Thứ Tư, 12 tháng 10, 2016

Tên Tôi Là Đỏ : Tập II

clip_image002

Tên Tôi Là Đỏ

Orhan Pamuk

Nhà Xuất bản Văn Học 2008

Người dịch: Phạm Viêm Phương

Hình thức: Bìa mềm

Khổ: 15 x 24

Số trang: 580

MỤC LỤC

CHƯƠNG 35TÔI LÀ MỘT CON NGỰA

CHƯƠNG 36TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

CHƯƠNG 37TÔI LÀ DƯỢNG YÊU QUÝ CỦA CHÁU

CHƯƠNG 38ĐÓ LÀ TÔI, SƯ PHỤ OSMAN

CHƯƠNG 39TÔI LÀ ESTHER

CHƯƠNG 40TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

CHƯƠNG 41ĐÓ LÀ TÔI, SƯ PHỤ OSMAN

CHƯƠNG 42TÔI LA SIYAH

CHƯƠNG 43NGƯỜI TA GỌI TÔI LÀ “ZEYTIN”

CHƯƠNG 44NGƯỜI TA GỌI TÔI LÀ “KELEBEK”

CHƯƠNG 45NGƯỜI TA GỌI TÔI LÀ “LEYLEK”

CHƯƠNG 46TÔI SẼ BỊ GỌI LÀ KẺ SÁT NHÂN

CHƯƠNG 47TA! SATAN

CHƯƠNG 48TÔI, SHEKURE

CHƯƠNG 49TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

CHƯƠNG 50CHÚNG TÔI, HAI NHÀ KHỔ TU

CHƯƠNG 51ĐÓ LÀ TÔI, THẦY OSMAN

CHƯƠNG 52TÔI ĐUỢC GỌI LA SIYAH

CHƯƠNG 53TÔI LÀ ESTHER

CHƯƠNG 54TÔI LÀ MỘT PHỤ NỮ

CHƯƠNG 55TÔI ĐUỌC GỌI LÀ “KELEBEK”

CHƯƠNG 56TÔI ĐUỢC GỌI LÀ “LEYLEK”

CHƯƠNG 57TÔI ĐUỢC GỌI LÀ “ZEYTIN”

CHƯƠNG 58TÔI SẼ BỊ GỌI LÀ TÊN SÁT NHÂN

CHƯƠNG 59TÔI, SHEKURE

NIÊN BIỂU

(Thay lời bạt)

CHƯƠNG 35
TÔI LÀ MỘT CON NGỰA

Hãy bỏ qua sự kiện tôi đang đứng đây im lặng và bình thản; nếu nói sự thật, tôi đã phi nước đại nhiều thế kỷ; tôi đã đi qua những thảo nguyên, chiến đấu trong các trận đánh; chở những nàng con gái u sầu của các vương hầu đến lễ cưới; tôi đã phi nước đại hết trang này đến trang khác từ câu chuyện đến lịch sử, từ lịch sử đến truyền thuyết và từ pho sách này đến pho sách khác; tôi xuất hiện trong vô số câu chuyện, truyền thuyết, những cuốn sách và các trận chiến; tôi đi cùng những anh hùng bất khả chiến bại, các cặp tình nhân huyền thoại và những đội quân ly kỳ; tôi phi nước đại từ chiến dịch này đến chiến dịch khác với những vị vua chiến thắng, và do đó, tôi xuất hiện trong vô số tranh minh họa.

Các vị sẽ hỏi, tôi cảm thấy như thế nào khi được vẽ thường xuyên như vậy?

Dĩ nhiên. tôi rất tự hào về mình. Nhưng tôi cũng thắc mắc không biết thực sự có phải chính tôi là kẻ được vẽ trong mọi trường hợp không. Qua những bức tranh này, rõ ràng là mỗi người nhìn tôi một cách khác nhau. Tôi vẫn cảm thấy rất rõ rằng có một sự thống nhất, sự phổ quát đối với những tranh minh họa.

Những người bạn tiểu họa của tôi gần đây có kể lại một câu chuyện, và từ đó tôi biết được điều này: Vua của bọn ngoại giáo Tây vực đang nghĩ đến việc cưới con gái của pháp quan Venice. Ông ta đang cân nhắc chuyện đó, nhưng sau đó lại bị ám ảnh bởi ý nghĩ, “Chuyện gì xảy ra nếu người Venice này nghèo và con gái ông ta xấu?” Để yên tâm, ông ra lệnh cho họa sĩ giỏi nhất vẽ con gái, tài sản, đất đai, đồ dùng cá nhân của pháp quan Venice. Người Venice có thể chẳng mấy ngần ngại việc phô bày thô tục: Họ phơi bày không chỉ con gái của họ cho đôi mắt soi mói của người nghệ sĩ, mà cả ngựa và lâu đài của họ. Người họa sĩ ngoại đạo tài hoa có thể vẽ một thiếu nữ hay một con ngựa sao cho các vị có thể nhận ra ngay giữa đám đông. Trở lại sân trong của ông ta, khi vua Tây vực đang xem xét những bức tranh từ Venice, cân nhắc xem liệu ông ta có nên lấy thiếu nữ đó làm vợ ông ta không, thì con ngựa giống của ông ta bất ngờ thức tỉnh, cố gắng giao cấu với con ngựa cái hấp dẫn trong bức tranh, và những người chăn ngựa buộc phải khống chế con vật hung tợn này trước khi nó phá hủy bức tranh và khung tranh bằng cái dương vật khổng lồ của nó.

Họ nói rằng không phải vẻ đẹp của con ngựa cái Venice làm con ngựa đực Tây vực nổi hứng tình - dù con ngựa cái thực sự hấp dẫn - mà chính do việc chọn một con ngựa cái cụ thể và vẽ một bức tranh quá giống nó. Bây giờ vấn đề mới nổi lên: Có phải là tội lỗi chăng khi được vẽ như con ngựa cái kia, nghĩa là, giống y một con ngựa cái thực? Trong trường hợp của tôi, như các vị thấy đó, có rất ít khác biệt giữa hình ảnh tôi và những bức tranh ngựa khác.

Quả vậy, những ai trong các vị đặc biệt chú ý đến vẻ duyên dáng của thân mình tôi, độ dài của chân tôi và vẻ kiêu hãnh trong dáng động của tôi sẽ hiểu rằng tôi thực sự độc đáo. Song những đặc điểm tuyệt vời này cho thấy sự độc đáo của nhà tiểu họa đã vẽ tôi chứ không cho thấy sự độc đáo của một con ngựa như tôi.

Mọi người đều biết rõ rằng không có con ngựa nào giống chính xác như tôi. Chẳng qua tôi là sự thể hiện một con ngựa tồn tại trong trí tưởng tượng của nhà tiểu họa.

Nhìn tôi, người quan sát sẽ nói: “Thượng đế lòng lành, một con ngựa đẹp làm sao!” Nhưng thực ra ấy là họ ca ngợi người họa sĩ chứ không phải ca ngợi tôi. Trên thực tế mọi con ngựa đều rất khác nhau, và nhà tiểu hoạ, trên hết, phải biết điều này.

Nhìn kỹ, thậm chí cơ quan sinh dục của con ngựa đực này cũng không giống của con ngựa đực khác. Đừng sợ, các vị có thể xem xét nó thật kỹ, thậm chí là cầm nó trong tay: Bộ phận diệu kỳ do Thượng đế ban tặng cho tôi có hình dáng và đường nét riêng của nó.

Bây giờ, mọi nhà tiểu họa đều vẽ ngựa trong ký ức theo cùng một cách, cho dù mỗi chúng tôi đều được Allah, đấng sáng tạo vĩ đại nhất làm ra một cách hoàn toàn khác biệt. Tại sao họ lại thấy tự hào khi thể hiện hàng chục ngàn con ngựa theo cùng một cách mà không thực sự nhìn kỹ chúng tôi cơ chứ? Tôi sẽ cho các vị biết tại sao: Bởi vì họ đang cố mô tả thế giới mà Thượng đế mường tượng, chứ không phải thế giới họ thấy. Chẳng lẽ điều đó không đi tới chỗ thách thức tính độc nhất của Thượng đế, nghĩa là - cầu Allah tha thứ - nó không nói lên rằng tôi có thể làm công việc của Thượng đế sao? Những họa sĩ không hài lòng với những gì họ thấy bằng chính mắt họ, những nghệ sĩ vẽ cùng một con ngựa đến hàng ngàn lần, mà khẳng định rằng những gì nằm trong trí tưởng tượng của họ là con ngựa của Thượng đế. Những nghệ sĩ khẳng định rằng con ngựa đẹp nhất là con ngựa mà những nhà tiểu họa mù vẽ lại theo ký ức, chẳng lẽ họ không phạm phải tội cạnh tranh với Allah sao?

Phong cách mới của những bậc thầy Tây vực không hề báng bổ, mà hoàn toàn ngược lại, chúng là cách hay nhất trong việc tuân theo tín ngưỡng của chúng ta. Tôi cầu mong những anh em Erzurum của tôi không hiểu lầm tôi. Tôi bực bội khi bọn ngoại giáo Tây vực khoe khoang những phụ nữ gần như trần truồng của họ, bất kể đức khiêm tốn mộ đạo, khi họ không hiểu những lạc thú của cà phê và nhưng cậu bé xinh trai, và khi họ lang thang khắp nơi với những khuôn mặt râu ria nhẵn nhụi, nhưng lại tuyên bố rằng Jesus, tóc dài như tóc đàn bà, cũng là đấng Tối cao - cầu đấng Allah che chở chúng ta. Tôi quá bực bội bọn Tây vực này đến độ nếu có lúc tình cờ gặp được một tên, tôi sẽ cho hắn một cú đá ra trò.

Tôi vẫn phát ốm vì cứ bị vẽ không đúng bởi những nhà tiểu họa, những kẻ chỉ quanh quẩn trong nhà như những tiểu thư chứ chẳng bao giờ tham gia chiến trận. Họ sẽ vẽ tôi phi nước đại với cả hai chân trước vươn tới cùng một lúc. Không hề có con ngựa nào trên cõi đời này chạy giống như con thỏ cả. Nếu một chân trước của tôi đưa tới trước thì chân kia phải ở phía sau. Trái với những gì được vẽ trong các tranh minh họa chiến trận, không có con ngựa nào trên đời này giơ một chân trước ra như một con chó tò mò còn chân kia cắm chặt dưới đất cả. Không có đơn vị kỵ binh nào mà ngựa của họ đi nhàn nhã theo cùng một nhịp, như thể được đồ lại theo một khuôn mẫu y hệt hai mươi lần liên tục. Bọn ngựa chúng tôi tìm và ăn cỏ xanh ngay dưới chân chúng tôi khi không có ai nhìn. Chúng tôi không bao giờ có tư thế đẹp như pho tượng và thơ thẩn một cách tao nhã theo kiểu người ta thường thể hiện chúng tôi trong các bức tranh. Tại sao mọi người quá phiền hà với việc ăn, uống, ỉa và ngủ của chúng tôi vậy chứ? Tại sao họ sợ vẽ cái bộ phận độc đáo và diệu kỳ do Thượng đế ban tặng cho tôi? Đặc biệt phụ nữ và trẻ em thích lén nhìn vào nó, có gì tai hại -trong việc đó? Vị Hoja xứ Erzurum cũng chống đối cả điều này sao?

Họ nói rằng ngày xửa ngày xưa có một vị vua yếu đuối hay bồn chồn lo lắng ở Shiraz. Ông cực kỳ lo sợ rằng những kẻ thù sẽ phế truất mình để con trai ông lên kế vị; thay vì phái vị hoàng tử đó đến Isfahan làm tổng đốc, ông lại cầm tù vị hoàng tử đó trong căn phòng khuất kín nhất trong lâu đài. Hoàng tử lớn lên và sống trong cái xà lim tạm thời đó, vốn chẳng nhìn ra sân hay khu vườn nào, trong ba mươi mốt năm. Sau khi số tuổi trời ban của cha chàng chấm dứt thì hoàng tử, vốn xưa nay chỉ thui thủi một mình với sách vở, đã kế vị ngai vàng và tuyên bố: “Mang đến cho ta một con ngựa. Ta luôn thấy những bức tranh vẽ chúng và tò mò về chúng.” Họ đem đến cho chàng một con tuấn mã trong lâu đài, nhưng khi vị tân vương thấy con ngựa có lỗ mũi giống những đường hầm chẳng khác gì một con lừa trơ trẽn, một đám da và lông trông chán hơn trong tranh vẽ và một cái mông đít thô tục, chàng quá vỡ mộng đến độ ra lệnh tàn sát tất cả ngựa trong vương quốc của chàng. Sau cuộc tận diệt tàn bạo kéo dài suốt bốn mươi ngày đó, tất cả sông trong vương quốc nhuốm màu đỏ thẫm. Nhưng thánh Allah cao quý không kìm lại việc thi hành công lý của Người: Đức vua giờ thì không có đội kỵ binh nào, và khi đối mặt với quân đội của kẻ đại thù của chàng, người Bey Thổ Nhĩ Kỳ thuộc bộ tộc Garagoyunly, chàng đại bại và cuối cùng bị phân thây. Không còn nghi ngờ gì nữa: Như tất cả các sách sử cho thấy, loài ngựa đã trả thù.

CHƯƠNG 36
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

Shekure giam mình trong phòng với bọn trẻ, và tôi lắng nghe hồi lâu những âm thanh trong nhà, tiếng cót két không ngớt của nó. Shekure và Shevket bắt đầu thì thào với nhau và nàng bồn chồn dỗ im chúng bằng tiếng “suỵt!” bất chợt. Tôi nghe tiếng lạch cạch vang lên từ khu lát đá gần giếng nước nhưng nó không kéo dài.

Kế đến tiếng kêu quác quác của con mòng biển đậu trên mái nhà khiến tôi chú ý. Rồi nó cũng im lặng như mọi thứ khác. Sau đó tôi nghe một tiếng rên rỉ nhỏ từ bên kia hành lang: Hayriye khóc trong giấc ngủ. Tiếng rên của chị ta hòa vào tiếng ho nổi lên bất ngờ rồi kết thúc cũng bất ngờ như vậy, một lần nữa lại nhường chỗ cho nỗi im lặng sâu lắng, đáng sợ. Lát sau, tôi hình dung có một kẻ đột nhập đang lang thang quanh phòng nơi Enishte quá cố của tôi đang nằm, và tôi cứng cả người.

Trong mỗi khoảng im lặng, tôi lại xem xét những bức tranh trước mặt tôi, ngẫm nghĩ xem Zeytin nồng nhiệt, Kelebek đẹp đẽ và tay thợ mạ vàng quá cố đã quệt màu lên trang giấy như thế nào. Tôi bị thôi thúc đương đầu với từng hình ảnh bằng việc la to “Sa tan!” hoặc “Thần chết!” như Enishte của tôi từng làm một số đêm, nhưng nỗi sợ hãi kìm tôi lại. Ngoài ra, những bức minh họa này khiến tôi rất bực mình bởi tôi không viết được một câu chuyện thích hợp đi kèm với chúng bất chấp sự nài ép của Enishte của tôi. Vì tôi đang dần ngày càng chắc chắn rằng cái chết của ông có liên quan đến những hình ảnh này, nên tôi cảm thấy khó chịu và bứt rứt. Tôi đã săm soi những bức minh họa này liên tục trong khi lắng nghe những câu chuyện của Enishte, tất cả là để có cơ hội được gần Shekure. Bây giờ nàng là vợ cưới xin hợp pháp của tôi, tại sao tôi cứ phải nghĩ về chúng? Một tiếng nói nội tâm tàn nhẫn trả lời: “Bởi vì ngay cả sau khi bọn trẻ đã ngủ, Shekure vẫn không chịu rời phòng để đến với anh.” Tôi chờ hồi lâu trong khi vẫn cứ chăm chú nhìn các bức tranh dưới ánh nến, hy vọng rằng người đẹp mắt đen của tôi sẽ đến.

Đến sáng, bị đánh thức bởi tiếng rú của Hayriye, tôi chộp lấy giá nến và chạy vội ra hành lang. Tôi nghĩ Hasan đã đưa người tập kích vào nhà, và tôi nghĩ đến việc giấu các bức tranh, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng Hayriye đã bắt đầu kêu gào theo lệnh của Shekure, như một cách để thông báo cái chết của Enishte Kính mến với bọn trẻ và hàng xóm. - Khi tôi gặp Shekure ở hành lang, chúng tôi ôm nhau trìu mến. Bọn trẻ ban nãy đã nhảy khỏi giường khi nghe Hayriye kêu thét. giờ đứng bất động.

“Ông ngoại chết rồi,” Shekure nói với chúng. “Mẹ không muốn tụi con bước vào phòng đó trong bất kỳ tình huống nào.” Nàng rời khỏi vòng tay tôi, đến bên cạnh cha nàng rồi bắt đầu khóc.

Tôi xua bọn trẻ trở về phòng của chúng, “Thay đồ ngủ ra đi, các con sẽ bị nhiễm lạnh đấy” tôi nói và ngồi xuống mép giường.

“Ông ngoại không chết sáng nay, ông chết từ tối hôm qua rồi,” Shevket nói.

Một sợi tóc dài từ mái tóc tuyệt đẹp của Shekure cuộn lại thành chữ Ả Rập “vav” trên gối của nàng. Hơi ấm của nàng chưa tan bên dưới lớp mền. Chúng tôi có thể nghe tiếng nàng than khóc và thổn thức cùng với Hayriye. Nàng kêu khóc cứ như cha nàng đã thực sự chết đột ngột, nghe quá giả dối đến độ tôi có cảm giác mình không hề biết chút gì về Shekure, giống như nàng bị một âm hồn kỳ lạ ám.

“Con sợ”, Orhan nói với một cái nhìn vốn cũng là một yêu cầu xin được phép khóc.

“Đừng sợ.” tôi nói. “Mẹ con khóc để láng giềng biết ông ngoại chết và đến chia buồn.”

“Nếu họ đến thì có gì quan trọng?” Shevket hỏi.

“Nếu họ đến họ sẽ cùng buồn và than khóc với chúng ta vì cái chết của ông. Nhờ vậy chúng ta có thể chia bớt buồn đau.”

“Ông giết ông ngoại cháu phải không?” Shevket la to.

“Nếu con muốn chọc giận mẹ thì đừng mong ta yêu thương con!” Tôi nạt lại.

Chúng tôi không la lối nhau theo kiểu cha ghẻ với con riêng của vợ, mà như hai người đàn ông đang nói chuyện bên bờ sông nước chảy ì ầm. Shekure bước ra hành lang, mở tung hết cửa sổ để hàng xóm nghe thấy tiếng nàng kêu khóc.

Tôi rời khỏi phòng để tiếp tay cho nàng. Cả hai chúng tôi cố mở cửa sổ. Với sự cố gắng hết sức của cả hai, những cánh cửa bung ra và rớt xuống sân. Ánh sáng mặt trời và hơi lạnh phả vào mặt chúng tôi gây choáng váng giây lát. Shekure kêu gào, khóc than thảm thiết.

Cái chết của Enishte Kính mến. một khi được tiếng khóc của nàng loan báo, hóa thành một nỗi đau bi thảm và thống khổ hơn nhiều. Dù thành thật hay giả vờ, tiếng khóc của vợ tôi cũng giày vò tôi. Bất ngờ, tôi bật khóc. Tôi không rõ mình khóc thật lòng vì sầu khổ hay chỉ giả vờ vì sợ bị cho là có trách nhiệm về cái chết của Enishte.

“Cha đi rồi, đi rồi, đi rồi, cha thân yêu của tôi ra đi rồi!” Shekure kêu lên.

Tiếng thổn thức và than van của tôi bắt chước theo nàng dù tôi không biết đích xác mình đang nói gì. Tôi ưu tư không biết mình trông thế nào dưới mắt những láng giềng đang nhìn chúng tôi từ nhà họ, từ phía sau những cánh cửa nứt nẻ và giữa những tấm mành, và tự hỏi cách ứng xử của tôi phù hợp đến đâu. Trong khi tôi khóc, tôi có cảm giác được gột sạch khỏi những mối nghi ngờ liệu nỗi đau của tôi có thành thực hay không, khỏi nỗi lo bị buộc tội giết người, và khỏi nỗi sợ hãi đối với Hasan và tay chân của anh ta.

Shekure là của tôi và có vẻ như tôi đang ăn mừng bằng tiếng la hét và nước mắt. Tôi kéo cô vợ đang thổn thức của tôi sát vào mình và, không chú ý gì đến bọn trẻ đầy nước mắt đang tiến đến chỗ chúng tôi, tôi âu yếm hôn lên má nàng, hít lấy mùi cây hạnh đào của tuổi trẻ chúng tôi.

Cùng với bọn trẻ, chúng tôi trở vào nơi xác chết nằm. Tôi nói, “La illahe illallah, không có Thượng đế nào ngoài Allah” cứ như đang nói không phải với một thi hài đã hai ngày bốc mùi nồng nặc mà với một người đang hấp hối, người mà tôi muốn xác nhận lại những lời của nhân chứng. Tôi muốn Enishte của tôi lên Thiên đàng với những lời này trên môi ông. Chúng tôi giả như rằng ông đã lặp lại chúng, và thoáng mỉm cười khi chúng tôi nhìn vào khuôn mặt gần như đã bị hủy hoại và cái đầu giập nát của ông. Tôi ngửa lòng bàn tay hướng về Thiên đàng và trích đọc chương “Ya Sin” trong khi những người khác im lặng lắng nghe.

Với một cuộn băng sạch mà Shekure mang vào phòng, chúng tôi cẩn thận buộc cho miệng Enishte khép lại, nhẹ nhàng vuốt đôi mắt đã bị hủy hoại của ông và lăn ông sang bên phải, sắp xếp cho đầu ông hướng về Mecca. Shekure phủ một tấm khăn trắng sạch lên người ông.

Tôi hài lòng khi bọn trẻ theo dõi mọi chuyện một cách chăm chú và bởi sự yên tĩnh tiếp theo những tiếng than khóc. Tôi cảm thấy mình giống như một ai khác với vợ thật và con cái thật, với một tổ ấm và một mái nhà.

Tôi xếp các bức tranh, từng cái một vào một cái cặp giấy, mặc áo choàng vào và vội vã rời khỏi nhà. Tôi đi thẳng đến thánh đường trong khu vực, làm như không thấy một người hàng xóm - một bà già cùng đứa cháu ngoại mũi dãi thò lò rõ là đang vui mừng về tất cả những chuyện bất ngờ xảy ra: Họ đã nghe tiếng khóc của chúng tôi và hăm hở đến chia buồn.

Cái hốc nhỏ xíu mà vị giáo sĩ gọi là “nhà” của ông ta vô cùng nhỏ bên cạnh một kiến trúc bề thế với những mái vòm khổng lồ và khoảng sân rộng lớn, tiêu biểu cho những thánh đường được xây dựng sau này. Ông giáo sĩ, mà theo tôi quan sát thì, như một thói quen ngày càng phổ biến, đang nới rộng ranh giới cái hang chuột bé tẹo lạnh lẽo gọi là “nhà” của ông ta và đã lấn chiếm toàn bộ thánh đường mà không chút quan tâm đến mớ quần áo bẩn thỉu và cũ kỹ mà vợ ông ta treo giữa hai cây óc chó tại mé sân.

Chúng tôi tránh đòn tấn công của hai con chó hung dữ vốn đang chiếm cứ cái sân hệt như Thầy tế Kính mến và gia đình ông ta, và sau khi những đứa con của giáo sĩ này dùng gậy đuổi bọn chó đi rồi xin lỗi, giáo sĩ với tôi rút vào một góc riêng.

Sau thủ tục ly dị ngày hôm qua, và xét vì chúng tôi đã không nhờ ông ta làm nghi lễ kết hôn, điều mà tôi chắc chắn đã khiến ông ta phật lòng, tôi có thể đọc trên mặt ông ta câu hỏi “Lạy Thượng đế, cái gì đưa anh đến đây lúc này vậy?”

“Enishte Kính mến đã qua đời sáng nay.”

“Xin Thượng đế phù hộ ông ta. Cầu xin ông ta tìm được chỗ ở trên Thiên đàng!” Ông ta nói một cách nhân hậu.

Tại sao tôi vô ý chuốc rắc rối cho mình bằng việc thêm các từ “sáng nay” vào câu nói của tôi? Tôi thả một đồng vàng vào tay ông ta, y hệt những đồng tôi đã cho ông ta hôm qua. Tôi yêu cầu ông ta đọc bài kinh cầu hồn trước khi có hiệu báo cầu kinh và chỉ định em trai ông ta làm người thông tin đi khắp nơi loan báo cái chết này cho cả vùng.

“Em trai ta có một người bạn tốt gần như mù; chúng ta rất rành việc tắm rửa lần cuối cho người chết”, ông ta nói.

Còn gì thích hợp hơn để một người mù và một kẻ dở hơi tắm rửa thi thể của Enishte Kính mến? Tôi giải thích với ông ta rằng lễ cầu nguyện đám tang theo nghi thức sẽ được thực hiện vào buổi chiều, và rằng các nhà quý tộc và nhiều người từ cung điện, các phường hội và trường thần học sẽ tham dự. Tôi không tìm cách giải thích vì sao khuôn mặt và cái đầu của Enishte Kính mến lại giập nát thế kia, vì trước đó tôi đã quyết định rằng vấn đề này cần được giải quyết ở cấp thẩm quyền cao hơn.

Vì Đức vua đã giao cho Trưởng Ngân khố đảm nhiệm việc cân đối chi phí cho cuốn sách mà Ngài yêu cầu Enishte của tôi thực hiện, nên trước tiên tôi phải báo cáo cái chết này với ông ta.

Vì vậy, tôi tìm một người thợ bọc nệm vốn là bà con bên nội tôi, vốn làm việc trong những cửa hàng may mặc đối diện Cổng Sogukcesme ([1]) từ lúc tôi còn nhỏ xíu. Khi tìm được ông ta, tôi hôn bàn tay trổ đồi mồi của ông và thiết tha trình bày với ông rằng tôi cần gặp Trưởng Ngân khố. Ông ta bảo tôi chờ giữa đám thợ học việc hói đầu của ông vốn đang may màn, gò người trên tấm lụa sặc sỡ trải trên đùi; sau đó ông bảo tôi theo một tay thợ phụ, người này, theo tôi biết, sắp vào cung điện để lấy số đo của khách. Khi chúng tôi qua Cổng Sogukcesme để leo lên Alay Meydani ([2]), tôi biết mình khỏi phải đi ngang qua xưởng vẽ đối diện thánh đường Hagia Sophia, nhờ thế tôi không phải thông báo tội ác này với những nhà tiểu họa khác.

Alay Meydani hiện có vẻ náo nhiệt, trong khi nó thường có vẻ trống trải đối với tôi. Tuy hiện giờ không có một người nào ở Cổng, nơi thường có nhiều người đứng xếp hàng để đệ đơn trong những ngày Thượng Hội đồng nhóm họp, mà cũng không có ai quanh khu vực những kho lương này, song tôi như vẫn nghe được tiếng ồn ào liên tục phát ra từ những cửa sổ nhà thương, từ xưởng cưa, tiệm bánh mì, chuồng ngựa, những tay chăn ngựa cùng ngựa của họ trước Cổng Bab-us-Selam ([3]) (tôi nhìn lên những ngọn tháp ở cổng này với vẻ sững sờ), và từ hàng cây bách. Tôi cho rằng cảm giác hốt hoảng của tôi là do nỗi sợ hãi phải đi qua Bab-us-selam, nơi mà lần đầu tiên trong đời tôi đặt chân tới.

Tại cổng này, tôi không thể tập trung chú ý vào vị trí mà theo tương truyền là nơi các đao phủ luôn túc trực, cũng không thể giấu sự bối rối của mình trước mắt những lính gác cổng đang soi mói nhìn súc vải bọc nệm tôi ôm như một thứ đồ nghề để người khác nhìn vào sẽ nghĩ tôi là kẻ phụ việc cho người thợ may kiêm dẫn đường của tôi.

Ngay khi chúng tôi bước vào Divan Meydani ([4]), một sự im lặng sâu lắng vây quanh chúng tôi. Tôi cảm thấy tim tôi đập thình thịch cả trong các mạch máu ở trán và cổ. Khu vực này, thường được Enishte của tôi và những người đến thăm lâu đài mô tả, nằm trước mắt tôi nhu một khu vườn thượng giới đẹp tuyệt trần.

Nhưng tôi không cảm thấy sự phấn chấn của một kẻ bước vào Thiên đàng, chỉ có sự lo lắng và tôn sùng; tôi cảm thấy mình chỉ là một kẻ tôi tớ hèn mọn của Đức vua, người mà, như bây giờ tôi hiểu rõ, thực sự là nền móng của vương quốc trần thế này. Tôi nhìn chăm chăm những chú công lang thang qua những lùm cây được chăm chút cẩn thận, những chiếc tách vàng được xích vào những vòi nước bắn tung tóe và những phái viên của Hoàng thượng mặc áo chùng lụa (họ có vẻ như di chuyển khắp nơi mà không chạm đất) và tôi cảm thấy xúc động khi được phụng sự Đức vua. Dứt khoát là tôi sẽ hoàn thành cuốn sách bí mật của Đức vua, mà những bức minh họa chưa hoàn tất của nó tôi đang ôm trong tay. Không ý thức chính xác mình đang làm gì, tôi cứ theo sau người thợ may, mắt dán chặt vào Tháp Divan, giờ bị thu hút bởi nỗi sợ hãi hơn là sững sờ khi được đến gần nó.([5])

Cùng với một cậu thư đồng trong cung theo sát chúng tôi, chúng tôi đi qua dinh Thượng Hội đồng và Ngân khố, đầy sợ hãi và im lặng, như trong một giấc mơ, tôi có cảm giác mình đã thấy chốn này từ trước và biết rõ nó.

Chúng tôi đi qua một cánh cửa rộng bước vào một căn phòng được gọi là Cung Thượng Hội đồng cũ. Bên dưới mái vòm khổng lồ của nó, tôi thấy những nghệ nhân bậc thầy ôm theo vải vóc da thuộc, những bao kiếm bằng bạc và thùng khảm xà cừ.

Tôi suy ra rằng họ thuộc những phường thợ thủ công của Đức vua: những người chế tạo quyền trượng, người đóng giày, thợ bạc, thợ cả dệt nhung, thợ chạm ngà, thợ làm đàn. Tất cả đang đứng chờ ngoài cửa dinh Trưởng Ngân khố với vô số những kiến nghị liên quan đến lương bổng, việc tìm mua vật liệu và yêu cầu được vào các khu cấm địa của Đức vua để đo đạc. Tôi mừng vì không thấy có thợ trang trí nào trong số họ.

Chúng tôi đứng tránh sang một bên và cũng bắt đầu chờ. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe giọng xướng cao của thư ký Trưởng Ngân khố, nghi ngờ một lỗi nào đó trong các bản quyết toán và yêu cầu làm sáng tỏ; yêu cầu này sẽ nhận được một câu trả lời lễ phép, của một thợ khóa chẳng hạn. Những tiếng nói ở đây hiếm khi cao hơn mức thì thầm; tiếng vỗ cánh của lũ chim ngoài sân vọng vào mái vòm bên trên chúng tôi còn lớn hơn những cầu xin nhỏ nhặt của đám thợ khúm núm này.

Khi đến phiên mình, tôi bước vào phòng có mái vòm của vị Trưởng Ngân khố và thấy trong đó chỉ có một thư ký. Tôi nhanh chóng giải thích rằng có một vấn đề quan trọng cần đệ trình cho ngài Trưởng Ngân khố: Một dự án về cuốn sách mà Đức vua đã ra lệnh làm và nó vô cùng quan trọng đối với Ngài. Tò mò trước những thứ tôi đang ôm theo, viên thư ký ngước mắt lên. Tôi cho ông ta xem những bức minh họa từ cuốn sách của Enishte. Tôi nhận thấy rằng tính chất lạ thường của những bức tranh, sự quái dị rõ rệt của chúng khiến ông ta choáng váng. Tôi vội cho ông ta biết tên Enishte của tôi, biệt danh và nghề nghiệp của ông, nói thêm rằng ông đã chết vì những bức tranh này. Tôi nói nhanh, hiểu rõ rằng nếu rời lâu đài mà không gặp được Đúc vua, tôi sẽ bị buộc tội là đã đưa Enishte vào tình cảnh khủng khiếp đó.

Khi viên thư ký rời phòng để báo cho Trưởng Ngân khố, tôi đột nhiên đổ mồ hôi lạnh. Liệu Trưởng Ngân khố, người mà, như Enishte của tôi từng cho biết, không bao giờ rời xa Đức vua, có khi còn trải thảm cầu kinh cho Ngài, và thường xuyên là bạn tâm tình của Ngày có chịu rời khỏi khu Enderun cấm địa của lâu đài để gặp tôi không? Việc cử một phái viên đến khu trung tâm cung điện vì tôi là đủ khó tin rồi. Tôi tự hỏi Đức vua có thể ở đâu: Ngài đã lui về một trong những nhà thủy tạ gần bờ biển? Ngài đang ở hậu cung? Trưởng Ngân khố có đi cùng Ngài không?

Hồi lâu sau, tôi được triệu vào. Để tôi mô tả rõ thế này: tôi nhận tin quá bất ngờ đến độ không có thời gian để sợ. Tuy nhiên, tôi kinh hoàng khi thấy vẻ tôn kính và kinh ngạc trên nét mặt ông thợ cả dệt nhung đang đứng ở cửa. Tôi bước vào trong và lập tức hoảng hồn; tôi nghĩ mình không nói được thành lời. Ông ta đội một khăn thêu chỉ vàng mà chỉ có ông và Hoàng thượng mới đội; tôi đang ở trước mặt viên Trưởng Ngân khố. Ông ta đang xem những tranh minh họa nằm trên chiếc bàn đọc sách mà viên thư ký đã bày ra sau khi nhận từ tay tôi. Tôi cảm thấy như mình chính là người làm những bức tranh đó. Tôi hôn gấu áo choàng của ông ta.

“Con à,” ông ta nói. “Nếu ta không lầm thì Enishte của con đã chết rồi phải không?”

Tôi không trả lời được vì kích động, hoặc có lẽ vì mặc cảm phạm tội, mà chỉ gật đầu. Ngay lúc đó điều hoàn toàn bất ngờ đã xảy ra: ở đó, trước cái nhìn ngạc nhiên và thông cảm của Trưởng Ngân khố, một giọt nước mắt từ từ lăn xuống má tôi. Tôi đờ người ra; tôi bị tác động kỳ lạ bởi việc có mặt trong lâu đài, bởi việc Trưởng Ngân khố đã tạm rời Đức vua để tiếp kiến tôi, và bởi việc tôi đang ở quá gần Ngài. Nước mắt tôi bắt đầu tuôn trào, nhưng tôi không cảm thấy chút bối rối.

“Cứ khóc đi, con”, Trưởng Ngân khố nói.

Tôi thổn thức và rên rỉ. Dù tôi cho rằng mười hai năm trôi qua đã làm tôi chín chắn, nhưng khi ở quá gần Đức vua, quá gần đầu não của đế chế, ta nhanh chóng nhận ra mình chỉ là đứa trẻ con. Tôi không quan tâm liệu những người thợ bạc và dệt nhung ngoài kia có nghe được tiếng thổn thức của tôi không. Tôi hiểu mình thậm chí có thể xưng tội với Trưởng Ngân khố nữa.

Phải, tôi đã nói với ông tất cả, đúng như nó xảy ra với tôi.

Khi tôi một lần nữa nhìn lại Enishte quá cố, đám cưới của tôi với Shekure, sự đe dọa của Hasan, những khó khăn liên quan đến cuốn sách của Enishte của tôi và những bí mật nằm trong các bức minh họa, tôi đã lấy lại bình tĩnh. Tôi cảm thấy chắc chắn rằng cách duy nhất để cứu tôi khỏi cái bẫy mà tôi đã rơi vào này là phó mặc phận mình cho sự công bằng và tình thương vô hạn của Đức vua, và bởi thế tôi chẳng che giấu điều gì. Trước khi hiểu hết những điều tôi nói và giao tôi cho những kẻ tra tấn và đao phủ, liệu Trưởng Ngân khố này có truyền đạt câu chuyện của tôi thẳng đến Đức vua không?

“Hãy lập tức thông báo cái chết của Enishte Kính mến cho cả xưởng vẽ.” Trưởng Ngân khố nói. “Ta muốn cả phường hội họa sĩ dự đám tang của ông ta.”

Ông ta nhìn tôi để xem tôi có bất kỳ phản đối gì không. Phấn khởi trước sự quan tâm của ông, tôi bày tỏ những lo âu về việc ai là hung thủ và động cơ khả dĩ đằng sau cái chết cua Enishte của tôi và nghệ nhân mạ vàng Zarif Kính mến. Tôi nói bóng gió rằng dính líu vào vụ này có thể là những môn đồ của nhà thuyết giáo xứ Erzurum và những người đang nhắm vào các viện khổ tu nơi thường có âm nhạc và khiêu vũ. Khi tôi thấy vẻ nghi ngờ của Trưởng Ngân khố, tôi hăm hở trình bày những nghi ngờ khác của mình: Tôi báo cho ông ta biết rằng vấn đề tiền bạc và danh dự đi kèm với việc được mời minh họa và trang trí cho cuốn sách của Enishte Kính mến có thể đã dẫn đến sụ ghen tỵ và ganh đua không tránh khỏi giữa những nghệ nhân. Chỉ riêng việc giữ kín dự án này có thể đã khơi dậy những căm thù, đố kỵ và mưu đồ đó. Khi những lời này thốt ra khỏi miệng tôi, tôi lo lắng cảm thấy rằng Trưởng Ngân khố đã nảy sinh mối nghi ngờ tôi - cũng như bạn vậy. Lạy Thánh Allah, hãy thực thi công lý, đó là tất cả những gì tôi yêu cầu, không có gì hơn.

Trong khoảng im lặng tiếp theo, vị Trưởng Ngân khố rời mắt khỏi tôi, như thể bối rối trước những lời nói và số phận của tôi, mà dán mắt vào những bức tranh nằm trên bàn.

“Ở đây có chín bức tranh,” ông nói. “Kế hoạch là cho một cuốn sách với mười tấm tranh. Enishte Kính mến nhận ở ta nhiều vàng lá hơn số vàng được sử dụng ở đây.”

“Tên dị giáo giết người đó hẳn đã ăn cắp bức minh họa cuối cùng, trên đó sử dụng phần lớn số vàng.” tôi nói.

“Con chưa nói với chúng ta tay thư pháp sao chép đó là ai.”

“Enishte quá cố của con chưa hoàn tất phần văn bản của cuốn sách, ông ấy nhờ con giúp hoàn tất nó.”

“Con ơi, con vừa giải thích chuyện con mới về đến Istanbul như thế nào mà.”

“Được một tuần rồi. Con về đây ba ngày sau khi Zarif Kính mến bị giết.”

“Ý con nói rằng Enishte Kính mến của con đã minh họa một bản thảo chưa được viết ra - không hề hiện hữu - trong ròng rã một năm trời à?”

“Vâng, thưa ngài.”

“Vậy ông ta có để lộ cho con biết cuốn sách nói về điều gì không?”

“Đúng những gì Đức vua tuyên bố rằng Ngài muốn: Một cuốn sách mô tả năm thứ một ngàn lịch Hồi giáo, nhằm khiến pháp quan Venice phải kinh hoàng bằng cách thể hiện sức mạnh quân sự và lòng tự hào của Hồi giáo, cùng với quyền lực và sự giàu có của triều đại Osman vĩ đại. Nó được dự trù trở thành một cuốn sách kể lại và minh họa những khía cạnh sống động nhất, có giá trị nhất của vương quốc chúng ta; và giống như trong cuốn “Những luận văn về nhân tướng học”([6]), một bức chân dung của Đức vua sẽ được đặt ngay giữa sách. Hơn nữa, vì những tranh minh họa này được làm theo phong cách Tây vực bằng những phương pháp Tây vực, chúng sẽ khiến pháp quan Venice phải kinh sợ và mong muốn thiết lập quan hệ hữu nghị. Ta hiểu tất cả chuyện đó, nhưng có phải những con chó và cây cối kia là những khía cạnh sống động và giá trị nhất của triều đại Osman vinh quang không?” Ông ta nói, chỉ vào những bức tranh.

“Enishte của con, cầu cho ông được yên nghỉ, khẳng định rằng cuốn sách thể hiện không chỉ sự giàu có của Đức vua, mà còn sức mạnh đạo đức và tinh thần của Ngài cùng với những ưu phiền che dấu của Ngài.”

“Và bức chân dung Đức vua?”

“Con chưa thấy nó. Có lẽ nó ở nơi mà tên giết người vô đạo đã cất giấu. Ai mà biết được, có thể lúc này đang ở trong nhà hắn ta.”

Enishte quá cố của tôi đã bị giáng xuống vị thế một người được giao làm một mớ tranh kỳ cục mà Trưởng Ngân khố cho là vô giá trị, thay vì là một người phấn đấu hoàn tất một cuốn sách xứng đáng với số vàng ông được trả. Liệu vị Trưởng Ngân khố này có nghĩ tôi đã giết một người không đáng tin cậy và vô dụng để cưới con gái của Enishte, hay vì một số lý do nào khác - có lẽ để bán tống mớ vàng đó không? Qua cái nhìn của ông, tôi hiểu rằng vụ việc của tôi sắp được khép lại, vì vậy, bằng giọng lo lắng và thu hết can đảm, tôi cố chứng minh thanh danh của mình: Tôi nói với ông ta, Enishte của tôi đã tâm sự với tôi rằng một trong những nhà tiểu họa bậc thầy mà ông thuê có thể đã giết Zarif Kính mến tội nghiệp. Vẫn cố nói cho ngắn gọn, tôi cho ông ta biết Enishte của tôi đã nghi ngờ Zeytin, Leylek và Kelebek như thế nào. Tôi không có nhiều chứng cớ mà cũng không tự tin lắm. Về sau, tôi có cảm giác rằng Trưởng Ngân khố chẳng xem tôi là gì hơn một kẻ vu khống đê tiện và một tên buôn chuyện ngu ngốc.

Cuối cùng, tôi thấy phấn chấn khi Trưởng Ngân khố nói rằng chúng tôi phải giấu những chi tiết về cái chết kỳ lạ của Enishte không cho xưởng vẽ biết; tôi xem đây là dấu hiệu cho thấy ông ta tin câu chuyện của tôi. Những bức tranh được để lại cho vị Trưởng Ngân khố và tôi đi qua Cổng Bab-us-Selam - mà lúc đầu tôi cảm thấy giống như Cổng Thiên đàng. Sau khi ra ngoài dưới sự khám xét cẩn thận của những lính gác, tôi thấy nhẹ cả người, giống như một người lính trở về nhà sau nhiều năm chinh chiến.

CHƯƠNG 37
TÔI LÀ DƯỢNG YÊU QUÝ CỦA CHÁU

Đám tang tôi thật linh đình, đúng như ý tôi muốn. Nó khiến tôi tự hào ở chỗ tất cả những người tôi ước ao sẽ đến dự thì đều có mặt. Trong các đại thần có mặt ở Istanbul khi tôi chết, Haji Huseyin Tổng trấn xứ Cyprus, và Baki Tổng trấn xứ Lame nhớ lại một cách trung thành rằng tôi lúc này lúc khác đã giúp đỡ họ rất nhiều. Sự có mặt của Thượng thư Quốc khố vụ, tổng trấn Red Melek, người vừa được coi trọng vừa bị phê phán rất nhiều vào thời điểm tôi qua đời đã làm sôi động khoảng sân khiêm tốn của thánh đường trong khu chúng tôi. Nếu tôi còn sống và tiếp tục cuộc đời hoạt động chính trị, tôi hẳn đã được thăng chức ngang hàng với Mustafa Agha, Tuyên chỉ sứ của Đức vua mà sự hiện diện của ông ta khiến tôi đặc biệt hài lòng. Những người than khóc tạo thành một nhóm lớn cực kỳ gây ấn tượng, gồm Ký lục Thượng Hội đồng Kemalettin Kính mến, Trưởng ký lục Salim Khổ hạnh Kính mến, những sứ giả của Thượng Hội đồng - mỗi người trong họ hoặc là bạn thân hoặc là đại kình địch - một nhóm gồm những nguyên ủy viên Thượng Hội đồng vốn rút lui sớm khỏi đời sống chính trị, bạn học của tôi, những người khác tình cờ biết tin cái chết của tôi - tôi không thể hình dung bằng cách nào hoặc ở đâu - và rất nhiều họ hàng, bà con bên vợ và thanh niên.

Tôi cũng tự hào với giáo đoàn, sự nghiêm trang và sầu khổ của họ. Sự có mặt của Trưởng Ngân khố Hazim Agha và viên Chỉ huy Ngự lâm quân đã khiến mọi người đều thấy rõ Đức vua đau buồn về cái chết không đúng lúc của tôi. Tôi thực sự rất vui vì điều này. Tôi không biết liệu nỗi buồn của Đức vua có khiến người ta nỗ lực hết sức hầu tóm cho bằng được tên giết người khốn nạn của tôi không, kể cả việc huy động những kẻ tra tấn, nhưng tôi biết điều này: kẻ đáng ghét đó hiện đang ở trong sân, giữa những nhà thư pháp và nhà tiểu họa, mang vẻ mặt trang nghiêm và hết sức đau khổ trong khi hắn nhìn quan tài của tôi.

Xin đừng nghĩ rằng tôi vô cùng tức giận tên giết người của tôi hoặc cho rằng tôi nghĩ đến việc trả thù, hay thậm chí linh hồn tôi bất an vì tôi đã bị giết một cách tàn bạo và phản trắc. Hiện tôi đang tồn tại ở một bình diện hoàn toàn khác, và linh hồn tôi hết sức bình yên, khi đã trở lại với cõi vinh quang trước đây của nó sau nhiều năm chịu đựng khổ đau nơi trần thế.

Linh hồn tôi tạm thời rời bỏ thân xác tôi, cái thân xác đang quằn quại đau đớn khi nằm trong vũng máu do những cú đập bằng cái bình mực, và run rẩy một lát trong ánh sáng rực rỡ, sau đó hai thiên thần tươi cười và xinh đẹp với khuôn mặt sáng như vầng thái dương - như tôi đã đọc được vô số lần trong Kitab al- Ruh - đang từ từ tiến lại gần tôi trong ánh sáng rực rỡ siêu phàm này, nắm lấy hai cánh tay tôi, như thể tôi vẫn còn thân xác, và bắt đầu bay lên. Hết sức êm đềm, hết sức nhẹ nhàng, và hết sức nhanh, chúng tôi bay lên như trong một giấc mơ cực kỳ hạnh phúc! Chúng tôi vượt qua những khu rừng lửa, lội qua những dòng sông ánh sáng rồi tiến vào những biển cả tối tăm, những dãy núi phủ đầy băng tuyết. Mỗi chuyến băng qua mất cả ngàn năm, dù có vẻ không lâu hơn một cái chớp mắt.

Chúng tôi bay lên qua bảy tầng Thiên đàng, qua rất nhiều đám đông tụ họp, những tạo vật lạ kỳ, những đầm lầy, những đám mây nhung nhúc vô số côn trùng chim chóc. Ở mỗi tầng Thiên đàng, thiên thần dẫn đường sẽ gõ lên cổng chính và khi câu hỏi “Ai đi đó?”phát ra từ sau cánh cổng, thiên thần sẽ mô tả tôi gồm tên họ và những đặc trưng của tôi, tóm tắt bằng câu nói “Một bầy tôi trung thành của Allah Vinh quang!” - vốn khiến tôi rưng rưng nước mắt vì vui sướng. Tuy nhiên, tôi biết hãy còn hàng ngàn năm nữa mới đến Ngày Phán xét khi đó những người được định chỗ ở Thiên đàng sẽ được tách khỏi những kẻ bị đày xuống Hỏa ngục.

Việc thăng thiên của tôi, trừ vài khác biệt không đáng kể, xảy ra đúng theo cách Gazzali, El Jevziyye và những học giả huyền thoại khác đã diễn tả trong những đoạn văn của họ về cái chết. Những thắc mắc và bí ẩn muôn thuở mà chỉ có người chết mới có thể hiểu nay được hé lộ và giải thích, bung ra sáng lòa từng điều một với vô vàn màu sắc.

Ôi, làm sao tôi có thể mô tả đầy đủ những màu sắc tôi đã thấy trong chuyến hành trình tuyệt vời này? Cả thế giới được làm từ màu sắc, mọi thứ là màu. Cũng như tôi đã cảm thấy cái sức mạnh vốn đã tách tôi ra khỏi mọi người và các vật thể khác bao gồm màu sắc, giờ đây tôi hiểu chính màu sắc đã ôm lấy tôi một cách trìu mến và buộc tôi vào thế giới này. Tôi thấy những bầu trời màu cam, những thân xác màu xanh lá tuyệt đẹp, những quả trứng nâu và những chú ngựa màu xanh da trời huyền thoại. Thế giới này đúng như những bức minh họa và truyền thuyết mà tôi đã say mê nghiên cứu kỹ trong bao năm. Tôi nhìn công trình sáng thế với vẻ kính sợ lẫn ngạc nhiên cứ như mới thấy lần đầu, nhưng cũng như thể nó hiện ra đâu đó từ ký ức tôi. Điều tôi gọi là “ký ức” chứa đựng cả thế giới: Với thời gian trải ra vô hạn trước mặt tôi về cả hai hướng, tôi hiểu rằng thế giới như tôi trải nghiệm lần đầu có thể bền vững mãi về sau như ký ức ra sao. Khi được chết giữa lễ hội màu sắc này, tôi cũng phát hiện ra vì sao tôi cảm thấy nhẹ nhõm, như thể được giải thoát khỏi sự trói buộc: Từ giờ trở đi chẳng có gì bị giới hạn nữa, và tôi có không gian cùng thời gian vô hạn để trải nghiệm trong đó mọi thời đại và nơi chốn.

Ngay khi nhận ra sự tự do này, với sự sợ hãi và cảm giác mê đắm, tôi biết mình đã gần sát bên Người; đồng thời, tôi cảm thấy một cách khiêm tốn sự hiện diện của một màu đỏ tuyệt đối vô song.

Trong một thời gian ngắn, màu đỏ thấm đẫm tất cả. Vẻ đẹp của màu này tràn ngập tôi và toàn vũ trụ. Khi tôi đến gần Người theo cách này, tôi thấy thôi thúc muốn kêu lên trong niềm hân hoan tột cùng. Bất chợt tôi thấy xấu hổ khi được đưa đến trước mặt Người trong khi đầm đìa những máu như vậy. Một phần khác trong tâm trí tôi nhớ lại những điều đã đọc được trong các sách về cái chết, rằng Người sẽ cho Azrael và những thiên thần khác của Người triệu tôi đến trước mặt Người.

Tôi có thể thấy được Người sao? Tôi nghẹt thở vì kích động.

Màu đỏ đang tiếp cận tôi - màu đỏ bao trùm mà trong đó hết thảy mọi hình ảnh của vũ trụ đều có dự phần - nó quá lộng lẫy và quá đẹp đến nỗi khiến tôi nhỏ lệ khi nghĩ mình sẽ trở thành một phần của nó và sát cận bên Người đến thế.

Nhưng tôi cũng biết Người sẽ không đến gần tôi hơn nữa; Người hỏi han các thiên thần của Người về tôi và họ đã ca ngợi tôi; Người xem tôi như một bầy tôi trung thành biết tuân phục những điều răn và cấm đoán của Người; và Người yêu tôi.

Niềm vui đang trào dâng và những giọt nước mắt đang tuôn chảy của tôi đột ngột bị phá hỏng bởi một nỗi nghi ngờ dai dẳng. Đầy tội lỗi và nôn nóng về điều còn mơ hồ của mình, tôi hỏi Người:

“Trong hai mươi năm cuối của đời con, con đã bị ảnh hưởng của những tranh minh họa ngoại giáo mà con thấy ở Venice. Thậm chí có lúc con muốn chân dung của mình được vẽ theo phương pháp và phong cách đó, nhưng con sợ. Tuy vậy, sau này con đã cho vẽ Thế giới của Người, Thần dân của Người và Đức vua của chúng con, Bóng của Người ở trần thế theo kiểu của bọn Tây vực ngoại giáo.”

Tôi không nhớ giọng của Người, nhưng tôi nhớ câu trả lời Người ban cho tôi trong ý nghĩ của tôi.

“Đông và Tây đều thuộc về ta.”

Tôi hầu như không kìm được sự kích động của mình.

“Vậy ý nghĩa của tất cả, của... của thế giới này là gì?”

“Sự huyền bí,” tôi nghe trong ý nghĩ của tôi, hoặc có lẽ, “Lòng nhân từ,” nhưng tôi không chắc chắn cái nào.

Qua cung cách các thiên thần tiến đến gần tôi, tôi biết một quyết định nào đó về số phận của tôi đã được đưa ra ở tầng cao này của Thiên đàng, nhưng tôi phải chờ đợi trong bàn cân Berzah thần thánh với rất nhiều linh hồn khác vốn đã chết trong vài chục ngàn năm qua cho đến Ngày phán xét, khi đó quyết định cuối cùng về chúng tôi sẽ được đưa ra. Mọi thứ diễn ra theo cách được ghi trong sách, điều đó khiến tôi vui. Tôi nhớ lại qua những điều đã đọc được trong khi bay xuống rằng tôi sẽ được hợp nhất với thân xác của mình trong tang lễ.

Nhưng tôi nhanh chóng hiểu rằng hiện tượng “tái nhập vào thân xác đã chết” chỉ là một cách nói, tạ ơn Thượng đế. Dù họ rất đau buồn, nhưng đoàn người đưa tang danh giá khiến tôi hết sức tự hào kia lại trật tự một cách đáng kinh ngạc trong khi khiêng quan tài của tôi đi vào nghĩa trang Hillock cạnh thánh đường sau khi những lời cầu nguyện đã xong. Nhìn từ bên trên, đám rước trông như một một sợi dây dài mảnh.

Cho phép tôi nêu rõ tình huống của tôi: Như có thể suy ra từ truyền thuyết nổi tiếng về đấng Tiên tri - trong đó tuyên bố “Linh hồn của người ngoan đạo là con chim được nuôi từ cây cối trên Thiên đàng” - sau khi chết, linh hồn lang thang trên bầu trời. Như Abu Omer bin Abdulber đã khẳng định, lời giải thích về truyền thuyết này không có nghĩa là linh hồn sẽ sở hữu một con chim hay thậm chí trở thành chim, mà như El Jevziyye thông thái giải thích, nó có nghĩa là ta có thể tìm thấy linh hồn ở nơi loài chim tụ họp. Vị trí mà từ đó tôi quan sát mọi việc, cái mà các họa sư Venice chuộng luật phối cảnh hẳn sẽ gọi là “điểm nhìn” của tôi đã khẳng định cách giải thích của El Jevziyye.

Chẳng hạn, từ chỗ của mình, tôi có thể vừa thấy toàn bộ đám đưa tang giống như sợi chỉ đi vào nghĩa trang, lại vừa có thể, với niềm vui của việc phân tích một bức tranh, theo dõi một chiếc thuyền buồm đang tăng tốc, với những cánh buồm no gió khi nó trở chiều chạy về phía mũi đất Sarayburnu nơi cửa sông Halic hòa vào eo Bosphorus. Từ trên tháp cao nhìn xuống, cả thế gian này như một cuốn sách lộng lẫy mà tôi đang xem từng trang một.

Tuy nhiên tôi vẫn có thể nhìn thấy nhiều hơn hẳn là một kẻ lên được tới độ cao như thế mà hồn không hề rời khỏi xác, và hơn thế nữa, tôi có thể thấy mọi thứ cùng một lúc: ở phía bên kia Bosphorus, vượt quá Uskudar, giữa những ngôi mộ đá trong một khoảnh sân trống, bọn trẻ đang chơi nhảy cừu; dáng lao đi duyên dáng của chiếc thuyền chở Ngoại vụ đại thần do bảy cặp tay chèo vận hành cách nay mười hai năm bảy tháng, khi chúng tôi tháp tùng sứ thần Venice từ lâu đài bên bờ biển của ông ta lên đường yết kiến Đại Tể tướng Bald Ragip Pasha; một phụ nữ bệ vệ trong khu chợ Langa mới đang ôm một cục bắp cải giống một đứa trẻ mà bà ta sắp cho bú; sự phấn chấn của tôi khi Sứ giả Thượng Hội đồng Ramazan Kính mến chết, mở đường cho tôi thăng tiến; cái kiểu tôi ngồi trên đùi bà tôi hồi còn bé mà nhìn chằm chằm những chiếc áo cánh đỏ trong khi mẹ tôi phơi quần áo ngoài sân; tôi đã chạy đến những khu phố xa xôi để tìm bà đỡ như thế nào khi mẹ của Shekure đau đẻ, cầu cho bà ấy được yên nghỉ; vị trí của chiếc thắt lưng đỏ tôi làm mất cách nay trên bốn mươi năm (giờ thì tôi biết Vasfi đã ăn cắp nó); khu vườn tráng lệ ở xa xa mà tôi từng mơ ước cách nay hai mươi mốt năm, mà tôi đã cầu xin Allah một ngày nào đó sẽ khẳng định nó là Thiên đàng; những cái đầu, mũi và tai bị cắt rời được Ali Bey, Toàn quyền Georgia, người đã đàn áp những kẻ nổi loạn trong pháo đài Gori, gửi đến Istanbul; và Shekure yêu dấu xinh đẹp của tôi, tách khỏi những phụ nữ láng giềng đang than khóc tôi trong nhà, giờ đang chăm chăm nhìn ngọn lửa trong lò bằng gạch ngoài sân.

Như điều được ghi trong sách vở và được các học giả khẳng định linh hồn ngụ trong bốn cõi:

1. Tử cung; 2. Cõi trần thế; 3. Berzah, hay u minh giới nơi tôi hiện đang ở để chờ Ngày Phán xét; và 4. Thiên đàng hoặc Địa ngục, nơi tôi sẽ đến sau Ngày phán xét.

Từ trạng thái trung gian của Berzah, quá khứ và hiện tại xuất hiện đồng thời, và chừng nào linh hồn vẫn còn nằm trong những ký ức của nó, thì những giới hạn về không gian không tồn tại. Chỉ khi nào thoát khỏi ngục tù thời gian và không gian, người ta mới thấy rõ ràng cuộc sống là sự trói buộc. Cho dù khi ta là một linh hồn không thể xác ở trong cõi người chết là hạnh phúc đến đâu đi nữa, là một thể xác không linh hồn giữa những người sống thì cũng hạnh phúc y như vậy; thật đáng thương rằng không ai nhận ra điều này trước khi chết. Vì thế, trong đám tang đáng yêu của tôi, khi đau đớn nhìn Shekure yêu quý của tôi kiệt sức vì khóc than trong vô vọng, tôi đã cầu xin Allah vinh quang ban cho chúng ta những linh-hồn-không-thân-xác ở Thiên đàng và những thân-xác-không-linh-hồn trong cuộc sống.

CHƯƠNG 38
ĐÓ LÀ TÔI, SƯ PHỤ OSMAN

Các người biết rõ những người già khó tính vốn hiến trọn đời mình cho nghệ thuật. Họ sẽ công kích bất cứ ai cản đường họ. Họ thường gầy gò, xương xẩu và cao nhỏng. Họ sẽ muốn số ngày đang ngắn dần trước mặt họ trở nên giống như cái thời kỳ dài họ bỏ lại đàng sau. Họ dễ cáu giận và phàn nàn mọi thứ. Họ sẽ chộp lấy quyền kiểm soát trong mọi tình huống, khiến mọi người quanh họ đành chịu bó tay thất vọng; họ không thích bất cứ ai hay bất cứ thứ gì. Tôi biết, bởi vì tôi là một trong số họ.

Nurullah Selim Chelebi, bậc thầy trong những bậc thầy người mà tôi từng có vinh hạnh sát cánh làm tranh minh họa trong cùng một họa xưởng, cũng như vậy khi ông ngoài tám mươi, lúc đó tôi chỉ là một thợ học việc mười sáu tuổi (dù ông không dễ cáu như tôi bây giờ). Ali Tóc vàng, người cuối cùng trong những bậc thầy vĩ đại, đã yên nghỉ cách nay ba mươi năm, cũng vậy (dù ông ta không gầy và cao như tôi). Ngày nay, vì những mũi tên phê phán nhắm vào những bậc thầy huyền thoại này, những kẻ chỉ huy các xưởng vẽ lúc thịnh thời, thường nã vào sau lưng tôi. nên tôi muốn các người biết rằng những lời buộc tội nhàm chán nhằm vào chúng tôi hoàn toàn vô căn cứ. Đây là những sự kiện:

1. Lý do khiến chúng tôi không thích bất cứ thứ gì đổi mới là vì thực tình chẳng có thứ gì mới đáng yêu thích cả.

2. Chúng tôi cư xử với hầu hết con người giống như những kẻ khờ dại bởi vì quả thực hầu hết bọn họ là kẻ khờ dại, chứ không phải vì chúng tôi bị đầu độc bởi sự giận dữ, sự bực bội hoặc một số nhược điểm khác trong tính cách. (Cứ cho là nếu cư xử với những người đó tốt hơn thì có văn hóa hơn và biết điều hơn).

3. Lý do khiến tôi quên và lẫn lộn quá nhiều tên tuổi và khuôn mặt - trừ những nhà tiểu họa tôi yêu mến và dạy dỗ từ thời họ học việc - không phải do lú lẫn, mà là bởi những cái tên và khuôn mặt đó quá nhạt nhẽo và thiếu sắc thái đến độ hầu như không đáng nhớ.

Trong đám tang của Enishte, kẻ mà linh hồn bị Thượng đế đưa đi quá sớm vì sự ngu ngốc của chính ông ta, tôi cố quên rằng người quá cố đã từng có lần khiến tôi đau khổ ghê gớm khi buộc tôi bắt chước những bậc thầy châu Âu. Trên đường trở về, tôi đã nghĩ như sau: kiếp mù và cái chết, những đặc ân này do Thượng đế ban tặng, giờ không còn xa tôi nữa. Dĩ nhiên người ta sẽ nhớ đến tôi chừng nào những tranh minh họa và bản thảo của tôi còn khiến đôi mắt các người giật liên hồi và những bông hoa hạnh phúc bừng nở trong tim các người. Nhưng sau khi tôi chết, hãy cho mọi người biết rằng trong tuổi già của tôi, đúng lúc kết thúc đời tôi, vẫn còn nhiều thứ khiến tôi mỉm cười. Chẳng hạn như:

1. Trẻ con - Chúng tiêu biểu cho những gì sống động của cõi đời này.

2. Những ký ức ngọt ngào về những cậu trai tuấn tú, những phụ nữ xinh đẹp, hội họa và tình bạn.

3. Việc nhìn những kiệt tác của các bậc thầy Herat - điều này không thể giải thích cho kẻ ngoài nghề được.

Ý nghĩa đơn giản của tất cả chuyện này là: Trong xưởng của Đức vua do tôi điều hành, những tác phẩm nghệ thuật lộng lẫy không còn được làm như xưa nay nữa - và tình hình này sẽ chỉ ngày càng tồi tệ hơn, mọi thứ sẽ dần thu nhỏ lại rồi biến mất. Tôi đau đớn hiểu ra rằng chúng tôi khó lòng đạt tới mức độ siêu phàm của những bậc thầy Herat xưa cho dù đã cống hiến cả cuộc đời mình cho công việc này. Việc khiêm tốn chấp nhận sự thực này sẽ làm cuộc sống dễ chịu hơn. Quả thực, chính vì nó làm cho cuộc sống dễ chịu hơn nên khiêm tốn mới là đức tính rất được quý trọng ở xứ sở này.

Với một vẻ khiêm tốn như thế tôi đang sửa một bức tranh trong Sur-nama, pho sách mô tả những nghi lễ cắt bì cho hoàng tử của chúng tôi, trong đó mô tả viên Toàn quyền Ai Cập đệ trình những lặng phẩm sau: một thanh gươm vàng chạm khắc được trang trí bằng hồng ngọc, ngọc lục bảo và ngọc lam trên một tấm vải nhung đỏ và một trong những con ngựa Ả Rập hăng máu, uy nghi và chạy nhanh như chớp của viên Toàn quyền, có một đốm trắng trên mũi và bộ lông trắng bạc, được trang bị đầy đủ hàm thiếc và dây cương bằng vàng, đôi bàn đạp khảm ngọc trai và đá quý vàng xanh, yên bằng nhung đỏ thêu chỉ bạc và những hoa hồng bằng hồng ngọc. Với một nét cọ, tôi sửa đôi chỗ trong bức tranh mà bố cục là do tôi sắp xếp trong khi phân công phần thể hiện con ngựa, thanh gươm, hoàng tử và những sứ thần dự lễ cho nhiều thợ học việc khác nhau. Tôi tô màu tía cho một số lá cây tiêu huyền trong Hippodrome ([7]). Tôi sơn màu vàng cho những nút áo chùng của sứ thần của Đại hãn Tatar. Khi tôi đang quét một lớp nhũ vàng lên dây cương thì có ai đó gõ cửa. Tôi bỏ dở việc đang làm.

Đó là một thị đồng trong hoàng cung. Vị Trưởng Ngân khố triệu tôi vào lâu đài. Mắt tôi vẫn đau lâm râm. Tôi nhét kính lúp vào túi rồi rời xưởng cùng cậu thị đồng.

Ô, tuyệt vời làm sao khi đi bộ dưới những hàng cây sau khi làm việc đã quá lâu không nghỉ! Vào những lúc như thả người ta chợt thấy cả thế giới thật nguyên tuyền và tuyệt diệu như thể Allah mới tạo ra tất cả mọi thứ này vào hôm trước.

Tôi thấy một con chó, có ý nghĩa hơn mọi bức tranh vẽ chó tôi từng thấy. Tôi thấy một con ngựa, một sự sáng tạo kém hơn những gì các thợ cả tiểu họa của tôi có thể làm ra. Tôi ngắm nghía một cây tiêu huyền trong Hippodrome, chính cái cây mà lá của nó tôi vừa mới tô đậm thêm sắc tía.

Đi bộ qua Hippodrome, mà những cuộc diễu binh ở đó được tôi minh họa suốt hai năm qua, thì cứ như bước vào tranh của chính tôi vậy. Chẳng hạn, chúng tôi sắp rẽ xuống một đường phố: Trong một bức tranh kiểu Tây vực, điều này sẽ dẫn đến việc chúng tôi vừa bước ra ngoài cả chiếc khung lẫn bức tranh; trong một bức tranh làm theo khuôn mẫu của những bậc thầy Herat, nó sẽ đưa chúng ta đến nơi mà từ đó Allah nhìn xuống chúng ta; trong một bức tranh kiểu Trung Hoa thì chúng ta bị kẹt, bởi vì những tranh minh họa Trung Hoa thì vô giới hạn.

