quặp rỉa đôi cánh nâu xoè ra như cái quạt, rỉa bầu diều phủ lông màu rỉ sắt. Rồi nó đứng lên, thiu thiu, đầu ngửa ra sau, đôi mắt màu hổ phách viền đen đăm đăm nhìn lên bầu trời xanh muôn thuở. Con đại bàng đậu không nhúc nhích, nâu nâu hoe vàng, nom như một khối ngọc nguyên sinh, nghỉ ngơi một lát trước buổi săn chiều, rồi lại nhẹ nhàng cất cánh bay đi. Và cho đến lúc mặt trời lặn, người ta còn trông thấy nhiều lần bóng xám đôi cánh oai hùng của nó lướt trên thảo nguyên.

Gió thu lạnh lẽo sẽ đưa nó tới nơi đâu? Tới dãy núi Cápcadơ xanh lam chăng? Hay tới vùng thảo nguyên Maganxkơ! Tới miền Ba Tư? Hoặc sang tận Ápganixtan?

Về mùa đông, khi ngọn đồi mộ khoác tấm áo tuyết trắng lông chồn bạc, hằng ngày, trong bóng chạng vạng xanh lam của buổi trước bình minh, một chú cáo già lông xám lại hiện ra trên đỉnh đồi. Nó đứng đó hồi lâu, như chết, nom như tạc bằng đá cẩm thạch Karakơ màu vàng lửa, cái đuôi xù xì màu hung hung buông thõng xuống mặt tuyết tim tím, cái mồm nhọn với đầu mõm phơn phớt đen vươn ra đón ngọn gió. Lúc đó, chỉ có cái mũi ươn ướt như tạc bằng đá  mã não của nó là đang sống trong cái thế giới ngào ngạt của trăm nghìn mùi hương hoà quyện, đôi cánh mũi mấp máy mở rộng hít lấy hít để nào là mùi tuyết nhàn nhạt bao trùm lên tất cả, nào là mùi cay hăng hắc của cây ngải chết khô vì băng giá, nào là mùi phân cỏ tươi của ngựa từ con đường gần đó đưa tới, nào là hương vị thoang thoảng, ngây ngất lạ thường của một ổ chim đa đa giấu mình trong bờ cỏ dại xa xa.

Trong mùi chim đa đa ấy có biết bao nhiêu sắc hương quyện lại đến nỗi cáo muốn hít cho đã, buộc phải rời ngọn đồi, chân không nhấc khỏi mặt tuyết lấp lánh như sao, lê cái bụng nhẹ bỗng, bám đầy hạt băng, qua những ngọn cỏ dại, trườn đi một quãng dăm chục xagien. Và đến lúc ấy mới lùa vào đôi cánh mũi đen đen của nó luồng hương thơm đốt cháy xúc giác nó: mùi chua nồng của cứt chim tươi và mùi lông chim gồm hai mùi gộp lại; ẩm hơi tuyết, lông chim cọ xát với cỏ toả ra mùi ngải cay cay nhiễm được ở cỏ, đó là lớp ngoài, còn dưới lớp xanh xanh cho đến phần nửa dưới cắm vào thịt, nó toát lên mùi máu nồng mằn mặn…

… Lớp đất đắp bạ vào ngôi mộ bị gió hanh xỉa, bị nắng trưa nung, bị mưa rào xói lở, bị những cơn băng giá tháng Giêng xé nứt nẻ, nhưng đồi mộ vẫn trơ gan trấn ngự thảo nguyên y như xưa kia, bao nhiêu trăm năm về trước, khi nó được bàn tay ngăm ngăm đen đầy vòng xuyến của những người vợ, bàn tay của binh lính, của bà con thân thích, của nô lệ xây đắp lên trên thi hài của một vị hoàng thân bộ tộc Pôlôvétxkơ được an táng theo quân lễ…

Ngôi mộ đứng dựng trên một ngọn đồi cao cách Grêmiatsi Lốc tám dặm, và từ ngày xửa ngày xưa đã được dân kô-dắc gọi là Ngôi mộ Tang tóc. Tục truyền rằng ngày xưa một chiến thương kô-dắc đã chết dưới chân đồi này, có lẽ chính là người được nhắc đến trong bài dân ca cổ:

… Vung kiếm sắc, anh chém toé lửa,

Nhen đốt mớ ngải cứu cháy bùng

Anh đun, đun kỹ nước suối trong

Dội vào vết tử thương, anh rửa:

"Ôi vết thương, vết thương của ta máu chảy ròng ròng

Buốt tận đáy tim ta nhức nhối cả lòng!..."

… Nagunốp phi nước đại một mạch ra cách khỏi làng huyện uỷ đóng khoảng chục dặm, tới gần ngôi mộ Tang tóc mới dừng lại. Anh nhảy xuống, đưa bàn tay gạt đám bọt như bọt xà phòng trên cổ ngựa xuống.

Tiết trời ấm áp, như ít thấy vào cữ đầu xuân. Nắng hun nóng mặt đất như nắng tháng Năm. Một ráng khói lam bồng bềnh phía chân trời nhấp nhô như sóng lượn. Từ mặt đầm thảo nguyên xa xa, gió đưa về tiếng ngỗng quàng quạc, tiếng vịt giời hoà giọng, tiếng kêu rền rĩ của chim mỏ nhát.

Maka tháo hàm thiếc cho ngựa, buộc cương vào một cẳng trước của nó và nới đai bụng cho nó. Con ngựa hau háu vươn tới đám cỏ non, vừa bước vừa vặt những bụi cỏ lứa năm ngoái đã khô cháy.

Một đàn vịt giời lướt qua trên đỉnh đồi mộ, vỗ cánh rào rào. Chúng sà xuống đầm. Maka, đầu óc trống rỗng, nhìn theo đàn chim bay, nhìn chúng buông mình xuống mặt hồ như những hòn đá rơi, nhìn nước hồ quanh bãi sậy bị chúng khua lên sôi sùng sục. Liền đó một đàn ngỗng giời bị khuấy động bay vụt lên khỏi mặt đê.

Thảo nguyên chết lặng trong cảnh hoang vắng. Maka nằm hồi lâu dưới chân đồi mộ. Thoạt đầu anh còn nghe thấy gần đó con ngựa khịt mũi, gõ móng, lắc hàm thiếc lách cách. Sau đó nó đi xuống khe, nơi có cỏ mọc rậm  hơn, và thế là bốn bề lặng tờ, cái lặng tờ chỉ có vào dạo cuối thu ở một vùng đất trồng trọt của thảo nguyên đã bị con người rời bỏ.

"Về nhà, mình sẽ vĩnh biệt Anđrây và Đavưđốp, mặc vào chiếc áo capốt mang ở mặt trận Ba Lan về, rồi rút súng tự sát. Chẳng còn gì ràng buộc mình với đời nữa! Và cũng chẳng thiệt hại gì cho cách mạng. Cách mạng thiếu gì người! Không mợ thì chợ vẫn đông… - Maka nằm sấp suy nghĩ. Anh nghĩ một cách thản nhiên, cứ như nghĩ về chuyện ai, mắt đăm đăm nhìn đám cỏ rối nhằng. - Chắc là đứng trước mộ mình Đavưđốp sẽ phát biểu: "Nagunốp bị khai trừ khỏi Đảng thật, nhưng anh vẫn là một đảng viên tốt. Chúng ta không tán thành hành động tự sát của anh, thực tế thế, nhưng sự nghiệp của anh đấu tranh chống bọn phản cách mạng thế giới, chúng ta sẽ đưa nó đến thắng lợi cuối cùng".

Và Maka mường tượng thấy một cách sắc nét khác thường thằng cha Banhích đang cười nụ đi trong hàng người, tay vê vê bộ ria mép trắng nhợt, miệng nói: "Sáng danh Chúa, thế là đi đứt một thằng! Chó thì chết kiểu chó!".

- Ồ không, tiên sư cha mày! Đừng hòng ông tự sát! Mày và bọn như mày, ông sẽ làm cho tới số! - Maka nghiến răng ken két, nói thốt ra miệng và đứng vùng dậy, như bị ong đốt đít. Ý nghĩ về Banhích đã làm anh thay đổi quyết định. Anh đưa mắt tìm ngựa, bụng đã nghĩ: "Mẹ kiếp! Ông sẽ chôn hết chúng mày đã, sau đó ông tịch cũng vừa! Chúng mày đừng hòng ăn mừng ông chết! Còn Korghinxki, ồ mà chẳng lẽ ý kiến của hắn lại là quyết định sao? Gieo xong, mình sẽ lao lên khu. Khu sẽ phục hồi cho mình! Hoặc lên tỉnh, lên Mátxcơva!... Mà nếu không được thì không đảng viên mình cũng sẽ vẫn chiến đấu tiêu diệt bọn sâu bọ ấy!".

Anh đưa đôi mắt bừng sáng đảo nhìn một vòng cảnh vật quanh mình. Đến lúc này anh cảm thấy cơ sự mình không đến nỗi tuyệt vọng, vô phương cứu chữa như mấy tiếng trước đây anh tưởng.

Anh lật đật xuống khe tìm ngựa. Bị bước chân anh làm động, một con sói đẻ từ trong cỏ rậm nhô lên trên một mô cao. Nó đứng đấy một thoáng, nghiêng nghiêng cái đầu trán dô, xem xét người lạ, rồi cụp tai xuống, quắp đuôi lại bỏ chạy xuống khe. Hàng vú đen chảy xệ nhũng nhẵng lắc lư dưới cái bụng lép kẹp của nó.

Maka chưa tới sát con ngựa thì nó đã lắc lắc cái đầu một cách bướng bỉnh. Sợi dây cương buộc vào chân nó đã đứt rời từ lúc nào.

- Trrr! Vaxiốc! Vaxiốc! Trrr, đứng lại! - Maka nhỏ nhẹ dỗ dành con ngựa đang ngúng nguẩy, tìm cách mon men đến đằng sau nó túm lấy bờm hoặc cái bàn đạp.

Con ngựa lắc lắc đầu, bước rảo lên, gườm gườm liếc nhìn chủ. Maka rảo bước chạy theo, nhưng con ngựa không để anh tới gần, đá hậu một cái rồi vọt qua đường, băng mình phi lộp cộp về hướng làng.

Maka văng ra một câu chửi, rồi đi theo nó. Anh đi băng qua đồng khoảng ba dặm, cứ nhằm thẳng vào đám ruộng cày thu trông thấy ở gần bên ấp. Những con chim báo bão và những đôi đa đa bay vù lên từ trong cỏ rậm. Xa xa, bên bờ khe, một chú chim báo bão đang đi đi lại lại, canh cho con mái ấp. Không kìm được cơn thèm đạp mái, nó xoè cái đuôi hung hung có riềm màu trắng gỉ, rũ đôi cánh ra cào cào mặt đất khô hanh, để rớt xuống vài chiếc lông cuống phủ lông tơ hồng hồng…

Công việc sinh sôi nảy nở vĩ đại của muôn loài đang diễn ra trên thảo nguyên: cỏ mọc lên um tùm, chim chóc muông thú hành dục, duy chỉ có những đám ruộng cày bị người bỏ vạ vật là đang phơi ra với trời những khoảnh đất chưa gieo bốc hơi nghi ngút…

Maka bước đi trên cánh ruộng cày đất khô đóng cục lại trong bụng giận điên lên. Anh cúi vội xuống, bốc một nắm đất bóp vụn trong tay. Nắm đất đen, lổm ngổm thân cỏ chết xào xạo, khô và nóng như rang. Đất cày thu để lâu quá rồi. Không thể chậm trễ một giờ nào nữa, phải cho ba bốn hàng bừa rượt qua lớp đất cỏ lằng nhằng này, cho răng bừa xé tơi đất để lâu đã khô cứng, rồi sau đó cho máy gieo ra chạy trên những luống đất đã bở tơi, sao cho những hạt tiếu mạch vàng óng được vùi sâu.

"Muộn mất rồi! Đất đến hỏng mất! - Maka nghĩ bụng, ngao ngán đảo mắt nhìn những thửa ruộng đen đen chưa được cày bừa, trơ trụi nom mà rợn. - Chỉ hai ba ngày nữa thì phải cho nhảy ngay đi, để qua lúc ấy nó còn thiết gì đến đực nữa. Đất cần đến người cũng kiểu như vậy… Trong việc này, trừ con người chúng ta ra, mọi vật đều sòng phẳng rành mạch. Mọi con vật, lẫn cây cỏ, và đất cát đều biết kịp thời lúc nào là lúc chúng phải thụ giống, còn con người… còn chúng ta thì xấu xa bẩn thỉu hơn cả con vật bẩn thỉu nhất! Đấy, họ không chịu đi gieo hạt là vì đầu óc tư hữu đang lồng lộn lên trong con người họ… Lũ khốn kiếp! Mình về bây giờ sẽ xua hết tất cả ra đồng! Tất, không sót đứa nào!".

Anh rảo bước mãi, có lúc chuyển sang chạy. Mồ hôi rỏ xuống từ trong mũ kêpi của anh, lưng áo anh sẫm lại, môi anh khô se, và trên đôi má anh những vết đỏ lang bệnh tật hiện ra mỗi lúc một rõ…

CHƯƠNG XXXV

Anh về đến ấp giữa lúc người ta náo nhiệt chia thóc. Liubiskin và đội anh ta vẫn còn ngoài đồng. Quanh kho người chen lấn xô đẩy nhau. Người ta hối hả ném những bao thóc lên bàn cân, xe kéo đến không ngớt, đàn ông đàn bà chở thóc bằng thùng, bằng bao, bằng màn cửa. Thóc vương vãi đầy đất, đầy các bậc kho…

Nagunốp hiểu ngay sự tình. Anh gạt dân làng ra, len tới chỗ đặt cân.

Ivan Batansikốp, một nông trang viên đã xin ra, đứng cân và phân phát thóc, có Apôlôn Pexkôvátxkốp giúp sức. Chẳng thấy mặt Đavưđốp, chẳng thấy mặt Radơmiốtnốp hoặc một anh đội trưởng nào quanh kho cả. Chỉ thoáng hiện ra một giây lát gương mặt hoang mang của lão quản lý Iakốp Lukits, nhưng rồi lão cũng biến nốt trong đám xe ngựa chen nêm.

- Ai cho phép chia thóc? – Maka gạt Batansikốp ra, nhảy lên bàn cân, thét hỏi.

Đám đông lặng thinh.

Vẫn quát tháo như thế, Maka hỏi Batansikốp:

- Ai giao cho anh đứng cân thóc?

- Tập thể …

- Đavưđốp đâu?...

- Tôi đâu biết được!

- Ban quản trị đâu? Ban quản trị cho phép anh phát thóc à?

Đêmít Miệng hến đang đứng gần chỗ đặt cân, mỉm cười đưa tay áo lên lau mồ hôi. Cái giọng ồm ồm cuả anh ta vang lên chất phác và tự tin:

- Chúng tôi tự cho phép, không cần ban quản trị. Tự chúng tôi lấy đấy!

- Tự lấy?... À ra thế! – Nagunốp nhảy hai bước lên đến thềm kho, đấm cho anh chàng đang đứng bên cửa kho một quả ngã lộn cổ xuống và đóng sầm cửa lại, tựa phắt lưng vào cửa. – Giải tán! Cấm không được lấy thóc! Kẻ nào bén mảng vào kho, tôi tuyên bố là kẻ thù của Chính quyền xôviết!...

- Ái chà! – Đưmốc đang giúp cho một người bên cạnh chất thóc lên xe, chế giễu nói.

Nagunốp xuất hiện lúc này là một chuyện bất ngờ lớn cho đa số. Trước khi anh lên huyện, người ta đã đồn đại mãi là anh sẽ bị đưa ra toà vì tội đánh đập Banhích, sẽ bị cách chức và cầm chắc sẽ bị bỏ tù… Mới sáng nay thôi, nghe phong phanh Maka lên huyện, Banhích đã tuyên bố:

- Thằng Nagunốp không trở về nữa đâu! Ông công tố uỷ viên đã bảo với chính tôi đây là hắn sẽ bị nghiêm trị! Thằng Maka còn gãi đầu gãi tai! Hắn sẽ bị tống cổ ra khỏi Đảng, cho hắn chừa cái thói đánh đập bà con nông dân. Bây giờ đâu có phải như ngày xưa!

Bởi thế cho nên sự xuất hiện của Maka bên bàn cân mới gây nên một không khí im lặng hoang mang và phân vân như vậy. Nhưng khi anh rời bàn cân nhảy lên thềm kho và đứng tựa lưng  vào cửa thì thái độ của đa số lập tức được xác định.

Tiếp lời Đưmốc, tiếng la ó nổi lên ào ào:

- Bây giờ chính quyền là của chúng tao!

- Chính quyền nhân dân!

- Bưng nó đi, anh em ơi!

- Ở đâu ra thì cút về đấy đi!

- Cứ như-ư-ư quan lớn!...

Đưmốc là người đầu tiên tiến về phía kho, hiên ngang đưa đảo đôi vai, vừa đi vừa mỉm cười ngó lại. Vài chàng kô-dắc nữa ngập ngừng tiến lên theo hắn. Một người trong đám ấy vừa đi vừa cúi xuống nhặt một hòn đá…

Nagunốp thong thả rút trong túi quần ra một khẩu súng lục, lẩy cò lên. Đưmốc dừng lại, trù trừ do dự. Đám đi sau cũng dừng lại. Anh chàng đã nhặt hòn đá tướng, vần vần hòn đá trong tay, rồi quẳng đi. Ai cũng biết rằng Nagunốp mà đã bật cò súng lên thì khi cần anh sẽ chẳng ngần ngại gì mà không cho nó mổ xuống. Và Maka cũng chứng minh ngay điều đó:

- Tao sẽ giết đủ bảy thằng khốn kiếp rồi chúng mày mới vào được kho. Nào, đứa nào muốn chết trước? Vào đây!

Chẳng ai thích chết trước cả… Một phút hoang mang chung. Đưmốc đang nghĩ kế, chưa quyết sấn tới kho. Nagunốp hạ mũi súng xuống, quát:

- Giải tán!... Giải tán ngay, không tao bắn!...

Anh chưa nói hết câu thì một cái chốt sắt ở đâu lao qua đầu anh choang rầm một cái vào cánh cửa. Êphim Tơrubasép, bạn thân của Đưmốc, đã ném cái chốt ấy. Hắn nhằm vào đầu Maka, nhưng khi thấy đã trượt, vội ngồi thụp xuống nấp sau một chiếc xe. Nagunốp hạ quyết tâm ngay như trong chiến đấu: anh tránh một hòn đá từ dưới đám đông ném lên, bắn chỉ thiên một phát rồi lao luôn từ trên thềm xuống. Đám đông chịu thua: những người đứng phía trên xô đẩy nhau bỏ chạy, càng xe bò xe ngựa kêu răng rắc, một mụ bị bọn đàn ông xô ngã, tru tréo gào lên.

Banhích ở đâu hiện ra, lên tiếng động viên, giữ những người đang đang chạy dừng lại:

- Đừng chạy! Nó chỉ còn sáu viên thôi!

Maka lại quay trở lại kho, nhưng anh không đứng khuất trên thềm nữa, mà đứng bên tường theo góc độ có thể đưa mắt kiểm soát được cả dãy kho.

- Đứng lại! – Thấy Đưmốc, Tơrunatsép và mấy người nữa lại đến chỗ đặt cân, anh quát. – Đứng lại, bọn kia! Không tao bắn chết!

Từ đám đông đã lùi ra cách kho khoảng trăm bước, Ivan Batansikốp, Atamantsukốp và ba người nữa là những người đã ra nông trang, bước ra. Họ quyết định dùng mưu. Họ tiến lên khoảng ba chục bước, Batansikốp giơ tay ra hiệu:

- Đồng chí Nagunốp! Khoan đã nhá, đừng giơ súng.

- Chúng mày muốn gì! Tao bảo giải tán!...

- Vâng thì giải tán, nhưng đồng chí nóng nảy thế là sai rồi… chúng tôi được phép lấy thóc mà…

- Ai cho phép?

- Có một anh nào trên khu về… Trên uỷ ban ấy mà, chính anh ấy cho phép chúng tôi…

- Anh ta đâu? Đavưđốp đâu? Radơmiốtnốp đâu?

- Đang họp cả ở trụ sở.

- Mày nói láo, đồ khốn!... Tao bảo mày lùi xa cái cân ra! Thế nào?... – Nagunốp gập cánh tay trái lại làm bệ, tỳ nòng súng lâu ngày đã bạc ánh thép.

Batansikốp nói tiếp, không chút sợ hãi:

- Không tin, đồng chí cứ đến trụ sở mà xem, hoặc nếu không, chúng tôi mời họ đến ngay bây giờ. Bỏ cái lối giơ súng doạ đi, đồng chí Nagunốp ạ, không thì lôi thôi đấy. Đồng chí chống lại ai? Chống lại nhân dân! Chống lại toàn ấp!

- Đứng lại! Không được tiến lên nữa! Tao không đồng chí đồng choé với mày! Mày ăn cướp thóc của nhà nước thì mày là một thằng phản cách mạng!... Tao không cho phép chúng mày chà đạp lên chính quyền xôviết.

Batansikốp định nói gì nữa thì vừa lúc ấy Đavưđốp từ sau một góc hiên nhà kho hiện ra. Anh đi loạng choạng, bước thấp bước cao, mặt mũi mình mẩy thâm tím, xây xát máu me, húp híp, rũ rượi nom rợn người. Nagunốp nhìn anh rồi nhảy bổ vào Batansikốp, quát lên bằng một giọng khàn khàn: “Á-á-à-à, đồ sâu bọ! Mày đánh lừa ông hả? .. Hành hung người chúng ông hả?!”.

Batansikốp và Atamantsukốp bỏ chạy. Nagunốp bắn đuổi theo hai phát, nhưng không trúng. Đưmốc đứng một góc nhổ lấy cái cọc rào, số còn lại vẫn đứng nguyên, hằm hè phản đối.

Maka nhảy xổ vào đám đông, rít lên, răng nghiến chặt:

- Tao không cho phép… chà đạp .. lên… chính quyền xôviết!