Cậu thư đồng này, như tôi phát hiện ra, không dẫn tôi đến Cung Thượng Hội đồng nơi tôi thường gặp Trưởng Ngân khố để thảo luận một trong những chuyện sau: các bản thảo và những quả trứng đà điểu đã trang trí hay những món quà khác mà những nhà tiểu họa của tôi đang chuẩn bị cho Đức vua; sức khỏe của những nhà minh họa hoặc sức khỏe và sự thanh thản đầu óc của chính vị Trưởng Ngân khố; việc nhận thuốc màu, vàng lá hoặc những chất liệu khác; những yêu cầu và than phiền thường lệ; những khao khát, niềm vui, nhu cầu và tính khí của Đức vua; thị lực của tôi, cái gương của tôi hay chứng đau lòng của tôi; chàng rể vô tích sự của Trưởng Ngân khố hoặc sức khỏe của con mèo mướp của ông. Lặng lẽ, chúng tôi bước vào Vườn ngự uyển của Đức vua. Như thể phạm phải một tội ác, nhưng với vẻ thanh tao tuyệt vời, chúng tôi đi xuống phía biển qua những hàng cây.

Chúng ta đang đến gần nhà thủy tạ bờ biển, tôi nghĩ, điều này có nghĩa là tôi sẽ gặp Đức vua. Ngài hẳn ở đây. Nhưng chúng tôi rẽ khỏi con đường. Chúng tôi đi vài bước qua một khung cửa vòm của một tòa nhà bằng đá đằng sau lán đậu xuồng. Tôi ngửi thấy mùi bánh mì nướng thoảng đưa từ lò bánh mì của lính gác trước khi nhìn thấy Đội ngự lâm quân mặc quân phục đỏ.

Vị Trưởng Ngân khố và Chỉ huy Ngự lâm quân đang cùng ở trong một phòng: Thiên thần và Ác quỷ!

Viên chỉ huy, người thực hiện những vụ hành quyết theo lệnh Đức vua trong khuôn viên lâu đài - kẻ tra tấn, thẩm vấn, đánh đập, chọc mù mắt và đánh đòn vào gan bàn chân người ta - mỉm cười dịu dàng với tôi. Cứ như thể một khách trọ tầm thường nào đó, mà tôi buộc phải ở chung trong một căn phòng trọ chật hẹp, đang sắp kể lại một câu chuyện ấm lòng.

Vị Trưởng Ngân khố dè dặt nói, “Một năm trước đây, Đức vua giao cho tôi chuẩn bị một bản thảo có trang trí theo điều kiện hoàn toàn bí mật, một bản thảo sẽ nằm trong số tặng phẩm dành cho phái đoàn sứ thần. Vì sự bí mật của cuốn sách, Đức vua cho rằng Thầy Lokman Sử quan không thích hợp cho việc viết bản thảo. Tương tự, Ngài không muốn đưa ông vào dự án này, dù Ngài rất ngưỡng mộ tài nghệ của ông. Thực ra, Ngài cho rằng ông đã quá bận rộn với cuốn Sur-nama.”

Khi bước vào căn phòng này, tôi đột nhiên nghĩ rằng có kẻ bất nhân nào đó đã vu khống tôi, tuyên bố rằng tôi phạm tội dị giáo trong một bức minh họa như thế và tôi đã nhạo báng Đức vua trong một bức minh họa khác; tôi kinh hoàng hình dung rằng tay bẻm mép này có thể đã thuyết phục Đức vua về tội của tôi và tôi sắp bị tra tấn cho dù tuổi cao sức yếu. Và do đó khi vị Trưởng Ngân khố chỉ ra sức biện minh cho việc Đức vua đặt làm bản thảo ở một người ngoài, với tôi những lời này nghe còn ngọt ngào hơn cả mật ong. Không biết thêm bất cứ điều gì mới, tôi lắng nghe những mô tả về bản thảo mà tôi đã biết rất rõ. Tôi đã biết những lời đồn đại về Nusret Hoja xứ Erzurum, và đương nhiên cả những mưu đồ trong xưởng nữa.

“Ai chịu trách nhiệm chuẩn bị bản thảo?” tôi hỏi.

“Enishte Kính mến, như ông biết đó,” Trưởng Ngân khố nói. Nhìn thẳng vào mắt tôi, ông nói thêm, “Ông biết rõ rằng ông ta đã chết một cách không đúng lúc, ý tôi muốn nói là ông ta bị giết, đúng không?”

“Không,” tôi nói một cách đơn giản, như một đứa trẻ và im lặng.

‘Đức vua hết sức giận dữ,” Trưởng Ngân khố nói.

Enishte Kính mến đó là một tên ngốc. Những thợ cả tiểu họa luôn chế nhạo ông ta vì ông ta tự phụ nhiều hơn hiểu biết, tham vọng nhiều hơn thông minh. Dù sao tôi đã biết có thứ gì đó thối rữa tại đám tang. Tôi tự hỏi ông ta bị giết như thế nào?

Trưởng Ngân khố giải thích cặn kẽ chuyện đó. Thật khủng khiếp Thượng đế nhân từ phù hộ chúng ta. Nhưng ai làm vụ này?

“Đức vua đã hạ chỉ,” viên Trưởng Ngân khố nói, “rằng cuốn sách chúng ta đang bàn đến này phải được hoàn tất càng sớm càng tốt cùng với bản thảo Sur-nama...Ngài cũng ra một chiếu chỉ nữa,” Chỉ huy Ngự lâm quân nói. “Thực ra, nếu hung thủ không thể tả này là một trong những nhà tiểu họa, Ngài muốn phải truy cho ra tên ác nhân này. Ngài muốn cho hắn một hình phạt để làm gương cho mọi người.”

Một vẻ kích động xuất hiện trên gương mặt của viên Chỉ huy như thể cho thấy ông ta đã biết hình phạt kinh khiếp mà Đức vua đã ban truyền.

Tôi biết rằng Đức vua vừa mới giao nhiệm vụ ấy cho hai người này, do đó buộc họ hợp tác với nhau - vì lý do đó nên ngay cả lúc này họ cũng không che giấu nổi sự chán ghét của họ.

Chứng kiến điều này gây cho tôi một tình yêu vượt khỏi niềm kính sợ đối với Đức vua. Một đầy tớ trai dọn cà phê lên và chúng tôi ngồi một hồi.

Tôi nghe kể rằng Enishte Kính mến có một cháu trai tên là Siyah Kính mến, người này được ông ta bồi dưỡng, được đào tạo về nghệ thuật trang trí và làm sách. Tôi đã gặp anh ta chưa nhỉ? Tôi vẫn im lặng. Cách đây không lâu, theo lời mời của Enishte của anh ta, Siyah đã trở về từ mặt trận Ba Tư nơi anh ta phục vụ dưới quyền Tổng trấn Serhat - viên Chỉ huy nhìn thẳng vào tôi đầy vẻ nghi ngờ. Nơi đây, ở Istanbul anh ta giành được sự ưu ái từ Enishte của anh ta và biết được câu chuyện về cuốn sách mà Enishte đang coi sóc việc thực hiện. Siyah tuyên bố rằng sau khi Zarif Kính mến bị giết, Enishte đã nghi ngờ một trong những nhà tiểu họa vốn thường đến gặp ông ta vào ban đêm để làm bản thảo cuốn sách này. Anh ta đã xem tranh minh họa do những bậc thầy này làm và nói rằng kẻ giết Enishte - chính tay họa sĩ đã đánh cắp bức minh họa Đức vua với phần lớn vàng lá - là một trong số họ.

Trong hai ngày, tay Siyah Kính mến trẻ tuổi này đã giấu không cho hoàng cung và Trưởng Ngân khố biết về cái chết của Enishte. Cũng chính trong hai ngày đó anh ta đã lẹ làng cưới con gái của Enishte, một việc làm đáng ngờ về tôn giáo và đạo đức, và đến ở trong nhà Enishte; vì vậy cả hai người trước mặt tôi coi Siyah là kẻ đáng nghi.

“Nếu người ta lục soát nhà ở và nơi làm việc của các thợ cả tiểu họa của tôi mà tìm thấy trang bị mất ở chỗ một người trong số đó thì lập tức Siyah sẽ được chứng minh vô tội,” tôi nói. “Tuy nhiên, thành thật mà nói, tôi có thể nói với các ông rằng những đứa con yêu quý của tôi, các nhà tiểu họa tài hoa của tôi, những kẻ tôi biết từ khi chúng là thợ học việc, không có khả năng lấy đi sinh mạng của người khác.”

“Về phía Zeytin, Leylek và Kelebek,” viên Chỉ huy nói, sử dụng một cách chế giễu những biệt danh mà tôi đã ưu ái đặt cho họ, “Chúng tôi có ý định lục soát nhà, nơi lui tới, chỗ làm việc và nếu được thì cả xưởng vẽ, không bỏ sót một ngóc ngách nào. Và điều đó bao gồm Siyah...”. Gương mặt ông ta lộ vẻ cam chịu: “Do những tình huống rắc rối như thế, tạ ơn Thượng đế, pháp quan đã cho phép chúng ta dùng biện pháp tra tấn nếu cần thiết trong lúc thẩm vấn Siyah Kính mến. Việc tra tấn này sẽ được cho phép theo luật bởi vì đã xảy ra một vụ giết người thứ hai nhắm vào người có dính dáng đến cộng đồng tiểu họa, khiến mọi người trong đó, từ thợ học việc đến thợ cả, thảy đều trở thành nghi phạm.”

Tôi im lặng ngẫm nghĩ về điều này: 1. Cụm từ “được cho phép theo luật” cho thấy rõ rằng Đức vua không đích thân cho phép tra tấn. 2. Bởi vì dưới mắt quan tòa tất cả nhà tiểu họa đều bị tình nghi về vụ giết hai mạng người liên tiếp này, và bởi vì tôi, dù là Trưởng ban trang trí, cũng không thể xác định được hung thủ trong số chúng tôi, nên cả tôi cũng bị tình nghi. 3. Tôi hiểu rằng họ muốn sự chấp thuận công khai hoặc ngấm ngầm của tôi để tiến hành tra tấn Kelebek, Leylek, Zeytin yêu quý của tôi và tất cả những ai mà trong những năm gần đây đã phản bội tôi.

“Vì Đức vua mong ước hoàn tất mỹ mãn cả hai cuốn Sur- nama lẫn cuốn sách này - mà hiển nhiên chỉ mới hoàn tất nửa chừng,” Trưởng Ngân khố nói, nên chúng tôi lo rằng việc tra tấn sẽ làm hỏng bàn tay và đôi mắt của những bậc thầy, hủy hoại sự tinh nhạy của họ”, ông ta nhìn tôi. “Đúng vậy không?”

“Có một mối ưu tư tương tự về một việc khác mới xảy ra,” viên Chỉ huy cộc cằn nói. “Một thợ kim hoàn và một thợ chạm ngọc vốn làm công việc sửa chữa đã bị Quỷ sứ xúi giục. Họ bị mê hoặc như trẻ con bởi chiếc tách cà phê có tay cầm nạm hồng ngọc của quận chúa Nejmiye của Đúc vua và đánh cắp nó. Vì vụ trộm chiếc tách, vốn làm cho quận chúa bị suy sụp vì đau buồn - người rất thích chiếc tách ấy - xảy ra trong lâu đài Uskudar, nên Đức vua chỉ định tôi điều tra. Rõ ràng rằng cả Đức vua lẫn quận chúa đều không muốn gây thiệt hại cho đôi mắt và những ngón tay của hai người thợ kim hoàn tài hoa này vì sợ tác động đến tài năng của họ. Vì vậy tôi đã lột trần truồng cả thợ kim hoàn lẫn thợ chạm ngọc và ném họ vào một hồ đầy băng trong sân. Theo định kỳ, tôi đưa họ ra và quất roi thật mạnh, cẩn thận sao cho không làm hại mắt và bàn tay họ. Chỉ trong một thời gian ngắn, người thợ ngọc bị Quỷ sứ lôi kéo đã thú nhận và chấp nhận hình phạt. Dù nước lạnh như băng, không khí giá rét và mọi thứ roi vọt, nhưng không có tổn thương nào xảy ra với đôi mắt và ngón tay của những thợ kim hoàn tài hoa bởi tâm hồn họ được thanh thản. Cả Đức vua cũng nói rằng quận chúa hết sức hài lòng với việc làm của tôi và rằng những thợ ngọc hiện làm việc một cách nhiệt tâm hơn vì quả táo sâu đã bị loại khỏi thùng.”

Tôi tin chắc rằng viên Chỉ huy sẽ đối xử với các nhà minh họa tài hoa của tôi nghiêm khắc hơn ông đã làm với những thợ kim hoàn. Dù ông ta kính trọng tình cảm nồng hậu của Đức vua dành cho những bản thảo có minh họa, những, cũng như nhiều người khác, ông ta cho rằng thư pháp là loại hình nghệ thuật duy nhất đáng được tôn trọng, xem việc trang trí và minh họa là những hứng thú nhất thời có liên quan đến dị giáo, thích hợp với phụ nữ và chẳng đáng được gì khác ngoài quở trách. Để kích động tôi, ông ta nói, “Trong khi ông bị lôi cuốn vào công việc của mình, những nhà tiểu họa yêu quý của ông đã bắt đầu lên kế hoạch xem ai sẽ trở thành Trưởng nhóm Tiểu họa sau khi ông chết.”

Những chuyện đồn đại này tôi chưa từng được nghe sao? Ông ta có thông báo cho tôi điều gì mới không? Kìm mình lại, tôi không trả lời. Vị Trưởng Ngân khố hiểu rất rõ sự giận dữ của tôi đối với ông ta vì đã giao cho tên ngốc vừa qua đời làm một bản thảo sau lưng tôi, và đối với những nhà tiểu họa vô ơn, những kẻ đã bí mật chuẩn bị những tranh minh họa ấy nhằm lấy lòng người khác và kiếm thêm vài đồng bạc.

Tôi nhận ra mình đang cân nhắc xem người ta có thể áp dụng những phương pháp tra tấn nào. Họ sẽ không phải viện đến trò lột da trong quá trình thẩm vấn, bởi điều đó chắc chắn dẫn đến cái chết. Họ cũng sẽ không đóng cọc xiên qua bất cứ ai như vẫn làm với bọn phiến loạn, bởi vì cách đó được sử dụng như một cách răn đe. Cũng không thể có chuyện bẻ gãy hay chặt ngón tay cánh tay hay chân những nhà tiểu họa này. Dĩ nhiên việc móc một mắt - mà tôi được biết là một biện pháp ngày càng phổ biến gần đây xét theo số người chột mắt ngày một tăng trên đường phố Istanbul - sẽ là không thích hợp với những nghệ sĩ bậc thầy. Vì vậy khi tôi hình dung những nhà tiểu họa thân yêu của tôi trong một góc khuất của Vườn Thượng uyển, bị tống vào hồ nước lạnh giá giữa những hoa súng, run rẩy và nhìn nhau đầy căm ghét, bất chợt tôi muốn cười phá lên. Tuy nhiên tôi đau buồn khi hình dung ra Zeytin la hét như thế nào khi thân mình cậu ta bị một thanh sắt nóng dí vào, và da của Kelchek thân yêu sẽ tái nhợt như thế nào khi cậu ấy bị cùm. Tôi không chịu nổi khi nhớ lại cảnh Kelebek thân yêu - mà kỹ năng và tình yêu dành cho việc trang trí của cậu ta làm tôi ứa nước mắt - khi cậu ta bị đánh vào gan bàn chân như một thợ học việc trộm cắp tầm thường. Tôi chỉ đứng đó chết lặng, lòng se thắt.

Đầu óc già nua của tôi câm bặt dưới tác động của sự im lặng nội tại của chính nó. Có một thời chúng tôi đã cùng nhau vẽ với niềm đam mê khiến chúng tôi quên hết mọi thứ.

“Họ là những nhà tiểu họa tài ba nhất đang phục vụ Đức vua,” tôi nói. “Hãy bảo đảm rằng họ không bị hề hấn gì.”

Hài lòng, vị Trưởng Ngân khố nhổm dậy, cầm lấy một số trang giấy trên bàn làm việc đặt ở cuối phòng và bày ra trước mặt tôi. Kế đến, như nhận thấy căn phòng khá tối, ông ta đặt cạnh tôi hai giá nến to, với những ngọn bấc cỡ lớn cháy rực, những ngọn lửa bập bùng run rẩy để tôi có thể nghiên cứu những bức tranh đang bàn cãi đó.

Làm sao giải thích được những gì tôi thấy khi rà kính lúp trên mặt tranh? Tôi cảm thấy muốn cười to lên - chẳng phải vì chúng khôi hài đâu. Tôi giận điên lên - có vẻ như Enishte Kính mến đã chỉ dẫn những thợ cả của tôi như sau: “Đừng vẽ giống bản thân các anh, mà hãy vẽ như thể các anh là người khác.” Ông ta đã buộc họ nhớ lại những ký ức không hề tồn tại, tưởng tượng ra và vẽ lại một tương lai mà chắc họ không hề muốn sống trong đó. Còn khó tin hơn nữa là họ đang giết nhau vì điều nhảm nhí này.

“Nhìn vào những minh họa này ông có thể cho tôi biết tay tiểu họa nào đã vẽ bức nào không?” Trưởng Ngân khố hỏi.

“Được , tôi nói một cách giận dữ. “Ông tìm đâu ra những bức tranh này?”

“Siyah tự động mang chúng đến và để lại đây cho tôi.” Trưởng Ngân khố nói. “Anh ta cố chứng minh rằng anh ta và Enishte quá cố của anh ta vô tội.”

“Trong cuộc điều tra, hãy tra tấn anh ta,” tôi nói. “Bằng cách đó chúng ta sẽ biết được những bí mật khác mà Enishte quá cố của chúng ta đang nắm giữ.”

“Chúng tôi đã cho đòi anh ta vào,” Chỉ huy Ngự lâm quân nói. “Sau đó chúng tôi sẽ lục soát toàn bộ ngôi nhà của tay vừa mới cưới vợ đó.”

Cả hai khuôn mặt họ đều sáng lên một cách kỳ lạ, một thoáng khiếp hãi và kính sợ trùm lên họ, và họ đứng bật dậy.

Không cần quay sang, tôi cũng biết chúng tôi đang ở trước mặt Đức vua, người che chở thế giới.

CHƯƠNG 39
TÔI LÀ ESTHER

Ôi tuyệt vời làm sao khi được khóc cùng mọi người khác! Trong khi cánh đàn ông ở tại đám tang của cha Shekure thân yêu của tôi, các phụ nữ, bạn bè và họ hàng tập trung trong nhà mà than khóc, còn tôi cũng đấm ngực mà khóc than cùng họ. Lúc thì than khóc chung với cô gái xinh đẹp cạnh tôi, tựa vào cô và lắc lư tới lui; khi thì lại khóc trong một tâm trạng hoàn toàn khác. Tôi xúc động sâu xa trước những đau khổ và cuộc đời tội nghiệp của tôi. Tôi nghĩ, nếu tôi có thể khóc như vầy mỗi tuần một lần thì tôi có thể quên mình đã phải lang thang suốt ngày trên khắp phố phường sao cho đủ chi tiêu trong nhà; quên việc mình bị chế nhạo vì béo phục phịch và vì dòng máu Do Thái, và được tái sinh thành một Esther mồm mép còn liến thoắng hơn nữa.

Tôi thích những cuộc tụ tập đông người bởi vì tôi có thể ăn thả cửa, đồng thời quên rằng mình là kẻ bị rẻ rúng trong đám đông. Tôi thích món kẹo baklava, kẹo bạc hà, bánh mì bằng bột hạnh nhân và trái cây khô của ngày hội; cơm thập cẩm với thịt và bánh ngọt hình tách trà trong những buổi lễ cắt bì; uống nước quả anh đào chua tại những lễ kỷ niệm do Đức vua tổ chức ở Hippodrome; ăn đủ thứ trong các tiệc cưới; và nhấm nháp kẹo vừng, kẹo mật ong và đủ thứ bánh kẹo chia buồn khác được hàng xóm gửi đến trong những đêm canh xác.

Tôi lặng lẽ lẻn ra hành lang, mang giày rồi xuống cầu thang.

Trước khi rẽ vào nhà bếp, tôi chợt tò mò vì tiếng động kỳ cục phát ra từ căn phòng mở hé cửa cạnh chuồng ngựa. Tôi đi vài bước về hướng đó, nhìn vào trong thì thấy Shevket với Orhan đã trói gô thằng con của một trong những phụ nữ đưa tang rồi dùng cọ và thuốc màu của ông ngoại quá cố của chúng mà vẽ lên mặt thằng bé. “Mày mà tìm cách trốn, tụi tao sẽ đánh mày như vầy nè,” Shevket nói rồi tát thằng bé.

“Con trai cưng nè, giờ hãy chơi nhẹ nhàng đi nào, đừng đánh nhau, được không?” tôi nói bằng giọng nhẹ nhàng hết mức.

“Đi mà lo chuyện của bà đi!” Shevket nạt lại.

Tôi thấy đứa em gái tóc vàng bé nhỏ của thằng nhóc mà chúng đang tra tấn đứng cạnh chúng với vẻ sợ sệt, và vì lý do nào đo tôi thấy tội nghiệp con bé. Bây giờ quên chuyện đó đi, Esther!

Trong nhà bếp Hayriye nhìn tôi đầy nghi ngờ.

“Tôi khóc khô cả họng đây, Hayriye,” tôi nói. “Vì Thượng đế rót cho tôi ly nước đi.”

Cô ta lặng lẽ rót. Trước khi uống, tôi nhìn vào đôi mắt sưng mọng vì khóc của cô ta.

“Enishte Kính mến tội nghiệp, họ nói ông ta đã chết trước khi Shekure làm đám cưới,” tôi nhận xét.

“Miệng lưỡi thế gian đâu có buộc lại như miệng túi được, thậm chí một số người còn tuyên bố có trò gian dối gì trong đây.”

Bằng một cử chỉ thái quá, cô ta nhìn xuống những ngón chân mình. Sau đó cô ta ngẩng đầu lên, không nhìn tôi mà nói, “Cầu Thượng đế che chở chúng ta khỏi những lời vu khống vô căn cứ.”

Cử chỉ thứ nhất của cô ta đã khẳng định những gì tôi nói, và hơn nữa ngữ điệu trong câu nói của cô ta cho thấy nó được nói ra với sự gượng ép - để che giấu sự thật.

“Đã xảy ra chuyện gì vậy?” tôi đột ngột hỏi, thì thầm như thể tôi là bạn tâm giao của cô ta.

Dĩ nhiên cô Hayriye đầy lưỡng lự này đã hiểu rằng cô ta không hy vọng đòi hỏi bất cứ quyền hạn gì với Shekure sau cái chết của Enishte Kính mến. Thế mà mới đây thôi cô ta còn là kẻ than khóc chân thành nhất.

“Bây giờ tôi biết sống sao đây?” cô ta hỏi.

“Shekure rất kính trọng cô,” tôi nói theo thói quen đưa tin.

Giở nắp những lọ kẹo xếp hàng giữa chiếc bình đất sét to đựng mật nho và lọ dưa chua, nhón một nhúm trong lọ này hoặc chồm tới ngửi lọ kia, tôi hỏi ai đã gửi mấy thứ này đến.

Hayriye đang huyên thuyên kể ai đã gửi lọ nào: “Cái này của Kasim Kính mến ở Kayseri; cái này của người phụ tá của nhóm tiểu họa sống cách đây hai khu phố; lọ kia của người thợ khóa, Hamdi Tay trái; lọ đó của cô dâu trẻ ở Edirne...” thì Shekure ngắt lời cô ta.

“Kalbiye, quả phụ của Zarif Kính mến quá cố, không đến chia buồn, không nhắn một lời mà kẹo cũng không gửi đến!”

Cô ấy đang đi từ cửa nhà bếp đến chân cầu thang. Tôi theo cô, biết rằng cô muốn nói chuyện riêng với tôi.

“Giữa cha tôi với Zarif Kính mến không hề có xích mích. Hôm đám tang Zarif chúng tôi có làm kẹo gửi đến cho họ. Tôi muốn biết có chuyện gì xảy ra,” Shekure nói.

“Tôi sẽ đi dò la ngay,” tôi nói, phỏng đoán suy nghĩ của Shekure.

Vì tôi chỉ nói ngắn gọn, cô hôn lên má tôi. Khi cái lạnh ngoài sân phả vào, chúng tôi ôm nhau và đứng đó không nhúc nhích.

Sau đó tôi vuốt tóc Shekure.

“Esther, tôi sợ,” cô ấy nói.

“Cô bé thân yêu, đừng sợ,” tôi nói. “Chuyện gì cũng có chỗ lạc quan của nó. Coi đó, rốt cuộc thì cô cũng có chồng.”

“Nhưng tôi không chắc mình làm vậy có đúng không,” cô nói. “Bởi thế nên tôi không cho anh ấy đến gần tôi. Tôi đã dành cả đêm cạnh người cha bất hạnh của mình.”

Cô mở to mắt và nhìn tôi như nói, chị hiểu ý tôi muốn nói gì chứ?

“Hasan tuyên bố rằng lễ cưới của cô không có giá trị dưới mắt quan tòa,” tôi nói. “Anh ta gửi cái này cho cô.”

Dù cô ấy nói, “Thôi đi,” cô vẫn mở lá thư và đọc ngay nhưng lần này cô không cho tôi biết trong thư nói gì.

Cô thận trọng là đúng; không chỉ có mình chúng tôi ngoài sân nơi chúng tôi đứng ôm nhau: Bên trên, một thợ cưa đang mỉm cười đóng lại tấm mành cửa sổ hành lang bị rơi vỡ sáng hôm đó mà không ai biết tại sao, cũng chăm chú nhìn chúng tôi và những phụ nữ đang than khóc bên trong. Trong khi đó Hayriye bước ra khỏi nhà mở cửa cho con trai của một người hàng xóm trung thành đang vừa la to “kẹo đây” vừa gõ cánh cổng ngoài sân.

“Chúng tôi chôn ông cũng xong rồi,” Shekure nói. “Bây giờ tôi có thể cảm thấy linh hồn người cha tội nghiệp của tôi đang rời khỏi xác ông vĩnh viễn và bay lên các tầng trời.”

Cô rời khỏi vòng tay tôi, ngước nhìn bầu trời tươi sáng mà đọc một bài kinh dài.

Bất ngờ tôi cảm thấy quá xa cách và lạ lẫm với Shekure đến độ tôi sẽ không ngạc nhiên nếu tôi là đám mây mà cô ấy đang nhìn. Ngay khi đọc xong bài kinh, Shekure xinh đẹp trìu mến hôn lên cả hai má tôi.

“Esther ơi,” cô nói, “chừng nào kẻ giết cha tôi còn nhởn nhơ, thế giới này sẽ không còn thanh bình đối với tôi và bọn trẻ nữa.”

Tôi thấy vui vì cô không đề cập đến tên người chồng mới của cô.

“Hãy đến nhà Zarif Kính mến, nói chuyện với bà vợ góa của anh ta để xem tại sao họ không gửi kẹo đến cho chúng ta. Biết được chuyện gì thì cho tôi hay liền nhé.”

“Cô có gửi gì cho Hasan không?” tôi hỏi.

Tôi cảm thấy bối rối, không phải vì tôi đã hỏi câu này, mà bởi vì tôi không thể nhìn vào mắt cô khi hỏi thế. Để che đậy sự bối rối đó, tôi chặn Hayriye lại và mở nắp chiếc lọ cô ta đang cầm.

“Ô, kẹo lúa mì với quả hồ trăn,” tôi nói sau khi nếm qua một miếng. “Còn cho thêm cam nữa.”

Tôi vui khi thấy Shekure mỉm cười như thể mọi thứ đều diễn ra theo kế hoạch.

Tôi cầm lấy túi hàng và bỏ đi. Tôi đi chưa được hai bước thì thấy Siyah ở cuối đường. Anh đi chôn cất cha vợ vừa mới trở về, qua nét mặt tươi tắn của anh ta tôi có thể thấy người chồng mới này hoàn toàn hài lòng với cuộc sống của mình. Để không làm anh ta xuống tinh thần, tôi rời con đường, đi vào những luống rau và băng qua khu vườn của ngôi nhà nơi em trai của người tình vị bác sĩ Do Thái nổi tiếng Moshe Hamon đã sống trước khi bị treo cổ. Khu vườn này, vốn gợi nhớ cái chết, luôn gây cho tôi một nỗi buồn sâu sắc mỗi khi tôi đi qua đến độ tôi luôn quên bẵng rằng mình được giao nhiệm vụ tìm người mua cơ ngơi này. Ngôi nhà của Zarif Kính mến cũng mang vẻ chết chóc, dù đối với tôi nó không gợi nỗi buồn. Tôi là Esther, một phụ nữ từng vào ra hàng ngàn ngôi nhà và quen với hàng trăm quả phụ, tôi biết rằng những phụ nữ mất chồng sớm thường chìm đắm trong cảm giác thất bại và khốn khổ hoặc giận dữ và nổi loạn (dù Shekure đã chịu tất cả những thứ này). Kalbiye đã nạp đủ liều độc dược giận dữ và tôi nhanh chóng nhận ra rằng điều này có tác dụng thúc đẩy công việc của tôi.

Giống như mọi phụ nữ tự phụ mà cuộc sống của họ quá bất hạnh, Kalbiye đã nghi ngờ rất chính xác rằng mọi khách khứa đều đến để thương hại cô trong giờ phút đen tối nhất của cô, hoặc tệ hại hơn, để chứng kiến nỗi thống khổ của cô và thầm khoái trá rằng hoàn cảnh họ tốt hơn; vì vậy cô không dự vào những trao đổi xã giao với khách khứa, bỏ qua mọi trò tán gẫu huê dạng mà đi thẳng vào vấn đề chính. Tại sao Esther lại đến chiều nay, ngay khi Kalbiye sắp ngủ một giấc giải khuây với nỗi sầu muộn của cô? Biết rõ cô không quan tâm đến những thứ lụa mới nhất của Trung Hoa hoặc những chiếc khăn tay xứ Bursa, tôi thậm chí không làm bộ mở túi ra mà đi thẳng vào vấn đề và mô tả mối ưu tư của Shekure đau khổ. “Nỗi buồn khổ của Shekure càng tăng khi nghĩ rằng cô ấy đã làm tổn thương tình cảm của cô, người cũng có nỗi buồn giống như cô ấy,” tôi nói.

Một cách kiêu kỳ, Kalbiye khẳng định rằng cô ta không hỏi thăm sức khỏe của Shekure, không đến thăm để chia buồn và khóc than với cô ấy, mà cũng chẳng còn lòng dạ nào để làm kẹo với gửi quà. Đàng sau lòng tự ái của cô ta cũng ẩn nấp một niềm hân hoan mà cô ta không thể che giấu: niềm vui rằng người ta đã nhận ra sự oán hận của cô ta. Chính từ điểm này mà Esther nhanh trí của các vị đã cố gắng phát hiện những lý do và tình huống dẫn đến cơn giận của Kalbiye.

Không mất nhiều thời gian để Kalbiye thừa nhận, chính cái bản thảo có minh họa mà Enishte Kính mến quá cố đang làm đã khiến cô căm giận ông ta. Cô nói rằng chồng cô, cầu cho anh ta được yên nghỉ, đã không đồng ý tham gia làm cuốn sách đó vì vài đồng bạc lẻ, nhưng vì Enishte thuyết phục anh ta rằng dự án đó được Đức vua phê chuẩn. Tuy nhiên khi người chồng quá cố của cô hiểu ra rằng những phần trang trí mà Enishte thuê anh ta mạ vàng đã dần dần tiến triển từ những trang có trang trí thành những bức minh họa hoàn chỉnh, còn hơn thế là những bức tranh mang dấu ấn sự báng bổ, thuyết vô thần và thậm chí dị giáo của bọn Tây vực, anh ta ngày càng bứt rứt và không còn biết phân biệt đúng sai. Là một kẻ khôn ngoan và lý trí hơn Zarif Kính mến nhiều, cô ta thận trọng nói thêm rằng tất cả những nghi ngờ này hình thành từ từ chứ không phải ngay lập tức, và bởi Zarif Kính mến tội nghiệp không hề nhận ra bất cứ điều gì có thể coi là sự phạm thượng trắng trợn nên anh ta có thể xem những lo lắng của mình là vô căn cứ. Ngoài ra anh ta tự an ủi mình bằng cách không bỏ lỡ bài thuyết giáo nào của Nusret Hoja xứ Erzurum, và nếu bỏ qua một trong năm bài kinh hàng ngày thì anh ta lo lắng không yên. Cũng như anh ta biết có những tên vô lại nào đó tại xưởng thường chế giễu sự tận tụy hết lòng của anh ta cho tín ngưỡng. Anh ta cũng hiểu những trò đùa trơ tráo của họ xuất phát từ lòng đố kỵ đối với tài năng và nghệ thuật của anh ta.

Một giọt lệ to lấp lánh từ con mắt sáng rực của Kalbiye lăn xuống má cô, và lần đầu tiên Esther tốt bụng của các vị quyết định tìm cho Kalbiye một người chồng tốt hơn người chồng vừa mới mất của cô.

“Anh chồng quá cố của tôi thường không chia sẻ những ưu tư của anh ấy với tôi,” Kalbiye thận trọng nói. “Theo những gì tôi còn nhớ rồi ghép lại được với nhau, tôi kết luận rằng mọi thứ xảy ra là do những bức minh họa đã khiến anh ấy phải đến nhà Enishte Kính mến vào đúng đêm cuối cùng trong đời.”

Đây là một kiểu biện bạch nào đó. Để đáp lại, tôi nhắc cô ta rằng số phận của cô và của Shekure, không đề cập đến những kẻ thù của họ, là giống nhau nếu như ta cho rằng Enishte Kính mến có lẽ bị giết bởi chính “tên vô lại” đó. Hai đứa bé to đầu mồ côi cha đang ở góc nhà nhìn tôi, chúng lại gợi tôi nhớ đến một tương đồng nữa giữa hai phụ nữ này. Nhưng suy luận của một bà mối tàn nhẫn nhắc tôi rằng tình trạng của Shekure đẹp hơn, phong phú và bí ẩn hơn nhiều. Tôi cho Kalbiye biết chính xác tôi cảm thấy điều gì:

“Shekure nhờ tôi nói với cô rằng nếu cô ấy có làm gì sai đối với cô cô ấy rất lấy làm tiếc” tôi nói. “Cô ấy muốn nói rằng cô ấy thương cô như một người chị và như một phụ nữ cùng chung số phận. Cô ấy muốn cô nghĩ về điều này và giúp cô ấy. Khi Zarif Kính mến quá cố rời khỏi nhà này vào đêm cuối cùng của anh ấy, anh ấy có đề cập chuyện anh ấy sẽ đi gặp ai ngoài Enishte Kính mến không? Cô có bao giờ nghĩ đến việc anh ấy có thể đi gặp ai khác không?”

“Người ta tìm thấy cái này trên xác anh ấy,” cô ta nói.

Cô ta lấy ra một mẩu giấy gấp từ chiếc hộp bằng mây có nắp đậy trong đó đựng que đan. những mẩu vải và một quả óc chó lớn.

Khi cầm mẩu giấy nhàu nát lên xem xét, tôi thấy trên đó có nhiều hình thù vẽ bằng mực đã lấm lem và ố bẩn vì nước giếng. Tôi vừa mới xác định xem những hình dạng đó là gì thì Kalbiye đã nói lên ý nghĩ của tôi.

“Những con ngựa,” cô ta nói. “Nhưng Zarif Kính mến quá cố chỉ làm công việc mạ vàng tác phẩm thôi. Anh ấy chưa bao giờ vẽ ngựa. Và chắc không có ai nhờ anh ấy vẽ ngựa bao giờ.”

Esther già nua của các vị nhìn vào những con ngựa được phác họa rất nhanh đó, nhưng cô ta hoàn toàn không hiểu được ý nghĩa của chúng.

“Nếu tôi mang mẩu giấy này đến cho Shekure, cô ấy sẽ rất vui, tôi nói.

“Nếu Shekure muốn được xem những phác thảo này, cứ bảo cô ta tự đến mà lấy,” Kalbiye nói, không hề có chút dấu hiệu tự cao.

CHƯƠNG 40
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

Có lẽ đến lúc này bạn đã hiểu rằng đối với những người đàn ông như tôi, nghĩa là những người đàn ông u sầu mà với họ tình yêu đau khổ, hạnh phúc và đau đớn chỉ là những cái cớ để duy trì sự cô đơn vĩnh cửu, cuộc đời không đưa đến niềm vui lớn hay nỗi buồn lớn. Tôi không nói rằng chúng tôi không thể thấu hiểu những linh hồn bị đắm chìm trong những tình cảm ấy, trái lại chúng tôi thông cảm với họ. Những gì chúng tôi không thể thấu hiểu là nỗi bất an kỳ quặc mà linh hồn chúng tôi chìm trong đó vào những lúc như thế. Trạng thái rối loạn thầm lặng này làm mờ trí tuệ chúng tôi và làm mềm lòng chúng tôi, tước đoạt vị trí dành cho niềm vui và nỗi buồn thực sự mà lẽ ra chúng tôi phải trải qua.

Tôi đã chôn cất cha nàng, tạ ơn Thượng đế, từ đám tang vội vã về nhà và ôm lấy Shekure, vợ tôi để an ủi nàng; rồi bất ngờ nước mắt đầm đìa, nàng sụp xuống đống nệm cùng bọn trẻ, chúng đang nhìn tôi với vẻ hận thù và tôi không biết phải làm gì. Nỗi thống khổ của nàng xảy ra cùng lúc với chiến thắng của tôi. Chỉ bằng một hành động, tôi đã cưới người trong mộng thời trai trẻ của tôi, giải thoát tôi khỏi cha nàng, người đã coi thường tôi, và trở thành chủ ngôi nhà. Ai sẽ tin sự chân thành trong những giọt nước mắt của tôi? Nhưng tin tôi đi, không phải vậy đâu. Tôi thực sự muốn thương tiếc, nhưng không được: Enishte luôn là người cha còn hơn cả cha ruột của tôi. Nhưng vì tay thuyết giáo bắng nhắng lo nghi thức tắm rửa cuối cùng cho Enishte không hề ngưng lảm nhảm nên tin đồn rằng Enishte chết trong hoàn cảnh bí ẩn đã lan truyền giữa những người hàng xóm dự đám tang - như tôi có thể cảm nhận khi đứng trong sân thánh đường. Tôi không muốn cảnh ráo hoảnh nước mắt của mình bị người ta lý giải theo cách tiêu cực; tôi không cần phải nói với bạn, nỗi sợ hãi của việc bị gán cho là “trái tim sắt đá” là có thật đến mức nào.

Bạn vẫn biết, một số bà cô thông cảm sẽ luôn chứng thực rằng “anh ta khóc ở trong lòng” để giúp những kẻ như tôi khỏi bị đám đông dè bỉu. Thực sự tôi đã khóc trong lòng khi cố lui vào góc khuất, tách khỏi những láng giềng nhiều chuyện và những họ hàng xa với khả năng lạ lùng là huy động cả một cơn mưa nước mắt; tôi nghĩ về vai trò chủ nhà của mình, liệu tôi có nên kiểm soát tình hình không, nhưng ngay lúc đó có tiếng gõ cửa. Một phút kinh hoàng. Đó có phải là Hasan không? Bất chấp, tôi muốn thoát khỏi cái địa ngục đầy tiếng thút thít này bằng mọi giá.

Đó là một người hầu trong cung, tới để triệu tôi đến lâu đài. Tôi choáng váng.

Khi rời khoảng sân, tôi thấy một đồng bạc lấm bùn dưới đất. Tôi sợ phải đến hoàng cung chăng? Phải, nhưng tôi cũng hạnh phúc khi được ở ngoài sân trong cái lạnh giữa lũ ngựa, chó, cây cối và thiên hạ. Tôi nghĩ mình sẽ làm quen với người hầu này, giống như những kẻ mơ mộng hão huyền vốn tin rằng họ có thể làm dịu sự tàn nhẫn của thế giới này trước khi đối mặt với đao phủ, nên cố chuyện trò vô tư với người canh ngục về điều này điều nọ, những cái đẹp của cuộc sống, những chú vịt bơi trong hồ, hoặc sự kỳ lạ của một đám mây trôi trên trời; nhưng than ôi, anh ta đã làm tôi thất vọng, tỏ ra là một chàng trai ủ rũ, non trẻ, kiệm lời. Khi đi qua Hagia Sophia, tôi kinh hãi nhận ra những cây bách mảnh mai đang nhẹ nhàng vươn lên bầu trời đầy sương, không phải là nỗi sợ hãi bị chết ngay sau khi cưới được Shekure sau bao năm tháng đã khiến tóc tôi dựng đứng, mà chính là sự bất công khi phải chết trong tay bọn tra tấn trong cung điện mà chưa được làm tình với nàng.

Chúng tôi không đi về phía những ngọn tháp kinh hoàng của Cổng Bas-us-Selam, mà đằng sau là nơi bọn tra tấn và đao phủ nhậm lẹ thực hiện công việc của họ, mà về phía những xưởng mộc. Khi chúng tôi đi giữa những kho ngũ cốc, một con mèo đang liếm lông trong bùn dưới chân con ngựa màu hạt dẻ với lỗ mũi tỏa hơi quay lại nhưng không nhìn chúng tôi: Con mèo mải chú ý đến vết bẩn của nó, như chúng tôi vậy.

Đằng sau dãy kho ngũ cốc, hai bóng người, mà cấp bậc và mối quan hệ giữa họ tôi không thể xác định được qua bộ quân phục xanh và tía, liền thế chỗ gã người hầu, họ nhốt tôi vào một căn phòng tối của một ngôi nhà nhỏ, mà tôi có thể đoán là mới xây dựng qua mùi gỗ tươi. Tôi biết người ta nhốt tôi vào phòng tối là nhằm gây sợ hãi trước khi tra tấn; hy vọng họ bắt đầu với việc đánh vào gan bàn chân, tôi nghĩ về những cách nói dối mà tôi có thể dùng để giữ cái mạng mình. Một đám đông trong phòng sát cạnh có vẻ đang huyên náo lên.

Hầu như chắc chắn rằng trong số các bạn có người không thể nghĩ rằng giọng đùa cợt chế nhạo của tôi là giọng của một kẻ sắp bị tra tấn. Nhưng chẳng lẽ tôi chưa từng nói tôi tự coi mình là một trong những tôi tớ may mắn của Thượng đế sao? Và nếu lũ chim của vận may vốn sà xuống đầu tôi trong hai ngày qua sau những năm tháng nghèo khổ chưa đủ là bằng chứng, thì đồng bạc tôi nhặt được ngoài cổng ắt hẳn là một chỉ dẫn nào đó.

Trong khi chờ bị tra tấn, tôi thấy dễ chịu nhờ đồng bạc và hoàn toàn tin rằng nó sẽ bảo vệ mình; tôi nắm nó trong lòng bàn tay, chà xát và hôn liên tục lên biểu tượng may mắn này mà Allah gửi đến cho tôi. Nhưng bất cứ lúc nào khi họ chuyển tôi khỏi phòng tối và mang tôi sang phòng kế bên nơi tôi gặp viên Chỉ huy Ngự lâm quân và bọn tra tấn người Croatia hói đầu của ông ta, tôi đều biết đồng xu bạc này sẽ không còn giá trị. Giọng nói tàn nhẫn trong tôi hoàn toàn đúng: Đồng xu trong túi tôi không đến từ Thượng đế, mà là một trong những đồng xu tôi đã tung qua đầu Shekure cách nay hai ngày - mà bọn trẻ đã không thấy. Vì vậy, nằm trong tay nhưng kẻ tra tấn tôi, tôi chẳng có gì che chở.

Tôi thậm chí không nhận ra nước mắt mình bắt đầu rơi. Tôi muốn cầu xin, song như trong một giấc mơ, không một âm thanh nào thoát khỏi miệng tôi. Tôi biết qua những cuộc chiến tranh, những cái chết, những vụ ám sát và tra tấn vì chính trị (mà tôi chứng kiến từ xa) rằng cuộc sống có thể bị dập tắt tức khắc nhưng tôi chưa nếm trải điều này một cách cận kề như vậy. Họ sắp loại bỏ tôi khỏi thế giới này chẳng khác gì lột bỏ quần áo của tôi.

Họ lột áo choàng và áo ngắn của tôi. Một trong những tên đao phủ ngồi lên tôi, dận gối xuống vai tôi. Một tên khác đặt chiếc lồng trùm vào đầu tôi với tất cả sự nhẹ nhàng điêu luyện của một phụ nữ đang chuẩn bị thức ăn và bắt đầu chậm rãi vặn con ốc ở mặt trước lồng. Không, nó không phải chiếc lồng, mà là một cái khung kẹp từ từ siết chặt đầu tôi.

Tôi rú hết sức lực. Tôi van xin, nhưng rời rạc. Tôi khóc, phần lớn bởi vì thần kinh của tôi đã kiệt quệ.

Họ dừng một lát rồi hỏi: “Mi là kẻ đã giết Enishte Kính mến phải không?”

Tôi hít thật sâu: “Không.”

Họ bắt đầu siết khung kẹp thêm chút nữa. Nó nhức buốt.

Họ lại hỏi.

“Không.”

“Vậy là ai?”

“Tôi không biết!”

Tôi tự hỏi có nên nói với họ mình đã giết ông ta không. Thế giới quay cuồng thong dong trong đầu tôi. Tôi cảm thấy lưỡng lự. Tôi tự hỏi phải chăng mình đang quen dần với cảm giác đau. Những tay đao phủ của tôi và tôi bất động trong giây lát. Tôi không cảm thấy đau. Tôi chỉ thấy kinh hoàng.

Ngay khi tôi xác định qua đồng bạc trong túi tôi rằng họ sẽ không giết tôi thì họ bất ngờ tha cho tôi. Họ tháo cái khung kẹp đã làm thương tổn chút đỉnh cái đầu tôi. Tay đao phủ đang đè chặt tôi đứng dậy mà không một lời biện bạch. Tôi mặc áo ngắn và áo khoác vào.

Một khoảng im lặng kéo dài.

Ở cuối phòng, tôi thấy Trưởng ban Trang trí, Sư phụ Osman Kính mến. Tôi bước đến hôn tay ông ta.

“Đừng lo, con ạ,” ông ta nói. “Họ chỉ thử thách con thôi.”

Tôi biết ngay rằng tôi đã tìm được một người cha mới thế chỗ Enishte, cầu cho ông được yên nghỉ.

“Đức vua ra lệnh không tra tấn anh lúc này,” viên Chỉ huy nói. “Ngài cho rằng anh thích hợp cho việc giúp Trưởng ban Trang trí, Sư phụ Osman tìm ra tên khốn nạn đã giết những nhà tiểu họa và những tôi tớ trung thành đang làm bản thảo cho Ngài. Anh có ba ngày để thẩm vấn các nhà tiểu họa, nghiên cứu những trang mà họ đã tiến hành tô điểm để tìm ra tên thủ phạm xảo quyệt. Đức vua bị chấn động dữ dội trước những tin đồn mà bọn chuyên gây bất hòa tung ra về những nhà tiểu họa và những bản thảo có trang trí của Người. Cả ta lẫn Trưởng Ngân khố Hazim Agha sẽ giúp hai người tìm ra tên sát nhân này, như Đức vua ban lệnh. Trong hai ông, một người thì rất thân cận với Enishte Kính mến, vì vậy đã nghe được những luận bàn của ông ta và biết về những nhà tiểu họa thường đến thăm ông ta mỗi đêm và câu chuyện đằng sau cuốn sách. Người kia là sư phụ vĩ đại, người tự hào biết rõ mọi nhà tiểu họa của xưởng như lòng bàn tay mình vậy. Trong vòng ba ngày, nếu hai ông không trưng ra được tên đốn mạt đó cùng với trang sách bị mất mà hắn đã ăn cắp - mà người ta đồn đại về nó đã nhiều - thì mong muốn rõ ràng của Đức vua là anh, Siyah Kính mến sẽ là người đầu tiên bị tra tấn và thẩm vấn. Sau đó, chắc chắn lần lượt sẽ tới lượt từng thợ cả tiểu họa khác.”

Tôi có thể nhận ra không hề có một cử chỉ hay dấu hiệu bí mật nào giữa hai người bạn già này, vốn đã làm việc với nhau qua nhiều năm: Trưởng Ngân khố Hazim Agha, người đặt làm tác phẩm và Trưởng ban Trang trí, Thầy Osman Kính mến, người nhận tiền và vật liệu từ ngân khố thông qua ông ta.

“Mọi người đều biết, mỗi khi có một tội ác xảy ra trong phân đội trung đoàn hay sư đoàn của Đức vua, toàn bộ tập thể đó sẽ bị coi là có tội cho đến khi một người trong bọn họ bị nhận dạng và bị bắt. Đơn vị nào không nêu được tên kẻ giết người nằm trong đơn vị mình, đơn vị đó sẽ bị ghi trong hồ sơ tư pháp là ‘trung đoàn những kẻ sát nhân, kể cả viên sĩ quan hoặc chỉ huy đơn vị đó và bị trừng phạt theo mức độ tương ứng,” viên Chỉ huy nói. “Vì thế, Trưởng ban Trang trí, Thầy Osman của chúng ta sẽ hết sức chú ý, xem xét kỹ từng bức minh họa với cái nhìn thấu suốt của thầy, phát hiện sự độc ác, mưu mẹo, trò hiểm độc và sự xúi bẩy vốn đã khiến cho những nhà tiểu họa vô tội tóm lấy cổ nhau và đưa kẻ có tội ra trước nền công lý nghiêm khắc của Đức vua, người che chở thế giới, qua đó minh oan cho cả phường hội của thầy. Để đạt mục đích này, chúng tôi đã có lệnh rằng mọi thứ Thầy Osman yêu cầu đều phải được đáp ứng. Người của tôi lúc này đã tịch thu mọi trang sách mà các nhà tiểu họa bậc thầy lâu nay đã làm riêng tại nhà họ.”

CHƯƠNG 41
ĐÓ LÀ TÔI, SƯ PHỤ OSMAN

Viên Chỉ huy Ngự lâm quân và Trưởng Ngân khố lặp lại chiếu chỉ của Đức vua trước khi để hai chúng tôi ở lại với nhau. Dĩ nhiên Siyah kiệt sức vì sợ, vì khóc và vì những trò tra tấn. Cậu ta nín thinh như một đứa bé. Tôi biết tôi dần sẽ ưa thích cậu ta, và tôi không quấy rối sự yên bình của cậu.

Tôi có ba ngày để nghiên cứu những trang sách mà người của viên Chỉ huy đã thu gom từ nhà những tay thư pháp và thợ cả tiểu họa của tôi, để xác định ai đã làm ra chúng. Tất cả các người đều biết tôi kinh tởm như thế nào khi lần đầu ghé mắt vào những bức tranh được chuẩn bị cho cuốn sách của Enishte Kính mến, cũng như kinh tởm việc Siyah đã trao chúng cho Trưởng Ngân khố Hazim Agha để minh oan cho cậu ta. Hẳn phải có một điều gì đó trong những trang này khiến chúng dấy lên sự ghê tởm và căm ghét dữ dội trong lòng một nhà tiểu họa như tôi vốn đã cống hiến cả đời cho nghệ thuật; chỉ đơn thuần là nghệ thuật xấu thì sẽ không gây nên một phản ứng như thế. Vì vậy với sự tò mò mới nảy sinh, tôi bắt đầu xem xét kỹ chín trang sách mà tên ngốc quá cố kia đã đặt hàng cho những nhà tiểu họa vốn vẫn đến nhà hắn ta lúc đêm hôm khuya khoắt.

Tôi thấy một cội cây nằm giữa một trang trống, đặt trong phần mạ vàng và họa tiết đường viền tạo thành cái khung trang nhã cho từng trang do Zarif Kính mến thực hiện. Tôi cố nghĩ xem bức tranh này nằm trong bối cảnh và câu chuyện nào. Nếu tôi bảo những tay minh họa của tôi vẽ một cái cây, thì Kelebek thân yêu, Leylek thông minh và Zeytin tinh khôn sẽ bắt đầu bằng việc hình dung trong đầu cái cây này như một phần của câu chuyện để họ có thể vẽ hình ảnh này một cách tự tin. Nếu xem xét cẩn thận cái cây ấy, tôi có thể dựa trên cành và lá của nó mà xác định nhà minh họa đã nghĩ đến câu chuyện nào. Tuy nhiên đây là một cội cây lẻ loi khốn khổ; đàng sau nó có một đường chân trời rất cao vốn gợi lại phong cách của những bậc thầy xa xưa nhất của Shiraz và nhấn mạnh cảm giác tách biệt. Tuy nhiên hoàn toàn chẳng có gì lấp đầy khoảng trống do việc đẩy cao đường chân trời tạo ra.

Nỗi khao khát vẽ một cội cây đơn giản thế này, như những bậc thầy Venice đã vẽ, được kết hợp ở đây với cách nhìn thế giới từ trên cao của người Ba Tư, và kết quả là một bức tranh khốn khổ không ra Ba Tư mà cũng chẳng ra Venice. Đây là cách nhìn cái cây từ bên lề thế giới. Khi cố gắng kết hợp hai phong cách khác biệt, những nhà tiểu họa của tôi và đầu óc nghèo nàn của tên hề đã chết kia đã tạo ra một tác phẩm chẳng hề có chút kỹ năng nào.

Nhưng không phải chuyện bức tranh chịu ảnh hưởng của hai cách nhìn thế giới khác nhau mà chính việc thiếu kỹ năng này đã khiến tôi phẫn nộ.

Tôi cũng cảm thấy y như vậy khi nhìn vào những bức tranh khác, vào con ngựa trong mơ hoàn chỉnh và người phụ nữ cúi đầu. Việc chọn đề tài cũng làm tôi bực bội, tôi không biết đó là hai tín đồ khổ tu lầm đường hay quỷ Satan. Rõ ràng những nhà minh họa của tôi đã rụt rè chèn những bức tranh thấp kém này vào bản thảo có trang trí của Đức vua. Tôi lại cảm thấy kính sợ trước phán quyết của Allah cao cả khi lấy mạng Enishte trước khi cuốn sách được hoàn tất. Không cần phải nói, tôi tuyệt không muốn hoàn tất bản thảo này một chút nào.

Ai mà không bực mình trước con chó này, được vẽ từ bên trên nhưng đang ở trước mặt tôi và nhìn vào tôi cứ như nó là anh em của tôi? Một mặt tôi sửng sốt trước sự tạo dáng sinh động cho con chó, vẻ đẹp của cái liếc xéo đầy đe dọa của nó, đầu hạ thấp tới đất và sắc trắng nhởn dữ dội trong hàm răng của nó, tóm lại, tôi sửng sốt trước tài năng của nhà tiểu họa đã vẽ nó (tôi sắp xác định được chính xác ai đã vẽ bức tranh này); nhung mặt khác tôi không thể tha thứ việc tài năng này bị chế ngự bởi thứ luận lý kỳ quái của một ý chí bí hiểm. Cả nỗi khao khát muốn bắt chước người Âu lẫn cái lý do rằng với cuốn sách mà Đức vua đặt làm như một món quà cho vị Pháp quan thì phải sử dụng những kỹ thuật quen thuộc với dân Venice đều không giải thích được thỏa đáng cho kiểu cách xu phụ trong những bức tranh này.

Tôi kinh hoàng trước sức cuốn hút của màu đỏ trong một bức tranh vẽ cảnh náo nhiệt, trong đó tôi lập tức nhận ra tay nghề của từng thợ cả tiểu họa của tôi ở mỗi góc. Một bàn tay nghệ sĩ mà tôi không thể nhận dạng đã phết một màu đỏ lạ kỳ lên bức tranh theo sự hướng dẫn của một luận lý bí hiểm, và toàn bộ thế giới được bộc lộ qua bức minh họa dần dần bị chìm trong sắc đỏ này. Tôi bỏ một thời gian nghiên cứu bức tranh vẽ cảnh đông đúc này để chỉ cho Siyah thấy nhà tiểu họa nào của tôi đã vẽ cây tiêu huyền (Leylek), những chiếc tàu và lũ ngựa (Zeytin) và con diều cùng những đóa hoa (Kelebek).

“Dĩ nhiên, một nhà tiểu họa bậc thầy như sư phụ, người đứng đầu bộ phận làm sách nghệ thuật trong nhiều năm, có thể phân biệt tài khéo của từng nhà minh họa của sư phụ, phong thái trong các đường nét của họ và tính khí trong nhũng nhát cọ của họ,” Siyah nói. “Nhưng khi một người mê sách lập dị như Enishte của con buộc những nhà minh họa này vẽ với những kỹ thuật mới và chưa được thử nghiệm, thì làm sao sư phụ xác định được họa sĩ nào là tác giả của từng họa tiết với độ chắc chắn như thế?”

Tôi quyết định trả lời bằng một dụ ngôn: “Ngày xưa có một vị vua cai trị xứ Isfahan; ông là người yêu nghệ thuật làm sách và sống một mình trong lâu đài của mình. Ông là một vị vua hùng mạnh, thông minh nhưng tàn nhẫn, chỉ dành tình yêu cho hai thứ: những bản thảo có minh họa mà ông ra lệnh làm và nàng con gái của ông. Vị vua này hết lòng với con gái đến độ kẻ thù của ông ta hầu như đúng khi khẳng định ông ta yêu chính con gái mình - vì ông ta tự hào và cả ghen đến mức tuyên chiến với các hoàng tử và vua láng giềng khi có ai phái sứ giả đến cầu hôn công chúa. Tất nhiên là không một người chồng nào xứng đáng với con gái ông ta, và ông ta giam nàng trong một căn phòng chỉ có thể vào được sau khi vượt qua bốn mươi cánh cửa khóa chặt. Theo niềm tin phổ biến ở Isfahan, ông ta nghĩ rằng nhan sắc của con gái ông sẽ tàn phai nếu những người đàn ông khác nhìn thấy nàng. Một ngày nọ, sau khi một bản sách Husrev o Shirin mà ông ta đặt làm được khắc và minh họa theo phong cách Herat, lời đồn đãi bắt đầu lan truyền ở Isfahan: Mỹ nhân có khuôn mặt nhợt nhạt xuất hiện trong bức tranh sinh hoạt nhộn nhịp kia không ai khác hơn là con gái của vị vua đầy ghen tị đó.

Thậm chí trước khi nghe những lời đồn này, nhà vua, vốn nghi ngờ bức tranh kỳ bí ấy, đã lật cuốn sách bằng hai bàn tay run rẩy và qua làn nước mắt, ông thấy rằng vẻ đẹp của con gái ông đã thực sự được thể hiện trên trang sách. Theo người ta kể, quả thực không phải là con gái của nhà vua, người được bảo vệ sau bốn mươi lớp của khóa chặt, đã xuất hiện để được vẽ chân dung trong một đêm nọ, mà vẻ đẹp của nàng đã thoát khỏi căn phòng giống như một con ma bực bội vì buồn chán, phản chiếu qua hàng loạt những tấm gương, luồn bên dưới những cánh cửa và len qua các lỗ khóa như một tia sáng hay làn khói để tới được đôi mắt của một nhà minh họa làm việc suốt đêm. Nhà tiểu họa trẻ tuổi tài hoa này, không thể kìm được mình, đã vẽ người đẹp mà anh ta không dám nhìn trong bức minh họa anh ta sắp hoàn thành. Đó là cảnh thể hiện nàng Shirin nhìn lên bức tranh Husrev và thấy yêu chàng lập tức trong một chuyến du ngoạn miền quê.”

“Thưa Sư phụ Kính mến, đây hoàn toàn là một trùng hợp ngẫu nhiên,” Siyah nói. “Con cũng rất thích cảnh đó trong Husrev o Shirin.” Những chuyện đó không phải là truyền thuyết, mà là những chuyện đã thực sự xảy ra,” tôi nói. “Nhà tiểu họa đó không vẽ cô công chúa xinh đẹp thành Shirin, mà thành một cô gái điếm đang chơi đàn luýt hoặc đang bày bàn ăn, bởi vì đó là nhân vật anh ta đang minh họa lúc đó. Kết quả là, nhan sắc nàng Shirin trở nên mờ nhạt bên cạnh vẻ đẹp lộng lẫy của cô gái điếm đàng ở một góc, vì vậy phá vỡ sự cân bằng của bức tranh.

Sau khi nhà vua thấy con gái mình trong bức tranh, ông ta muốn xác định nhà tiểu họa tài hoa nào đã vẽ con gái ông ta. Nhưng nhà tiểu họa khôn khéo này sợ cơn thịnh nộ của nhà vua nên đã thể hiện cả nàng Shirin lẫn cô gái điếm không theo phong cách riêng của mình mà theo một phong cách mới để che giấu lai lịch của anh ta. Những nét cọ tài hoa của khá nhiều nhà tiểu họa cũng góp mặt trong tác phẩm đó.”

“Làm sao nhà vua đó phát hiện ra lai lịch của nhà tiểu họa đã vẽ con gái ông ta?”

“Qua đôi tai!”

“Đôi tai của ai? Đôi tai của công chúa hay bức tranh vẽ nàng?”

“Thực ra là không của ai cả. Theo trực giác của mình, trước tiên ông ta bày ra mọi cuốn sách, các trang giấy và những bức minh họa mà các nhà tiểu họa của ông ta đã làm rồi xem xét kỹ mọi đôi tai trong đó. Ông ta nhìn những gì mình đã biết bao năm qua dưới một ánh sáng mới: Bất chấp mức độ tài năng, mỗi nhà tiểu họa đều vẽ đôi tai theo phong cách riêng của mình. Dù khuôn mặt họ vẽ là khuôn mặt một quốc vương, một đứa bé, một chiến binh, hay thậm chí, xin Thượng đế tha tội, khuôn mặt được che một phần của đấng Tiên tri cao cả, hay thậm chí, xin Thượng đế tha tội lần nữa, khuôn mặt của Quỷ sứ thì điều đó cũng không quan trọng. Mỗi nhà tiểu họa, trong mọi trường hợp, luôn vẽ đôi tai theo cùng một cách, cứ như đấy là một chữ ký mật.”

“Tại sao?”

“Khi những bậc thầy minh họa một khuôn mặt, họ tập trung vào việc tiếp cận vẻ đẹp tuyệt vời của khuôn mặt, vào các quy tắc của những khuôn mẫu hình thức cũ, vào vẻ mặt, hoặc vào việc liệu nó có nên giống một người thật nào không. Nhưng khi vẽ đến đôi tai, họ không ăn cắp của người khác, bắt chước một mẫu nào đó mà cũng không nghiên cứu đôi tai thật. Đối với đôi tai, họ không nghĩ, không khao khát bất cứ thứ gì, thậm chí không dừng lại để xem xét mình đang vẽ gì. Họ chỉ đưa cọ theo ký ức.”

“Nhưng chẳng phải những bậc thầy vĩ đại đã tạo ra những kiệt tác của họ từ ký ức mà thậm chí không nhìn vào con ngựa thật, cái cây thật hoặc con người thật sao?” Siyah hỏi.

“Đúng vậy,” tôi nói, “nhưng những thứ đó là ký ức có được sau nhiều năm suy ngẫm, trầm tư và hồi tưởng. Sau khi đã thấy rất nhiều con ngựa, đã minh họa và thực tế, qua cả cuộc đời họ, họ biết rằng con ngựa bằng xương bằng thịt cuối cùng mà họ thấy trước mặt họ sẽ chỉ làm hại con ngựa hoàn hảo mà họ giữ trong ý nghĩ của mình. Con ngựa mà một nhà tiểu họa bậc thầy đã vẽ mười ngàn lần cuối cùng tiến gần đến cái nhìn về con ngựa của Thượng đế, và người nghệ sĩ biết điều này thông qua kinh nghiệm và độ sâu thẳm trong tâm hồn anh ta. Con ngựa mà người nghệ sĩ vẽ nhanh từ ký ức được thể hiện với tài năng, nỗ lực lớn, độ thấu thị, và nó là con ngựa vốn gần giống con ngựa của Allah. Tuy nhiên, cái tai nào được vẽ trước khi bàn tay có được bất cứ hiểu biết nào, trước khi người nghệ sĩ cân nhắc và xem xét nó đang vẽ gì, hoặc trước khi chú ý đến đôi tai của cô công chúa, thì sẽ luôn luôn là một khuyết điểm. Chính bởi vì nó là một khuyết điểm, hoặc sự không hoàn hảo, nên nó sẽ thay đổi từ nhà tiểu họa này đến nhà tiểu họa khác. Nghĩa lại nó trở thành một chữ ký.”

Có tiếng xôn xao. Người của viên Chỉ huy mang vào khu xưởng cũ kỹ này những trang sách mà họ gom được từ nhà của những tay tiểu họa và thư pháp.

“Ngoài ra, đôi tai thực sự là một khuyết điểm của con người,” tôi nói, hy vọng Siyah sẽ mỉm cười. “Chúng lập tức rõ rệt và phổ biến ở mọi người: một biểu thị hoàn hảo của cái xấu.”

“Điều gì đã xảy ra với nhà tiểu họa bị bắt do phong cách vẽ đôi tai của anh ta?”

Tôi kiềm chế không nói, “Ông ta mù,” để Siyah không thất vọng hơn nữa. Thay vào đó, tôi đáp: “Ông ta cưới công chúa, và phương pháp này, vốn từ đó trở đi được sử dụng để nhận dạng các nhà tiểu họa, được nhiều vị đại hãn, quốc vương và vua chúa có tài trợ cho các xưởng sách nghệ thuật biết đến dưới tên gọi ‘phương pháp gái điếm’. Hơn nữa, nó được giữ bí mật để nếu có ai trong số những nhà tiểu họa vẽ một nhân vật bị cấm hoặc một họa tiết nhỏ vốn che giấu một ác ý nào đó rồi sau đó phủ nhận việc mình làm, họ có thể nhanh chóng xác định ai là tác giả - những nghệ sĩ đích thực có một khao khát bản năng là vẽ những gì bị cấm! Đôi khi bàn tay họ tự gây phiền lụy. Việc phát hiện những vi phạm đó dính dáng đến chuyện tìm ra những chi tiết được vẽ nhanh, lặp lại và tầm thường không dính gì đến phần mấu chốt của bức tranh, như đôi tai, bàn tay, cỏ, lá, hoặc thậm chí bờm, chân và móng ngựa. Nhưng hãy thận trọng, phương pháp này không hiệu quả nếu bản thân nhà minh họa biết rõ rằng chi tiết này trở thành chữ ký mật của chính anh ta. Chẳng hạn, ria mép sẽ không có hiệu quả bởi nhiều nghệ sĩ ý thức được chuyện chúng cũng được vẽ tùy tiện như một kiểu chữ ký như thế nào. Nhưng chân mày thì có khả năng: Không ai chú ý đến chúng lắm. Giờ thì lại đây, chúng ta hãy xem những bậc thầy trẻ tuổi nào đã đẩy cây cọ và ngòi bút sậy của họ lên những bức minh họa của Enishte Kính mến quá cố.”