- Đánh bỏ mẹ nó đi!

- Bây giờ mà có một khẩu súng nho nhỏ nhỉ! – Iakốp Lukits đứng phía cuối rên lên, hai bàn tay chắp lại, trong bụng nguyền rủa Pôlốptxép đã biến đi đâu mất không đúng lúc như vậy.

- Anh em kô-dắc đâu!.. Tóm cổ thằng anh hùng rơm ấy lại, cho nó một mẻ!... – Vang lên giọng nói giận dữ, hung hăng của Marina Pôiarkôva. Mụ đẩy mấy anh chàng kô-dắc về phía Nagunốp đang lao tới, và túm lấy tay Đêmít Miệng hến, hằn học hỏi: - Kô-dắc gì mà thế này? Sợ à?

Và bỗng đám đông tan ra, chạy toé, xô về phía Nagunốp…

- Công an!!! – Naxchia Đônétxkôva thét lên một tiếng kinh hoàng.

Khoảng ba chục người cưỡi ngựa, dàn theo đội hình tấn công, từ trên đồi phi như bay về làng. Bụi xuân cuốn bốc lên dưới vó ngựa như những đám khói nhẹ chơi vơi…

Năm phút sau trên sân kho vắng tanh vắng ngắt, chỉ còn lại có Đavưđốp và Maka. Tiếng vó ngựa lộp cộp nghe mỗi lúc một gần. Trên con đường đầu làng đã xuất hiện đoàn người ngựa. Paven Liubiskin cưỡi con ngựa tịch thu của Lápsinốp, dẫn đầu. Bên phải anh là anh chàng Agaphôn Đúpxốp mặt rỗ, tay cầm chầy, điệu bộ kiên quyết nom ghê người, và lộn xộn đằng sau là anh em đội sản xuất số hai và số ba cưỡi ngựa đủ các màu lông…

Về chiều có một cán bộ công an trên huyện xuống theo đề nghị của Đavưđốp. Anh ta ra đồng bắt giữ Ivan Batansikốp, Apôlôn Pexkôvátxkốp, Êphim Tơrubatsép và vài “cốt cán” nữa trong đám những người đã xin ra nông trang. Mụ mẹ đẻ ra Igơnachênốc thì bị bắt tại nhà. Tất cả bị giải lên huyện, có nhân chứng đi cùng… Đưmốc tự mình đến trụ sở xôviết trình diện:

- Con chim xanh đây hả? – Radơmiốtnốp đắc chí hỏi.

Đưmốc nhìn anh với một vẻ giễu cợt, đáp:

- Tôi đây. Chả cần ăn gian làm gì, một khi mình thừa điểm…

Radơmiốtnốp cau mày lại:

- Thừa điểm là thế nào?

- Đánh bài thì phải tính điểm chứ thế nào nữa? Quá hai mươi mốt điểm là thừa! Tôi phải đi đâu bây giờ đây?

- Đi lên huyện.

- Thế ông công an đâu?

- Anh ấy đến bây giờ, gì mà đã nóng ruột thế? Toà án nhân dân sẽ dạy cho chú biết thế nào là tội đánh chủ tịch! Dù thiếu điểm thì toà án nhân dân cũng xử mày thôi!...

- Tất nhiên rồi! – Đưmốc đồng ý ngay, không ý kiến ý cỏ gì cả, rồi ngáp dài một cái, đề nghị: - Tôi buồn ngủ lắm, anh Radơmiốtnốp ạ. Hay là anh đút tôi vào cái kho nào, giam lại, trong khi chờ đợi ông công an, tôi làm một giấc. Đề nghị anh giam lại hẳn hoi, kẻo ngủ mê tôi lại trốn mất đấy.

Hôm sau tiến hành việc thu hồi số thóc bị lấy cướp. Maka Nagunốp đi một vòng các nhà hôm qua đã lấy thóc. Chẳng chào hỏi, mắt quay nhìn đi, anh hỏi cộc lốc:

- Có lấy thóc không?

- Có.

- Có định mang trả không?

- Phải trả chứ…

- Thế thì mang đi! – Rồi chẳng chào ai, anh bước đi ra.

Nhiều người thoát ly nông trang đã lấy thóc quá số họ góp. Thóc đã được phân phát theo lối hỏi mồm: anh chàng Batansikốp sốt ruột cứ hỏi: “Góp bao nhiêu?” – “Bảy mươi pút”. – “Mang bao ra cân đi!”.

Thực tế là người này khi góp thóc đã đổ vào kho thiếu mười bốn pút mới đủ bảy mươi. Ngoài ra, đám đàn bà con gái còn dùng màn cửa, thúng mủng vác đi khoảng trăm pút nữa, chẳng cân đong gì cả.

Đến chiều thì lúa mạch đã thu hồi đủ, chênh lệch vài pút. Chỉ thiếu khoảng hai mươi pút tiểu mạch và vài bao ngô. Ngay chiều hôm ấy thóc giống của nông dân cá thể được hoàn lại hết cho họ.

Trời tối mịt thì cuộc họp toàn thể dân ấp bắt đầu. Đứng trước số nhân dân kéo đến trường học đông chưa từng thấy, Đavưđốp phát biểu:

- Thưa đồng bào, hành động hôm qua đây cuả những nông trang viên đã xin ra và một bộ phận nông dân cá thể có ý nghĩa thế nào? Có nghĩa là họ đã nhảy sang phía các phần tử kulắc! Họ đã nhảy sang phía kẻ thù của chúng ta, đây là một thực tế. Và thật là một hành động nhục nhã cho những đồng bào nào hôm qua đã cướp kho thóc, giày đạp hạt thóc quý xuống dưới đất, đùm vào màn cửa tẩu tán về nhà. Có những đồng bào đã la ó vô ý thức, xúi các bà các chị đánh đập tôi, và các bà ấy đã vớ được cái gì đánh bằng cái ấy. Thậm chí có một nữ đồng bào lại còn phát khóc lên vì tôi đã không tỏ ra nao núng. Tôi nói cô đấy, nữ đồng bào bé nhỏ ạ! – Và Đavưđốp chỉ cô Naxchia Đônétxkôva đứng bên tường và từ lúc Đavưđốp vừa mới phát biểu đã vội kéo khăn vuông che mặt. – Chính là cô đã thụi vào lưng tôi thùm thụp, rồi lại còn khóc vì tức quá, và bảo: “Mình đấm nó, nhưng cái thằng mặt sứa này, nó cứ trơ như đá!”.

Khuôn mặt che tùm hụp tấm khăn vuông của Naxchia đỏ dừ vì quá xấu hổ. Cả hội nghị nhìn đổ dồn vào cô, còn cô ả thì cứ cúi gằm mặt xuống, bối rối ngượng ngùng, chỉ lắc lư đôi vai, cọ cọ lưng vào mặt tường trắng.

Đemka Usakốp tức không chịu nổi:

- Nom kìa, uốn éo như con rắn độc bị xỉa cây đinh ba ấy.

Anh chàng Agaphôn Đúpxốp mặt rỗ đế thêm:

- Khéo lưng lại lau sạch mất vôi tường của người ta đấy!

Liubiskin gầm lên:

- Thôi đừng vặn vẹo nữa, đồ mắt ếch kia! Có gan đánh thì ra hội nghị phải có gan nhìn thẳng vào mắt người ta!

Đavưđốp không buông tha, nói tiếp, nhưng trên đôi môi rách toạc của anh đã thoáng một nụ cười khi anh nói:

- … cô ấy muốn tôi phải quỳ gối, lạy lục van xin, nộp chìa khoá kho thóc cho cô ấy! Nhưng thưa đồng bào, những người bônsêvích chúng tôi đâu phải là loại người để người ta muốn bắt sao phải vậy! Hồi nội chiến, bọn Iunke (*) đã đánh tôi, nhưng nào có moi được ở tôi lời nào! Những người bônsêvích không quỳ gối trước ai, và không bao giờ quỳ gối cả, thực tế thế!

- Đúng! – Giọng run run xúc động của Maka Nagunốp vang lên, khàn khàn và phát ra từ đáy tim gan.

- … thưa đồng bào, chúng tôi đây mới là những người xưa nay quen bắt kẻ thù của giai cấp vô sản phải quỳ gối. và chúng tôi sẽ tiếp tục bắt.

- Và bắt trên phạm vi toàn thế giới! – Nagunốp lại chêm vào.

- Đúng. Chúng tôi sẽ làm việc ấy trên phạm vi toàn thế giới, thế mà hôm qua, đồng bào đã nhảy sang phía kẻ thù ấy, giúp sức cho chúng. Thưa đồng bào, đồng bào đã phá cửa kho, đã đánh tôi thừa sống thiếu chết, còn Radơmiốtnốp thì lúc đầu đồng bào trói, giam xuống hầm, rồi sau đó điệu đến trụ sở xôviết và dọc đường lại muốn khoác vào cổ anh ta cây thánh giá, thế thì hành vi ấy nên coi là thế nào? Có đích thị là một hành vi phản cách mạng! Bà cụ anh nông trang viên Mikhain Igơnachênốc bây giờ bị bắt rồi, nhưng lúc điệu anh Radơmiốtnốp đi, đã mồm loa mép giải: “Thằng phản Chúa! Thằng quỷ Xatăng!...”, và có các bà khác về hùa, định khoác lên cổ anh ta chiếc dây đeo thánh giá. Nhưng đồng chí Radơmiốtnốp của chúng tôi, đúng như một người cộng sản phải xử sự, không để cho phép ai nhục mạ mình như thế được! Anh ấy đã nói với các bà trẻ bà già tệ hại đã bị bọn thày tu làm cho u mê kia rằng: “Đồng bào ạ, tôi không đi đạo, tôi là người cộng sản! Các bà mang thánh giá ra chỗ khác”. Nhưng các bà ấy cứ nhâu nhâu vào, và chỉ đến lúc anh ấy cắn đứt sợi dây thánh giá, rồi lấy đầu húc, lấy chân đá vung lên đẩy lùi các bà ấy ra, thì các bà ấy mới chịu để cho anh ấy yên. Thưa đồng bào, thế là thế nào? Thế là đích thị phản cách mạng! Và toà án nhân dân sẽ nghiêm trị những kẻ láo xược như bà cụ anh Mikhain Igơnachênốc ta đây.

Mikhain Igơnachênốc ngồi trên những hàng ghế đầu nói tướng lên:

- Tôi không chịu trách nhiệm về bà cụ tôi! Bà cụ tôi cũng có quyền công dân, bà ấy tự chịu trách nhiệm lấy!

- Tôi không nói anh đâu. Tôi nói những kẻ vẫn ngoạc mồm phản đối việc đóng cửa nhà thờ. Họ không bằng lòng khi người ta đóng cửa nhà thờ, nhưng cái việc họ dùng vũ lực tròng thánh giá vào cổ một người cộng sản thì họ cho là được! Và thế là họ đã tự vạch trần cái giả nhân giả nghĩa của họ! Những kẻ đầu sỏ gây ra vụ rối loạn và những ai tích cực tham gia đã bị bắt, còn những người khác đã cắn phải câu của bọn kulắc thì phải tỉnh ngộ lại và phải hiểu rằng mình đã lầm đường lạc lối. Tôi nói nghiêm chỉnh đấy… Một đồng bào nào không rõ đã ném lên chủ tịch đoàn hội nghị một mẩu giấy, hỏi: “Có phải tất cả những ai đã lấy thóc đều sẽ bị bắt, bị tịch thu gia sản và đưa đi đày không?”. Thưa đồng bào, không phải thế đâu! Những người bônsêvích không trả thù, có thẳng tay trừng trị là trừng trị kẻ thù thôi; còn đồng bào, mặc dù đồng bào đã nghe lời bọn kulắc xúi giục mà xin ra nông trang, mặc dầu đồng bào đã cướp kho và hành hung chúng tôi, chúng tôi vẫn không coi đồng bào là kẻ thù. Đồng bào là những trung nông ngả nghiêng, một lúc nào đó lầm lạc, cho nên chúng tôi không áp dụng biện pháp hành chính với đồng bào, mà sẽ mở mắt cho đồng bào thấy rõ hay, dở.

Tiếng người nói rì rầm lan đi khắp trường học. Đavưđốp nói tiếp:

- Còn cô, cô em ạ, cô đừng sợ, đừng che mặt nữa, không ai làm gì cô đâu, mặc dù hôm qua cô đã nện tôi một trận nên thân. Nhưng mai đây ta ra đồng mà cô làm phất phơ, tôi sẽ đét cho cô một cái trời giáng, báo cho cô biết thế! Chỉ có điều là tôi không đét vào lưng đâu, mà thấp hơn kia, để cho cô không ngồi, không nằm được, quỷ tha ma bắt cô đi!

Một tiếng cười khúc khích rụt rè cất lên, và khi lan tới những hàng cuối thì biến thành tiếng cười phá rạp, cười thoải mái.

- … thưa đồng bào, công việc chúng ta lề mề chậm trễ quá rồi! Đất cày để lâu quá, thời vụ trôi qua, bây giờ phải làm việc chứ không phải bày ra những trò vớ vẩn, thực tế thế! Gieo xong đi đã, rồi tha hồ đấu đá, cắn xé nhau… Tôi đặt thẳng vấn đề thế này: ai tán thành Chính quyền xôviết thì mai ra đồng, ai chống lại thì cứ ở nhà mà cắn hạt quỳ. Nhưng mai ai không gieo thì nông trang chúng tôi sẽ lấy đất chúng tôi gieo.

Đavưđốp rời góc sân khấu, trở lại ngồi vào bàn chủ tịch nhưng khi anh giơ tay với lấy bình nước thì từ phía cuối phòng, trong bóng tối lờ mờ ánh sáng đỏ quạch của cây đèn dầu hoả, có giọng trầm ấm áp và vui vẻ của ai cảm động cất lên:

- Anh Đavưđốp, đút miếng gan xào vào miệng anh. Hoan hô anh Đavưđốp!... Hoan hô đã không để bụng thù… đã không chấp… Dân làng cứ lo ngay ngáy… mắt không dám nhìn đâu, trong bụng cắn rứt… Và các bà cũng bối rối… Mà dù sao ta cũng phải chung sống với nhau… Anh Đavưđốp ạ, tôi đề nghị thế này nhá: ta xuý xoá, đứa nào còn nhắc đến chuyện cũ đứa ấy chết cả nhà nó! Đồng ý không?

* * *

Sáng hôm sau năm mươi người đã ra, lại xin trở lại nông trang. Bà con cá thể và tất cả ba đội sản xuất của nông trang Grêmiatsi tờ mờ sáng đã ra đồng làm.

Liubiskin đề nghị để lại một tổ canh gác kho, nhưng Đavưđốp cười:

- Theo mình thì bây giờ không cần nữa…

Trong bốn ngày nông trang đã gieo xong gần một nửa diện tích đất cày thu. Ngày mồng Hai tháng Tư đội sản xuất số ba đã chuyển sang làm đất cày xuân. Trong suốt thời gian ấy, Đavưđốp chỉ đến trụ sở có mỗi một lần. Anh đưa ra đồng tất cả những ai có khả năng lao động, thậm chí cả đến bác Suka anh cũng tạm thời rút khỏi công vụ xà ích, đưa xuống đội hai. Còn anh thì tờ mờ sáng đã ra đi, xuống chỗ các đội làm, và chỉ trở về làng lúc đã quá nửa đêm, khi gà bắt đầu gáy sáng.

-----------------------------

(*) Iunke:              Học sinh trường sĩ quan ở nước Nga Sa hoàng. – ND.

CHƯƠNG XXXVI

Trong sân mọc đầy cỏ của trụ sở ban quản trị nông trang, cũng như trên các bãi cỏ ngoài làng, hoàn toàn im ắng. Dưới nắng trưa, mái ngói đỏ rỉ của dãy nhà kho chói lên một màu sáng rực ấm cúng, nhưng trong bóng râm của các nhà kho, trên mặt cỏ bị xáo nát, vẫn còn lung linh những giọt sương nặng xam xám như hoa cà.

Một ả cừu cái trụi lông, gầy đến thảm hại, đang đứng giữa sân, bốn cẳng khẳng khiu xoạc ra, và kề bên nó, một chú cừu non, cũng lông trắng như mẹ, đang quỳ hai chân trước hau háu húc vào vú mẹ mà bú.

Liubiskin cưỡi một con ngựa cái nhỏ tiến vào sân. Qua cửa nhà xe, anh vung roi cau có vụt con dê con đang đứng trên mái nhà giương đôi mắt xanh lè như mắt ma nhìn xuống, và anh càu nhàu:

- Chỉ được cái nhảy tót lên mái nhà, đồ quỷ sứ nhà giời! Có cút xuống không?

Liubiskin hầm hầm, mặt khó đăm đăm, phi từ thảo nguyên về, không ghé nhà, mà đến thẳng trụ sở. Theo sau con ngựa cái hung hung đỏ lang vàng của anh có một chú ngựa con chân cẳng mảnh khảnh, đuôi vểnh ngược, chạy lon ton, lóc nhóc nhạc ở cổ. Đối với vóc người Liubiskin thì con ngựa cái qúa bé đến nỗi bàn đạp phải thả trễ xuống gần như quá gối nó; nom anh như chàng kỵ sỹ gù trong truyện cổ tích cặp con ngựa còm nhom giữa đôi cẳng lực sỹ của mình… Đemka Usakốp đứng trên hè nhìn theo anh, phì cười:

- Nom ông cứ như đức Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêruxalem vậy… Hệt!

- Có cậu là đồ con lừa ấy! – Liubiskin vừa đi tới bên hè, vừa vặc lại.

- Co cái chân lại tí, kẻo cày đất lên bây giờ!

Liubiskin chẳng thèm đáp, nhảy vội xuống ngựa, quấn cương vào lan can, nghiêm giọng hỏi:

- Đavưđốp có nhà không?

- Có. Đang ngồi trong ấy, rũ rù rù, mong ông mòn con mắt. Ba ngày đêm nay anh ấy chẳng ăn, chẳng uống gì cả, cứ luôn mồm: “Paven Liubiskin thân yêu của tôi đâu rồi? Vắng Paven tôi chỉ muốn chết, không thiết gì trên đời này nữa!”.

- Cứ nói đi! Bẻm mép nữa đi! Vả vỡ mồm cho bây giờ!

Đemka đưa mắt liếc nhìn cái roi Liubiskin cầm tay, và im bặt. Liubiskin bước vào trong trụ sở.

Đavưđốp cùng với Radơmiốtnốp và các đại biểu hội nghị phụ nữ vừa mới thảo luận xong về vấn đề tổ chức vườn trẻ. Liubiskin đợi cho mấy bà phụ nữ đi ra rồi bước tới bên bàn. Tấm áo sơmi vải bố cuả anh, không thắt đai và trắng bụi ở hai bả vai, khét mùi mồ hôi, nắng và bụi…

- Tôi ở dưới đội lên…

- Làm ăn thế này thì chết mất! Đội tôi còn cả thảy hai mươi tám người có khả năng lao động, nhưng chẳng anh đếch nào chịu làm, ỳ thần xác ra đấy cả… Không sao bảo được họ. Hiện tôi có mười hai chiếc cày. Kiếm mãi mới gọi là đủ thợ cày. Nhưng chỉ có độc Kônđrát Maiđanhikốp là nai lưng ra làm, quần quật như bò, còn những thằng Akim Bexkhlépnốp, Xêmiôn Kugienkốp, hoặc cái thằng đâm ba chẻ củ Atamantsukốp và những đứa khác thì toàn là một thứ tai ương nghiệp chướng, chứ không phải thợ cày! Cứ như từ thuở cha sinh mẹ đẻ họ chưa sờ đến cái bắp cày bao giờ! Cày bạ sao nên thế. Đi được một xá ngồi xuống hút thuốc, rồi nạy đít không đứng dậy được.

- Mỗi ngày các cậu cày được bao nhiêu?

- Maiđanhikốp và tôi chơi mỗi đứa được ba phần tư đêxiachin còn bọn kia… giỏi lắm là nửa đêxiachin. Cứ cày điệu này thì sang giữa mùa thu phải gieo ngô vậy thôi.

Đavưđốp chẳng nói chẳng rằng, gõ gõ đít bút chì xuống bàn, rồi hỏi khác:

- Thế cậu về đây làm gì? Nhờ chúng tôi lau nước mắt cho cậu à? – Và mắt anh cau lại, khó chịu.

Liubiskin giãy nảy lên:

- Tôi đến đây không phải để khóc! Anh cho tôi thêm người, thêm cày, còn như đùa dai thì tôi cũng chẳng cần anh phải dạy!

- Đùa dai thì cậu giỏi rồi, thực tế thế, nhưng đến cộng việc thì cậu cà là mèng! Thế cũng gọi là độ-ộ-ội trưởng! Không bảo nổi bọn ăn bơ làm biếng? Buông lỏng kỷ luật, rồi lại đủ trò mềm mỏng xuê xoa, thì không bảo được thật ấy chứ, thực tế thế!

- Anh thì bảo được! – Liubiskin bực toát mồ hôi hột, làm om lên: - Trong mọi chuyện xảy ra, thằng Atamantsukốp là thằng đầu sỏ. Nó lung lạc bà con trong đội, và bây giờ mà đuổi cổ thằng mẹ mìn ấy, nó sẽ lôi kéo nhiều người khác ra thêm. Anh Xêmiôn Đavưđốp, có thật anh định nỡm tôi không thì anh bảo? Anh buộc vào cổ tôi mấy thằng đui què mẻ sứt rồi anh lại còn hạch tôi về công việc! Như lão Suka ấy thì tôi biết nhét vào đâu bây giờ? Cái lão ba hoa xích đế ấy thì chỉ có đem chôn chân vào vườn làm bù nhìn giữ dưa thôi, thế mà anh đẩy xuống đội tôi, tròng vào cổ tôi như cái địu! Không được cái tích sự gì! Theo cày không được, rong bò cũng không xong. Nói thì cứ léo nhéo như chim sẻ, bò nó cũng chẳng coi lão là người nữa, chẳng sợ! Con khỉ già chân vòng kiềng ấy cứ đánh đu với cái bắp cày, và đi được một xá thì kềnh ra đến mười lần! Lần thì buộc lại giây giày, lần thì nằm chổng vó lên, đút cho rom tụt vào. Các mẹ kia lại vứt bò đấy, xúm lại xem, reo ầm lên: “Bác Suka rơi đâu mất cái rom rồi!...”. Thế là người ta xô lại để xem lão khỉ ấy làm thế nào đút cái rom thụt lại được vào trong bụng như cũ. Thật là trò mần tuồng, chứ không phải là đi cày! Hôm qua chúng tôi đành phân công cho lão ở nhà nấu cháo, vì lão bị lòi rom, nhưng nấu cháo cũng không nên thân, lại còn làm bậy nữa! Chúng tôi đưa cho lão thịt mỡ để bỏ vào cháo, lão chén hết, còn cháo thì lão tống đẫy muối vào và cho thêm cái chết tiệt gì nữa chẳng biết.. Vậy anh bảo tôi biết dúi lão vào đâu bây giờ?

Dưới hàng ria đen, đôi môi Liubiskin run run tức giận. Anh vung roi lên, giơ ra cái nách áo sơmi bẩn thỉu bạc trắng mồ hôi muối một khoang tròn, thất vọng nói:

- Anh cho tôi thôi đội trưởng. Loay hoay mãi với lũ người ấy tôi chịu không nổi nữa rồi: đến chết về lối làm ăn của họ thôi!...

- Cậu cứ làm như chết đến đít rồi không bằng! Bao giờ cần cho cậu thôi đội trưởng, chúng tôi khắc cho, còn bây giờ thì cậu đi ra đồng đi, làm sao cho từ giờ đến tối phải cày xong mười hai hécta. Và không xong thì đừng trách! Hai tiếng nữa tôi sẽ xuống kiểm tra. Thôi đi đi!

Liubiskin đóng cửa đánh sầm một cái sau lưng, lao xuống thềm. Con ngựa buộc bên thềm đang đứng rũ đầu xuống. Nắng rọi vào đôi mắt tím rắc những hạt vàng của nó. Sửa lại tấm dạ lót yên phơi nắng nóng ran xong, Liubiskin thong thả nhảy lên lưng ngựa. Đemka Usakốp nháy mắt hỏi kháy:

- Đội đồng chí cày được nhiều rồi chứ, hả đồng chí Liubiskin?

- Không việc gì đến mày…

- Không việc gì hả!... Để tôi móc ông vào cái xe kéo moóc rồi xem có việc gì không?

Liubiskin ngồi trên lưng ngựa quay ngoắt lại, bàn tay khoẻ đen xạm bóp chặt đến sưng vù các đầu khớp lên, đe:

- Có giỏi cứ xuống! Ông sẽ sửa cho mày đôi mắt, thằng quỷ lác xệch! Ông sẽ xoay mắt mày ra sau gáy và dạy cho mày cách đi giật lùi!

Đemka nhổ toẹt một bãi, coi khinh:

- Thế thì cũng tài đấy! Nhưng trước hết ông hãy về sửa bọn thợ cày của ông đi đã, để họ cày cho ông nhanh nhanh lên một tí…

Liubiskin phi như bay qua cổng, lao ra thảo nguyên như người lao lên xung phong. Tiếng lách cách rôm rả của quả nhạc lúc lắc ở cổ con ngựa con chưa tắt hẳn thì Đavưđốp đã bước ra hè, tất tưởi bảo Đemka:

- Tôi xuống đội hai vài ngày, cậu ở nhà thay tôi giải quyết công việc. Chú ý theo dõi việc tổ chức vườn trẻ, nghe chưa? Có chuyện gì mắc mớ, phóng ngựa xuống tìm tôi. Rõ chưa? Đóng hộ tôi con ngựa, rồi bảo Radơmiốtnốp đến gặp tôi có việc. Tôi chờ ở nhà.

- Hay là để tôi với anh em xuống vỡ hoang, đỡ Liubiskin một tay? – Đemka đề nghị, nhưng Đavưđốp gạt phắt đi, gắt:

- Cậu lôi thôi! Mặc họ phải xoay xở lấy! Tôi sẽ xuống, thúc cho họ vào đít, rồi xem có mặt tôi họ có còn cày mỗi người được nửa đêxiachin nữa hay không! Đóng ngựa đi!

Radơmiốtnốp tới nhà Đavưđốp, ngồi trên cỗ xe một ngựa dành riêng cho ban quản trị. Đavưđốp đã đứng bên cổng đợi anh, nách cắp một bọc khăn gói nhỏ. Radơmiốtnốp cười nụ:

- Lên đi! Mang cái gì đấy, đồ nhắm hả?

- Quần áo.

- Mang quần áo đi làm gì?

- Để thay chứ làm gì.

- Sao lại phải thay!

- Thôi đi đi, hỏi gì hỏi lắm thế? Mang quần áo đi để rận nó khỏi ăn thịt mình, rõ chưa? Mình xuống đội hai đây, và sẽ ở lại đó cho đến khi cày xong. Khép cái mồm lại, và cho chạy đi.

- Này, chẳng hay đầu óc cậu có méo mó không đấy? Cậu định làm gì ở đấy cho đến hết vụ cày?

- Mình đi cày.

- Bỏ công việc chỉ đạo để đi cày? Sáng kiến hay gớm nhỉ?

- Đi! Bảo đi mà! – Đavưđốp cau mặt lại.

Radơmiốtnốp xem chừng cũng bắt đầu cáu:

- Này, đừng có giở giọng! Yêu cầu anh giải thích tôi rõ: không có anh thì dễ thường dưới đội họ cày không được hay sao? Cậu phải lãnh đạo, chứ không phải đi cày! Cậu là chủ tịch nông trang…

Đavưđốp trợn mắt long sòng sọc:

- Gì nữa?.. Lên lớp nốt đi!... Mình trước hết là một người cộng sản, rồi sau đó… thực tế thế!... Rồi sau đó mới là chủ tịch nông trang! Việc cày bừa bê trễ ra đấy, mà mình ngồi đây được sao?... Thôi đi đi, bảo đi mà!...

- Thì đi, sợ gì! Con ôn vật này, nhúc nhắc lên! Đi! – Radơmiốtnốp vung roi quất con ngựa.

Xe giật mạnh làm Đavưđốp bị xô ngửa, và khuỷu tay vào thành xe một cái đau điếng. Bánh xe lăn êm êm trên con đường dẫn ra thảo nguyên.

Ra khỏi đầu làng, Radơmiốtnốp cho con ngựa đi bước một. Anh đưa tay áo lên lau trán sẹo:

- Này, Đavưđốp ạ, cậu làm thế dở òm! Cậu nên xuống dưới ấy chấn chỉnh cho họ đâu vào đấy, rồi về thôi. Anh bạn ạ, cày thì có khó quái gì. Một người chỉ huy tốt không được đi ích ê trong hàng, mà đứng ngoài chỉ huy một cách thông minh, tôi nói sơ sơ với anh như vậy.

- Xin anh xếp cho tôi cái giọng lên lớp ấy đi! Mình phải dạy cho họ biết làm việc, và mình sẽ dạy được, thực tế thế! Thế mới đúng là lãnh đạo! Đội một và đội ba gieo xong cả rồi, còn ở đây thì đang chết tắc. Liubiskin xem ra xoay sở không nổi. Thế mà cậu cứ lải nhải: “Một người chỉ huy giỏi”, với những cái chết tiệt gì nữa… Việc gì mà cậu cứ phải làm bảo mẫu cho tôi? Dễ cậu tưởng tôi chưa được thấy những người chỉ huy tốt bao giờ sao? Người chỉ huy tốt là người lúc khó khăn biết dẫn dắt mọi người bằng tấm gương của mình. Và mình sẽ làm như thế!

- Tốt hơn hết là cậu ném mấy chiếc cày ở đội một sang cho họ.

- Thế người? Người thì mình đào đâu ra? Thôi quất đi, quất cho đi nhanh lên!

Hai người ngồi nín thinh cho đến lúc xe tới đỉnh đồi. Bên trên thảo nguyên, cao cao giữa đỉnh đầu, một đám mây mưa đá tím mọng nước bị gió thổi thốc đứng dựng lên, lấp cả mặt trời. Đường viên của mây trắng cứ xoáy tròn và lóng lánh như ánh tuyết, nhưng đỉnh mây đen ngòm lại nom đáng sợ trong cái dáng bất động nặng nề của nó. Luồng nắng xuyên qua kẽ mây, qua riềm mây nhuốm màu da cam, chênh chếch đổ xuống xoè như nan quạt. Mảnh, nhọn như mũi lao trên nền trời rộng, chúng toả ra như thác đổ khi xuống gần mặt đất, trải lên những luống đất của thảo nguyên nâu bát ngát phía chân trời xa xa, làm nó đỏ rực lên, trẻ lại, nom lạ mắt và hân hoan…

Thảo nguyên u ám bóng mây dông im lìm cam phận đợi cơn mưa. Gió cuốn trên đường một cột bụi xám. Gió đã ngan ngát mùi hương nước mưa. Và một phút sau, trời bắt đầu mưa lác đác, thưa hạt. Hạt mưa, nặng và lạnh, rơi thụt xuống lớp bụi đường, vê thành viên bùn nhỏ xíu. Chuột đồng rít lên thảng thốt, tiếng gọi nồng cháy của con chim bão đã im bặt. Ngọn gió là là thổi hoà vào chân giạ kê, làm giạ kê rì rào xù lên. Thảo nguyên tràn ngập tiếng thở than xào xạc của cỏ dại lứa năm ngoái. Ngay sát chân mây, một con quạ sải đôi cánh đón luồng gió nghiêng nghiêng bay lên một tiếng, lao chúc xuống. Lao qua một luồng tia nắng, mình quạ vụt rực lên trong giây lát như một bó đuốc tẩm nhựa bốc cháy; nghe rõ tiếng cánh quạ xé không khí, rào rào như tiếng bão xa. Nhưng xuống tới cách mặt đất dăm chục xagien, quạ lại vỗ cánh vọt ngược lên. Liền lúc đó một tiếng sét nổ đanh, xé tai.

Lán đội hai đã hiện ra trên đỉnh đồi thì Radơmiốtnốp trông thấy một người đi ngược lại phía họ. Người ấy đi tắt, nhảy qua những vũng nước lội, thỉnh thoảng chuyển sang chạy, kiểu chạy le te bước ngắn của người già. Radơmiốtnốp lái ngựa đi về phía người ấy và từ xa đã nhận ra bác Suka. Nhìn điệu bộ thấy rõ bác Suka chắc đã gặp chuyện gì chẳng lành… Bác bước tới xe họ. Đầu bác đội mưa, tóc dính bết lại. Bộ râu ướt sũng và đôi lông mày bác bê bết  những hạt kê chín. Bác tái xanh tái xám, vẻ hốt hoảng và Đavưđốp thoáng trong đầu một ý nghĩ nặng nề: “Tình hình trong đội không ổn… Lại choảng nhau rồi!”.

- Làm sao thế? – Anh hỏi.

Bác Suka thở hắt ra:

- Hút chết! Họ định giết lão…

- Ai?

- Liubiskin và bọn họ.

                - Sao vậy?

- Vì họ thích gây sự… Vì chuyện cháo… Lão thì tợn, không nhịn được… và thế là Liubiskin vớ lấy con dao, sấn vào lão… Lão mà không nhanh chân khéo bây giờ đã bị xiên vào đầu mũi dao đem nướng chả rồi chứ còn gì!...

Đavưđốp thở hắt một cái nhẹ nhõm, ra lệnh:

- Bác về làng đi, chuyện này ta sẽ làm ra nhẽ sau.

… Số là nửa giờ trước ở lán đã xảy ra câu chuyện như sau: bác Suka, hôm trước đã nấu cháo quá mặn, muốn gỡ lại uy tín trước toàn đội, đã trở về làng từ chiều, ngủ qua đêm rồi sáng dậy mang theo một cái bao tải, trên đường về đội, bác tạt qua nhà lão Kraxnôkutốp ở ngay đầu làng, lẻn qua rào như một thằng ăn cắp, và nấp phục sau đống rơm vụn. Kế hoạch của bác Suka đơn giản một cách tài tình: rình một ả gà mái nào, tóm gọn, chặt đầu đi, quẳng vào nồi cháo và nhờ đó tranh thủ được sự mến phục của đội. Bác nằm bẹp nửa tiếng đồng hồ, nín thở, nhưng đàn gà như trêu ngươi bác, chỉ cào bới đâu đó quanh hàng rào, dường như chẳng nghĩ đến chuyện vào kiếm ăn bên đống rơm. Thế là bác Suka nghĩ ra cách khe khẽ gọi nhử: “Pập, pập, pập!... Chít-chít-chít-chít-chít!”. Bác thều thào gọi, nấp kín sau đống rơm như con thú rình mồi. Ông lão Kraxnôkutốp lúc ấy tình cờ đang đứng gần nhà chứa thóc. Nghe như có tiếng kẻ trộm gọi gà, lão liền ngồi thụp xuống sau hàng rào… Đàn gà cả tin chạy tới đống rơm, và ngay lúc đó Kraxnôkutốp trông thấy một bàn tay ai từ sau đống rơm thò ra túm cẳng một con gà mái non. Bác Suka bóp chết con gà mái, thoắt như một con cáo già, nhưng vừa mới định đút gà vào bao tải thì nghe thấy một tiếng hỏi nhẹ: “Bắt gà hả?”, và trông thấy lão Kraxnôkutốp từ sau hàng rào đứng nhô lên. Bác Suka rụng rời chân tay, đến nỗi buông rơi cái bao tải rồi trật mũ ra chào rất vô duyên:

- Chào bác Aphanaxi Pêtơrôvits!

Lão Kraxnôkutốp đáp:

- Không dám, thế nào, bác quan tâm đến gà nhà tôi thế?

- À, à, chả là tôi đi qua, trông thấy con gà mái hoa. Con gà lông đốm lắm màu quá, làm tôi không đừng được. Tôi mới nghĩ bụng: ta bắt thử, xem một tí, gà đâu mà đẹp thể nhỉ! Thật là già một đời người chửa thấy con gà nào lạ thế!

Mẹo của bác Suka vô duyên quá đến nỗi lão Kraxnôkutốp phải cắt phéng luôn:

- Thôi đi, điêu xoen xoét! Xem gà việc gì phải đút vào bao tải? Muốn sống muốn chết nói thật: ăn cắp gà làm gì?

Bác Suka đành thú thật muốn chiêu đãi anh em thợ cày trong đội một chầu gà. Bác ngạc nhiên thấy Kraxnôkutốp chẳng cằn nhằn một lời nào, lại còn bảo:

- Chiêu đãi thợ cày thì được, không sao. Lão đã vồ được một con rồi thì đút vào bao đi, lấy gậy vụt thêm con nữa, đừng bắt con ấy, con kia cơ, con có cái bờm ấy, nó không đẻ nữa … Một con gà cho cả đội thì ai ăn ai đừng. Bắt mau lên con nữa rồi chuồn ngay đi, kẻo chẳng may bà lão nhà tôi lại thì cả hai ta ốm ho với bà ấy.

Bác Suka thấy câu chuyện kết thúc như vậy, mừng quýnh. Bác tóm thêm con gà nữa, rồi nhảy qua hàng rào. Hai tiếng sau, bác về tới lán, và khi Liubiskin lên gặp Đavưđốp trở về thì cái nồi ba mươi của bác đã sôi sùng sục, hạt kê ninh đã nhừ bung, và thịt gà xắt miếng đã nổi váng mỡ lều bều. Cháo ngon hết ý. Bác Suka chỉ lo có một điều: sợ cháo tanh mùi nước tù, vì nước nấu cháo bác múc ở cái đầm cạn gần lán mà mặt nước đọng đã váng rêu xanh. Nhưng bác đã lo hão: mọi người ăn cứ khen rối khen rít, thậm chí đến cả đội trưởng Liubiskin cũng phải bảo: “Từ bé đến giờ chưa ăn bữa qué nào ngon thế này! Thay mặt cả đội, xin cám ơn bố già!”.

Nồi cháo vợi đi nhanh chóng. Những anh nhanh tay nhất đã bắt đầu cạo cháo cháy lẫn với thịt vụn. Đến lúc ấy thì xảy ra một chuyện làm vĩnh viễn tiêu tan sự nghiệp đầu bếp của bác Suka…

Liubiskin nhặt được một miếng thịt nhỏ, định đưa lên mồm thì bỗng lùi lại, tái mặt đi. Anh giơ miếng thịt nhừ trắng nhợt kẹp vào hai đầu ngón tay, cau có hỏi bác Suka:

- Cái gì thế này?

Bác Suka thản nhiên đáp:

- Đầu cánh đấy.

Mặt Liubiskin từ từ đỏ bầm lại trong một cơn giận dữ khủng khiếp. Anh gầm lên:

- Đâ-â-ầu cánh?... Mở mắt nhìn thử, thế mà là đâ-â-ầu bếp!

Một bà rú lên:

- Ối làng nước ôi! Nó lại có móng này!...

Bác Suka sừng sộ:

- Con mẹ này ăn nói lăng nhăng! Cánh mà lại có móng? Lật váy lên mà tìm, có cái móng trong đũng ấy!

Bác quăng cái thìa đi, bước tới xem: bàn tay run run của Liubiskin giơ ra một khúc xương nhỏ, đầu xương là một bàn chân có da nối liền ngón với mấy cái móng nhỏ xíu…

Akim Bexkhlépnốp kêu lên hoảng hốt:

- Anh em ơi! Ta ăn phải thịt ngoé rồi!...

Thế là bắt đầu nhốn nháo: một trong những bà ghê tởm thịt ngoé nhất rên rỉ giãy nảy lên, ôm miệng chạy ra sau lán. Kônđrát Maiđanhikốp nhìn đôi mắt trợn tròn vô cùng kinh ngạc của bác Suka, ngã bổ kềnh ra, cười lăn lộn, mãi mới kêu lên được:

- Ôi, các bà ơi! Các bà vi phạm tục ăn chay rồi!

Những anh chàng không kinh thịt ngoé lắm đế thêm vào:

- Bây giờ là các bà không được chịu lễ nữa đâu! – Kugienkốp giả vờ sợ hãi kêu lên.

- Cười cái đếch gì mà cười? – Đánh bỏ mẹ lão Suka đi!...

Liubiskin vặn hỏi bác Suka:

- Ngoé ở đâu mà nhảy được vào nồi bác?

- Bác ấy múc nước đầm, không nhìn chứ gì nữa.

Chị Anhixia, dâu nhà Đônhétxkốp, rít lên xỉa xói:

- Thằng già chó đẻ!... Cho người ta ăn cái của nợ gì thế? Người ta đang có mang! Bây giờ mà bà đẻ non là tại mày, đồ khốn nạn!...

Miệng nói tay hắt  luôn bát cháo vào giữa mặt bác Suka.

Thế là om sòm ầm ĩ. Các bà xúm lại túm râu bác Suka, mặc cho bác vừa hoang mang vừa hoảng hốt cố gân cổ lên cãi:

- Khoan khoan tí nào! Ngoé đâu mà ngoé! Thề có Chúa, không phải ngoé mà!

Anhixia Đônhétxkôva sấn sổ, lồng lộn nom đến ghê:

- Không ngoé thì là cái gì?

Bác Suka cố bài bây:

- Các chị độc tưởng tượng! Trông gà hoá ngoé!

Nhưng khi Liubiskin yêu cầu bác nhai thử cái xương ngoé “tưởng tượng” ấy thì bác chối đây đẩy. Có lẽ câu chuyện chỉ đến thế là xong nếu như cuối cùng bác Suka lộn ruột vì các mẹ nói dai, không gắt lên:

- Đồ quỷ cái! Mồm như cái tĩ! Cứ ngoạc ra mà chẳng hiểu gì cả là đây đâu phải con ngoé thường, mà là con sò của người ta đấy.

Các bà ngạc nhiên:

- Cái gì?

- Con sò, vểnh tai lên mà nghe! Ngoé là của bẩn thỉu, còn sò là của quý! Hồi chế độ cũ một ông bạn thân tôi là lính hầu cho đích thân tướng Philimonốp, kể chuyện ông tướng nuốt chửng cứ là hàng trăm con trừ bữa! Mà lại ăn sống nữa chứ! Con sò chửa kịp há mồm là ông ta đã cầm dĩa moi ra, xiên vào đầu dĩa, thế rồi ực một cái, mất tăm! Nó kêu la thảm thiết, mặc, ông ta cứ nuốt trôi. Các nhà chị biết quái gì, cái miếng ấy biết đâu chẳng là giống thịt sò? Các vị tướng là khoái món ấy lắm, và có thể là tôi đây đã cố tình ném một con vào nồi cháo, cho ngọt nước mà ăn, lũ ngu ạ!...

Đến đấy thì Liubiskin không chịu nổi nữa: anh vớ lấy cái muôi đồng, nhảy chồm lên, quát tướng:

- Các vị tướng hả? Cho ngọt nước hả?... Ông là du kích đỏ đây, thế mà lại cho ông ăn thịt ngoé, như cái thằng tướng chết toi nào không biết!

Bác Suka nom ngỡ Liubiskin cầm dao, vội ba chân bốn cẳng bỏ chạy, không ngoái đầu lại…

Những chuyện ấy Đavưđốp được nghe khi đã tới lán, còn như lúc này, bảo bác Suka đi về xong, anh giục Radơmiốtnốp thúc ngựa. Và một lát sau họ tới lán đội hai.

Mưa vẫn rào rào trên thảo nguyên. Một cầu vồng ngũ sắc vắt ngang trời từ Grêmiatsi Lốc tới mặt đầm xa xa. Lán không có một ma nào. Chia tay với Radơmiốtnốp rồi Đavưđốp đi ra khoảnh ruộng cày gần đấy nhất. Gần tới thì thấy mấy con bò đã tháo ách đang tha thẩn gặm cỏ, còn anh thợ cày Akim Bexkhlépnốp, ngại về lán, nằm lăn kềnh ngay trên luống cày, trùm tấm áo dipun kín đầu đang thiu thiu ngủ trong tiếng mưa rơi lộp độp như ru. Đavưđốp lay anh ta dậy:

- Sao bỏ đấy không cày?