Vì vậy chúng tôi mang những trang của hai bản thảo có minh họa lại với nhau, một bản đang được hoàn tất bí mật còn cái kia công khai, hai pho sách với những câu chuyện và đề tài khác nhau, được minh họa theo hai phong cách riêng biệt; nghĩa là, cuốn sách của Enishte Kính mến quá cố và pho Sur-nama mô tả lễ cắt bì cho hoàng tử của chúng tôi, việc thực hiện pho này do tôi kiểm soát. Siyah và tôi nhìn chăm chú bất cứ chỗ nào mà kính lúp của tôi chuyển đến:

1. Trên những trang của Sur-nama, đầu tiên chúng tôi xem xét cái miệng há ra của con cáo mà bộ lông của nó được ông thợ cả phường may đồ lông thú, vận áo choàng màu đỏ và khăn quàng vai màu tía, giữ trên đùi trong khi cả phường diễu hành trước mặt Đức vua, Ngài đang nhìn theo đoàn diễu hành này từ một ban công được dựng riêng cho sự kiện này. Không thể nhầm lẫn, Zeytin đã vẽ cả hàm răng cáo, vốn có thể nhận ra dễ dàng, lẫn bộ răng trong bức minh họa quỷ Satan của Enishte, một sinh vật xấu xa, nửa quỷ, nửa khổng lồ có vẻ đến từ Samarkand.

2. Vào một ngày vui nào đó của lễ hội, bên dưới ban công của Đức vua nhìn xuống Hippodrome, một nhóm những chiến binh vùng biên giới nghèo khổ xuất hiện trong quần áo tả tơi. Một người trong bọn họ van xin: “Tâu Đức vua vinh quang của thần, chúng thần, những chiến sĩ anh dũng của Ngài, đã bị giam cầm khi chiến đấu chống bọn ngoại đạo nhân danh tôn giáo của chúng ta và chỉ có thể giành được tự do sau khi đã bỏ lại sau lưng một số đồng đội của chúng thần làm con tin. Chúng thần được trả tự do để thu gom tiền chuộc. Tuy nhiên, khi trở về Istanbul chúng thần nhận thấy mọi thứ quá đắt đỏ đến độ chúng thần không sao gom đủ tiền để cứu mạng những chiến hữu khốn khổ đang là tù nhân của người Bantu. Chúng thần cầu xin sự giúp đỡ của Hoàng thượng. Làm ơn ban cho chúng thần vàng hoặc nô lệ để chúng thần có thể đổi lấy tự do cho họ.” Leylek rõ ràng đã vẽ những móng chân của con chó lười biếng nằm ở góc bức tranh, nó đang nhìn Đức vua với một con mắt mở, nhìn những vị anh hùng khốn khó, nghèo khổ của chúng ta, và nhìn các sứ thần Ba Tư và Tatar trong Hippodrome - cũng như móng của con chó nằm ở góc cảnh trí vẽ những cuộc phiêu lưu của Đồng xu vàng trong cuốn sách của Enishte.

3. Trong số những nghệ sĩ tung hứng đang quay trứng trên những miếng ván và nhào lộn trước mặt Đức vua, có một người đàn ông hói mặc áo chẽn tía, bắp chân để trần đang ngồi chơi trống lục lạc trên một tấm thảm đỏ; người đàn ông này cầm nhạc cụ theo cung cách giống y một phụ nữ phục vụ bưng khay bằng đồng to trong bức minh họa về màu Đỏ trong cuốn sách của Enishte: chắc chắn tác phẩm này là của Zeytin.

4. Khi phường thợ nấu đi ngang qua chỗ Đức vua, họ đang nấu món cải bắp nhồi thịt với hành trong một cái vạc đặt trên lò trong xe của họ. Những thợ cả nấu bếp đi theo xe đứng trên đất màu hồng đặt các nồi hầm trên những tảng đá xanh dương; những tảng đá này được vẽ bởi chính người họa sĩ đã tạo ra những viên đá đỏ trên đất xanh đen mà trên đó những loài sinh vật giống như ma quỷ trong bức tranh mà Enishte gọi là Thần chết: tác phẩm không thể nhầm lẫn của Kelebek.

5. Những kỵ sĩ liên lạc Tatar đưa tin rằng Quốc vương Ba Tư đã bắt đầu huy động binh lính cho một chiến dịch khác nhắm vào dân Ottoman, những người mà ngay sau đó đã san bằng trạm quan sát tuyệt đẹp của sứ thần Ba Tư, kẻ đã không ngừng khẳng định với Đức vua trong rất nhiều câu chuyện xã giao rằng Quốc vương là bạn ông ta và chẳng nuôi dưỡng cái gì khác ngoài tình huynh đệ dành cho ông ta. Suốt đoạn chuyện kể về cơn thịnh nộ và hủy diệt này có những người bưng nước chạy ra vẩy cho lắng bụi dậy lên trong Hippodrome, và một nhóm người xuất hiện vai đeo những túi da đựng đầy dầu lanh để hắt lên đám đông đang muốn tấn công viên sứ thần, với hy vọng làm đám đông bình tĩnh lại. Những bàn chân giơ lên của những người bưng nước và người đeo túi dầu lanh được thực hiện bởi chính họa sĩ đã vẽ những bàn chân giơ lên của đám lính đang xung phong trong bức tranh về màu Đỏ: cũng là tác phẩm của Kelebek.

Tôi không phải là người đưa ra phát hiện cuối cùng này trong khi chỉ huy cuộc lục soát tìm manh mối, đưa kính lúp sang phải và trái, từ bức tranh này sang bức tranh nọ; mà đúng ra đó là Siyah, người mở to mắt và hầu như không chớp đang lo sợ bị tra tấn và hy vọng trở về với người vợ đang chờ cậu ta ở nhà. Việc sử dụng ‘phương pháp gái điếm’ làm chúng tôi mất cả buổi chiều để xác định nhà tiểu họa nào làm tác phẩm nào trong chín bức mà Enishte quá cố để lại, và sau đó để làm sáng tỏ thông tin đó.

Enishte quá cố của Siyah không giao phó hoàn toàn trang nào cho tài năng nghệ thuật của chỉ một nhà tiểu họa; cả ba nhà tiểu họa tài giỏi của tôi đều góp mặt trong hầu hết những tranh minh họa đó. Điều này có nghĩa là những bức tranh được chuyển từ nhà này sang nhà khác rất thường xuyên. Ngoài tác phẩm mà tôi đã nhận ra, tôi còn thấy những nét cọ không chuyên nghiệp của một họa sĩ thứ năm, nhưng khi tôi nổi giận trước tài nghệ kém cỏi mà tên sát nhân ô nhục này thể hiện, thì Siyah khẳng định qua những nhát cọ thận trọng, rằng thực tế đó là tác phẩm của Enishte của cậu ta - vì thế tránh cho chúng tôi khỏi đi theo một manh mối sai lạc. Nếu không kể đến Zarif Kính mến tội nghiệp, kẻ đã làm hầu hết công việc mạ vàng cho cuốn sách của Enishte và cuốn Sur- nama của chúng tôi (phải, điều này dĩ nhiên làm tan nát trái tim tôi) và cũng là kẻ, mà theo tôi suy luận, thỉnh thoảng cũng hạ cọ để vẽ vài bức tường, lá và mây, thì rõ ràng rằng chỉ có ba nhà tiểu họa tài hoa nhất của tôi đã góp phần vào những bức minh họa này.

Họ là những người yêu quý mà tôi đã ân cần dạy dỗ từ thời họ còn học việc, ba tài năng yêu quý của tôi: Zeytin, Leylek và Kelebek.

Việc thảo luận về tài năng, sự điêu luyện và tính khí của họ để phát hiện manh mối mà chúng tôi đang tìm kiếm cũng đã dẫn đến một cuộc thảo luận về cuộc đời của chính tôi:

Những phẩm chất của Zeytin (Ôliu)

Tên cha mẹ đặt cho anh ta là Velijan. Nếu anh ta có một biệt hiệu khác ngoài nghệ danh tôi đã đặt cho thì tôi không biết, bởi tôi chưa bao giờ thấy anh ta ký vào bất cứ tác phẩm nào của anh ta cả. Khi còn là thợ học việc, anh ta thường đến tháp tùng tôi từ nhà đến xưởng vào những sáng thứ ba. Anh ta rất tự hào, và do vậy nếu anh ta từng hạ cố ký vào tác phẩm của mình, thì hẳn anh ta muốn chữ ký này rõ ràng và dễ nhận ra; anh ta sẽ không tìm cách giấu chúng ở đâu đó. Allah đã hết súc hào phóng ban cho anh ta khả năng vượt trội. Anh ta có thể sẵn sàng và dễ dàng làm bất cứ chuyện gì, từ mạ vàng đến kẻ dòng, và công trình của anh ta thật siêu hạng. Trong xưởng, anh ta là người vẽ cây cối, thú vật và mặt người xuất sắc nhất. Cha của Velijan, người đã đưa anh ta đến Istanbul khi anh ta mới mười tuổi, theo tôi nhớ, đã được học với Siyavush, nhà minh họa nổi tiếng chuyên vẽ mặt người trong xưởng vẽ Tabriz của vua Ba Tư. Anh ta xuất thân từ dòng dõi nhiều bậc thầy gốc Mông Cổ, và giống như những lão sư phụ vốn chịu ảnh hưởng Trung Hoa - Mông Cổ và định cư ở Samarkand, Bukhara và Herat cách nay một trăm năm mươi năm, anh ta vẽ những tình nhân có khuôn mặt tròn như trăng như thể họ là người Trung Hoa.

Trong thời gian anh ta học việc cũng như lúc anh ta đã là thợ cả, tôi chưa bao giờ lái được người nghệ sĩ ương ngạnh này sang một phong cách khác. Tôi sẽ thích biết bao nếu anh ta vượt lên trên những phong cách và khuôn mẫu của những bậc thầy Mông Cổ, Trung Hoa và Herat vốn đã ăn sâu vào tâm hồn anh ta, hoặc thậm chí quên hẳn chúng đi thì càng tốt. Khi tôi nói với anh ta điều này, anh ta trả lời rằng, giống như nhiều nhà tiểu họa vốn di chuyển từ xưởng này sang xưởng khác, từ nước này sang nước khác, cho dẫu anh ta từng thực sự học được những phong cách cũ này thì anh ta cũng đã quên chúng rồi. Dù giá trị của nhiều nhà tiểu họa thực sự nằm trong những kiểu mẫu hình thức xuất sắc mà họ đã đưa vào ký ức, nhưng giá Velijan thực sự quên được chúng thì anh ta hẳn đã trở thành một nhà minh họa thậm chí còn vĩ đại hơn. Tuy nhiên có hai điều lợi, mà thậm chí anh ta không biết đến, trong việc nuôi dưỡng trong sâu thẳm tâm hồn những lời chỉ dạy của các vị thầy của anh ta, giống như hai tội lỗi chưa thú nhận: 1. Đối với một nhà tiểu họa tài hoa như thế, việc bám chặt vào những hình thức cũ chắc chắn khơi lên cảm giác tội lỗi và vong thân vốn sẽ thúc đẩy tài năng anh ta đến chỗ chín muồi. 2. Trong lúc khó khăn, anh ta luôn có thể nhớ lại những gì mà anh ta khẳng định rằng đã quên, và vì thế anh ta có thể hoàn tất mỹ mãn bất cứ đề tài, lịch sử hoặc cảnh trí mới mẻ nào bằng cách dựa vào một trong những khuôn mẫu Herat xưa. Với con mắt sắc sảo của mình, anh ta biết cách hòa hợp những gì học được từ những hình thức cũ và những lão sư phụ của Shah Tahmasp trong những bức tranh mới. Hội họa Herat và cách trang trí Istanbul hợp nhất một cách hân hoan trong Zeytin.

Tôi từng có lúc bất ngờ đến thăm nhà anh ta, cũng như với mọi nhà tiểu họa của tôi. Không như chỗ làm việc của tôi và của nhiều nhà tiểu họa tài hoa khác, nơi làm việc của anh ta là một cõi bừa bộn bẩn thỉu đầy những thuốc màu, cọ, những vỏ sò đánh bóng, bàn làm việc xếp và nhiều vật dụng khác. Đó là một bí ẩn đối với tôi nhưng anh ta thậm chí không thấy phiền hà gì với tình trạng đó. Anh ta không nhận việc bên ngoài để kiếm thêm vài đồng bạc lẻ. Sau khi tôi kể những sự kiện này, Siyah liền nói, chính Zeytin là người nhiệt tình và thoải mái nhất đối với phong cách của những bậc thầy Tây vực mà Enishte quá cố của anh ta ngưỡng mộ. Tôi hiểu đây là lời ca ngợi theo quan điểm của tên ngốc quá cố đó, dù nó thật sai lầm. Tôi không thể xác định liệu Zeytin có bị trói buộc một cách sâu xa và bí ẩn vào những phong cách Herat - vốn bắt nguồn từ ông thầy Siyavush của cha anh ta và ông thầy Muzaffer của Siyavush, cho đến tận thời kỳ Bihzad và những bậc thầy xưa - hơn mức độ hiện nay của anh ta hay không, nhưng nó luôn khiến tôi tự hỏi liệu Zeytin có ấp ủ những xu hướng giấu kín nào khác chăng. Về những nhà tiểu họa của tôi (tôi tự nhủ), anh ta là kẻ nhạy cảm và lặng lẽ nhất, nhưng cũng tội lỗi và đáng khiển trách nhất, cũng lại là kẻ ưa dối trá nhất. Khi tôi nghĩ về những phòng tra tấn của viên Chỉ huy, người đầu tiên tôi nghĩ đến chính là anh ta. (Tôi vừa muốn vừa không muốn anh ta bị tra tấn). Anh ta có con mắt của một âm hồn; anh ta chú ý và cân nhắc mọi thứ, kể cả những thiếu sót của chính tôi; tuy nhiên, với sự dè dặt của một kẻ tha hương có thể thích nghi với mọi tình huống, anh ta hiếm khi mở miệng nêu ra những sai lầm. Anh ta xảo trá, nhưng theo quan điểm của tôi, anh ta không phải là một kẻ sát nhân. (Tôi không nói với Siyah điều này). Zeytin không tin vào bất cứ điều gì. Anh ta không tin vào tiền, nhưng anh ta lo lắng tích trữ nó. Ngược với điều mọi người thường tin, mọi tên sát nhân đều là những kẻ có niềm tin mạnh mẽ chứ không phải những kẻ vô thần. Việc trang trí bản thảo dẫn đến hội họa, và hội họa, đến phiên nó, lại dẫn đến - cầu Thượng đế tha thứ - việc thách thức Allah. Mọi người đều biết điều này. Vì thế, xét theo việc Zeytin thiếu đức tin thì anh ta là một nghệ sĩ đích thực. Tuy nhiên, tôi tin rằng những năng khiếu Thượng đế ban cho anh ta không bằng những năng khiếu của Kelebek, hoặc thậm chí của Leylek. Tôi đã từng muốn Zeytin là con trai mình. Khi nói điều này, tôi muốn gây ra lòng ghen tỵ ở Siyah, nhưng anh ta chỉ phản ứng bằng việc mở to đôi mắt đen và nhìn với vẻ tò mò trẻ thơ. Sau đó tôi nói Zeytin thật phi thường khi anh ta dùng mực đen, khi anh ta, với mục đích dán vào những cuốn sưu tập thể hiện những chiến binh, cảnh săn bắn, những bức tranh mang cảm hứng Trung Hoa đầy lũ cò và hạc, những cậu trai xinh đẹp tụ tập dưới gốc cây đọc thơ và chơi đàn luýt, và khi anh ta vẽ nỗi buồn của những cặp tình nhân huyền thoại, cơn thịnh nộ của một vị vua mang gươm giận dỗi và vẻ sợ hãi của một người hùng khi chàng ta tránh né đòn tấn công của một con rồng.

“Có lẽ Enishte muốn Zeytin làm bức tranh cuối cùng vốn sẽ thể hiện đầy đủ mọi chi tiết, theo phong cách của người Âu khuôn mặt và cung cách an tọa của Đức vua,” Siyah nói.

Cậu ta đang cố làm tôi rối trí chăng?

“Giả sử chuyện đúng là như thế, thì sau khi giết Enishte, tại sao Zeytin lại bỏ trốn với bức tranh mà anh ta đã quen thuộc?” tôi nói. “Hoặc, như cậu muốn nói, tại sao anh ta giết Enishte để xem bức tranh đó?” Cả hai chúng tôi cùng suy ngẫm về những câu hỏi này hồi lâu.

“Bởi vì có điều gì đó thiếu mất trong bức tranh,” Siyah nói. Hoặc bởi anh ta hối tiếc điều gì đó anh ta đã làm và sợ nó. Hay thậm chí…” anh ta suy nghĩ giây lát. “…hoặc sau khi giết Enishte, anh ta có thể đã lấy bức tranh đi để hủy hoại nó, để có một vật lưu niệm, hoặc thậm chí chẳng vì lý do gì cả. Rốt cuộc, Zeytin là một nhà minh họa vĩ đại vốn đương nhiên rất tôn trọng một bức tranh đẹp.”

“ Chúng ta đã thảo luận về những gì đã khiến Zeytin trở thành một nhà minh họa vĩ đại,” tôi nói, càng lúc càng giận. “Nhưng không có bức minh họa nào của Enishte là đẹp cả.”

“Chúng ta còn chưa thấy bức tranh cuối cùng mà,” Siyah nói một cách tự tin.

Những phẩm chất của Kelebek (Bướm)

Cậu ta được mọi người biết với tên Hasan Chelebi đến từ quận Sadabat, nhưng với tôi cậu ta luôn luôn là “Kelebek - Bướm”. Nghệ danh này luôn gợi tôi nhớ lại vẻ đẹp thời niên thiếu và thanh niên của cậu ta: Cậu ta quá đẹp trai đến độ những ai từng thấy cậu ta đều không tin nổi mắt mình và muốn nhìn cậu ta lần nữa. Tôi luôn luôn ngạc nhiên trước điều kỳ diệu về tài năng cũng như vẻ tuấn tú của cậu ta. Cậu ta là bậc thầy về màu sắc và đây là thế mạnh lớn nhất của cậu ta. Cậu ta vẽ một cách say sưa, quay cuồng với niềm vui được tô màu. Nhưng tôi cảnh báo Siyah rằng Kelebek vốn nông nổi, vô mục đích và lừng khừng bất quyết. Để tỏ ra công bằng, tôi nói thêm: Cậu ta là một nhà tiểu họa đích thực vẽ bằng trái tim. Nếu nghệ thuật trang trí không có nghĩa là thỏa mãn trí thông minh, nói chuyện với con thú trong chúng ta, hoặc củng cố lòng tự hào của Đức vua; nghĩa là, nếu nghệ thuật này chỉ có nghĩa là một ngày hội cho con mắt, thì Kelebek quả nhiên là một nhà tiểu họa đích thực. Cậu ta tạo những đường cong vô tình, thoải mái và khoáng đạt, như thể cậu ta tiếp thu những bài học từ những bậc thầy Kazvin cách nay bốn mươi năm; cậu ta tự tin sử dụng những màu sắc thuần khiết, sáng chói của mình, và luôn luôn có một sự luân lưu nhẹ nhàng ẩn chứa trong sự sắp xếp các bức tranh của cậu ta; nhưng tôi là người đã dạy dỗ cậu ấy, chứ không phải những bậc thầy Kazvin đã chết từ lâu nọ. Có lẽ vì lý do này mà tôi yêu cậu ta như con trai mình, không, hơn cả con trai nữa - nhưng tôi không bao giờ có cảm giác kiêng nể đối với cậu ta. Như với tất cả thợ học việc của tôi, lúc cậu ta đang thời niên thiếu cũng như khi cậu ta còn ở tuổi thanh niên, tôi đã đánh cậu ta một cách thoải mái bằng cán cọ, thước và thậm chí cả gậy nữa, nhưng điều này không có nghĩa là tôi không tôn trọng cậu ta. Dù tôi thường đánh Leylek bằng thước, tôi cũng tôn trọng cậu ấy. Trái với những gì mà kẻ bàng quan hững hờ vẫn nghĩ, việc đánh đòn của người thầy không giải thoát người thợ học việc khỏi những âm hồn tài năng và Quỷ sứ, mà chỉ đàn áp chúng tạm thời. Nếu đó là một trận đòn đúng đắn và đáng có, thì sau đó các âm hồn và ác quỷ sẽ nổi loạn và kích thích quyết tâm làm việc đang phát triển ở nhà tiểu họa. Còn những trận đòn tôi dành cho Kelebek, chúng đã định hình cậu ta thành một nghệ sĩ hài lòng và biết vâng lời.

Tôi lập tức cảm thấy cần ca ngợi cậu ta với Siyah: “Nghệ thuật của Kelebek,” tôi nói, mà bằng chứng chắc chắn rằng bức tranh về niềm chân phúc, mà nhà thơ nổi tiếng từng suy ngẫm trong các bài thơ của ông ta, chỉ có thể thực hiện được thông qua một khả năng thiên phú trong việc thấu hiểu và sử dụng màu sắc. Khi ta nhận ra điều này, ta cũng nhận ra điều Kelebek thiếu: Cậu ta không biết rằng việc tạm thời mất đức tin mà Jami nói đến trong thơ của ông ta là ‘đêm tối của tâm hồn’ . Giống như một nhà minh họa đang vẽ trong cảnh hạnh phúc tột đỉnh của Thiên đàng, cậu ta bắt tay vào tác phẩm của mình với niềm tin vững chắc và thái độ mãn nguyện, tin rằng mình có thể thực hiện một bức tranh về niềm hạnh phúc tột cùng, và cậu ta đã làm được như vậy. Những đội quân của chúng ta đang bao vây lâu đài Doppio, sứ thần Hungary hôn chân Đức vua, đấng Tiên tri của chúng ta đi qua bảy tầng Thiên đàng, tất cả hiển nhiên là những cảnh vốn dĩ là hạnh phúc, nhưng khi được thể hiện bởi Kelebek, chúng trở thành những điều xuất thần bắt nguồn từ trang vẽ. Trong một bức minh họa của ta, nếu bóng tối của cái chết hoặc sự nghiêm trang của một buổi họp triều đình có ảnh hưởng lớn lao, ta sẽ bảo Kelebek ‘cứ tô màu theo ý cậu,’ và ngay sau đó, quần áo, lá cây, cờ xí và biển cả, vốn nằm đó câm lặng như thể bị rắc phủ thứ đất dùng để lấp huyệt mộ, cũng bắt đầu rập rờn trong làn gió nhẹ.

Nhiều lúc ta nghĩ Allah muốn người ta nhìn thấy thế giới theo cách Kelebek minh họa nó, rằng Người muốn cuộc sống là niềm hân hoan. Thực tế, đây là một vương quốc nơi màu sắc đọc to một cách hài hòa những bài thơ tráng lệ cho nhau nghe, nơi thời gian dừng lại, nơi Quỷ sứ không bao giờ xuất hiện.”

Tuy nhiên, ngay cả Kelebek cũng biết điều này là chưa đủ. Chắc hẳn có ai đó đã thì thào với cậu ta - nói đúng - phần lớn đúng, rằng trong tác phẩm của cậu ta mọi thứ đều vui như một ngày hội, nhưng không có chiều sâu. Những hoàng tử bé con và những phụ nữ già lẩm cẩm kề miệng lỗ trong hậu cung thích tranh của cậu ta, chứ những người buộc phải đấu tranh chống cái ác thì không. Bởi vì Kelebek cũng hiểu rõ những lời chỉ trích này, anh chàng tội nghiệp, cậu ta nhiều lúc đâm ghen tỵ với những nhà tiểu họa tầm tầm, những kẻ tuy không tài năng bằng cậu ta nhưng lại có phẩm chất của ma quỷ âm hồn. Những gì cậu ta tin một cách sai lầm là ma quái và là tác phẩm của âm hồn thường lại là cái ác và lòng đố kỵ rõ rệt.

Cậu ta làm tôi bực mình vì khi vẽ cậu ta không đắm mình vào thế giới kỳ diệu đó, không rơi vào trạng thái xuất thần, mà chỉ đạt đến đỉnh cao đó khi cậu ta tưởng tượng tác phẩm của mình sẽ làm vui lòng người khác. Cậu ta khiến tôi tức giận vì cứ nghĩ đến số tiền mình sẽ kiếm được. Đó là một trong những trớ trêu của cuộc đời: Có nhiều nghệ sĩ ít tài năng hơn Kelebek nhưng thừa sức thả trọn tâm hồn cho nghệ thuật.

Do cần phải đền bù cho những khiếm khuyết của mình, Kelebek rất muốn chứng minh rằng cậu ta đã hiến mình cho nghệ thuật. Cũng như những nhà tiểu họa ngốc nghếch chuyên vẽ trên móng tay và hạt gạo những bức tranh hầu như không thể thấy được bằng mắt trần, cậu ta mải mê chú ý đến những chi tiết tỉ mỉ và tinh tế. Tôi có lần hỏi cậu ta có bị cuốn theo tham vọng này không, một điều đã làm mù mắt nhiều nhà minh họa ở tuổi rất trẻ, bởi vì cậu ta xấu hổ với tài năng tột cùng mà Allah đã ban cho cậu ta. Chỉ những nhà minh họa tầm thường mới vẽ từng chiếc lá của một cội cây trên một hạt gạo hòng trở nên nổi tiếng và quan trọng trong con mắt một rừng người bảo trợ.

Ở Kelebek có cái thiên hướng thiết kế và minh họa để mang lại niềm vui cho người khác chứ không phải cho chính mình, cái nhu cầu làm hài lòng người khác đến mức không thể kiểm soát được khiến cậu ta, hơn bất kỳ ai khác, trở thành nô lệ cho lời khen ngợi. Và hệ quả tất nhiên từ đó là Kelebek, vốn dĩ không kiên định, chỉ muốn bảo đảm chỗ đứng cho mình bằng việc trở thành Trưởng ban Trang trí. Chính Siyah đã nêu lên vấn đề này.

‘Phải,” tôi nói, “ta biết cậu ta đang dự định sẽ kế tục tôi sau khi tôi chết.”

“Sư phụ có nghĩ điều này sẽ đưa anh ta đến chỗ giết những anh em đồng nghiệp của mình không?”

“Có thể. Cậu ta là một bậc thầy vĩ đại, nhưng cậu ta không ý thức về điều này, và cậu ta không thể quên hết mọi thứ khi vẽ.”

Tôi nói điều này, rồi ngay đó tôi hiểu ra rằng thực tình tôi cũng muốn Kelebek đảm nhiệm việc lãnh đạo xưởng vẽ đó sau tôi. Tôi không thể tin cậy Zeytin, còn Leylek rốt cuộc cũng sẽ vô tình trở thành nô lệ cho phong cách Venice. Nhu cầu của Kelebek muốn được người ta ngưỡng mộ - tôi khó chịu trước ý nghĩ rằng cậu ta có thể giết người - sẽ đóng vai trò thiết yếu cả trong việc quản lý xưởng vẽ lẫn trong việc cư xử với Đức vua. Chỉ có sự nhạy bén của Kelebek và niềm tin vào bảng màu của riêng cậu ta mới có thể cưỡng lại được nghệ thuật Venice vốn đánh lừa người xem bằng việc cố mô tả bản thân thực tế thay vì biểu tượng của nó, với mọi chi tiết của nó: những bức tranh, kể cả phần bóng, vẽ những hồng y, chiếc cầu, xuồng chèo, giá cắm nến, nhà thờ và chuồng ngựa, bò đực và những bánh xe ngựa, cứ như tất cả đám đó đều quan trọng như nhau đối với Allah.

“Có lúc nào sư phụ đến thăm anh ta mà không báo trước như sư phụ đã làm với những người khác chưa?”

“Bất cứ ai nhìn vào tác phẩm của Kelebek sẽ nhanh chóng cảm thấy rằng cậu ta hiểu giá trị của tình yêu cũng như ý nghĩa của niềm vui và nỗi buồn chân thành. Nhưng cũng như mọi người yêu màu sắc khác, cậu ta cứ trôi theo những cảm xúc của mình và bất nhất: Bởi vì ta quá mê tài năng phi thường mà Thượng đế ban tặng cho cậu ta, sự nhạy cảm màu sắc của cậu ta, nên ta chú ý kỹ đến cậu ta lúc trẻ và biết mọi thứ cần biết về cậu ta. Dĩ nhiên trong những tình huống như thế, những nhà tiểu họa khác nhanh chóng trở nên đố kỵ, mối quan hệ thầy trò trở nên căng thẳng và bị tổn hại. Có nhiều giây phút đầy yêu thương trong đó Kelebek không sợ dù người ta nói gì đi nữa. Mới đây, vì cậu ta cưới cô con gái xinh đẹp của người bán trái cây hàng xóm, nên ta không còn cảm thấy khao khát đi gặp cậu ấy nữa, mà dù có cơ hội thì ta cũng không đi.”

“Có lời đồn rằng cậu ta cấu kết với những tín đồ của Hoja xứ Erzurum,” Siyah nói. “Họ nói anh ta có khả năng kiếm được rất nhiều nếu Hoja và người của ông ta tuyên bố tác phẩm nào đó là không phù hợp với đạo giáo, và do đó cấm sách của chúng ta vốn vẽ những trận đánh, vũ khí, những cảnh đẫm máu và những nghi lễ thường lệ, ấy là chưa kể những cuộc diễu hành gồm đủ hạng người từ đầu bếp đến nhà ảo thuật, từ tín đồ khổ tu cho đến vũ công, từ người chế món thịt nướng cho đến thợ khóa và giới hạn chúng ta trong những đề tài và hình thức của các bậc thầy Ba Tư xưa.”

“Thậm chí nếu chúng ta trở lại một cách khéo léo và thắng lợi với những bức tranh diệu kỳ của thời đại Tamerlane, thậm chí nếu chúng ta trở lại cuộc sống và thiên hướng đó trong mọi chi tiết vụn vặt của nó - như Leylek đầy hứa hẹn có thể làm tốt nhất sau ta - thì suy cho cùng, mọi thứ rồi sẽ bị lãng quên,” tôi nói một cách tàn nhẫn, “bởi vì mọi người sẽ muốn vẽ giống như người Âu.”

Tôi thực sự tin những lời đáng nguyền rủa này ư?

“Enishte của tôi cũng tin giống như vậy,” Siyah khiêm tốn thú nhận, “nhưng nó làm ông cảm thấy đầy hy vọng.”

Những phẩm chất của Leylek (Cò)

Tôi từng thấy anh ta ký tên mình là Họa sĩ phạm tội Mustafa Chelebi. Không quan tâm đến liệu anh ta có hoặc phải có một phong cách hay không, liệu phong cách đó có phải được đồng hóa với một chữ ký không hay là vẫn nặc danh như những bậc thầy xưa, và liệu có phải một tác phong khiêm nhường thì đòi hỏi người ta làm thế hay không, anh ta chỉ ký tên mình với một nụ cười và động tác đắc thắng.

Anh ta can đảm tiếp bước con đường mà tôi đã dọn cho anh ta và cặm cụi làm hiện ra giấy những gì không ai trước anh ta từng làm được. Giống như tôi, anh ta cũng sẽ theo dõi những thợ thổi thủy tinh tài ba xoay trở gậy và thổi thủy tinh chảy trong lò để làm ra bình đẳng nước xanh lơ và những cái chai xanh lá cây; anh ta nhìn da, kim và những khuôn gỗ của thợ giày đang cúi mình say mê chăm chú bên những chiếc giày và ủng họ làm; một chiếc xích đu ngựa tạo ra một đường cong duyên dáng trong một ngày lễ hội; một máy ép đang ép dầu từ hạt; việc bắn đại bác vào kẻ thù của chúng ta; những con ngựa già và nòng súng. Anh ta nhìn những thứ này và vẽ chúng mà không phản bác rằng những bậc thầy xưa thời Tamerlane, hay những nhà minh họa truyền thuyết xứ Tabriz và Kazvin, đã không hạ mình làm thế. Anh ta là nhà tiểu họa Hồi giáo đầu tiên tham gia chiến tranh và trở về an toàn lành lặn, đang chuẩn bị cho cuốn Zafar-nama ([8]) mà anh ta sẽ minh họa sau này. Anh ta là người đầu tiên chú tâm nghiên cứu những pháo đài, đại bác, quân đối phương, lũ ngựa với những vết thương chảy máu, binh lính bị thương đang vật lộn giành mạng sống và những thi hài - tất cả đều nhằm mục đích vẽ lại.

Tôi nhận ra tác phẩm của anh ta qua chủ đề hơn là qua phong cách của anh ta, và qua việc anh ta chú ý đến những chi tiết ít người biết tới hơn là qua chủ đề của anh ta. Tôi có thể hoàn toàn an tâm giao phó cho anh ta thực hiện mọi khía cạnh của một bức tranh, từ việc sắp xếp các trang và bố cục của trang đến việc tô màu những chi tiết tầm thường nhất. Về mặt này, anh ta có quyền kế nhiệm tôi trong vai trò Trưởng ban Trang trí. Nhưng anh ta quá tham vọng và tự phụ, và quá hạ mình đối với những nhà minh họa khác đến độ anh ta không bao giờ có thể quản lý được nhiều người và sẽ đi đến chỗ mất tất cả bọn họ. Thực ra, nếu chức vụ đó được giao lại cho anh ta, thì với sự cần cù khó tin, anh ta sẽ chỉ tự mình làm hết mọi tranh minh họa trong xưởng mà thôi. Nếu anh ta chú tâm đến một nhiệm vụ như thế, anh ta thực sự có thể thành công. Anh ta là một bậc thầy vĩ đại. Anh ta biết tài hoa của mình. Anh ta ngưỡng mộ chính mình. Thật hay cho anh ta.

Một lần bất ngờ đến thăm anh ta, tôi bắt gặp anh ta đang làm việc. Trên bàn làm việc, bàn giấy và những tấm nệm la liệt những trang giấy anh ta đang làm: tranh minh họa cho các pho sách của Đúc vua, cho tôi, cho những cuốn sách trang phục tầm thường mà anh ta vẽ vội cho những du khách châu Âu ngu ngốc hăm hở coi thường chúng tôi, một trang trong bức tranh bộ ba mà anh ta đang làm cho một tổng trấn vốn đánh giá cao anh ta, những hình ảnh để dán vào cuốn sưu tập, những trang được làm theo sở thích của riêng anh ta, và thậm chí bức vẽ một cảnh giao hợp tục tĩu. Leylek cao, gầy đang di chuyển từ bậc minh họa này sang bức kế tiếp như một con ong giữa vườn hoa, hát những bài dân ca, bẹo má cậu thợ học việc đang pha màu và thêm một nét hài hước vào bức tranh anh ta đang làm trước khi đưa cho tôi xem với nụ cười toại nguyện. Không như những nhà tiểu họa khác của tôi anh ta không tạm ngừng công việc để thể hiện lòng kính trọng theo nghi thức khi tôi đến; trái lại, anh ta vui vẻ trình diễn việc sử dụng nhanh nhẹn tài năng thiên phú và kỹ năng mà anh ta có được nhờ lao động vất vả (anh ta có thể cùng một lúc làm công việc của bảy, tám nhà tiểu họa). Bây giờ tôi bắt gặp mình đang thầm nghĩ nếu tên giết người ghê tởm là một trong ba nhà minh họa tài hoa của tôi, thì tôi cầu xin Thượng đế đó là Leylek. Trong suốt giai đoạn anh ta học việc, hình ảnh anh ta xuất hiện trước cửa nhà tôi mỗi sáng thứ sáu không kích động tôi như Kelebek đã làm được vào ngày của cậu ta.

Vì anh ta chú ý đồng đều đến từng chi tiết lạ thường, mà không có nguyên lý phân biệt nào trừ việc chi tiết đó nhìn thấy được nên phương pháp mỹ học của anh ta giống với phương pháp của những bậc thầy Venice. Nhưng không như họ, Leylek đầy tham vọng của tôi không nhìn mà cũng không vẽ những khuôn mặt người như một điều gì độc đáo hoặc riêng biệt. Tôi cho rằng, bởi anh ta hoặc công khai hoặc bí mật xem thường mọi người nên anh ta không coi những khuôn mặt là quan trọng. Tôi chắc chắn rằng Enishte quá cố đã không chỉ định anh ta vẽ khuôn mặt Đức vua.

Thậm chí khi vẽ một đề tài cục kỳ quan trọng, anh ta không kìm được chuyện vẽ thêm một con chó hoài nghi đâu đó nằm xa cảnh trí chính của bức tranh, hoặc vẽ một tên ăn xin xấu xa mà sự khốn khổ của hắn làm giảm vẻ giàu sang và xa hoa của buổi lễ. Anh ta có đủ tự tin để xem thường mọi bức minh họa anh ta đã làm, đề tài của nó và bản thân anh ta.

“Vụ giết Zarif Kính mến giống như kiểu những anh em của Yusuf ném ông ta xuống giếng vì đố kỵ,” Siyah nói. “Và cái chết của Enishte của tôi giống vụ sát hại Husrev bất ngờ bằng bàn tay của con trai ông ta, kẻ đem lòng yêu Shirin, vợ của Husrev. Mọi người đều nói rằng Leylek thích vẽ những cảnh chiến tranh và những mô tả khủng khiếp về cái chết.”

“Bất cứ ai nghĩ rằng nhà minh họa thì tương đồng với đề tài của bức tranh anh ta vẽ đều không hiểu được ta hoặc những nhà tiểu họa tài hoa của ta. Cái làm chúng ta bị phơi bày không phải là đề tài, thứ mà người khác đặt chúng ta làm - dù sao thì những người này luôn luôn giống nhau - mà là những xúc cảm nhạy bén ẩn giấu chúng ta đưa vào tranh trong khi thể hiện đề tài đó: Một tia ánh sáng có vẻ như tỏa chiếu ra từ bức tranh, một sự do dự hoặc giận dữ rõ rệt mà người ta nhận ra trong cách bố trí các nhân vật, ngựa và cây cối, niềm khao khát và nỗi buồn tỏa ra từ một cây bách khi nó vươn tới bầu trời, sự cam chịu và kiên trì mộ đạo mà chúng ta đưa vào tranh minh họa trong khi trang trí những tấm đá lát tường với nhiệt tình vốn có thể khiến chúng ta mù...Phải, những thứ đó là dấu vết ẩn giấu của chúng ta chứ không phải những con ngựa hoàn toàn y hệt nhau. Khi một họa sĩ vẽ sự cuồng nộ và tốc độ của một con ngựa, anh ta không vẽ sự cuồng nộ và tốc độ của anh ta; mà qua việc cố thể hiện một con ngựa hoàn hảo, anh ta để lộ tình yêu đối với sự phong phú của cuộc đời này và kẻ sáng tạo ra nó, phô bày những màu sắc của niềm đam mê cuộc sống - chỉ vậy và không có gì hơn.”

CHƯƠNG 42
TÔI LA SIYAH

Nhiều trang bản thảo nằm trước mặt tôi và Sư phụ Osman vĩ đại - một số trang với văn bản được chép tử tế và đã sẵn sàng để khâu lại một số thì chưa tô màu hoặc chưa hoàn chỉnh vì lý do nào đó khi chúng tôi bỏ cả buổi chiều để đánh giá các tay tiểu họa bậc thầy và các trang trong pho sách do Enishte của tôi làm, và ghi chép các đánh giá của chúng tôi. Chúng tôi cứ nghĩ mình đã gặp người cuối cùng trong số những thuộc hạ đáng kính nhưng thô lậu của viên Chỉ huy, người đã mang cho chúng tôi những trang sách thu được từ các nhà tiểu họa và thư pháp sau khi đã xông vào lục soát nhà họ (một số trang chả liên quan gì tới hai cuốn chúng tôi đang làm, một số khác còn cho thấy các nhà tiểu họa cũng đang lén lút nhận thêm việc ở ngoài cung điện để kiếm thêm ít đồng bạc), thì người tự tin nhất trong bọn họ bước tới chỗ vị thầy lừng lẫy và lôi từ trong áo choàng ra một tờ giấy.

Ban đầu tôi chẳng để ý, cứ nghĩ đó là đơn thỉnh nguyện của một ông bố nào đó đang muốn xin cho con được học việc bằng cách tiếp cận càng nhiều trưởng ban và trưởng nhóm càng tốt.

Qua ánh sáng nhợt nhạt tràn vào trong phòng, tôi có thể biết nắng sớm đã tắt. Để mắt được nghỉ ngơi, tôi thực hành một bài tập mà các lão họa sư ở Shiraz đã khuyên dân tiểu họa nên tập để ngăn chứng mù lòa sớm, nghĩa là, tôi cố nhìn trống rỗng ra xa mà không chú mục vào đâu cả. Chính lúc đó tôi rùng mình nhận ra cái màu sắc ngọt ngào và những nếp gấp đúng tim của tờ giấy sư phụ tôi đang cầm trên tay mà nhìn chăm chăm với vẻ như không tin vào mắt mình. Cái này trùng khớp y hệt với những lá thư mà Shekure đã gửi cho tôi qua Esther. Tôi định thốt lên “trùng hợp làm sao”, như một thằng ngốc thì nhận ra rằng, giống như lá thư thứ nhất của Shekure, nó đi kèm với một bức vẽ trên giấy thô.

Sư phụ Osman giữ bức vẽ lại, ông đưa tôi lá thư mà đến lúc đó tôi mới bối rối nhận ra là của Shekure.

Anh Siyah thân yêu.

Em bảo Esther đi hỏi thăm Kalbiye, cô vợ góa của Ngài Zarif Kính mến. Khi ở đó Kalbiye có cho Esther xem trang giấy có minh họa mà em gửi cho anh đây. Sau đó em có tới nhà Kalbiye, làm mọi cách trong khả năng em để thuyết phục cô ấy rằng đưa cho em bức tranh là điều có lợi cho cô ấy nhất. Trang này nằm trên xác của Zarif Kính mến khi người ta mang ông từ giếng lên. Kalbiye thề rằng không hề có ai thuê  chồng cô ta - cầu cho ông ấy được an nghỉ trong ánh sáng thần thánh - vẽ ngựa cả. Vậy thì ai đã vẽ chúng? Tay chân của ngài Chỉ huy đã lục soát trong nhà. Em gửi thư này vì vấn đề này hẳn có ý nghĩa quan trọng cho cuộc điều tra. Các con kính cẩn hôn tay anh.

Vợ anh, Shekure.

Tôi cẩn thận đọc lại ba chữ cuối của lá thư đẹp đẽ này đến ba lần cứ như đang ngắm ba đóa hồng nhung tuyệt vời trong một khu vườn. Tôi chồm tới nhìn trang giấy mà Sư phụ Osman đang xem xét với kính phóng đại trên tay. Tôi lập tức nhận ra rằng những hình dáng với màu mực đã bị nhòe đi là những con ngựa được phác ra chỉ trong một động tác như các lão sư phụ vẫn làm cho quen tay.

Sư phụ Osman, vốn đã đọc lá thư của Shekure mà không bình luận gì, lên tiếng hỏi: “Ai vẽ cái này?” Rồi ông tự trả lời: “Dĩ nhiên, cũng cái tay họa sĩ đã vẽ ngựa cho Enishte quá cố.”

Sao ông có thể chắc chắn như vậy? Hơn nữa, chúng tôi tuyệt đối không thể biết chắc ai đã vẽ ngựa cho cuốn sách. Chúng tôi lấy hình ngựa trong số chín trang sách ra và bắt đầu xem xét.

Đó là một con ngựa màu nâu đỏ, đẹp, đơn giản, mà bạn không thể rời mắt được. Tôi có thực lòng khi nói thế không? Tôi có rất nhiều thời gian nhìn ngắm con ngựa này với Enishte của tôi và cả sau đó, khi tôi còn lại một mình với những bức minh họa này, nhưng lúc đó tôi không nghĩ nhiều về nó. Đó là một con ngựa đẹp, nhưng bình thường. Nó bình thường đến độ chúng tôi thậm chí không thể xác định ai đã vẽ. Nó không phải màu hung đỏ đích thực, mà có vẻ nâu sậm hơn; cũng có loáng thoáng ánh đỏ trên lông nó. Đó là mẫu con ngựa tôi thường thấy trong những sách khác và những minh họa khác mà tôi biết là được vẽ như máy và tay họa sĩ không buồn dừng lại để xem xét gì cả.

Chúng tôi cứ nhìn chăm chú con ngựa như thế cho đến khi phát hiện ra nó ẩn chứa một bí mật. Tuy nhiên, lúc này tôi có thể thấy một vẻ đẹp trong con ngựa tỏa ra như hơi nóng bốc lên trước mắt tôi, và trong đó có một sức mạnh khơi dậy niềm khao khát được sống, được học hỏi và ôm trọn cả thế giới. Tôi tự hỏi, tay tiểu họa với thần bút có thể miêu tả con ngựa theo cách nhìn của đấng Allah thế kia là ai vậy? Cứ như tôi đã đột nhiên quên mất hắn ta chẳng là gì hơn một kẻ sát nhân đê tiện. Con ngựa trước mắt tôi cứ như một con ngựa thật, nhưng đâu đó trong tâm trí tôi cũng biết rằng đó là một bức minh họa; việc nằm lọt giữa hai ý nghĩ đó quả là thích thú và gợi lên trong tôi ý thức về sự trọn vẹn và hoàn hảo.

Trong một lúc, chúng tôi so sánh những con ngựa nhòe nhoẹt được vẽ để thực tập với con ngựa được làm cho cuốn sách của Enishte, rồi sau cùng quyết định rằng chúng là do cùng một bàn tay vẽ ra. Nhưng tư thế kiêu hãnh của con ngựa nòi mạnh mẽ và thanh tú ấy gợi tới sự tĩnh hơn là sự động. Tôi ngồi đó chiêm ngưỡng con ngựa trong cuốn sách của Enishte.

“Đây là con ngựa thật kỳ lạ,” tôi nói, “nó khiến ta bị thôi thúc muốn lấy ra một tờ giấy và sao chép lại nó, rồi vẽ đến từng chi tiết cuối cùng.”

“Lời khen cao nhất cậu có thể dành cho một họa sĩ là nói rằng tác phẩm của anh ta đã khơi dậy ở cậu nhiệt tình muốn vẽ,” Sư phụ Osman nói. “Nhưng lúc này hãy quên tài năng của hắn đi mà cố tìm ra lai lịch của con quỷ dữ này. Có bao giờ Enishte Kính mến, cầu cho ông ta được yên nghỉ, nói đến loại chuyện nào cần đi kèm bức vẽ kiểu này không?”

“Không. Nghe ông ấy nói đây là một trong những con ngựa từng sống tại những miền đất do Quốc vương hùng mạnh của ta cai trị. Đó là một con ngựa đẹp: một con của dòng Ottoman. Nó là biểu tượng chứng tỏ cho Pháp quan Venice thấy sự giàu có và các lãnh thổ do Quốc vương ta cai quản. Nhưng mặt khác, cũng như với tất cả những gì do các họa sư Venice miêu tả, con ngựa này cũng có vẻ giống thật hơn con ngựa sinh ra từ ý của Thượng đế, giống một con ngựa được nuôi trong một chuồng ngựa nào đó với một tay chăn ngựa nào đó ở Istanbul để Pháp quan Venice phải tự nhủ rằng, ‘Nếu như các nhà tiểu họa Ottoman đã đạt tới chỗ nhìn thế giới giống như chúng ta, thì những người Ottoman cũng đã đi tới chỗ giống chúng ta’ rồi từ đó chấp nhận quyền lực và tình hữu nghị của Quốc vương ta. Bởi nếu ta bắt đầu vẽ một con ngựa khác đi, ta sẽ bắt đầu nhìn thế giới khác đi. Mặc cho những đặc thù của nó, con ngựa này đã được thể hiện theo phong cách của những họa sư xưa.”

Chúng tôi càng ngẫm nghĩ về con ngựa chừng nào thì trong mắt tôi nó càng trở nên đẹp đẽ và quý giá chừng ấy. Miệng nó hơi hé ra, ta thấy được cái lưỡi của nó giữa hai hàm răng. Đôi mắt nó tỏa sáng. Bốn chân nó mạnh mẽ và thanh tú. Liệu một bức vẽ sẽ trở nên huyền thoại nhờ nội dung của nó hay nhờ những điều người ta nói về nó? Sư phụ Osman vẫn di chuyển cái kính phóng đại rất chậm rãi trên bức vẽ con vật.

“Con ngựa này muốn truyền đạt điều gì vậy?” Tôi hỏi với nhiệt tình ngây thơ. “Tại sao con ngựa này tồn tại? Ôi ngựa ơi! Có gì ở con ngựa này? Tại sao con ngựa này kích thích tôi đến vậy?”

“Những tranh vẽ cũng như sách làm theo lệnh các tiểu vương, đại vương và tổng trấn đều biểu thị sức mạnh của họ”, Sư phụ Osman nói. “Các vị ấy thấy những công trình này là đẹp đẽ, với bao vàng dát đắt tiền và tổn hao công sức cũng như thị lực bởi chúng là bằng chứng cho sự giàu có của kẻ trị vì. Cái đẹp của một bức vẽ là rất quan trọng vì nó chứng tỏ rằng tài năng của nhà tiểu họa là hiếm hoi và đắt giá cũng như vàng được dùng để làm ra bức tranh vậy. Người khác sẽ thấy bức vẽ một con ngựa là đẹp bởi vì nó trông giống ngựa, nó là một con ngựa theo ý Thượng đế hay một con ngựa hoàn toàn tưởng tượng; hiệu quả của độ chân xác là tùy ở tài năng. Với bọn ta, cái đẹp trong minh họa bắt đầu ở sự tinh tế và phong phú của ý nghĩa. Dĩ nhiên, việc phát hiện ra con ngựa này không chỉ hé lộ chính nó mà còn hé lộ cả bàn tay của kẻ sát nhân, dấu hiệu của điều khủng khiếp đó, nó sẽ làm tăng ý nghĩa của bức vẽ. Rồi tới chuyện hiểu ra rằng không phải hình ảnh của con ngựa, mà bản thân con ngựa mới là đẹp; tức là, nhìn bức minh họa con ngựa không phải như một bức minh họa nữa, mà như một con ngựa thực sự.”

“Nếu sư phụ nhìn bức vẽ này cứ như đang nhìn một con ngựa, thế thì sư phụ thấy cái gì ở đó?”

“Nhìn vóc dáng con ngựa này, ta có thể nói nó không phải giống ngựa lùn, mà là một con ngựa đua giỏi, xét theo độ dài và độ cong của cái cổ và ta thấy độ phẳng ở cái lưng của nó là rất thích hợp cho những chuyến đi dài. Nhìn bốn cái chân mảnh khảnh của nó ta có thể nghĩ rằng nó lanh lẹ và khôn ngoan như một con ngựa Ả Rập, nhưng phần thân của nó lại dài và lớn quá không thể là giống Ả Rập được. Vẻ thanh tú của bốn chân gợi tới điều mà học giả Fadhan xứ Bukhara đã nói về những giống ngựa quý trong cuốn “Sách về ngựa” của ông ta, rằng nếu gặp một con sông nó sẽ dễ dàng nhảy qua không chút giật mình hay sợ hãi. Ta thuộc nằm lòng những điều ly kỳ viết về những giống ngựa tốt nhất trong cuốn này, vốn được bác sĩ thú y hoàng gia xứ mình là Fuyuzi dịch lại rất hay, và ta dám nói thẳng với cậu rằng từng chữ trong đó đều đúng với con ngựa nâu đỏ trước mắt chúng ta đây: Một con ngựa tốt thì phải có cái mặt đẹp và đôi mắt của loài linh dương; tai của nó phải thẳng như cây sậy và tách xa nhau; một con ngựa tốt cũng phải có răng nhỏ, trán tròn trịa và lông mày thưa; nó phải cao, lông dài, bụng ngắn, mũi nhỏ, vai nhỏ, lưng phẳng và rộng; đùi nó phải tròn trịa, cổ dài, ngực nở, mông lớn, mé trong bắp đùi phải đầy đặn. Con ngựa như vậy phải trông kiêu hãnh và trang nhã và khi bước đi, trông tướng nó cứ như đang chào mọi người hai bên”

“Vậy chính là con này rồi,” tôi nói, nhìn vào bức vẽ con ngựa đầy ngạc nhiên.

“Chúng ta đã phát hiện con ngựa này,” Sư phụ Osman nói với nụ cười chua chát cố hữu, “nhưng tiếc thay nó chẳng giúp gì được cho chúng ta trong việc tìm ra lai lịch tay họa sĩ, bởi vì ta biết không một nhà tiểu họa hiểu biết nào vẽ ngựa mà lại dùng một con ngựa thật làm mẫu. Những tay tiểu họa của ta, đương nhiên, sẽ vẽ con ngựa liền một mạch mà chỉ theo trí nhớ. Để rõ hơn, ta nhắc lại cho cậu nhớ rằng hầu hết bọn họ đều bắt đầu vẽ phác hình con ngựa từ móng ngựa trở lên.”

“Làm vậy không phải để con ngựa trông có vẻ đứng vững chãi trên mặt đất sao?” Tôi nói như cố giải thích.

“Như Jemalettin xứ Kazvin có viết trong cuốn minh họa ngựa, người ta chỉ có thể hoàn tất một bức vẽ ngựa bắt đầu từ móng trở lên nếu người ta có cả một con ngựa trong trí nhớ. Đương nhiên để có được một con ngựa qua rất nhiều suy tư và hồi tưởng, hoặc buồn cười hơn, bằng cách nhìn đi nhìn lại con ngựa làm mẫu, người ta chắc hẳn sẽ vẽ từ đầu xuống cổ rồi từ cổ xuống thân mình. Ta nghe nói có những nhà minh họa ở Venice hoan hỉ bán cho mấy ông thợ may và bán thịt những bức như vậy về mấy con ngựa thồ tầm thường trên phố được vẽ một cách lờ mờ theo kiểu vẽ thử rồi sửa. Một bức minh họa như vậy chẳng liên quan chút nào đến ý nghĩa của thế giới này hay cái đẹp trong sự sáng tạo của Thượng đế. Nhưng ta tin rằng ngay cả những họa sĩ tầm thường cũng phải biết, một bức minh họa đích thực thì không thể vẽ theo những gì con mắt nhìn thấy trong một lúc nào đó mà phải vẽ theo những gì bàn tay nhớ được và đã quen thuộc. Người họa sĩ luôn cô đơn trước trang giấy. Chỉ với lý do này thôi hắn đã phải luôn luôn lệ thuộc vào trí nhớ. Bây giờ, chẳng còn gì cho chúng ta làm ngoài việc sử dụng ‘phương pháp gái điếm’ để khám phá chữ ký ẩn giấu trong con ngựa này, vốn được vẽ theo trí nhớ qua động tác mau lẹ và khéo léo của bàn tay. Hãy xem kỹ hơn nào.”

Ông lại tiếp tục di chuyển chậm rãi tấm kính phóng đại trên hình vẽ con ngựa, cứ như đang cố gắng khám phá ra vị trí kho báu trên một tấm bản đồ xưa được thể hiện một cách tỉ mỉ trên tấm da dê.

“Vâng,” tôi nói, như một đệ tử chịu áp lực muốn đạt được một phát hiện mau chóng và thông minh khả dĩ tạo ấn tượng với sư phụ mình. Mình có thể so sánh màu sắc và nét thêu trên tấm chăn lót yên ngựa trong bức này với những bức vẽ khác.”

“Những nhà tiểu họa bậc thầy của ta thậm chí không thèm thò cọ tới những mẫu hoa văn đó nữa kìa. Mấy đứa học việc sẽ vẽ áo quần, thảm và chăn nệm trong tranh. Có lẽ Zarif Kính mến quá cố chắc đã làm những chuyện ấy. Nên bỏ qua ý đó đi.”

“Thế còn tai thì sao?” Tôi nói với cảm giác bối rối. “Cái tai của bọn ngựa...”

“Không. Mấy cái tai này không thay đổi gì cả từ thời Tamerlane; nó cũng giống như lá sậy vậy thôi, thứ mình quá rành rồi.”

Tôi định nói thế còn cách tết bờm ngựa và cách mô tả từng sợi lông của nó, nhưng lại im lặng, không hào hứng chút nào với trò chơi sư phụ - đệ tử học việc này. Nếu tôi là đứa học việc, tôi phải biết vị trí của mình.

“Nhìn đây này,” Sư phụ Osman nói với cái vẻ chán chường nhưng vẫn chăm chút của một bác sĩ đang chỉ ra một hạch mủ cho đồng sự xem. “Cậu thấy không?” Ông di chuyển kính phóng đại trên đầu con ngựa và chậm rãi dời nó ra xa bề mặt bức vẽ. Tôi cúi đầu xuống để nhìn rõ những nét được phóng to qua tấm kính.

Mũi con ngựa thật khác lạ: đó là hai lỗ mũi của nó.

“Thấy không?” Sư phụ Osman hỏi.

Để chắc chắn về điều đã nhìn thấy, tôi nghĩ mình phải chú mục sau tấm kính. Khi Sư phụ cũng làm như vậy thì má chúng tôi chạm vào nhau sau thấu kính mà lúc này đã cách xa bức tranh. Nhất thời tôi giật mình khi cảm thấy độ thô nhám của hàm râu và cái má mát lạnh của ông trên mặt tôi.

Một lát im lặng. Tưởng như một điều gì đó kỳ diệu đang xảy ra trong bức tranh chỉ cách cặp mắt mệt mỏi của tôi độ gang tay, và chúng tôi chứng kiến điều đó với cảm giác vừa kính cẩn vừa sợ hãi.

“Có chuyện gì với cái mũi đâu?” Mãi một lúc sau tôi mới thì thào thành lời.

“Hắn ta vẽ cái mũi kỳ cục quá,” Sư phụ Osman nói mà không rời mắt khỏi trang giấy.

“Có lẽ hắn ta lỡ tay chăng? Một sai sót phải không?”

Chúng tôi vẫn xem xét cách thể hiện cái mũi độc đáo, khác thường ấy.

“Phải đây là phong cách mượn hứng từ Venice mà mọi người. kể cả những họa sư Trung Hoa, đã bắt đầu nói đến đó không?” Sư phụ Osman hỏi một cách đùa cợt.

Tôi chìm hẳn vào bực bội, cứ nghĩ rằng ông thầy đang chế giễu Enishte quá cố của tôi: “Enishte của tôi, cầu ông được an nghỉ, thường nói rằng mọi sai sót đều không phát sinh từ sự kém khả năng hay tài hoa mà từ chiều sâu tâm hồn của nhà tiểu họa, không nên coi chúng là sai sót mà hãy coi là phong cách.”

Cho dù nó xảy ra thế nào, do chính bàn tay họa sĩ hay do con ngựa, thì cũng chẳng có manh mối gì, ngoài cái mũi này, về lai lịch của kẻ đê tiện đã sát hại Enishte. Bởi vì, ngoài việc nhận ra cái lỗ mũi, chúng tôi còn gặp khó khăn trong việc nhận diện cái mũi của những hình ngựa đã nhòe mực trên trang giấy tìm được trên xác Zarif Kính mến.

Chúng tôi bỏ nhiều giờ lục lại những bức vẽ ngựa mà các nhà tiểu họa yêu dấu của Sư phụ Osman đã làm cho nhiều cuốn khác nhau trong mấy năm gần đây, mong tìm ra nét bất thường tương tự ở mũi của chúng. Vì cuốn Sur-nama vốn đang được hoàn chỉnh, đã mô tả các đoàn thể và phường hội đi bộ diễu hành trước mắt Quốc vương, nên có rất ít hình ngựa trong số hai trăm năm mươi minh họa cho cuốn đó. Các phái viên được cử tới xưởng làm sách mỹ thuật, nơi lưu trữ một số sách hình, mấy cuốn sổ ghi chép theo khổ chuẩn và những pho sách mới hoàn tất, cũng như tới các phòng riêng của Quốc vương và hậu cung để có thể mang về mọi cuốn sách chưa được cất giữ và giấu kín trong kho tàng của cung điện, toàn bộ công việc này dĩ nhiên đều được Quốc vương cho phép.

Trong một minh họa hai trang của pho Zafar-nama tìm được trong phòng của một hoàng tử trẻ, vẽ cảnh tang lễ của Quốc vương Kanuni Suleyman, người đã chết trong trận vây hãm Szegetvar, chúng tôi trước hết xem xét con ngựa hung đỏ với một vệt lang trắng, con ngựa xám có đôi mắt linh dương kéo cỗ xe tang lễ và những con ngựa rầu rĩ khác có nệm lót yên và bộ yên thêu chỉ vàng rất ngoạn mục. Kelebek, Zeytin và Leylek đã minh họa những con ngựa này. Dù là ngựa đang kéo cỗ xe tang lễ có bánh cỡ lớn hay đang đứng nghiêm với đôi mắt đẫm lệ nhìn đăm đăm ông chủ của chúng được liệm trong vải đỏ, tất cả đều có cùng tư thế trang nhã vay mượn từ các lão họa sư ở Herat, nghĩa là một chân trước kiêu hãnh đưa ra, còn chân kia đứng vững chãi trên mặt đất. Mọi cái cổ của bọn chúng đều dài và cong, đuôi cột lại, bờm được cắt tỉa và chải mượt, nhưng chẳng con nào có nét kỳ lạ mà chúng tôi đang tìm kiếm. Nét đặc biệt ấy cũng không thấy ở hàng trăm con ngựa mang trên lưng các sĩ quan chỉ huy, các học giả và hoja, những người dự tang lễ hiện đang đứng nghiêm trang trên những mỏm đồi xung quanh để tỏ lòng kính viếng Quốc vương Suleyman.

Có gì đó của sự buồn rầu trong đám tang u ám này đã lan qua chúng tôi. Thật bối rối cho chúng tôi khi thấy bản thảo có minh họa này, vốn đã tiêu tốn rất nhiều công phu của Sư phụ Osman và các tay tiểu họa, lại bị đối xử tồi tệ, và các cô trong hậu cung, khi chơi trò chơi với các hoàng tử, đã ghi chép và đánh dấu rất nhiều chỗ trên trang giấy. Bên cạnh cội cây nơi ông nội của Quốc vương chúng tôi săn bắn có ghi những đòng chữ xiên xẹo “Đức ngài cao quý của tôi, tôi yêu ngài và chờ đợi ngài với sự kiên trì của gốc cây này.” Và như thế, với con tim đầy cảm giác thất bại và rầu rĩ, chúng tôi lần mò qua những pho sách huyền thoại mà tôi đã từng nghe đến việc tạo tác ra chúng nhưng chưa hề được thấy.

Trong quyển thứ hai của bộ Huner-nama, vốn từng nhận được nét cọ của ba bậc thầy tiểu họa, chúng tôi thấy đằng sau khẩu thần công ầm vang và những lính bộ binh là hàng trăm con ngựa đủ màu sắc, trong đó có những con hung đỏ, xám và xanh đeo áo giáp, bước lóc cóc thành đàn, mang trên lưng những kỵ binh spahi kiêu dũng cầm liễu đao, băng qua những mỏm đồi nhuộm hồng trong một cuộc diễu hành trật tự, nhưng không có cái mũi nào của chúng có sơ suất cả. “Rốt cuộc là sơ suất gì đây hở trời!” Sư phụ Osman sau đó kêu lên trong khi xem xét cổng Ngoại môn Bab-i-Humayun của hoàng cung và bãi duyệt binh Alay Meydani nơi chúng tôi đang có mặt đúng lúc đó. Chúng tôi cũng không phát hiện được dấu vết đang tìm kiếm trên mũi những con ngựa đủ màu sắc của bọn binh sĩ, lính chạy cờ và các Thượng thư Thượng Hội đồng trong bức vẽ này, vốn mô tả hình ảnh bệnh viện ở xa xa về bên phải, Cung Tiếp kiến của Quốc vương, và những hàng cây ở ngoài sân theo một tỷ lệ đủ nhỏ để lọt vào trong bộ khung tranh nhưng vẫn đủ lớn để xứng với tầm quan trọng của chúng trong tâm trí chúng tôi. Chúng tôi xem vua Yavuz Selim ([9]), ông cố nội của Quốc vương chúng tôi, trong thời điểm tuyên chiến với vua của dân Dhulkadirid, dựng lều hoàng gia dọc bờ sông Kuskun và đi săn với bầy chó đen đuôi đỏ, những chú linh dương non nhảy hất mông lên trời và những con thỏ hoảng hốt, trước khi bỏ lại một con báo nằm trong vũng máu, những vết đốm của nó nở rộ như hoa. Cả con ngựa hung đỏ có vết lang trắng của Quốc vương lẫn những con ngựa của những người huấn luyện chim ưng đang chờ đợi với con chim của họ đậu sẵn trên cánh tay, đều không có dấu vết mà chúng tôi đang tìm kiếm.

Cho đến hoàng hôn, chúng tôi đã săm soi hàng trăm con ngựa ra đời từ nét cọ của Zeytin, Kelebek và Leylek trong bốn hoặc năm năm gần đây: từ con ngựa hung có bờm và đuôi trắng và tai to như tai voi của Đại hãn Mehmet Giray xứ Crimea; những con ngựa đen điểm vàng; những con ngựa xám ngả hồng mà chỉ thấy đầu với cổ ló lên sau đỉnh đồi trong trận chiến; những con ngựa của Tổng trấn Haydar, người đã tái chiếm pháo đài Halkul- Vad từ tay bọn ngoại đạo Tây Ban Nha ở Tunisia và những con ngựa hung đỏ và ngựa màu quả hồ trăn của bọn Tây Ban Nha, một con trong số đó bị té chúi đầu xuống trong khi bỏ chạy trước mặt Tổng trấn, một con ngựa ô đã khiến Sư phụ Osman phải nhận xét, “Ta đã bỏ sót con này. Không biết gã nào vẽ vời bất cẩn như thế?”; một con ngựa đỏ lịch sự vểnh tai nghe tiếng đàn luýt của một cậu thị đồng đang chơi dưới gốc cây; con ngựa của Shirin, tên là Shebdiz, cũng e lệ và thanh tú như cô chủ, đang chờ đợi trong khi cô tắm trong hồ dưới ánh trăng; những con ngựa linh hoạt dùng trong những cuộc đấu thương kỵ mã; con ngựa như bão cuốn và anh chàng chăn ngựa xinh trai của nó đã khiến Sư phụ Osman vì lý do nào đó lại nhận xét, “Hồi trẻ ta yêu nó lắm, ta rất mệt”; con ngựa vàng óng màu nắng và có cánh mà đấng Allah đã phái xuống cho tiên tri Elijah để bảo vệ ông này trước cuộc tấn công của bọn ngoại đạo - mà đôi cánh lại bị vẽ nhầm sang cho Elijah; con ngựa xám thuần chủng của Quốc vương Kanuni Suleyman, đầu nhỏ, thân mình to lớn, đang buồn bã nhìn ông hoàng trẻ tuổi dễ thương; những con ngựa bị khích động; những con ngựa phi nước đại; những con ngựa mỏi mệt; những con ngựa xinh xắn; những con ngựa mà không ai để ý; những con ngựa vốn sẽ chẳng bao giờ rời khỏi trang giấy; và những con ngựa đã nhảy qua những đường viền mạ vàng mà thoát khỏi cảnh tù hãm.

Không con nào trong bọn chúng có dấu hiệu mà chúng tôi đang tìm kiếm.

Cho dù vậy, chúng tôi vẫn có thể duy trì một cảm giác hào hứng bền bỉ mặc cho sự mỏi mệt và chán nản chụp xuống chúng tôi: Đôi lúc chúng tôi quên hẳn bọn ngựa mà chìm đắm vào vẻ đẹp của một bức vẽ, vào những màu sắc buộc ta phải nhất thời chịu khuất phục. Sư phụ Osman luôn nhìn vào các bức vẽ - phần lớn là do chính ông vẽ ra, giám sát hoặc tô điểm - vì lòng hoài niệm hơn là ngạc nhiên. “Mấy bức này là của Kasim ở địa bàn của Tổng trấn Kasim!” Có lần ông nói thế, trong khi tay chỉ vào những đóa hoa nhỏ màu tía ở chân dãy lều dã chiến của Quốc vương Suleyman, ông nội của Quốc vương chúng tôi. “Hắn không thể nào là một họa sư được, nhưng trong suốt bốn mươi năm hắn đã lấp đầy những khoảng trống chết của các bức tranh bằng những đóa hoa năm cánh xếp thành một lớp duy nhất này, trước khi hắn bị bất đắc kỳ tử hai năm trước. Ta luôn giao cho hắn vẽ bông hoa nhỏ này vì hắn vẽ nó đẹp hơn bất kỳ ai khác.” Ông im lặng một lát, rồi kêu lên, Thật tội nghiệp, tội nghiệp!”

Với cả linh hồn, tôi nhận ra rằng những lời đó tượng trưng cho sự kết thúc của một thời kỳ.

Bóng tối đã gần như phủ vây chúng tôi thì có một luồng ánh sáng tràn vào phòng. Có tiếng lao xao rối loạn. Trái tim tôi, vốn đã bắt đầu đập như trống, nhận ra ngay lập tức: Đấng cai trị thế giới, Đức Ngài Quốc vương của chúng tôi, đã đột ngột giá lâm.

Tôi phủ phục trước chân Ngài. Tôi hôn gấu hoàng bào của Ngài. Đầu óc tôi quay cuồng. Tôi không dám nhìn vào mắt Ngài.

Nhưng Ngài đã bắt đầu nói chuyện với Sư phụ Osman Trưởng ban Trang trí. Lòng tôi đầy một niềm tự hào sôi nổi khi chứng kiến Ngài nói chuyện với người mà cách đây vài phút vừa cùng tôi ngồi tựa gối vào nhau xem các bức vẽ. Thật không tin được; Đức vua anh minh của chúng tôi hiện đang ngồi ở chỗ tôi vừa ngồi lúc nãy và Ngài đang chăm chú lắng nghe sư phụ tôi giải thích, như tôi vừa nãy đã lắng nghe. Vị Trưởng Ngân khố, người đang ở cạnh Ngài và đầu lãnh nhóm chăn dắt chim ưng cùng một số người khác mà tôi không rõ lai lịch đang canh phòng cẩn mật quanh Ngài và nhìn chăm chú vào những trang sách mở.

Tôi thu hết can đảm nhìn thật lâu vào gương mặt và đôi mắt của đấng Chúa tể thế giới, dù chỉ là liếc trộm. Ngài đẹp đẽ làm sao! Chính trực và nghiêm trang làm sao! Tim tôi không còn đập dồn dập nữa. Ngay lúc đó, Ngài bắt gặp ánh mắt của tôi.

“Ta rất thích Enishte của ngươi, cầu cho ông ta được an nghỉ,” Ngài nói. Phải, Ngài đang nói với tôi. Trong cơn xao xuyến, tôi nghe không ra những điều Ngài nói. “Ta rất đau lòng. Tuy vậy, thật sảng khoái khi thấy mỗi bức vẽ ông ta làm ra đều là một tuyệt tác. Khi tên ngoại đạo ở Venice nhìn thấy chúng, y sẽ phải sững sờ và kính sợ sự sáng suốt của ta. Các ngươi phải xác định gã tiểu họa đáng nguyền rủa kia là ai qua cách vẽ cái mũi ngựa này. Nếu cần thì cứ tra tấn tất cả bọn tiểu họa, dù có tàn bạo đến đâu đi nữa.”

“Tâu Quốc vương anh minh, nơi trú ẩn của thế giới,” Sư phụ Osman nói. “Hẳn chúng ta có thể êm thấm bắt được tác giả của nét cọ vẽ lỡ này nếu các tay tiểu họa của thần bị buộc phải vẽ thật nhanh một con ngựa trên tờ giấy trắng mà chẳng biết là cho câu chuyện nào cả.”

“Dĩ nhiên, với điều kiện đây thực sự là một nét cọ lỡ chứ không phải một cái mũi thật ngoài đời,” Đức vua phán một cách sâu sắc.

“Tâu Hoàng thượng,” Sư phụ Osman nói, “nếu một cuộc thi vì mục đích này theo chỉ dụ của Hoàng thượng được công bố tối nay; nếu một vệ binh được phái tới nhà các tay tiểu họa, yêu cầu họ vẽ thật nhanh một con ngựa trên giấy trắng cho cuộc thi này...”

Đức vua nhìn sang Chỉ huy Ngự lâm quân với vẻ như muốn nói, “Ngươi nghe thấy chưa?” rồi Ngài nói, “Các ngươi biết ta thích nhất chuyện nào trong các chuyện thi tài của thi sĩ Nizami không?”

Vài người trong chúng tôi đáp, “Chúng thần biết.” Một số khác nói, “Chuyện nào vậy tâu Hoàng thượng?” Một số khác, trong đó có tôi, chỉ im lặng.

“Ta không thích cuộc thi của các nhà thơ hay câu chuyện về cuộc thi giữa các họa sĩ Trung Hoa và phương Tây với cái gương,” Quốc vương sáng láng nói. “Ta thích nhất là cuộc thi của các lương y dám đua tranh đến chết.”

Nói xong, Ngài đột ngột từ biệt chúng để đi cầu kinh tối.

Sau đó, khi lệnh cầu kinh tối được ban ra, lúc trời đã nhá nhem, sau khi ra khỏi cổng hoàng cung, tôi vội vàng đi về xóm nhà mình; giữa lúc đang sung sướng nghĩ tới Shekure, những đứa trẻ và mái nhà của chúng tôi thì tôi kinh hoàng nhớ lại câu chuyện về cuộc thi giữa các lương y:

Một trong hai lương y dự thi trước mặt quốc vương của họ - vị lương y thường được vẽ mặc đồ màu hồng - bào chế một viên độc dược xanh đủ mạnh để hạ gục một con voi rồi đưa cho vị lương y kia, người được vẽ mặc áo chùng xanh dương. Vị lương y này nuốt viên độc dược trước, sau đó thì nuốt tiếp một viên thuốc giải màu xanh dương mà ông vừa bào chế. Qua tiếng cười nhẹ nhàng của ông ta mọi người có thể hiểu chẳng có chuyện gì xảy đến cho ông ta cả. Hơn năm giờ đã đến lượt ông ta cho đối thủ một đòn trí mạng. Di chuyển rất khoan thai, tận hưởng niềm vui được tới lượt mình, ông ta ngắt một đóa hồng trong vườn, đua lên môi, lầm thầm một bài thơ bí ẩn với những cánh hoa. Kế đó, với những động tác chứng tỏ vẻ cực kỳ tự tin, ông ta giơ đóa hoa ra cho đối phương để ông này thưởng thức được mùi hương của nó. Sức mạnh của bài thơ đọc thầm thì ấy kích động vị lương y áo hồng kia đến nỗi khi đưa đóa hoa lên mũi, vốn chẳng mang theo gì ngoài mùi hương thường lệ của nó, ông ta đã quỵ xuống vì sợ hãi và chết tốt.

CHƯƠNG 43
NGƯỜI TA GỌI TÔI LÀ “ZEYTIN”

Trước buổi cầu kinh ban tối, có tiếng gõ ngoài cửa, tôi liền mở ra mà không làm nghi thức gì: Đó là một trong những bộ hạ của Chỉ huy Ngự lâm quân, một thanh niên sạch sẽ đẹp trai, vui vẻ và ra dáng. Ngoài giấy và một tấm bảng viết, anh ta còn cầm theo một cây đèn dầu, nó tạo thêm bóng tối trên khuôn mặt anh ta hơn là soi rõ nó. Anh ta lẹ làng thông báo tình hình cho tôi: Quốc vương chúng tôi đã công bố một cuộc thi cho các nhà tiểu họa nhằm tìm xem ai có thể vẽ ngựa đẹp nhất trong thời gian ngắn nhất. Tôi được yêu cầu ngồi ngay xuống sàn, đặt giấy trên tấm bảng rồi để bảng lên đùi và thể hiện thật nhanh con ngựa đẹp nhất thế gian vào khoảng trống định sẵn trong khuôn khổ trang giấy.

Tôi mời vị khách vào nhà. Tôi chạy đi lấy mực và cây cọ tốt nhất của tôi, làm bằng lông ngắt từ tai con mèo. Tôi ngồi xuống sàn và lạnh cứng người! Liệu cuộc thi này có phải là một âm mưu hay thủ đoạn mà sau cùng tôi sẽ phải trả giá bằng máu hoặc cái đầu mình? Có thể lắm! Nhưng chẳng phải mọi bức minh họa huyền thoại của các lão họa sư ở Herat đều được vẽ bằng những nét điêu luyện chạy giữa cái chết và cái đẹp đó sao?

Lòng tôi tràn ngập khát khao muốn minh họa, tuy tôi hơi sợ phải vẽ chính xác giống như các lão họa sư, và tôi tự kìm mình lại.

Nhìn vào tờ giấy trắng, tôi ngồi im để hồn tôi có thể gạt bỏ được nỗi sợ hãi. Tôi phải tập trung hết mực vào con ngựa đẹp đẽ mà tôi sắp thể hiện; tôi phải huy động mọi sức mạnh và khả năng tập trung của mình.

Mọi con ngựa mà tôi từng vẽ và nhìn thấy bắt đầu phi nước đại trước mắt tôi. Nhưng trong đó chỉ có một con toàn mỹ.

Bây giờ tôi sắp thể hiện con ngựa ấy mà trước đó chưa một ai vẽ được. Một cách dứt khoát, tôi hình dung nó trong óc tưởng tượng của mình. Cả thế giới mờ đi, cứ như tôi đột nhiên quên mất chính mình, quên rằng mình đang ngồi đây, và thậm chí quên rằng mình sắp vẽ. Tay tôi tự nhiên nhúng cọ vào lọ mực, lấy lên đúng lượng mực cần thiết. Nào, bàn tay ngoan của ta, hãy đưa con ngựa tuyệt vời trong trí tưởng của ta vào thế giới này đi! Con ngựa và tôi có vẻ như hòa làm một và cả hai sắp sửa hiện ra.

Theo trực giác, tôi tìm một vị trí thích hợp trên tờ giấy trắng đóng khung sẵn. Tôi tưởng tượng con ngựa đứng ngay đó và hốt nhiên: Trước khi tôi kịp nghĩ, bàn tay tôi đã dứt khoát khởi sự hoàn toàn theo ý nó - xem nó trang nhã làm sao - lượn mau lẹ từ cái móng, nó thể hiện đoạn chân thanh mảnh, và chuyển dần lên trên. Khi nó tiếp tục lượn qua đầu gối cũng với vẻ dứt khoát như vậy và mau chóng tới phần lồng ngực, tôi trở nên phấn khích! Uốn cong từ đó, nó di chuyển lên cao một cách đắc thắng: Lồng ngực con vật đẹp làm sao! Lồng ngực thon lại để hình thành cái cổ giống hệt như cổ con ngựa trong trí tưởng của tôi. Không nhấc cọ lên, tôi vẽ xuống gò má, tới cái miệng mạnh mẽ mà tôi cho nó hé mở sau một tích tắc suy nghĩ tôi đi vào miệng nó - kiểu nó hình thành là thế, há miệng to hơn chút xem nào, ngựa cưng - và tôi làm lộ ra cái lưỡi. Tôi chậm rãi vẽ tới cái mũi - không có chỗ cho sự do dự! Liếc lên đều đặn, tôi ngắm một lát toàn bức tranh, và khi thấy mình đã có những nét chính xác như tôi đã tưởng tượng tôi quên hẳn mình đang vẽ gì, và đôi tai cùng đường cong tráng lệ của cái cổ ngoạn mục được bàn tay tôi tự ý thể hiện. Khi vẽ phần thân sau theo trí nhớ, bàn tay tôi tự động dừng lại để những sợi lông của cây cọ nhấm nháp trong lọ mực. Tôi hoàn toàn hài lòng khi thể hiện phần mông ngựa, phần thân sau mạnh mẽ và nhô cao, tôi hoàn toàn chìm đắm vào bức tranh. Tôi tưởng như mình đang đứng cạnh con ngựa mình đang vẽ trong khi vui sướng bắt đầu cái đuôi. Đây là một con ngựa chiến, một con ngựa đua; làm một nút thắt ở đuôi nó và cuốn nó lại, tôi phấn khởi di chuyển lên cao khi vẽ hai cái mông và khấu đuôi, tôi thấy một cảm giác mát mẻ dễ chịu ở chính mông đít mình. Sảng khoái vì cảm giác này, tôi hân hoan hoàn tất vẻ mềm mại của bờ mông, chân sau bên trái hơi lui ra sau chân phải một tí, rồi tới những móng ngựa. Tôi kinh ngạc với con ngựa tôi vừa vẽ và với bàn tay của chính mình, nó đã thể hiện tư thế thanh tú của chân trước bên trái y như tôi đã tưởng tượng.

Tôi nhấc tay lên khỏi mặt giấy và lẹ làng vẽ đôi mắt rực cháy, buồn bã; và chỉ ngần ngừ một thoáng, tôi vẽ tiếp lỗ mũi và tấm nệm yên ngựa. Tôi tô bờm ngựa từng sợi một, cứ như đang dịu dàng chải nó bằng những ngón tay mình. Tôi gắn cho nó bộ bàn đạp, thêm một vết lang trắng vào trán nó và hoàn chỉnh nó một cách đúng mực bằng động tác say sưa, có tính toán mà vẫn rất cân đối, hình thành cặp tinh hoàn và dương vật cho nó.

Khi tôi vẽ một con ngựa tuyệt mỹ, tôi trở thành chính con ngựa tuyệt mỹ đó.

CHƯƠNG 44
NGƯỜI TA GỌI TÔI LÀ “KELEBEK”

Tôi tin chắc lúc đó là vào khoảng giờ cầu kinh ban tối. Có ai đó ngoài cửa. Anh ta giải thích rằng Đức vua đã công bố một cuộc thi. Xin tuân lệnh Ngài, Quốc vương kính mến; thực vậy, còn ai có thể vẽ một con ngựa đẹp hơn tôi?

Tuy nhiên, tôi cũng khựng lại khi biết được rằng bức tranh phải vẽ bằng mực đen không tô màu. Tại sao lại không có màu? Bởi vì hóa ra tôi là người giỏi chọn lựa và giỏi tô màu nhất sao? Ai sẽ phán xét bức vẽ nào đẹp nhất? Tôi cố gắng moi thêm thông tin từ cậu trai vai rộng, môi hồng, xinh xắn từ hoàng cung đến, và có thể suy ra rằng có Sư phụ Osman Trưởng ban Trang trí đằng sau cuộc thi này. Đương nhiên, Sư phụ Osman biết rõ tài năng của tôi và ưa tôi nhất trong tất cả các họa sĩ, cho nên, trong khi tôi nhìn trang giấy trắng, tư thế, dáng vẻ và cung cách của một con ngựa có thể làm hài lòng cả Đức vua lẫn Sư phụ Osman hiện hình ngay trước mắt tôi. Con ngựa này phải sống động, nhưng nghiêm trang, giống những con mà Sư phụ Osman đã vẽ mười năm trước, và nó phải lồng đứng lên, theo cái cách luôn làm vui lòng Đức vua, để cả hai người sẽ nhất trí về vẻ đẹp của con ngựa. Họ sẽ treo giải bao nhiêu đồng vàng đây tôi tự hỏi. Mir Musavvir sẽ vẽ bức này thế nào? Còn Bihzad thì sao?

Đột nhiên, con vật nảy ra trong óc tôi bằng một tốc độ mà đến lúc tôi hiểu ra thì bàn tay khốn khổ của tôi đã nắm lấy cọ và bắt đầu vẽ một con ngựa diệu kỳ ngoài súc tưởng tượng của bất cứ ai, bắt đầu từ cái chân trước bên trái giơ lên. Sau khi mau lẹ nối cái chân với thân mình, tôi phác nhanh hai đường cong, một cách thích thú và tự tin - giá các vị nhìn thấy được, chắc các vị sẽ bảo họa sĩ này không phải nhà minh họa mà là một nhà thư pháp. Tôi trợn mắt nhìn bàn tay tôi với nỗi kinh hoàng, trong khi nó di chuyển cứ như tay của một người khác. Những đường cong ngoạn mục ấy biến thành cái bụng đầy đặn, lồng ngực mạnh mẽ và cái cổ như thiên nga của con ngựa. Bức minh họa có thể được coi là hoàn tất. Ôi, tài năng của tôi! Trong khi đó tôi nhìn để thấy rằng bàn tay mình đã vạch ra cái mũi và cái miệng đang há ra của con ngựa mạnh mẽ và vui vẻ này rồi hình thành cái trán thông minh cùng với đôi tai. Kế đó, một lần nữa, ôi mẹ ơi, đẹp quá, tôi hân hoan vẽ một đường cong khác cứ như đang viết một mẫu tự, và tôi suýt bật cười. Tôi lao xuống theo một đường cong hoàn hảo từ cổ của con ngựa lồng dựng đứng lên đến bộ yên của nó. Bàn tay tôi bận rộn với bộ yên trong khi tôi tự hào ngắm con ngựa lúc này đang hình thành, với một tấm thân mạnh mẽ, tròn trịa không khác biệt gì tôi lắm: Mọi người sẽ phải sững sờ trước con ngựa này. Tôi nghĩ đến những bình phẩm ngọt ngào mà Đức vua sẽ đưa ra khi tôi đoạt giải; Ngài sẽ trao cho tôi một túi đầy tiền vàng; và tôi cảm thấy nỗi thôi thúc muốn cười lên lần nữa khi tưởng tượng cảnh tôi đếm tiền thế nào ở nhà. Ngay lúc đó, bàn tay tôi, tôi liếc mắt nhìn vào nó, đã vẽ xong bộ yên và chấm cây cọ vào lọ mực rồi nhấc lên trước khi tôi bắt đầu cái mông ngựa với tiếng cười thầm trong họng cứ như tôi vừa kể một chuyện vui. Tôi lẹ làng phác hình cái đuôi. Phần thân sau tôi vẽ sao mà dịu dàng và uốn lượn vậy, lòng thầm ước một cách trìu mến được ủ nó trong hai bàn tay mình như cặp mông dịu dàng của một cậu trai mà tôi sắp xâm phạm.

Khi tôi mỉm cướp bàn tay khéo léo của tôi đã hoàn tất cặp chân sau, và cây cọ của tôi dừng lại. Đây là con ngựa lồng đứng lên đẹp nhất mà thế gian này từng biết đến. Tôi chìm ngập trong niềm vui, sung sướng nghĩ đến chuyện người ta sẽ yêu thích con ngựa của tôi đến mức nào, họ sẽ tuyên bố tôi là nhà tiểu họa tài hoa nhất và thậm chí họ sẽ thông báo ngay lập tức rằng tôi sẽ lên làm Trưởng ban Trang trí, nhưng rồi tôi lại ngẫm nghĩ về điều mà những tên ngốc ấy có thể nói: “Ông ta vẽ cái này lẹ làng và hoan hỉ làm sao!” Chỉ với lý do này thôi, tôi đã lo rằng họ sẽ không coi trọng bức minh họa tuyệt vời này của tôi. Do đó, tôi cẩn thận thể hiện thêm bộ bờm, lỗ mũi, răng, những sợi lông đuôi và tấm nệm yên ngựa một cách chi tiết để ai cũng rõ rằng tôi đã lao động cật lực trong bức vẽ này. Từ tư thế đó, nghĩa là với góc nhìn từ phía sau, ta không thể thấy cặp tinh hoàn của con ngựa, nhưng tôi vẫn loại nó ra vì nó có thể thu hút sự chú ý của phụ nữ một cách thái quá. Tôi ngắm nghía con ngựa của mình một cách tự hào: lồng đứng lên, di chuyển như một cơn bão, mạnh mẽ và đầy uy lực! Cứ như một cơn gió đã khởi lên và khiến những nét cọ khoáng đạt và đơn sơ chuyển động, như các mẫu tự trong một dòng bản thảo, tuy nhiên con vật này lại còn đường bệ nữa. Họ sẽ phải ca ngợi nhà tiểu họa tuyệt luân đã vẽ ra bức này cứ như ca ngợi một Bihzad hay Mir Musavvir vậy, và rồi, tôi cũng sẽ trở nên như họ.

Khi tôi vẽ một con ngựa tuyệt mỹ, tôi trở nên một bậc thầy vĩ đại trong môn vẽ ngựa kiểu cổ này.

CHƯƠNG 45
NGƯỜI TA GỌI TÔI LÀ “LEYLEK”

Sau giờ cầu kinh tối tôi định ra quán cà phê, nhưng người nhà báo cho biết có khách chờ ngoài cửa. Tin vui chăng, tôi hy vọng thế. Tôi đi ra thì thấy đó là một phái viên từ hoàng cung. Anh ta trình bày cho tôi biết về cuộc thi của Quốc vương. Được rồi, con ngựa đẹp nhất thế gian à. Anh cứ cho biết anh trả cho mỗi bức được bao nhiêu, tôi sẽ vẽ cho anh trong chớp mắt năm hay sáu con luôn.

Thay vì nói những điều như thế, tôi đã giữ kẽ, chỉ mời cậu trai đứng ngoài cửa vào nhà. Tôi nghĩ trong một thoáng: Con ngựa đẹp nhất thế gian thậm chí chưa hề tồn tại cho tôi vẽ. Tôi có thể vẽ những thớt chiến mã, những con ngựa Mông Cổ dềnh dàng. ngựa Ả Rập thanh tú, những chiến mã anh dũng quằn quại nhuốm đầy máu, hoặc ngay cả những con ngựa thồ xấu số kéo xe chất đầy đá tới nơi xây dựng, nhưng không ai có thể nói bất kỳ con nào trong đám đó là con ngựa đẹp nhất thế gian. Dĩ nhiên, khi nói “con ngựa đẹp nhất thế gian,” tôi hiểu rằng Đức vua của chúng tôi ám chỉ con ngựa rực rỡ nhất từng được vẽ hàng ngàn lần tại Ba Tư, theo sát mọi công thức, khuôn mẫu và tư thế có từ ngàn xưa. Nhưng tại sao lại thế?

Dĩ nhiên, có những kẻ không muốn tôi giành được túi vàng đó. Nếu họ bảo tôi vẽ con ngựa trung bình, thì ai cũng biết không có tranh của một ai sánh được với tranh tôi. Ai đã lừa mị Đức vua của chúng ta vậy? Đấng cai trị của chúng tôi, mặc cho lời đồn đại bất tận của cả đám họa sĩ ghen tị đó, cũng biết rõ rằng tôi là kẻ tài hoa nhất trong các nhà tiểu họa của Ngài. Ngài ngưỡng mộ những bức minh họa của tôi.

Bàn tay tôi đột nhiên và giận dữ lao vào hoạt động cứ như nó muốn vượt lên khỏi những suy xét phiền toái ấy, và trong một nỗ lực được tập trung lại, tôi vẽ một con ngựa đích thực từ móng nó trở lên. Các vị có thể thấy một con ngựa như thế này trên đường phố hoặc chiến địa. Mệt mỏi, nhưng còn kiểm soát được...

Kế đó, cũng trong cơn phẫn nộ ấy, tôi lẹ làng vẽ một con ngựa của kỵ binh, con này thậm chí còn đẹp hơn. Không một tay tiểu họa nào trong xưởng làm sách có thể vẽ những con vật đẹp như thế. Tôi sắp vẽ một con nữa theo ký ức thì cậu phái viên hoàng cung nói “Một là đủ rồi.”

Cậu ta định chộp lấy tờ giấy mà ra về, nhưng tôi cản cậu ta lại vì tôi biết rất rõ, như biết tên họ của mình rằng những tên khốn này có thể bỏ ra cả một túi vàng để có được những con ngựa đó.

Nếu tôi minh họa theo cách tôi muốn, chúng sẽ không chịu đưa vàng cho tôi đâu. Nếu tôi không giành được số vàng thưởng, tên tuổi của tôi sẽ bị hoen ố vĩnh viễn. Tôi dừng lại để suy nghĩ. “Chờ chút coi,” tôi nói với cậu trai. Tôi lui vào trong nhà và trở ra với hai đồng vàng giả Venice bóng lộn đến khó tin rồi trao cho cậu trai. Cậu ta sợ, mắt cậu mở to. “Cậu dũng cảm như sư tủ ấy,” tôi nói.

Tôi lấy ra một trong những sổ ghi chép hình mẫu mà tôi giấu kín với mọi người. Đây là nơi tôi bí mật sao chép lại những bức minh họa đẹp nhất mà tôi từng thấy qua bao năm. Ấy là chưa kể đến những bản sao về những cội cây, rồng, chim chóc, thợ săn và chiến binh đẹp nhất mà Jafer, đầu lãnh của đám người lùn ở quốc khố có thể làm ra từ các trang của những pho sách được cất giữ cẩn mật; ấy là nếu các vị cho hắn, cho cái tên vô lại đó mười đồng vàng. Sổ ghi chép của tôi thực tuyệt vẫn không phải cho những người muốn nhìn thế giới thật nơi họ đang sống qua những bức tranh và nét trang trí, mà cho những kẻ muốn gợi lại những ngụ ngôn xưa.

Lật lật qua các trang cho cậu trai xem hình trong đó, tôi chọn ra bức vẽ ngựa đẹp nhất. Tôi dùng kim đục nhanh những lỗ chạy dài theo nét vẽ của bức tranh. Kế đó, tôi đặt một tờ giấy trắng bên dưới bức tranh đó. Tôi từ từ rắc một mớ kha khá bột tan lên tranh, rồi lắc nhè nhẹ để bột than lọt xuống qua các lỗ. Tôi lấy bức tranh gốc ra. Bột than, từng chấm một, đã ghi lại hình dáng của con ngựa tuyệt đẹp trên mặt giấy bên dưới. Ngắm nhìn nó quả là một lạc thú.

Tôi cầm lấy bút. Với một niềm hứng khởi đột nhiên trào dâng trong người, tôi nhẹ nhàng nối các chấm đó bằng những nét cọ nhanh và dứt khoát, đến độ khi tôi vẽ lại phần bụng, cái cổ thanh tú, lỗ mũi và mông ngựa, tôi âu yếm cảm nhận được con ngựa trong chính tôi. “Đây,” tôi nói, “Con ngựa đẹp nhất thế gian. Không đứa nào trong lũ ngốc kia vẽ được con này.” Để cậu phái viên hoàng cung có thể tin được chuyện này, và để cậu ta không lý giải với Đức vua chuyện tôi mượn cảm hứng ra sao khi vẽ bức này, tôi đưa cho cậu ta ba đồng vàng giả nữa.

Tôi hàm ý rằng nếu tôi giành được số vàng thưởng thì sẽ còn cho cậu ta thêm. Hơn nữa, tôi tin chắc, cậu ta cũng tưởng tượng rằng cậu sẽ được một lần nữa nhìn thấy vợ tôi, người mà cậu đã há hốc miệng mà nhìn một cách thèm thuồng. Có nhiều người tin rằng các vị có thể phân biệt một nhà tiểu họa giỏi qua con ngựa hắn ta vẽ; tuy nhiên, để trở thành nhà tiểu họa giỏi nhất thì vẽ con ngựa đẹp nhất vẫn chưa đủ, các vị còn phải thuyết phục Đức vua và đám nịnh thần của Ngài rằng các vị quả thực là nhà tiểu họa giỏi nhất nữa kìa.

Khi tôi vẽ một con ngựa toàn mỹ, tôi chỉ là chính tôi, chẳng có gì hơn.

CHƯƠNG 46
TÔI SẼ BỊ GỌI LÀ KẺ SÁT NHÂN

Các vị có thể xác định được tôi là ai qua cách tôi vẽ một con ngựa không?

Ngay khi nghe nói tôi được mời vẽ một con ngựa, tôi biết ngay đây chẳng phải cuộc thi gì ráo: Chúng muốn bắt được tôi qua bức vẽ này. Tôi biết rất rõ rằng những bức phác thảo ngựa mà tôi vẽ trên giấy thô đã được tìm thấy trên thi thể của Zarif Kính mến tội nghiệp. Nhưng tôi chẳng có sai sót hay phong cách nào để chúng có thể phát hiện ra tôi qua những con ngựa tôi đã vẽ. Tuy tôi có thể hoàn toàn tin chắc điều này, nhưng tôi vẫn hoảng loạn khi vẽ con ngựa đó. Liệu tôi đã làm điều gì có thể tố giác mình khi vẽ ngựa cho Enishte không? Lần này tôi phải vẽ một con ngựa mới. Tôi nghĩ đến những chuyện hoàn toàn khác. Tôi “kìm hãm” chính mình và trở thành một người khác.

Nhưng tôi là ai? Phải chăng tôi là một họa sĩ, kẻ có thể trấn áp thứ tuyệt tác mà mình thừa khả năng thực hiện để thích nghi với phong cách của họa xưởng, hay một họa sĩ có thể một ngày kia miêu tả thành công con ngựa sâu thẳm trong hồn mình?

Đột nhiên và với nỗi kinh hoàng, tôi cảm nhận được sự hiện hữu của nhà tiểu họa thành công đó trong tôi. Tình trạng này cứ như tôi đang bị quan sát bới một linh hồn khác, và tóm lại, tôi thấy hổ thẹn.

Tôi lập tức hiểu rằng mình không thể ngồi lại trong nhà, thế là tôi lao ra ngoài, bước đi mạnh mẽ theo những con phố tối đen. Như thủ lãnh Osman Baba viết trong cuốn “Cuộc đời các thánh,” nếu một kẻ khổ tu đích thực muốn thoát được con quỷ trong tim, anh ta phải rảo khắp nơi suốt cuộc đời mình mà không ở lại quá lâu bất cứ chỗ nào. Sau khi lang thang từ thành phố này sang thành phố khác suốt sáu mươi bảy năm, anh ta quá mệt mỏi với việc miệt mài chạy nên đành chịu thua Quỷ sứ. Đó là độ tuổi mà các tiểu họa bậc thầy đạt tới kiếp mù, hoặc cõi tối đen của Allah, độ tuổi mà họ ngẫu nhiên đạt tới một phong cách, đồng thời giải phóng mình khỏi mọi phát biểu về phong cách.

Tôi lang thang qua khu chợ gà ở Bayazid, qua quảng trường trống trơn ở chợ nô lệ, giữa mùi thơm dễ chịu của các cửa hàng bán bánh bột gạo và xúp, cứ như đang tìm kiếm. Tôi đi ngang qua khung cửa đóng kín của những tiệm hớt tóc, tiệm giặt ủi quần áo, một ông bà chủ lò bánh mì đang đếm tiền và ngước lên nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên; tôi đi qua một tiệm tạp phẩm đầy mùi dưa rau cải và cá muối, và bởi mắt tôi chỉ bị thu hút vì màu sắc nên tôi bước vào một cửa tiệm dược thảo và tạp hóa nơi người ta đang cân món gì đó, và dưới ánh đèn tôi nhìn say mê, theo kiểu người ta nhìn những người yêu dấu, những túi cà phê, gừng, quế và nghệ, những hộp sặc sỡ đựng nhựa cây nhũ hương, hột hồi hương tỏa mùi từ trên kệ, những đống rau ngổ nâu và đen. Đôi lúc tôi muốn nhét hết mọi thứ vào miệng; có khi tôi muốn lấp kín trang giấy bằng một bức tranh vẽ mọi tạo vật.

Tôi bước vào nơi tôi đã dùng bữa no nê hai lần trong tuần rồi, mà tôi đã tự đặt tên là nhà bếp nấu xúp cho lũ dân đen - thực ra, gọi là “bọn cùng đinh” thì chắc thích hợp hơn. Nó mở cửa đến nửa đêm cho những khách quen. Bên trong có vài kẻ khốn khổ ăn mặc như bọn ăn trộm ngựa hay những người vừa trốn khỏi giàn xử giảo, một bộ đôi tội nghiệp mà vẻ u sầu và tuyệt vọng đã khiến hình ảnh của họ trôi tuột khỏi thế giới này để đến những thiên đàng xa xôi như thường thấy ở những con nghiện thuốc phiện; hai gã ăn xin mà ngay cả việc giữ được cung cách cái bang cũng là khó nhọc; và một thanh niên quý phái ngồi trong một góc tách khỏi đánh đông, tôi lịch sự chào ông đầu bếp người xứ Aleppo. Múc đầy bắp cải nhồi thịt vào tô, tôi rưới sữa chua và rắc thêm một nắm ớt xắt lát lên trên trước khi đến ngồi cạnh chàng thanh niên quý phái.

Mỗi đêm một nỗi buồn lại tràn ngập tôi, một nỗi thống khổ trùm lấy tôi. Ôi, các anh em của tôi, các huynh đệ thân mến của tôi, chúng ta đã bị đầu độc, chúng ta đang thối rữa, hấp hối, chúng ta vắt kiệt chính mình khi ta sống, chúng ta chìm tận cổ trong thống khổ... Có những đêm, tôi mơ thấy hắn từ giếng trồi lên và săn đuổi tôi, nhưng tôi biết chúng ta đã chôn hắn rất sâu dưới lòng đất. Hắn không thể đội mồ sống dậy.

Chàng quý phái, người mà tôi tưởng chỉ chúi mũi vào món xúp và quên hết thế giới chung quanh, đã khởi đầu một cuộc trò chuyện. Có phải đây là một dấu hiệu của đấng Allah? “Phải,” tôi đáp, “họ đã nghiền thịt tới một độ nhuyễn đúng mức, món bắp cải nhồi thịt này thật vừa ý tôi.” Tôi hỏi thăm anh ta: Anh vừa tốt nghiệp một học viện khốn khổ giá hai mươi đồng bạc một ngày và được nhận làm thư ký dưới sự bảo trợ của Tổng trấn Arifi. Tôi không hỏi anh ta tại sao vào giờ khuya khoắt này anh ta không có mặt tại dinh tổng trấn. Ở thánh đường hoặc ở nhà riêng trong vòng tay của vợ yêu, mà lại chọn có mặt ở cái nhà bếp lề đường đầy bọn du đãng không vợ con này. Anh ta hỏi tôi từ đâu đến và làm nghề gì. Tôi suy nghĩ một lát.

“Tôi tên là Bihzad. Tôi từ Herat rồi Tabriz lưu lạc tới đây. Tôi đã vẽ những bức tranh tráng lệ nhất, những tuyệt tác khó tin nhất. Ở Ba Tư và Ả Rập, trong mọi xưởng làm sách nghệ thuật nơi người ta làm minh họa, người ta đã nói thế này về tôi cả mấy trăm năm nay: Cái này trông thật quá, giống y tác phẩm của Bihzad.”

Dĩ nhiên, đây không phải là vấn đề. Tranh của tôi thể hiện những gì tâm trí - chứ không phải con mắt - nhìn thấy. Hội họa, như các vị biết quá rõ rồi đấy, là bữa tiệc cho con mắt. Nếu các vị kết hợp được hai ý tưởng này thì thế giới của tôi sẽ xuất hiện. Nghĩa là:

ALIF: Hội họa đem những gì tâm trí thấy được vào cuộc sống, như một bữa tiệc cho con mắt.

LAM: Những gì con mắt nhìn thấy được trong thế giới này sẽ đi vào hội họa tới mức nó phục vụ cho tâm trí.

MIM: Sau đó cái đẹp là con mắt khám phá ra những gì mà tâm trí đã biết trong thế giới này.

Liệu anh chàng tốt nghiệp học viện khốn khổ có hiểu được luận lý này, điều mà tôi đã rút ra được bằng cảm hứng chớp nhoáng từ sâu thẳm tâm hồn, hay không? Tuyệt đối không. Tại sao? Bởi vì, tuy các vị đã mất ba năm ngồi dưới chân một vị hoja, người giảng những bài học tại một trường tôn giáo hẻo lánh đâu đó với giá hai mươi đồng bạc một ngày - hiện nay với số tiền đó các vị có thể mua được hai chục ổ bánh mì - nhưng các vị vẫn không biết được Bihzad là tay cha căng chú kiết nào. Hiển nhiên là ông Hoja Kính mến hai mươi đồng một ngày kia cũng chẳng biết Bihzad là ai. Được rồi, để tôi giải thích cho. Tôi nói:

“Tôi đã vẽ mọi thứ, tất tần tật mọi thứ: đấng Tiên tri của Chúng ta tại thánh đường ngồi cùng bốn trưởng giáo của Người trước hốc cầu kinh màu xanh lá cây; trong một cuốn khác, Tông đồ và Tiên tri của Thượng đế bay lên bảy tầng trời trong đêm Thăng thiên; Alexander trên đường tới Trung Hoa vỗ vào cái trống ở một đền thờ ven biển để xua một con quái vật đang nổi bão khuấy động biển cả; một vị vua vừa thủ dâm vừa nhìn trộm những mỹ nữ ở hậu cung đang bơi trần truồng dưới hồ tắm trong khi nghe đàn luýt; một đô vật trẻ chắc chắn chiến thắng sau khi học được mọi đòn thế của sư phụ, nhưng rồi lại bại trận trước mặt nhà vua dưới tay chính sư phụ bởi ông này đã giấu lại một miếng đòn cuối cùng; Leyla và Mejnun lúc còn nhỏ quỳ gối trong phòng học với những bức tường được trang trí cực đẹp, phải lòng nhau khi cùng đọc kinh Koran; sự bất lực của những tình nhân, từ những kẻ bối rối nhất đến những cặp ngu xuẩn nhân không dám nhìn vào mắt nhau; kiến trúc từng viên đá một của cung điện; việc trừng phạt kẻ có tội bằng tra tấn; đường bay của lũ chim ưng; những con thỏ vui chơi; những con cọp phản trắc, những cây bách và tiêu huyền làm chỗ trú cho bọn ác là; Thần chết; những thi sĩ đang đua tài những bữa tiệc mừng chiến thắng; và những người như anh chẳng nhìn thấy gì ngoài món xúp trước mặt mình.”

Anh thư ký dè dặt không còn sợ hãi nữa, anh ta thậm chí còn thấy tôi thú vị và đang mỉm cười.

“Vị Hoja Kính mến của anh hẳn đã đọc cuốn này, rồi anh sẽ biết” tôi nói tiếp. “Có một chuyện tôi rất thích trong pho Bostan([10]) của Saadi. Anh biết chuyện đó mà, Vua Darius lạc khỏi đám tùy tùng trong một chuyến đi săn và bắt đầu lang thang qua những ngọn đồi. Bất ngờ, một kẻ lạ trông đáng ngại có chòm râu dê xuất hiện trước mặt vua. Nhà vua hoảng sợ thò tay lấy cung tên quàng trên mình ngựa, nhưng kẻ lạ liền cầu xin: “Tâu Hoàng thượng của thần, khoan hãy bắn tên. Làm sao mà bệ hạ không nhận ra thần? Hạ thần không phải là tên chăn ngựa của Hoàng cung từng được bệ hạ giao phó cả trăm con ngựa lớn nhỏ đó sao? Hoàng thượng đã thấy hạ thần biết bao lần rồi? Thần biết rõ tính nết và khí chất của cả trăm con ngựa của Hoàng thượng, thậm chí thuộc cả màu lông của từng con nữa. Nên tại sao Hoàng thượng lại không lưu ý tới chúng thần, những tôi tớ dưới quyền của Người, kể cả những kẻ hèn như thần mà bệ hạ gặp mặt thường xuyên như thế?”

Khi vẽ cảnh này, tôi mô tả những con ngựa đen, nâu và trắng - được anh chăn ngựa chăm sóc ân cần trên một đồng cỏ xanh ngắt điểm đầy hoa với đủ màu sắc mà ta có thể tưởng tượng ra - với vẻ hạnh phúc và bình yên đến độ những độc giả đần độn nhất cũng hiểu được bài học trong câu chuyện của Saadi: cái đẹp và bí ẩn của thế giới này chỉ hiện ra qua cảm tình, sự chú ý, quan tâm và đam mê; nếu các vị muốn sống trong thiên đàng đó nơi những con ngựa hạnh phúc đang sống, hãy mở to mắt và thực sự thấy được thế giới này bằng cách chú ý đến những màu sắc, chi tiết và sự trớ trêu của nó.

Môn đồ của vị hoja hai mươi đồng bạc vừa thú vị vừa hoảng sợ vì tôi. Anh ta muốn buông thìa mà bỏ chạy, nhưng tôi không cho anh ta cơ hội.

“Đấy là cách mà Bihzad, bậc thầy của các bậc thầy, đã miêu tả nhà vua, anh mã phu và các con ngựa trong bức tranh đó, tôi nói. “Suốt hàng trăm năm các nhà tiểu họa không ngừng mô phỏng những con ngựa đó. Mỗi con ngựa xuất phát từ trí tưởng tượng và tâm hồn của Bihzad đã trở thành khuôn mẫu về hình dáng. Hàng trăm nhà tiểu họa, kể cả tôi, có thể vẽ những con ngựa đó theo ký ức. Anh có bao giờ thấy một bức tranh ngựa chưa?”

“Tôi có lần được thấy một con ngựa có cánh trong một pho sách rất đẹp mà một sư phụ vĩ đại, nhà học giả của các học giả, trình cho hoja quá cố của tôi.”

Tôi không biết mình có nên nhấn cái đầu của thằng ngốc này vào tô xúp của hắn không - anh ta cùng với ông thầy của mình đã quá xem trọng cuốn “Những sinh vật lạ” - khiến anh ta chết đuối hay là để yên tho anh ta mô tả bức tranh ngựa duy nhất anh ta từng thấy trong đời bằng những từ ngữ hào nhoáng, trong một bản sách sao chép tồi tệ đến mức nào có ai biết được. Tôi đi tới một giải pháp thứ ba, đó là buông thìa xuống và rời quán. Sau khi tản bộ hồi lâu tôi bước vào một ngôi nhà khổ tu bỏ hoang, nơi tôi được chìm trong một cảm giác bình yên. Tôi dọn dẹp và không làm gì khác, tôi lắng nghe sự im lặng.

Sau đó, tôi lấy tấm gương từ chỗ cất giấu trước đây mà đặt trên cái bàn làm việc thấp. Kế đó, tôi đặt tờ giấy hai trang và cái bảng vẽ lên lòng mình. Khi nhìn được khuôn mặt mình từ chỗ tôi ngồi, tôi cố vẽ chân dung mình bằng chì than. Tôi vẽ trong hồi lâu một cách kiên nhẫn. Rất lâu sau khi tôi một lần nữa thấy rằng khuôn mặt trên trang giấy không giống khuôn mặt tôi trong gương, tôi cảm thấy sầu khổ đến độ lệ trào lên khóe mắt.

Những họa sĩ Venice mà Enishte mô tả bằng ngôn từ hoa mỹ như thế đã làm việc này như thế nào? Rồi tôi tưởng tượng mình là một người trong bọn họ, nghĩ rằng nếu mình minh họa trong tâm trạng như thế, chắc tôi có thể làm được một bức chân dung tự họa đủ thuyết phục.

Sau đó nữa, tôi nguyền rủa cả Enishte lẫn những họa sĩ châu Âu, tẩy xóa hết những gì đã vẽ và bắt đầu nhìn vào gương lần nữa để bắt đầu một bức vẽ mới.

Cuối cùng, tôi lại thấy mình lang thang trên các con phố, và rồi, ở đây, tại quán cà phê tởm lợm này. Thậm chí tôi cũng không biết chắc mình đã tới đây như thế nào. Khi tôi bước vào, tôi cảm thấy bối rối với việc la cà giữa đám các nhà tiểu họa và thư pháp này đến độ mồ hôi túa ra trên trán tôi.

Tôi cảm thấy mọi người đang nhìn tôi, dùng cùi chỏ ra hiệu cho nhau về sự xuất hiện của tôi, và bật cười - phải, tôi có thể thấy rõ họ đang làm như thế. Tôi ngồi vào một góc, cố tỏ ra tự nhiên. Đồng thời tôi liếc mắt tìm kiếm những tay thợ cả khác, những huynh đệ thân mến đã một thời cùng tôi làm thợ học việc cho Thầy Osman. Tôi chắc chắn mỗi người trong bọn họ tối nay đều bị yêu cầu vẽ một con ngựa và họ đều nỗ lực hết sức mình, xem cuộc thi mà bọn ngốc kia bày ra là chuyện rất nghiêm túc.

Tay kể chuyện chuyên nghiệp vẫn chưa bắt đầu trình diễn. Bức tranh còn chưa được treo lên. Tôi buộc phải trò chuyện xã giao với đám người trong quán cà phê.

Cứ để mọi chuyện như thế, cho phép tôi thẳng thắn với các vị: Giống như mọi người khác, tôi cũng nói đùa, kể chuyện tục, hôn má bạn bè với những cử chỉ cường điệu, nói những câu hai nghĩa, bóng gió và chơi chữ, hỏi thăm xem những cậu phụ tá thợ cả đang làm gì, và giống mọi người khác, châm chích thẳng tay bọn kẻ thù chung của chúng tôi; và sau khi đã hứng chí, tôi còn đi tới mức la lối om sòm và hôn vào cổ bọn đàn ông. Nhưng, ý thức rằng một phần tâm hồn tôi vẫn im lặng một cách tàn nhẫn khi tôi lao vào sinh hoạt như thế khiến tôi đau khổ không chịu được.

Tuy nhiên, chẳng mấy chốc không những tôi có thể sử dụng ngôn ngữ bóng bẩy để so sánh con cu của tôi, và của những kẻ được đồn đãi nhiều, với những cây cọ, bút sậy, cột cái của quán cà phê, ống sáo, trụ đầu cầu thang, vồ gõ cửa, cây tỏi tây, tháp nhọn trên thánh đường, những ngón tay phụ nữ nhúng vào xirô đặc, cây thông, và so sánh với cả thế giới này đến những hai lần, tôi cũng so sánh được mông đít của những cậu trai nổi tiếng trong làng chơi với trái cam, trái vả, bánh nướng, gối nằm và cả ụ kiến nhỏ xíu. Trong khi đó, những nhà thư pháp trạc tuổi tôi và huênh hoang nhất cũng chỉ có thể so sánh đồ nghề của hắn - tôi phải nói là theo một cách rất nghiệp dư và thiếu tự tin - với cột buồm và đòn gánh của phu khuân vác. Hơn nữa, tôi còn bịa ra những ẩn dụ về vũ khí của những nhà thư pháp già chẳng còn cương lên nổi nữa, những đôi môi màu anh đào của các thợ học việc mới, những sư phụ thư pháp cất giấu tiền bạc (giống như tôi) ở chỗ nào đó (“hốc tối ghê tởm nhất”); chuyện có lẽ người ta đã bỏ thuốc phiện vào rượu mà tôi đang uống thay vì những cánh hoa hồng; những bậc thầy vĩ đại cuối cùng của Tabriz và Shiraz; việc trộn cà phê với rượu ở Aleppo, và những nhà thư pháp và các cậu trai xinh xắn có thể tìm gặp được ở đó như thế nào.

Nhiều lúc, có vẻ như một trong hai linh hồn trong tôi, cuối cùng đã vượt lên thắng thế, bỏ lại linh hồn kia đàng sau, và tôi rốt cuộc đã quên được cái bản thể câm lặng và thiếu tình yêu của mình. Vào những lúc đó tôi nhớ những cuộc ăn mừng dịp lễ hội hồi còn thơ trong đó tôi có thể là chính mình bên cạnh những người thân trong gia đình. Mặc cho mọi trò đùa cợt, hôn hít và ôm ấp đó, sự câm lặng trong tôi vẫn còn, nó khiến tôi đau khổ và cô đơn ngay giữa đám đông.

Ai đã cho tôi tấm linh hồn tàn nhẫn và câm lặng này - nó không phải là một linh hồn mà là một âm hồn - vốn luôn kết án tôi và tách tôi ra khỏi mọi người vậy? Quỷ Satan chăng? Nhưng sự câm lặng trong tôi được xoa dịu, không phải bởi trò quái ác ngu xuẩn do Satan gây ra, mà trái lại, bởi những câu chuyện đơn sơ và thuần khiết nhất có khả năng đi thẳng vào hồn người. Dưới tác động của rượu, tôi đã kể hai câu chuyện, hy vọng việc này sẽ cho tôi chút bình yên. Một cậu học việc thư pháp cao gầy, nhợt nhạt, nhưng nước da ửng hồng, tập trung đôi mắt xanh của cậu ta vào tôi và lắng nghe với sự chú tâm cao độ.

Hai câu chuyện về kiếp mù và phong cách của nhà tiểu họa được kể cho vơi nỗi cô đơn trong hồn

ALIF

Ngược với những điều ta thường nghĩ, vẽ ngựa bằng cách nhìn vào con ngựa thực không phải là một phát kiến của các bậc thầy người Âu. Ý tưởng sáng tạo này thuộc về đại sư phụ Jemalettin ở Kazvin. Sau khi Uzyn Hasan, đại hãn của xứ Akgoyunly, chiếm được Kazvin, lão sư phụ Jemalettin không hài lòng với việc đơn thuần gia nhập xưởng nghệ thuật sách của vị đại hãn chiến thắng, ông đã xung phong đi chiến dịch với vị hãn này, tuyên bố rằng ông muốn tô điểm cho bộ Tarih của vị hãn này bằng những cảnh chiến tranh mà ông sẽ tận mắt chứng kiến. Thế là bậc thầy vĩ đại này, người đã trải qua sáu mươi hai năm vẽ những con ngựa, những cảnh kỵ binh xung phong và những trận chiến mà chưa hề nhìn thấy một trận đánh nào, lần đầu tiên tham gia chiến sự. Nhưng trước khi ông kịp nhìn thấy sự va chạm dữ dội và kinh khủng của những thớt ngựa đẫm mồ hôi, ông đã mất cả hai bàn tay và đôi mắt vì đạn thần công của kẻ thù. Vị sư phụ này, giống như mọi thiên tài khác, trong mọi trường hợp đều chờ đợi cảnh mù lòa cứ như đó là ơn phước của Allah, và ông cũng không xem việc mất đôi tay là khiếm khuyết lớn. Ông quan niệm rằng ký ức của nhà tiểu họa không nằm ở bàn tay như một số người tin chắc, mà nằm trong trí tuệ và con tim, và hơn nữa, do bấy giờ ông đã mù, ông tuyên bố rằng ông có thể thấy những bức tranh đích thực, cảnh trí và những con ngựa cốt tủy và hoàn hảo mà đấng Allah muốn người ta nhìn thấy. Để chia sẻ những điều kỳ diệu này với những người yêu nghệ thuật, ông thuê một cậu học nghề thư pháp cao gầy, da ửng hồng, mắt xanh, rồi đọc cho cậu viết rõ ràng cách thức để vẽ những con ngựa diệu kỳ hiện ra với ông trong cõi tối đen thần thánh của Thượng đế - y như ông sẽ vẽ nếu như tay ông còn cầm được cọ. Sau khi sư phụ này qua đời những mô tả của ông về phương pháp vẽ ba trăm lẻ ba mẫu ngựa bắt đầu từ chân trước bên trái đã được cậu học nghề thư pháp đẹp trai sưu tập lại thành ba tập sách có tựa lần lượt là “Cách vẽ ngựa,” “Dòng chảy ngựa” và “Tình yêu của ngựa,” chúng được nhiều người yêu chuộng và tìm đọc suốt một thời gian tại nhiều địa phương của nước Akgoyunly. Tuy chúng xuất hiện dưới nhiều bản sao mới mẻ khác nhau, được mọi nhà minh họa, thợ học việc và đệ tử của họ thuộc nằm lòng và được dùng làm sách hướng dẫn thực hành, nhưng sau khi nước Akgoyunly của Uzyn Hasan bị xóa sổ và phong cách minh họa Herat thống trị toàn Ba Tư, thì Jemalettin và những bản thảo của ông bị quên lãng. Hiển nhiên, lập luận đằng sau những phê bình gay gắt trong cuốn “Bọn ngựa của gã mù” của Kemalettin Riza xứ Herat đối với ba pho sách đã hình thành trong chuỗi diễn biến này. Kemalettin Riza tuyên bố rằng không có mẫu ngựa nào do Jemalettin xứ Kazvin mô tả trong ba pho sách của ông ta lại có thể là một con ngựa trong cái nhìn của Thượng đế - bởi vì không có mẫu nào trong đó là “nguyên tuyền” do vị sư phụ già đó đã mô tả chúng sau khi chứng kiến quang cảnh một trận đánh thực, cho dù chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Vì những kho tàng của Uzyn Hasan xứ Akgoyunly đã bị vua Fatih Mehmet cướp bóc và chuyển về Istanbul nên không có gì lạ khi một số trong ba trăm lẻ ba câu chuyện đó đôi khi xuất hiện trong những bản thảo khác ở Istanbul và thậm chí một số ngựa còn được vẽ theo những chỉ dẫn trong đó nữa.

LAM

Ở Herat và Shiraz, khi một bậc thầy tiểu họa bị mù lúc xế bóng sau khi làm việc quá nhiều suốt cả đời, người ta không chỉ xem đó là dấu hiệu cho lòng quyết tâm của bậc thầy vĩ đại đó mà còn ca ngợi nó như sự thừa nhận của Thượng đế đối với công trình và tài năng của bậc thầy đó nữa. Thậm chí đã có một thời ở Herat, nếu các bậc thầy tuy đã già mà vẫn không bị mù, họ sẽ bị mọi người nhìn với vẻ nghi ngờ, hoàn cảnh này buộc rất nhiều người trong bọn họ phải tìm cách được mù lúc về già. Có một thời gian dài người ta kính cẩn nhớ lại những họa sĩ đã tự làm mình mù mắt, đi theo con đường của các sư phụ huyền thoại vốn sẵn sàng làm thế chứ không phục vụ cho một triều đại khác hoặc thay đổi phong cách của mình. Và chính trong thời kỳ này mà Abu Said, cháu nội của Tamerlane thuộc chi họ vua Miran, đã tạo ra một chuyển biến xa hơn trong họa xưởng của mình sau khi ông chinh phục Tashkent và Samarkand: tập tục kính trọng việc bắt chước mù hơn là chính kiếp mù. Kara Veli, một nghệ nhân già đã gợi hứng cho Abu Said trong việc này, đã khẳng định rằng một nhà tiểu họa mù có thể thấy những con ngựa theo cách nhìn của Thượng đế trong cõi tối đen tuy nhiên tài năng đích thực vẫn có ở nhà tiểu họa nào tuy sáng mắt nhưng có khả năng nhìn thế giới như một người mù. Ở tuổi sáu mươi bảy ông chứng minh luận cứ của mình bằng cách vẽ rất nhanh một con ngựa hiện ra trên đầu cọ của ông mà không một lần liếc nhìn mặt giấy, ngay cả khi mắt ông vẫn mở to và dán vào trang sách. Vào lúc kết thúc nghi thức nghệ thuật này, trong đó Miran cho những nhạc công điếc chơi đàn luýt và những người kể chuyện câm đọc lại các câu chuyện kể để trợ giúp những nỗ lực của bậc thầy huyền thoại ấy, con ngựa tráng lệ mà Kara Veli vừa vẽ được người ta cẩn thận so sánh với những con ngựa khác ông từng vẽ. Không có một khác biệt nào giữa chúng với nhau, trước nỗi bực tức tột độ của vua Miran; sau đó, bậc thầy huyền thoại tuyên bố rằng một nhà tiểu họa tài ba, dù mở hay nhắm mắt, cũng luôn luôn và chỉ có thể nhìn ngựa theo một cách, nghĩa là, cách nhìn của Allah đối với bọn ngựa. Và giữa những đại sư tiểu họa không có gì khác biệt giũa kẻ mù và kẻ sáng: bàn tay sẽ luôn vẽ ra cùng một con ngựa đó bởi vì tuyệt không hề có cái thứ mà sự cách tân của người Tây vực gọi là “phong cách.” Những con ngựa do đại sư phụ Kara Veli vẽ ra đã được mọi nhà tiểu họa Hồi giáo bắt chước theo trong suốt 110 năm. Còn với chính Kara Veli, sau khi Abu Said thất trận và họa xưởng của nhà vua bị giải tán, ông ta đã di tản từ Samarkand tới Kazvin, nơi mà hai năm sau đó ông ta bị lên án vì mưu toan bác bỏ đoạn thơ trong kinh Koran, tuyên bố rằng “Mù và sáng mắt thì không như nhau.” Vì việc này ông đã bị các binh lính trẻ của vua Nizam đầu tiên là đâm mù màu sau đó thì hạ sát.

Tôi sắp sửa kể thêm chuyện thứ ba, mô tả cho cậu học nghề thư pháp có đôi mắt đẹp chuyện đại sư phụ Bihzad tự làm mình mù mắt, chuyện ông không hề muốn rời Herat, tại sao ông không bao giờ vẽ nữa sau khi bị buộc phải chuyển tới Tabriz, làm sao phong cách của nhà tiểu họa lại chính là phong cách của họa xưởng nơi ông ta làm việc và những câu chuyện khác mà tôi nghe được từ thầy Osman, nhưng rồi tôi chú ý tới người kể chuyện chuyên nghiệp. Làm sao tôi biết rằng tối nay ông ta sẽ kể chuyện về Satan?

Tôi cảm thấy muốn nói, “Chính Satan là kẻ đầu tiên nói‘Tôi’! Chính Satan là kẻ đã chọn một phong cách. Chính Satan là kẻ tách phương Đông khỏi phương Tây.” Tôi nhắm mắt lại và vẽ quỷ Satan trên tờ giấy thô của người kể chuyện theo nỗi khao khát trong tâm hồn. Trong khi tôi vẽ, người kể chuyện và anh phụ việc, những họa sĩ khác và người tò mò đứng xem vừa cười rúc rích vừa cổ vũ tôi.

Nào, bạn nghĩ rằng tôi có một phong cách riêng, hay tôi có được nó nhờ rượu?

CHƯƠNG 47
TA! SATAN

Ta yêu thích mùi ớt phi trong dầu ô liu, cảnh mưa rơi trên biển lặng lúc bình minh, sự xuất hiện bất ngờ của một phụ nữ tại khung cửa sổ rộng mở, những lúc yên tĩnh, tư tưởng và đức kiên nhẫn. Ta tin vào chính mình, và, hầu như chẳng khi nào để ý đến những gì người khác nói về ta. Nhưng tối nay, ta đến quán cà phê này để đính chính với những huynh đệ tiểu họa và thư pháp của ta về một số lời ngồi lê đôi mách, dối trá và đồn đại.

Dĩ nhiên vì ta là người đang nói, nên các ngươi sẵn sàng tin vào những gì ngược với điều ta nói. Nhưng các ngươi đủ thông minh để ý thức rằng những gì ngược với điều ta nói không phải lúc nào cũng đúng sự thật, và dù các ngươi có thể nghi ngờ ta, nhưng các ngươi đủ tinh ranh để chú ý đến những gì ta nói: các ngươi đã quá biết tên ta, cái tên xuất hiện năm mươi hai lần trong kinh Koran Vinh quang, và là một trong những tên gọi được trích dẫn thường xuyên nhất.

Vậy thì, để ta bắt đầu từ quyển sách của Thượng đế, Kinh Koran Vinh quang. Tất cả những điều viết về ta trong đó đều là sự thật. Hãy để mọi người biết rằng khi ta nói điều này, ấy là ta nói với sự khiêm nhường tột độ. Vì lại có vấn đề về phong cách nữa. Việc ta bị xem thường trong kinh Koran luôn khiến ta đau khổ. Nhưng nỗi đau này là lối sống của ta. Đơn giản là cái kiểu nó phải thế.

Thật vậy, Thượng đế đã tạo ra con người ngay trước mắt những thần thánh chúng ta. Sau đó Ngài muốn chúng ta phải quy phục trước tạo vật này. Phải, nó xảy ra đúng như những gì được viết trong chương “Al-Araf” ([11]): khi tất cả những thần thánh khác đều cúi đầu trước con người, thì ta từ chối cúi đầu. Ta nhắc mọi người rằng Adam được tạo ra từ bùn đất, trong khi ta được tạo ra từ lửa, một nguyên tố ưu việt mà tất cả các ngươi đều quen thuộc. Nên ta không cúi đầu trước con người. Và Thượng đế cho thái độ của ta là…ôi, ‘tự kiêu.’

“Hãy cút xuống khỏi những tầng trời này,” Ngài nói. “Nơi đây không phải chỗ cho những kẻ như ngươi, mưu tính sự vĩ đại.”

“Hãy cho phép tôi sống đến Ngày Phán xét,” ta nói, “đến khi người chết sống dậy.” Ngài chấp nhận cho phép. Ta hứa rằng trong toàn bộ thời gian này ta sẽ cám dỗ những hậu duệ của Adam, kẻ đã khiến ta bị trừng phạt, và Ngài nói Ngài sẽ đày xuống Địa ngục những ai bị ta làm hư hỏng: Ta không cần phải nói với ngươi rằng mỗi người trong chúng ta vẫn luôn giữ lời. Ta không có gì để nói thêm về vấn đề này.

Như một số người có thể khẳng định, vào lúc đó ta với Thượng đế đã có một thỏa ước. Theo họ, ta góp phần kiểm chứng những con cái Thượng đế bằng cách cố gắng phá hủy lòng tin của họ: Người tốt, có óc phán xét đúng, sẽ không bị chệch hướng, trong khi kẻ xấu, vốn chiều theo những ham muốn thể xác, thì sẽ phạm tội, và sau đó sẽ lấp đầy các tầng Địa ngục. Như vậy những việc ta làm là rất quan trọng: nếu mọi người đều lên Thiên đàng thì sẽ không ai còn lo sợ gì nữa, và thế giới cùng với các chính quyền ở đó không thể hoạt động nếu chỉ dựa trên đức hạnh; vì trong thế giới của chúng ta điều xấu cũng cần thiết như điều tốt và tội lỗi cũng cần thiết như sự công chính. Xét vì ta phải tạ ơn sự khởi thủy của trật tự trần gian của Allah - với sự cho phép của Ngài chứ có đùa đâu (nếu không thì tại sao Ngài để ta sống đến Ngày Phán xét?)- nên việc bị gọi là “xấu” và chưa bao giờ được đối xử công bằng là nỗi thống khổ thầm kín của ta. Những người như Mansur huyền bí, kẻ chải len, hay người em Ahmet Gazzali của Iman Gazzali nổi tiếng, đã theo dòng lý luận này tới mức kết luận trong tác phẩm của họ rằng nếu quả thực những tội lỗi ta gây ra nằm trong sự cho phép và ước muốn của Thượng đế, thì chúng là những gì Thượng đế muốn; hơn nữa, họ khẳng định rằng cái tốt và cái xấu không hề tồn tại vì mọi thứ đều bắt nguồn từ Thượng đế, và thậm chí ta cũng là một phần của Ngài.

Một số những kẻ thiếu đầu óc đó đã bị thiêu sống một cách thích đáng cùng với sách của chúng. Dĩ nhiên, cái tốt và cái xấu thực sự tồn tại, và trách nhiệm vạch ra ranh giới giữa hai điều được giao cho mỗi chúng ta. Ta không phải là Allah, cầu Thượng đế tha tội, và ta không phải là kẻ gieo những điều ngớ ngẩn như thế vào đầu lũ ngu ngốc kia; những điều đó chúng tự nghĩ ra.

Chuyện này đưa đến điều phàn nàn thứ hai của ta: ta không phải là nguồn gốc của mọi điều xấu xa và tội lỗi trên thế giới.

Nhiều người phạm tội vì tham vọng mù quáng, vì thèm khát, thiếu sức mạnh ý chí, vì hèn hạ, và thường là, vì sự xuẩn ngốc của họ mà không hề có sự xúi giục, lừa gạt hay cám dỗ của ta. Nếu như nỗ lục của một số nhà thần bí học nhằm minh oan cho ta khỏi mọi điều xấu là ngớ ngẩn đến mức nào, thì quan niệm cho rằng ta là nguồn gốc của mọi điều xấu cũng ngớ ngẩn như vậy, và điều đó cũng trái với Kinh Koran Vinh quang nữa. Ta không phải là kẻ cám dỗ mọi gã bán trái cây khéo léo nhét táo thối cho khách, mọi thằng nhóc dối trá, mọi kẻ bợ đỡ nịnh hót, mọi lão già mộng tưởng tục tĩu hay mọi thằng bé thủ dâm. Ngay cả Đấng toàn năng cũng không tìm thấy bất kỳ điều xấu nào trong cơn gió thoảng qua hay trong việc thủ dâm. Chắc chắn là, ta làm việc rất cật lực sao cho các ngươi phạm những trọng tội. Nhưng một số hoja quả quyết rằng người nào há hốc mồm, hắt hơi hay thậm chí đánh rắm đều là bị ta lừa phỉnh, điều đó cho thấy chúng không hiểu tí vì về ta.