Akim miễn cưỡng đứng dậy, ngáp một cái, cười trừ:

- Mưa thế này không cày được, đồng chí Đavưđốp ạ. Thế mà đồng chí không biết à? Con bò đâu phải cái máy kéo. Hễ lông cổ nó mà ướt thì vai cày cọ xát làm bật máu tươi cổ ra ngay, thế là từ đấy hết cày! – Thoáng thấy một vẻ nghi ngờ trong anh mắt Đavưđốp, anh ta vội thêm: - Đúng thế đấy, cấm sai đâu. Đồng chí ra can cái đám đánh nhau kia đi thì hơn kìa. Từ sáng đến giờ Maiđanhikốp cứ cà khịa suốt với Atamantsukốp thôi… Đấy, bây giờ họ lại đang choảng nhau ở khoảnh ruộng đằng ấy đấy. Kônđrát bắt thả bò, còn Atamantsukốp thì bảo: “Đừng đụng đến cày của ông, không ông đánh vỡ đầu đấy…”. Đấy, họ lại túm ngực nhau đấy.

Đavưđốp nhìn ra cuối khoảng ruộng thứ hai sau lán kho và thấy đúng là có chuyện gì như ẩu đả: Maiđanhikốp đang vung một thanh sắt, như vung kiếm, còn anh chàng Atamantsukốp cao kều thì một tay gạt anh ta ra, không cho đụng đến ách cày, một tay nắm chặt ngoặt sau lưng. Xa quá nên không nghe thấy lời đi tiếng lại. Đavưđốp vội rảo bước tới, réo lên từ xa:

- Chuyện gì lôi thôi đó?

- Đời thuở nào thế này không, đồng chí Đavưđốp! Đang mưa, mà nó cứ cày! Nó làm toét hết vai bò ra chứ còn gì! Tôi bào nó: “Trời mưa thì tháo bò ra”, nó mắng ngay vào mặt tôi: “Không việc gì đến mày!”. Thế thì việc đến ai, đồ chó đẻ? – Maiđanhikốp quay sang phía Atamantsukốp, vung thanh sắt lên quát: - Tiên sư mày, việc đến ai?

Xem ra hai người đã choảng nhau được một trận rồi: một bên mắt Maiđanhikốp sưng u lên, tím bầm, còn Atamantsukốp thì cổ áo sơ mi rách toạc và máu chảy đọng trên đôi môi sưng vểu râu ria nhẵn nhụi.

Mừng thấy có Đavưđốp đến, Maiđanhikốp quát:

- Tao không cho phép đứa nào làm hại nông trang! Nó dám mở miệng nói: “Bò nông trang, bò tao đâu mà tao cần!”. À, thế là bò nông trang thì mày định lột da nó ra à? Buông bò ra, đồ ăn tàn phá hại!

- Đừng có giở lối ra lệnh! Và mày không có quyền đánh tao! Không cẩn thận tao cho mày một quả này thì bửa mặt mày ra! Tao phải đạt mức mà mày lại định cấm tao hả? - Atamantsukốp gào lên khàn khàn, tay trái sờ soạng tìm khuy cài cổ áo.

Đavưđốp vừa đi vừa giằng lấy thanh sắt ở tay Maiđanhikốp, quẳng xuống đất, và hỏi Atamantsukốp:

- Mưa có cày được không?

Mắt Atamantsukốp long lên sòng sọc. Hắn ngoái cái cổ ngẳng lại, rít giọng hằn học đáp:

- Cày cho chủ thì không được, cày cho nông trang thì cứ phải cày!...

- “Cứ phải” là thế nào?

- Phải đạt kế hoạch chứ thế nào! Mưa hay không, cứ cày. Cày không đạt mức, thằng Liubiskin này lại sắp lải nhải suốt ngày, nói rát mặt.

- Câm mẹ nó cái mồm đi… Hôm qua nắng ráo, mày có đạt mức không?

- Tao cày hết sức tao rồi!

Maiđanhikốp cười sằng sặc:

- Nó cày được một phần tư đêxiachin! Đồng chí nhìn bò của nó mà xem! Với tay không tới sừng, thế mà nó cày thế nào? Ta lại đây, đồng chí Đavưđốp! Rồi đồng chí xem. – Anh nắm lấy tay áo măng tô ướt sũng của Đavưđốp, dẫn ra luống cày. Anh uất nghẹn lên, lắp bắp: - Chúng tôi quyết định cày sâu ít ra là ba vécsốc rưỡi, thế mà đây, đồng chí đo thử xem!

Đavưđốp cúi xuống, thọc ngón tay xuống lớp đất cày nhão nhoét và dính bết. Từ đất rắn lên đến mặt cỏ sâu không hơn một rưỡi hai vécsốc.

- Thế này mà là cày ư? Là gãi đất, đâu phải là cày! Sáng nay tôi đã muốn nện cho hắn một trận rồi, về cái thành tích này đây. Đồng chí cứ đi xem hết, chỗ nào hắn cũng cày thế cả!

- Này, lại đây! Bảo lại đây mà! – Đavưđốp réo gọi Atamantsukốp đang miễn cưỡng tháo ách bò.

Atamantsukốp lừng khừng bước tới. Đavưđốp rít cái răng sứt hạ giọng hỏi:

- Anh làm ăn… thế hả?

- Anh còn muốn thế nào nữa? Muốn cày sâu tám vécsốc chắc? - Atamantsukốp lim dim mắt hằn học, trật mũ giơ ra cái đầu cạo trọc lốc, cúi rạp xuống chào; - Xin cám ơn các anh! Anh thử cày lấy xem có sâu hơn được không? Nói thì ai cũng nói được, nhưng làm thì cấm thấy mặt ai!

- Anh hỏi tôi muốn thế nào hả? Muốn đuổi cổ anh ra khỏi nông trang, đồ chó má! – Đavưđốp quát, đỏ mặt tía tai. – Và tôi sẽ đuổi cho mà xem!

- Mời anh đuổi cho tôi nhờ! Chẳng đuổi tôi cũng tếch! Tôi đâu phải đầy tớ nai lưng ta làm mòn đời cho các anh. Mọt xác để làm gì không biết!

Và hắn bỏ về lán, miệng huýt sáo.

Tối hôm ấy, họp toàn đội ở lán, vừa khai mạc Đavưđốp nói ngay:

- Tôi đặt vấn đề này đề nghị đội thảo luận: ta nên xử lý thế nào với kẻ mang tiếng là nông trang viên mà lại làm ăn trí trá với nông trang và Chính quyền xôviết, đáng lẽ phải cày sâu ba vécsốc rưỡi thì lại chỉ cày một vécsốc rưỡi, làm hỏng bét cả? Với kẻ cố tình làm dưới trời mưa để giết bò, còn lúc nắng ráo thì chỉ đạt nửa định mức?

- Đuổi ra! – Liubiskin nói.

Ý kiến của anh được các bà các chị ủng hộ đặc biệt hăng hái.

- Trong đám ta có một nông-trang-phá-hoạt-viên như vậy đấy. Anh ta kia! – Đavưđốp giơ tay chỉ Atamantsukốp đang ngồi trên chiếc càng xe: - Đội ta có mặt đông đủ. Tôi xin đặt vấn đề biểu quyết: ai tán thành đuổi cổ ra khỏi nông trang kẻ phá hoại và ăn bơ làm biếng Atamantsukốp?

Trong tổng số hai mươi bảy người, có hai mươi ba người tán thành. Đavưđốp đếm xong, lạnh lùng bảo Atamantsukốp:

- Mời anh xéo đi cho. Từ nay anh không phải nông trang viên nữa, thực tế thế! Đợi một năm nữa chúng tôi sẽ xét: nếu anh biết sửa chữa, chúng tôi sẽ nhận lại. Bây giờ, thưa các đồng chí, tôi có một vấn đề quan trọng nói ngắn vài câu với các đồng chí. Hầu hết các đồng chí đều làm ăn không ra sao. Rất không ra sao! Không một ai, trừ Maiđanhikốp, đạt định mức cả. Thật là đáng xấu hổ cho đội hai các đồng chí! Cứ kiểu này thì thật dơ mặt. Làm việc như thế thì thành đèn đỏ và mặt kiếp đèn đỏ! Ta phản chấn chỉnh lại tận gốc.

Akim Bexkhlépnốp phát biểu:

- Định mức đặt cao quá! Bò kéo không nổi.

- Cao quá ư? Bò kéo không nổi ư? Vô lý! Thế sao bò Maiđanhikốp lại kéo nổi? Tôi sẽ ở lại với các đồng chí, nhận bò của Atamantsukốp và sẽ bằng hành động thực tế làm để các đồng chí thấy rằng mỗi ngày có thể cày được một hécta, thậm chí là một hécta tư.

- Ê, anh Đavưđốp, anh khéo lắm! Mồm mép anh thật là chẳng còn hớ vào đâu, - Kugienkốp cười hề hề, tay túm lấy chòm râu muối tiêu ngắn cụt của mình: - Cày bằng bò Atamantsukốp thì đến sừng quỷ cũng cày bật đi được! Đưa tôi đôi bò ấy thì một hécta tôi cũng làm bay…

- Bò anh không cày được à?

- Có cày cái chết tiệt!

- Nào, thế thì ta đổi? Anh lấy bò của Atamantsukốp, tôi lấy bò anh! Được chưa?

Kugienkốp ngẫm nghĩ một tí, rồi thận trọng đáp giọng nghiêm trang:

- Để thử xem.

… Đêm hôm ấy Đavưđốp cứ trằn trọc. Nằm trong chiếc lều dã chiến, anh thức giấc luôn, lúc thì do mái tôn gió thổi lẻng xẻng, lúc thì do nằm co ro dưới tấm áo capốt ngấm mưa chưa khô, nửa đêm bị lạnh, lúc thì do rệp lúc nhúc trong tấm lông cừu anh nằm… Tờ mờ sáng Kônđrát Maiđanhikốp lay anh dậy. Kônđrát đã đánh thức toàn đội dậy cả rồi. Đavưđốp nhảy ra khỏi lều. Trời đằng tây nhấp nháy bóng sao mờ, mảnh trăng lưỡi liềm nom như nét khắc vàng óng trên tấm giáp thép xanh biếc của bầu trời. Đavưđốp vốc nước đầm rửa ráy. Kônđrát đứng bên anh, băn khoăn nhấm nhấm đầu bộ ria vàng hoe, nói:

- Hơn một đêxiachin một ngày thì nhiều đấy… Hôm qua đồng chí nói hơi bốc, đồng chí Đavưđốp ạ! Khéo chuyến này chúng mình hố…

- Tất cả là tuỳ ta hết, tất cả trong tay ta! Quái nhỉ, cậu sợ cái gì? – Đavưđốp động viên anh ta, nhưng trong bụng nghĩ: “Chuyến này thì mình sẽ chết lăn ra giữa luống cày đây, nhưng mình sẽ làm bằng được! Đêm mình sẽ dong đèn lên cày, không thì không thể đạt được một đêxiachin tư. Dơ mặt toàn thể giai cấp công nhân…”.

Trong khi Đavưđốp lau mặt bằng vạt áo vải dày cộm Kônđrát đã đóng xong bò của cả hai anh em, réo gọi:

- Ta đi thôi!

Trong tiếng bánh xe cày rít cót két, Maiđanhikốp giải thích cho Đavưđốp rõ những nguyên tắc đơn giản đã áp dụng bao nhiêu chục năm nay của cách cày bằng bò:

- Bọn tôi cho cày Xakốp là loại cày tốt nhất. Đơn cử cái cày Ácxaixkơ, cày ra cày đấy, khỏi nói, ấy thế mà còn xa mới bằng cái anh Xakốp! Kiểu nó không hay bằng cày Xakốp. Bọn tôi đã quyết định cày như thế này: anh nào làm lô anh ấy, và cứ thế mà dũi. Lúc đầu, Bexkhlépnốp, Atamantsukốp, Kugienkốp, và cả anh chàng Liubiskin nữa cũng nhập bọn, cày theo cái lối nối đuôi nhau. Họ bảo: “Nông trang thì phải làm tập thể, cày sau theo cày trước”. Họ cứ thế mà làm. Chỉ có tôi là thấy làm thế chẳng đi đến đâu… Cày trước mà dừng lại là các cái sau cũng dừng. Giả sử cày đầu trục trặc thì các cái sau dồn xô vào nhau. Thế là tôi làm om lên, bảo: “Để tôi đi đầu, không thì ai cày lô người ấy”. Đến lúc này thì Liubiskin nữa cũng đã thấy cày thế là không ổn. Ai làm tốt, ai làm xấu cũng chẳng hay. Chúng tôi mới chia lô ra, tôi cũng tách ra cày riêng, và thắng luôn bọn khỉ gió ấy mười điểm! Mỗi lô của chúng tôi là một đêxiachin: một trăm sáu mươi xagien cày xá dọc và mười lăm xagien cày xá ngang.

- Thế tại sao xá ngang lại không cày nhỉ? – Đavưđốp nhìn rìa lô đất cày, thắc mắc hỏi:

- À, nó là thế này: anh cày xong xá dọc, rồi anh cho bò quay ngang, thế chứ gì? Nếu bắt chúng quay ngoắt một cái, anh sẽ xé toạc cổ chúng ra, thế là đi đứt con bò, cày kéo sao được nữa! Thành thử phải cày dọc đã, rồi quay cày và rong bò đi không mười lăm xagien, còn máy kéo thì nó quay ngoắt được là bởi vì bánh trước của nó quặt được, rồi sau đó cho nó đi ngược chiều lại, còn như ba bốn cặp bò thì quay như thế làm sao được? Lũ bò thì cũng như lính trong hàng, phải quay cùng chân trái, để ở chỗ ngoặt ấy vẫn cày được như thường. Chính vì vậy mà cày bằng bò không thể cày lô lớn được. Máy cày đường càng dài thì cày càng nhẹn, còn như với bò thì tôi xới một trăm sáu mươi xagien luống dọc xong thì cày của tôi lại phải đi ngang, gãi đất không thôi. Đây, tôi vẽ cho anh xem. – Và Kônđrát dừng lại, lấy đầu que nhọn vạch xuống đất một ô dài: - Đây là khoảng bốn đêxiachin. Dọc: trăm sáu mươi xagien, và ngang: sáu mươi. Đây nhá, tôi cày luống dọc thứ nhất, anh xem đây: giả sử tôi cày một đêxiachin tôi phải đi không mười lăm xagien ở đoạn rẽ, vậy nếu tôi cày bốn đêxiachin thì đi không sáu mươi xagien. Rõ ràng không ổn chứ gì? Anh rõ chưa? Lãng phí thời gian…

- Rõ rồi. Cậu trình bày cụ thể lắm.

- Anh đã cày bao giờ chưa?

- Chưa, cậu ạ, chưa có dịp nào. Cái cày, mình có biết đại khái, nhưng sử dụng nó thì mình chịu. Cậu chỉ bảo cho mình, mình học cũng sáng dạ.

- Tôi đóng cày cho anh, đi với anh hai xá, rồi là anh khắc cày lấy một mình thôi mà.

Kônđrát lắp cày cho Đavưđốp, lắp chốt, để độ sâu ba vécsốc rưỡi và chuyển sang “mình mình cậu cậu” lúc nào không biết, vừa đi vừa giải thích:

- Ta cày, rồi cậu sẽ thấy: nếu bò kéo nặng quá, cậu cứ vặn cái này vào vòng rưỡi. Cái này chúng mình gọi là cái thùng; cậu thấy không, nó quay được, còn hàng luống thì đóng cố định. Cậu vặn cái thùng, lưỡi cày sẽ nâng lên, và sẽ ăn rộng không phải ra hết tám insơ (*) mà chỉ sáu thôi, bò kéo sẽ nhẹ hơn. Nào, ta cày! Vắt, con hói này! Vắt, brrrr!.... Đừng có gượng nhẹ cái bụng, đồng chí Đavưđốp ạ!

Dong bò cho Đavưđốp là một thằng bé. Nó vung roi đánh đét một cái, và đôi bò đằng trước nhịp nhàng gò lưng lấy đà. Đavưđốp nắm lấy tay cày, trong bụng hơi bồi hồi, bước đi theo cày, mắt nhìn lớp đất đen mỡ màng bị lưỡi cày bóc ra, vặn theo diệp cày bóng loáng và đổ nghiêng xuống, nom như một đàn cá ngủ.

Đi hết xá cày, Maiđanhikốp chạy tới chỗ Đavưđốp, chỉ bảo:

- Cho cày né sang trái để nó trượt lướt, và muốn khỏi phải rửa diệp cày thì như thế này, nom đây! – Anh đè lên tay cày bên phải, dựng “cắm mũi” cày xuống, thế là lớp đất bóc nghiêng nghiêng xiết mạnh vào diệp cày, liếm sạch bùn bám chặt trên lưỡi diệp.- Đấy, làm như thế! – Kônđrát đẩy cái cày ra, mỉm cười: - Đây cũng là kỹ thuật chứ bỡn đâu! Còn nếu như không “cắm mũi” cày xuống thì khi cày đi ngang cậu sẽ phải lấy que gạt bùn bám vào diệp. Bây giờ thì cày của cậu đã sạch như lau thì cậu có thể vừa đi vừa cuốn điếu thuốc hút cho ấm bụng. Này!

Anh chìa cho Đavưđốp túi thuốc vo tròn, cuốn một điếu, hất hàm chỉ đám bò của mình:

- Cậu nom, con mụ nhà mình nó cày bới tung bới toé lên kìa! Cày chỉnh rồi đấy, nhảy cóc ít thôi; chỉ một mình mụ cũng cứ cày được đấy…

Đavưđốp hỏi:

- Chị ấy dong bò cho cậu à?

- Phải, mụ ấy. Làm với mụ ấy cũng dễ chịu. Đôi lúc có quát lên mụ ấy cũng không lấy thế làm bực, và nếu có bực thì cũng chỉ hết ngày hôm ấy thôi… Đêm lại làm lành: chẳng gì cũng là vợ chồng…

Kônđrát mỉm cười và xoạc cẳng bước thấp bước cao đi trên luống cày.

Tầm đầu, cho tới lúc nghỉ ăn sáng, Đavưđốp đã cày được một phần tư đêxiachin. Anh nuốt quấy quá bát cháo, đợi cho bò ăn xong, nháy mắt bảo Kônđrát:

- Tiếp tục chứ?

- Có ngay. Anhiútka, dắt bò ra!

Và hết xá nọ đến xá kia, đất bị nén chặt lại qua hàng bao nhiêu thế kỷ lại tiếp tục bị lưỡi cày và diệp cày xắn ra, đổ ngả xuống. Cỏ bị lộn tung lên, giơ lên trời những chùm rễ co quắp, mặt cỏ bửa ra, úp xuống, khuất vào hõm tối. Đất bên mé diệp cày đưa đảo, lộn nhào xuống, như sóng lượn. Mùi hương nhàn nhạt của đất đen nghe dễ chịu và khoẻ người. Mặt trời còn cao, vậy mà lớp lông bạc màu của con bò đã xẫm lại vì đẫm mồ hôi…

Về chiều, chân Đavưđốp bị ủng cọ xát buốt nhức nhối, lưng đau ở ngang hông. Anh đi đo khoảng đất vừa cày, chân vấp lên trượt xuống, và nở một nụ cười trên đôi môi khô nẻ bụi bám đen: ngày hôm nay anh đã cày được một đêxiachin.

Khi Đavưđốp lê chân về tới lán, Kugienkốp hỏi, miệng thoáng một nụ cười ranh mãnh:

- Thế nào, hôm nay bới lên được bao nhiêu?

- Thử đoán xem!

- Có được nửa đêxiachin không?

- Xin lỗi anh, một đêxiachin, thêm một xá!

Kugienkốp đang ngồi lấy mỡ bôi chỗ chân vấp phải răng bừa bị đứt toạc, kêu lên một tiếng, đi ra đo khoảng đất Đavưđốp đã cày… Nửa giờ sau, lúc trời đã tối sẫm, anh ta trở về, ngồi xuống cách đống lửa hơi xa xa.

Đavưđốp hỏi:

- Không phát biểu gì à, Kugienkốp?

- Tôi đang đau chân… Còn phát biểu gì nữa, một đêxiachin thật… Cày khá đấy! – Kugienkốp miễn cưỡng đáp, nằm dài xuống bên  lửa, kéo áo dipun lên đầu.

- Người ta khoá miệng ông rồi hả? Giờ thì hết quang quác chứ? – Kônđrát cười ha hả, nhưng Kugienkốp cứ lặng thinh, như không nghe thấy.

Đavưđốp ngả lưng xuống bên lán, nhắm mắt lại. Từ đống lửa bốc lên mùi tro củi. Bước suốt ngày hôm nay, hai lòng bàn chân anh bỏng rát, hai ống chân nhức nhối. Co duỗi chân kiểu nào vẫn thấy không ổn, vẫn muốn đổi kiểu khác… Và vừa đặt mình nằm xuống đã thấy bồng bềnh hiện ra trước mắt làn đất đen bị xáo động: lưỡi cày sáng bóng lướt êm ru, và bên nó, làn đất đen trườn mình, thay hình đổi dạng, sôi lên như hắc ín… Cảm thấy hơi choáng  váng nôn nao, Đavưđốp mở mắt ra, réo gọi Kônđrát.

Kônđrát hỏi lại:

- Không ngủ được à?

- Không hiểu sao đầu cứ quay như chong chóng, nhắm mắt lại độc thấy lưỡi cày vặn đất lên…

- Ấy, thế là thường! – Giọng Kônđrát nghe như thoáng có một nụ cười thông cảm. – Suốt ngày anh cúi nhìn xuống chân, do đó sinh ra chóng mặt chứ sao. Thêm nữa, cái hơi đất nó cũng khiếp lắm cơ, ngửi đâm say. Anh Đavưđốp ạ, mai đừng nhìn cắm xuống đất nữa, cứ nhìn ra xung quanh thì hơn…

Đêm hôm ấy, Đavưđốp chẳng còn biết đến rệp đốt, chẳng còn nghe tiếng ngựa hí cũng như tiếng đàn ngỗng trời về muộn xao xác nghỉ đêm trên đỉnh đèo: anh ngủ say như chết. Trời chưa sáng, anh tỉnh dậy đã thấy Kônđrát xúng xính tấm áo dipun bước tới lán.

Đavưđốp còn đang ngái ngủ, ngóc đầu lên hỏi:

- Đi đâu về thế?

- Chăn mấy con bò của cậu và của mình… Lũ bò được bữa no. Mình xua chúng nó xuống lòng khe, cỏ ở đấy tốt lắm…

Tiếng nói khàn khàn của Kônđrát hối hả xa đi, rồi lắng bặt… Đavưđốp không nghe được hết câu: con ma ngủ lại kéo đầu vật xuống tấm áo lông ướt đẫm sương đêm, dìm anh trong cơn mơ mơ màng màng.

Ngày hôm ấy, Đavưđốp cày đến chiều được một đêxiachin, thêm hai xá, Liubiskin được đúng một đêxiachin, Kugienkốp non một đêxiachin. Và điều hoàn toàn bất ngờ cho họ là Anchíp Gráts, xưa nay vẫn thuộc nhóm lạc hậu mà Đavưđốp gọi đùa là “đội ốm ho”, đã vượt lên hàng đầu. Anh ta cày bằng mấy con bò gầy của thằng Titốc trước. Lúc ăn trưa, anh ta cứ nín thinh, chẳng kể lể mình đã cày được bao nhiêu; ăn uống xong, cô vợ, người dong bò cho anh, đã lấy khẩu phần của bò là sáu phuntơ thức ăn đóng bánh để vào vạt váy cho bò ăn; và Anchíp lại còn rũ nốt vào váy vợ những mẩu bánh mì ăn còn thừa cho bò “cải thiện” thêm. Liubiskin thấy thế mỉm cười:

- Dấn lên, Anchíp!

- Thì dấn! Cái giống nhà tôi làm lụng có kém gì ai! – Gráts, nước da phơi nắng xuân càng đen sạm thêm, đối đáp lại với giọng thách thức.

Quả là anh ta dấn hăng thật: đến chiều anh đã cày được một đêxiachin một phần tư.

Trời đã tối thì Kônđrát Maiđanhikốp lùa bò về trại. Nghe Đavưđốp hỏi: “Được bao nhiêu?”, anh khàn khàn đáp: “Thiếu một xá đầy một đêxiachin rưỡi. Cho xin điếu thuốc… nửa ngày chưa được hơi nào đây…”, và đưa đôi mắt mệt mỏi như đắc thắng nhìn Đavưđốp.

Cơm chiều đã xong xuôi, Đavưđốp tổng kết:

- Thưa các đồng chí, phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa đang lên mạnh trong đội hai ta! Tốc độ cày rất khá. Ban quản trị nông trang xin gửi đội hai lời cảm ơn bônsêvích. Các đồng chí thân mến, chúng ta sẽ đuổi kịp được các đội bạn, thực tế thế! Nhất định sẽ đuổi kịp, vì thực tế đã chứng tỏ mức đặt ra là có thể thực hiện được! Bây giờ ta phải dốc sức vào việc bừa. Và nhất thiết phải bừa ba lượt! Đặc biệt xin cám ơn đồng chí Maiđanhikốp, vì đồng chí ấy là uđarnhích (**) gương mẫu nhất.

Chị em mang bát đi rửa. Đám thợ cày đi nằm. Bò được dắt ra bãi. Kônđrát đã thiu thiu ngủ thì chị vợ rúc vào dưới tấm áo dipun anh đang đắp, huých vào sườn anh, hỏi:

- Anh Kônđrát này, Đavưđốp bảo anh là cái gì nhỉ… Để tuyên dương ấy mà… “Uđarnhích” là cái quái gì không hiểu?

Kônđrát đã nghe cái tiếng ấy nhiều lần rồi, nhưng không biết giải nghĩa thế nào. Anh ngán ngẩm nghĩ bụng: “Chán quá, giá mình hỏi Đavưđốp!”. Nhưng anh không thể đánh bài lờ, để mất uy tín trước mặt vợ, đành hiểu sao nói vậy:

- “Uđarnhích” ấy hả? Sao cô dốt thế! “Uđarnhích” là… ờ… Nghĩa là… Nói thế nào cho cô hiểu bây giờ! Đây nhé, nói thí dụ, khẩu súng nó có cái cò mổ vào đít đạn – cái đó cũng gọi là uđarnhích. Trong khẩu súng nó là bộ phận quan trọng nhất, thiếu nó đố bắn được… Trong một nông trang thì cũng vậy thôi: “Uđarnhích” là vai trò quan trọng nhất, hiểu chưa? Thôi ngủ đi, đừng quấy rầy người ta nữa!

---------------------------

(*)          Insơ = 2.5 cm. – ND

(**)        Có nhiều nghĩa: lao động tiên tiến, kim hoả (qs), v.v.. – ND.

CHƯƠNG XXXVII

Đến rằm tháng Năm, toàn huyện về cơ bản đã gieo xong. Nông trang Grêmiatsi Lốc đã hoàn thành kế hoạch gieo. Trưa ngày mồng mười, đội ba đã gieo xong tám hécta mầu còn lại gồm ngô và hạt quỳ, và liền sau đó Đavưđốp cử giao thông hoả tốc phóng ngựa lên huyện uỷ đưa bản báo cáo về việc hoàn thành vụ gieo.

Lúa tiểu mạch gieo sớm đâm lá nom đến vui mắt, nhưng ở cánh đồng đội hai có gần một trăm hécta lúa Kuban gieo vào những ngày đầu tháng năm. Đavưđốp e rằng lúa Kuban gieo muộn không đâm chồi được; Liubiskin cũng e ngại như anh, còn Iakốp Lukits thì thẳng thừng tuyên bố dứt khoát:

- Hỏng! Nhất định hỏng! Các anh muốn gieo suốt mấy tháng hè mà lại mong ăn à? Trong sách có nói là ở Ai Cập một năm gieo hai vụ và gặt hai vụ, nhưng đồng chí Đavưđốp ạ, Grêmiatsi Lốc ta đâu phải Ai Cập cho đồng chí, ở ta là phải làm sít sao theo thời vụ!

Đavưđốp nổi xung lên:

- Này, ông ăn nói cái lối cơ hội chủ nghĩa gì vậy? Lúa ta bắt buộc phải nẩy! Và nếu cần, ta cũng sẽ thu hoạch hai vụ. Đất của ta là của ta: ta muốn khảo nó cái gì, nó cũng phải chịu, thực tế thế!

- Đồng chí nói cứ như trẻ con.

- Được, rồi xem. Này, ông bạn Ôxtơrốpnốp ạ, ông bạn ăn nói đặc giọng hữu khuynh. Cái khuynh hướng ấy Đảng không cần đến nó, nó có hại… Nó đã bị đả ra trò đấy, ông bạn nhớ cho điều đó.

- Tôi nói chuyện khuynh khiếc gì đây, tôi nói chuyện đất cát. Những chuyện khuynh khiếc thì tôi xin chịu.

Nhưng trong lúc hy vọng lúa Kuban sẽ mọc đều, Đavưđốp vẫn không sao xua tan được nỗi ngờ vực trong lòng, và ngày nào cũng thắng ngựa phóng ra thăm cánh đồng cháy nắng, thăm những thửa ruộng đã gieo xong xuôi nhưng vẫn đen sì một màu chết chóc đáng sợ.

Mặt ruộng khô đi rất mau. Hạt thóc gieo thiếu mầu không đủ sức đâm chồi lên. Chồi lá nhọn, mềm mại yếu ớt, cứ nằm rũ dưới những hòn đất bở hầm hập hơi nắng, muốn vươn lên ánh sáng nhưng không đủ sức chọc thủng lớp vỏ đất hanh cứng thiếu hơi ẩm. Đavưđốp xuống ngựa. Anh quỳ xuống, lấy tay bới đất, và trong khi xem xét trên lòng bàn tay hạt thóc đã nhú ngọn chồi non, cảm thấy xót xa cho hàng triệu hạt thóc nằm vùi dưới đất kia đang đau khổ vươn tới ánh sáng mặt trời vậy mà hầu như cầm chắc cái chết. Trời mà mưa cho một trận, lúa sẽ lên xanh cánh đồng ngay. Nhưng trời chẳng chịu mưa cho, và mặt ruộng cứ um lên giống cỏ dại sống dai, khoẻ  và dễ tính.

Một buổi chiều một đoàn đại biểu phụ lão đến tìm Đavưđốp tại nhà.

- Chúng tôi có chút việc muốn phiền đồng chí. – Ông lão Akim Mò gà vừa chào vừa nói, và đưa mắt tìm hoài bức tượng thánh để làm dấu phép mà không thấy.

- Có việc gì vậy?... Không có tượng thánh đâu, cụ ạ, đừng tìm mất công.

- Không có à? Thì thôi… chẳng sao… Còn việc thì phụ lão chúng tôi đề nghị với đồng chí…

- Làm sao?

- Lúa tiểu mạch đội hai xem rõ ràng là không mọc nổi thì phải?

- Chưa có cái gì rõ ràng cả, cụ ạ.

- Chưa rõ ràng, nhưng có vẻ như vậy.

- Thì sao?

- Cần mưa.

- Đúng.

- Cho phép chúng tôi vời cụ đạo về làm lễ nước chứ đồng chí?

Đavưđốp mặt đã ửng lên:

- Để làm gì?

- Để Chúa làm mưa cho chứ để làm gì.

- Chà, lại còn thế nữa… Cụ ơi, thôi cụ về đi, và từ nay đừng có nói chuyện ấy với tôi nữa.

- Sao lại đừng nói? Lúa má có phải là của bà con chúng tôi không nhỉ?

- Của nông trang.

- Thế chúng tôi thì là cái gì? Chúng tôi là nông trang viên đây.

- Còn tôi thì là chủ tịch nông trang.

- Ai chả biết thế, đồng chí ơi, đồng chí không tin có Chúa, chúng tôi cũng chẳng dám yêu cầu đồng chí đi rước, nhưng đồng chí hãy cho phép chúng tôi: chúng tôi theo đạo má.

- Tôi không cho phép. Đại hội nông trang viên cử các cụ đến đây đấy hay sao?

- Thưa không. Đây là quyết định của các phụ lão chúng tôi.

- Đấy, thấy chưa: các cụ chỉ là thiểu số, và nếu có đưa ra đại hội bàn thì thế nào cũng bị bác. Này cụ ạ, muốn làm ăn thì ta phải vời đến khoa học, chứ đừng vời đến cụ đạo.

Đavưđốp nói một thôi dài, và nói thận trọng, cố không xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của các cụ. Các cụ nín thinh. Chuyện gần xong thì Maka Nagunốp xuất hiện. Anh nghe nói có các cụ đại biểu cho bà con đi đạo đến gặp Đavưđốp yêu cầu cho làm lễ nước, vội đến đây ngay.

- Vậy nghĩa là không được ạ? – Cụ Akim Mò gà thở dài đứng dậy.

- Không được, vả lại cũng vô ích. Chẳng cần rước trời cũng sẽ mưa.

Các cụ ra về. Nagunốp theo gót luôn ra phòng ngoài. Anh khép chặt cửa phòng Đavưđốp lại, thì thào bảo các cụ:

- Các cụ là giống người cổ lỗ sĩ lắm! Tôi còn lạ gì các cụ nữa: các cụ lúc nào cũng chỉ lăm le trở lại đời sống cũ; các cụ rắn mày rắn mặt như lũ quỷ. Cứ thả các cụ ra thì các cụ sẽ suốt ngày rước xách, tha ảnh thánh đi khắp thảo nguyên, xéo nát cả lúa má… Các cụ mà tự ý gọi cha đạo về đi riễu ngoài đồng thì tôi sẽ dẫn đội cứu hoả theo sau lấy vòi phun cho các cụ một trận ướt như chuột lột. Rõ chưa? Còn cái lão cụ đạo kia khôn hồn thì đừng vác mặt về đây. Cái giống ngựa đực lông lá bù xù ấy thì tôi cứ lấy kéo cắt lông cừu, tôi cắt trọc trước mặt bà con dân làng. Tôi làm cho ê mặt rồi thả ra. Các cụ rõ chưa? – Nói xong, anh trở vào phòng Đavưđốp, ngồi xuống chiếc hòm, mặt khó đăm đăm, bụng vẫn chưa hết hậm hực.

Đavưđốp hỏi, giọng ngờ vực:

- Cậu thì thào chuyện gì với các cụ thế?

Maka tỉnh bơ đi, đáp:

- Chuyện thời tiết.

- Thời tiết làm sao?

- Còn sao nữa, các cụ đã quyết định dứt khoát: không rước nữa.

- Các cụ bảo thế nào?

- Các cụ bảo: chúng tôi hiểu tôn giáo là thuốc phiện rồi. Nhưng việc gì cậu cứ phải vặn vẹo tôi thế? Cậu đúng là dai như đỉa, bám vào ai thì giẫy không ra! Nói gì, rồi lại nói sao?... Tôi nói chuyện gì thì mặc xác tôi chứ. Cậu chúa là hay giở cái trò dân chủ, thuyết phục, van xin. Với các lão ấy thì việc gì phải nói lôi thôi như vậy. Đầu óc họ tăm tối, đầy một cục ngu muội dốt nát. Nghĩa là đối với họ, hoài hơi mà dài dòng văn tự, cứ việc: một, hai, có nghe thì bảo. Thế là xong ngay!

Đavưđốp cười xoà, khoát tay, chịu thua. Anh chàng Maka này quả thật đánh chết cái nết không chừa. Maka làm dân ngoài Đảng mất hai tuần, thế rồi trên huyện có sự thay đổi lãnh đạo: Korghinxki và Khômutốp bị cách chức.

Bí thư huyện uỷ mới sau khi nhận được đơn khiếu nại của Nagunốp do ban thanh tra khu chuyển về, đã cử một uỷ viên thường vụ huyện uỷ về Grêmiatsi Lốc thẩm xét lại vụ này. Và sau đó huyện uỷ đã quyết định: huỷ bỏ quyết định cũ về việc khai trừ Nagunốp ra khỏi Đảng, với lý do hình thức kỷ luật quá nặng so với khuyết điểm. Hơn nữa một lô tội Nagunốp bị buộc cho hồi ấy (“đạo đức đồi bại”, “dâm ô hủ hoá”), sau khi được điều tra lại đã bị loại đi. Maka bị một án cảnh cáo và câu chuyện đến đấy là xong.

Đavưđốp thời gian qua tạm thời làm bí thư chi bộ, bàn giao trở lại công việc cho Maka, hỏi:

- Biết thân chưa? Từ nay còn quá khích nữa không?

- Biết quá đi rồi. Nhưng giữa mình với huyện uỷ thì biết ai quá khích?

- Cả hai. Mỗi bên một ít.

- Và mình cho là cả khu uỷ nữa cũng lệch lạc nốt.

- Thí dụ?

- Ví dụ thế này: tại sao không chỉ thị trả lại súc vật cho những người ra nông trang? Thế là tập thể hoá cưỡng bức rồi chứ còn gì? Đích thị là cưỡng bức! Người ta ra khỏi nông trang, thế mà súc vật lẫn nông cụ, chẳng trả lại cho người ta cái gì cả. Rõ rành rành họ lấy cóc gì mà sống, chẳng biết xoay xở ra sao, đành phải mò trở lại nông trang. Ức đấy, nhưng vẫn phải trở lại.

- Nhưng súc vật và nông cụ là tài sản không chia của nông trang!

- Thiết cha gì cái tài sản không chia ấy nếu như họ bất đắc dĩ mà quay trở lại nông trang? Quẳng mẹ nó trả lại cho họ!...”Này, nông cụ của các người đây, tọng đi, ngốn đi cho chết nghẹn!”. Mình thì mình sẽ cấm, không cho phép họ bén mảng tới gần nông trang nữa kia, thế mà cậu lại đi tiếp nhận cả một mớ những đứa quay quắt lật lọng ấy, cứ tưởng như sẽ biến họ thành được người nông trang viên tự giác! Tự giác cái con khir! Quân lật lọng ấy có ở trong nông trang đi nữa thì suốt đời cho đến ngày xuống lỗ chúng vẫn cứ ngấp nghé hướng về lối sống cá thể thôi… Mình lạ gì chúng nó! Và cái việc người ta không trả lại chúng nó súc vật và nông cụ thì đó là tả khuynh, còn như cậu nhận lại chúng nó vào nông trang thì đó là hữu khuynh. Anh bạn ạ, bây giờ tôi cũng chính trị cao ra phết rồi đấy, đừng hòng loè tôi nữa!

- Chính trị cao quái gì mà có mỗi một điều này cậu cũng không hiểu ra, là lúc này không thể thanh toán bất cứ khoản gì với những người xin ra được, mà phải đợi qua vụ đã!...

- Không, chuyện ấy tôi thừa hiểu.

- Chà, Maka ơi! Sống mà không ngang như cua thì hình như cậu không chịu nổi thì phải. Chuyện chẳng ra gì cậu cũng cứ làm lộn tùng phèo cả lên, thực tế thế!

Họ còn tranh cãi với nhau hồi lâu nữa, cuối cùng vặc nhau, rồi Đavưđốp bỏ ra về.

Trong hai tuần ấy ở Grêmiatsi Lốc đã có nhiều sự thay đổi: cả làng rất đỗi kinh ngạc thấy Marina Pôiarkôva tái giá với Đêmít Miệng hến. Anh đã dọn đến ở nhà mụ ta, nửa đêm tự mình đứng làm bò chở đến nhà mụ toàn bộ cái gia sản nghèo nàn của mình, còn túp lều nát của anh thì anh lấy ván đóng đinh chặn hết các cửa sổ và cửa ra vào lại.

Bà con dân làng nói: “Mụ Marina thật kéo kén chồng. Đôi ấy mà cùng làm thì khoẻ hơn cái máy kéo”.

Anđrây Radơmiốtnốp rụng rời chân tay khi nghe tin ả nhân ngãi bấy lâu nay đầu gối tay ấp của mình đi lấy chồng. Lúc đầu anh còn làm ra vẻ cứng, nhưng rồi không chịu nổi và bắt đầu uống rượu, giấu Đavưđốp. Nhưng Đavưđốp vẫn phát hiện ra, và cảnh cáo anh:

- Cậu vứt phéng chuyện con mụ ấy đi cho tôi. Vô nghĩa lý.

- Mình vứt rồi. Nhưng mình cay, cay không chịu được! Con chó cái ấy, nó bỏ mình đi lấy ai đã đành! Đi lấy cái của nợ ấy!

- Việc riêng của nó, kệ thây nó.

- Nhưng cậu bảo có cay không?

- Cậu muốn cay thì cứ cay, nhưng đừng uống rượu. Không phải lúc. Sắp phải làm cỏ rồi.

Và Marina lại cứ luôn luôn chạm chán với Anđrây, dường như cố tình, và nom mụ có vẻ hể hả mãn nguyện lắm.

Đêmít Miệng hến tung hoành trong cái cơ ngơi nhỏ xíu của mụ như  một con bò mộng khoẻ: trong vòng có vài ngày, anh đã sửa sang dọn dẹp tất cả nhà trên nhà dưới ngăn nắp đâu vào đó, một ngày một đêm đào được một hầm chứa sâu một xagien rưỡi, vác trên lưng những chiếc dầm và bắp cày nặng hàng chục pút… Marina giặt rũ, khâu vá quần áo cho anh, và không ngớt lời ca ngợi với bà con hàng xóm là Đêmít làm khoẻ:

- Này các bà ạ, nhà tôi thật là được việc. Anh ấy khoẻ như vâm. Tay sờ vào cái gì là cái ấy sôi lên sùng sục. Còn như anh ấy ít nói thì cha mẹ sinh con, trời sinh tính… Càng đỡ ầm nhà ầm cửa…

Còn Anđrây thì nghe nói Marina mãn nguyện với anh chồng mới, buồn bã than thân:

- Ôi, em Marina yêu quý của anh! Anh đây đâu phải không chữa nổi nhà xe hoặc đào hầm chứa cho em? Em đã làm tan nát cuộc đời trai trẻ của anh!

Lão kulắc Gaiép bị đưa đi đày đã được trở về Grêmiatsi Lốc: Uỷ ban bầu cử của khu đã trả lại quyền công dân cho lão. Lão Gaiép con cái lúc nhúc này về tới làng thì Đavưđốp gọi ngay lên trụ sở nông trang.

- Công dân Gaiép, bây giờ ông định làm ăn sinh sống ra sao, làm cá thể hay vào nông trang?

- Thì cũng phải thế thôi, - Gaiép đáp, chưa hết ức vì đã bị tịch thu tài sản trái phép.

- Thế nào mới được chứ?

- Xem ra thì không thoát khỏi được  nông trang.

- Vậy thì làm đơn đi.

- Thế còn tài sản của tôi?

- Gia súc của ông đã nhập vào nông trang cả, nông cụ cũng vậy. Còn cái món quần áo thì chia tẩu tán mất rồi. Chuyện này phức tạp đây. Trả được ông cái gì thì sẽ trả, còn lại sẽ thanh toán bằng tiền cho ông.

- Thóc lúa của tôi các anh cũng vét sạch cả…

- Chuyện này thì dễ. Ông đi gặp ông quản lý, ông ta sẽ bảo thủ kho cấp tạm cho ông mươi pút bột mỳ.