Hãy để bọn chúng hiểu lầm ngươi, rồi ngươi sẽ dễ lừa chúng hơn, ngươi có thể nghĩ vậy. Đúng. Nhưng hãy nhớ rằng, ta có lòng tự kiêu của ta, điều đã khiến ta xung đột với Thượng đế ngay từ đầu. Mặc dù ta có thể đội bất cứ lốt nào trong sức tưởng tượng, và dù vô số sách vở đã ghi nhận hàng trăm nghìn lần rằng ta đã cám dỗ được những kẻ mộ đạo, nhất là dưới lốt một mỹ nhân gợi dục, nhưng những anh em tiểu họa ở đây tối nay có thể giải thích tại sao các ngươi vẫn nhất quyết vẽ ta thành một tạo vật dị dạng, có sừng, đuôi dài và kinh tởm, mặt đầy những mụn cóc lồi ra không?

Như vậy chúng ta đi tới trọng tâm của vấn đề: hội họa tả thực. Một đám du côn đường phố Istanbul bị kích động bởi một tay thuyết giáo mà ta không muốn nhắc tên để khỏi làm các ngươi bận tâm sau này, đã lên án những điều sau đây là trái ngược với lời Thượng đế: xướng lệnh cầu kinh như một bài ca, đàn ông tụ tập trong một nhà nguyện khổ tu, ngồi trong lòng người khác, hát xướng bừa phứa theo tiếng nhạc cụ, và uống cà phê. Tôi từng nghe rằng một số họa sĩ trong chúng ta vì e sợ tên thuyết giáo này và đám du côn của hắn nên đã quả quyết rằng ta là kẻ đứng đằng sau nền hội họa theo phong cách Tây vực này. Trong nhiều thế kỷ, vô số lời kết tội đã nhằm vào ta, nhưng chưa có lời nào xa sự thật đến thế.

Nào, hãy khởi sự lại từ đầu. Mọi người đều bị dính líu vào việc ta xúi giục Eva ăn trái cấm mà không nhớ toàn bộ sự vụ này bắt đầu từ đâu. Không, nó không bắt đầu từ sự kiêu ngạo của ta trước Thượng đế. Trước hết, đó là chuyện Ngài giới thiệu con người với chúng ta và muốn chúng ta quy phục hắn, và gặp phải sự tù chối đúng đắn và dứt khoát của ta - dù những thiên thần khác đều tuân phục. Các ngươi có nghĩ điều này là thích hợp không: sau khi tạo ra ta từ lửa, Ngài lại yêu cầu ta cúi đầu trước con người, thứ mà Ngài tạo ra từ mớ bùn thô lậu nhất? Hỡi các huynh đệ, hãy nói sự thật từ lương tâm các ngươi. Được rồi, vậy là, ta biết các ngươi đã nghĩ đến điều đó và sợ rằng những gì nói ra ở đây sẽ không chỉ chúng ta biết với nhau: Ngài sẽ nghe thấy hết và một ngày nào đó Ngài sẽ yêu cầu các ngươi trả lời. Được thôi, đừng thắc mắc tại sao Ngài ban cho các ngươi lương tâm đó ngay từ đầu; ta đồng ý, các ngươi sợ hãi như thế là chính đáng. và ta sẽ quên câu hỏi cùng với cuộc tranh luận bùn-đấu-với-lửa này. Nhưng có một điều ta sẽ không bao giờ quên - chắc chắn là vậy, một điều mà ta luôn tự hào: ta không bao giờ cúi đầu trước con người.

Tuy nhiên, đó chính là điều mà những bậc thầy mới của châu Âu đang làm, và chúng không hài lòng với việc chỉ mô tả và phô bày từng chi tiết nhỏ một như màu mắt, nước da, cặp môi cong, những vết nhăn trên trán, nhẫn và sợi lông tai tởm lợm của các quý ông, cha cố, những thương gia giàu có và cả phụ nữ - cả cái khoảng tối đáng yêu giữa ngực họ nữa. Những họa sĩ đó dám để đề tài của chúng giữa trang vẽ, như thể con người đáng được tôn thờ, và trưng bày những bức chân dung kia như những ngẫu tượng mà chúng ta phải phủ phục trước chúng. Con người có quan trọng đến nỗi được phép vẽ kỹ từng chi tiết, cho đến cả cái bóng không? Nếu như những ngôi nhà trên đường được thể hiện theo nhận thức sai lầm của con người rằng càng ra xa thì trông chúng càng nhỏ dần, thì chẳng phải con người sẽ giành vị trí của Allah tại trung tâm thế giới sao? Ôi, Allah tối thượng và toàn năng biết rõ điều này hơn ta. Nhưng quả là vô lý khi gán cho ta là tác giả ý tưởng về những bức chân dung đó; ta, kẻ đã từ chối quy phục trước con người, chịu đựng nỗi đau sâu kín và cảnh cô lập; ta, kẻ bị mất ân sủng của Thượng đế để trở thành đối tượng của những lời nguyền rủa. Nếu buộc ta chịu trách nhiệm về tất thảy bọn trẻ con thủ dâm và tất cả những ai đánh rắm như một số luật sĩ và nhà thuyết giáo vẫn làm thì xem ra còn có lý hơn.

Ta còn một nhận xét cuối cho chủ đề này, nhưng lời của ta không dành cho loài người, những kẻ không thể nghĩ xa hơn việc hăm hở khoe khoang những ham muốn xác thịt, lòng thèm khát tiền bạc hay những niềm đam mê ngớ ngẩn khác! Chỉ có Thượng đế với sự khôn ngoan vô cùng, sẽ thông cảm cho ta: chẳng phải chính Ngài là người đã khiến thói kiêu ngạo ăn sâu vào con người bằng cách bắt những thiên thần cúi đầu trước chúng sao? Giờ đây chúng cho rằng những thiên thần của Ngài được tạo ra để nhìn vào chúng; loài người đang tôn thờ chính mình, đặt chính chúng vào trung tâm vũ trụ. Ngay cả những bầy tôi tận tụy nhất của Ngài cũng muốn được vẽ chân dung theo phong cách của những họa sư Tây vực. Ta biết rõ điều này như biết tên họ của mình rằng thói tự chiêm ngưỡng này sẽ kết thúc bằng việc hoàn toàn quên mất Ngài. Và ta lại là kẻ phải đưa đầu chịu báng.

Bằng cách nào ta thuyết phục được các ngươi rằng những chuyện đó ta không hề để bụng? Dĩ nhiên, bằng cách đứng vững trên hai chân mình mặc cho hàng thế kỷ bị ném đá, bị nguyền rủa, đày xuống địa ngục và tố cáo. Nếu như những kẻ thù nông cạn và giận dữ của ta, những kẻ không bao giờ chán việc lên án ta, nhớ được rằng chính Đấng toàn năng là người đã cho ta sống đến Ngày Phán xét trong khi định phần cho chúng không quá sáu hay bảy mươi năm. Nếu ta phải khuyên rằng chúng có thể kéo dài cuộc sống bằng cách uống cà phê, thì ta biết khá rõ rằng sẽ có một số kẻ, vì đây là lời Satan nói, sẽ làm điều ngược lại, hoàn toàn không đụng đến cà phê, hay còn tệ hơn, sẽ trồng chuối ngược và cố rót cà phê vào người qua đường hậu môn.

Đừng cười. Không phải nội dung, mà kiểu tư duy mới là điều quan trọng ở đây. Không phải những gì nhà tiểu họa vẽ, mà là phong cách của hắn ta. Tuy nhiên những điều này phải tinh tế.

Ta định kết thúc bằng một câu chuyện tình, nhưng đã khá khuya rồi. Chuyên gia kể chuyện với chiếc lưỡi ngọt ngào, người nói giùm ta tối nay hứa sẽ kể câu chuyện tình này khi ông ta treo bức tranh một phụ nữ vào ngày kia, tối thứ Tư.

CHƯƠNG 48
TÔI, SHEKURE

Tôi mơ thấy cha mình nói cho nghe những điều không thể hiểu được và nó đáng sợ đến nỗi tôi tỉnh giấc. Shevket và Orhan bám chặt lấy tôi ở hai bên, và hơi ấm của chúng khiến tôi toát mồ hôi.

Shevket đặt tay lên bụng tôi. Orhan đang tựa cái đầu đẫm mồ hôi lên ngực tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn có thể rời giường và ra khỏi phòng mà không làm chúng thức giấc.

Tôi băng qua hành lang rộng và nhẹ nhàng mở cửa phòng Siyah. Trong ánh sáng từ cây nến của tôi, tôi không thấy được anh, chỉ thấy những góc cạnh tấm nệm trắng của anh, giống như một cái xác phủ vải liệm nằm giữa căn phòng tối tăm lạnh lẽo. Ánh nến có vẻ như không rọi được tới tấm nệm.

Khi tôi đưa tay gần hơn, ánh sáng đỏ cam của cây nến rọi vào gương mặt mệt mỏi, lởm chởm râu và đôi vai trần của Siyah. Tôi tiến đến gần anh. Giống như Orhan, anh ngủ cuộn người lại như con bọ nhậy, và anh có vẻ mặt của một trinh nữ đang say ngủ.

“Đây là chồng mình!” tôi tự nhủ. Anh thật xa xôi, như một người lạ, đến nỗi tôi thấy chạnh lòng vì điều đó. Nếu có mang theo một cây dao găm thì chắc tôi đã hạ sát anh - không, tôi thực tình không muốn làm chuyện như vậy; tôi chỉ tự hỏi, như bọn trẻ vẫn làm, nếu tôi giết anh thì chuyện sẽ ra sao. Tôi không tin được anh đã sống từng ấy năm dựa vào những ý nghĩ về tôi, tôi cũng không tin vẻ ngây thơ như trẻ con của anh.

Thúc vào vai anh bằng cạnh bàn chân, tôi đánh thức anh dậy. Khi thấy tôi, anh giật mình hơn là bị mê hoặc và phấn khích, dù chỉ trong khoảnh khắc như tôi hy vọng. Trước khi anh kịp tỉnh táo, tôi nói:

“Em mơ thấy cha, ông tiết lộ với em điều kinh khủng: Anh là người đã giết ông ấy...”

“Chẳng phải mình đang ở bên nhau khi cha em bị giết sao?

“Em biết chuyện đó,” tôi nói. “Nhưng anh biết lúc đó cha em ở nhà một mình.”

“Anh không biết. Chính em là người bảo Hayriye cùng bọn trẻ đi chơi. Chỉ có Hayriye, có thể là Esther nữa, biết chuyện này. Và nếu có bất kỳ ai biết điều này, thì em phải biết rõ hơn anh chứ.”

“Có nhiều lúc em cảm thấy có một giọng nói trong em sắp sửa cho em biết tại sao mọi chuyện lại trở nên tồi tệ thế này, bí mật của mọi điều bất hạnh của chúng ta. Em mở miệng để giọng nói đó có thể phát ra, song, như trong mơ, em không nói được tiếng nào. Anh không còn là Siyah hiền lành và ngây thơ trong thời thơ ấu của em nữa.”

“Chính em với cha đã xua gã Siyah chất phác đó đi mất.”

“Nếu anh cưới em chỉ để trả thù cha, thì anh đã thành công rồi đấy. Có lẽ đó là lý do vì sao bọn trẻ không thích anh.”

“Anh biết.” Anh nói không chút buồn rầu. trước khi đi ngủ em với các con có xuống nhà một lúc. Chúng hát rằng “Siyah, Siyah. cái đít lúc lắc,” to đến mức anh còn nghe thấy.”

“Lẽ ra anh phải đánh chúng,” tôi nói, ban đầu cũng hơi hy vọng anh sẽ làm vậy. Rồi tôi hoảng hốt nói thêm, “nếu anh giơ tay đánh chúng, em sẽ giết anh.”

“Vào giường đi,” anh nói. “Nếu không em chết cóng đấy.”

“Có lẽ em sẽ không bao giờ lên giường của anh. Có lẽ chúng ta đã sai lầm khi cưới nhau. Người ta nói lễ cưới của mình không có giá trị pháp lý. Anh có biết em vẫn nghe thấy tiếng bước chân của Hasan trước khi chìm vào giấc ngủ không? Điều đó không có gì ngạc nhiên, hồi em còn sống ở nhà của người chồng quá cố, em đã nghe tiếng bước chân của Hasan nhiều năm rồi. Bọn trẻ yêu chú ấy. Và chú ấy thật tàn nhẫn, cái tay đó. Chú ta có một thanh gươm đỏ, hãy cẩn thận đề phòng món đó.”

Tôi thấy có gì đó rất mệt mỏi và cứng rắn trong mắt Siyah đến nỗi tôi biết mình không thể dọa được anh.

“Trong hai đứa, anh là người nhiều hy vọng hơn và cũng nhiều sầu muộn hơn,” tôi nói. “Em chỉ xoay xở để khỏi đau khổ và bảo vệ được con mình, trong khi anh cứ một mực cố chứng tỏ mình. Đó không phải vì anh yêu em.”

Anh bắt đầu kể lể rằng anh yêu tôi đến chừng nào, rằng trong những nhà trọ hoang vắng trên những ngọn núi cằn cỗi và suốt những đêm ngập tuyết anh chỉ nghĩ đến tôi. Nếu anh không nói những điều đó ra thì hẳn tôi đã đánh thức lũ trẻ dậy mà trở về nhà chồng cũ rồi. Vì bị thôi thúc, tôi đã nói ra những điều này:

“Đôi khi có vẻ như chồng cũ của em có thể trở về bất kỳ lúc nào. Không phải em sợ bị bắt quả tang đang nằm với anh lúc nửa đêm hay bị lũ trẻ bắt gặp, mà em sợ rằng ngay khi chúng ta ôm nhau, anh ấy sẽ gõ cửa.”

Chúng tôi nghe tiếng rền rĩ của lũ mèo cấu xé nhau ngay ngoài cổng sân. Và im lặng kéo dài sau đó. Tôi nghĩ mình có thể khóc. Tôi không đặt được giá nến xuống bàn hay quay trở về phòng mình với lũ trẻ. Tôi tự nhủ sẽ không rời khỏi phòng này chừng nào chưa hoàn toàn tin rằng Siyah không dính líu gì đến cái chết của cha tôi.

“Anh coi thường bọn em,” tôi nói với Siyah. “Anh trở nên kiêu ngạo sau khi lấy được em. Anh rõ ràng thương hại bọn em vì chồng em mất tích, rồi bây giờ khi cha em bị giết, anh thấy bọn em còn tội nghiệp hơn.”

“Shekure yêu quý của anh,” anh thận trọng nói. Tôi hài lòng vì anh bắt đầu bằng cách đó. “Bản thân em biết rằng không điều nào kể trên là sự thật. Anh có thể làm tất cả vì em.”

“Vậy thì hãy ra khỏi giường, và đứng đợi với em.” Tại sao tôi lại nói rằng mình đang chờ đợi?

“Không được,” anh nói, và với vẻ bối rối, anh chỉ vào chăn và áo ngủ của anh.

Anh nói đúng, nhưng dù sao tôi cũng khó chịu vì anh không để ý đến yêu cầu của tôi.

“Trước khi cha em bị hại, anh vào nhà cúi đầu như một con mèo làm đổ sữa,” tôi nói. “Nhưng giờ đây khi anh gọi em là Shekure yêu quý của anh, nó thật trống rỗng - cứ như anh muốn bọn em biết thế.” Tôi đang run lên, không phải vì giận dữ, mà vì cái lạnh cắt da trùm lấy chân, lưng và cổ tôi.

“Vào giường và làm vợ anh đi,” anh nói.

“Làm sao phát hiện được thằng khốn giết cha em?” tôi nói. “Nếu phải mất ít lâu hắn mới bị tóm, thì việc em ở trong nhà này với anh không đúng đắn chút nào.”

“Nhờ em với Esther, Sư phụ Osman đã dồn hết tâm trí vào lũ ngựa.”

“Thầy Osman là kẻ thù không đội trời chung với cha em, cầu cho cha được yên nghỉ. Giờ đây người cha tội nghiệp của em từ trên cao có thể thấy anh đang trông vào Thầy Osman để tìm kẻ giết ông ấy, ông hẳn phải đau đớn lắm.”

Anh đột ngột nhảy ra khỏi giường và đến trước mặt tôi. Tôi thậm chí không cử động nổi. Nhưng ngược với điều tôi tưởng tượng, anh chỉ dập tắt ngọn nến bằng tay và đứng đó. Chúng tôi chìm trong bóng tối như mực.

“Cha em không còn thấy chúng ta nữa,” anh thì thầm. “Chỉ có hai ta. Chờ hãy nói anh nghe, Shekure: khi anh trở về sau mười hai năm vắng mặt, em đã gây cho anh ấn tượng rằng em sẽ có thể yêu anh, em vẫn có thể chừa cho anh một chỗ trong trái tim em. Rồi chúng mình lấy nhau. Từ đó em luôn tránh né việc yêu anh.”

“Em buộc phải lấy anh,” tôi thì thầm.

Ngay tại đây, trong bóng tối, không chút thương hại, tôi cảm thấy những lời của mình đâm vào da thịt anh như những cây đinh - như thi sĩ Fuzuli đã từng nói. ‘Nếu yêu được anh thì em đã yêu khi còn nhỏ rồi,’ tôi lại thì thào.

“Vậy thì hãy nói anh nghe, người đẹp của bóng tối ơi,” anh nói. “Em hẳn đã theo dõi tất cả những kẻ thường xuyên ghé thăm nhà mình và biết rõ họ. Theo em, ai là kẻ sát nhân?”

Tôi hài lòng khi thấy anh vẫn giữ được tính hài hước. Dù sao đi nữa anh cũng là chồng tôi.

“Em lạnh quá.” Tôi có nói như vậy hay không, tôi cũng không nhớ nữa.

Chúng tôi bắt đầu hôn nhau, ôm anh trong bóng tối, vẫn cầm nến trên tay tôi kéo cái lưỡi mềm mại của anh vào miệng mình, và nước mắt của tôi, tóc tôi, áo ngủ của tôi, cơn run rẩy của tôi và ngay cả thân thể của anh thật kỳ diệu. Sưởi ấm mũi mình bằng đôi má nóng của anh cũng thật tuyệt; nhưng Shekure nhút nhát này kìm mình lại. Khi hôn anh, tôi không buông thả bản thân hay làm rơi cây nến, vì nhớ đến cha tôi, người đang quan sát tôi, và nhớ đến người chồng cũ, và lũ trẻ đang ngủ trên giường.

“Có ai đó trong nhà”, tôi la lên. Tôi đẩy Siyah ra và bước ra hành lang.

CHƯƠNG 49
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

Im lặng và mờ mịt, chìm trong bóng tối của buổi rạng sáng, tôi bỏ đi như một người khách có tội, bước không mệt mỏi trên những con hẻm nhỏ đầy bùn. Ở Bayazid, tôi làm nghi thức thanh tẩy trong sân, bước vào thánh đường và cầu nguyện. Bên trong không có ai ngoại trừ Thầy tế Kính mến và một ông già có thể ngủ trong lúc cầu nguyện - một biệt tài chỉ ít người đạt được sau cả một đời tập luyện. Bạn vẫn biết vì sao lại có những khoảnh khắc trong giấc mơ ngái ngủ và những ký ức buồn bã khi chúng ta cảm thấy Allah đã chú ý tới ta và chúng ta cầu nguyện trong niềm hy vọng của kẻ cố nhét tờ thỉnh nguyện vào tay Quốc vương: Tôi đã cầu xin Allah cho tôi một mái ấm vui vẻ đầy những người thân yêu theo kiểu đó.

Khi tôi đến nhà Sư phụ Osman, tôi biết rằng trong vòng một tuần ông ta sẽ dần dần chiếm chỗ của Enishte quá cố trong suy nghĩ của tôi. Ông ta trái ngược và xa cách hơn, nhưng niềm tin của ông vào việc tô điểm bản thảo lại sâu xa hơn. Ông giống như một nhà khổ tu già nua đầy chiêm nghiệm hơn là một họa sư, người đã khơi dậy những cơn bão khiếp hãi, kính sợ và yêu thương trong những nhà tiểu họa suốt bao năm qua.

Khi chúng tôi đi từ nhà ông đến cung điện - ông cưỡi ngựa và hơi khòm lưng, tôi đi bộ và cũng cúi về phía trước như vậy - chúng tôi hẳn phải khiến người ta nhớ đến một nhà khổ tu già cùng một môn đệ hăng hái trong những bức minh họa rẻ tiền đi kèm những chuyện ngụ ngôn xưa.

Tại cung điện, chúng tôi thấy Chỉ huy Ngự lâm quân và người của ông ta còn hăm hở và sẵn sàng hơn cả chúng tôi. Đức vua của chúng tôi tin chắc rằng một khi chúng tôi đã xem các bức vẽ ngựa của ba tay thợ cả sáng nay, chúng tôi có thể trong nháy mắt xác định được ai trong số đó là kẻ giết người đáng nguyền rủa; và như thế, Ngài hạ lệnh rằng kẻ tội phạm sẽ bị tra tấn ngay lập tức mà không cho hắn biện hộ trước lời kết tội. Chúng tôi không được đưa đến chỗ vòi nước của đao phủ nơi mọi người có thể thấy và được cảnh báo, mà tới một ngôi nhà tạm bợ trong khu biệt lập an toàn của Cấm ngự viên, vốn được dành cho việc thẩm vấn, tra tấn và thắt cổ.

Một chàng trai, trông quá tao nhã và lịch lãm để có thể làm Ngự lâm quân, đặt ba tờ giấy lên bàn làm việc với vẻ đầy tự tin.

Sư phụ Osman lấy kính phóng đại ra và tim tôi bắt đầu đập thình thịch. Giống như con chim ưng lượn thong dong trên một dải đất, mắt ông ta, giữ nguyên khoảng cách với chiếc kính, lướt thật chậm trên ba bức minh họa ngựa cực đẹp đó. Và như con chim ưng thấy bóng con linh dương non sẽ trở thành con mồi cho nó, ông chậm lại nơi mũi các con ngựa, tập trung vào đó một cách chăm chú và bình tĩnh.

“Không có ở đây,” ông lạnh lùng nói sau một lúc.

“Cái gì không có ở đây?” tay Chỉ huy hỏi.

Tôi cho rằng sư phụ sẽ làm việc rất cẩn thận, tỉ mỉ xem xét mọi chi tiết của mấy con ngựa từ bờm xuống chân.

“Tên họa sĩ khốn kiếp không để lại bất kỳ dấu vết nào”, Sư phụ Osman nói. “Chúng tôi không xác định được kẻ đã vẽ con ngựa màu hạt dẻ từ những bức tranh này.”

Cầm chiếc kính lúp ông vừa để xuống, tôi nhìn lỗ mũi của mấy con ngựa: Sư phụ nói đúng; không có gì ở mấy con ngựa này giống với cái mũi kỳ lạ của con ngựa hạt dẻ được vẽ cho bản thảo của Enishte. Ngay khi đó tôi mới chú ý đến những kẻ tra tấn đang đợi ở ngoài với một dụng cụ mà công dụng của nó tôi không suy ra được. Trong khi cố quan sát họ qua cánh cửa mở hé, tôi thấy ai đó đang vội vàng chạy trở lui như bị âm hồn ám, rồi ẩn đằng sau những bụi dâu tằm.

Ngay lúc đó, như một tia sáng thanh thoát soi rọi buổi sáng ảm đạm, Đức vua của chúng tôi, nền tảng của thế giới, bước vào phòng.

Sư phụ Osman thú nhận với Ngài rằng ông chưa thể xác định được gì qua những bức tranh này. Tuy nhiên, ông không thể ngăn việc hướng sự chú ý của Đức vua vào những con ngựa trong các bức vẽ lộng lẫy này: cách mà con thứ nhất lồng đứng lên, tư thế thanh tú của con thứ hai, và con thứ ba, một vẻ trang nghiêm và kiêu hãnh xứng với nội dung của những cổ thư. Trong lúc đó, ông suy đoán xem ai đã vẽ bức nào, và cậu thư đồng đã chạy tới nhà từng họa sĩ liền khẳng định những gì Sư phụ Osman nói.

“Tâu Bệ hạ, đừng ngạc nhiên vì chuyện hạ thần biết rõ những họa sĩ của mình như lòng bàn tay,” Sư phụ nói. “Điều làm hạ thần lúng túng là làm sao có ai đó trong bọn họ, những người mà thần biết như lòng bàn tay mình, lại có thể tạo ra những dấu ấn hoàn toàn khác lạ đến vậy. Vì ngay cả sai sót của một bậc thầy tiểu họa cũng có lai lịch của nó.”

“Ý ngươi muốn nói gì?” Đức vua hỏi.

“Tâu Hoàng thượng, Đức Ngài Thịnh vượng và Chốn nương náu của Thế giới, theo ngu ý của hạ thần chữ ký ẩn giấu này, rõ ràng ở cái mũi của con ngựa màu hạt dẻ đây, không chỉ là một sai sót vô nghĩa và ngớ ngẩn của một họa sĩ, mà là một dấu hiệu mà nguồn gốc của nó xuất phát từ quá khứ xa xưa, từ những bức tranh khác, những kỹ thuật khác, phong cách khác, hay có lẽ cả những con ngựa khác. Nếu chúng thần được phép xem qua những trang tuyệt vời của những cổ thư hàng trăm năm tuổi mà Bệ hạ cất giữ kỹ lưỡng trong những hầm chứa, rương sắt và trong tủ của Quốc khố nội cung, chúng thần có thể xác định kỹ thuật mà lúc này chúng thần coi là sai sót; chừng đó chúng thần có thể đoán được nét cọ đó là của ai trong số ba họa sĩ này.”

“Ngươi muốn vào Quốc khố của ta ư?” Đức vua hỏi với vẻ ngạc nhiên.

“Đó là ước muốn của hạ thần”. Sư phụ nói.

Đó là một yêu cầu cũng phạm thượng như ý muốn vào hậu cung. Lúc đó tôi mới hiểu rằng nếu như hậu cung và Quốc khố chiếm hai vị trí đẹp nhất trong khuôn viên Cấm ngự viên thuộc Cung điện của Đức vua, thì chúng cũng chiếm hai vị trí yêu quý nhất trong tim Đức vua của chúng tôi.

Tôi cố gắng nhận biết những gì sẽ xảy ra qua nét mặt phương phi của Đức vua, gương mặt mà tôi giờ đây dám nhìn thẳng lên mà không sợ hãi, nhưng Ngài đột nhiên biến mất. Ngài đã nổi giận hay cảm thấy bị phạm thượng? Liệu chúng tôi, hay tất cả những nhà tiểu hoạ có bị trừng phạt vì sự khinh suất của Sư phụ không?

Nhìn vào ba con ngựa trước mặt mình, tôi tưởng tượng mình sẽ bị giết trước khi được gặp Shekure lần nữa mà chưa từng chung giường với nàng. Dù cho những nét tuyệt đẹp của mấy con ngựa tuyệt vời này nằm ngay bên cạnh, nhưng giờ đây chúng trông như xuất hiện từ một cõi xa xôi.

Tôi nhận thức rất rõ trong khoảng im lặng khủng khiếp đó rằng nếu việc bị đưa vào nội cung từ lúc còn nhỏ xíu, được nuôi lớn lên ở đây và sống ở nơi này có nghĩa là phải phục vụ Đức vua của chúng tôi và có khi phải chết vì Ngài, thì làm họa sĩ nghĩa là phụng sự Thượng đế và chết vì vẻ đẹp của Người.

Hồi lâu sau đó, khi Trưởng Ngân khố đưa chúng tôi đến Cổng Bab-us-Selam, cái chết xâm chiếm đầu óc tôi, sự im lặng chết chóc. Nhưng khi tôi băng ngang qua cổng nơi vô số vương hầu đã bị xử tử, những người lính làm như họ không hề thấy chúng tôi. Divan Meydani ([12]), ngày hôm qua còn làm tôi lóa mắt cứ như nó chính là Thiên đàng, với ngọn tháp và những con công, không còn tác động chút nào đến tôi, vì tôi biết rằng mình đang được đưa vào sâu bên trong, vào trung tâm của thế giới bí mật của Đức vua, đến Cấm thành Enderun.

Chúng tôi đi qua những cánh cửa mà đến những Thượng thư cũng không được qua. Như đứa trẻ lạc vào chuyện thần tiên, tôi dán mắt vào nền nhà để tránh phải đối mặt với những kỳ quan và tạo vật có thể hiện ra trước mặt mình. Tôi thậm chí không dám nhìn căn phòng nơi Đức vua tiếp kiến mọi người. Nhưng tia mắt của tôi tình cờ lướt qua những bức tường hậu cung gần một cây tiêu huyền bình thường, không có gì khác những cái cây khác, và lướt qua người đàn ông cao to mặc áo thụng lụa xanh lấp lánh.

Chúng tôi đi qua những hàng cột cao chót vót. Cuối cùng, chúng tôi dừng trước một khung cổng, to lớn và oai nghiêm hơn mọi cổng khác, được viền khung theo kiểu thạch nhũ lộng lẫy. Ngay ngưỡng cửa là các quan chức Ngân khố vận áo thụng láng bóng; một trong số họ đang cúi người mở khóa.

Nhìn thẳng vào mắt chúng tôi, Trưởng Ngân khố nói: “Các người thực sự rất may mắn, Quốc vương Vĩ đại đã cho phép các người được vào kho báu Enderun. Ở đây, các người sẽ được xem qua những pho sách chưa ai được xem; các người sẽ ngắm nhìn những bức tranh và những trang sách tuyệt vời bằng vàng, và như những thợ săn, các người sẽ theo dấu con mồi của mình, tên sát nhân. Đức vua bảo ta nhắc các người rằng Sư phụ Osman có ba ngày - một ngày trong số đó sắp qua rồi - cho đến trưa thứ Năm, để chỉ đích danh kẻ phạm tội trong số những nhà tiểu họa; nếu thất bại; vụ việc sẽ được chuyển đến cho Chỉ huy Ngự lâm quân để giải quyết bằng tra tấn. Đầu tiên họ gỡ miếng vải bọc quanh chiếc khóa, được niêm phong để chắc rằng không ai mở khóa mà không được phép.

Quan giữ cửa Ngân khố và hai quan chức khác xác nhận dấu niêm phong vẫn còn nguyên văn ra hiệu bằng cách gật đầu. Dấu niêm phong được gỡ ra, và khi nhét chìa khóa vào, ổ khóa bật mở với một tiếng lách cách lan ra trong im lặng bao trùm. Sư phụ Osman đột nhiên tái nhợt. Khi một cánh của gỗ chạm khắc nặng nề được mở ra, gương mặt ông phản chiếu ánh huy hoàng tăm tối như một dấu vết của những ngày xa xưa.

“Hoàng thượng Vĩ đại không muốn những quan ghi chép và thư ký kiểm kê vào đây một cách không cần thiết,” Trưởng Ngân khố nói. “Quan thủ thư đã qua đời và không ai thay thế ông chăm sóc các cổ thư. Vì vậy, Đức vua hạ lệnh chỉ một mình Jezmi Agha sẽ đi cùng các ông vào trong.”

Jezmi Agha là một ông già lùn với đôi mắt sáng long lanh, xem ra đã bảy mươi tuổi là ít nhất. Chiếc khăn trùm đầu của ông, giống như cánh bướm, trông còn kỳ lạ hơn ông.

“Jezmi Agha biết rõ bên trong Quốc khố như nhà mình; ông biết vị trí những cuốn sách và mọi thứ khác rõ hơn bất kỳ ai.”

Ông già lùn không biểu lộ chút tự hào nào về điều đó. Ông ta đang liếc qua thùng than sưởi có chân bằng bạc, cái bô có tay cầm khảm xà cừ, cái đèn dầu và những cây nến mà bọn thư đồng trong cung điện đang cầm.

Trưởng Ngân khố thông báo rằng sau khi chúng tôi vào, cửa sẽ được khóa lại và niêm phong bằng dấu triện bảy mươi năm tuổi của Quốc vương Yavuz Selim. Sau buổi cầu kinh chiều, lúc hoàng hôn, dấu niêm phong sẽ được mở lần nữa, trước sự chứng kiến của những quan Ngân khố. Hơn nữa, chúng tôi phải đặc biệt coi chừng không được để bất cứ thứ gì “vô tình” tìm đường chui vào quần áo, túi hay khăn thắt lưng của mình: chúng tôi sẽ bị khám xét đến tận đồ lót ngay khi bước ra.

Chúng tôi tiến vào, đi qua hai quan chức hai bên. Bên trong lạnh buốt. Khi cánh cửa đóng lại sau lưng, chúng tôi bị bóng tối vây phủ. Tôi ngửi thấy mùi pha trộn của ẩm ướt, bụi bặm và nấm mốc xộc thẳng vào khí quản mình. Khắp nơi lung tung đồ đạc, rương hòm và mũ trụ lẫn lộn trong một đống hỗn độn khổng lồ. Tôi có cảm giác mình là nhân chứng cho một trận đánh lớn.

Mắt tôi thích nghi với ánh sáng lạ kỳ tỏa xuống toàn bộ chỗ này, xuyên qua những chấn song lớn của những cửa sổ cao, xuyên qua hàng trụ lan can của cầu thang dọc những vách tường cao và thanh tay vịn dọc lối đi lát gỗ trên tầng hai. Căn phòng màu đổi nhuốm màu của vải nhung, thảm nền và thảm kilim treo tường. Với lòng kính trọng đúng mức, tôi ngẫm nghĩ xem việc tích góp tất cả của cải này là kết quả của bao cuộc chiến đã tiến hành, bao máu đã đổ, bao kho báu và thành phố đã bị cướp phá.

“Sợ hả?” ông già lùn hỏi, diễn tả cảm giác của tôi bằng lời.“Ai cũng kinh hoàng khi lần đầu đến đây. Đến đêm linh hồn của những vật này thì thầm với nhau.”

Cái đáng sợ ở đây là sự tĩnh mịch bao trùm khối lượng khổng lồ những vật quý hiếm. Phía sau, chúng tôi nghe tiếng lách cách khi người ta gắn niêm phong vào ổ khóa cửa, và chúng tôi bất động, nhìn xung quanh với niềm kính sợ.

Tôi thấy những thanh gươm, ngà voi, áo thụng, giá nến bằng bạc và cờ xí bằng satanh. Tôi thấy những chiếc hộp khảm xà cừ rương hòm bằng sắt, lọ sứ Trung Hoa, thắt lưng, đàn luýt cổ dài, áo giáp, đệm nhung, những khối cầu mô hình, giày, lông thú, sừng tê giác, trứng đà điểu được trang trí, súng trường, cung tên, quyền trượng và tủ trưng bày. Có hàng đống thảm, vải vóc và satanh ở khắp nơi, có vẻ như chỉ chực đổ ụp xuống tôi từ những tầng lót ván bên trên, từ hàng lan can, từ những phòng xép và ngăn chứa xây chìm vào tường. Một luồng sáng lạ, tôi chưa từng thấy gì tương tự như vậy bao giờ, ánh lên từ vải vóc, những chiếc hộp, hoàng bào, gương, những cây nến khổng lồ màu hồng, khăn xếp, gối thêu ngọc trai, những chiếc yên ngựa mạ vàng, gươm cong có chuôi nạm kim cương, quyền trượng với tay cầm nạm hồng ngọc, khăn xếp chần bông, lông chim gắn trên khăn xếp, những chiếc đồng hồ lạ lùng, bình đựng nước và dao găm, tượng voi và ngựa bằng ngà, ống điếu nạm kim cương hai đầu, tủ ngăn kéo khảm xà cừ, lông chim bạch hạc cho ngựa, những chuỗi tràng hạt lớn, mũ trụ trang trí bằng hồng ngọc và lam ngọc. Ánh sáng đó từ những cửa sổ trên cao nhợt nhạt tỏa xuống chiếu sáng những hạt bụi lơ lửng trong căn phòng lờ mờ tối giống như ánh nắng hè rọi vào từ trên lỗ trổ bằng kính ở đỉnh vòm của thánh đường - nhưng đây không phải ánh nắng. Trong ánh sáng lạ kỳ này, không khí tưởng như chạm vào được và mọi vật như làm bằng cùng một chất liệu. Sau khi chúng tôi hồi hộp trải nghiệm sự im lặng của căn phòng thêm một lúc nữa, tôi nhận thấy chính ánh sáng cũng như màn bụi bao phủ mọi thứ đã làm mờ đi màu đỏ ngự trị trong căn phòng lạnh lẽo này, hòa trộn mọi vật thành một khối đồng nhất bí ẩn. Và khi mắt lướt qua những đồ vật kỳ lạ và mơ hồ đó, không phân biệt được món này với món khác cho dù nhìn lại hai ba lần, cái khối thừa mứa đồ đạc khổng lồ này càng trở nên đáng sợ. Món mà tôi cứ tưởng là chiếc rương thì sau đó lại xác định là một cái bàn làm việc gấp lại được, sau đó nữa lại là một dụng cụ lạ lùng nào đó của người Tây vực. Tôi thấy chiếc rương khảm xà cừ nằm giữa đống khăn áo và lông vũ bị lôi ra khỏi hộp và quăng vội vã khắp nơi thật ra lại là một cái tủ trưng bày lạ mắt do Sa hoàng bên Nga gửi tặng.

Jezmi Agha đặt thùng than sưởi vào một hốc chìm trong tường.

“Những cuốn sách đặt ở đâu?” Sư phụ Osman thì thầm.

“Sách nào?” ông lùn nói. “Những cuốn từ Ả Rập, những quyển kinh Koran viết kiểu chữ Kufic, những quyển mà Quốc vương Yavuz Selim Vĩ đại, Người của Thiên đàng đã mang về từ Tabriz, sách của các vương hầu bị tịch thu của cải khi họ lãnh án tử hình, những bộ sách do sứ thần Venice mang đến tặng ông nội Quốc vương Vĩ đại, hay những quyển sách Thiên chúa giáo từ triều đại của Quốc vương Fatih Mehmet?”

“Những cuốn sách mà vua Tahmasp gởi cho Quốc vương Yavuz Selim Vĩ đại, Người của Thiên đàng, làm quà tặng hai mươi lăm năm về trước.” Sư phụ Osman nói.

Ông lùn đưa chúng tôi đến một chiếc tủ gỗ lớn. Sư phụ Osman bồn chồn khi ông mở những cánh cửa và nhìn thấy những pho sách trước mặt. Ông mở một quyển, đọc xuất xứ và lật nhanh các trang. Bên nhau, chúng tôi kinh ngạc nhìn chằm chằm những hình minh họa kỹ càng các vị đại hãn với cặp mắt hơi xếch.

“Thành Cát Tư Hãn, Sát Hợp Đài, Đà Lôi và Hốt Tất Liệt, Người Thống trị Trung Hoa,” Sư phụ Osman đọc trước khi đóng quyển sách lại và cầm cuốn khác lên.

Chúng tôi đi ngang qua một bức tranh cực đẹp miêu tả cảnh Ferhad, được tiếp sức mạnh từ tình yêu, mang Shirin yêu dấu của anh và con ngựa của nàng trên vai. Để diễn tả nỗi khó khăn gian khổ mà cặp tình nhân phải trải qua, những tảng đá trên nửa bầu trời và ba cây bách hùng vĩ làm nhân chứng cho hành động vì tình yêu của Ferhad, được vẽ với bàn tay run rẩy vì cơn đau cùng cực đến nỗi Sư phụ Osman và tôi ngay lập tức xúc động trước mùi vị nước mắt và nỗi sầu trong những chiếc lá rơi. Khoảnh khắc đầy xúc cảm này được miêu tả - như ý định của những bậc thầy vẽ nó - không phải để khắc họa sức mạnh cơ bắp của Ferhad, mà thiên về miêu tả việc cả thế giới đã lập tức cảm nhận nỗi đau trong tình yêu của chàng như thế nào.

“Một tác phẩm bắt chước Bihzad được làm ở Tabriz tám mươi năm trước,” Sư phụ Osman nói trong khi đặt quyển sách đó xuống và mở một pho khác ra.

Đây là một bức tranh miêu tả tình bạn miễn cưỡng giữa mèo và chuột trong Kalila wa Dimna ([13]). Ngoài cánh đồng, một con chuột tội nghiệp, bị kẹt giữa con chồn dưới mặt đất và con diều hâu trên trời, tìm sự giúp đỡ từ một con mèo không may bị sập bẫy thợ săn. Chúng thỏa thuận với nhau: Con mèo sẽ giả làm bạn con chuột và liếm nó, khiến con chồn và diều hâu sợ bỏ đi. Đổi lại, con chuột thận trọng giải thoát con mèo khỏi cái bẫy. Thậm chí trước khi tôi kịp cảm nhận sự nhạy cảm của họa sĩ, Sư phụ đã nhét cuốn sách lại bên cạnh những quyển kia và ngẫu nhiên mở một quyển khác.

Đây là một bức tranh đẹp vẽ một phụ nữ bí ẩn và một người đàn ông: Người phụ nữ xòe một bàn tay ra một cách thanh tú trong khi đặt một câu hỏi, tay kia đặt vào đầu gối dưới chiếc áo choàng xanh, người đàn ông thì quay về phía cô mà lắng nghe chăm chú. Tôi háo hức nhìn vào bức tranh, ghen tị với sự thân ái, tình yêu và tình bạn giữa họ.

Đặt quyển sách đó xuống, Sư phụ Osman mở một cuốn sách khác. Kỵ binh của quân đội Ba Tư và Turania, những kẻ thù truyền kiếp, với đầy đủ áo giáp, mũ trụ, giáp che chân, cung, ống tên và tên, ngồi trên những con ngựa lộng lẫy, huyền thoại, được vũ trang đầy đủ. Trước khi lại lao vào một trận quyết tử, họ được dàn trận ngay hàng thẳng lớn đối mặt nhau trên một đồng cỏ đất vàng mũi giáo chĩa lên trời, được tô điểm bằng nhiều màu sắc, đang kiên nhẫn quan sát chỉ huy của họ, người đã tiến lên phía trước và bắt đầu chiến đấu. Tôi sắp tự nhủ rằng cho dù bức họa này được vẽ trong thời đại này hay cả trăm năm trước, dù nó là bức mô tả chiến tranh hay tình yêu, cái mà người họa sĩ đã thực sự vẽ và truyền đạt với niềm tin tuyệt đối là một trận chiến với ý chí và tình yêu của anh ta đối với hội họa; tôi định nói thêm rằng nhà tiểu họa này thực sự đã vẽ sự kiên nhẫn của mình, thì Sư phụ Osman nói:

“Ở đây cũng không có,” và đóng pho sách nặng nề đó lại.

Trên các trang của một quyển sưu tập tranh, chúng tôi thấy những dãy núi quyện lấy những đám mây vần vũ trong một bức tranh phong cảnh dường như kéo dài vô tận. Tôi ngẫm nghĩ về chuyện hội họa được cho là nhằm quan sát thế giới này nhưng lại miêu tả nó như thể đó là Thế giới khác. Sư phụ Osman thuật lại làm sao mà bức tranh Trung Hoa này có thể phiêu lưu từ Bukhara đến Herat, từ Herat đến Tabriz và cuối cùng từ Tabriz đến cung điện của Quốc vương, đi từ cuốn sách này đến cuốn khác trên đường phiêu lưu, được khâu lại rồi tháo ra, cuối cùng được khâu lại chung với những bức vẽ khác vào cuối cuộc hành trình từ Trung Hoa đến Istanbul.

Chúng tôi thấy những bức vẽ về chiến tranh và cái chết, mỗi bức sau lại càng đáng sợ và được thực hiện tinh xảo hơn bức trước: Rustem cùng vua Mazenderan; Rustem tấn công quân đội của Afrasiyab, và Rustem, cải trang trong giáp trụ, một chiến binh anh hùng bí ẩn và vô danh... Trong một quyển sưu tập khác chúng tôi thấy những xác chết bị chặt lìa tay chân, những con dao găm nhuộm đầy máu, những người lính u sầu mắt lóe tia chết chóc và những chiến binh chém giết nhau đổ xuống như sậy, giao chiến không khoan nhượng, như những đội quân truyền thuyết mà chúng tôi không thể gọi tên. Sư phụ Osman - không biết là lần thứ mấy ngàn - ngắm bức vẽ Husrev nhìn trộm Shirin đang tắm trong hồ dưới ánh trăng, bức vẽ đôi tình nhân Leyla và Mejnun ngất xỉu đi khi họ nhìn nhau sau một khoảng thời gian chia cách đằng đẵng, và một bức tranh rất có hồn tràn ngập chim muông, cây cỏ và hoa lá vẽ Salaman và Absal khi họ chạy trốn cả thế giới này và cùng chung sống trên một hòn đảo tràn ngập hạnh phúc. Như một bậc thầy vĩ đại thực thụ, ông không thể không hướng sự chú ý của tôi đến vẻ lạ kỳ ở góc một bức tranh thậm chí tồi tệ nhất, có lẽ liên quan đến sự sai sót về phía nhà trang trí, hay có lẽ là sự hòa quyện của các màu sắc: Như trong truyện, Husrev và Shirin đang lắng nghe một màn ngâm thơ mê hoặc của những thị nữ của nàng, nhưng hãy nhìn xem, tên họa sĩ buồn rầu và đầy thù hận nào đã đặt một con cú mang điềm gở kia lên nhánh cây một cách không cần thiết như thế; ai đã vẽ thêm cậu bé đáng yêu mặc áo váy phụ nữ kia vào giữa những người đàn bà Ai Cập tự cắt nhầm tay do vừa gọt vỏ những quả cam tươi ngon vừa lo liếc mắt nhìn vẻ tuấn tú của Yusuf? Liệu người họa sĩ đã vẽ cảnh Isfendiyar mù lòa vì mũi tên có tiên đoán được rằng sau đó chính hắn cũng sẽ bị đâm mù mắt không?

Chúng tôi thấy những thiên thần cùng Đấng Tiên tri cao cả trong cuộc thăng thiên; một lão già da đen, sáu tay, râu trắng dài tượng trưng cho thần Zuhal ([14]); và Rustem lúc sơ sinh đang ngủ yên lành trong chiếc nôi khảm xà cừ dưới sự trông chừng của người mẹ và các cô giữ trẻ. Chúng tôi thấy Darius chết đau khổ trong tay Alexander, rồi cảnh Behram Gur rút vào căn phòng đỏ với công chúa Nga của hắn, Siyavush chạy xuyên qua lửa trên lưng con ngựa ô mà cái mũi không có gì đặc biệt, và tang lễ thương đau của Husrev, kẻ bị chính con trai mình hạ sát. Trong khi Sư phụ Osman nhanh nhẹn lấy những quyển sách ra và đặt chúng qua một bên, nhiều lúc ông có thể nhận ra người họa sĩ và cho tôi thấy, hoặc moi ra chữ ký của người minh họa khiêm nhường giấu trong những bông hoa mọc lên từ một góc khuất của căn nhà đổ, hay giấu dưới giếng tối cùng với một âm hồn.

Bằng cách so sánh chữ ký và xuất xứ, ông có thể xác định ai đã mô phỏng cái gì từ người nào. Ông lật qua một số cuốn rất cẩn thận với hy vọng tìm thấy một loạt tranh vẽ. Có những khoảng im lặng kéo dài mà không nghe âm thanh gì ngoài tiếng lật loẹt xoẹt mơ hồ những trang giấy. Đôi khi, Sư phụ Osman la lên “A!” nhưng tôi im lặng, không thể hiểu cái gì đã khiến ông hào hứng vậy. Đôi khi ông nhắc tôi rằng chúng tôi đã từng gặp cách sắp xếp trang hay bố cục các cội cây và những người lính cưỡi ngựa này trong bức minh họa nào đó ở những cuốn sách khác, trong những cảnh khác của những câu chuyện hoàn toàn khác, và ông chỉ lại những bức kia để giúp tôi nhớ ra. Ông so sánh một bức tranh trong một bản sách Khamse của Nizami từ thời vua Riza con trai của Tamerlane - khoảng hai trăm năm về trước - với một bức khác mà ông bảo rằng được vẽ ở Tabriz trước đây khoảng bảy mươi hay tám mươi năm, tiếp đó ông hỏi tôi học được gì từ việc hai nhà tiểu họa cùng vẽ một bức tranh như nhau mà không hề nhìn thấy tác phẩm của nhau. Ông tự trả lời câu hỏi của mình:

“Vẽ là nhớ lại.”

Hết đóng rồi lại mở những bản thảo có trang trí, Sư phụ Osman chúi gương mặt đầy u sầu vào tác phẩm nghệ thuật lạ lùng (vì không ai có thể vẽ như vậy nữa) rồi sau đó hào hứng trong niềm vui trước những bức bị xử lý kém cỏi (vì mọi nhà tiểu họa đều là huynh đệ!) - và ông cho tôi thấy những gì mà họa sĩ đã ghi nhớ, nghĩa là, những bức tranh xưa vẽ cây cối, thiên thần, dù lọng, hổ báo, lều bạt, những con rồng và những hoàng tử u sầu, và trong quá trình đó, điều mà ông ám chỉ là: Đã từng có lúc Allah nhìn thế giới với vẻ độc đáo của nó, tin vào vẻ đẹp của những gì Ngài nhìn thấy, và trao công trình tạo tác của Ngài cho chúng ta, những tôi tớ của Ngài. Nhiệm vụ của những nhà minh họa và những người yêu nghệ thuật, khi nhìn vào thế giới là ghi nhớ sự lộng lẫy mà Allah đã nhìn ngắm và để lại cho chúng ta. Những bậc thầy vĩ đại nhất của mỗi thế hệ họa sĩ, dùng cả cuộc đời và làm việc cật lực đến mù lòa, phấn đấu với nỗ lực lớn lao và nguồn cảm hứng mạnh mẽ hầu đạt tới và ghi lại giấc mơ tuyệt vời mà Allah muốn chúng ta nhìn thấy. Công việc của họ giống như loài người đang gợi lại ký ức vàng son của họ từ thuở ban sơ.

Đáng tiếc thay, ngay cả những bậc thầy vĩ đại nhất, giống như những ông già mệt mỏi hay nhà tiểu họa mù lòa vì lao động, chỉ mơ hồ góp nhặt được những phần ngẫu nhiên của tầm nhìn tuyệt vời đó. Đó chính là sự khôn ngoan bí ẩn đằng sau hiện tượng những bậc thầy già tài tình vẽ nên một thân cây, một chú chim, tư thế của một vị hoàng tử đang tắm trong nhà tắm công cộng hay người phụ nữ buồn bã tựa cửa sổ giống hệt nhau cho dù họ không hề thấy tác phẩm của nhau và cho dù họ sống cách nhau hàng trăm năm.

Khá lâu sau, khi ánh sáng đỏ quạch trong Quốc khố trở nên mờ nhạt và chúng tôi thấy rõ rằng cái tủ này không có những quyển sách mà vua Tahmasp đã gửi tặng ông nội của Đức vua, Sư phụ Osman trở lại với luận lý cũ:

“Đôi lúc, một cánh chim, cách vẽ những chiếc lá vào cành cây, những đường cong của mái hiên, cách những cụm mây bay ngang hay nụ cười của người phụ nữ được duy trì qua nhiều thế kỷ bằng cách truyền từ thầy dạy xuống đồ đệ và được trưng bày, giảng dạy và ghi nhớ qua nhiều thế hệ. Sau khi học được chi tiết này từ thầy dạy, nhà tiểu họa tin rằng đó là hình dáng hoàn hảo, và tin chắc rằng điều đó là bất di bất dịch như anh ta tin vào Kinh Koran Vinh quang, và cũng như thuộc kinh Koran, anh ta sẽ không thể quên cái chi tiết đã in sâu vào ký ức mình. Tuy nhiên, không bao giờ quên không có nghĩa là họa sĩ bậc thầy này sẽ luôn luôn sử dụng chi tiết đó. Đôi khi những phong tục của xưởng vẽ nơi anh ta đánh mất ánh sáng của đôi mắt, những thói quen và sở thích chọn màu của bậc thầy khó tính bên cạnh anh ta, hay ý thích thất thường của quốc vương sẽ ngăn anh ta vẽ lại chi tiết đó, và anh ta sẽ vẽ một cánh chim, hay cái cách một phụ nữ cười...”

“Hay cái mũi của một con ngựa.”

“…hay cái mũi của một con ngựa”, Sư phụ Osman mặt lạnh lùng nói, không theo cách đã ăn sâu vào tâm hồn anh ta, mà dựa theo phong tục của xưởng vẽ nơi anh ta đang làm việc, giống như những họa sĩ khác ở đó. Ngươi có hiểu ý ta không?”

Từ một trang trong quyển  Husrev o Shirin của Nizami, chúng tôi đã lật qua rất nhiều phiên bản cua tác phẩm này, trong một bức tranh miêu tả Shirin ngồi trên ngai vàng, Sư phụ Osman đọc lớn những chữ được khắc ở hai phiến đá bên trên bức tường Cung điện: ALLAH TỐI CAO DUY TRÌ SỨC MẠNH CỦA ĐỨA CON BÁCH THẮNG TAMERLANE ĐẠI ĐẾ, QUỐC VUƠNG CAO QUÝ CỦA CHÚNG TA, ĐẠI HÃN CÔNG CHÍNH, BẢO VỆ NGAI VÀNG VÀ LÃNH THỔ CỦA NGÀI ĐỂ NGÀI CÓ THỂ MÃI MÃI MÃN NGUYỆN (phiến đá bên trái khắc) VÀ GIÀU CÓ (phiến bên phải khắc).

Sau đó, tôi hỏi, “Chúng ta có thể tìm đâu ra bức họa mà trong đó nhà tiểu họa vẽ mũi một con ngựa giống như thứ đã khắc sâu vào trí nhớ của hắn?”

“Ta phải tìm ra pho Shahnameh huyền thoại mà vua Tahmasp đã gửi làm quà tặng,” Sư phụ Osman nói. “Chúng ta phải quay lại những ngày xưa chói lọi đó của truyền thuyết, khi Allah còn tác động tới việc vẽ những bức tiểu họa. Chúng ta còn rất nhiều sách chưa xem qua.”

Tôi chợt nghĩ rằng có thể, chỉ là có thể thôi, mục đích chính của Sư phụ Osman không phải là tìm những con ngựa với những chiếc mũi được vẽ kỳ lạ, mà là xem xét tỉ mỉ càng nhiều càng tốt những bức tranh kỳ diệu đã ngủ yên nhiều năm trong Quốc khố này, hoàn toàn thoát khỏi những cặp mắt soi mói. Tôi sốt ruột muốn tìm ra manh mối có thể hợp nhất tôi với Shekure đang đợi tôi ở nhà đến nỗi tôi không muốn tin ràng vị Sư phụ này có khi lại muốn ở lại Quốc khố lạnh lẽo này càng lâu càng tốt.

Dù vậy chúng tôi vẫn kiên nhẫn mở những tủ, những rương khác do ông già lùn chỉ dẫn, để xem xét những bức tranh trong đó. Thỉnh thoảng tôi lại phát mệt với những bức tranh, tất cả nhìn hao hao nhau, và ước gì không bao giờ thấy bức Husrev thăm Shirin dưới cửa sổ lâu đài; tôi rời khỏi chỗ đứng bên cạnh Sư phụ mà không buồn nhìn đến mũi của con ngựa Husrev đang cuối - và cố gắng làm ấm người bên thùng than sưởi, hoặc bước đi trịnh trọng và kiêng dè giữa những đống vải vóc, vàng bạc, vũ khí, giáp trụ và hàng chiến lợi phẩm trong những phòng kế bên của Quốc khố. Đôi khi giật mình vì một tiếng kêu bất ngờ và cái khoát tay của Sư phụ Osman, tôi tưởng tượng rằng thầy vừa tìm thấy một tuyệt tác mới, hoặc, phải đấy, một con ngựa với cái mũi kỳ lạ, thế là tôi chạy đến bên ông, nhìn vào bức tranh ông đang cầm bằng đôi tay hơi run trong khi ngồi lom khom trên một tấm thảm Ushak có từ thời Quốc vương Fatih Mehmet, để rồi chỉ thấy được một bức minh họa, thuộc loại tôi chưa từng thấy trước đây miêu tả cảnh Satan lẻn lên thuyền của Nuh ([15]) chẳng hạn.

Chúng tôi nhìn hàng trăm vị vua, hoàng đế, quốc vương và đại hãn - những người trị vì ngai vàng của nhiều vương quốc và đế chế khác nhau từ thời của Tamerlane đến Quốc vương Kanuni Suleyman - hạnh phúc và hào hứng săn linh dương, sư tử và thỏ. Chúng tôi còn thấy cả Quỷ sứ cắn ngón tay mình và bối rối thoái lui trước một người đàn ông vô sỉ đứng trên những thanh gỗ buộc vào chân sau con lạc đà để hắn có thể hãm hiếp con vật tội nghiệp. Trong một quyển sách Ả Rập đến từ Baghdad, chúng tôi xem cảnh một nhà buôn bám chặt vào đôi chân của con chim thần thoại khi nó bay ngang qua biển. Trong một quyển khác đã tự mở trang đầu, chúng tôi thấy bức tranh mà Shekure và tôi thích nhất, trong đó Shirin ngắm bức tranh vẽ Husrev treo trên cành cây và đem lòng yêu anh. Sau đó, nhìn vào một bức tranh miêu tả sinh động cách vận hành bên trong của một chiếc đồng hồ phức tạp gồm những dây cót và những trái cầu kim loại, những chú chim và tượng nhỏ Ả Rập ngồi trên lưng một con voi, chúng tôi nhớ đến thời gian.

Tôi không nhớ chúng tôi đã bỏ thêm bao nhiêu thời gian để xem xét hết quyển sách này đến quyển khác và hết bức họa này đến bức khác theo cách đó. Cứ như là thời đại hoàng kim đông cứng, bất biến toát ra từ những bức tranh và câu chuyện chúng tôi thấy đã hòa vào thời gian ẩm thấp và meo mốc mà chúng tôi trải qua trong Quốc khố. Có vẻ như những trang minh họa này, được vẽ ra từ hàng thế kỷ trước bằng sự phung phí thị lực trong những xưởng vẽ của vô số vua chúa, đại hãn và quốc vương, rồi sẽ sống lại. Cũng như những đồ vật có vẻ như đang vây kín chúng tôi: những mũ trụ, mã tấu, dao găm với cán nạm kim cương, áo giáp, những chiếc tách sứ Trung Hoa, những chiếc đàn luýt mỏng manh và đầy bụi, những chiếc gối và thảm treo tường thêu trang trí ngọc trai - những món tương tự như những gì chúng tôi thấy trong vô số tranh minh họa.

“Giờ ta hiểu rằng, bằng cách lặng lẽ và từ từ tái tạo những bức tranh giống nhau qua hàng trăm năm, hàng ngàn họa sĩ đã khéo léo thể hiện sự chuyển hóa dần dần thế giới của họ thành một thế giới khác.” Trước hết tôi phải thừa nhận tôi không hoàn toàn hiểu dụng ý của Sư phụ Osman. Nhưng sự tập trung cao độ của thầy vào hàng ngàn bức tranh được vẽ trong vòng hai trăm năm trước từ Bukhara đến Herat, từ Tabriz đến Baghdad và từ khắp nơi đến Istanbul đã đi quá xa cuộc tìm kiếm manh mối qua lỗ mũi của một con ngựa nào đó. Chúng tôi nhu đang tham gia vào một khúc bi ca cho cảm hứng, tài năng và lòng kiên nhẫn của tất cả những bậc thầy đã vẽ và trang trí tại những miền đất ấy qua bao năm tháng.

Vì lý do đó, khi những cánh cửa Quốc khố mở ra vào buổi cầu kinh chiều và Sư phụ Osman giải thích với tôi rằng ông không hề muốn rời khỏi nơi đây, hơn nữa, chỉ bằng cách lưu lại đây đến sáng mà xem xét những bức tranh dưới ánh đèn dầu và ánh nến thì ông mới thi hành đúng mệnh lệnh của Đức vua, thì phản ứng đầu tiên của tôi, như tôi nói với ông, là tôi sẽ ở lại đây cùng ông và ông già lùn.

Tuy nhiên, khi cửa mở và thầy tôi bày tỏ ước muốn của ông với viên quan đang chờ và xin phép Trưởng Ngân khố, lập tức tôi hối hận về quyết định của mình. Tôi khao khát Shekure và mái ấm của chúng tôi. Tôi càng lúc càng bồn chồn khi tự hỏi làm sao nàng có thể xoay xở qua đêm một mình với bọn trẻ, làm sao nàng đóng chặt những tấm rèm mới sửa nơi cửa sổ.

Qua cánh cổng mở ngỏ của Quốc khố, tôi bị cuộc sống kỳ diệu bên ngoài vẫy gọi qua những cây tiêu huyền cổ thụ đọng sương trong khuôn viên sân Enderun giờ đây chìm trong làn sương mỏng và qua bóng dáng hai cậu thư đồng đang nói chuyện với nhau bằng cách ra hiệu để không quấy rầy sự yên tĩnh của Quốc vương; nhưng tôi ở nguyên tại chỗ, đông cứng vì bối rối và tội lỗi.

CHƯƠNG 50
CHÚNG TÔI, HAI NHÀ KHỔ TU

Đúng, có lẽ chính bởi tên lùn Jezmi Agha mà tin đồn rằng bức vẽ chúng tôi nằm trong những trang sách đến từ Trung Hoa, Samarkand và Herat tạo thành một cuốn sưu tập tranh được giấu trong góc khuất nhất của Quốc khố đầy những chiến lợi phẩm từ hàng trăm đất nước qua hàng trăm năm do những tổ tiên của Đức Ngài, Quốc vương của chúng ta đã được lan truyền nhiều nhất đến cộng đồng tiểu họa. Nếu bây giờ chúng tôi có thể kể lại câu chuyện của mình theo lối cũ của chúng tôi - cầu cho ý muốn của Thượng đế ở bên chúng tôi - thì chúng tôi hy vọng rằng không ai trong đám đông ở quán cà phê xinh xắn này thấy phật lòng.

Một trăm mười năm đã qua kể từ khi hai chúng tôi chết, bốn mươi năm kể từ khi đóng cửa những nhà nguyện khổ tu tồi tệ thân Ba Tư của chúng tôi, những sào huyệt dị giáo và hang ổ của trò ma quỷ, nhưng hãy tự nhìn xem, bọn tôi ở ngay trước mắt các vị. Sao lại thế được? Tôi sẽ nói cho các vị biết tại sao: chúng tôi được thể hiện theo phong cách Venice! Như bức minh họa này miêu tả, một ngày nọ hai kẻ khổ tu chúng tôi lặn lội băng qua lãnh thổ của Quốc vương từ thành phố này đến thành phố khác. Chúng tôi đi chân trần, đầu cạo trọc, thiếu quần thiếu áo; mỗi người mặc một chiếc áo không tay và khoác da nai, một thắt lưng quanh bụng, tay cầm gậy đi đường, chiếc bát khất thực đeo lủng lẳng ở cổ bằng một sợi dây xích; một người mang một chiếc búa nhỏ để đốn củi, người kia mang một chiếc muỗng để ăn bất cứ thức ăn nào Thượng đế ban cho.

Lúc đó, đứng trước một quán trọ bên cạnh vòi phun nước người bạn tốt của tôi, không, người bạn yêu quý, hơn nữa, người anh em của tôi và tôi đang lao vào cuộc tranh luận thường lệ: “Anh ăn trước đi”, “Không, anh trước đi,” chúng tôi ồn ào nhường qua nhường lại chuyện ai sẽ là người cầm muỗng lên ăn thức ăn trong bát trước, thì một du khách Tây vực, một người lạ, chặn chúng tôi lại, đưa cho mỗi đứa một đồng bạc Venice và bắt đầu vẽ chúng tôi.

Hắn là người Tây vực; dĩ nhiên, hắn khác thường. Hắn đặt chúng tôi ngay giữa bức tranh như thể chúng tôi chính là lều của Quốc vương, và đang vẽ chúng tôi trong tình trạng nửa trần truồng khi tôi nói cho anh bạn đồng hành nghe một ý nghĩ vừa đến với tôi: Để xuất hiện như khất sĩ nghèo đói Kalenderi đích thực chúng tôi nên trợn mắt lên để hai con ngươi hướng vào trong, tròng trắng mắt quay ra thế giới như những người mù - và đó chính là những gì chúng tôi định làm. Trong tình cảnh này, bản chất của kẻ khổ tu là nhìn thế giới trong đầu anh ta hơn là thế giới bên ngoài, vì đầu của chúng tôi đầy chất gây ngủ, nên bức tranh trong đầu chúng tôi dễ chịu hơn những gì tên họa sĩ Tây vực ấy nhìn thấy.

Trong lúc đó, cảnh tượng bên ngoài thậm chí trở nên tồi tệ hơn; chúng tôi nghe một ngài Hoja đang huênh hoang.

Hãy cầu nguyện, đừng để chúng tôi khiến các người hiểu lầm. Chúng tôi hiện đề cập đến vị “Hoja Kính mến,” nhưng tuần trước trong quán cà phê xinh đẹp này đã có một hiểu lầm tai hại: Vị Hoja Kính mến này, người mà chúng tôi đang nói tới, không liên quan gì đến Đức Ngài Nusret Hoja giáo sĩ xứ Erzurum, hay với tên khốn Husret Hoja, hay với tên hoja xứ Sivas làm tình với Quỷ sứ trên ngọn cây. Những ai hiểu mọi việc theo cách tiêu cực đã nói rằng nếu Ngài Hoja Kính mến trở thành mục tiêu chỉ trích ở đây một lần nữa, họ sẽ cắt lưỡi người kể chuyện và phá sập quán cà phê xuống bằng ngang đầu hắn.

Một trăm hai mươi năm trước, hồi chưa hề có cà phè, Hoja đáng kính, nhân vật trong câu chuyện chúng tôi đang kể, đơn giản là đang đùng đùng nổi giận.

“Này, thằng Tây vực ngoại giáo kia, sao mày lại vẽ hai đứa đó?” Ông ta nói. “Những tên khổ tu Kalenderi này lang thang khắp nơi ăn cắp và ăn xin, chúng hút cần sa, uống rượu, quan hệ đồng tính với nhau, và qua cung cách của chúng thì rõ ràng chúng không biết gì về hành lễ hay đọc kinh, về nhà cửa, hay mái ấm gia đình; chúng chẳng là gì cả ngoài một đám cặn bã trong thế giới tươi đẹp của chúng tao. Còn mày, tại sao mày lại vẽ tranh về thứ ô nhục này trong khi có rất nhiều cái đẹp trên đất nước tuyệt vời này? Có phải để bôi nhọ chúng tao không?”