Nghe tin Đavưđốp định nhận Gaiép vào nông trang, Maka bực mình lắm, nói với Anđrây Radơmiốtnốp:

- Bây giờ người ta lại định biến nông trang thành cái sọt rác! Thế này thì Đavưđốp chỉ còn việc đăng quảng cáo lên báo “Cái búa” là nông trang sẽ nhận tất cả những bọn đi đày mãn hạn phát vãng…

Sau vụ gieo hạt, chi bộ Grêmiatsi đã phát triển lên gấp đôi; Paven Liubiskin, người đã ba năm đi ở cho Titốc, Nextor Lôsilin, đội viên đội ba, và Đemka Usakốp đã được kết nạp vào làm đảng viên dự bị. Hôm họp chi bộ kết nạp mấy người này, Nagunốp đã ngỏ ý với Kônđrát Maiđanhikốp:

- Vào Đảng đi Kônđrát ạ, mình sẵn sàng giới thiệu cậu. Ngày xưa cậu đã chiến đấu dưới quyền chỉ huy của mình, và hồi ấy cậu đã là một chiến sĩ kỵ binh dũng cảm. Và bây giờ cậu lại là một nông trang viên gương  mẫu. Này, mình hỏi cậu, sao lại cứ đứng ngoài thế? Tình hình đã đi tới chỗ cách mạng thế giới có thể nổ ra bất kỳ lúc nào, có thể là hai chúng ta sẽ lại phải chiến đấu một lần nữa trong cùng một đội kỵ binh để bảo vệ Chính quyền xôviết, thế mà ngày tháng trôi qua, cậu cứ không đảng viên thế mãi sao? Không coi được, cậu ạ! Vào Đảng đi!

Kônđrát thở dài một tiếng, và tâm sự:

- Không, đồng chí Nagunốp ạ, lương tâm không cho phép tôi vào Đảng lúc này…Nếu cần tôi sẽ lại đi chiến đấu bảo vệ Chính quyền xôviết, và ở nông trang tôi sẽ làm việc toàn tâm toàn ý, còn như xin vào Đảng thì tôi không thể…

Maka cau mày hỏi:

- Sao thế vậy?

- Vì cái nỗi là bây giờ tôi ở nông trang thật đấy, nhưng nghĩ đến của cải của mình vẫn cứ héo ruột héo gan… - Đôi môi Kônđrát run run, giọng anh chuyển sang thều thào vội vã: - Nhớ mấy con bò mà phát ốm lên, thương chúng nó… Chúng nó chẳng được chăm nom tử tế. Akim Bexkhlépnốp để cho vòng cổ làm trầy da con ngựa của tôi, tôi  trông thấy và mất ăn mất ngủ một ngày đấy… Con ngựa bé tẹo mà lại khoác cho nó cái  vòng cổ như cái cùm thế bao giờ? Chính vì thế mà tôi không dám. Một đôi khi tôi chưa đoạn tuyệt được với đầu óc tư hữu thì lương tâm không cho phép tôi vào Đảng. Tôi nghĩ như vậy đấy.

Maka ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:

- Cậu nghĩ thế cũng phải. Trước mắt cậu chưa nên vào. Chúng ta sẽ đấu tranh kịch liệt chống lại  mọi cái làm ẩu trong công việc của nông trang, sẽ sửa lại các vòng cổ cho vừa với ngựa. Nhưng nếu như đêm ngủ cậu còn mơ thấy đàn bò ngày trước của cậu thì đúng là cậu chưa nên vào Đảng thật. Vào Đảng là trong lòng phải không còn chút tiếc rẻ gì của tư hữu cơ. Vào Đảng là phải trong sạch và chỉ có một điều tâm niệm thôi, là đi tới cách mạng thế giới. Ông cụ nhà mình ngày xưa cũng khá giả, và mình còn bé cụ đã dạy cho trông nom việc nhà. Nhưng mình không mê cái trò ấy tý nào, coi nó là cái trò vô nghĩa lý. Mình đã rời bỏ cuộc sống ấm no, bỏ lại bốn đôi bò đực, đi làm thuê nếm mùi gian khổ… Cho nên chừng nào cậu chưa tẩy sạch được cái thứ ghét bẩn bám trên người là đầu óc tư hữu thì cũng chưa nên vào Đảng thật.

Tin Liubiskin, Usakốp và Lôsilin vào Đảng lan truyền đi nhanh chóng khắp Grêmiatsi. Một anh chàng kô-dắc nào đó trêu bác Suka:

- Thế nào, bác còn đợi gì nữa mà không lao đơn vào Đảng đi? Phần tử cốt cán mà lị! Họ sẽ phong chức cho bác, bác sẽ tậu lấy cái cặp da cắp nách mà chạy nhông.

Bác Suka nghĩ đi nghĩ lại rồi chiều hôm ấy, vừa sẩm tối đã đến nhà tìm gặp Nagunốp.

- Chào chú Maka!

- Chào bác. Có việc gì đây?

- Thiên hạ vào Đảng ầm ầm…

- Thì sao?

- Cờ có đến tay thì mới phất được.

- Sao nữa?

- Nghĩa là có lẽ lão cũng muốn vào Đảng. Này anh ạ, đời lão đâu phải để loanh quanh với mấy ả ngựa cái. Lão có phải con ngựa đực đâu.

- Thế thì lão muốn gì?

- Lão đã nói hai năm rõ mười rồi: lão muốn vào Đảng. Lão đến hỏi anh xem lão sẽ giữ chức gì, và còn được cái gì nữa… Anh nói xí dụ cho lão biết: biên đơn thì biên thế nào?

- Lão nói lẩm cẩm cái gì thế?... Lão tưởng người ta vào Đảng để lấy chức à?

- Thì đảng viên ta đều có chức cả đấy thôi.

Maka cố nén lại, lái sang chuyện khác:

- Hôm Phục sinh cụ đạo đến tìm lão phải không?

- Đích thị.

- Lão cúng hắn cái gì không?

- Tất nhiên là có. Một đôi trứng và đương nhiên là khúc thịt mỡ nữa, độ nửa phuntơ.

- Nghĩa là đến bây giờ lão vẫn tin vào Chúa hả?

- Tất nhiên là cũng chẳng tin lắm, nhưng gặp lúc ốm đau, hoặc là có chuyện gì chẳng lành, hoặc là nói xí dụ, sấm sét đùng đùng thì đương nhiên là lão cũng cầu đến Chúa, đọc vài câu kinh.

Maka cũng định giải quyết với bác Suka một cách lễ độ, giải thích cho bác rõ đầu đuôi tại sao không thể kết nạp bác vào Đảng được, nhưng trong khi khơi chuyện cho bác ta nói, anh đã không chuẩn bị đầy đủ tinh thần kiên nhẫn, và thế là anh tuôn ra ngay cho một tràng:

- Xéo đi cho khuất mắt, đồ nỡm già! Đem trứng cúng cụ đạo, rẩy nước thánh, rồi lại mơ tưởng chức nọ chức kia, thế mà sờ đến việc thì trộn cho ngựa ăn cũng không nên thân. Hạng ba hoa xích đế như lão thì Đảng nhận vào làm cái khỉ gió gì? Lão định đùa dai tôi phỏng? Lão tưởng đồ ba bị nào cũng vào được Đảng à? Cái nghiệp của lão chỉ là khua môi múa mép, ăn nói quàng xiên thôi. Xéo đi, đừng có trêu ngươi tôi, tính tôi là tính nóng như lửa đây. Sức khoẻ tôi không để cho tôi ăn nói ôn tồn được với lão đâu. Xéo đi, đã bảo, có xéo đi không?

Ra đến ngoài, bác Suka vừa vội vã đóng sập cổng hàng rào lại vừa tiếng rẻ: “Mình xuất hành phải cái giờ xấu rồi! Đáng lẽ đợi hắn ăn cơm xong hẵng đến mới phải”.

Một tin cuối cùng làm cho cả làng và nhất là các cô gái Grêmiatsi Lốc xôn xao là tin thằng Đưmốc chết.

Ephim Tơrubatsép và Batansikốp bị toà án nhân dân kết án tù, viết thư về kể rằng trên đường ra ga, thằng Đưmốc nhớ quê hương, tiếc cuộc sống tự do, đã trốn chạy. Anh công an đi áp giải đã hô lên ba lần: “Đứng lại!”. Nhưng Đưmốc cứ lom khom chạy tắt cánh ruộng cày vào rừng. Chỉ còn độ mười lăm xagien nữa là hắn tới rừng thì anh công an quỳ xuống, giương súng, và bắn đến phát thứ ba thì Đưmốc gục.

Ngoài bà cô hắn ra thì cũng chẳng có ai khóc anh chàng không cha không mẹ ấy, và các cô gái đã được Đưmốc dìu dắt vào cái nghệ thuật không lấy gì làm phức tạp lắm của ái ân, nếu có buồn thương thì cũng chỉ sơ sơ vài bữa.

“Người chết hết chuyện…”. Và nước mắt con gái chẳng qua cũng chỉ là hạt sương buổi sớm mà thôi…

CHƯƠNG XXXVIII

Năm 1930 lần đầu tiên mất cái tục “những tháng ăn chơi”. Trước đây, khi người ta còn sống theo lối sống cũ, thì hai tháng này được gọi là “những tháng ăn chơi” quả cũng không sai. Gieo xong, bà con nông dân đủng đỉnh chuẩn bị cho mùa cắt cỏ gia súc: bò, ngựa tha thẩn trên các bãi cỏ lấy lại sức, còn nam giới kô-dắc ngồi đóng cái sào, sửa cái xe, chữa cái liềm hái… Hiếm có ai ra đồng vào cái nắng tháng Năm này. Xóm làng thiêm thiếp trong không khí im lặng nặng trĩu. Giữa trưa đi trên đường làng cấm thấy một bóng người. Đàn ông hoặc là phóng đi chơi đâu xa, hoặc nằm khểnh trong nhà, hoặc uể oải bổ củi; đàn bà thì ngồi ngái ngủ đâu đó trong bóng mát, bắt chấy cho nhau. Sự trống rỗng và cái im lặng thiu thiu ngự trị xóm làng.

Nhưng ngay trong năm đầu của đời sống làm ăn tập thể Grêmiatsi Lốc đã bỏ cái lệ “những tháng ăn chơi”. Lúa vừa mới lên, người ta đã bắt tay vào làm cỏ. Đavưđốp tuyên bố trong một cuộc họp:

- Ta sẽ làm cỏ ba lần, sao cho không còn một ngọn cỏ dại trên ruộng lúa nông trang.

Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp khoái lắm. Vốn tính hoạt động và nhanh nhẹn tháo vát, lão rất thích cái lối làm ăn cả làng sôi động, người nào việc nấy tíu tít bận rộn ấy. “Chính quyền xôviết bay cao đấy,  nhưng để rồi xem nó hạ cánh đậu xuống như thế nào! Nào xới cỏ lúa, nào cày ải, nào chăn nuôi, nào sửa chữa nông cụ… Nhưng dân có chịu làm không cơ chứ! Vả lại bắt đàn bà con gái đi làm cỏ lúa ư? Khắp Quân khu Sông Đông  này xưa kia chẳng ai làm cỏ lúa cả. Mà không làm cỏ là sai. Nếu có làm cỏ thì hẳn lúa đã tốt hơn rồi. Mình đúng là già mà dại, đáng lẽ mình cũng nên làm cỏ mới phải. Mùa hè đám đàn bà chỉ “chơi rông chơi dài”, lão nghĩ bụng như vậy, và tiếc ngẩn tiếc ngơ xưa kia thời còn cá thể đã không biết làm cỏ lúa của mình.

Chuyện trò với Đavưđốp, lão nói:

- Chuyến này thì tha hồ mà hốt lúa, đồng chí Đavưđốp hề! Trước kia có cái lối người ta ném hạt thóc giống xuống, rồi khoanh tay ngồi chờ kết quả. Và kết quả là cùng với cây lúa là cỏ gai, là cỏ gà, là cỏ sữa và đủ các thứ cỏ chết tiệt khác. Mang ra đập, nom bó lúa thì cũng có vẻ hay đấy, nhưng đem thóc ra cân thì mỗi đêxiachin được bốn chục pút, thậm chí còn ít hơn.

Sau chuyện dân làng cướp thóc giống trong kho nông trang, Đavưđốp đã có ý định cắt chức quản lý của Ôxtơrốpnốp. Anh nghi ghê lắm… Anh nhớ khi trông thấy Ôxtơrốpnốp trong đám đông không phải chỉ là vẻ hoang mang mà có cả một nụ cười hằn học, chờ đợi… Ít ra thì cũng là Đavưđốp lúc ấy thấy như thế.

Ngay hôm sau anh gọi  Iakốp Lukits đến buồng mình, bảo mọi người ra ngoài, rồi hai người chuyện trò nho nhỏ với nhau.

- Hôm qua ông đứng làm gì ở sân kho?

- Tôi giải thích cho người ta mà, đồng chí Đavưđốp ạ. Tôi khuyên cái bọn địch ấy phải tỉnh ngộ lại, không được tự ý lấy thóc nông trang. – Iakốp Lukits đáp lại ráo hoảnh.

-  Ông nói gì với bọn các bà ấy… Sao ông lại bảo họ tôi giữ chìa khoá kho?

- Đâu có chuyện! Lạy Chúa! Tôi nói thế với ai? Tôi chẳng nói với ai bao giờ…

- Chính các bà ấy khi lôi tôi đi đã bảo như vậy…

- Điêu quá! Tôi xin thề độc. Họ chỉ đặt điều… Họ ghét tôi họ nói thế thôi.

Thế là quyết tâm của Đavưđốp bị lung lay. Và tiếp ngay sau chuyện đó, Iakốp Lukits hoạt động sôi lên sùng  sục, chuẩn bị cho vụ làm cỏ, thu thập các phương tiện tổ chức nhà ăn tập thể, đưa tới tấp ra ban quản trị những phương án làm ăn hợp lý đến nỗi một lần nữa Đavưđốp phải chịu lão quản lý xốc vác của mình.

Iakốp Lukits đề nghị với ban quản trị cho đào ở khu đồng của các đội một số hồ mới. Lão còn ấn định cả vị trí đào ở dưới các lòng trũng là nơi thuận tiện hơn cả cho việc giữ  con nước xuân. Theo ý lão thì việc xây dựng các hồ mới phải làm quá nửa kilômét. Đavưđốp và tất cả các uỷ viên quản trị đều buộc phải thừa nhận phương án của Ôxtơrốpnốp rất hay, bởi vì các hồ đầm cũ hình thành hoàn toàn không phải trên cơ sở nhu cầu của nông trang. Chúng nằm rải rác lung tung trên thảo nguyên, và mùa xuân bò ngựa của các đội đi uống nước phải kéo nhau đi tới hai cây số rưỡi, hoặc ba cây. Thời gian lãng phí khá nhiều. Bò cày mệt, đi ra được chỗ uống nước rồi trở về mất gần hai tiếng đồng hồ, thời gian ấy để cày bừa thì chúng có thể làm được không phải chỉ một hécta mà thôi. Ban quản trị đã đồng ý cho xây dựng một số hồ mới, và Iakốp Lukits tranh thủ lúc công việc đồng áng rảnh rỗi, được phép của Đavưđốp, cho tiến hành chuẩn bị gỗ lạt đóng kè.

Chưa hết, Iakốp Lukits lại còn đề xuất nên xây dựng một lò gạch, và đã chứng minh được một cách dễ dàng cho Akaska Mênốc – anh chàng này không tin vào tính chất kinh tế của công trình ấy, - thấy rằng xây chuồng ngựa trung tâm và chuồng bò thì nung gạch lấy sẽ rẻ hơn rất nhiều so với mua mất bốn rúp rưỡi một trăm viên, mà lại còn phải chuyên chở một quãng đường hai mươi tám kilômét từ trên huyện về. Và cũng vẫn lại Iakốp Lukits đã thuyết phục được bà con nông trang viên đội ba nên kè lại Đầm Dữ, vì năm này qua năm khác nó cứ xói mòn những khoảnh đất màu mỡ quanh làng mà ở đó trồng kê lên rất tốt, còn dưa bở thì quả to và ngọt tuyệt trần. Dưới sự chỉ huy của lão, bà con đóng cọc, rấp cành, trát phân khô, đổ đá, và trồng lên bãi lầy những cây con giống bạch dương và liễu để chúng ăn lan ra giữ đất. Một diện tích không nhỏ đã được cứu khỏi bị xói mòn.

Tất cả những chuyện ấy góp lại đã củng cố được địa vị bị lung lay của Iakốp Lukits trong nông trang. Đavưđốp quyết định dứt khoát: không vì lý do gì để mất lão quản lý và tìm mọi cách khuyến khích óc sáng kiến quả là vô tận của lão. Đến ngay cả Nagunốp cũng thấy xuôi xuôi đối với Iakốp Lukits. Trong một hội nghị chi bộ anh đã phát biểu:

- Mặc dầu theo bụng dạ lão thì lão chẳng phải người của ta đâu, nhưng lão là một tay làm ăn sắc sảo. Chừng nào ta chưa đào tạo được người mình cũng thạo việc như lão thì ta cứ giữ lão làm quản lý. Đảng ta rất chi là thông minh. Đảng có hàng triệu khối óc, do đó mà sáng suốt. Có tên kỹ sư là một quân chó má ruột gan phản cách mạng. Căn cứ vào bụng dạ nó thì phải đem nó đặt dựa lưng vào tường  mà bắn chết quách đi, nhưng người ta không đặt, mà bảo nó: “Mày là một người có học. Này, tiền đây, đi mà nốc cho trương bụng lên, mua cho con vợ mày đôi bít tất cho nó thích, nhưng hãy vắt óc, trổ hết nghề kỹ sư của mày ra mà phục vụ cách mạng thế giới!”. Thế là nó làm đấy. Mắt nó thì vẫn ngoái lại cuộc sống ngày xưa, nhưng tay nó làm. Đem bắn nó thì được cái gì? Tước được cái quần cũ, và có thể là cái đồng hồ quả quýt có dây đeo nữa, thế thôi. Đằng này, để nó làm việc, nó đem lại cho ta trăm nghìn cái lợi. Đối với lão Ôxtơrốpnốp của ta cũng vậy: cứ để lão đắp kè, đào ao. Tất cả những cái đó đều có lợi cho Chính quyền xôviết và thúc đẩy cách mạng thế giới!

Cuộc sống Iakốp Lukits đã trở lại một trạng thái thăng bằng nào đó. Lão hiểu rằng tất cả những lực lượng đứng đằng sau Pôlốptxép và cầm đầu cuộc chuẩn bị nổi loạn, lần này đã thất bại; lão tin chắc bây giờ thì sẽ không có loạn lạc nữa gì hết, vì thời cơ đã bỏ lỡ mất rồi và trong tư tưởng những người kô-dắc thù ghét nhất Chính quyền xôviết cũng đã có một chuyển hướng nhất định. “Xem ra có vẻ như là Pôlốptxép và Liachépxki đã vượt biên chuồn rồi” - Iakốp Lukits nghĩ bụng như vậy, mà lòng thì đôi ngả, nửa tiếc cay tiếc đắng đã không có dịp lật nhào được Chính quyền xôviết, nửa vui mừng thảnh thơi: từ nay sẽ không có gì đe doạ cuộc sống yên ấm của lão nữa. Từ nay trông thấy anh công an trên huyện xuống Grêmiatsi Lốc, lão sẽ không nôn nao sợ hãi nữa; chứ cứ như trước kia thì chỉ độc nhìn thấy tấm áo capốt đen của anh ta lão đã run bắn, hãi không tưởng tượng được.

Một lần, chỉ có hai mẹ con với nhau, bà già lão hỏi lão:

- Thế nào, chính quyền của bọn vô đạo sắp xuống lỗ chưa con?

Iakốp Lukits bực mình không chịu được với câu hỏi không đúng lúc ấy, cau có đáp lại bằng một giọng chua chát:

- Bà ơi, chuyện ấy thì có can hệ gì đến bà?

- Can hệ chứ sao lại không? Chúng nó đóng cửa nhà thờ, đấu tố cụ đạo… Có đúng vậy không?

- Bà tuổi già sức yếu rồi, ngồi mà cầu Chúa thôi… Còn chuyện đời thì đừng dây vào nữa. Bà rắc rối lắm!

Mụ già không thôi. Mụ chẳng hiểu sao thằng con Iakốp của mụ lại không chịu “thay đổi chính quyền” đi.

- Thế các ông sỹ quan, các ông ấy xéo đâu cả rồi? Cái ông chột mắt ỉa ra khói cứ ngồi ru rú ấy, ông ta đã chuồn đi đâu mất tăm thế? Và anh nữa!... Mới lúc nào anh còn xin tôi ban phúc lành cho, thế mà bây giờ lại đi hầu hạ chính quyền kia!

- Ối bà ơi, bà làm con cứ lạnh cả gáy! Thôi bà đừng lảm nhảm nữa cho con nhờ! Bà còn lôi thôi những chuyện ấy ra làm gì nữa hả? Rồi lại sắp đi kể vung tứ linh lên đây!... Bà muốn con mất đầu hay sao, hả bà ơi! Bà vẫn bảo: “Chúa làm gì đi nữa cũng chẳng qua sự lành”. Thế thì bà cứ ngồi sống cho khoẻ. Mũi bà có hai cái lỗ đấy, bà dùng mà hít ra hít vào chứ đừng bép xép nữa… Người ta không muốn cướp mất miếng ăn của bà đâu mà lo… Bà còn muốn gì nữa, lạy Chúa!...

Lời đi tiếng lại xong, Iakốp Lukits nhảy bổ ra đường, như bị bỏng nước sôi, và hồi lâu sau vẫn không sao trấn tĩnh trở lại được. Và lão hạ lệnh cho vợ, con giai và con dâu với một vẻ mười phần nghiêm khắc:

- Mở to mắt ra mà trông coi bà! Bà đến làm tao chết cháy mất thôi! Hễ có ai lạ đặt chân vào nhà thì lập tức nhốt ngay bà vào trong buồng.

Và thế là ngày đêm mụ già bị nhốt chặt. Nhưng chủ nhật  thì mụ được thả cho tự do. Mụ đến chơi đám bạn già, cũng khọm như mụ, rồi khóc lóc, than thở:

- Ối các bà chị ơi! Hai vợ chồng thằng Iakốp Lukits nhà tôi cứ nhốt chặt tôi trong buồng khoá trái… Tôi chỉ còn được ăn có độc thứ bánh khô thôi, bánh khô chấm nước mắt. Trước, hồi mùa chay, khi trong nhà tôi có các ông sỹ quan đến ở - là tôi nói ông chỉ huy của thằng Iakốp nhà tôi và người bạn của ông ta đấy, và có khi lại cho tôi xúp thịt nữa…, thế mà bây giờ chả hiểu sao tự nhiên chúng nó làm tội làm tình tôi thế… Cả thằng chồng lẫn con vợ… Hu hu hu hu!... Tôi chết mất thôi, các bà chị ơi: con mình rứt ruột đẻ ra, thế mà không hiểu sao nó thù oán mình cái gì chẳng rõ. Trước, nó đến xin tôi ban phước cho nó để nó đi diệt cái chính quyền vô đạo này, thế mà bây giờ tôi cứ động mở miệng nói một câu chống lại chính quyền là nó lại chửi rủa tôi…

… Cuộc sống yên ổn của Iakốp Lukits, chỉ bị u ám đi vì những cuộc cãi vã giữa hai mẹ con thôi, - chẳng bao lâu nữa sẽ chấm dứt một cách bất ngờ.

CHƯƠNG XXXIX

Ngay hồi còn đang vụ gieo, Luska, cô vợ cũ của Nagunốp, một gái chồng bỏ, một cô ả vui vẻ trẻ trung và đĩ thoã, đã bắt đầu ra đồng làm. Ả được phân về đội ba, và rất vui lòng đến ăn ở tại lán của đội. Ban ngày ả dong bò cho Aphanaxi Kraxnôcutốp, còn đêm đến thì quanh túp lều cỏ dã chiến ả ở, lại vang lên tiếng đàn balalaika ríu rít, tiếng thở dài của những cây đàn trầm, tiếng phím trầm thánh thót của phong cầm, trai gái đàn hát nhảy múa thâu đêm đến sáng; và cầm đầu cái hội ăn chơi tưng bừng ấy là Luska.

Đối với ả, thế gian bao giờ cũng tươi sáng và đơn giản, không có một vết nhăn lo âu hoặc ưu phiền nào trên gương mặt vô tư lự của Luska. Ả đi qua cuộc đời chân bước nhẹ tênh tênh, tin tưởng, đôi lông mày tình tứ dướn lên chờ đợi, cứ như ả đang mong mỗi phút lại gặp được một điều gì vui sướng. Về Maka thì hôm trước li dị hôm sau ả đã quên phắt, chẳng nghĩ đến anh nữa. Chimôphây Mũi toác đang ở xa xôi phương nào, nhưng Luska đâu phải là người để mà thương tiếc người thân đã thất tán? “Đời tôi thì giống chó dái ấy lúc nào cũng có cả đàn”, - ả khinh khỉnh nói với các bà các cô nào nhắc đến cảnh dở dang của ả.

Và quả là ả có cả một đàn thật. Các anh kô-dắc đã có vợ và các cậu đội ba thi nhau lăn xả vào tranh đoạt tình yêu của Luska. Đêm đêm bên lều ả ở, dưới ánh trăng mờ xanh, đế giày đế ủng của các cô cậu kô-dắc cứ long răng rắc, bay vèo đi, trong các điệu vũ “kracôviác” và ponka nện gót”. Nhưng giữa đám anh em thợ cày, thợ bừa, thợ gieo đến nhảy nhót và ve vãn Luska đã luôn luôn xảy ra những vụ to tiếng dẫn đến những trận ẩu đả quyết liệt. Và tất cả vì Luska. Số là ả xem có vẻ dễ lơn quá, hơn nữa cả làng ai cũng biết chuyện tằng tịu dơ dáng của ả với thằng Chimôphây con lão Mũi toác. Cho nên anh chàng nào cũng hí hửng muốn được thay cái chân mà thằng Chimôphây bị bắt buộc phải từ bỏ và Nagunốp đã tự nguyện từ bỏ.

Agaphôn Đúpxốp đã lựa lời khuyên nhủ Luska, nhưng anh đã bị một cú thảm hại:

- Tôi làm việc không ai chê trách được, còn chuyện yêu đương nhảy múa thì không ai cấm được tôi. Này, bác Agaphôn ạ, bác đừng rắc rối nữa, trùm kín áo dipun lên, và đi ngủ đi. Còn nếu như bác thèm và muốn tham gia tí tỉnh với chúng tôi thì cứ đến. Rỗ hoa chúng tôi cũng nhận. Nghe nói, dân rỗ hoa yêu rất ác! – Luska vừa nói nỡm như vậy vừa cười khanh khách.

Có dịp về Grêmiatsi Lốc, Agaphôn đã đến gặp ngay Đavưđốp, phàn nàn hậm hực:

- Đồng chí Đavưđốp ạ, đồng chí có cái lối sắp đặt đến là lạ đời! Tống xuống đội của Liubiskin lão Suka, rồi lại tống cho tôi cô ả Luska… Đồng chí cho họ xuống đội để làm gì, để họ phá phách hả? Bữa nào tối khuya, đồng chí hãy xuống đội tôi mà xem. Con Luska đã làm các cậu đội tôi hoá rồ hoá dại ráo cả rồi. Cậu nào nó cũng cười  tình, hứa trời hứa đất, và thế  là các cu cậu choảng nhau vì nó, như gà chọi vậy. Và đêm đêm chúng nó nhảy nhót đến rung cả đất, rụng cả bánh chè: chúng nó phí hoài cả cuộc đời, không biết tiếc! Khoảnh đất quanh lều như bị chúng nó lấy vồ nện chặt. Chòm sao Kim ngưu tàn rồi mà lán chúng tôi vẫn cứ ầm ầm, như chợ vỡ… Hồi chiến tranh Nga – Đức, tôi bị thương có nằm nhà thương Kharkốp. Để động viên chúng tôi, chị em y tá có dẫn chúng tôi đi xem opêra… Và ở rạp đã diễn ra một cuộc điên loạn kinh khủng: người thì rống lên như bò, kẻ thì nhảy cẫng, kẻ thì kéo đàn như điên! Đàn hát gì mà đến nỗi phải bịt chặt hai lỗ tai lại! Bây giờ ở chỗ chúng tôi cũng rứa: hát gào lên, đàn địch loạn xị, múa may quay cuồng… Như một đám cưới chó vậy! Họ lồng lộn cho đến thanh thiên bạch nhật thế thì ban ngày còn làm lụng được cái gì nữa! Vừa đi vừa ngủ gật, rồi thì lăn kềnh dưới bụng bò mà ngủ… Đồng chí Đavưđốp ạ, hoặc là đồng chí hãy cho con Luska chết dẫm ấy cút đâu khỏi đội tôi, hoặc là đồng chí hãy bảo nó phải đứng đắn, cho ra là một người đàn bà có chồng chứ.

Đavưđốp nổi khùng lên:

- Anh coi tôi là cái gì? Dễ tôi là vú già cho con bé ấy đấy phỏng?... Xéo ngay cho khuất mắt!... Chuyện thối thây gì cũng dẫn xác đến đây là thế nào? .. Dễ tôi phải đi lên lớp cho nó cách ăn ở ý nhị đấy phỏng? Nó làm việc không ra gì thì cứ đuổi cổ nó đi, có thế thôi! Lối đâu như vậy: hơi tí lại chạy lên ban quản trị! “Báo cáo đồng chí Đavưđốp, lưỡi cày gẫy!”, “Báo cáo đồng chí Đavưđốp, con ngựa cái ốm!”. Bây giờ lại đến chuyện này. Một con mụ nó ngứa trôn thì theo anh cũng lại đến tôi đi dạy bảo nó phỏng? Đừng hòng! Cày hỏng à? Mang ra lò rèn! Ngựa ốm á? Đi tìm thú y! Bao  giờ các anh mới rèn được tinh thần chủ động? Tôi cứ còn phải làm hộ các anh cho đến bao giờ nữa? Thôi, xéo đi!

Agaphôn ra về, tức Đavưđốp anh ách. Anh ta ra về rồi, Đavưđốp đóng sầm cửa lại, cài then chặt, rồi hút liền một lúc hai điếu thuốc lá.

Câu chuyện Đúpxốp kể đã làm Đavưđốp hậm hực. Anh nổi khùng lên và quát tháo không phải vì các đội trưởng không làm tròn chức trách cứ quấy rầy anh, chuyện lặt vặt gì cũng đến yêu cầu anh giải quyết, mà là vì Luska, theo lời Đúpxốp, “với cậu nào cũng cười tình, hứa trời hứa đất”.

Sau lần anh chạm trán với Luska ở gần trụ sở nông trang, chuyện trò ỡm ờ vài câu với ả, và ả giấu một nụ cười ranh mãnh dưới đôi hàng mi rủ xuống đề nghị anh tìm giúp hộ “một anh chàng nào ế xưng ế xỉa”, rồi sau đó gạ anh lấy ả, Đavưđốp đã thay đổi thái độ với ả lúc nào anh cũng chẳng biết. Thời gian gần đây, càng ngày anh càng thấy mình cứ hay tơ tưởng đến người đàn bà bản chất đĩ thoã và quá đỗi tầm phơ tầm phào ấy. Nếu như trước đây anh nhìn ả bằng con mắt thờ ơ và thương hại pha chút ghê tởm thì bây giờ đây, anh cảm thấy hoàn toàn khác hẳn… Và Đúpxốp đến phàn nàn vớ vẩn về chuyện Luska chỉ là cái cớ đơn thuần bề ngoài cho Đavưđốp văng ra mà thôi.

Anh đã phải lòng Luska, và vào lúc nào chẳng phải, lại đúng vào lúc thời vụ gieo căng thẳng nhất. “Cảnh đi tu”, - như Anđrây Radơmiốtnốp vẫn nói đùa, - mà Đavưđốp đã sống trong suốt một mùa đông chắc hẳn đã là mảnh đất thuận lợi cho cái tình cảm mới nẩy nòi ấy. Và có thể là mùa xuân nữa cũng kích thích trái tim đã chai lại của ông chủ tịch nông trang Grêmiatsi, người chủ tịch gương mẫu, không ai chê trách được điều gì, và đã hoàn thành băng băng mọi cuộc vận động chính trị và sản xuất.

Càng ngày anh càng hay nửa đêm vô cớ tỉnh dậy, giở thuốc ra hút, trán cau lại một cách đau khổ, tai lắng nghe tiếng hót líu lo và tiếng vỗ cánh rộn ràng của hoạ mi. Rồi anh giận dữ đóng sập cánh cửa sổ lại, kéo chăn trùm kín đầu, nằm cho đến sáng bạch không chợp được mắt, đè sấp lên gối bộ ngực nở nang trổ xăm của mình.

Và mùa xuân 1930, một mùa xuân rạo rực và đến sớm, đã đưa về các vườn tược và lùm cây lắm chim hoạ mi đến nỗi tiếng hót vang vang của chúng không những làm nhộn nhạo cả đêm trường thanh vắng mà đến sáng ngày vẫn chẳng chịu lắng đi. Đêm xuân ngắn ngủi không đủ thoả mãn xuân tình của đám hoạ mi kia. “Lũ ôn vật, chúng nó thay nhau hót chắc!”, sáng ra, Đavưđốp lầm bầm như vậy, người mệt rũ sau một đêm đánh vật với cái mất ngủ.

Luska sinh hoạt ở đội hết vụ gieo, nhưng đội vừa gieo xong thì ả đã trở về làng, và ngay tối hôm ấy đến chơi Đavưđốp.

Ăn tối xong, anh đang nằm khoèo trong gian buồng nhỏ của mình đọc báo “Sự thật”. Có tiếng ai ở phòng ngoài khẽ cào cào vào cửa, như tiếng chuột lạo xạo, rồi một giọng nữ nhỏ nhẹ:

- Em vào được không ạ?

- Cứ vào!

Đavưđốp nhảy tót trên giường xuống đất, khoác vội chiếc áo.

Luska bước vào, nhẹ nhàng khép cửa lại. Tấm khăn vuông đen làm khuôn mặt rám gió của ả nom già đi. Những nốt tàn nhang dày li ti hiện lên càng rõ trên đôi má sạm nắng của ả. Nhưng dưới bóng mái khăn vuông úp sụp, đôi mắt ả cười và nom càng long lanh hơn.

- Em đến thăm anh…

- Cô ngồi.

Ả đến, Đavưđốp trong lòng vừa ngạc nhiên vừa mừng. Anh kéo chiếc ghế đẩu, cài khuy áo lại, ngồi xuống tấm phản.

Anh ngồi nín thinh, chờ đợi, ngượng ngịu và trong bụng hơi lo lo. Còn Luska thì thoải mái bước tới bên bàn, kín đáo khép vạt váy lại (cho khỏi nhàu mà), và ngồi xuống.

- Anh chủ tịch nông trang khoẻ chứ?

- Cũng khá.

- Có buồn không?

- Thì giờ đâu, và buồn cái quái gì mới được?

- Thế không nhớ em à?

Đavưđốp, con người không bối rối bao giờ, lúc này đỏ dừ mặt và sa sầm xuống. Luska làm ra vẻ khép nép cụp hai hàng mi xuống, nhưng khoé miệng ả mấp máy một nụ cười không nén được.

- Cô này ăn nói đến hay, - Đavưđốp đáp lại bằng một giọng không lấy gì làm vững dạ lắm.

- Thực anh không buồn à?

- Buồn gì mà buốn! Cô đến có việc gì?

- Có tí việc… Báo chí có gì mới không anh? Cách mạng thế giới nghe ra sao rồi? – Luska chống khuỷu tay lên bàn, làm ra bộ mặt nghiêm trang cho hợp với câu chuyện đang nói. Cứ dường như trên đôi  môi kia không hề thoáng bóng cái nụ cười ranh ma vừa rồi.

Đavưđốp lên gân:

- Báo viết thiếu gì chuyện… Cô cần việc gì?

Chuyện trò của họ, hẳn là bà chủ nhà đang rình nghe lỏm đây. Đavưđốp như ngồi trên đống than hồng. Tình thế của anh thật là kẹt, ớn không tả được! Mai bà chủ nhà sẽ đi kể vung tứ linh khắp làng là cô vợ cũ của Maka đêm nào cũng thì thụt đến phòng anh, và thế là đi tong cái tiếng thơm không chút gợn của Đavưđốp! Các mụ chuyên môn ngồi lê đôi mách đứng đầu đường cạnh giếng sẽ đơm ra lắm chuyện, và bà con nông trang viên gặp anh sẽ cười kháy. Radơmiốtnốp sẽ giở giọng châm chọc anh bạn ăn phải bùa mê của cô nàng Luska, rồi lại đến tai huyện, và trên nông hội huyện người ta sẽ lại đặt điều ra, nói: “Hắn để mãi đến mồng mười mới gieo xong là vì gái cứ mò đến nhà hắn luôn. Rõ rành rành hắn lo tiếp gái hơn là lo việc gieo hạt!”. Và không phải vô cớ mà đồng chí bí thư khu uỷ trước khi cho anh em đoàn Hai vạn rưởi về huyện, đã dặn dò: “Về nông thôn, các đồng chí cần phải giữ cho uy tín của giai cấp công nhân, đội tiên phong của cách mạng, được trong như ngọc trắng như ngà. Phải hết sức cảnh giác. Không phải chỉ trong những việc lớn mà thôi đâu, mà ngay cả trong sinh hoạt lặt vặt hàng ngày cũng phải thận trọng. Ở nông thôn anh uống một xu rượu thì chuyện sẽ thành nhậu nhẹt ăn hối lộ một bữa trăm rúp…”.

Đavưđốp thậm chí còn toát mồ hôi hột ra khi thoáng nghĩ đến tất cả những hậu quả của chuyện Luska đến chơi anh và ăn nói dấm dớ với anh. Rõ ràng trước mắt, anh có nguy cơ bị tai tiếng. Luska cứ ngồi đó, và hoàn toàn chẳng để ý gì đến những dằn vặt của Đavưđốp. Và anh chàng, giọng hơi khàn đi vì xúc động, hỏi lại, lần này thì với một vẻ nghiêm nghị:

- Cô đến có việc gì? Nói đi, rồi về đi, tôi không thì giờ đâu ngồi nói chuyện vớ vẩn với cô, thực tế thế!

- Thế anh có nhớ hôm nào anh đã bảo gì em không? Em đã chẳng xin phép anh Maka, nhưng em thừa biết, anh ấy phản đối…

Đavưđốp đứng bật dậy, xua quầy quậy:

- Tôi đang bận! Để khi khác! Để khi khác!

Lúc này anh chỉ muốn lấy tay bịt chặt cái miệng đang nhoẻn nụ cười kia, sao cho ả im đi.

Ả hiểu và khinh khỉnh nheo nheo đôi lông mày:

- Ôi giào, thế mà lại còn… Thôi được. Cho tôi mượn tờ báo, tờ nào hay hay ấy. Ngoài ra thì tôi cũng chả có việc gì khác cần hỏi anh. Xin lỗi đã đến quấy rầy anh…

Ả ra về, và Đavưđốp thở dài nhẹ nhõm. Nhưng một phút sau anh đã ngồi bên bàn, vò đầu bứt tai: “Mình lố bịch không để đâu hết, chán cái mớ đời! Thiên hạ nói gì thì đã quan trọng thế cơ à! Sao, phụ nữ đến chơi mình không được sao? Dễ mình là thầy tu hẳn? Và lôi thôi gì đến ai? Mình thích cô ta, vậy thì mình có thể ngồi nói chuyện gẫu với cô ta được lắm chứ… Miễn sao không ảnh hưởng đến công tác là được rồi, còn chuyện gì gì nữa cũng cần đếch gì! Giờ thì cô ta sẽ chẳng đến nữa đâu, thực tế thế! Mình ăn nói với cô ta thô bỉ quá, và cô ta thừa thấy mình cũng hơi hoảng… Chà! Cha tiên nhân anh, anh thật là thối không tả được!”.

Nhưng anh đã lo hão: Luska hoàn toàn không phải là loại người dễ dàng từ bỏ mưu đồ của mình. Và mưu đồ của ả là chinh phục Đavưđốp. Thực tế thì ả tội gì đem cuộc đời của mình ràng buộc với cuộc đời một gã dân Grêmiatsi Lốc? Để làm gì cơ chứ? Để chết già chết héo bên bếp lò và suốt đời luẩn quẩn ngoài thảo nguyên với con bò đi trước cái cày đi sau hay sao? Mà Đavưđốp lại là một anh chàng giản dị, lưng dài vai rộng, có duyên, khác hẳn với Maka là người đã cằn cỗi đi trong công tác và trong sự chờ đợi cách mạng thế giới, khác hẳn với Chimôphây… Anh ta chỉ có một khuyết nho nhỏ: anh sứt, mà lại sứt ở chỗ lộ liễu nhất, sứt cái răng cửa. Nhưng Luska cũng tự an ủi được ngay về cái khuyết nho nhỏ trong vẻ ngoài của người ả đã chọn. Với kinh nghiệm của cuộc đời còn ngắn ngủi nhưng dạn dày từng trải của mình, ả hiểu rằng trong việc đánh giá một người đàn ông thì cái răng cái tóc không phải là góc con người.

Hôm sau, trời sẩm tối ả lại đến, lần này thì diện ác và điệu bộ càng khêu gợi tợn. Cớ để đến chơi là chuyện báo chí.

- Tôi mang trả anh tờ báo… Mượn nữa có được không? À, anh có quyển sách nào đọc được nhỉ? Tôi muốn mượn quyển hay hay, về chuyện yêu đương ấy.

- Báo đấy, nhưng sách thì không có, tôi đâu phải thủ thư.

Luska chẳng đợi mời, ngồi xuống và nghiêm trang gợi nói đến chuyện gieo hạt ở đội ba, chuyện những thiếu sót ả phát hiện thấy ở trại chăn nuôi bò sữa mới thành lập tại Grêmiatsi Lốc. Với một vẻ ngây thơ thật thà, ả tìm cách ăn giọng với Đavưđốp, nói về những chuyện ả cảm thấy nó là cuộc sống của anh.

Đavưđốp lúc đầu còn nghi nghi hoặc hoặc ngồi im nghe ả nói. Nhưng rồi anh bốc lên theo câu chuyện, kể lể với ả những dự định của mình về tổ chức trại bò sữa, tiện mồm nói sang những thành tựu mới ở nước ngoài trong kỹ thuật chế biến sản phẩm sữa. Và cuối cùng nói bằng một giọng có chút nào ngao ngán:

- Ta cần một món tiền khá lớn. Ta phải mua một số bò cái tơ thuộc giống cho nhiều sữa, phải tậu một con bò đực giống… Tất cả những cái đó cần thực hiện càng sớm càng hay. Vì việc nuôi bò sữa làm được tốt sẽ đem lại thu nhập lớn! Chính là bằng cách này mà nông trang sẽ giải quyết được vấn đề quỹ. Thế mà hiện tại nông trang ta có cái gì? Độc một chiếc máy đánh kem cũ rích không đáng ba xu, không tài thánh nào thanh toán được lứa sữa xuân. Biđông cũng chẳng có lấy một chiếc, và sữa thì cứ đổ vào bình theo lối ngày xưa. Làm ăn thế thì còn ra cái gì? Đấy, cô bảo là sữa bị chua. Vậy vì sao nó chua? Chắc là vì họ trút sữa vào bình bẩn chứ sao.

- Các bà ấy sấy bình không khô, do đó sữa bị chua.

- Tôi cũng bảo thế: đồ đựng không sạch. Cô phụ trách lấy việc này đi, và chấn chỉnh nó lại. Cần làm thế nào, cô cứ làm, ban quản trị sẽ giúp cô. Còn cứ cái kiểu này thì sẽ ra sao? Sữa sẽ hỏng mãi nếu không kiểm tra cẩn thận đồ đựng, nếu chị em vắt sữa cứ vắt sữa theo kiểu tôi thấy hôm nọ: ngồi dưới bụng bò, vú bò chẳng rửa ráy gì cả, đầu vú dính toàn những bùn, những phân… và chính tay người vắt cũng chẳng rửa. Có trời biết, trước khi vắt sữa các bà ấy đã sờ mó cái gì mà ngồi dưới bụng bò tay bẩn đến thế. Tôi không có thì giờ lo đến việc này. Nhưng thế nào tôi cũng phải lo! Còn cô, cái thì giờ đánh phấn bôi son làm đỏm giá cô để mà chăm lo cái trại sữa ấy thì có hơn không nhỉ? Chúng tôi sẽ chỉ định cô là phụ trách, cử cô đi học, cô sẽ học cho biết cách quản lý công việc một cách khoa học, và sẽ trở thành một nữ cán bộ chuyên môn.