“Không có gì, đơn giản chỉ vì tranh vẽ về mặt xấu của các ông mang lại nhiều tiền hơn”, tên vô thần ấy nói. Hai kẻ khổ tu chúng tôi chết điếng người vì sự vững chắc trong lý luận của tên họa sĩ.

“Nếu vẽ Quỷ sứ theo hướng ưu ái mà đem lại nhiều tiền thì mày có vẽ không?” Vị Hoja Kính mến nói, rụt rè tìm cách mở màn một cuộc tranh luận, nhưng, như các người có thể thấy qua bức tranh, gã Venice là một họa sĩ đích thực, hắn ta tập trung vào công việc ngay trước mặt mình và món tiền nó mang lại hơn là chú ý đến câu chuyện tầm phào vô nghĩa của vị Hoja.

Hắn ta thực sự vẽ chúng tôi, và bỏ bức tranh vẽ chúng tôi vào cái cặp da sau yên ngựa mà quay trở về thành phố ngoại giáo của hắn. Sau đó không lâu, đoàn quân bách thắng của người Ottoman chinh phục và cướp bóc thành phố đó trên bờ sông Danube, và cuối cùng hai chúng tôi lại đi ngược đường trở về Istanbul và Quốc khố hoàng gia. Từ đó, được sao chép nhiều lần chúng tôi đi từ quyển sách bí mật này qua quyển khác, và cuối cùng đến quán cà phê vui nhộn này nơi người ta uống cà phê như một thứ thuốc giúp cường tráng và hồi xuân. Giờ thì:

Một luận thuyết ngắn về hội họa,

cái chết và vị trí của chúng tôi trong thế giới

Hoja Kính mến xứ Konya, người chúng tôi vừa đề cập, đã đưa ra tuyên bố sau đây ở đâu đó trong một bài thuyết pháp trong số rất nhiều bài của ông ta vẫn được ghi và tập hợp lại thành pho sách dày: những kẻ khổ tu Kalenderi là rác rưởi không cần thiết của thế giới vì họ không thuộc loại nào trong bốn loại người: 1. quý tộc 2. thương nhân. 3. nông dân và 4. họa sĩ; do đó. bọn chúng thừa thãi.

Hơn nữa, ông còn nói: “Hai đứa chúng luôn cặp kè nhau mà lang thang khắp chốn và luôn tranh cãi về chuyện ai trong bọn chúng sẽ ăn trước với cái muỗng duy nhất, những ai không biết đó là trò bóng gió thối tha về mối quan tâm thực sự của chúng - đứa nào sẽ được chơi đứa kia trước - thì sẽ thấy vụ này thật ngộ nghĩnh và buồn cười. Ngài Hoja Đừng-hiểu-lầm đã tiết lộ bí mật của bọn tôi vì ông ta, cùng với chúng tôi, những chàng trai tuấn tú những thợ học nghề và những nhà tiểu hoạt đều là những bạn đồng hành trên cùng một con đường.”

Bí mật thật sự

Tuy nhiên, bí mật thật sự là: Trong khi vẽ chúng tôi, gã Tây vực ngoại giáo đó đã nhìn chúng tôi thật trìu mến và với sự chăm chút đến từng chi tiết khiến chúng tôi có cảm tình với hắn và thích thú vì được hắn vẽ chân dung. Nhưng, hắn phạm một sai lầm là nhìn thế giới bằng con mắt trần tục và thể hiện đúng những gì hắn nhìn thấy. Do đó hắn vẽ chúng tôi bị mù mặc dù chúng tôi có thể nhìn tốt nhưng chúng tôi không quan tâm. Giờ đây, thực ra chúng tôi khá bằng lòng. Theo lời vị Hoja, chúng tôi ở Địa ngục; theo một số kẻ vô thần chúng tôi chẳng là gì hơn những tử thi thối rữa, và theo các vị, những nhà tiểu họa thông thái tụ tập ở đây, chúng tôi là một bức tranh, và vì chúng tôi là một bức tranh, nên chúng tôi đứng đây trước các vị cứ như chúng tôi còn sống và khỏe mạnh.

Sau khi đụng độ với ngài Hoja Kính mến và sau khi đi bộ từ Konay đến Sivas trong ba đêm, qua tám ngôi làng, khất thực suốt dọc đường, một đêm chúng tôi bị cái lạnh và tuyết bao vây đến nỗi hai kẻ khổ tu, ôm chặt lấy nhau, chìm vào giấc ngủ và chết cóng.

Trước khi chết tôi có một giấc mơ tôi là đề tài cho một bức tranh mà sau hàng ngàn ngàn năm đã lọt được vào Thiên đàng.

CHƯƠNG 51
ĐÓ LÀ TÔI, THẦY OSMAN

Người ta kể một câu chuyện ở Bukhara có từ thời Abdullah Đại hãn. Vị Đại hãn xứ Uzbek này là một nhà cai trị đa nghi, và tuy không phản đối việc có nhiều bàn tay họa sĩ góp phần vào cùng một bức minh họa, nhưng ông phản đối việc các họa sĩ sao chép các trang của nhau - bởi điều này khiến cho không thể xác định ai trong số những họa sĩ sao chép trơ tráo này phải chịu trách nhiệm vì một sai sót nào đó. Điều quan trọng hơn là, sau một thời gian, thay vì tự thúc đẩy bản thân đi tìm những ký ức của Thượng đế trong bóng tối, những nhà tiểu họa ăn cắp sẽ biếng nhác đi tìm bất cứ điều gì họ thấy qua vai người họa sĩ bên cạnh họ. Vì lý do này, Đại hãn Uzbek vui vẻ chào đón hai bậc thầy vĩ đại, một người từ Shiraz ở miền Nam, người kia từ Samarkand ở phương Đông, họ chạy trốn chiến tranh và những vị vua độc ác để đến nương thân ở triều đình của ông; tuy nhiên, ông cấm hai tài năng lẫy lừng này xem tác phẩm của nhóm và tách họ ra bằng cách dành cho họ hai phòng làm việc nhỏ ở hai đầu lâu đài của ông, xa nhau đến hết mức có thể. Vì vậy, trong đúng ba mươi bảy năm bốn tháng, như thể đang lắng nghe một huyền thoại, hai vị thầy vĩ đại này mỗi người nghe Abdullah Đại hãn kể về vẻ tráng lệ của tác phẩm chưa từng thấy của người kia, nghe tả tác phẩm của mình khác hẳn hay giống một cách kỳ lạ với tác phẩm của người kia như thế nào. Trong thời gian đó cả hai đều tò mò dữ dội về tranh của nhau. Sau khi cuộc sống của Đại hãn Uzbek đi hết lộ trình ngoằn ngoèo của nó, hai họa sĩ già này bèn chạy đến phòng của nhau để xem các bức tranh. Một lúc lâu, mỗi người ngồi trên mép một tấm nệm lớn, để sách của nhau lên đùi và nhìn những bức tranh mà họ nhận ra qua những chuyện bịa đặt của Abdullah Đại hãn. Cả hai bàng hoàng với nỗi thất vọng lớn lao bởi vì những bức minh họa họ thấy không diệu kỳ như họ mường tượng qua những câu chuyện được nghe, mà thay vào đó chúng có vẻ khá bình thường, nhợt nhạt và mơ hồ, giống như hầu hết những bức tranh họ đã thấy trong những năm trước đây. Nhưng hai bậc thầy vĩ đại này không nhận ra rằng lý do cho sự mơ hồ này là chứng mù đã bắt đầu trùm xuống họ, họ cũng không nhận ra nó sau khi cả hai đã hoàn toàn mù mà họ quy sự mơ hồ này là do họ đã bị Đại hãn lừa, và vì thế họ chết mà vẫn tin rằng những giấc mơ thì đẹp hơn nhiều so với các bức tranh.

Trong đêm khuya thanh vắng giữa Quốc khố lạnh lẽo, trong khi lật các trang sách với những ngón tay lạnh cóng và nhìn vào các bức tranh trong những cuốn sách tôi từng mơ ước suốt bốn mươi năm, tôi biết mình hạnh phúc hơn các họa sĩ trong câu chuyện tàn nhẫn xứ Bukhara này. Tôi rùng mình ớn lạnh khi biết rằng, trước khi bị mù và bước vào kiếp sau, tôi đã được cầm đúng những cuốn sách mà cả đời tôi đã nghe bao truyền thuyết về chúng, và nhiều lúc tôi lẩm bẩm “Cám ơn Thượng đế, cám ơn Người” khi tôi thấy một trong những trang đang lật thậm chí còn diệu kỳ hơn cả huyền thoại về nó.

Chẳng hạn như, cách nay tám mươi năm vua Ismail đã vượt sông và với thanh gươm đã chiếm lại Herat và tất cả xứ Khorasan từ tay quân Uzbek, rồi ông bổ nhiệm em trai Sam Mirza của ông làm tổng trấn Heart, để kỷ niệm dịp vui này, em trai ông đã cho chuẩn bị một bản thảo, một phiên bản có trang trí của một pho sách có nhan đề “Sự hội ngộ của các vì sao”, vốn kể lại một câu chuyện mà Emir Husrev đã chứng kiến trong Cung điện Delhi.

Theo truyền thuyết, một bức minh họa trong cuốn sách này thể hiện hai vị vua gặp mặt nhau bên bờ sông nơi họ ăn mừng chiến thắng. Gương mặt họ giống vua xứ Delhi, Keykubad, và cha ông ta, Bughra Đại hãn, vua xứ Bengal, những người là đề tài cho cuốn sách; nhưng họ cũng giống khuôn mặt của vua Ismail và em trai Sam Mirza của ông ta, những người vốn là nguyên nhân cho sự ra đời của cuốn sách. Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng những nhân vật của bất cứ câu chuyện nào tôi nhớ lại trong khi nhìn vào trang này đều sẽ xuất hiện ở đó trong căn lều của nhà vua, và tôi cám ơn Thượng đế vì đã cho tôi cơ hội nhìn trang sách diệu kỳ này.

Trong một bức minh họa của Sheikh Muhammad, một trong những bậc thầy vĩ đại của cùng thời đại truyền thuyết này, có một người dân nghèo mà lòng kính sợ và yêu thương dành cho vị vua của ông ta đã đạt tới mức tình yêu thuần khiết, trong khi nhìn vị vua này chơi polo, ông ta hết sức hy vọng rằng trái banh sẽ lăn về phía ông ta để ông ta được nhặt và dâng lên cho Đức vua. Sau khi chờ đợi lâu dài và kiên nhẫn, cuối cùng trái banh cũng lăn đến chỗ ông ta, và ông ta được vẽ đang dâng nó cho Đức vua. Như tôi đã được nghe tả hàng ngàn lần, tình yêu, lòng kính sợ và sự phục tùng mà một người dân nghèo cảm thấy đối với một vị vua vĩ đại hoặc quốc vương đáng kính, hoặc sự kính sợ mà một thợ học việc trẻ đẹp trai dành cho thầy của mình, được thể hiện ở đây với sự tinh tế và lòng cảm thông sâu sắc, từ việc người dân đó đưa những ngón tay ra nắm lấy trái banh tới việc ông ta không đủ can đảm nhìn vào mặt nhà vua, đến độ trong khi nhìn vào trang này, tôi biết không có niềm vui nào trên thế giới lớn hơn là làm thợ học việc cho một bậc thầy vĩ đại, và rằng sự phục tùng gần như quy lụy như thế cũng là một lạc thú cũng như việc làm thầy một thợ học việc thông minh, xinh đẹp và trẻ tuổi - và tôi thấy tội nghiệp cho những ai chưa từng biết sự thật này.

Tôi lật các trang, nhìn vội vã nhưng say mê chú ý hàng ngàn con chim, ngựa, binh lính, những cặp tình nhân, lạc đà, cây cối và mây, trong khi ông lùn hạnh phúc của Quốc khố, giống như một vị vua hồi xưa được cơ hội phô bày sự giàu có và của cải của mình, đã tự hào và chăm chỉ đem hết cuốn này đến cuốn khác từ các rương tủ ra bày chúng trước mặt tôi. Từ hai góc tách biệt nhau của chiếc rương sắt lèn đầy những pho sách lớn đáng kinh ngạc, những cuốn sách thường và những cuốn sưu tập lộn xộn, hiện lên hai cuốn đặc biệt - một cuốn được đóng theo kiểu Shiraz với bìa màu đỏ thẫm, cuốn kia được đóng ở Herat với cái bìa sơn mài đen theo kiểu Trung Hoa - chúng có những trang quá giống nhau đến độ ban đầu tôi nghĩ chúng là những bản sao chép. Trong khi đang cố xác định cuốn nào là bản gốc cuốn nào là bản sao, tôi nghiên cứu tên họ của những nhà thư pháp trên trang lai lịch ở cuối sách, tìm những chữ ký ẩn giấu, và cuối cùng nhận ra với một cái rùng mình, rằng hai pho sao chép tác phẩm của Nizami này là những cuốn sách huyền thoại mà thầy Sheikh Ali ở Tabriz đã làm, một cuốn cho vua Jihan của xứ Garagoýunly, còn cuốn kia cho vua Uzyn Hasan của Akgoýunly. Sau khi bị vua Garagoýunly đâm mù mắt để ngăn không cho ông làm một phiên bản khác của cuốn sách này, nhà họa sĩ bậc thầy vĩ đại ấy đã đến nương náu ở bên vua Akgoýunly và làm ra một bản sao tuyệt hảo hơn theo ký ức. Những bức tranh trong cuốn sách huyền thoại thứ hai này, được làm khi ông đã mù, nhìn đơn giản hơn và thuần khiết hơn, trong khi màu sắc trong cuốn thứ nhất sống động và mạnh mẽ hơn, đã nhắc tôi nhớ rằng ký ức của người mù phơi bày sự đơn giản trần trụi của cuộc sống nhưng cũng làm giảm bớt sức sống của nó.

Vì chính tôi là một bậc thầy vĩ đại đích thực, đã được thừa nhận bởi Allah, người thấy và biết tất cả, nên tôi biết một ngày nào đó tôi sẽ bị mù, nhưng đây có phải là điều tôi đang muốn không? Do cảm nhận được sự hiện diện rất gần của Người trong bóng tối khủng khiếp và tuyệt vời của Quốc khố bừa bộn này cho nên, như một người đã bị kết án muốn nhìn cuộc đời lần cuối trước khi bị xử trảm, tôi hỏi Người: “Xin cho con được phép xem tất cả tranh minh họa này và ngắm chúng đến thỏa thuê.” Khi tôi lật các trang, bằng sức mạnh của sự thông thái khôn lường của Thượng đế, tôi thường tình cờ gặp những truyền thuyết và những vấn đề về kiếp mù. Trong cảnh nổi tiếng thể hiện Shirin trong chuyến đi dạo ngoại thành đã phải lòng Husrev sau khi thấy bức tranh vẽ chàng treo trên nhánh cây tiêu huyền, Sheikh Ali Riza xứ Shiraz đã vẽ tất cả lá của cội cây từng chiếc một, để chúng lấp đầy cả bầu trời. Để trả lời một tên ngốc, kẻ đã xem tác phẩm và bình luận rằng chủ đề thực sự của bức họa không phải là cây tiêu huyền, Sheikh Ali trả lời rằng chủ đề thực sự cũng không phải là tình yêu mãnh liệt của nàng thiếu nữ xinh đẹp đó mà là niềm đam mê của người họa sĩ. Và để chứng minh một cách tự hào quan điểm của mình, ông đã cố gắng vẽ cũng cây tiêu huyền đó với đầy đủ lá trên một hạt gạo. Nếu chữ ký được giấu bên dưới những bàn chân xinh đẹp của những cô hầu phục vụ Shirin không làm tôi lầm, thì dĩ nhiên tôi đang xem cái cây lộng lẫy do bậc thầy mù ấy vẽ trên giấy - không phải cái cây vẽ trên hạt gạo mà ông mới hoàn tất một nửa, vì bảy năm ba tháng sau khi bắt đầu công trình này thì ông bị mù. Trên một trang khác, Rustem đâm Alexander mù bằng mũi tên có ngạnh được vẽ theo phong cách của các họa sĩ vốn biết phong cách Ấn Độ, quá sống động và màu mè, đến độ kiếp mù, mối sầu muôn đời và nỗi khao khát thầm kín của nhà tiểu họa đích thực xuất hiện trước người xem như khúc dạo đầu của một buổi lễ kỷ niệm ngập tràn niềm vui.

Mắt tôi lướt qua những bức tranh và pho sách này với sự kích động của một người muốn tận mắt nhìn những huyền thoại mà anh ta đã nghe nói bao năm nay cũng nhiều không kém nỗi lo của một ông già cảm thấy mình sẽ sớm không còn trông thấy gì nữa. Ở đây, trong gian Quốc khố lạnh lẽo tràn ngập màu đỏ thẫm mà trước đây tôi chưa bao giờ thấy - được tạo ra bởi màu vải và bụi trong ánh sáng đặc biệt của những ngọn nến - thỉnh thoảng tôi la to lên vì ngưỡng mộ, và thế là Siyah và tên lùn lại chạy đến bên tôi, nhìn qua vai tôi vào trang giấy lộng lẫy trước mặt tôi. Không thể kìm mình, tôi bắt đầu giải thích:

“Màu đỏ này là của sư phụ vĩ đại Mirza Baba Imami ở Tabriz, mà bí mật của nó ông đã mang theo xuống mồ. Ông đã sử dụng nó cho các rìa thảm, màu đỏ của Alevi trên khăn xếp của Vua Ba Tư, và nhìn này, nó ở đây trên bụng con sư tử trong trang này và trên áo choàng của chàng trai dễ thương này. Allah không bao giờ trực tiếp để lộ ra màu đỏ tươi đẹp này trừ khi Người để cho máu của thần dân người chảy. Tuy nhiên để chúng ta có thể nỗ lực hết sức tìm ra sự đa dạng của màu đỏ này, vốn chỉ có thể thấy được bằng mắt thường trên vải nhân tạo và trong những bức tranh của các bậc thầy vĩ đại nhất, Thượng đế cũng ký thác bí mật của nó cho loài côn trùng hiếm nhất sống bên dưới những tảng đá , tôi nói và thêm, “Cảm ơn Người đã để lộ nó ra với chúng ta hôm nay.”

“Nhìn cái này này,” hồi lâu sau tôi nói, một lần nữa không kìm được việc chỉ cho họ một kiệt tác - kiệt tác này có thể đã thuộc về bất cứ tuyển tập thơ nào đó nói về tình yêu, tình bạn. mùa xuân và hạnh phúc. Chúng tôi nhìn những cội cây đang khoe đủ sắc vào mùa xuân, những cây bách trong một khu vườn gợi nhớ về Thiên đàng và niềm vui sướng của những kẻ yêu dấu đang ngả người trong khu vườn đó mà uống rượu đọc thơ, cứ như chúng tôi tuy đang ở trong Quốc khố lạnh lẽo, bẩn thỉu ẩm mốc này song có thể ngửi thấy mùi những đóa hoa xuân đang khoe sắc và da thịt thơm mát của những người dự tiệc vui vẻ. “Hãy chú ý xem chính người họa sĩ đã vẽ cánh tay những tình nhân, bàn chân trần tuyệt đẹp của họ, nét thanh tao trong tư thế họ và vẻ hài lòng thờ ơ của lũ chim đang vỗ cánh quanh họ với sự chân thành như thế, cũng đã tạo dáng thô kệch cho cây bách ở hậu cảnh như thế nào.” Tôi nói. “Đây là tác phẩm của Lutfi xứ Bukhara mà tính cáu kỉnh và ưa gây gổ đã khiến ông ta phải bỏ dở mọi bức minh họa của mình; ông tranh cãi với mọi vương hầu và đại hãn, quả quyết rằng họ không hiểu gì về hội họa và ông không bao giờ lưu lại lâu trong một thành phố nào. Bậc thầy vĩ đại ấy đã đi hết lâu đài của vị vua này đến lâu đài của vị vua khác, từ thành phố này đến thành phố khác, chỗ nào cũng cãi cọ, không bao giờ tìm được một minh quân biết đặt làm một pho sách xứng với tài năng của ông, cho đến khi ông dừng chân trong xưởng làm việc của một tù trưởng tầm thường, người chẳng cai trị thứ gì ngoài những đỉnh núi trần trụi. Sau khi tuyên bố rằng ‘lãnh thổ của vị hãn này nhỏ nhưng ông ta biết hội họa’ ông ta đã sống hai mươi lăm năm còn lại của đời mình ở đó. Liệu ông ta có biết vị tù trưởng tầm thường ấy bị mù hay không, điều đó thậm chí đến nay vẫn còn là một chuyện để phỏng đoán và là một đề tài giễu cợt.”

“Các ngươi có thấy trang này không?” tôi nói lúc đã khuya, và lần này cả hai người bọn họ chạy đến bên tôi, giơ cao giá nến.

“Từ thời cháu nội của Tamerlane đến nay, cuốn sách này đã qua tay cả chục vị chủ nhân trên đường nó lưu lạc từ Herat đến đây suốt một trăm năm mươi năm.”

Qua chiếc kính lúp, cả ba chúng tôi đọc những chữ ký, những lời đề tặng, thông tin lịch sử và tên họ các vị vua - những kẻ đã giết nhau - đầy mỗi góc của trang lai lịch ở cuối sách, dính vào nhau, xen giữa và chồng lên nhau: “Cuốn này làm xong ở Herat, với sự trợ giúp của Thượng đế, do bàn tay của nhà thư pháp Sultan Veli, con trai của Muzaffer xứ Herat, vào năm Hegira 849 cho Ismet-ud Dunya, vợ của Muhammad Juki, người em bách thắng của Kẻ cai trị thế giới, Baysungur.” Sau đó chúng tôi đọc thấy rằng pho sách này đã trở thành tài sản của vua Hali xứ Akgoýunly, sau đó truyền cho con trai là Yakup Bey, rồi đến các vị vua Uzbek ở phương Bắc, mỗi người trong bọn họ đều giải khuây với nó trong một thời gian, lấy ra hoặc thêm vào một hai bức tranh; bắt đầu với vị chủ nhân đầu tiên, họ thêm khuôn mặt của những cô vợ xinh đẹp của mình vào các bức minh họa và ký tên họ một cách đầy tự hào vào trang lai lịch, về sau nó chuyển sang tay Sam Mirza người chinh phục Herat, và ông này biến nó thành một món quà, với lời đề tặng riêng, cho anh trai của ông ta, vua Ismail, ông này lại mang nó đến Tabriz và biến nó thành một món quà nhưng với một lời đề tặng khác. Khi vua Yavuz Selim đánh bại vua Ismail tại Chaldiran và cướp bóc lâu đài Bảy tầng trời ở Tabriz, cuốn sách này lưu lạc đến đây trong Quốc khố ở Istanbul sau khi du hành qua các sa mạc, núi non và sông ngòi cùng với binh lính của vị vua chiến thắng.”

Siyah và tên lùn kia chia sẻ bao nhiêu mối quan tâm và hào hứng của ông thầy già nua này? Khi tôi giở những pho sách khác và lật các trang trong đó, tôi cảm nhận được nỗi muộn phiền sâu sắc của hàng ngàn nhà minh họa ở hàng trăm thành phố lớn nhỏ, mỗi người một tính khí khác biệt, mỗi người vẽ dưới sự bảo trợ của một vị vua, tù trưởng hay đại hãn thô bạo khác nhau, mỗi người thể hiện tài năng của mình và đều rơi vào kiếp mù lòa. Tôi cảm thấy cơn đau của những trận đòn mà tất cả chúng tôi đều nhận lãnh trong suốt thời gian học việc dài, những cú đánh bằng thước cho đến khi má chúng tôi đỏ lựng lên, hoặc những cú đánh bằng những cục đá hoa dùng để đánh bóng lên cái đầu trọc của chúng tôi, trong khi tôi lật - với cảm giác nhục nhã - những trang của một cuốn sách thô sơ trình bày các phương pháp và dụng cụ tra tấn. Tôi không biết cuốn sách khốn khổ này đóng vai trò gì trong Quốc khố Ottoman: Thay vì xem việc tra tấn như một cách thức cần thiết được thi hành dưới sự giám sát của một quan tòa để bảo đảm sự công bằng của Allah trên đời này, các du khách ngoại giáo lại thuyết phục những người đồng đạo về sự tàn bạo và độc ác của chúng ta bằng cách khiến các nhà tiểu họa đáng khinh phải tự hạ phẩm giá mình mà vẽ bừa nhưng bức tranh này để đổi lấy mấy đồng tiền vàng. Tôi thấy xấu hổ trước niềm vui đồi bại hiển nhiên của nhà tiểu họa này trong khi vẽ những bức tranh về hình phạt đánh roi vào gan bàn chân, đánh đập, những trò đóng đinh, treo cổ hoặc chân, những trò móc, xâu, bắn bằng đại bác, rút móng, bóp cổ, cắt họng, cho chó đói ăn thịt, đánh bằng roi, bỏ bao, siết ép, nhúng vào nước lạnh, bứt tóc, bẻ ngón tay, lột da, cắt mũi và móc mắt. Chỉ những nghệ sĩ thực sự như chúng tôi, những kẻ chịu những trận đánh vào gan bàn chân tàn nhẫn, những cú đấm đá tùy tiện suốt thời học việc để ông thầy cáu gắt, kẻ vừa vẽ một nét sai nào đó, cảm thấy dễ chịu hơn - ấy là chưa kể những giờ chịu đòn bằng gậy và thước kẻ để con quỷ trong chúng tôi bị tiêu diệt và tái sinh thành âm hồn của cảm hứng - chỉ có chúng tôi mới có thể cảm thấy niềm vui tột độ như thế qua việc vẽ những trận đánh vào gan bàn chân và những trò tra tấn, chỉ có chúng tôi mới có thể tô màu những công cụ này với niềm phấn kích như khi tô màu con diều của một đứa bé.

Hàng trăm năm nữa, những người nhìn thế giới qua những bức minh họa mà chúng tôi từng vẽ sẽ không hiểu được bất cứ điều gì. Với khao khát được nhìn kỹ hơn, nhưng lại thiếu kiên nhẫn, họ có thể cảm thấy sự bối rối, niềm hạnh phúc, nỗi đau sâu sắc và niềm vui của việc quan sát mà hiện tôi đang cảm thấy khi xem xét những bức tranh trong Quốc khố lạnh ngắt này - nhưng họ sẽ không bao giờ thực sự biết. Khi tôi giở từng trang với những ngón tay già nua bị tê cóng vì lạnh, chiếc kính lúp có tay cầm cẩn xà cừ và mắt trái tôi lướt qua các bức tranh giống như cây chĩa cũ đang cào qua mặt đất, hơi chút ngạc nhiên bởi quang cảnh bên dưới. nhưng vẫn kinh ngạc khi thấy những điều mới mẻ. Qua những trang mà chúng tôi chưa được biết đến suốt bao năm nay, một số là huyền thoại, tôi dần biết người họa sĩ nào đã học được những gì từ ai, rồi trong xưởng nào dưới sự bảo trợ của vị vua nào mà cái thứ nay được gọi là “phong cách” đã hình thành đầu tiên, bậc thầy huyền thoại nào đã làm việc cho ai, và chẳng hạn như, những đám mây Trung Hoa vần vũ mà tôi biết đã lan truyền từ Herat ra khắp Ba Tư dưới ảnh hưởng Trung Hoa và cũng được sử dụng ở Kazvin như thế nào. Thỉnh thoảng tôi lại tự cho phép mình thốt ra tiếng “A ha!” mệt mỏi; nhưng một nỗi đau cực độ đã lẩn sâu vào trong tôi, một nỗi buồn và hối tiếc - mà tôi hầu như không thể chia sẻ với các người - dành cho những họa sĩ ốm yếu có đôi mắt linh dương, mặt tròn trịa, xinh đẹp, bị xem thường, dằn vặt - thường xuyên bị các thầy đánh đập - những kẻ chịu đau khổ vì nghệ thuật của họ, nhưng vẫn đầy say mê và hy vọng, vui hưởng tình yêu thương vốn nẩy nở giữa các họa sĩ và những ông thầy của họ và tình yêu chung của họ dành cho hội họa, trước khi rơi vào kiếp vô danh và phận mù lòa sau những năm dài làm việc vất vả.

Với nỗi buồn phiền và hối tiếc như thế, tôi bước vào thế giới của những xúc cảm tinh tế và đẹp đẽ này, linh hồn tôi đã lặng lẽ quên mất khả năng mô tả nó qua bao năm mô tả chiến tranh và những lễ hội cho Đức vua. Trong một cuốn sưu tập các bức tranh chọn lọc, tôi thấy một chàng trai Ba Tư môi đỏ, eo thon đang giữ một pho sách trên đùi giống y như tôi đang giữ một cuốn lúc này đây, và nó gợi cho tôi về những gì mà các vua chúa với sự ham mê vàng bạc và quyền lực thường quên: Cái đẹp của thế giới thuộc về Allah. Trong một cuốn sưu tập khác do một thợ cả trẻ ở Isfahan vẽ, với nước mắt đầm đìa, tôi nhìn hai người trẻ tuổi tuyệt vời đang yêu nhau, và tôi nhớ về tình yêu mà các thợ học việc trẻ của tôi dành cho hội họa. Một chàng trẻ tuổi giống như con gái, yếu đuối nước da trong suốt, bàn chân bé xíu đã để lộ một cánh tay thanh tú, vốn làm nảy lên trong lòng kẻ khác nỗi khao khát được hôn lên rồi chết, trong khi một mỹ nhân mũi tròn, tơ trẻ, mắt hạnh đào, môi đỏ mọng nhìn với vẻ kinh ngạc - như thể đang nhìn ba bông hoa đẹp - vào ba vết đốt sâu và nhỏ thể hiện niềm đam mê mãnh liệt, mà chàng trai trẻ đã đốt lên cánh tay thanh tú đó để chứng minh sức mạnh tình yêu và sự gắn bó của chàng đối với nàng.

Thật kỳ lạ. tim tôi bắt đầu đập thình thịch. Như từng xảy ra cách nay sáu mươi năm hồi tôi mới bắt đầu học việc, trong khi tôi nhìn những bức minh họa tục tĩu vẽ những chàng đẹp trai có làn da cẩm thạch và những thiếu nữ ngực nhỏ được vẽ bằng mực đen theo phong cách Tabriz, mồ hôi đã lấm tấm trên trán tôi. Tôi nhớ lại niềm đam mê dành cho hội họa mà tôi đã cảm thấy và chiều sâu tư tưởng mà tôi từng trải nghiệm vào lúc, vài năm sau khi tôi lập gia đình và chập chững bước vào vị trí thợ cắt tôi thấy một chàng trai nước da mịn như những cánh hồng, mắt hạnh nhân, khuôn mặt xinh xắn như thiên thần được đưa vào làm thợ học việc. Trong phút chốc, tôi có cảm giác mạnh mẽ rằng hội họa không hề bao hàm sự u sầu và hối tiếc mà liên quan đến nỗi khao khát mà tôi đang cảm thấy đây, và rằng chính tài năng của họa sĩ bậc thầy đã biến khao khát này trước hết thành tình yêu Thượng đế rồi sau đó thành tình yêu thế giới như Thượng đế thấy nó; cảm giác này quá mạnh mẽ đến độ nó làm tôi nhớ lại với niềm hạnh phúc tột cùng tất cả những năm tôi đã trải qua trên bàn vẽ cho đến khi lưng còng đi, tất cả những trận đòn tôi đã chịu đựng trong khi theo học nghệ thuật này, sự tận hiến cho phận mù của tôi thông qua việc minh họa, mọi thống khổ của hội họa mà tôi đã chịu và buộc người khác phải chịu. Như thể đang lướt mắt qua một thứ gì đó bị cấm đoán, tôi nhìn thật lâu và lặng lẽ vào bức minh họa lạ kỳ này với cùng một niềm vui sướng ấy. Tôi vẫn nhìn hồi lâu. Một giọt nước mắt chảy qua má xuống đến râu tôi.

Khi nhận thấy một ngọn nến từ từ trôi qua gian Quốc khố tiến về phía tôi, tôi cất cuốn sưu tập đó đi và giở bừa một trong những cuốn mà tên lùn vừa đặt cạnh tôi. Đây là một pho sưu tập đặc biệt được làm cho các vị vua: Tôi thấy hai con hươu tại bìa một khu rừng thưa đang âu yếm nhau, và bọn chó rừng nhìn chúng với vẻ ghen ty thù địch. Tôi lật sang trang khác. Những con ngựa hồng và nâu sẫm vốn chỉ có thể là tác phẩm của một trong những bậc thầy xưa ở Herat - chúng hùng dũng làm sao!

Tôi lật sang trang: Một viên chức chính quyền ngồi chễm chệ chào tôi từ một bức tranh đã bảy mươi tuổi, qua khuôn mặt tôi không thể xác định đó là ai bởi vì ông ta trông giống bất cứ ai, hoặc ấy là tôi nghĩ thế, nhưng quang cảnh của bức tranh, hàm râu của người đàn ông ngồi đó được vẽ theo nhiều sắc độ khác nhau gợi nhớ một điều gì đó. Tim tôi đập liên hồi khi tôi nhận ra bàn tay tuyệt mỹ được vẽ trong bức tranh này. Tim tôi nhận ra trước khi tôi biết, chỉ có ông ta mới có thể vẽ bàn tay tuyệt vời như thế:

Đây là tác phẩm của Bihzad. Có vẻ như ánh sáng từ bức tranh đang phụt ra tới mặt tôi. Trước đây tôi có vài lần thấy những bức tranh do bậc thầy vĩ đại Bihzad vẽ; có lẽ bởi tôi không được xem chúng một mình, mà cùng một nhóm thợ cả trước đây nhiều năm, có lẽ bởi chúng tôi không thể chắc chắn liệu chúng thực sự có phải là tác phẩm của Bihzad vĩ đại hay không, nên tôi chưa từng xao xuyến như lúc này.

Bóng tối ẩm mốc nặng nề của Quốc khố có vẻ sáng lên. Bàn tay được vẽ một cách tinh xảo này hiện ra trong tâm trí tôi với cánh tay gầy tuyệt mỹ mang những dấu hiệu của tình yêu, mà chỉ bây giờ tôi mới thấy. Một lần nữa tôi ca ngợi Thượng đế vì đã cho tôi thấy cái đẹp kỳ ảo này trước khi bị mù. Làm sao tôi biết tôi sẽ sớm bị mù? Tôi không biết! Tôi có cảm giác rằng tôi có thể chia sẻ trực giác này với Siyah, người đang rón rén đến bên tôi cầm cây nến và nhìn bức tranh, nhưng một điều khác lại thốt ra từ miệng tôi.

“Hãy nhìn cách thể hiện bàn tay độc đáo này,” tôi nói. “Đó là Bihzad.” Bàn tay tôi tự động nắm lấy tay Siyah, cứ như đang nắm tay một trong những cậu học việc xinh xắn, da mịn như nhung, mà hồi trẻ tôi yêu thương từng đứa. Tay cậu ta mềm mịn và quả quyết, ấm hơn tay tôi, thanh tú và rộng, tôi rùng mình vì cổ tay nổi gân của cậu ta. Khi còn trẻ tôi thường giữ bàn tay cậu bé học việc trong tay mình và, trước khi bảo cho cậu ta biết cách cầm cọ tôi thường nhìn âu yếm vào đôi mắt sợ sệt, dễ thương của cậu ta.

Đó là cách tôi nhìn Siyah. Tôi thấy ánh lửa của cây nến cậu ta đang giơ cao phản chiếu trong đồng tử cậu ta. “Bọn tiểu họa chúng ta là anh em.” tôi nói, “Nhưng bây giờ mọi thứ sắp kết thúc.”

“Ý thầy là sao?”

Tôi nói “Mọi thứ đang đến hồi kết thúc” giống như một bậc thầy vĩ đại khao khát được mù, sau nhiều năm cống hiến cho một ông hoàng nào đó, sau khi tạo ra những kiệt tác trong xưởng của mình theo phong cách của người xưa, thậm chí sau khi bảo đảm rằng xưởng này có phong cách riêng của nó, một người thầy vĩ đại biết rõ, bất cứ khi nào ông hoàng bảo trợ của mình thua trận chiến cuối cùng, thì những ông hoàng mới sẽ theo gót bọn quân thù mà cướp bóc, giải thể xưởng vẽ, xé toạc những cuốn sách đã được đóng tử tế, quăng bừa các trang sách, xem thường và tiêu hủy những gì còn lại, kể cả nhũng chi tiết tinh tế mà từ lâu ông ta hằng tin, vốn là khám phá của riêng ông ta và ông ta đã yêu như con của chính mình. Nhưng tôi cần giải thích điều này với Siyah một cách khác hẳn.

“Bức minh họa này vẽ thi hào Abdullah Hatifi,” tôi nói. “Hatifi là một nhà thơ vĩ đại đến độ ông chỉ ở tại nhà trong khi mọi người đua nhau bợ đỡ vua Ismail sau khi ông vua này chiếm được Herat. Đáp lại, vua Ismail đã đích thân đến nhà ông ở ngoại o để gặp ông. Chúng ta biết đây là Hatifi, không phải qua cách Bihzad vẽ khuôn mặt Hatifi mà qua dòng chữ viết bên dưới bức minh họa, đúng không?”

Siyah nhìn tôi, hàm ý “phải” bằng đôi mắt đẹp của cậu ta.“Khi nhìn khuôn mặt của nhà thơ trong bức tranh,” tôi nói, “chúng ta thấy nó có thể là một khuôn mặt giống mọi khuôn mặt khác. Nếu Abdullah Hatifi ở đây, cầu cho linh hồn ông được yên nghỉ, chúng ta không bao giờ hy vọng nhận ra ông qua khuôn mặt trong bức tranh này. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận ra dựa vào toàn bộ bức minh họa: Có một điều gì đó trong bố cục, trong tư thế của Hatifi, trong các màu sắc, phần mạ vàng và bàn tay tuyệt vời do thầy Bihzad vẽ lập tức cho thấy bức tranh này là vẽ thi hào đó. Trong thế giới nghệ thuật của chúng ta, ý nghĩa luôn đi trước hình thức. Khi chúng ta bắt đầu vẽ bắt chước theo những bậc thầy Tây vực và Venice, như trong cuốn sách mà Đức vua đã đặt Enishte của con làm, lĩnh vực ý nghĩa kết thúc và lĩnh vực hình thức bắt đầu. Tuy nhiên với phương pháp Venice...”

“Enishte của con, cầu cho ông được yên nghỉ, đã bị giết,” Siyah đột ngột nói.

Tôi săm soi bàn tay Siyah đang nằm trong tay tôi như đang vuốt ve một cách nâng niu bàn tay bé xíu của một thợ học việc trẻ, người có thể minh họa được những kiệt tác một ngày nào đó. Lặng lẽ và cung kính, chúng tôi nhìn kiệt tác của Bihzad một hồi.

Sau đó, Siyah rút tay cậu ta khỏi tay tôi.

“Chúng ta đã lướt quá nhanh qua những con ngựa nâu ở mấy trang trước mà không xem xét kỹ cái mũi của chúng,” cậu ta nói.

“Chẳng có gì cả,” tôi nói và lật lại trang trước để cậu ta có thể nhìn thấy: Chẳng có gì lạ thường ở cánh mũi của các con ngựa.

“Chừng nào chúng ta mới tìm được con ngựa có cái mũi đặc biệt?” Siyah hỏi như một đứa trẻ.

Nhưng, lúc nửa đêm về sáng, khi chúng tôi tìm ra cuốn sách huyền thoại Shahnameh của vua Tahmasp trong một cái rương sắt dưới những đống lụa vân xanh và lôi nó ra, Siyah đã cuộn người ngủ ngay trên tấm thảm Ushak đỏ, đầu kê trên chiếc gối đính ngọc. Trong lúc đó, ngay khi tôi nhìn thấy pho sách huyền thoại lần nữa sau nhiều năm, tôi nhanh chóng hiểu rằng ngày chỉ vừa mới bắt đầu đối với tôi.

Pho sách huyền thoại mà tôi chỉ được thấy cách nay hai mươi lăm năm thì quá lớn và nặng đến độ Jezmi Agha và tôi phải khó khăn lắm mới giở nó lên và khiêng đi được. Khi chạm đến bìa sách, tôi biết có gỗ bên trong lớp da. Cách nay hai mươi lăm năm, sau cái chết của vua Kanuni Suleyman, vua Tahmasp quá sung sướng vì cuối cùng đã tống khứ được vị vua từng chiếm Tabriz tới ba lần này đến độ cùng với những con lạc đà chất đầy quà mà ông gửi cho vua Selim, người kế vị Suleyman, ông còn kèm theo một cuốn kinh Koran đặc biệt, và pho sách này, cuốn đẹp nhất trong các sách trong kho báu của ông. Thoạt tiên, một phái bộ sứ thần Ba Tư ba trăm người mạnh khỏe mang bộ sách này đến Edirne nơi vị tân vương đang có chuyến săn bắn mùa đông; sau khi nó về đến Istanbul này cùng những món quà khác do lạc đà và lừa chở, Trưởng ban Trang trí Siyah Memi và ba thợ cả trẻ chúng tôi đã đến xem cuốn sách trước khi nó được đưa vào Quốc khố. Giống như người dân Istanbul chen lấn để xem một con voi từ Hindustan đến hoặc một con hươu cao cổ từ Phi chính chúng tôi vội đến lâu đài ở đó tôi được thầy Siyah Memi cho biết rằng Sư phụ Bihzad vĩ đại, người đã chuyển từ Herat đến Tabriz lúc tuổi già, không góp phần vào cuốn sách này bởi vì thầy đã mù.

Về phần những nhà tiểu họa Ottoman như chúng tôi, những kẻ vẫn kinh ngạc trước những pho sách bình thường với bảy tám tranh minh họa, nhìn qua cuốn sách này, vốn chứa đến hai trăm năm mươi tranh minh họa lớn, thì cũng giống như đang lang thang qua một lâu đài lộng lẫy khi những người trong đó đã ngủ. Chúng tôi nhìn những trang cực kỳ phong phú với lòng kính trọng sâu sắc, như thể đang xem những khu vườn Địa đàng vốn chỉ xuất hiện một cách thần kỳ trong một phút thoáng qua. Và suốt hai mươi lăm năm sau đó, chúng tôi đã bàn tán về pho sách vốn luôn được khóa kỹ trong Quốc khố này.

Tôi lặng lẽ giở tấm bìa dày của cuốn Shahnameh như thể mở một cánh cửa lâu đài khổng lồ. Trong khi tôi lật các trang, mỗi trang tạo âm thanh sột soạt vui tai, tôi chìm trong nỗi buồn phiền hơn là kính sợ.

1. Nhớ lại những câu chuyện hàm ý rằng mọi nhà tiểu họa bậc thầy ở Istanbul đều đã ăn cắp hình ảnh từ các trang trong cuốn sách này, tôi không thể toàn tâm chú ý đến các bức tranh.

2. Nghĩ rằng mình có thể tình cờ gặp một bàn tay được Bihzad vẽ trong một góc nào đó, tôi không thể để hết tâm trí vào những kiệt tác mà cứ cách năm hay sáu bức lại xuất hiện một bức (dứt khoát và duyên dáng làm sao cách Tahmuras hạ quyền đường xuống đầu bọn ma quỷ và người khổng lồ, nhũng kẻ mà sau này, lúc hòa bình, sẽ dạy ông bảng chữ cái tiếng Hy Lạp và các thứ tiếng khác)!

3. Những cái mũi của bọn ngựa và sự hiện diện của Siyah cùng tên lùn đã giữ tôi không đắm mình vào những gì tôi thấy.

Dĩ nhiên, tôi thất vọng khi nhận ra mình đang quan sát bằng trí óc hơn là bằng trái tim, cho dù tôi rất may mắn được Allah, với lòng hào phóng của Người, ban cho cơ hội xem thỏa thuê pho sách huyền thoại này trước khi màn nhung của bóng tối trùm lên mắt tôi - ân huệ thần thánh dành cho mọi nhà tiểu họa vĩ đại. Cho đến lúc ánh bình minh lan đến Quốc khố, nơi đang dần bắt đầu giống một ngôi mộ lạnh giá, tôi đã xem từng bức trong hai trăm năm mươi chín bức tranh của pho sách siêu phàm này. Vì tôi nhìn bằng trí óc, nên hãy cho phép tôi một lần nữa phân loại, như thể tôi là một học giả Ả Rập chỉ quan tâm đến lập luận:

1. Tôi không tìm ra ở đâu một con ngựa với cánh mũi giống những gì tên giết người đê tiện đã vẽ: Trong số những con ngựa được tô màu khác nhau mà Rustem đã gặp trong khi đuổi theo những tên trộm ngựa ở Turan; những con ngựa tuyệt mỹ của vua Feridun bơi qua sông Tigris sau khi vua Ả Rập từ chối không cho phép ông ta làm thế, những con ngựa xám đang buồn rầu chứng kiến sự phản bội của Tur khi chém đầu đứa em trai Iraj, người mà ông ta đố kỵ vì cha họ, trong khi chia lãnh thổ, đã trao phần tốt nhất là Ba Tư và cả Trung Hoa xa xôi cho Iraj còn Tur thì chỉ được chia những vùng đất phía Tây; trong những con ngựa thuộc những đội quân anh hùng của Alexander vốn gồm người Khazar, người Ai Cập, người Berber và người Ả Rập, tất cả được trang bị áo giáp, khiên sắt, những thanh gươm thượng hạng và mũ trụ lấp lánh; trong con ngựa huyền thoại vốn đã giết vua Yazdgird - mũi ông ta chảy máu không ngừng do bị thần thánh trừng phạt vì dám nổi loạn chống lại sự an bài của Thượng đế - bằng cách giẫm đạp lên ông ta bên bờ hồ nước trong xanh mà thứ nước hồi sinh của nó đã làm giảm nhẹ nỗi muộn phiền của ông ta; và giữa hàng trăm con ngựa hoàn hảo và bí ẩn do sáu hay bảy nhà tiểu họa vẽ, tất cả đều không thấy. Nhưng, trước mắt vẫn còn hơn một ngày nữa để tôi nghiên cứu những cuốn sách khác trong Quốc khố.

2. Có một lời khẳng định vốn đã trở thành đề tài bàn tán dai dẳng trong đám họa sĩ bậc thầy suốt hai mươi lăm năm qua: được Đức vua cho phép, một nhà minh họa đã vào Quốc khố ở thâm cung này, tìm thấy cuốn sách kỳ vĩ đó, giở ra và, dưới ánh nến, sao vào sổ ghi chép của anh ta những mẫu mực về ngựa, cây, mây, hoạt chim, vườn, những cảnh chiến trận và tình yêu tuyệt đẹp để sau này sử dụng cho tác phẩm của mình... Mỗi khi có họa sĩ nào tạo ra một tác phẩm khác thường và gây kinh ngạc, thì lòng ghen tỵ liền đẻ ra loại chuyện tầm phào như thế ở những họa sĩ khác, những kẻ luôn tìm cách rẻ rúng bức tranh, coi nó chẳng gì hơn một tác phẩm Ba Tư ở Tabriz. Hồi đó Tabriz chưa thuộc lãnh thổ Ottoman. Khi lời vu khống như thế nhắm vào tôi, tôi cảm thấy giận dữ một cách chính đáng, nhưng lại thầm tự hào nhưng khi tôi nghe lời buộc tội như thế về người khác, thì tôi tin nó ngay. Bây giờ tôi buồn rầu nhận ra rằng, một cách kỳ lạ nào đó, bốn nhà tiểu họa chúng tôi, những kẻ từng được xem pho sách này từ hai mươi lăm năm trước, đã khắc sâu những hình ảnh trong đó vào ký ức, và từ đó trở đi chúng tôi chỉ nhớ lại, biến cải và vẽ chúng vào những cuốn sách làm cho Đức vua. Tinh thần tôi đã sa sút, không phải bởi sự tàn nhẫn của những vị vua quá đa nghi vốn sẽ không bao giờ lấy những cuốn sách như thế ra khỏi kho báu của họ cho chúng tôi xem. mà bởi sự nhỏ hẹp của thế giới hội họa của chính chúng tôi. Liệu có phải là những bậc thầy vĩ đại của Herat hay những bậc thầy mới của Tabriz, những họa sĩ Ba Tư đã làm ra nhiều bức minh họa xuất chúng hơn, nhiều kiệt tác hơn người Ottoman chúng tôi chăng?

Giống như một ánh chớp, tôi chợt nghĩ thật thích hợp biết bao nếu hai ngày nữa tất cả các nhà tiểu họa của tôi và tôi đều bị đưa ra tra tấn; dùng mũi con dao nhím tôi cạo không thương tiếc những con mắt bên dưới bàn tay tôi trong bức tranh mở ra trước mặt. Nó nằm trong câu chuyện kể về một học giả Ba Tư, kẻ học đánh cờ chỉ bằng cách nhìn một bàn cờ do sứ thần Hindustan đưa đến, trước khi đánh bại bậc thầy Hindu ngay trong môn chơi sở trường của ông ta! Một trò láo khoét của bọn Ba Tư! Từng con mắt, tôi cạo mắt của những kẻ chơi cờ, mắt của vị vua cùng các quần thần đang ngồi xem. Lật trở lại các trang trước, tôi cũng cạo không thương tiếc con mắt của những vị vua đang quyết chiến, của binh lính mặc giáp trụ lộng lẫy thuộc những đội quân oai nghiêm và của những cái đầu bị cắt lìa nằm dưới đất. Sau khi làm như thế trong ba trang, tôi nhét con dao trở lại vào khăn quàng.

Hai tay tôi run rẩy, nhưng tôi không cảm thấy buồn. Bây giờ có phải tôi đang cảm thấy những gì mà rất nhiều người điên đã cảm thấy sau khi thực hiện hành động kỳ lạ này mà kết quả của nó tôi vẫn gặp trong suốt năm mươi năm làm họa sĩ không? Tôi chỉ muốn thấy máu chảy ra trang sách từ những con mắt đã bị tôi cạo cho mù.

3. Điều này mang tôi đến sự giày vò và an ủi đang chờ tôi ở cuối cuộc đời. Không có phần nào của pho sách tuyệt hảo này, cuốn sách mà vua Tahmasp đã hoàn tất bằng cách thúc ép những nghệ sĩ tài hoa nhất Ba Tư làm trong mười năm, đã nhận được nét bút của Bihzad vĩ đại, và người ta cũng không tìm thấy cách vẽ đôi tay tuyệt hảo của ông ở bất cứ chỗ nào. Sự kiện này khẳng định rằng Bihzad đã mù trong những năm cuối đời, khi ông trốn khỏi Herat - lúc đó là một thành phố thất sủng - để đến Tabriz. Vì vậy một lần nữa tôi đi đến kết luận một cách hoan hỉ rằng, sau khi ông ta đạt tới sự hoàn hảo của những bậc thầy xưa bằng cách làm việc cả đời vị thầy vĩ đại này đã tự đâm mù mắt để tránh làm ô uế hội họa của mình vì những ham muốn của bất cứ xưởng vẽ hay vị vua nào khác.

Ngay lúc đó, Siyah và tay lùn mở một pho sách dày họ mang tới đặt trước mặt tôi.

“Không, đây không phải là nó,” tôi nói mà không bị mâu thuẫn. “Đây là cuốn Shahnameh của người Mông Cổ. Những con ngựa sắt trong đội kỵ binh sắt của Alexander được đổ đầy dầu hỏa và đốt cháy như những ngọn đèn trước khi bắn lửa từ mũi chúng sang phía kẻ thù. Chúng tôi nhìn đội quân bằng sắt bốc cháy được sao chép từ những bức tranh Trung Hoa.

“Jezmi Agha ạ,” tôi nói, “sau này chúng tôi có vẽ trong cuốn ‘Biên niên sử triều vua Selim’ những món quà mà các sứ thần Ba Tư của vua Tahmasp, những kẻ cũng đã tặng pho sách này, mang theo họ cách nay hai mươi lăm năm...”

Hắn ta nhanh chóng tìm ra cuốn ‘Biên niên sử triều vua Selim’ và đặt trước mặt tôi. Được ghép với trang tô màu rục rỡ thể hiện cảnh các sứ thần đang dâng cuốn Shahnameh cùng những tặng phẩm khác cho vua Selim, mắt tôi tìm ra, giữa những món quà được liệt kê từng thứ một, dòng chữ tôi đã đọc được từ lâu nhưng rồi quên mất vì nó quá khó tin:

Cây kim vàng có cán cẩn xà cừ và ngọc lam mà tài năng đáng sùng bái của Heart, bậc thầy của những nhà tiểu họa bậc thầy Bihzad, đã dùng để tự đâm mù mắt chính mình.

Tôi hỏi tên lùn hắn tìm thấy cuốn ‘Biên niên sử triều vua Selim’ ở đâu. Tôi theo hắn đi qua bóng tối đầy bụi của Quốc khố, lang thang giữa những rương, những đống vải và đống thảm, những cái tủ và bên dưới các cầu thang. Tôi nhận thấy bóng của chúng tôi, lúc co lúc giãn in lên những chiếc khiên, ngà voi và da cọp. Tại một trong những căn phòng kế bên, cũng tràn ngập cái màu đỏ kỳ lạ của vải và nhung kia, bên cạnh cái rương sắt trong đó có cuốn Shahnameh, giữa những pho sách khác, những khăn trải giường thêu chỉ vàng và bạc, những viên đá Tích Lan thô chưa đánh bóng, những con dao chạm đá quý, tôi thấy một số quà tặng khác mà vua Tahmasp đã gửi: những tấm thảm lụa từ Isfahan, một bộ cờ bằng ngà voi và một vật mà lập tức khiến tôi chú ý: một hộp bút trang trí những con rồng Trung Hoa và những cành cây với một phù hiệu hoa hồng khảm xà cừ rõ ràng là từ thời Tamerlane. Tôi mở hộp và từ đó bốc ra một mùi hương tinh tế của giấy đốt và nước hoa hồng; bên trong là một cây kim vàng cán cẩn xà cừ và ngọc lam mà người ta dùng để gắn cọng lông chim vào khăn xếp đội đầu. Tôi cầm lấy cây kim và trở lại chỗ cũ giống như một bóng ma.

Khi còn lại một mình, tôi đặt cây kim mà thầy Bihzad đã dùng để tự đâm mù mắt lên trang giấy đang mở của cuốn Shahnameh và nhìn nó chằm chằm. Không phải tôi rùng mình bởi cây kim ông dùng để đâm mù mắt, mà là bởi tôi nhìn thấy một vật ông đã cầm trong đôi tay kỳ diệu của ông.

Tại sao vua Tahmasp gửi cây kim khủng khiếp này kèm theo quyển sách ông ta tặng cho vua Selim? Đó có phải là do vị vua này vốn khi còn bé từng là học trò của Bihzad và là nhà bảo trợ các họa sĩ khi còn trẻ, đã thay đổi khi về già, tách rời các thi sĩ và họa sĩ khỏi nhóm thân cận của ông mà hoàn toàn chìm đắm vào tín ngưỡng và thờ cúng? Đây có phải là lý do khiến ông ta sẵn lòng từ bỏ cuốn sách tuyệt mỹ này, cuốn sách mà bậc thầy vĩ đại nhất đã lao động suốt hơn mười năm? Có phải ông ta gửi cây kim này để tất cả mọi người biết rằng người họa sĩ vĩ đại đã tự làm mình mù hoặc, như có lúc người ta đồn đại, để tuyên bố rằng bất cứ ai nhìn những trang trong cuốn sách này sẽ không còn muốn thấy bất cứ gì khác trên đời này nữa? Dù trong trường hợp nào, cuốn sách này cũng không còn được nhà vua ấy coi như một kiệt tác nữa, ông ta đã hối tiếc sâu sắc, sợ rằng mình mắc phải tội phạm thượng qua tình yêu hội họa lúc còn trẻ như đã xảy ra với nhiều nhà cai trị trong thời đại xa xưa.

Tôi nhớ lại những câu chuyện được kể qua các nhà minh họa hằn học, những kẻ đến già mới nhận ra rằng những giấc mơ của họ không thực hiện được: khi những đội quân của vua Jihan, người trị vì Garagoýunly chuẩn bị tiến vào Shiraz, Ibn Husam, Trưởng ban Minh họa huyền thoại của thành phố, đã tuyên bố “Tôi từ chối vẽ theo bất cứ cách nào khác,” và cho người thợ học việc đâm mù mắt ông bằng thanh sắt nóng. Trong số những nhà tiểu họa mà đạo quân của vua Yavuz Selim mang về Istanbul sau khi đánh bại vua Ismai, chiếm giữ Tabriz và cướp bóc lâu đài Bảy tầng trời có một bậc thầy Ba Tư già, người mà theo lời đồn đã tự làm mù mình bằng thuốc độc bởi vì ông tin mình không bao giờ dám vẽ lại theo phong cách Ottoman, chứ không phải do hậu quả một cơn bệnh ông mắc phải trên đường đi như một số người khẳng định. Để làm gương cho họ, tôi thường kể cho những nhà minh họa của mình trong những lúc họ nản lòng rằng Bihzad đã tự đâm mù mắt ông như thế nào.

Không có một giải pháp khác sao? Nếu một nhà tiểu họa bậc thầy áp dụng những phương pháp mới đâu đó ở những nơi hẻo lánh, vậy ông ta không thể, dù chỉ một chút, cứu toàn bộ xưởng vẽ và các phong cách của những bậc thầy xưa sao?

Có một vết sẫm trên đầu cực nhọn của cây kim, nhưng đôi mắt đã mờ của tôi không thể xác định đó có phải là máu hay không. Hạ thấp kính lúp, như thể đang xem một bức vẽ tình yêu buồn bã với một cảm giác u sầu tương ứng, tôi nhìn cây kim hồi lâu. Tôi cố hình dung xem Bihzad đã làm việc đó như thế nào. Tôi có nghe nói người ta không thể bị mù ngay lập tức; bóng tối mượt mà hạ xuống từ từ, có khi phải mất nhiều ngày, có khi nhiều tháng, như với những người già mù đi một cách tự nhiên.

Tôi nhìn thấy nó trong khi đi sang phòng kế bên; tôi đứng nhìn, phải, đó là một chiếc gương ngà voi với cán xoắn và khung bằng gỗ mun dày, dọc theo thân có trang trí chữ viết. Tôi lại ngồi xuống và nhìn vào đôi mắt mình, ánh nến nhảy nhót trong đồng tử tôi đẹp làm sao - cặp đồng tử đã chứng kiến bàn tay tôi vẽ trong sáu mươi năm.

“Thầy Bihzad đã làm chuyện đó như thế nào?” tôi lại tự hỏi.

Không rời mắt khỏi gương, với những động tác thành thạo của một phụ nữ đang bôi phấn lên mi mắt, tay tôi tự tìm thấy cây kim. Không do dự, như thể đang dùi lỗ vào đầu quả trứng đà điểu sắp được trang trí, tôi can đảm, bình tĩnh và kiên quyết ấn cây kim vào đồng tử mắt phải. Ruột tôi quặn lại, không phải bởi vì tôi cảm thấy việc mình đang làm, mà bởi vì tôi thấy chuyện tôi đang làm. Tôi ấn cây kim vào mắt tôi tới độ sâu bằng một phần tư ngón tay, rồi rút nó ra.

Trong hai câu thơ được khắc trên khung gương, thi sĩ đã chúc cho người đọc luôn luôn xinh đẹp và thông thái - và chúc cuộc sống vĩnh hằng cho chiếc gương.

Mỉm cười, tôi làm y như vậy với con mắt kia.

Tôi ngồi im hồi lâu. Tôi nhìn thế giới - vào mọi vật.

Như tôi ước đoán, các màu sắc của thế giới không tối đen đi, mà có vẻ như lan quyện hết sức nhẹ nhàng vào nhau, ít nhiều tôi vẫn còn nhìn thấy.

Ánh nắng nhợt nhạt chiếu trên lớp vải đỏ sẫm của Quốc khố. Theo trình tự quen thuộc, Trưởng Ngân khố và người của ông ta bẻ lớp xi và mở khóa cửa. Jezmi Agha thay các bô, đèn và thùng sưởi, mang vào bánh mì nóng cùng dâu khô và thông báo với những người khác rằng chúng tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm những con ngựa có cánh mũi được vẽ một cách kỳ cục trong các pho sách của Đức vua. Còn gì tuyệt vời hơn là nhìn vào những bức tranh đẹp nhất thế giới trong khi cố nhớ lại cái nhìn thế giới của Thượng đế?

CHƯƠNG 52
TÔI ĐUỢC GỌI LA SIYAH

Khi Trưởng Ngân khố và các quan trông coi Quốc khố mở cổng với trình tự trang trọng, hai mắt tôi đã quá quen thuộc với ánh đỏ mượt mà của các gian Quốc khố đến độ ánh nắng sáng sớm mùa đông từ sân Cấm thành Enderun trông có vẻ khủng khiếp. Tôi đứng chết lặng, giống như Sư phụ Osman: Có vẻ như nếu tôi nhúc nhích, những manh mối chúng tôi tìm được trong bầu không khí đặc quánh, đầy bụi bậm, ẩm mốc của Quốc khố có thể sẽ biến mất.

Với sự kinh ngạc tò mò, như thể nhìn thấy một vật tuyệt diệu nào đó lần đầu, Sư phụ Osman nhìn chăm chăm ánh sáng đang chiếu tới chúng tôi qua những cái đầu lô nhô của các quan trông coi Quốc khố xếp hàng hai bên cánh cổng mở.

Đêm trước đó, tôi nhìn theo khi ông lật các trang của cuốn Shahnameh. Tôi cũng nhận thấy vẻ kinh ngạc này lướt qua khuôn mặt ông khi bóng ông in trên tường hơi run, đầu ông cúi sát xuống kính lúp, đôi môi ông thoạt tiên hơi cong lại, như thể sắp thốt ra một bí mật sung sướng, sau đó thì co giật khi ông nhìn với vẻ kính sợ vào một bức minh họa.

Sau khi cánh cổng được đóng lại, tôi bồn chồn lang thang giữa các căn phòng mà trong dạ lại càng bức bối hơn; tôi lo lắng nghĩ rằng chúng tôi sẽ không có đủ thời gian để thu thập thông tin từ những pho sách trong Quốc khố. Tôi có cảm giác rằng Sư phụ Osman không hết lòng tập trung vào công việc của ông, và tôi nói với ông những hoài nghi của mình.

Giống như một người thầy đích thực đã quen với việc chăm sóc thợ học việc, ông nắm tay tôi theo một kiểu trấn an. “Những kẻ như chúng ta không có chọn lựa nào ngoài việc cố nhìn thế giới theo cách Thượng đế nhìn và chấp nhận sự phán xét của Người,” ông nói. “Và ở đây, giữa những bức tranh và của cải này, ta có cảm giác rõ rệt rằng hai việc này đang bắt đầu quy về một điểm: Khi chúng ta tới gần cách nhìn thế giới của Thượng đế, thì sự phán xét của Người cũng tới gần chúng ta. Xem đây, cây kim mà Thầy Bihzad dùng để tự đâm mù mình...”

Sư phụ Osman lạnh lùng kể câu chuyện về cây kim, và tôi xem xét kỹ đầu mũi cực nhọn của vật thể đáng ghét này dưới chiếc kính lúp mà ông đã hạ thấp để tôi thấy rõ hơn, một màng màu hồng phủ đầu kim.  “Những bậc thầy xưa sẽ chịu sự dằn vặt của lương tâm vì họ đã thay đổi tài năng, màu sắc và phương pháp của mình,” Sư phụ Osman nói. “Họ cho rằng thật đáng hổ thẹn khi một ngày nào đó ta nhìn thế giới như một vị vua phương Đông đã ra lệnh, rồi kế đó như một vị vua phương Tây ra lệnh - y như cách nhìn của những họa sĩ thời nay vậy. Đôi mắt ông không nhìn vào mắt tôi mà cũng không nhìn vào trang giấy trước mặt. Có vẻ như ông đang nhìn vào cõi trắng toát xa xôi không thể đạt tới. Trên một trang của cuốn Shahnameh nằm mở trước mặt ông, quân Ba Tư và Turnania đang đánh nhau dữ dội. Khi những con ngựa xáp chiến, những chiến binh anh hùng giận dữ rút gươm và tàn sát nhau với sắc thái và niềm vui như lễ hội, áo giáp của họ bị ngọn giáo của kỵ binh đâm thủng, đầu và tay họ bị chặt rời, xác họ bị xả đôi phơi khắp chiến trường.

“Khi những bậc thầy vĩ đại thời xưa buộc phải chấp nhận phong cách của những kẻ chiến thắng và bắt chước các nhà tiểu họa của họ, họ bảo toàn danh dự bằng cách dũng cảm dùng một cây kim tự đâm mù mắt. Phải, trước khi bóng tối nguyên tuyền của Thượng đế phủ lên đôi mắt họ như một phần thưởng thần thánh, họ đã nhìn chằm chằm một kiệt tác trong nhiều giờ hoặc thậm chí nhiều ngày không nghỉ, và bởi họ ngang bướng nhìn với cái đầu cúi thấp, nên ý nghĩa và thế giới của những bức tranh đó - lấm tấm máu nhỏ từ mắt họ - sẽ thế chỗ cho mọi tai ương mà họ chịu đựng, và trong khi đôi mắt họ từ từ mờ dần, họ sẽ bình yên tiến vào kiếp mù. Con có nghĩ ra bức minh họa nào ta muốn nhìn cho đến khi ta đạt tới cõi tối đen thần thánh của kiếp mù không?”

Giống như một người cố gợi lại ký ức thời thơ ấu, ông dán chặt đôi mắt, với hai đồng tử co lại trong khi tròng trắng nở ra, vào một nơi xa xôi vượt ra ngoài những bức tường Quốc khố.

“Cảnh này, được thể hiện theo phong cách của những bậc thầy Herat xưa, trong đó Husrev, cháy bỏng vì tình yêu, phóng ngựa tới chân hành cung mùa hè của Shirin và chờ đợi!”

Có lẽ bây giờ ông sẽ tiếp tục mô tả bức tranh đó như đang đọc to một bài thơ buồn bã tán dương kiếp mù của những bậc thầy xưa.

“Người thầy vĩ đại của con, cha thân yêu của con,” trong một cơn thôi thúc kỳ lạ, tôi ngắt lời, “những gì con muốn nhìn mãi mãi là khuôn mặt thanh tú của người con yêu dấu. Chúng con cưới nhau đã ba ngày rồi. Con đã khao khát nghĩ về nàng suốt mười hai năm qua. Cảnh mà trong đó Shirin phải lòng Husrev sau khi nhìn bức tranh vẽ anh ta chẳng gợi cho con nhớ đến ai khác ngoài nàng.”

Vẻ mặt Sư phụ Osman biểu lộ nhiều tâm trạng, có lẽ là sự tò mò, nhưng nó không liên quan đến câu chuyện của tôi cũng không liên quan đến cảnh đánh nhau đẫm máu trước mặt ông. Có lẽ ông đang mong đợi tin tức tốt lành mà nhờ đó ông có thể dần dần thấy nhẹ nhõm. Khi tin chắc ông không nhìn tôi, tôi bất ngờ chộp lấy cây kim và bỏ đi.

Nơi góc tối của căn phòng thứ ba trong Quốc khố, phòng tiếp giáp với dãy nhà tắm, có một góc chứa hàng trăm cái đồng hồ kỳ lạ do các vua chúa Tây vực tặng, nhưng khi chúng ngừng chạy, như chúng vẫn hay ngừng trong một thời gian ngắn, người ta dẹp chúng vào đây. Rút vào căn phòng này, tôi xem xét kỹ cây kim mà Sư phụ Osman cho rằng Bihzad đã dùng để tự đâm mù mình.

Dưới ánh sáng ban ngày màu đỏ lọt vào phản chiếu trên những lớp với mặt pha lê và kim cương của những chiếc đồng hồ chết đầy bụi bặm, cái đầu vàng của cây kim, phủ một chất lỏng màu hồng, thỉnh thoảng lại lấp lánh. Liệu thầy Bihzad có thực sự đâm mù mắt mình bằng dụng cụ này không? Sư phụ Osman có làm chuyện kinh khủng tương tự như thế không? Vẻ mặt của một gã Ma rốc bỡn cợt, to bằng cỡ ngón tay, sơn sặc sỡ, gắn chặt vào bộ máy của một trong những chiếc đồng hồ lớn có vẻ như muốn nói: “Phải!”. Rõ ràng khi đồng hồ chạy, hình nhân đội khăn xếp Ottoman này sẽ vui vẻ gật đầu khi giờ điểm - một trò vui nho nhỏ của vua Hapsburg, người đã gửi biếu món quà này, cũng như của người thợ làm đồng hồ tài hoa dưới trướng ông ta, để giải trí cho Đức vua và các phi tần của Ngài.

Tôi đã lướt qua nhiều pho sách rất tầm thường: Như ông lùn đã khẳng định, nhũng cuốn này là vật sở hữu của các vương hầu mà tài sản và đồ dùng cá nhân của họ bị tịch thu sau khi họ bị chém đầu. Có quá nhiều vương hầu bị hành hình đến độ những cuốn sách loại này không đếm xuể. Với một niềm vui độc ác ông lùn tuyên bố rằng bất cứ vương hầu nào quá say sưa với sự giàu có và quyền lực của mình đến nỗi quên đi mình là thần dân của Đức vua và dám làm một cuốn sách vinh danh chính mình, tô điểm bằng vàng lá cứ như hắn ta là quốc vương hoặc hoàng đế, thảy đều đáng bị hành hình và tài sản bị sung công.

Ngay cả trong những cuốn sách này, một số chỉ là những cuốn sưu tập tranh, những bản thảo được minh họa hoặc những tập thơ được trang trí, mỗi khi tôi gặp được một phiên bản về chuyện nàng Shirin phải lòng bức tranh vẽ Husrev, tôi đều dừng lại nhìn chăm chú.

Bức tranh trong một bức tranh, nghĩa là, bức tranh của Husrev mà nàng Shirin nhìn thấy khi nàng đi dạo ở ngoại thành, không hề được vẽ một cách chi tiết, không phải vì các nhà tiểu họa không thể vẽ đầy đủ cái gì đó quá nhỏ - nhiều người khéo tay có khả năng vẽ trên các móng tay, hạt gạo hoặc cả trên sợi tóc. Vậy tại sao họ không vẽ khuôn mặt và những đặc điểm của Husrev - đối tượng tình yêu của Shirin - đầy đủ chi tiết để người ta có thể nhận ra? Đôi khi vào buổi chiều, có lẽ để quên nỗi tuyệt vọng của mình, tôi vừa lật qua một tập tranh lộn xộn mà tôi tình cờ cầm lên vừa nghĩ mình sẽ nêu ra những vấn đề như thế với Sư phụ Osman, tôi thốt giật mình khi thấy hình ảnh một con ngựa trong bức tranh trên vải vẽ một đám rước dâu. Tim tôi đập thình thịch.

Trước mặt tôi là con ngựa với cánh mũi lạ kỳ đang chở một cô dâu đỏm dáng. Con vật từ trong tranh cũng nhìn tôi. Có vẻ như con ngựa ma quái này sắp thì thầm với tôi một điều bí mật. Như trong mơ, tôi muốn la to, nhưng không thốt ra lời.

Không chần chửi tôi quơ lấy cuốn sách rồi chạy lách giữa các món đồ và rương hòm đến chỗ Sư phụ Osman, bày trang giấy trước mặt ông.

Ông nhìn xuống bức tranh.

Khi thấy trên gương mặt ông không có vẻ gì nhận ra, tôi hết kiên nhẫn nổi. “Cánh mũi của con ngựa này rất giống cánh mũi vẽ trong cuốn sách cho Enishte của con,” tôi kêu lên.

Ông hạ kính lúp xuống hình con ngựa. Ông cúi sát xuống, dí mắt vào tròng kính và bức tranh đến độ mũi ông gần như chạm trang giấy. Tôi không chịu nổi sự im lặng này.

“Sư phụ thấy đó, con ngựa này không được vẽ theo cùng phong cách và phương pháp với con ngựa được vẽ cho cuốn sách Enishte của con,” tôi nói, “Nhưng cái mũi thì giống hệt. Người họa sĩ đã cố nhìn thế giới theo cách của người Trung Hoa.” Tôi im lặng một lát. “Đó là một lễ cưới. Nó giống một bức tranh Trung Hoan nhưng những nhân vật không phải là người Trung Hoa, họ là dân mình.”

Kính của ông thầy như đè sát trang giấy, và mũi ông áp sát mặt kính. Để thấy được, ông không chỉ sử dụng mắt, mà cả đầu, những bắp thịt ở cổ, cái lưng còng và đôi vai với tất cả sức lực.

Im lặng.

“Cánh mũi của con ngựa bị rạch mở.” cuối cùng ông nói, nín thở.

Tôi tựa sát đầu ông. Má kề má, chúng tôi nhìn cánh mũi ấy một hồi lâu. Tôi buồn rầu nhận ra không chỉ cánh mũi của con ngựa bị rạch, mà Sư phụ Osman bây giờ cũng khó thấy được chúng.

“Thầy không thấy rõ, phải không?”

“Chỉ thấy lờ mờ”, ông nói. “Thử tả bức tranh coi”.

“Nếu thầy hỏi, thì con phải nói rằng đây là một cô dâu u sầu,” tôi rầu rĩ nói. “Nàng cưỡi con ngựa xám có cánh mũi bị rạch, nàng đang trên đường về nhà chồng, cùng những người tháp tùng và đám hộ tống hoàn toàn xa lạ với nàng. Khuôn mặt của những kẻ hộ tống, vẻ thô lỗ của họ, những hàm râu đen đầy đe dọa, chân mày đầy nếp nhăn, ria mép dày và dài, những thân hình hộ pháp, áo choàng bằng vải mỏng đơn giản, giày nhẹ, mũ trùm đầu lông gấu, rồi rìu và mã tấu, tất cả cho thấy họ thuộc bộ tộc Akgoýunly ở Transoxiana. Có lẽ cô dâu xinh đẹp này, có vẻ nàng đang trong chuyến hành trình dài đến chỗ quan tòa bởi nàng đi cùng cô phù dâu vào ban đêm dưới ánh đèn dầu và ánh đuốc là một công chúa Trung Hoa u sầu.”

“Hoặc có lẽ đến lúc này chúng ta mới nghĩ cô dâu là người Trung Hoa, bởi vì nhà tiểu họa, để nhấn mạnh vẻ đẹp hoàn mỹ của nàng, đã tô trắng khuôn mặt nàng như người Trung Hoa vẫn làm và vẽ nàng có đôi mắt xếch”. Sư phụ Osman nói.

“Dù nàng là ai, tim con cũng đau nhói vì người đẹp muộn phiền này, đang đi trên thảo nguyên lúc nửa đêm cùng đoàn hộ tống người ngoại quốc mặt mày dữ tợn, hướng tới một miền đất lạ và một người chồng mà nàng chưa từng gặp,” tôi nói. Rồi tôi thêm: “Làm thế nào qua cánh mũi bị rạch của con ngựa nàng cưỡi mà chúng ta xác định được tay tiểu họa ta muốn tìm là ai?”

“Lật các trang kế tiếp của tập tranh rồi nói cho ta nghe con thấy gì,” Sư phụ Osman bảo.

Ngay lúc đó, ông lùn mà tôi thấy đang ngồi bô khi tôi chạy mang cuốn sách đến cho Sư phụ Osman cũng đến bên chúng tôi; cả ba cùng nhìn vào trang sách.

Chúng tôi thấy những thiếu nữ Trung Hoa cực kỳ xinh đẹp được vẽ giống kiểu cô dâu u sầu ấy đang tụ họp lại với nhau trong vườn để chơi một thứ đàn trông rất lạ mắt. Chúng tôi thấy những ngôi nhà Trung Hoa, những chiếc xe ngựa rầu rĩ đang trong chuyến viễn hành, những cảnh thảo nguyên đẹp như ký ức xa xưa. Chúng tôi thấy những cội cây vặn vẹo cổ quái được vẽ theo phong cách Trung Hoa, hoa xuân đang khoe sắc, và những chú họa mi ríu rít hân hoan trên cành. Chúng tôi thấy các ông hoàng theo phong cách Khorasan ngồi trong lều đang bình luận về thi ca, mỹ tửu và tình ái; những khu vườn ngoạn mục; những nhà quý tộc điển trai với những chú chim ưng dũng mãnh bám trên cánh tay, ngồi rất thẳng trên lưng những con ngựa tuyệt đẹp. Rồi, như thể Quỷ sứ đã nhập vào các trang sách; chúng tôi có thể cảm nhận rằng cái xấu trong các bức minh họa là lý do thường xuyên nhất. Không biết nhà tiểu họa có thêm một chút mỉa mai nào vào những động tác của vị hoàng tử anh hùng, kẻ đã giết con rồng bằng ngọn giáo khổng lồ của chàng ta không? Không biết ông ta có hả hê trước sự nghèo khổ của những nông dân bất hạnh đang mong đợi sự an ủi từ vị thủ lĩnh Hồi giáo đang đứng giữa họ không? Liệu ông ta có vui hơn khi vẽ con mắt trống rỗng, rầu rĩ của lũ chó bị mụt lẹo hoặc khi phết một màu đỏ quỷ quái lên những cái miệng há mở của các bà đang cười khinh bỉ vào những con thú tội nghiệp đó không? Sau đó chúng tôi thấy chính những ma quỷ của nhà tiểu họa: Những sinh vật kỳ quặc trông giống các âm hồn và bọn khổng lồ mà những bậc thầy Herat xưa và các họa sĩ của pho Shahnameh thường vẽ; nhưng tài mỉa mai của nhà tiểu họa này làm chúng trông độc ác, hung hãn và có hình dạng giống con người hơn. Chúng tôi bật cười khi nhìn những ma quỷ ghê sợ này, vóc dáng to bằng cỡ con người nhưng thân thể xấu xí, sừng có nhánh, đuôi mèo. Khi tôi lật các trang, những ma quỷ trần truồng này, chân mày rậm, mặt tròn, mắt lồi, răng nhọn, móng sắc và da nhăn nheo đen sạm như người già, đã bắt đầu cắn và đánh nhau, ăn cắp một con ngựa khổng lồ mà hiến tế cho các thần linh của chúng, nhảy nhót, chơi đùa, đốn hạ cây cối, bắt cóc những công chúa xinh đẹp đang ngồi kiệu, cầm tù những con rồng và cướp bóc châu báu. Tôi đề cập rằng trong cuốn sách này, vốn đã chứng kiến phong cách của nhiều cây cọ khác nhau, nhà tiểu họa có tên Kara Kalem, người đã vẽ bọn ma quỷ này, cũng vẽ những tín đồ khổ tu Kalenderi đầu cạo trọc, quần áo rách bươm, mang lòi tói và gậy sắt, và Sư phụ Osman bảo tôi lặp lại từng điểm tương đồng giữa hai nhóm đó, lắng nghe kỹ những lời tôi nói.

“Rạch cánh mũi ngựa để chúng dễ thở hơn và đi xa hơn là một tục lệ của người Mông Cổ xưa”, cuối cùng ông nói. “Quân đội của Hốt Liệt Ngột đã chinh phục cả Ả Rập, Ba Tư và Trung Hoa trên lưng ngựa. Khi họ vào Baghdad, tàn sát dân chúng, cướp bóc và ném tất cả sách vở xuống sông Tigris như chúng ta biết, Ibn Shakir, nhà thư pháp lừng danh, sau đó còn là nhà minh họa, đã chạy khỏi thành phố và thoát được vụ tàn sát này, ông đi về phương bắc ngược con đường mà vó ngựa Mông Cổ đã đến, thay vì về phương nam cùng mọi người khác. Vào thời điểm đó không ai vẽ tranh minh họa bởi điều đó bị kinh Koran cấm, và không ai quan tâm đến các họa sĩ. Chúng ta có được những bí quyết lớn lao nhất trong nghề nghiệp cao quý này là nhờ vào Ibn Shakir, thánh bảo trợ và thầy của mọi nhà tiểu họa: như cách nhìn thế giới từ một ngọn tháp, sự bất biến của đường chân trời dù hữu hình hay vô hình, và việc mô tả tất cả mọi thứ từ đám mây đến loài côn trùng theo cách mà người Trung Hoa đã mường tượng ra, bằng những màu sắc sống động và tươi tắn. Ta nghe nói rằng ông ta đã chú ý quan sát cánh mũi của bọn ngựa để giữ cho mình luôn đi theo hướng bắc trong chuyến hành trình huyền thoại đi vào trung tâm của người Mông Cổ. Tuy nhiên trong chừng mực ta thấy và nghe nói, thì trong số những con ngựa mà ông đã vẽ ở Samarkand, nơi ông dừng chân sau một năm trời đi bộ bất chấp tuyết giá và thời tiết khắc nghiệt, không một con nào có cánh mũi bị rạch cả. Với ông, những con ngựa trong mơ hoàn hảo không phải là những con ngựa chiến thắng, mạnh khỏe và cường tráng của người Mông Cổ mà ông được biết lúc trưởng thành; mà phải là những con ngựa Ả Rập thanh nhã mà ông đã đau buồn bỏ lại sau lưng trong thời trai trẻ hạnh phúc của mình. Đây là lý do tại sao chiếc mũi kỳ lạ của con ngựa vẽ cho cuốn sách của Enishte không gợi lại cho ta những con ngựa Mông Cổ mà cũng không gợi lại phong tục mà người Mông Cổ truyền bá đến Khorasan và Samarkand này.”

Khi nói, Sư phụ Osman lúc nhìn vào cuốn sách, lúc nhìn chúng tôi, như thể ông chỉ thấy được những điều ông gợi lại trong trí tưởng thôi.

“Ngoài lũ ngựa bị rạch lỗ mũi và hội họa Trung Hoa, lũ ma quỷ trong cuốn sách này cũng là thứ mà bọn người Mông Cổ đã mang đến Ba Tư rồi từ đó đến tận Istanbul này. Hẳn con đã nghe nói chuyện bọn ma quỷ là sứ giả của cái xấu do các thế lực đen tối từ dưới lòng đất sâu phái đến để lấy đi sinh mạng con người và bất cứ thứ gì chúng ta cho là có giá trị và chúng quyết chí đưa chúng ta xuống thế giới của bóng tối và cái chết như thế nào rồi. Trong vương quốc âm ty ấy, mọi thứ, dù là mây, cây, người, chó hay sách, đều có linh hồn và biết nói.”

“Đúng vậy,” ông già lùn nói. “Có đấng Allah làm chứng cho tôi, có nhiều đêm khi tôi bị nhốt ở đây, không chỉ linh hồn của mấy cái đồng hồ, đĩa sứ Trung Hoa và tô chén pha lê liên tục ngân nga với nhau, mà cả linh hồn của súng, gươm, khiên và mũ sắt nhuốm máu cũng nhộn nhạo rồi bắt đầu trò chuyện om sòm đến độ cả Quốc khố này trở thành chiến trường ồn ào cho một trận giao tranh khốc liệt.”

“Những tín đồ khổ tu Kalenderi, mà tranh vẽ họ chúng ta đã xem, mang đức tin này từ Khorasan đến Ba Tư, và sau đó đến tận Istanbul đây,” Sư phụ Osman nói. “Lúc vua Yavuz Selim cướp bóc lâu đài Bảy tầng trời sau khi đánh bại vua Ismail Bediuzzaman Mirza - một hậu duệ của Tamerlane - đã phản bội vua Ismail và cùng với bọn người Kalenderi vốn là những đệ tử của ông, liên kết với người Ottoman. Trong đoàn người của vua Selim theo ông vượt cái lạnh mùa đông và tuyết giá trở về Istanbul có hai bà vợ của vua Ismai, người ông đã đánh bại ở Chaldiran. Họ là những phụ nữ xinh đẹp nước da trắng ngần, mắt hạnh đào hơi xếch, đi cùng họ là tất cả sách được lưu giữ trong thư viện của cung điện Bảy tầng trời, sách do các bậc thầy trước đó ở Tabriz, người Mông Cổ, người Inkhanid, người Jelayirid và Garagoýunly để lại, và được vị vua đã bị đánh bại thu về như chiến lợi phẩm từ người Uzbek, người Ba Tư và người Timurid. Ta phải xem kỹ những cuốn sách này trước khi Đức vua và Trưởng Ngân khố buộc ta ra khỏi chỗ này.”

Nhưng bây giờ mắt ông đã lộ ra sự thiếu phương hướng thường thấy ở người mù. Ông cầm chiếc kính lúp có cán nạm xà cừ vì thói quen hơn là để nhìn. Chúng tôi cùng im lặng. Sư phụ Osman yêu cầu ông lùn, người đã nghe toàn bộ câu chuyện của ông như thể nghe câu chuyện cay đắng nào đó một lần nữa xác định vị trí và mang lại cho ông một pho sách mà ông đã mô tả kỹ cái bìa. Khi ông lùn đã đi, tôi ngây thơ hỏi thầy mình:

“Vậy ai là tác giả bức minh họa con ngựa trong cuốn sách của Enishte của con?”

“Cả hai con ngựa ta đang bàn tới đều có cánh mũi bị rạch,” ông nói, “cho dù nó được làm ở Samarkand hay, như ta nói, ở Transoxiana, con ngựa con tìm thấy trong tập tranh này được vẽ theo phong cách Trung Hoa. Còn về con ngựa đẹp trong cuốn sách của Enishte, vốn được vẽ theo phong cách Ba Tư giống những con ngựa diệu kỳ do những bậc thầy Herat vẽ. Quả thực nó là một bức minh họa rất tao nhã, khó mà tìm được một bức tương đương ở bất cứ nơi nào! Nó là con ngựa của nghệ thuật, chứ không phải một con ngựa Mông Cổ.”

Nhưng cánh mũi của nó cũng bị rạch giống như một con ngựa Mông Cổ đích thực,” tôi thì thào.

“Rõ ràng là cách nay hai trăm năm khi người Mông Cổ rút lui và bắt đầu triều đại Tamerlane và những hậu duệ của ngài, một trong những bậc thầy xưa của Herat đã vẽ một con ngựa cực đẹp mà cánh mũi bị rạch như thế - do bị ảnh hưởng của một con ngựa Mông Cổ mà ông ta đã thấy hoặc của một nhà tiểu họa khác, người đã vẽ một con ngựa Mông Cổ với cánh mũi bị rạch. Không ai biết đích xác nó được làm cho trang nào trong cuốn sách nào và dành cho vị vua nào. Nhưng ta chắc rằng cuốn sách và bức tranh đó rất được ca ngợi và ngưỡng mộ - ai mà biết được, có lẽ bởi một ái phi trong hậu cung của nhà vua - và có một thời chúng đã là huyền thoại! Ta cũng tin chắc chính vì lý do này mà tất cả những nhà tiểu họa tầm thường đã vừa tự lẩm bẩm với mình một cách đầy ghen tỵ, vừa bắt chước con ngựa này và nhân rộng hình ảnh của nó. Theo cách này, con ngựa kỳ diệu với cánh mũi của nó dần dần trở thành một khuôn mẫu ăn sâu vào đầu óc các họa sĩ trong xưởng đó. Nhiều năm sau, sau khi chủ nhân của họ bị bại trận, những họa sĩ này, giống như những phụ nữ u sầu bị chuyển đến những hậu cung khác, cũng tìm được những chủ nhân mới để làm việc ở những đất nước mới, mang theo họ hình ảnh xếp gọn trong ký ức về con ngựa mà cánh mũi bị rạch một cách khéo léo. Có lẽ do ảnh hưởng của những phong cách khác nhau và những bậc thầy khác nhau tại các xưởng làm việc khác nhau, nhiều họa sĩ đã không còn sử dụng và cuối cùng quên đi hình ảnh khác thường này, tuy nó vẫn còn được lưu giữ trong một góc ký ức họ. Tuy nhiên những họa sĩ khác, trong các xưởng vẽ mới mà họ gia nhập, không chỉ vẽ những con ngựa có cánh mũi bị rạch một cách tao nhã, mà còn dạy các thợ học việc giỏi của mình vẽ theo như thế với lời khích lệ đại loại như các bậc thầy xưa thường vẽ như vậy. Thế là theo cách này, rất lâu sau khi người Mông Cổ và những con ngựa khỏe mạnh của họ rút khỏi Ba Tư và Ả Rập, rồi nhiều thế kỷ sau khi cuộc sống mới đã phục hồi trong các thành phố bị tàn phá và hỏa hoạn, một số họa sĩ vẫn tiếp tục vẽ ngựa theo kiểu này, lòng đinh ninh đó là mẫu mực chuẩn. Ta cũng tin chắc rằng nhiều kẻ khác, vốn hoàn toàn không biết gì về kỵ binh Mông Cổ xâm lược và cái mũi bị rạch của những con ngựa họ cưỡi, vẫn vẽ ngựa theo cách chúng ta vẽ ở xưởng chúng ta, và nhất quyết rằng đây cũng là ‘một mẫu mực chuẩn’.”

“Thưa Sư phụ yêu quý,” tôi nói, đầy kính sợ, “như chúng ta đã hy vọng, ‘phương pháp gái điếm’ của thầy thật sự đã đưa ra một câu trả lời. Có vẻ như mỗi họa sĩ đều có chữ ký giấu kín của riêng anh ta.”

“Không phải mỗi họa sĩ, mà là mỗi xưởng vẽ,” ông nói đầy tự hào. “Và thậm chí không phải mỗi xưởng vẽ nữa kia. Trong những xưởng nghèo khổ, như trong những gia đình khốn khó, mỗi người nói theo một giọng khác nhau trong suốt nhiều năm mà không hiểu được rằng hạnh phúc luôn sinh ra từ sự hòa hợp và, như một điều tất nhiên, sự hòa hợp trở thành niềm hạnh phúc.

Một số họa sĩ cố minh họa giống như người Trung Hoa, một số khác giống người Thổ Nhĩ Kỳ, một số nữa thì giống trường phái Shiraz, họ ganh đua nhau suốt bao năm, không bao giờ đạt được một sự hợp nhất hạnh phúc - giống như một cặp vợ chồng không được thỏa mãn.”

Tôi thấy nét mặt ông lộ rõ lòng tự hào; vẻ mặt của một người vốn muốn trở nên đầy quyền thế giờ đây đã thế chỗ cho nét mặt một ông già rầu rĩ tội nghiệp mà tôi đã thấy ở ông bấy lâu nay.

“Thưa Sư phụ yêu quý,” tôi nói, “suốt hai mươi năm ở Istanbul này, thầy đã kết hợp nhiều họa sĩ khác nhau từ khắp nơi trên thế giới, những con người đủ mọi bản chất và tính khí, thành một thể hòa hợp để thầy có thể tạo ra và định dạng được phong cách Ottoman.”

Tại sao lòng kính sợ mà tôi vừa mới cảm thấy đây lại nhường chỗ cho thói đạo đức giả khi tôi nói lên những tình cảm của mình? Phải chăng, nếu muốn lời tán dương một con người - mà tài năng và sự lão luyện của người đó thực sự làm chúng ta kinh ngạc - là một lời tán dương chân thật, thì trước hết ông ta cần phải mất hầu hết quyền lực cùng ảnh hưởng của mình và trở nên đôi chút đáng thương?

“Vậy bây giờ tên lùn đó đang nấp ở đâu?” ông hỏi.

Ông nói điều này theo cách những kẻ có quyền lực hài lòng trước những lời tán tụng nhưng mơ hồ nhớ ra rằng họ không nên như thế - cứ như ông muốn đổi đề tài.

“Dù là một bậc thầy vĩ đại của những truyền thuyết và phong cách Ba Tư, thầy đã tạo ra một thế giới minh họa riêng biệt xứng đáng với sức mạnh và danh tiếng của Ottoman,” tôi thì thầm. “Thầy là người đã mang đến cho nghệ thuật sức mạnh của thanh gươm Ottoman, những màu sắc lạc quan của chiến thắng Ottoman, sự quan tâm và chú ý vào vật thể và công cụ, và quyền tự do hưởng một lối sống thoải mái. Thưa Sư phụ yêu quý, vinh dự lớn nhất của đời con là được nhìn những kiệt tác của những bậc thầy huyền thoại xưa này cùng với thầy...”

Tôi thì thầm như vậy hồi lâu. Trong bóng tối giá lạnh và cảnh bừa bộn của Quốc khố giống như một bãi chiến trường hoang vắng, thân thể chúng tôi sát vào nhau đến độ tiếng thì thầm của tôi trở thành một biểu hiện của sự gần gũi.

Lát sau, như với người mù vốn không thể kiểm soát những biểu hiện trên nét mặt, đôi mắt Sư phụ Osman mang vẻ của một ông già chìm đắm trong niềm vui. Tôi ca ngợi người thầy già này hết lời, có lúc với xúc cảm tận đáy lòng, có lúc run rẩy với nỗi khiếp sợ sâu xa mà tôi cảm thấy đối với người mù.

Ông cầm tay tôi với những ngón tay lạnh giá, vuốt ve cánh tay tôi và sờ mặt tôi. Sức mạnh và tuổi tác của ông có vẻ truyền vào tôi qua những ngón tay ông. Tôi, một lần nữa, lại nghĩ đến Shekure đang chờ tôi ở nhà.

Chúng tôi đứng im như vậy hồi lâu, các trang sách mở trước mặt chúng tôi như thể lời ca ngợi hào phóng của tôi và lòng tự ngưỡng mộ cùng tự thương thân của ông làm chúng tôi quá mệt mỏi đến độ đang phải nghỉ ngơi. Chúng tôi thấy ngượng với nhau.

“Tay lùn đó đi đâu rồi?” ông lại hỏi.

Tôi chắc rằng ông lùn xảo quyệt đó đang nấp trong hốc nào đó theo dõi chúng tôi. Cứ như đang tìm ông ta, tôi quay sang phải rồi sang trái, nhưng mắt vẫn chú ý nhìn Sư phụ Osman. Ông ta thực sụ mù hay đang cố tìm cách thuyết phục thế giới này, kể cả chính ông ta rằng ông ta đã bị mù? Tôi từng nghe nói, một số thợ cả bất tài ngày xưa ở Shiraz lúc về già đã giả bộ mù để được tôn trọng và ngăn không cho người khác đề cập đến những thất bại của họ.

“Ta thích chết ở đây,” ông nói.

“Thưa Sư phụ yêu quý,” tôi cố xoa dịu ông, “trong thời đại này khi giá trị không được đặt vào hội họa mà đặt vào tiền bạc kiếm được từ việc vẽ tranh, không đặt vào những lão sư phụ mà đặt vào những kẻ bắt chước bọn Tây vực, con hiểu rất rõ điều thầy nói đến độ con những muốn khóc. Nhưng nhiệm vụ của thầy là bảo vệ những thợ cả minh họa của thầy khỏi tay kẻ thù của họ. Làm ơn cho con biết thầy đã rút ra kết luận gì từ ‘phương pháp gái điếm’? Nhà tiểu họa đã vẽ con ngựa đó là ai?”

“Zeytin.” Ông nói điều đó với một vẻ thoải mái đến độ tôi không kịp ngạc nhiên.

Ông im lặng.

“Nhưng ta cũng chắc chắn rằng Zeytin không phải là người giết Enishte của con hay Zarif Kính mến bất hạnh,” ông nói một cách bình thản. “Ta tin rằng Zeytin đã vẽ con ngựa đó bởi vì anh ta là người gắn bó nhất với các bậc thầy xưa, người biết cặn kẽ nhất những truyền thuyết và phong cách của Herat, và quan hệ thầy trò của anh ta có gốc gác từ tận Samarkand. Bây giờ ta biết con sẽ không hỏi ta, ‘Tại sao chúng ta không gặp những cánh mũi đó trong những con ngựa khác mà Zeytin đã vẽ bao năm qua?’ Vì ta đã nói rằng nhiều khi có một chi tiết - đôi cánh một con chim, cách đính một chiếc lá vào thân cây - có thể được lưu giữ trong ký ức qua nhiều thế hệ, truyền từ thầy đến thợ học việc, nhưng có thể nó không hiện ra trên trang giấy do tác động của một ông thầy có tính khí thất thường hoặc cứng rắn, hoặc do những thị hiếu hay ý thích nào đó của một xưởng vẽ hoặc vị vua nào đó. Vì vậy đây là con ngựa mà Zeytin yêu quý hồi thơ ấu đã học trực tiếp từ những bậc thầy Ba Tư mà không quên được. Việc con ngựa bất ngờ xuất hiện vì cuốn sách của Enishte là một trò đùa cợt quái ác trong những trò của đấng Allah. Chẳng phải tất cả chúng ta xem những bậc thầy Herat xưa là mẫu mực của mình sao? Giống như đối với những nhà minh họa Thổ Nhĩ Kỳ, một phụ nữ đẹp có nghĩa là một phụ nữ mang những nét Trung Hoa, chẳng lẽ chúng ta không từng nghĩ về những kiệt tác Herat mỗi khi nói về những bức tranh tuyệt hảo sao? Tất cả chúng ta đều ngưỡng mộ họ hết lòng. Herat của Bihzad là nơi nuôi dưỡng cả ngành nghệ thuật này và làm chỗ dựa cho Herat này là những kỵ sĩ Mông Cổ và người Trung Hoa. Tại sao Zeytin, vốn gắn bó trọn vẹn với những truyền thuyết của Herat, lại phải giết Zarif tội nghiệp, người thậm chí gắn bó hơn - thậm chí tận tụy một cách mù quáng - với chính những phương pháp xưa đó?”

“Vậy là ai,” tôi hỏi. “Kelebek à?”

“Leylek!” Ông nói. “Tự thâm tâm ta biết vậy, bởi ta quá quen với thói tham lam và cơn cuồng nộ của anh ta. Nghe này, rất có thể là Zarif, trong khi mạ vàng cho Enishte của con, người bắt chước một cách ngu ngốc và vụng về những phương pháp Tây vực đã dần dần tin rằng công trình này có thể ít nhiều nguy hiểm. Vì anh ta đủ ngốc để sốt sắng lắng nghe lời ngớ ngẩn của tay thuyết giáo đần độn xứ Erzurum - thật không may, những thợ cả mạ vàng, dù gần gũi Thượng đế hơn các họa sĩ, cũng đáng chán và ngu ngốc - và hơn nữa, bởi vì anh ta biết cuốn sách của Enishte khờ khạo của con là một dự án quan trọng của Đức vua, nỗi sợ hãi và nghi ngờ của anh ta xung đột nhau: Anh ta nên tin vào Đức vua hay tin tay thuyết giáo xứ Erzurum? Vào bất cứ lúc nào khác, đứa đồ đệ bất hạnh này, mà ta biết rõ như lòng bàn tay mình vậy, sẽ đến gặp ta để nói về tình trạng khó xử đang giày vò anh ta. Nhưng thậm chí anh ta, với đầu óc chim sẻ, cũng biết rất rõ rằng việc mạ vàng cho Enishte của con, vốn bắt chước bọn Tây vực rốt cuộc là sự phản bội lại ta và cả phường hội của chúng ta; thế nên anh ta tìm kiếm một người bạn tâm tình khác. Anh ta tâm sự với Leylek đầy tham vọng và xảo quyệt, và phạm sai lầm là kính sợ trí tuệ và đạo đức của một người mà tài năng gây ấn tượng cho anh ta. Ta đã nhiều lần chứng kiến Leylek thao túng Zarif bằng cách lợi dụng sự ngưỡng mộ của chàng thợ mạ vàng tội nghiệp này. Dù giữa hai đứa đã xảy ra cuộc tranh luận nào đi nữa, nó cũng đều dẫn đến việc Leylek giết Zarif Kính mến. Và vì người chết từ lâu đã thổ lộ những lo âu của anh ta với dân Erzurum cho nên họ, trong cơn sốt báo thù và để chứng minh sức mạnh của mình, đã giết Enishte của con, kẻ sùng bái phương Tây, người mà họ cho là chịu trách nhiệm về cái chết của bạn họ. Ta không thể nói là ta hết sức đau buồn trước sự vụ này. Nhiều năm trước, Enishte của con đã dụ Đức vua thuê một họa sĩ Venice - tên hắn ta là Sebastiano - vẽ một bức chân dung cho Ngài theo phong cách Tây vực như thể Ngài là vua của bọn ngoại giáo. Không hài lòng với điều đó, như muốn xúc phạm phẩm giá của ta, ông ta đã giao cho ta sao lại tác phẩm đáng hổ thẹn này; và vì quá sợ Đức vua nên ta đã sao lại bức tranh đó, vốn được vẽ theo những phương pháp của bọn ngoại giáo. Giá ta không bị buộc phải làm điều đó thì chắc ta đã có thể thương tiếc cho Enishte của con và hôm nay giúp tìm ra tên đốn mạt đã giết ông ta. Nhưng mối quan tâm của ta không phải dành cho Enishte của con, mà dành cho xưởng làm việc của ta. Enishte của con chịu trách nhiệm về chuyện những nhà tiểu họa bậc thầy - nhưng người ta yêu thương cứ như con ruột của ta, những kẻ ta đã ân cần dạy bảo suốt hai mươi lăm năm - đã phản bội ta và toàn bộ truyền thống nghệ thuật của chúng ta như thế. Ông ta chịu trách nhiệm về việc họ bắt chước nhiệt tình những bậc thầy châu Âu với cách biện minh rằng ‘đó là ý của Đức vua’. Mỗi vị thầy xấu xa đó chẳng đáng được hưởng cái gì ngoài sự tra tấn! Nếu chúng ta, giới tiểu họa, biết phục vụ trước hết tài năng và nghệ thuật của chính chúng ta thay vì phục vụ Đức vua, người đem lại cho chúng ta công việc, thì chúng ta sẽ tìm được lối vào Cổng Thiên đàng. Còn bây giờ, ta muốn nghiên cứu cuốn sách này một mình.”

Sư phụ Osman nói câu cuối cùng này giống như ước muốn cuối cùng của một vương hầu mệt mỏi muộn phiền, người chịu trách nhiệm về thất bại quân sự và bị kết án chém đầu. Ông mở cuốn sách mà Jezmi Agha đã đặt trước mặt ông và bằng giọng gắt gỏng ra lệnh cho tên lùn lật ra các trang ông muốn. Với giọng kết tội này, ông lập tức trở lại thành Trưởng ban Trang trí, người mà cả xưởng vẽ đã quá ư quen thuộc.

Tôi rút vào một góc giữa những tấm nệm thêu đính ngọc, những khẩu súng trường nòng hoen gỉ với báng súng nạm ngọc cùng những chiếc tủ, rồi bắt đầu quan sát Sư phụ Osman. Mối nghi ngờ đang gặm nhấm tôi đã lan khắp người tôi: Nếu Sư phụ Osman muốn dừng việc thực hiện cuốn sách của Đức vua lại, điều đó khiến tôi cảm nhận rõ rệt rằng có thể chính ông đã sắp đặt việc giết Zarif tội nghiệp và sau đó đến lượt Enishte của tôi - tôi tự trách mình đến bây giờ vẫn cảm thấy kính sợ như thế đối với ông ta. Mặt khác, tôi không thể ngăn được lòng kính trọng sâu sắc đối với bậc thầy vĩ đại này, người hiện đang đắm mình vào bức tranh trước mặt ông và, dẫu mù hoặc gần như mù, đang nhìn kỹ nó như thể đang nhìn bằng vô số nếp nhăn trên khuôn mặt mình. Tôi hiểu ra rằng để bảo tồn phong cách cũ và chế độ sinh hoạt cho xưởng vẽ của các nhà tiểu họa, để gỡ bản thân ông khỏi cuốn sách của Enishte và lại trở thành sủng thần duy nhất của Đức vua, ông sẽ vui lòng giao nộp bất cứ ai trong đám tiểu họa của ông, và cả tôi nữa, cho những kẻ tra tấn của Chỉ huy Ngự lâm quân. Tôi bắt đầu giận dữ nghĩ đến việc phải vượt thoát khỏi tình yêu vốn đã buộc tôi vào ông trong hai ngày qua.

Hồi lâu sau tôi vẫn còn hết sức bối rối. Tôi tình cờ nhìn vào nhưng trang đã tô điểm của những cuốn sách mà tôi rút ra từ mấy cái tủ chỉ để xoa dịu lũ ma quỷ đang nổi dậy trong tôi và để làm xao lãng những âm hồn do dự của tôi.

Bao nhiêu đàn ông và phụ nữ đã đưa ngón tay vào miệng họ! Điều này được xem như một cử chỉ biểu lộ sự ngạc nhiên trong mọi xưởng vẽ từ Samarkand đến Baghdad suốt hai trăm năm nay. Khi người anh hùng Keyhusrev, bị kẻ thù dồn vào đường cùng, đã an toàn băng qua sông Oxus hung dữ với sự trợ giúp của Allah và con ngựa ô của ông, tay lái bè xấu xa cùng bọn trạo phu của hắn, kẻ đã từ chối không cho ông qua sông bằng bè của hắn, mỗi đứa trong bọn đó đều cho ngón tay vào miệng. Một ngón tay của Husrev đầy kinh ngạc vẫn còn nằm trong miệng anh ta khi anh ta lần đầu thấy vẻ đẹp của Shirin, với làn da trông giống ánh trăng khi nàng tắm trong hồ nước lung linh với lá bạc đã xỉn màu. Tôi thậm chí dành nhiều thời gian hơn để nghiên cứu cẩn thận những phi tần tuyệt đẹp trong hậu cung, những người, với ngón tay đút miệng, đứng đằng sau những cánh cửa lâu đài hé mở, sau cánh cửa sổ không thể nào với tới trên những ngọn tháp và nhìn ra từ phía sau những bức màn. Khi Tejav, bị quân đội Ba Tư đánh bại và mất ngai vàng, đang trốn khỏi chiến trường, Espinuy, một trong những mỹ nhân và là một ái phi trong hậu cung của ông, đã đau buồn và choáng váng từ một cửa sổ lâu đài nhìn theo ông, ngón tay đút trong miệng, đôi mắt như van xin ông đừng bỏ nàng lại cho kẻ thù. Khi Yusuf, bị bắt do lời cáo gian của Zuleyha rằng ông đã cưỡng hiếp nàng, bị đưa đến xà lim, nàng ta nhìn qua cửa sổ, một ngón tay đút vào cái miệng xinh đẹp của nàng thể hiện sự độc ác và dục vọng hơn là bối rối. Khi những tình nhân đầy hạnh phúc nhưng u buồn, xuất hiện cứ như từ một bài thơ tình, bị cuốn đi dưới sức mạnh của nỗi đam mê và mỹ tửu trong một khu vườn gợi đến cảnh Thiên đàng, một cô tớ gái ác tâm theo dõi họ cũng với một ngón tay thèm khát trong cái miệng đỏ au.

Dẫu nó là hình ảnh tiêu chuẩn được ghi vào sổ tay và ký ức của các nhà tiểu họa, ngón tay thon dài đưa vào miệng một phụ nữ xinh đẹp của mỗi thời đều có một vẻ tao nhã khác nhau.

Những bức minh họa đã an ủi tôi được bao nhiêu? Khi trời sụp tối, tôi đến chỗ Sư phụ Osman mà nói:

“Thầy yêu quý, khi nào cổng mở lại, nếu thầy cho phép, con sẽ rời khỏi Quốc khố này.”

“Con muốn thế à!” ông nói. “Chúng ta vẫn còn một đêm và một buổi sáng. Con đã xem thỏa thuê những bức minh họa vĩ đại nhất mà thế giới này từng biết đến nhanh như thế sao!”

Khi nói điều này, ông không quay khỏi trang giấy trước mặt ông, nhưng hai đồng tử mờ đục của ông khẳng định ông thực sự đang dần dần mù đi.

“Chúng ta đã biết bí mật về cánh mũi của con ngựa,” tôi tự tin nói.

“Ha!” ông nói. “Phải! Phần còn lại tùy quyết định của Đức vua và Trưởng Ngân khố. Có lẽ họ sẽ tha cho tất cả chúng ta.”

Ông đã chỉ đích danh Leylek là kẻ giết người sao? Tôi thậm chí không dám hỏi vì sợ, vì tôi lo ông sẽ không cho phép tôi ra về. Thậm chí tệ hại hơn, tôi cứ nghĩ rằng ông có thể buộc tội cả tôi.

“Cái kim cài lông chim mà Bihzad dùng để tự đâm mù mình đã đâu mất rồi,” ông nói.

“Rất có thể ông lùn đã trả nó về chỗ cũ, tôi nói. “Trang trước mặt thầy lộng lẫy quá.”

Mặt ông sáng ngời như mặt đứa bé, và ông mỉm cười. “Husrev, cháy bỏng yêu đương, khi chàng ngồi trên ngựa chờ Shirin trước lâu đài của nàng lúc nửa đêm,” ông nói. “Được vẽ theo phong cách của những bậc thầy Herat xưa.”

Giờ ông đang nhìn bức tranh như thể ông thấy được nó, nhưng thậm chí ông không cầm kính lúp lên.

“Con có thấy vẻ tráng lệ của những chiếc lá trên cây trong đêm tối, hiện ra từng chiếc một cứ như tỏa sáng từ bên trong giống các vì sao hoặc những đóa hoa xuân, đường nét trang hoàng trên tường gợi lên sự kiên nhẫn nhún nhường, vẻ tao nhã trong cách sử dụng miếng vàng lá và sự cân bằng tinh tế trong toàn bộ bố cục của bức tranh không? Con ngựa của Husrev tuấn tú cũng duyên dáng và tao nhã như một phụ nữ. Shirin yêu dấu của chàng đang chờ ở cửa sổ phía trên. Cổ nàng cúi xuống, nhưng mặt nàng đầy tự hào. Như thể đôi tình nhân đó vẫn còn ở đây mãi mãi trong ánh sáng phát ra từ kết cấu của bức tranh, làn da và những màu sắc tinh tế vốn được nhà tiểu họa tô lên một cách khéo léo. Con có thể thấy khuôn mặt của họ hơi hướng vào nhau trong khi thân mình của họ hơi ngả về phía chúng ta - vì họ biết họ đang ở trong một bức tranh và vì thế chúng ta thấy được họ. Đây là lý do tại sao họ không giống những nhân vật mà chúng ta thấy quanh ta. Hoàn toàn ngược lại, họ hàm ý rằng họ hiện lên từ ký ức của đấng Allah. Điều này lý giải vì sao thời gian đã ngừng trôi đối với họ trong bức tranh đó. Cho dù nhịp điệu câu chuyện họ kể trong bức tranh nhanh đến thế nào đi nữa, bản thân họ sẽ vẫn mãi mãi ở đó, giống như những thiếu nữ e thẹn, lễ phép và có giáo dục, không làm bất cứ cử chỉ đường đột nào với bàn tay, cánh tay, thân thể hoặc thậm chí đôi mắt họ. Đối với họ, mọi thứ trong màn đêm màu xanh nước biển này đã đông cứng: Con chim bay trong bóng tối giữa những vì sao, với một cái vẫy cánh giống như trái tim đang đập của chính đôi tình nhân này, và đồng thời vẫn được cố định vĩnh viễn như thể bị đóng chặt vào bầu trời trong phút giây vô song này. Các bậc thầy Herat xưa, những người biết rằng màn đen như nhung của Thượng đế đang trùm xuống mắt họ như một bức màn, cũng biết rằng nếu họ bị mù trong khi nhìn chằm chằm bất động vào một bức minh họa như thế trong nhiều ngày nhiều tuần liên tục, thì linh hồn họ cuối cùng sẽ hòa vào sự vĩnh cửu của bức tranh.”

Vào giờ cầu kinh tối, khi cổng Quốc khố được mở ra với cùng trình tự đó và dưới cái nhìn cũng của đám người đó, Sư phụ Osman vẫn nhìn chăm chú vào trang giấy trước mặt ông, vào con chim đang bay bất động trên bầu trời. Nhưng nếu bạn nhận ra vẻ mờ đục trên đồng tử của ông, bạn cũng sẽ thấy rằng ông nhìn vào trang giấy một cách kỳ lạ, như người mù đôi khi định hướng không chính xác thức ăn trước mặt họ.

Các quan trông coi Quốc khố biết rằng Sư phụ Osman sẽ ở lại trong đây và biết Jezmi Agha vẫn ở ngay nơi cửa, nên đã quên lục soát tôi kỹ lưỡng và không tìm thấy cây kim tôi giấu trong lớp áo lót. Khi từ sân lâu đài bước ra đường phố Istanbul tôi rẽ vào một hẻm nhỏ và lấy vật khủng khiếp đó ra, vật mà Bihzad huyền thoại đã dùng để tự đâm mù mắt mình, nhét nó vào khăn quàng.

Tôi gần như chạy qua các phố.

Cái lạnh trong các phòng Quốc khố đã ngấm quá nhiều vào xương tủy tôi đến độ tôi tưởng như thời tiết dễ chịu của mùa xuân sớm đã về trên khắp đường phố. Khi tôi đi ngang qua tiệm tạp hóa, tiệm cắt tóc, tiệm dược thảo, cửa hàng rau và trái cây và hàng bán củi của khu chợ Quán trọ cũ, từng gian hàng đang lần lượt đóng cửa nghỉ, tôi bước chậm lại và cẩn thận xem xét những thùng rượu, vải trải giường, những củ cà rốt, những chiếc bình trong cửa hàng ấm áp thắp đèn dầu.

Con phố của Enishte của tôi (tôi vẫn chưa quen gọi nó là “con phố của Shekure” chứ đừng nói là “con phố của tôi”) có vẻ thậm chí lạ lẫm và xa xôi hơn sau hai ngày tôi vắng mặt. Nhưng niềm vui của việc được gặp lại và nói chuyện với Shekure của tôi, và ý nghĩ rằng tôi có thể chui vào giường của người yêu tôi tối nay - vì tên giết người gần như đã bị bắt - khiến tôi cảm thấy gần gũi với cả thế giới này đến độ, khi thấy cây lựu và những tấm rèm đã được sửa lại và đóng kín, tôi phải kìm mình để đừng la to lên giống một nông dân hò hét với ai đó bên kia dòng suối. Khi gặp Shekure, tôi muốn lời đầu tiên thốt ra từ miệng tôi là, “Bọn anh đã biết tên giết người đê tiện đó là ai rồi!” Tôi mở cổng sân. Tôi không chắc có phải qua tiếng cọt kẹt của cánh cổng, vẻ vô tư lự của con chim sẻ đang giải khát ở cái xô đựng nước giếng, hay vẻ tối đen của ngôi nhà, mà với linh cảm như chó sói của một người từng sống cô độc suốt mười hai năm, tôi lập tức hiểu rằng không có ai trong nhà. Ngay cả khi cay đắng nhận ra rằng mình đã bị bỏ mặc, người đó vẫn sẽ mở và đóng tất cả các cửa, các tủ, thậm chí còn giở nắp các xoong nồi, và tôi đã làm như thế. Thậm chí tôi còn nhìn vào trong những cái rương.

Trong cảnh im lặng này, âm thanh duy nhất tôi nghe là tiếng đập thình thịch của trái tim tôi. Giống như một lão già đã làm mọi việc cần làm, tôi cảm thấy được an ủi khi bất ngờ đeo vào người thanh gươm mà tôi luôn giấu dưới đáy cái rương kín đáo nhất. Đây là thanh gươm có chuôi bằng ngà, nó luôn tạo cho tôi cảm giác bình yên và cân bằng trong suốt những năm tôi làm việc với giấy bút. Sách vở, mà chúng ta lầm tưởng là nguồn an ủi, chỉ làm tăng thêm nỗi u sầu của chúng ta thôi.

Tôi xuống sân. Con chim sẻ đã bay mất. Như thể rời bỏ một con tàu đang chìm, tôi rời căn nhà trong cái lặng im của đêm đen sắp đến.

Con tim tôi, giờ tự tin hơn, bảo tôi hãy chạy đi tìm họ. Tôi chạy, nhưng tôi chậm lại ở những nơi đông đúc và các sân thánh đường nơi lũ chó đánh hơi được dấu vết tôi và sung sướng chạy theo, cứ như chúng tiên đoán được một trò vui nào đó.

CHƯƠNG 53
TÔI LÀ ESTHER

Tôi đang nấu món xúp đậu lăng cho bữa tối thì Nesim nói “Có khách đến.” Tôi vừa đáp “coi chung đừng để nồi xúp khét,” vừa trao cho ông ấy cái thìa, rồi cầm bàn tay già nua của ông ấy mà đảo vài cái trong nồi. Nếu ta không làm cho họ thấy, họ sẽ đứng đó suốt mấy giờ đồng hồ, cứ thọc thọc cái thìa vào nồi một cách vô tích sự.

Khi thấy Siyah trước cửa, tôi chẳng cảm thấy gì ngoài thương hại cho anh ta. Có một vẻ gì đó trên khuôn mặt anh ta khiến tôi sợ không dám hỏi chuyện gì đã xảy ra.

“Đừng vô nhà.” tôi nói, “để tôi thay đồ rồi mình đi ngay.” Tôi mặc bộ đồ màu hồng và vàng mà tôi vẫn mặc khi được mời dự các lễ hội trong Tháng Ramadan, những bữa đại tiệc thừa mứa, những lễ cưới lê thê, và cầm chiếc túi ngày lễ lên. “Chừng nào về em sẽ ăn sau,” tôi nói với Nesim tội nghiệp.

Siyah và tôi băng qua một con phố trong khu Do Thái nhỏ bé của tôi với những ống khói đang nhả khói, giống những ấm đun nước phun ra hơi nóng, và tôi nói:

“Chồng cũ của Shekure trở về rồi.” Siyah im lặng và cứ như thế cho đến khi chúng tôi rời khỏi khu Do Thái. Mặt anh ta tái nhợt, màu của ngày đang tàn.

“Họ đang ở đâu?” Một lúc sau anh ta hỏi.

Qua câu hỏi này tôi đoán rằng Shekure và bọn trẻ không có ở nhà. “Họ ở nhà của họ,” tôi nói. Bởi vì ý tôi muốn nói nhà trước đây của Shekure, và biết ngay điều này sẽ đốt tan nát trái tim của Siyah, nên tôi mở cánh cửa hy vọng cho anh ta bằng cách kèm thêm cụm từ “có lẽ vậy” vào cuối câu nói.

“Chị có thấy người chồng vừa trở về của cô ấy không?” anh ta hỏi, nhìn sâu vào mắt tôi.

“Tôi không thấy ông ta mà cũng không thấy Shekure trốn ra khỏi nhà.”

“Vậy làm sao chị biết họ đã rời khỏi nhà?”

“Qua nét mặt anh.”

“Nói cho tôi nghe mọi chuyện đi,” anh ta nói một cách dứt khoát.

Siyah quá rối trí đến độ anh ta không hiểu rằng Esther - mà con mắt chị ta luôn luôn tại cửa sổ, tai chị ta luôn luôn áp sát đất, không bao giờ có thể “nói mọi thứ” nếu chị ta muốn tiếp tục là Esther, kẻ tìm chồng cho rất nhiều thiếu nữ mơ mộng và gõ cửa rất nhiều ngôi nhà bất hạnh.

“Tôi nghe nói rằng Hasan, em chồng cũ của Shekure đã đến nhà anh,” - anh ta phấn khởi lên khi tôi nói ‘nhà anh’ - “rồi nói với Shevket rằng cha nó đang trên đường về nhà, rằng ông ta sẽ về tới vào khoảng giữa trưa, và nếu ông ta không thấy mẹ với em trai của Shevket trong ngôi nhà chính danh của họ, ông ta sẽ giận lắm. Shevket kể lại với mẹ nó, cô ta hành động rất cẩn trọng, nhưng không thể quyết định được gì. Tới giữa trưa Shevket đã bỏ nhà để về ở với chú Hasan và ông nội nó.”

“Chị lấy đâu ra những chuyện này vậy?”

“Bộ Shekure không nói với anh là suốt hai năm qua Hasan lên kế hoạch nhằm lôi cô ấy trở về nhà anh ta sao? Có thời kỳ Hasan nhờ tôi chuyển thư cho Shekure luôn.”

“Cô ấy có bao giờ trả lời không?”

“Tôi biết nhiều loại phụ nữ khác nhau ở Istanbul”, tôi nói đầy tự hào “không có người phụ nữ nào gắn bó với gia đình, chồng và danh dự của mình như Shekure đâu.”

“Nhưng hiện giờ tôi là chồng cô ấy.”

Giọng của anh ta vẫn mang vẻ thiếu chắc chắn vốn luôn khiến tôi thấy nản lòng. Thật kỳ lạ, dù Shekure chạy về phía bên nào, thì bên kia cũng cảm thấy suy sụp.

“Hasan có viết một lá thư ngắn đưa cho tôi bảo trao cho Shekure. Trong thư nói chuyện Shevket đã quay về nhà và chờ cha nó trở về thế nào. Shekure đã bị gả đi trong một lễ cưới bất hợp pháp ra sao, Shevket đã đau khổ thế nào vì người chồng giả kia, kẻ được coi là cha mới của nó và nó không bao giờ trở về nhà nữa”.

“Shekure phản ứng ra sao?”

“Cô ấy với Orhan tội nghiệp đã chờ anh suốt đêm.”

“Còn Hayriye thì sao?”

“Hayriye trong nhiều năm đã chờ đợi cơ hội để nhấn chìm cô vợ xinh đẹp của anh trong một muỗng nước. Điều đó lý giải vì sao cô ta ngủ với Enishte, cầu cho ông ta được yên nghỉ. Khi Hasan nhận thấy Shekure đã trải qua một đêm cô đơn trong nỗi sợ hãi cả kẻ giết người lẫn ma quỷ, anh ta bèn nhờ tôi chuyển một lá thư nữa.”

“Anh ta viết gì trong đó?”

Tạ ơn Thượng đế là Esther bất hạnh của các vị không biết đọc biết viết, vì khi những quý ông giận dữ và những ông bố cáu kỉnh hỏi câu hỏi này, cô ta có thể nói: “tôi đâu biết đọc, chỉ gương mặt của những thiếu nữ xinh đẹp đọc lá thư đó thôi.”

“Vậy chị đọc thấy gì trên khuôn mặt Shekure?”

“Cảnh trơ trọi.”

Chúng tôi im lặng hồi lâu. Một con cú đậu trên mái vòm của nhà thờ Hy Lạp nhỏ chờ đêm xuống; bọn trẻ hàng xóm mũi dãi thò lò cười nhạo quần áo và túi đựng đồ của tôi, và một con chó ghẻ đang từ nghĩa trang đầy cây tuyết tùng vừa sung sướng gãi lông vừa chạy xuống chào đón đêm về.

“Chậm lại coi?” Tôi kêu lên với Siyah, “tôi đâu leo dốc như anh được. Anh lôi tôi với túi đồ này đi đâu vậy?”

“Trước khi chị đưa tôi đến nhà Hasan, tôi muốn đưa chị đến gặp mấy chàng trai can đảm và hào phóng để chị có thể bày túi đồ ra bán cho họ mấy cái khăn tay hoa hòe hoa sói, khăn lụa trùm đầu và mấy cái ví thêu chỉ bạc để họ tặng người tình bí mật của họ.”

Đây là một dấu hiệu tốt khi Siyah vẫn có thể nói đùa trong tâm trạng rầu rĩ, nhưng tôi có thể hiểu sự nghiêm trọng đằng sau sự đùa cợt của anh ta. “Nếu anh định tập họp một đội binh, tôi sẽ không bao giờ dẫn anh đến nhà Hasan đâu”, tôi nói. “Tôi sợ những vụ đánh nhau với cãi lộn muốn chết.”

“Nếu chị vẫn là một Esther thông minh như xưa nay,” anh ta nói, “thì sẽ chẳng có đánh nhau hay cãi lộn gì cả.”

Chúng tôi băng qua Aksaray và bước vào con đường trở ngược lại, thẳng về phía những khu vườn Langa. Đến đoạn trên của con đường lầy lội, trong một khu vực nghèo khổ, Siyah đi vào một tiệm hớt tóc vẫn còn mở cửa. Tôi thấy anh ta nói chuyện với ông thợ cạo đang ngồi để một cậu trai trông lương thiện với đôi tay xinh đẹp cạo râu cho ông dưới ánh đèn dầu. Ngay sau đó, bác thợ cạo, cậu học việc đẹp trai của ông ta, và sau đó hai người nữa của ông ta nhập bọn với chúng tôi ở Aksaray. Họ mang theo gươm và rìu. Trong một con phố nhỏ ở Shehzadebashi, một sinh viên thần học, người mà tôi không thể hình dung là sẽ dính dáng vào chuyện thô bạo như thế, cầm gươm nhập bọn chúng tôi trong bóng tối. “Bộ anh tính chuyện đột kích một ngôi nhà giữa thành phố trong lúc ban ngày ban mặt sao?”

“Không phải giữa ban ngày ban mặt, mà là ban đêm,” Siyah nói với giọng hài lòng nhiều hơn bỡn cợt.

“Đừng quá tự tin chỉ vì các anh đã tập hợp được một nhóm,” tôi nói. “Hy vọng bọn tuần canh không bắt gặp cái dúm người lăm lăm vũ khí này lang thang ở đây.”

“Chẳng ai thấy bọn mình được.”

“Hôm qua bọn Erzurum đột kích một quán rượu trước, rồi sau đó là một nhà nguyện khổ tu ở Sagirkapi, đánh đập tàn nhẫn bất cứ ai họ bắt gặp ở cả hai chỗ đó. Một ông già bị một gậy vào đầu đã chết. Trong đêm tối như mực này, họ có thể tưởng các anh thuộc bọn đó.”

“Tôi nghe nói chị đã đến nhà Zarif Kính mến quá cố, gặp vợ anh ta, cầu Thượng đế phù hộ chị ấy, và thấy những bức phác thảo ngựa đầy mực nhòe nhoẹt trước khi chuyển chúng cho Shekure. Liệu Zarif Kính mến có thường tụ họp với đám môn đồ của tay thuyết giáo xứ Erzurum không?”

“Nếu tôi có dò la bà vợ Zarif Kính mến, thì cũng bởi tôi nghĩ rốt cuộc việc đó có thể giúp ích cho Shekure tội nghiệp.” tôi nói. Dù sao thì tôi đến đó là để cho cô ta xem thứ vải mới nhất đến từ Tây vực chứ không định dính vào việc chính trị và pháp lý của anh, những chuyện mà đầu óc khốn khổ của tôi không hiểu nổi.”

Khi chúng tôi ra đến đường lớn chạy đằng sau Charshikapi, tim tôi đập liên hồi vì sợ. Những nhánh cây dâu tằm và óc chó ướt đẫm khẳng khiu lấp lánh trong ánh sáng nhợt nhạt của vầng trăng non. Một cơn gió nhẹ do các âm hồn và người chết đang sống thổi tới làm lớp viền ren chiếc túi đeo vai của tôi phe phẩy, rít qua những hàng cây và mang mùi của chúng tôi đến cho lũ chó gần đó đang nằm chờ. Khi chúng bắt đầu sủa từng con một, tôi chỉ cho Siyah ngôi nhà đó. Chúng tôi lặng lẽ nhìn mái nhà và những cửa sổ tối đen. Siyah cắt đặt người bao quanh ngôi nhà: trong khu vườn trống trải, hai bên cổng vào sân và ở cây vả sau nhà.

“Ngay lối vào bên đó có một tên ăn mày Tatar đốn mạt,” tôi nói. “Hắn mù, nhưng hắn biết được ai đến và đi dọc theo con đường này còn rõ hơn ông trưởng khu này. Hắn liên tục thủ dâm cứ như hắn là một trong những con khỉ thô bỉ của Đức vua. Đừng đụng đến hắn, cứ cho chín mười đồng bạc gì đó là hắn sẽ nói cho anh nghe mọi chuyện hắn biết.”

Từ xa, tôi theo dõi Siyah trao những đồng xu, sau đó kề gươm sát cổ họng tên ăn mày và bắt đầu dồn hắn bằng những câu hỏi. Kế tiếp, tôi không biết chuyện xảy ra như thế nào, cậu học việc của bác thợ cạo, người mà tôi cứ nghĩ chỉ canh chừng ngôi nhà thôi, bắt đầu đánh gã Tatar bằng cán rìu. Tôi theo dõi một lát, cứ đinh ninh việc đó không kéo dài, nhưng gã Tatar đang kêu khóc. Tôi chạy đến kéo gã ăn mày đi trước khi họ giết gã.

“Hắn chửi mẹ tôi,” cậu học việc nói.

“Hắn nói Hasan không có ở nhà,” Siyah nói. “Mình tin lời tên ăn mày này được không?” Anh ta trao tôi lá thư mà anh ta đã viết vội, “Cầm cái này, vào nhà, đưa cho Hasan, nếu anh ta không có nhà thì đưa cho cha anh ta,” anh ta nói.

“Anh không viết gì cho Shekure sao?” tôi hỏi khi cầm lấy lá thư.

“Tôi mà gửi thư riêng cho cô ấy thì chỉ tổ kích động bọn đàn ông trong nhà hơn thôi,” Siyah nói. “Nói với cô ấy là tôi đã tìm ra tên đốn mạt giết cha cô ấy rồi.”

“Thật sao?”

“Chỉ cần nói cho cô ấy biết vậy.”

Sau khi mắng nhiếc gã Tatar vẫn đang khóc lóc kêu than, tôi bèn dỗ dành hắn. “Đừng quên những gì ta đã làm cho mi,” tôi nói, nhận ra rằng tôi đã kéo dài sự vụ này vì vậy tôi sẽ không được bỏ đi.

Tại sao tôi lại dính mũi vào chuyện này? Cách nay hai năm ở khu Cổng Edirne người ta đã giết một người bán rong quần áo - sau khi cắt đôi tai bà ta - bởi vì cô gái mà bà ta hứa cho người này lại đi lấy người khác. Bà tôi thường nói với tôi rằng dân Thổ quen giết người chẳng vì lý do gì cả. Tôi thèm được ở nhà với Nesim yêu dấu của tôi, ăn món xúp đậu lăng. Dù hai chân tôi cưỡng lại, nhưng tôi nghĩ đến chuyện Shekure ở đó sẽ ra sao, và tôi bước về phía ngôi nhà. Tính tò mò đang gặm nhấm tôi.

“Quần áo đâyyy? Có lụa Trung Hoa để may áo lễ hội mới về đây”.

Tôi có cảm giác luồng ánh sáng màu cam lọt qua rèm cửa di chuyển. Cửa trước mở ra. Người cha lịch sự của Hasan mời tôi vào nhà. Ngôi nhà ấm, giống như nhà của bọn giàu có. Shekure đang ngồi bên một chiếc bàn ăn thấp cùng các con, song khi nhìn thấy tôi cô nhổm dậy.

“Shekure, chồng cô đang ở đây.”

“Chồng nào?”

“Chồng mới,” tôi nói. “Anh ta đã bao vây ngôi nhà với một nhóm có võ trang. Họ sẵn sàng đánh nhau với Hasan.”

“Hasan không có nhà,” ông bố chồng lịch sự nói.

“May quá. Đọc cái này đi,” tôi nói, trao cho ông lá thư của Siyah giống như một vị sứ thần kiêu ngạo của Đức vua đang thực hiện ước muốn tàn nhẫn của Ngài.

Trong khi ông bố chồng đọc lá thư, Shekure nói, “Esther, lại đây tôi múc cho chị một tô xúp đậu lăng cho ấm bụng.”

“Tôi không thích xúp đậu lăng,” thoạt tiên tôi nói. Tôi không thích cách cô ấy nói như thể cô ấy là bà chủ ngôi nhà này.

Nhưng khi tôi hiểu rằng cô ấy muốn ở một mình với tôi, tôi cầm lấy thìa và theo sau cô.

“Nói với Siyah tất cả là vì Shevket,” cô thì thào. “Tối qua tôi chờ một mình suốt đêm với Orhan, sợ chết khiếp tên sát nhân. Orhan sợ run đến sáng. Các con tôi đã bị chia cắt! Có loại mẹ nào chịu xa cách con mình? Khi không thấy Siyah về, họ nói rằng bọn tra tấn của Đức vua đã buộc anh ấy khai hết và nói rằng anh ấy có can dự vào cái chết của cha tôi.”

“Không phải Siyah ở bên cô khi cha cô bị giết à?”

“Esther,” cô nói, mở to đôi mắt đen xinh đẹp, “tôi van chị, hãy giúp tôi”.

“Vậy cô phải cho tôi biết tại sao cô lại trở về đây thì tôi mới hiểu rồi giúp cô chứ.”

“Bộ chị nghĩ tôi biết tại sao tôi trở về hả?” cô ấy nói. Cô có vẻ sắp khóc. “Siyah thô bạo với Shevket tội nghiệp của tôi.” cô nói. “Rồi khi Hasan nói cha ruột của bọn trẻ đã về, tôi tin chú ấy.”

Nhưng tôi có thể thấy rõ qua đôi mắt của cô ấy rằng cô ấy đang nói dối, và cô ấy biết tôi đoán ra điều đó. “Tôi bị Hasan lừa”, cô ta thì thào, và tôi có cảm giác cô ấy muốn tôi suy ra từ điều này rằng cô ấy yêu Hasan. Nhưng Shekure có nhận ra rằng cô ấy càng lúc càng nghĩ nhiều đến Hasan chính vì cô đã cưới Siyah không?

Cửa mở, Hayriye bước vào mang theo bánh mì mới nướng mà mùi thơm thật hấp dẫn. Khi cô ta trông thấy tôi, tôi có thể hiểu qua vẻ bực bội của cô ta rằng sau cái chết của Enishte Kính mến, con người khốn khổ này - cô ta không thể bị bán đi, không thể bị gạt bỏ - đã trở thành một di sản tồi tệ cho Shekure. Mùi bánh mì mới tỏa khắp phòng và tôi hiểu sự thật của vấn đề khi Shekure đối mặt với bọn trẻ: Cho dù là cha ruột của bọn trẻ, là Hasan hay Siyah, vấn đề của cô ấy không phải là tìm một người chồng cô ấy có thể yêu được, mà thách thức của cô ấy là tìm một người cha có thể yêu hai đứa bé này, cả hai đứa đều mở to mắt vì sợ hãi.

Shekure, với hảo ý tốt nhất, đã sẵn sàng yêu bất kỳ người chồng tử tế nào.

“Cô đang tìm những gì cô muốn bằng trái tim cô,” tôi nói một cách không suy nghĩ, trong khi cô cần phải đưa ra quyết định bằng lý trí.”

“Tôi sẵn sàng cùng bọn trẻ trở về với Siyah ngay,” cô nói, nhưng tôi có một số điều kiện!” Cô im lặng. “Anh ấy phải cư xử tốt với Shevket và Orhan. Anh ấy không được vặn hỏi về những lý do khiến tôi về đây. Trên hết, anh ấy phải tuân theo những điều kiện cưới hỏi ban đầu của tôi - anh ấy sẽ hiểu tôi muốn nói gì. Anh ấy đã để tôi một mình chống chọi với những tên sát nhân, trộm cướp và Hasan đêm qua.”

“Anh ta chưa tìm ra kẻ giết cha cô, nhưng anh ta bảo tôi nói với cô rằng anh ta đã tìm ra.”

“Tôi có nên đi với anh ấy không?”

Tôi chưa kịp trả lời thì ông bố chồng, nãy giờ đã đọc thư xong, liền nói “Nói với Siyah Kính mến rằng ta không nhận trách nhiệm giao trả con dâu của ta mà không có mặt con trai ta.”

“Con trai nào?” tôi nói ra vẻ gắt gỏng, nhưng dịu dàng.

“Hasan,” ông nói. Vì ông là người cư xử theo nguyên tắc, nên ông đỏ mặt. “Con trai lớn của ta đang trên đường từ Ba Tư về, có nhân chứng rõ ràng.”

“Còn Hasan đâu?” Tôi hỏi. Tôi ăn liền hai thìa món xúp mà Shekure đưa cho tôi.

“Nó đi tập hợp các thư ký, phu khuân vác và những người trong Sở Hải quan.” Ông nói theo kiểu trẻ con của những người đứng đắn nhưng khù khờ không biết nói dối. “Sau những chuyện do dân Erzurum gây ra hôm qua, tối nay lính tuần canh chắc đầy ngoài đường.”

“Chúng tôi có thấy ai đâu,” tôi nói khi đi ra cửa. “Ông chỉ muốn nhắn có bấy nhiêu thôi sao?”

Tôi hỏi ông bố chồng câu này là để làm ông ta sợ, nhưng Shekure biết rõ rằng thực ra tôi nói với cô ấy. Đầu óc cô ấy thực sự mụ mị hay cô ấy đang che giấu điều gì, chẳng hạn cô ấy đang chờ Hasan và người của anh ta trở về chăng? Thật kỳ lạ, tôi cảm thấy thích thái độ không dứt khoát của cô.

“Tụi tôi không cần Siyah.” Shevket nói dứt khoát. “Coi đây như lần ghé thăm cuối cùng đi, bà béo ạ.”

Vậy thì ai sẽ mang đi khắp nơi những chiếc khăn trải bàn đăng ten, khăn tay thêu chim chóc hoa lá mà bà mẹ xinh đẹp của cậu thích, và chiếc áo sơ mi đỏ ưa thích của cậu đây?” tôi nói, để chiếc túi của tôi giữa phòng. “Cho đến khi tôi quay lại, cậu cứ mở ra xem, mặc thử, sửa hay khâu bất cứ thứ gì cậu thích.”

Tôi thấy buồn khi bỏ đi. Tôi chưa từng thấy đôi mắt của Shekure đẫm lệ như vậy. Ngay khi tôi quen được với cái lạnh bên ngoài, Siyah đã chặn tôi lại trên con đường lầy lội, gươm trong tay.

“Hasan không có nhà,” tôi nói. “Có lẽ anh ta ra chợ mua rượu để ăn mừng Shekure trở về. Có lẽ anh ta với đám tay chân sắp về tới. Nếu thế các anh sẽ đánh nhau, bởi vì anh ta đang điên. Và nếu anh ta vẫn dùng thanh gươm đỏ đó của anh ta thì chẳng ai biết trước anh ta sẽ làm gì.”

“Shekure nói gì?”

“Cha chồng cô ấy nói dứt khoát là không, tôi sẽ không bỏ con dâu tôi, nhưng nếu tôi là anh tôi sẽ không lo về ông ta, mà lo về Shekure. Vợ anh bối rối lắm. Nếu anh muốn biết, thì cô ấy đã tá túc ở đây hai ngày sau khi cha cô ấy chết vì sợ tên sát nhân, vì những đe dọa của Hasan và vì anh biến mất mà không nhắn một lời. Cô ấy biết mình không thể ở một đêm nữa trong cùng ngôi nhà đầy những sợ hãi như thế. Họ cũng nói với cô ấy rằng anh có nhúng tay vào cái chết của cha cô ấy. Nhưng người chồng trước của cô ấy chưa trở về hay có bất cứ điều gì tương tự như vậy. Shevket, và có vẻ cả cha chồng cô ấy đều tin lời nói dối của Hasan. Cô ấy muốn trở về với anh, nhưng cô ấy có một số điều kiện.”

Nhìn thẳng vào mắt Siyah, tôi kể ra những điều kiện.

Anh ta đồng ý ngay với một vẻ trang trọng như thể anh ta đang nói chuyện với một sứ giả đích thực.

“Tôi cũng có một điều kiện,” tôi nói. “Tôi sẽ trở vào đó lần nữa.” Tôi chỉ những tấm rèm cửa sổ mà ông bố chồng đang ngồi phía sau. “Sau một lát hãy tấn công vào đó và cửa trước. Khi nào tôi rú lên, đó là dấu hiệu bảo anh dừng lại. Nếu Hasan về đến thì tấn công anh ta ngay, đừng chần chừ.”

Lời nói của tôi, không phù hợp với một sứ giả, người không nên để thiệt hại xảy đến cho mình, nhưng tôi đã để mặc mình bị cuốn đi, các vị thấy đó. Lần này, ngay khi tôi rao, “Quần áo đâyyy…” cửa mở. Tôi đi thẳng đến chỗ ông bố chồng. “Cả khu này, và quan tòa phụ trách những khu vực này, tức là mọi nguồn biết rằng Shekure đã được ly dị từ lâu và đã tái giá một cách đàng hoàng theo đúng luật của kinh Koran,” tôi nói. “Ngay cả nếu con trai ông, người đã chết từ lâu, sống lại và từ Thiên đàng trở về đây với ông cùng đấng Tiên tri Moses, thì cũng chẳng ích gì vì anh ta đã ly dị với Shekure rồi. Ông đã bắt cóc một phụ nữ có chồng và giữ cô ấy ở đây trái ý muốn của cô ấy. Siyah yêu cầu tôi nói với ông rằng anh ta và người của anh ta sẽ tiến hành trừng phạt ông vì tội này trước khi quan tòa ra tay.”

“Vậy anh ta sẽ phạm một sai lầm nghiêm trọng.” Ông bố chồng nói nhẹ nhàng. “Chúng tôi chẳng bắt cóc Shekure hay gì cả! Tôi là ông nội bọn trẻ, ơn Thượng đế, Hasan là chú của chúng. Khi Shekure bị bỏ một mình, cô ấy sẽ có chọn lựa gì ngoài việc tìm chỗ trú ở đây? Nếu cô ấy muốn, cô ấy có thể rời khỏi đây bây giờ mang theo bọn trẻ. Nhưng đừng quên, đây là mái nhà đầu tiên của cô ấy, nơi cô ấy sinh con và hạnh phúc nuôi dạy chúng .”

“Shekure,” tôi nói không suy nghĩ. “Cô có muốn trở về nhà cha cô không?”

Cô ấy bắt đầu khóc vì bài diễn văn về “tổ ấm hạnh phúc.” Tôi không có cha,” cô ấy nói, hay đó là do tôi nghe thấy như thế? Bọn trẻ lúc đầu ôm chân cô, rồi kéo cô ngồi xuống và ôm lấy cô, ba người bọn họ ôm lấy nhau thành một khối mà khóc. Nhưng Esther không phải là đứa ngốc: Tôi biết rất rõ rằng nước mắt của Shekure nhằm mục đích xoa dịu cả hai bên mà không phải đưa ra quyết định. Nhưng tôi cũng biết đó là những giọt nước mắt thật, bởi vì chúng cũng làm tôi mủi lòng khóc theo. Lát sau, tôi nhận thấy Hayriye, con rắn độc đó, cũng đang khóc.

Như để trừng phạt ông bố chồng mắt xanh vì là người duy nhất trong phòng không khóc, Siyah và người của anh ta bắt đầu tấn công vào nhà đúng giây phút đó bằng cách nện lên những tấm rèm và phá cửa. Hai người đàn ông đánh vào cửa trước bằng súc gỗ phá cửa tạo ra những cú nện rền khắp nhà nghe như tiếng đại bác.

“Ông là một người có kinh nghiệm và danh giá,” tôi nói, được khích lệ bởi những giọt nước mắt của mình, “hãy mở cửa và nói với bọn chó dại ngoài đó rằng Shekure đi rồi.”

“Chị sẽ cho một phụ nữ không được bảo vệ, lại là con dâu của chị, người đến nương náu nhà chị, ra ngoài đường cùng với lũ chó đẻ sao?”

“Tự cô ấy muốn đi,” tôi nói. Dùng chiếc khăn tay màu tía tôi chùi mũi, vốn bị nghẹt vì khóc.

“Nếu vậy cô ấy cứ tự mở cửa mà đi,” ông ta đáp.

Tôi ngồi cạnh Shekure và bọn trẻ. Với mỗi cú nện, tiếng ồn khủng khiếp của đám người đang phá cửa lại thành một lý do nữa cho nước mắt tuôn nhiều hơn, bọn trẻ bắt đầu khóc to hơn, rồi nó lại khiến Shekure và cả tôi nữa gào to hơn. Tuy nhiên, cho dù kể cả tiếng thét đe dọa từ ngoài và những cú nện của súc gỗ chừng như sắp phá vỡ ngôi nhà tới nơi, cả hai chúng tôi đều biết chúng tôi khóc để kéo dài thời gian.

“Shekure xinh đẹp của tôi,” tôi nói, “cha chồng cô đã cho phép và chồng Siyah của cô đã chấp nhận mọi điều kiện của cô, anh ta đang chờ cô, cô chẳng còn có việc gì trong ngôi nhà này nữa. Mặc áo khoác, đeo mạng lên, mang theo đồ dùng của cô với bọn trẻ, mở cửa để rồi có thể lặng lẽ về nhà cô.” Câu nói này của tôi thậm chí còn làm cho bọn trẻ khóc to hơn, và khiến Shekure mở to mắt kinh hoàng.

“Tôi sợ Hasan,” cô nói, “kiểu trả thù của chú ấy thật khủng khiếp. Chú ấy dữ tợn lắm. Hãy nhớ là tự tôi đến đây.”

“Điều này không quan trọng bằng đám cưới mới của cô,” tôi nói. “Cô đã bị bỏ bơ vơ, dĩ nhiên cô phải tìm chỗ nương náu ở đâu đó. Chồng cô đã tha thứ cho cô, anh ta chuẩn bị đón cô về. Về phần Hasan, chúng ta sẽ giải quyết với anh ta theo cách chúng ta đã làm lâu nay.” Tôi mỉm cười.

“Nhưng tôi sẽ không mở cửa,” cô nói, “bởi vì rồi tôi sẽ tự ý trở về với anh ấy.”

“Shekure thân yêu, tôi cũng không mở cửa được,” tôi nói. “Cô cũng biết rõ rằng điều này có nghĩa là tôi can dự vào việc của cô. Họ sẽ trả thù tàn nhẫn việc can dự như thế.”

Qua ánh mắt cô tôi biết cô đã hiểu. “Vậy không ai mở cửa hết,” cô nói. “Cứ để họ phá cửa và dùng vũ lực lôi chúng tôi đi.”

Tôi biết ngay rằng đây sẽ là chọn lựa tốt nhất cho Shekure và bọn trẻ, và tôi sợ. “Nhưng điều đó có nghĩa là máu sẽ chảy,” tôi nói. “Nếu quan tòa không can thiệp vào chuyện này, máu sẽ đổ và một mối huyết hận sẽ kéo dài suốt nhiều năm. Không một người có danh dự nào lại chịu đứng yên nhìn khi nhà mình bị phá cửa và đột kích để bắt cóc một phụ nữ đang trú ngụ trong đó cả.”

Một lần nữa tôi hối tiếc hiểu ra Shekure toan tính và dối trá như thế nào khi cô ôm hai đứa con và than khóc hết sức mình hơn là trả lời. Lòng tôi tự nhủ hãy quên mọi thứ và bỏ đi, nhưng tôi không còn trở ra cửa được nữa, vì cửa đang bị nện đến sắp vỡ tan.

Thực tình, tôi thấy vừa sợ chuyện sẽ xảy ra nếu họ phá sập cửa xông vào, vừa sợ chuyện sẽ xảy ra nếu họ không phá được cửa; tôi vẫn nghĩ rằng người của Siyah, vốn tin cậy vào tôi, đang lo ngại rằng họ đã đi quá xa và có thể rút lui bất cứ lúc nào, mà điều đó đến lượt nó, sẽ khích lệ ông bố chồng. Khi ông ta đến bên Shekure, tôi biết ông ta bắt đầu vờ khóc, nhưng tệ hại hơn, ông ta đang run theo một kiểu không thể là vờ được.

Bước tới của, tôi gào lên hết sức lựa “Dừng lại đi, đủ rồi!” Tiếng ồn ào bên ngoài và tiếng than khóc bên trong chấm dứt ngay.

“Mẹ, để Orhan mở cửa,” tôi nói trong lúc sáng trí và bằng giọng ngọt ngào, như thể tôi đang nói với thằng bé. “Nó muốn về nhà, chẳng ai phàn nàn về điều đó cả.” Những lời này vừa ra khỏi miệng tôi thì Orhan vùng thoát khỏi vòng tay mẹ nó, và như một người đã sống ở đây nhiều năm, nó kéo chốt, nâng thanh gỗ lên, mở then, rồi bước lui hai bước.

Hơi lạnh từ ngoài tràn vào khi cánh cửa mở toang. Một sự im lặng bao trùm đến độ chúng tôi nghe một con chó uể oải sủa từ xa. Shekure hôn Orhan, giờ đang ngồi lại trên đùi mẹ nó, còn Shevket thì dọa, “Tao sẽ mách chú Hasan.”

Tôi thấy Shekure đứng lên, cầm lấy áo trùm và chuẩn bị túi đồ để đi, tôi nhẹ cả người, tôi e rằng mình sắp bật cười lên. Tôi ngồi xuống và ăn hai thìa xúp đậu lăng nữa.

Siyah đủ thông minh để không đến bất cứ chỗ nào gần cửa. Một hồi lâu, Shevket tự nhốt mình trong phòng người cha quá cố của nó, và mặc dù chúng tôi gọi Siyah đến giúp, nhưng cả anh ta lẫn người của anh ta đều không vào. Sau khi Shekure đồng ý để Shevket mang theo con dao găm cán nạm hồng ngọc của chú Hasan, thằng bé mới chịu rời khỏi nhà đi cùng chúng tôi.

“Coi chừng Hasan với thanh gươm đỏ của nó đấy,” ông bố chồng nói với vẻ lo lắng thực sự hơn là vẻ thất trận và báo thù. Ông hôn hai đứa cháu nội, ngửi đầu chúng, ông cũng thì thào vào tai Shekure.

Khi tôi thấy Shekure nhìn lần cuối vào cánh cửa, các bức tường và bếp lò của ngôi nhà, một lần nữa tôi nhớ đây là nơi cô ấy đã trải qua những năm tháng hạnh phúc nhất cuộc đời bên người chồng đầu tiên của cô. Nhưng cũng có thể cô ấy muốn nói rằng chính ngôi nhà này là nơi nương náu của hai người đàn ông cô đơn khốn khổ, và rằng nó mang mùi hôi thối của cái chết chăng? Tôi không đi cùng cô trên đường trở về vì cô đã làm tan nát tim tôi qua việc trở về đây.

Không phải cái lạnh và cõi đen ngòm của màn đêm đưa hai đứa trẻ không cha và ba người đàn bà - một đầy tớ, một mụ Do Thái và một góa phụ - lại với nhau, mà chính là những khu xóm xa lạ, những con đường hầu như không thể vượt qua và nỗi sợ hãi Hasan. Đám người chúng tôi, dưới sự bảo vệ của nhóm Siyah, và giống như một cỗ xe ngựa chở châu báu, chúng tôi đi qua những con đường hẻo lánh, những phố nhỏ hẹp và những khu phố hiu quạnh, ít người lui tới, để tránh chạm trán tuần canh, binh lính, những tên côn đồ tò mò trong vùng, bọn ăn trộm và Hasan. Nhiều lần, qua bóng tối như mực đến nỗi xòe tay mình trước mặt cũng không thấy được, chúng tôi phải mò mẫm dò đường, liên tục đụng vào nhau và đụng vào tường. Chúng tôi đi bám chặt vào nhau, hãi hùng trước cảm giác rằng người chết lang thang, âm hồn và ma quỷ có thể từ dưới đất chui lên và bắt chúng tôi vào đêm tối. Ngay đằng sau những bức tường và những tấm rèm đóng kín mà chúng tôi lần mò bằng đôi tay như người mù, chúng tôi nghe tiếng ngáy và tiếng ho của những người trong cái lạnh của đêm cũng như tiếng rống của gia súc trong chuồng.

Ngay cả Esther, vốn đã quen với những vùng tồi tệ và nghèo khổ nhất, kẻ từng đi khắp các con đường Istanbul - trừ những vùng nơi tụ hội đám di dân và các cộng đồng đáng ngại - đôi khi cũng cảm thấy rằng chúng tôi sẽ biến mất trong những con đường này, những con đường quanh co uốn lượn không dứt trong bóng tối bất tận. Nhưng tôi vẫn nhận ra được những góc phố nào đó mà tôi đã kiên trì đi qua vào ban ngày với chiếc túi trên vai; chẳng hạn tôi nhận ra những bức tường của phố Terzi Basi, mùi hăng của phân bón - mà vì lý do nào đó gợi tôi nhớ đến mùi quế - phả đến từ chuồng ngựa kế bên cơ ngơi của Nurullah Hoja; những địa điểm bị hỏa hoạn trên phố Akrobat và Hành lang vòm Sahinci dẫn vào quảng trường với Vòi phun Haji Mù, và vì thế tôi biết chúng tôi không hề đi về phía ngôi nhà của người cha quá cố của Shekure, mà đến một nơi kỳ bí nào khác.

Chẳng ai biết Hasan sẽ làm gì nếu anh ta giận dữ, và tôi biết Siyah đã tìm một chỗ khác để giấu gia đình anh tránh khỏi Hasan và cả tên sát nhân độc ác ấy. Nếu tôi có thể nhận ra đó là chỗ nào, tôi sẽ nói với các vị bây giờ và với Hasan vào sáng mai - không phải vì ác ý, mà bởi tôi tin chắc rằng Shekure vẫn muốn được Hasan quan tâm. Nhưng Siyah, vốn thông minh như thế, không còn tin tôi nữa.

Chúng tôi đang đi theo một con phố tối đằng sau chợ nô lệ thì nghe tiếng la khóc om sòm cuối phố. Chúng tôi nghe âm thanh của một cuộc xô xát, và tôi sợ hãi nhận ra cuộc hỗn chiến đã bắt đầu: tiếng va chạm của rìu, gươm và gậy và những tiếng rống đau đớn cực độ.

Siyah trao thanh gươm lớn của anh ta cho một trong những người thân tín nhất, giật lấy con dao găm từ tay Shevket khiến thằng bé khóc lên, rồi ra lệnh cho cậu học việc của bác thợ cạo và hai người nữa đưa Shekure, Hayriye và bọn trẻ ra xa đến một khoảng cách an toàn. Tay sinh viên thần học bảo tôi hắn sẽ đưa tôi về nhà bằng đường tắt; nghĩa là hắn không để tôi ở lại với những người khác. Đây là một ngã rẽ của số phận, hay một âm mưu tinh khôn nào đó để giữ bí mật chỗ ẩn nấp của họ?

Có một cửa hàng, mà tôi hiểu là quán cà phê, ở cuối con đường hẹp mà chúng tôi đang đi vào. Có lẽ cuộc đọ gươm đã dừng lại ngay khi nó bắt đầu. Những đám người la ó khi họ bước vào hoặc bỏ ra; thoạt tiên tôi nghĩ họ cướp bóc, nhưng không, họ đang đập phá quán cà phê. Họ cẩn thận mang ra các thứ tách gốm, nồi đồng, ly và những cái bàn thấp dưới ánh sáng những ngọn đuốc của người đứng xem và đập nát chúng như một lời cảnh cáo. Họ đấm đá một người đang cố ngăn họ lại, nhưng anh ta thoát được. Ban đầu tôi nghĩ mục tiêu của họ chỉ là cà phê, như chính họ đã tuyên bố. Họ lên án những tác động xấu xa của nó, việc nó tác hại cho thị lực và bao tử như thế nào, làm cùn nhụt trí tuệ và khiến con người mất đức tin ra sao, nó là thuốc độc của bọn Tây vực như thế nào và Muhammad Cao cả đã từ chối cà phê ra sao dù nó do một mỹ nữ dâng lên - đồ Satan trá hình. Có vẻ như đây là màn diễn thái quá cho một đêm giáo huấn về nghi thức đạo đức và nếu rốt cuộc tôi cũng tìm được đường về nhà, tôi nghĩ mình thậm chí có thể rầy la Ne sim, cảnh báo ông ấy không được uống quá nhiều thú thuốc độc đó.

Vì có quá nhiều nhà trọ và quán rượu rẻ tiền gần đó nên một đám đông tò mò tụ tập lại rất nhanh, gồm những kẻ lang thang nhàn rỗi, bọn vô gia cư và lũ chó lai thối tha nhập cư lậu vào thành phố, và họ khích lệ những kẻ thù cà phê này. Đến lúc đó tôi mới hiểu rằng họ là những kẻ ủng hộ nhà thuyết giáo Nusret Hoja xứ Erzurum. Họ có ý định dọn dẹp mọi hang ổ rượu chè, đĩ điếm và cà phê ở Istanbul, và trừng phạt nghiêm khắc những ai lạc bước khỏi con đường của Muhammad Cao cả; những người dùng những nghi lễ của phái khổ tu như một cớ để múa bụng theo âm nhạc chẳng hạn. Họ lên án những kẻ thù của tôn giáo, những kẻ hợp tác với Quỷ sứ, bọn ngoại giáo, đám vô thần và dân minh họa. Tôi chợt nhớ ra rằng đây là quán cà phê nơi có treo nhiều tranh trên tường, nơi tôn giáo và vị hoja xứ Erzurum bị bôi nhọ và nơi sự bất kính là không có giới hạn.

Một thợ học việc của người chế biến cà phê, khuôn mặt cậu ta lốm đốm máu, từ trong bước ra, và tôi nghĩ có lẽ cậu ta ngã quỵ mất, nhưng cậu ta đưa tay áo lên chùi máu trên trán và má, nhập vào nhóm chúng tôi và bắt đầu quan sát cuộc đập phá. Đám đông dãn ra một chút vì sợ hãi. Tôi thấy Siyah nhận ra ai đó và do dự.

Nhân lúc này những người Erzurum bắt đầu tập hợp lại, tôi biết rằng binh lính hoặc băng đảng nào khác vũ trang bằng dùi cui đang trên đường tới đây. Người ta dập tắt đuốc và đám đông trở thành một đám hỗn loạn.

Siyah nắm lấy cánh tay tôi và bảo anh sinh viên thần học đưa tôi đi. “Lựa những con đường nhỏ mà đi.” anh ta nói. “Cậu ta sẽ theo chị về tới nhà.” Anh chàng sinh viên cũng muốn chuồn khỏi chỗ này càng sớm càng tốt và chúng tôi hầu như chạy ngay khi khởi hành. Ý nghĩ của tôi hướng về Siyah, nhưng nếu Esther bị đưa khỏi hiện trường, chị ta không thể tiếp tục câu chuyện được, bây giờ chị ta tiếp tục được không?

CHƯƠNG 54
TÔI LÀ MỘT PHỤ NỮ

Tôi có thể đã nghe những lời phản đối của các vị: “Người kể chuyện thân mến của tôi, các vị có thể bắt chước bất cứ ai hoặc bất cứ thứ gì, nhưng không bao giờ bắt chước được một phụ nữ!” Nhưng tôi xin có ý kiến khác. Quả thực, tôi đã lang thang từ thành phố này đến thành phố khác, bắt chước mọi thứ suốt đêm thâu tại các lễ cưới, buổi hội và quán cà phê cho đến khi giọng của tôi khản đi, và vì thế tôi không có số lập gia đình, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi không quen biết phụ nữ.

Tôi biết phụ nữ rất rõ; trên thực tế, bản thân tôi đã biết bốn phụ nữ, thấy mặt họ và nói chuyện với họ: 1. Mẹ tôi, cầu cho bà được yên nghỉ đời đời; 2. Dì yêu quý của tôi, 3. Vợ của anh tôi (anh ấy chuyên môn đánh tôi), người đã quát “Cút xéo!” trong một dịp hiếm hoi tôi thấy được chị ấy - chị ấy là phụ nữ đầu tiên tôi yêu; và 4. Một quý cô tôi tình cờ thấy tại một cửa sổ mở ở Konya trong những chuyến du hành. Dù chưa từng nói chuyện với cô ấy, tôi đã nuôi những cảm giác thèm muốn đối với cô ấy trong nhiều năm và bây giờ vẫn vậy. Có lẽ đến lúc này cô ấy đã chết rồi.

Việc nhìn một khuôn mặt phụ nữ để trần, nói chuyện với cô ấy, và chứng kiến lòng nhân hậu của cô ấy đã mở đường cho cả lòng thèm muốn nhức nhối lẫn nỗi đau tinh thần sâu sắc trong bọn đàn ông chúng ta, và bởi thế nên giải pháp hay nhất là đừng để mắt đến phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ đẹp, nếu ngay từ đầu ta không cưới được một cách hợp pháp, như đạo giáo cao quý của chúng ta đòi hỏi. Liệu pháp duy nhất cho những thèm khát thể xác này là tìm kiếm tình bạn của những cậu trai xinh xắn, một sự thay thế thỏa đáng cho đàn bà, và đến lúc nào đó, điều này cũng trở thành một thói quen dễ chịu. Trong các thành phố của bọn Tây vực, ở châu Âu, phụ nữ lang thang khắp nơi phô bày không chỉ khuôn mặt họ mà cả mái tóc sáng mượt mà của họ (sau chiếc cổ, nét hấp dẫn nhất của họ), cánh tay, cổ họng xinh đẹp, và thậm chí, nếu những gì tôi nghe là sự thật, một phần đôi chân tuyệt mỹ của họ nữa; do đó đàn ông của những thành phố đó đi lại rất khó khăn, bối rối và trong nỗi đau đớn cùng cực, bởi vì, các vị biết đó, phía trước của họ cứ cương cứng lên mãi và việc này đương nhiên dẫn đến sự tê liệt xã hội của họ. Rõ ràng, điều này lý giải tại sao mỗi ngày bọn ngoại giáo Tây vực lại dâng thêm một pháo đài cho người Ottoman chúng ta.

Sau khi nhận ra từ khi còn trẻ rằng cách hay nhất để tạo ra niềm hạnh phúc tinh thần và trạng thái mãn nguyện là sống cách xa các mỹ nhân, tôi ngày càng tò mò về những sinh vật này. Lúc đó vì tôi không nhìn thấy bất cứ người đàn bà nào khác ngoài mẹ và dì tôi, nên nỗi tò mò của tôi dần dần có tính cách bí ẩn, đầu tôi có vẻ ngứa ngáy, và tôi biết rằng tôi chỉ có thể biết cảm giác của đàn bà nếu tôi làm những gì họ làm, ăn những gì họ ăn, nói những gì họ nói, bắt chước cách cư xử của họ và, vâng, nếu như tôi mặc được quần áo của họ. Vì thế, một ngày thứ Sáu nọ, khi mẹ, cha, anh và dì tôi đi đến vườn hồng của ông nội tôi bên bờ biển Fahreng, tôi bảo họ rằng tôi như bị ốm nên sẽ ở nhà.

“Cố lên. Nghe này, con sẽ giải trí cho chúng ta bằng việc bắt chước chó, cây và ngựa ở miền quê. Dù sao thì con sẽ làm gì ở nhà một mình?” mẹ tôi nói, cầu cho bà được yên nghỉ.

“Con sẽ mặc quần áo của mẹ và trở thành đàn bà,” ấy là một câu trả lời không thể nói ra được. Vì vậy tôi đáp: “bao tử con khó chịu.”

“Đừng có đớn hèn như thế,” cha tôi nói. “Lại đây, cha con mình vật lộn.”

Bây giờ tôi sẽ mô tả cho các vị, nhà họa sĩ và thư pháp anh em của tôi, chính xác những gì tôi cảm thấy sau khi họ rời khỏi nhà và tôi mặc đồ lót với áo dài của bà dì và bà mẹ thân yêu nay quá cố của tôi, cũng như những bí mật tôi biết được trong ngày hôm đó về việc trở thành phụ nữ. Trước hết, cho phép tôi nói thẳng rằng trái với những gì chúng ta đọc được trong sách và nghe mấy nhà thuyết giáo nói, khi các vị là phụ nữ, các vị không hề cảm thấy mình giống Quỷ sứ.

Hoàn toàn không! Khi tôi mặc vào đồ lót len có thêu hoa hồng của mẹ tôi, một cảm giác dễ chịu lan khắp người tôi và tôi cảm thấy mình cũng nhạy cảm như bà vậy. Chiếc áo sơ mi lụa màu xanh lá cây nhạt mà dì tôi chưa bao giờ dám mặc chạm vào làn da trần của tôi khiến tôi cảm thấy lòng yêu mến không cưỡng lại được đối với tất cả trẻ con, kể cả chính tôi. Tôi muốn cho mọi người bú và nấu ăn cho toàn thế giới. Sau khi tôi hiểu đến chừng mực nào đó rằng có vú là thế nào, tôi độn vô ngực mình bất cứ thứ gì tìm được - vớ và khăn mặt - vì vậy tôi có thể hiểu điều khiến tôi thực sự tò mò: cảm giác ra sao khi là một phụ nữ có cặp ngực đồ sộ. Khi tôi thấy hai khối lồi to tướng này, phải, tôi thừa nhận, tôi tự hào như quỷ Satan. Tôi lập tức hiểu rằng đàn ông hễ nhác thấy bóng dáng bộ ngực quá khổ của tôi là sẽ đuổi theo chúng và cố tìm cách đút chúng vào miệng họ; tôi cảm thấy mình hết sức mạnh mẽ, nhưng đó có phải là những gì tôi muốn không? Tôi bối rối: tôi muốn vừa có đầy quyền lực vừa là một đối tượng để người ta thương hại; tôi muốn một người đàn ông thông minh, mạnh mẽ và giàu có - tôi chẳng biết ai như thế kể từ Adam về sau - yêu tôi điên cuồng; nhưng tôi cũng sợ một người đàn ông như thế. Luồn vào tay những chiếc vòng xuyến bằng vàng mà mẹ tôi giấu dưới đáy rương quần áo của bà cạnh những khăn thêu hình lá trong những chiếc vớ len thơm mùi hoa oải hương, kế đó đánh phấn hồng mà bà thường thoa lên má sau khi từ nhà tắm công cộng trở về, mặc chiếc áo choàng xanh của dì tôi và đeo tấm mạng mỏng cùng màu, xong thì cột tóc lại, tôi nhìn mình trong chiếc gương có khung cẩn xà cừ, và rùng mình. Dù tôi không động gì đến chúng, những đôi mắt và lông mi của tôi đã trở thành của một phụ nữ. Chỉ có đôi mắt và gò má phô ra, nhưng tôi đã là một phụ nữ cực kỳ hấp dẫn và điều này khiến tôi hết sức sung sướng.

Vũ khí đàn ông của tôi, nhận ra được sự vụ này còn trước cả tôi, đã cương cứng. Dĩ nhiên điều này làm tôi choáng váng.

Trong chiếc gương nhỏ cầm trên tay, tôi thấy từ con mắt dễ thương của tôi một giọt nước mắt lăn dài, và ngay sau đó một bài thơ hiện ra trong đầu tôi một cách đớn đau. Tôi không bao giờ quên được nó bởi vì ngay lúc đó, được Thượng đế truyền cảm hứng, tôi hát bài thơ theo vần điệu ngân nga như một bài ca, cố quên đi những phiền muộn trong lòng:

Trái tim xao xuyến của tôi khao khát trời Tây khi tôi đang ở phương Đông và khao khát trời Đông khi tôi đang ở phương Tây.

Những phần khác của tôi khăng khăng tôi là đàn bà trong khi tôi là đàn ông và khăng khăng tôi là đàn ông khi tôi là đàn bà.

Làm người thật gian nan làm sao, sống một đời người thậm chí còn tồi tệ hơn.

Tôi chỉ muốn làm vui cho mình cả phía trước vẫn phía sau, là cả Đông lẫn Tây.

Tôi định nói, “Cầu cho những huynh đệ Erzurum của chúng ta không nghe được bài hát phát ra từ trái tim tôi,” vì họ sẽ bực mình. Nhưng tại sao tôi phải sợ? Có lẽ họ sẽ không giận dữ gì cả. Nghe này, tôi không nói chuyện này để ngồi lê đôi mách, mà tôi đã biết tay thuyết giáo nổi tiếng Tuyệt-không-phải-Hurset-kính- mến-gì-cả đó, dù đã có vợ, vẫn thích những cậu đẹp trai hơn phụ nữ chúng tôi giống như giới họa sĩ nhạy cảm thường thích vậy. Tôi chỉ kể cho các vị những gì tôi nghe được. Nhưng tôi không quan tâm đến bất cứ điều nào trong đó, bởi vì bên cạnh đó tôi thấy ông ta thật đáng tởm, ông ta lại quá già. Răng ông ta đã rụng và, như bọn trai trẻ từng gần gũi ông ta có nói, miệng ông ta thối hoắc như lỗ đít gấu vậy, xin lỗi vì cách diễn đạt.

Mà thôi, tôi tạm ngưng chuyện đồn đại để trở lại vấn đề đích thục ở đây: Ngay khi tôi thấy mình xinh đẹp ra sao tôi không còn muốn giặt quần áo, rửa chén bát và lang thang khắp đường phố như một nô lệ nữa. Nghèo khổ, nước mắt, u sầu, nhìn hắt hiu vào tấm gương của nỗi thất vọng và khóc thảm ấy là số phận của những phụ nữ xấu và buồn. Tôi phải tìm một người chồng có thể sùng bái tôi, nhưng người đó là ai?

Đó là lý do tại sao tôi bắt đầu, qua một cái lỗ quan sát, nhìn trộm con trai của những vương hầu và quý tộc, những kẻ mà người cha quá cố của tôi đã mời đến nhà chúng tôi với nhiều lý do khác nhau. Tôi muốn tình thế khó xử của tôi giống tình thế khó xử của người đẹp miệng nhỏ có hai con mà nhà tiểu họa nào cũng yêu. Có lẽ cách tốt nhất của tôi là mô tả cho các vị nghe câu chuyện của Shekure tội nghiệp. Nhưng chờ một chút, tôi hứa kể lại câu chuyện sau đây tối nay:

Câu chuyện được kể bởi một phụ nữ bị Quỷ sứ xúi giục. Chuyện thật hoàn toàn đơn giản. Nó xảy ra ở Kemerustu, một trong những khu nghèo khổ của Istanbul. Một cư dân lỗi lạc nhất vùng, Chelebi Ahmet, thư ký của Tổng trấn Pasha, là một nhân sĩ có vợ và hai con, sống tách biệt. Ngày nọ, qua khung cửa sổ mở, ông thấy một mỹ nhân Bosnia cao gầy, da trắng, mắt đen, tóc đen, và đem lòng si mê. Nhưng, người đàn bà đó đã có chồng, không mảy may quan tâm gì đến nhà Chelebi, mà chỉ hết lòng với người chồng đẹp trai của nàng. Chelebi bất hạnh không chịu thổ lộ những khổ đau của mình với bất cứ ai, và ngày càng héo hon chỉ còn da bọc xương vì tình yêu, uống rượu mua của một người Hy Lạp, nhưng cuối cùng thì ông ta không thể giấu tình yêu đó trước mắt hàng xóm. Thoạt tiên, bởi những láng giềng rất thích những chuyện tình như thế, ngưỡng mộ và tôn trọng gia đình Chelebi, họ vinh danh tình yêu của ông, nói một hai câu đùa nhẹ nhàng về nó và cứ để cho cuộc sống diễn ra. Nhưng Chelebi, vốn không sao kiểm soát được nỗi đau khổ hết thuốc chữa của mình, bắt đầu uống đến say khướt và hàng đêm lại đến ngồi ngay cửa ngôi nhà nơi người đàn bà xinh đẹp đó đang sống hạnh phúc với chồng, ngồi đó mà khóc hàng giờ liên tục như một đứa trẻ. Cuối cùng chuyện này đánh động xóm giềng. Hàng đêm, khi kẻ si tình này đau buồn than khóc, họ không thể đánh và lôi ông ta đi mà cũng không thể an ủi ông ta được. Chelebi, đúng kiểu một nhân sĩ, bèn học cách khóc trong lòng mà không om sòm hoặc làm phiền lòng ai. Những dần dần mối sầu vô vọng của ông len lỏi lan ra cả khu xóm, trở thành mối sầu chung của mọi người; cư dân ở đó không còn cảm giác hạnh phúc nữa, và giống như vòi nước chảy rầu rĩ trong quảng trường, bản thân Chelebi trở thành bình chứa nỗi sầu. Lúc đầu, chuyện trao đổi về nỗi buồn này lan khắp khu xóm, nó dần trở thành tin đồn về vận rủi và sau đó là về sự bất hạnh chắc chắn. Một số người dọn đi, một số liên tục gặp phải điều xui xẻo và một số không thể hành nghề, bởi họ đã mất ý chí làm việc.

Sau khi cả vùng hoang vắng, một ngày nọ Chelebi thất tình cũng bỏ đi cùng vợ con, để lại người phụ nữ xinh đẹp có làn da trắng bạc và chồng nàng ở lại lẻ loi. Sự bất hạnh này, mà họ là tâm điểm, dập tắt ngọn lửa tình yêu của họ và khiến họ xa cách nhau. Dù sống chung với nhau đến hết đời, họ không bao giờ có thể hạnh phúc được nữa.

Tôi suýt nói tôi thích câu chuyện này biết bao nhiêu bởi vì nó thể hiện những nguy hiểm của tình yêu và phụ nữ, thì ôi Thượng đế, tôi quên rằng tôi đã mất khả năng lập luận. Vì hiện tôi là một phụ nữ, tôi sẽ nói một điều gì đó hoàn toàn khác. Được rồi, đó là một điều gì đại loại như:

Ôi tình yêu tuyệt vời làm sao!

Coi kìa, người lạ nào đang phá cửa vào vậy?

CHƯƠNG 55
TÔI ĐUỌC GỌI LÀ “KELEBEK”

Tôi thấy đám đông hỗn loạn và biết bọn Erzurum bắt đầu tàn sát những nhà tiểu họa dí dỏm chúng tôi.

Siyah cũng ở trong đám đông đó và đang theo dõi cuộc tấn công. Tôi thấy anh ta cầm một con dao găm đi chung với một nhóm người có vẻ kỳ cục, Esther người bán quần áo ai cũng biết và những phụ nữ khác đeo túi vải. Lòng tôi thôi thúc tôi trốn đi sau khi chứng kiến cơ ngơi này bị phá hoại một cách thô bạo và những người uống cà phê bị đánh đập tàn nhẫn khi họ cố chạy đi. Lát sau, một đám đông khác, có lẽ là binh lính, xuất hiện. Bọn Erzurum dụi tắt đuốc rồi bỏ chạy.

Không có ai ngay lối vào tối đen của quán cà phê, và không có ai nhìn. Tôi đi vào bên trong. Mọi thứ đều đổ nát. Tôi bước lên đống tách, đĩa, ly, chén vương vãi. Một cái đèn dầu treo ở cây đinh cao trên tường không tắt trong cơn hỗn loạn nhưng chỉ soi sáng được những đốm bồ hóng trên trần, để cho bóng tối phủ khắp sàn nhà vương vãi đầy những mảnh băng ghế gỗ vỡ, bàn gãy và những thứ tàn tích khác.

Xếp chồng những chiếc nệm dài lên nhau, tôi với lấy chiếc đèn dầu. Trong vòng ánh sáng của ngọn đèn, tôi thấy có nhiều xác nằm trên sàn. Khi nhìn thấy một khuôn mặt bê bết máu, tôi quay đi và bước tới xác kế tiếp. Xác thứ hai đang rên rỉ, và khi thấy ánh đèn của tôi, liền phát ra một tiếng động như trẻ con.

Có ai khác bước vào. Thoạt tiên tôi cảnh giác, dù tôi cảm thấy đó là Siyah. Cả hai chúng tôi cúi bên xác thứ ba nằm sải tay trên sàn. Khi tôi hạ đèn xuống sát đầu người đó, chúng tôi thấy điều mình đã nghi ngờ: Họ đã giết người kể chuyện.

Không có vết máu trên khuôn mặt trang điểm như phụ nữ của ông ta, nhưng chiếc cằm, chân mày và cái miệng tô son hồng thì bị đập nát, và nhìn cổ ông ta đầy những vết thâm tím, chúng tôi biết ông ta bị bóp cổ. Hai bàn tay ông ta bị vặn ngược qua hai bên đầu. Không khó để hình dung ra rằng một người trong số họ đã vặn ngược hai cánh tay ông già này ra sau lưng trong khi những tên khác đập vào mặt ông ta trước khi bóp cổ ông. Tôi tự hỏi, phải chăng chúng đã nói, “cắt lưỡi hắn đi, để hắn không bao giờ vu khống Đức ngài thuyết giáo Hoja Kính mến nữa”, rồi sau đó tiến hành làm như thế chăng?

“Đem đèn lại đây,” Siyah nói. Gần bếp lò, ánh sáng ngọn đèn rọi lên những cối xay cà phê vỡ, những chiếc rây, cân, những mảnh tách cà phê vỡ nằm trong đống cà phê đổ lênh láng. Trong góc nơi người kể chuyện treo các bức tranh của ông ta mỗi đêm, Siyah đang tìm đồ nghề của ông ta, khăn thắt lưng, khăn tay và gậy của nhà ảo thuật. Siyah nói anh đang tìm kiếm những bức tranh và đưa chiếc đèn anh lấy từ tay tôi lên soi mắt tôi: Phải, dĩ nhiên tôi đã vẽ hai bức trong số chúng vì tình cảm anh em. Chúng tôi chẳng tìm được gì ngoài cái mũ chỏm Ba Tư mà người chết đã trùm lên cái đầu trọc lóc của ông ta.

Không thấy ai khác, chúng tôi đi ra ngoài trong bóng đêm qua một ngõ hẹp dẫn ra từ cửa sau. Trong cuộc đột kích hầu hết đám đông và các họa sĩ bên trong chắc hẳn đã thoát ra bằng lối này, song những chậu hoa bị đá vỡ và những túi cà phê vung vãi khắp nơi cho thấy rằng ở đây cũng có một cuộc ẩu đả.

Việc quán cà phê bị đột kích và ông thầy kể chuyện bị giết, kết hợp với bóng đêm khủng khiếp, đã đưa Siyah và tôi đến gần nhau hơn. Đây cũng là điều khiến cả hai chúng tôi im lặng.

Chúng tôi băng qua hai con phố nữa, Siyah trả đèn lại cho tôi, rồi anh ta rút dao găm ra kề cổ họng tôi.

“Ta sẽ về nhà anh,” anh ta nói. “Tôi muốn lục soát ở đó để được yên tâm.”

“Nó đã bị lục soát rồi.”

Thay vì bực mình với anh ta, tôi cảm thấy muốn chọc ghẹo anh ta. Việc Siyah tin vào những lời đồn đại xấu xa về tôi không chứng tỏ rằng anh ta ghen tỵ với tôi sao? Anh ta giữ con dao găm mà không tự tin lắm.

Nhà của tôi ở ngược hướng con đường dẫn chúng tôi rời quán cà phê. Chúng tôi rẽ phải rồi trái theo những con đường trong khu này và băng qua những khu vườn trống trải có mùi ẩm ướt và những hàng cây đơn độc trong khi đánh một đường vòng ngược về phía nhà tôi. Chúng tôi đi được hơn nửa đường thì Siyah dừng lại nói:

“Suốt hai ngày Sư phụ Osman với tôi đã xem xét kiệt tác của các bậc thầy huyền thoại trong Quốc khố.”

Lát sau, gần như thét lên, tôi nói, “Sau một tuổi nào đó, cho dù một họa sĩ dùng chung bàn làm việc với Bihzad, nhũng gì ông ta thấy có thể làm vui mắt ông ta và đem đến cho linh hồn ông ta sự thỏa mãn và kích động, nhưng nó sẽ không nâng cao tài năng của ông ta, bởi vì người ta vẽ bằng bàn tay chứ không phải bằng đôi mắt, mà bàn tay thì, ở tuổi của tôi chứ đừng nói ở tuổi thầy Osman, không dễ gì học được những điều mới.”

Tin chắc rằng người vợ xinh đẹp đang chờ tôi, tôi nói thật to để nàng biết tôi không về một mình mà tìm cách tránh mặt Siyah - chứ không phải tôi ngán thằng ngốc tội nghiệp đang lăm lăm con dao này.

Chúng tôi đi qua cổng vào sân, và tôi nghĩ mình thấy ánh sáng của ngọn đèn di chuyển trong nhà, nhưng ơn Thượng đế, tất cả giờ đã chìm trong bóng tối. Quả là một hành động vi phạm sự riêng tư của tôi khi tên cục súc này cầm dao xông vào ngôi nhà thiên đàng của tôi, nơi tôi đã trải bao tháng ngày, trên thực tế là toàn bộ thời gian của tôi trong việc tìm kiếm và vẽ lại những ký ức của Allah cho đến khi mắt mệt nhoài - rồi tôi làm tình với người yêu dấu của tôi, người phụ nữ đẹp nhất thế gian - một sự vi phạm quá thô bạo đến độ tôi thề sẽ trả thù hắn.

Hạ thấp ngọn đèn, anh ta xem xét những trang giấy của tôi, một trang tôi mới hoàn tất được phân nửa - những tù nhân bị kết án đang van xin Đức vua tha nợ cho họ và nhận lòng nhân đức của Ngài - thuốc mầu, bàn làm việc, dao, bàn cắt sậy, cọ mọi thứ quanh bàn viết của tôi, rồi lại tới giấy tờ của tôi lần nữa, những viên đá đánh bóng, dao gọt bút, và những khoảng trống giữa những hộp đựng viết và giấy; anh ta nhìn vào các tủ, rương, bên dưới nệm, một trong những kéo cắt giấy, bên dưới tấm nệm đỏ mềm và một tấm thảm trước khi quay trở lại, đưa đèn sát hơn nữa tới từng món và xem xét lại chính những nơi đó lần nữa. Như anh ta đã nói khi lần đầu tiên lôi vũ khí ra, anh ta sẽ không lục soát cả nhà tôi, mà chỉ lục soát phòng làm việc thôi. Thực tế, tôi không thể đem giấu vợ tôi - thứ duy nhất tôi muốn giấu - trong căn phòng mà từ đó nàng đang theo dõi chúng tôi sao?

“Có một bức tranh cuối cùng vốn dành cho cuốn sách mà Enishte của tôi đang làm,” anh ta nói. “Tên nào giết ông ấy đã đánh cắp bức tranh đó.”

“Nó khác những bức tranh khác, tôi nói ngay. “Enishte của anh, cầu cho ông ta yên nghỉ, bảo tôi vẽ cái cây ở một góc trang. Trong hậu cảnh đâu đó... rồi ở giữa trang, trên tiền cảnh, sẽ là phần tranh của ai đó, có lẽ là chân dung Đức vua. Cái khoảng trống này, tôi có thể nói thêm là rất lớn, chưa được vẽ kín. Bởi vì những vật thể ở hậu cảnh thì nhỏ, như theo phong cách châu Âu, nên ông ta muốn tôi vẽ cái cây nhỏ hơn. Khi bức tranh phát triển, nó tạo ấn tượng như ta nhìn thế giới này qua một cửa sổ, chẳng có gì giống một bức tranh minh họa cả. Đến lúc đó tôi mới hiểu rằng trong một bức tranh được vẽ theo phương pháp phối cảnh của người Tây vực, những đường viền và phần mạ vàng thay thế cho một khung cửa sổ.”

“Zarif Kính mến chịu trách nhiệm làm những đường viền và mạ vàng.”

“Nếu anh muốn hỏi vụ đó, thì tôi đã nói với anh là tôi không giết anh ta mà.”

“Kẻ sát nhân không bao giờ thừa nhận tội ác của hắn,” anh ta nói nhanh, sau đó hỏi tôi đang làm gì ở quán cà phê trước cuộc đột kích đó.

Anh ta đặt cây đèn dầu ngay cạnh tấm nệm tôi đang ngồi, sao cho nó soi sáng khuôn mặt tôi cùng những tờ giấy của tôi và những trang tôi đang minh họa. Bản thân anh ta đang nhốn nháo quanh phòng như một cái bóng trong bóng tối.

Ngoài việc nói với anh ta những gì tôi đã kể với các vị, rằng tôi thực sự là một vị khách không thường xuyên của quán cà phê và chỉ tình cờ đi ngang qua đó, tôi cũng lặp lại rằng tôi đã vẽ hai bức tranh vốn được treo trên tường ở đó - dù tôi thực sự không tán đồng những sinh hoạt kỳ cục ở quán cà phê. “Bởi vì,” tôi nói thêm, “nghệ thuật hội họa chỉ đi tới chỗ kết tội và trừng phạt chính nó khi nó mượn sức mạnh từ lòng khao khát kết tội và trừng phạt những cái xấu của cuộc sống thay vì từ tài năng của người họa sĩ, tình yêu nghệ thuật và ước muốn tiếp nhận Allah của anh ta... bất chấp kẻ bị kết án đó là nhà thuyết giáo xứ Erzurum hay là chính Satan. Quan trọng hơn, giá như đám đông trong quán cà phê đó không nhắm vào dân Erzurum thì có thể nó đã không bị đột kích tối nay.”

“Cho dù vậy thì anh vẫn đến đó,” tên khốn nạn đó nói.

“Phải, vì tôi thấy vui khi ở đó.” Liệu hắn có ý niệm mơ hồ nào về mức độ thành thực của tôi không? Tôi nói thêm: “Dù đã biết điều gì đó là xấu và sai, bọn con cháu Adam chúng ta vẫn tìm được lạc thú đáng kể từ đó. Và tôi xấu hổ mà nói rằng tôi cũng thấy đỡ buồn với những tranh minh họa rẻ tiền đó, trò bắt chước và những câu chuyện về Satan, đồng tiền vàng và con chó ấy, vốn được người kể chuyện kể một cách thô sơ không chút vần điệu.”

“Cho dù thế, sao anh vẫn đặt chân vào hang ổ của bọn vô thần đó?”

“Được rồi”, tôi đáp, chấp nhận tiếng nói nội tâm của mình, “nhiều lúc cũng có một con sâu nghi ngờ gặm nhấm tôi: Suốt từ khi tôi được không chỉ thầy Osman mà ngay cả Đức vua công khai thừa nhận là người khéo léo và tài năng nhất trong những thợ cả ở xưởng, tôi bắt đầu khiếp sợ lòng đố kỵ của người khác đến độ, nhiều lúc tôi đã cố đến những nơi họ đến, đánh bạn với họ và rập khuôn theo họ để họ không đột ngột tấn công tôi trong lúc nổi máu trả thù bất chợt. Anh có hiểu không? Và từ khi họ bắt đầu xếp tôi là một tay ‘Erzurum,’ tôi đã đi đến ổ của bọn vô thần đồi bại đó để người ta bớt quan tâm đến tin đồn này.”

“Sư phụ Osman nói anh thường hành động cứ như đang biện bạch cho tài nghệ và kỹ năng của anh.”

“Thầy ấy còn nói gì nữa về tôi?”

“Rằng anh đã vẽ những bức tranh cực nhỏ, ngớ ngẩn trên hạt gạo và móng tay để những người khác tin chắc rằng anh hy sinh cuộc sống vì nghệ thuật. Ông ấy nói rằng anh luôn cố làm vui lòng người khác bởi vì anh bối rối trước tài năng vĩ đại mà Allah đã ban cho anh.”

“Thầy Osman ngang hàng với Bihzad,” tôi nói một cách thực lòng. “Còn gì nữa?”

“Sư phụ liệt kê những khuyết điểm của anh liền một mạch,” tên khốn đó nói.

“Vậy kể tôi nghe những khuyết điểm ấy đi.”

“Sư phụ nói rằng, bất chấp tài năng phi thường của mình, anh vẫn vẽ không phải vì tình yêu nghệ thuật, mà để làm vui lòng người khác. Tỉ như động cơ thúc đẩy anh trong khi vẽ là tưởng tượng ra niềm vui mà người ta sẽ cảm thấy khi xem tranh; trong khi lẽ ra anh phải vẽ vì niềm vui của chính việc vẽ tranh.”

Lòng tôi bị tổn thương vì thầy Osman đã thẳng thừng nói ra những gì ông nghĩ về tôi với một kẻ có tâm hồn nhỏ nhen như thế, một kẻ đã hiến đời mình không phải cho nghệ thuật mà để làm một viên thư ký, viết những lá thư và lời nịnh hót sáo rỗng.

Siyah nói tiếp:

“Những bậc thầy vĩ đại thời xưa, như Sư phụ Osman tuyên bố, sẽ không bao giờ từ bỏ những phong cách và phương pháp mà họ đã xây dựng qua việc hy sinh thân mình cho nghệ thuật chỉ vì quyền lực của một ông vua mới, những ý thích của một ông hoàng mới, hoặc thị hiếu của một thời đại mới; vì vậy, để tránh bị buộc phải thay đổi phong cách và phương pháp, họ đã dũng cảm tự làm mù mình. Trong khi đó anh lại nồng nhiệt và nhục nhã bắt chước những bậc thầy châu Âu vì những trang trong cuốn sách cho Enishte của tôi, với lý do rằng đó là ý muốn của Đức vua.

“Vị Trưởng ban Minh họa vĩ đại, Thầy Osman chắc chắn là không có ý xấu khi nói thế.” tôi nói. “Cho phép tôi pha cho anh tách trà chanh nhé, anh bạn thân mến.”

Tôi bước vào phòng kế bên. Người vợ yêu của tôi trùm lên đầu tôi chiếc áo ngủ nàng đang mặc, mà nàng mua của Esther người bán quần áo, rồi nhại giọng tôi, “Cho phép tôi pha cho anh tách trà chanh nhé, anh bạn thân mến,” và thò tay vào dương vật của tôi.

Tôi lấy ra thanh gươm có chuôi bằng mã não giấu trong những tấm vải có mùi hoa hồng ở đáy rương trên sàn gần tấm nệm cuộn của chúng tôi, mà nàng đã trải ra một cách đầy hy vọng, và rút vũ khí khỏi vỏ. Lưỡi nó quá sắc đến độ nếu bạn ném một khăn tay lụa lên nó thì khăn sẽ bị cắt dễ dàng; nếu bạn đặt một miếng vàng lá lên nó, những vết cắt sẽ thẳng tắp như cắt bằng thước kẻ.

Giấu thật kỹ thanh gươm, tôi trở lại xưởng làm việc. Siyah Kính mến hài lòng với việc thẩm vấn tôi đến độ anh ta vẫn đi vòng quanh tấm nệm đỏ, dao găm trên tay. Tôi đặt bức minh họa đã hoàn tất một nửa lên chiếc nệm. “Nhìn bức này coi,” tôi nói.

Anh ta quỳ xuống vì tò mò, cố hiểu bức tranh.

Tôi bước ra sau lưng anh ta, rút gươm ra, và bằng một động tác tôi vật anh ta xuống đất, lấy thân mình đè cứng người anh ta. Con dao găm của anh ta văng ra. Chộp tóc anh ta, tôi đè đầu anh ta sát đất và kề thanh gươm vào cổ anh ta từ dưới lên. Tôi đè thân hình mảnh khảnh của Siyah và ép anh ta úp mặt xuống sàn bên dưới thân hình nặng nề của tôi, dùng cằm và bàn tay còn lại của tôi nhấn đầu anh ta cho nó chạm sát lưỡi gươm bén ngót. Một tay tôi nắm mớ tóc bẩn thỉu của anh ta, tay kia giữ lưỡi gươm sát làn da cổ họng mỏng manh của anh ta. Khôn ngoan, anh ta không động đậy, bởi vì ngay lúc đó tôi có thể kết liễu mạng anh ta. Việc kề sát mái tóc xoăn của anh ta, cái gáy anh ta - mà giá vào lúc khác có lẽ tôi đã cho một cái bợp sỉ nhục - và gần gụi đôi tai xấu xí của anh ta đã khiến tôi giận điên hơn bao giờ hết. “Tôi hết sức kiềm chế để không lấy mạng anh ngay lúc này,” tôi thì thầm vào tai anh ta như thể đang tiết lộ một bí mật.

Việc anh ta lắng nghe tôi như một đứa trẻ ngoan ngoãn mà không hề kêu rên một tiếng nào khiến tôi hài lòng: “Anh sẽ nhận ra truyền thuyết trong pho Shahnameh,” tôi thì thầm. “Vua Feridun, do sai sót, viết di chúc để lại những vùng đất xấu nhất của ông cho hai con trai lớn còn vùng đất tốt nhất, Ba Tư thì cho Iraj, con út. Tur quyết tâm trả thù, bèn lừa gạt em trai mình, Iraj, kẻ mà anh ta ghen tỵ, trước khi cắt cổ Iraj, anh ta nắm tóc em mình giống như tôi đang làm và nằm đè lên em trai. Anh có thấy người tôi nặng không?”

Anh ta không trả lời, nhưng từ đôi mắt của anh ta, nhìn thẫn thờ giống như đôi mắt của con cừu bị tế thần, tôi có thể nói rằng anh ta đang lắng nghe và tôi thấy hứng khởi: “Tôi không chỉ trung thành với những phong cách và phương pháp Ba Tư trong việc vẽ mà cả trong việc chặt đầu. Tôi cũng đã chứng kiến một phiên bản khác vẽ cảnh tượng dễ thương mô tả cái chết của vua Siyavush này.”

Tôi giải thích với Siyah đang im lặng lắng nghe về chuyện Siyavush chuẩn bị cho việc trả thù những anh em của ông ta ra sao, thiêu rụi toàn bộ lâu đài cùng tất cả tài sản và đồ đạc của mình thế nào, rồi ông ta khoan thai chia tay vợ ông ta, leo lên ngựa và ra trận, sau đó ông ta bị bại trận và bị nắm tóc lôi đi dưới đất trước khi bị đè nằm sấp “như anh bây giờ,” với một con dao kề sát cổ họng, rồi ở đó nổ ra cuộc tranh luận giữa những người bạn và kẻ thù của ông ta về việc liệu họ nên giết hay nên thả ông ta ra, và vị vua bại trận đó, mặt cắm xuống đất, lắng nghe những kẻ bắt giữ mình. Rồi tôi hỏi anh ta, anh có thích bức minh họa đó không? Geruy xuất hiện sau lưng Siyavush, như tôi làm với anh đây, đè lên ông ta, kề gươm sát cổ ông ta, nắm một túm tóc của ông ta và cắt cổ ông ta. Máu đỏ của anh rồi sẽ chảy ra, làm bụi đen dấy lên từ đất khô, nơi mà sau này một bông hoa sẽ nở.”

Tôi im lặng, và từ những đường phố xa xôi chúng tôi có thể nghe tiếng bọn Erzurum gào thét trong khi chạy. Nỗi khủng khiếp bên ngoài lập tức khiến hai chúng tôi, vẫn đang nằm đè lên nhau, xích lại gần nhau hơn.

“Nhưng trong các bức tranh đó,” tôi nói thêm, giật tóc Siyah mạnh hơn, “người ta có thể cảm thấy cái khó của việc vẽ sao cho đẹp, hai người đàn ông vốn khinh miệt nhau nhưng thân thể họ, giống như thân thể chúng ta, đã trở thành như một. Có vẻ như cõi hỗn mang của sự phản bội, lòng đố kỵ và trận chiến xảy ra ngay trước thời điểm xử trảm tráng lệ và ma quái này đã quá thấm đẫm những bức tranh đó. Ngay cả những bậc thầy vĩ đại nhất của Kazvin cũng khó lòng vẽ được hai người đàn ông nằm lên nhau; họ làm đảo lộn mọi thứ. Trong khi anh và tôi, hãy nhìn xem, chúng ta ngăn nắp và tao nhã hơn.”

“Lưỡi gươm đang cứa vô,” anh ta thì thào.

“Tôi cảm ơn anh vì những lời lịch sự của anh, anh bạn thân mến, nhưng nó không gây chuyện gì như thế đâu. Tôi hết sức cẩn thận. Tôi sẽ không làm bất cứ điều gì phá hỏng tư thế đẹp của chúng ta: Trong những cảnh về tình yêu, cái chết và chiến tranh, trong đó những đại sư phụ thời xưa vẽ những cái xác xoắn lấy nhau như thể chúng là một, chúng chỉ có thể moi được những giọt nước mắt của chúng ta thôi. Hãy nhìn xem: Đầu tôi nằm trên gáy anh như thể nó là một phần của thân thể anh. Tôi có thể ngửi thấy mùi tóc và cổ của anh. Chân tôi, nằm hai bên chân anh, duỗi ra hài hòa với chân anh, đến độ người ngoài nhìn vào có thể lầm chúng ta với một con thú bốn chân tao nhã. Anh có cảm thấy sức nặng của tôi chia đều trên lưng với mông anh không?”

Một khoảng im lặng nữa, nhưng tôi không đẩy lưỡi gươm lên, bởi vì nó có thể đã thực sự cứa vào cổ họng anh ta. “Nếu anh không nói, tôi có thể muốn cắn tai anh đó,” tôi nói, thì thầm vào đúng cái tai đó.

Khi tôi nhận ra trong mắt anh ta rằng anh ta sắp nói, tôi nhắc lại câu hỏi đó: “anh có cảm thấy sức nặng của tôi chia đều trên lưng với mông anh không?”

“Có.”

“Anh thích không?” Tôi hỏi. “Chúng ta đẹp không?” Tôi hỏi. “Chúng ta có đẹp như những anh hùng truyền thuyết giết chết nhau với vẻ tao nhã như thế trong những kiệt tác của các đại sư phụ xưa không?”

“Tôi không biết,” Siyah nói. “Tôi đâu thấy được mình trong gương.”

Khi tôi tưởng tượng vợ tôi nhìn chúng tôi từ căn phòng bên kia dưới ánh sáng cây đèn dầu của quán cà phê đặt trên sàn cách đó không xa, tôi nghĩ mình thực sự có thể cắn tai Siyah vì kích động.

“Siyah Kính mến, anh, người đã dùng vũ lực vào nhà tôi, phá rối sự riêng tư của tôi, với dao găm trên tay, để cật vấn tôi,” tôi nói, “bây giờ anh có cảm thấy sức mạnh của tôi không?”

“Có, tôi cũng có cảm giác anh quả thực ở phía lẽ phải.”

“Vậy thì, một lần nữa, hãy cứ hỏi tôi những gì anh muốn biết đi.”

“Hãy mô tả Sư phụ Osman thường vuốt ve anh thế nào.”

“Khi còn là thợ học việc, tôi thanh tú, mịn màng và đẹp hơn bây giờ nhiều, và thầy thường cưỡi lên tôi như kiểu tôi đang cưỡi lên anh. Thầy hay vuốt ve cánh tay tôi, nhiều lần thậm chí thầy làm tôi đau, nhưng bởi vì tôi rất kính nể kiến thức tài năng và sức mạnh của thầy, nên việc thầy làm khiến tôi thấy thích, và tôi không bao giờ nuôi dưỡng bất cứ ý xấu nào đối với thầy, bởi vì tôi yêu thầy. Việc yêu Thầy Osman giúp tôi yêu nghệ thuật, màu sắc, giấy, cái đẹp của việc vẽ tranh và minh họa cùng mọi thứ được vẽ ra, và qua đó yêu chính thế giới này và Thượng đế. Thầy Osman còn hơn một người cha đối với tôi.”

“Sư phụ có thường đánh anh không?” anh ta hỏi.

“Trong vai trò một người cha, ông ta đánh tôi với ý thức thích hợp về lẽ công bằng; trong vai trò một người thầy, thầy đánh tôi thật đau để tôi rút ra được bài học từ hình phạt đó. Nhờ đau và sợ cây thước gõ lên móng tay mà tôi học được nhiều thứ nhanh hơn và tốt hơn so với khi chỉ có một mình. Vì vậy thầy không nắm tóc tôi và dập đầu tôi vào tường khi tôi là thợ học việc. Tôi không bao giờ làm đổ thuốc màu, không bao giờ lãng phí lớp sơn lót vàng của thầy, ghi nhớ nhanh, chẳng hạn như nét cong ở chân trước của con ngựa, cố che giấu những sai sót của họa sĩ chạy nét, rửa sạch cọ thường xuyên