Luska thở dài:

- Tôi chịu thôi, cứ để các bà ấy làm. Chẳng có tôi thì trại cũng chẳng thiếu người để chấn chỉnh. Mà tôi cũng chẳng thích làm phụ trách. Và cũng chẳng thích đi học. Lấn bấn lắm. Tôi muốn làm việc nhẹ, sống cho thoải mái  vung vinh, tội gì!.. Ai ngốc thì mới ham công tiếc việc.

- Cô lại ăn nói linh tinh rồi! – Đavưđốp hậm hực nói, nhưng cũng chẳng thuyết phục nữa làm gì.

Lát sau Luska đứng dậy ra về. Đavưđốp tiễn chân ả. Họ đi bên nhau trong ngõ tối, chẳng nói chẳng rằng một quãng dài, rồi Luska đoán biết được một cách  nhạy bén lạ lùng tất cả những điều bận tâm của Đavưđốp, hỏi:

- Hôm nay anh có ra xem lúa Kuban không?

- Có.

- Lúa thế nào?

- Xấu! Nếu trong tuần này không mưa… tôi e sẽ hỏng mất. Và mả mẹ nó, cô có biết rồi sẽ ra cái nông nỗi nào không? Mấy bố già bữa nọ đến xin phép tôi cho làm lễ cầu đảo, sẽ tha hồ đắc chí, thực tế thế! Họ sẽ bảo: “Đấy, hắn không cho làm lễ, thế là Chúa phạt, không làm mưa!”. Ông Chúa của các bố ấy thì hoàn toàn bất lực trong chuyện này một khi phong vũ biểu vẫn đứng chết ở điểm “thời tiết bất thường”. Nhưng họ thì cứ bám khư khư lấy cái mê tín hủ lậu của họ. Khổ thật cơ, thực tế thế! Và chính bọn tôi phần nào cũng có sai… Đáng lẽ phải mặc mẹ nó những ruông dưa bở và một phần ruộng mầu đấy để gieo lúa mạch cho được sớm thì mới phải. Sai là ở chỗ ấy đấy ! Về chuyện lúa “mêliônôpux” cũng như vậy: tôi đã chứng minh rõ ràng cho cái cậu ba bị Liubiskin ấy thấy rằng theo những thông số nông học thì giống lúa ấy thích hợp với điều kiện hoàn cảnh của ta nhất…

Đavưđốp lại bốc lên và, được gãi đúng chỗ ngứa, đáng lẽ anh còn nói nhiều, nói sôi nổi, nhưng Luska ngắt lời anh, sốt ruột ra mặt:

- Thôi đi, anh ơi, thôi cái chuyện lúa má ấy đi! Ngồi xuống kia chơi một tí còn thích hơn, - và ả trỏ bờ một con rãnh mờ mờ xanh dưới ánh trăng.

Họ đi tới. Luska khép vạt váy lại, đề nghị một cách thiết thực:

- Hay là anh trải cái áo ngoài của anh ra, không em sợ nhàu mất cái váy. Váy diện của em đấy…

Và khi họ ngồi bên nhau trên tấm áo trải rộng, ả ghé sát vào bộ mặt thoáng vẻ giễu cợt của Đavưđốp gương mặt trở thành nghiêm trang và xinh đẹp lạ thường của ả, và nói:

- Chuyện lúa má và chuyện nông trang thế là đủ rồi! Bây giờ chả nên nói chuyện ấy nữa… Anh có ngửi thấy mùi lá non trên cây dương kia không?...

… Thế là tiêu tan hết mọi sự do dự của Đavưđốp trong lòng vừa chết mê chết mệt Luska vừa sợ đi lại với ả sẽ mất uy tín…

Một lát sau, khi anh đứng dậy và dưới chân anh mấy cục đất sét khô lạo xạo lăn xuống rãnh, Luska vẫn nằm ngửa đo, hai tay dang rộng, mệt mỏi lim dim mắt. Họ lẳng lặng một phút. Rồi bỗng ả ngồi phắt dậy, hai tay bó gối, toàn thân rung lên trong một trận cười không ra tiếng. Ả cười như bị ai cù.

Đavưđốp hoang mang đẫy, tự ái hỏi;

- Em… sao thế?

Nhưng Luska đã nín bặt một cách cũng đột ngột như thế, ruỗi thẳng chân ra, rồi lấy tay xoa hai bên hông, xoa bụng, mơ màng nói, giọng hơi khản lại và sung sướng:

- Lúc này em thấy người cứ nhẹ tênh tênh!...

- Chắp cánh vào khéo bay được đấy nhỉ? – Đavưđốp nói kháy.

- Khô-ô-ô-ông. Anh kháy em… làm quái gì. Lúc này bụng em tự nhiên cứ nhẹ bỗng… rông rỗng thế nào ấy, nhẹ như bấc. Vì thế mà em cười. Thế dễ thường em phải khóc sao, vớ vẩn anh lắm! Ngồi xuống đây đã, nhẩy cẫng lên đi đâu?

Đavưđốp miễn cưỡng ngồi xuống. “Giải quyết ra sao với cô nàng bâygiờ đây? Đến phải chính thức hoá cách nào đó, kẻo bất tiện, cả đối với Maka, cả đối với chung… Đang bình yên vô sự, tự nhiên mua thêm chuyện!” - anh nghĩ bụng và đưa mắt liếc nhìn gương mặt Luska biêng biếc ánh trăng xanh.

Ả uyển chuyển đứng dậy, tay không đụng đến đất, và đôi mắt lim dim, mỉm cười hỏi:

- Em xinh không? Hả?

- Biết nói thế nào…- Đavưđốp trả lời lơ mơ, ôm quàng lấy đôi vai mảnh dẻ của Luska.

CHƯƠNG XL

Hôm sau, trận mưa tầm tã trút xuống Grêmiatsi Lốc, Iakốp Lukits lên ngựa ra khu Rừng sồi đỏ. Lão phải thân chinh đi đánh dấu những cây sồi cần ngả, vì ngày mai gần như toàn đội sẽ phải vào rừng đẵn gỗ chuẩn bị đóng kè.

Iakốp Lukits ra đi từ sáng. Con ngựa ve vẩy cái đuôi đã buộc cẩn thận, bước đi lững thững. Hai chân trước bị long móng sắt của nó cứ xoạc ra trên con đường bùn nhẫy trơn tuột. Iakốp Lukits cũng chẳng lần nào giơ roi lên: lão chẳng đi đâu mà vội. Lão hút thuốc phì phèo, thả cương thõng xuống mỏ yên, đưa mắt ngắm nhìn thảo nguyên trải ra xung quanh Grêmiatsi Lốc, ở đó mỗi cái hố, mỗi khe rãnh, mỗi hang cầy cáo đều quen thuộc và thân thiết với lão từ thuở còn thơ. Lão ngắm nhìn những luống cày đất tơi no nước, nhìn những ngọn lúa mưa đã rửa sạch sẽ tinh tươm xối ngả xuống, và nghĩ bụng, trong lòng hậm hực cay cú: “Thằng sứt nói mưa, thế mà mưa thật! Lúa Kuban sẽ tốt! Cứ như Chúa cũng ủng hộ cái chính quyền khốn kiếp này không bằng! Trước kia chỉ toàn là thất bát với mất mùa, thế mà từ năm hăm mốt đến nay đúng là lúa cứ trĩu bông! Trời đất đứng cả về phe Chính quyền xôviết, vậy thì chờ đến bao giờ cho nó mòn mỏi rệu rã được? Chà, nếu đồng minh không giúp ta lật nhào bọn cộng sản, một mình ta thì ta cũng đến khoanh tay thôi. Không một cha Pôlốptxép nào đứng vững nổi, dù cho có thông minh tài giỏi thế nào chăng nữa. Sức mạnh cứ như nước lũ, đương đầu sao nổi? Lại thêm nỗi dân thì đốn mạt, tồi tệ đi… Đứa nọ tố giác đứa kia, cái đếch gì cũng báo cáo. Quân chó đẻ, nó chỉ lo thân nó, còn sống chết mặc bay. Ngán cho cái thời buổi! Và một hai năm nữa sẽ ra sao, có lẽ đến trời cũng chẳng biết… Còn mình ấy à, xem ra mình đã sinh vào giờ lành tháng tốt đấy, chứ nếu không thì việc mình dính vào Pôlốptxép đã chẳng kết thúc êm đẹp như thế đâu. Rồi lại cứ như cá chui vào lờ! Thôi thì cũng ơn Chúa là mọi việc đã xong xuôi yên ổn, trơn tru. Ta hẵng cứ đợi xem rồi sẽ xoay vần ra sao. Lần này chưa đoạn tuyệt được với chính quyền xôviết, biết đâu lần sau chẳng may mắn hơn!”.

Trên những ngọn cỏ sum suê dưới ánh nắng và trên những mầm lúa đã cứng cáp, hạt sương rung rinh như hạt ngọc xâu chuỗi. Gió đằng Tây lay động, và hạt sương rời cành, long lanh màu ngũ sắc, rơi xuống mặt đất thân yêu, dịu hiền và ngát hơi mưa.

Nước mưa chưa thấm hết xuống đất còn đọng vũng ở những vết xe trên đường, nhưng trên đầu Grêmiatsi Lốc đã bốc lên một làn sương mai hồng hồng, cao hơn ngọn cây dương. Và trên nền trời xanh đục, mảnh trăng lưỡi liềm bạc, nom như được nước mưa rửa sạch, đang mờ dần trong ánh bình minh đến bất chợt.

Trăng lưỡi liềm nằm nghiêng nghiêng, cong vút mảnh khảnh hứa hẹn những trận mưa lắm nước, và Iakốp Lukits nhìn trăng, trong bụng dứt khoát không còn  một chút nghi ngờ: “Được mùa!”.

Gần trưa thì lão tới rừng sồi. Lão buộc ngựa cho nó ăn cỏ, rồi rút chiếc rìu thợ mộc nhỏ cài ở thắt lưng ra, đi đánh dấu những cây sồi ở khoảnh kiểm lâm dành cho nông trang Grêmiatsi.

Lão đã đánh dấu được sáu cây sồi ở bìa rừng và đi tiếp sang cây sau. Một cây sồi to, cao như cái cột cờ và thẳng tắp hiếm thấy, kiêu hãnh vươn mình trên đám cây che thấp loè xoè. Cao tít trên ngọn cây, một tổ quạ chấm một nét đen khắc khổ giữa vòm lá xanh sẫm bóng loáng. Cây sồi thân to như vậy thì có thể đoán là cũng trạc tuổi Iakốp Lukits. Lão nhổ một bãi vào lòng bàn tay, đứng nhìn cái cây xấu số, trong lòng bùi ngùi thương hại.

Lão đẽo một miếng, lấy bút chì tìm ghi lên quãng thân cây đã lột vỏ hai chữ “G.K” (*), đưa chân đá đi mảnh vỏ cây âm ẩm ứa nhựa như ứa máu, rồi ngồi xuống giở thuốc ra hút.

“Anh bạn già ơi, anh sống thế là đã bao nhiêu năm rồi nhỉ! Đã chẳng có ai cầm đầu cưỡi cổ được anh, và bây giờ thế là sắp đến lúc anh bạn phải chết. Người ta sẽ quật anh xuống, lột vỏ anh ra, chặt trụi bộ cành lá xum xuê của anh, rồi lôi anh xuống đầm, chôn chân anh xuống làm kè đắp đập!... – Iakốp Lukits ngửa đầu nhìn lên ngọn cao rung rinh của cây sồi, nghĩ bụng. – Anh bạn sẽ đứng chết dí dưới đầm nông trang cho đến lúc toàn thân anh mục rữa. Rồi nước lũ xuân sẽ cuốn anh đi, tới quãng nào đó ngoài cửa khe…, và thế là đời anh bạn tàn!”.

Nghĩ đến đấy, Iakốp Lukits bỗng có một cảm giác đau đớn, buồn và lo âu thế nào đó, khó hiểu. Lão áy náy băn khoăn. “Hay là tha chết cho anh bạn, không chặt? Nông trang thì thiếu gì cây… - Và trong lòng nhẹ hẳn đi, lão hớn hở quyết định: - Thôi, anh bạn cứ sống đi! Cứ mọc cao lên cho đẹp! Sống thế mới sướng chứ! Chẳng thuế má, chẳng đảm phụ, chẳng phải vào nông trang… Anh bạn cứ việc sống như Chúa đã an bài!”.

Lão lật đật đứng dậy, bốc một nắm bùn sét, trát lại cẩn thận quãng lão đã bổ ra đánh dấu. Lão bước đi khỏi khoảnh rừng, và yên tâm…

Iakốp Lukits bồi hồi đi đánh dấu tất cả là sáu mươi bảy cây, rồi lên ngựa, đi men theo bìa rừng. Ở cửa rừng, có tiếng ai réo lão:

- Bác Iakốp Lukits ơi, dừng lại tí!

Rồi từ sau bụi sơn trà nhô ra một người đội mũ lông đen, mặc chiếc áo bludông dày bằng dạ nhà binh cởi phanh khuy. Mặt người ấy đen sạm, da mặt căng lên trên đôi gò má gầy, mắt trũng sâu, và trên đôi môi nhợt nứt nẻ của hắn bộ ria mép lông măng nổi lên đen đen, nom như vẽ bằng than.

- Không nhận ra cháu à?

Tên ấy trật mũ ra; hắn nhớn nhác nhìn quanh, bước tới chỗ trống, và đến lúc ấy Iakốp Lukits mới nhận ra thằng Chimôphây, con lão Mũi toác.

- Mày ở đâu ra thế? – lão hỏi, sửng sốt trước cuộc gặp gỡ bất ngờ, trước tất cả cái bộ dạng của thằng Chimôphây nom gầy kinh khủng, khác đến nỗi không nhận ra nữa.

- Ở chỗ một đi là không trở về… Ở trại đi đày… Kôtlax.

- Trốn được à?

- Vâng, trốn… Có mang gì ăn đấy không, Iakốp Lukits? Có mẩu bánh nào không?

- Có!

- Cho cháu xin, lạy Chúa! Bốn ngày đêm nay rồi ăn toàn quả nạc thối…

Và cổ họng hắn giần giật như đang nuốt.

Môi hắn run run, mắt hắn long sòng sọc như mắt chó sói khi thấy bàn tay Iakốp Lukits rút trong bụng ra một góc bánh mì.

Hắn sà vào miếng bánh như người chết đói, làm cho Iakốp Lukits nhìn thấy cũng phải nghẹn thở. Hắn lấy răng giằng cái cùi bánh cháy đã khô cứng, đưa mấy ngón tay co quắp xé ruột bánh, và nuốt chửng, gần như không nhai, cái hầu nhọn hoắt ở cổ đưa lên đưa xuống một cách khó khăn vất vả. Và chỉ đến khi  nuốt trôi miếng bánh cuối cùng, vừa nuốt vừa nghẹn, hắn mới ngẩng lên nhìn Iakốp Lukits bằng đôi mắt lờ đờ say đã mất đâu cái ánh long lanh mừng rỡ ban nãy.

Iakốp Lukits ái ngại nói:

- Cậu đói lắm nhỉ…

- Cháu đã bảo là năm hôm nay đói quá, lúc thì cháu ăn quả nạc thối, lúc thì kiếm quả dâu héo khô từ năm ngoái… Rạc người đi.

- Nhưng làm thế nào mà mò được về đến đây?

Chimôphây mệt nhọc đáp:

- Cháu đi bộ trên ga về. Đi đêm.

Hắn tái mét đi trông thấy, dường như còn bao nhiêu sức lực hắn đã dốc hết vào việc ăn vừa rồi. Một cơn nấc không kìm được làm người hắn nẩy bắn lên, mặt cau lại đau đớn.

- Thế thầy còn sống không? Cả nhà thế nào, khoẻ chứ? – Iakốp Lukits hỏi tiếp. Lão vẫn ngồi trên lưng ngựa, và chốc chốc lại đưa mắt nhớn nhác nhìn quanh.

- Thầy cháu sưng phổi chết rồi, mẹ và con em cháu thì vẫn đấy. Làng xóm thế nào hả bác? Luska vẫn thường chứ?

- Nó bỏ chồng rồi, cháu ạ…

Chimôphây tỉnh lên;

- Cô ấy bây giờ ở đâu?

- Ở nhà bà cô, tự kiếm lấy ăn.

- Này, bác Iakốp ơi, thế này bác nhá… Về đến làng, bác hộ cháu, bảo cô ấy mang ngay hôm nay cái gì ăn đến đây cho cháu. Cháu lả lắm rồi, không lê được nữa, phải nằm nghỉ, lấy lại tí sức đã. Một trăm bảy mươi dặm, mà lại đi đêm, và đi đêm nơi đất lạ thì bác biết đi như thế nào không? Cứ nhắm mắt đi mò… Bảo cô ấy thế nào cũng mang đến. Khoẻ lên một tí, cháu sẽ lần về làng… Nhớ quê hương làng xóm muốn chết!

Và hắn mỉm cười ngượng nghịu. Iakốp Lukits không lấy gì làm thú vị về cuộc gặp gỡ này, dò hỏi;

- Thế rồi cậu lấy gì mà sống?

Chimôphây nét mặt rắn đanh lại, đáp;

- Lấy gì à? Cháu bây giờ đã lâm vào cảnh một con chó sói. Cháu nghỉ lấy sức một tí, rồi đêm sẽ về làng, đào lấy khẩu súng… Cháu chôn nó trong kho thóc… Rồi cháu sẽ bắt đầu làm ăn! Cháu chỉ có độc một con đường. Chúng định bắn giết cháu, cháu sẽ bắn giết lại chúng nó. Cháu sẽ cho một thằng nào đó xơi kẹo đồng… Chậc, cháu sẽ ở rừng sồi hết hè này cho đến sang thu, bắt đầu băng tuyết cháu sẽ tếch sang Kuban, hoặc đi đâu đó. Gầm trời thênh thang, và những người như cháu thì thiếu giống, chẳng phải chỉ một vài trăm mà thôi đâu.

Iakốp Lukits đã nhiều lần để ý thấy Luska chạy đến nhà Đavưđốp, ngập ngừng báo cho Chimôphây:

- Con Luska, con vợ thằng Maka bây giờ có vẻ bám thằng chủ tịch nông trang.

Chimôphây chui vào một bụi cây nằm. Một cơn đau dữ dội ở quãng dạ dày vật hắn xuống. Nhưng hắn vẫn nói léo nhéo, mặc dầu cứ ngắt từng câu:

- Đavưđốp, thằng chó đểu ấy sẽ là thằng đầu tiên… Cho nó về chầu trời… Luska vẫn chung tình với cháu… Tình xưa nghĩa cũ quên sao được… Đâu phải chuyện sớm nắng chiều mưa… Cháu vẫn có cách đốt cháy được trái tim cô ta… Lòng cô ta chưa chai lại đâu, cháu chắc chắn… Ối bác ơi, miếng bánh mì của bác giết cháu… bụng cháu đau như xé... Bác bảo hộ Luska thế… mang bánh mì và thịt mỡ cho cháu… Nhiều bánh vào!

Iakốp Lukits báo cho Chimôphây đề phòng mai người ta sẽ bắt đầu vào đẵn cây ở cánh rừng sồi này. Rời rừng ra về, lão đi tới khu đồng đội hai, thăm khoảnh gieo lúa Kuban. Trên toàn bộ diện tích đất cày mới đây còn đen ngòm màu than, mầm non của lúa rốt cuộc đã vươn lên, mơn mởn như một tấm thảm xanh…

Tối mịt Iakốp Lukits mới về làng. Từ chuồng ngựa nông trang đi bách bộ về nhà, lão vẫn không trút được cái ấn tượng nặng nề đã đeo đẳng lão suốt ngày hôm nay về cuộc gặp gỡ thằng Chimôphây. Và ở nhà lão, một chuyện khó chịu khác còn cay đắng hơn hàng trăm lần đang chờ lão…

Lão vừa mới bước vào tới nhà ngoài thì cô con dâu đã từ trong bếp chạy bổ ra, thì thào báo tin:

- Thày ơi, có khách…

- Ai thế?...

- Ông Pôlốptxép và cái ông… ông chột. Họ đến lúc mới xẩm tối… hai mẹ con đang vắt sữa bò… Các ông ấy đang ngồi trong phòng xép. Ông Pôlốptxép sặc mùi rượu, còn cái ông kia, thật chả hiểu thế nào… Cả hai rách tả tơi, đến phát khiếp! Rận nhung nhúc… Nom thấy bò lổm ngổm trên quần áo!

… Trong phòng nghe có tiếng chuyện trò; Liachépxki vừa ho húng hắng vừa nói giọng đay nghiến, giễu cợt:

- … Tất nhiên rồi! Ngài là ai, hả thưa ngài? Tôi xin hỏi ngài thế, thưa ngài Pôlốptxép đáng kính. Và tôi cũng xin nói ngài rõ ngài là ai… Có được không ạ? Xin phép ngài, ngài là một nhà ái quốc không tổ quốc, một ông tướng không quân, và nếu ngài thấy so sánh như thế cao siêu và trừu tượng quá thì ngài là một dân cờ gian bạc lận không xu dính túi.

Nghe tiếng nói ồm ồm của Pôlốptxép cất lên, Iakốp Lukits rụng rời, đổ ngả lưng vào tường, hai tay ôm lấy đầu…

Trò xưa lại tái diễn.

---------------------------------

(*)          G.K. – Hai chữ đầu của “Nông trang Grêmiatsi” viết bằng tiếng Nga. – ND.

(Hết tập Một)

Không có nhận xét nào: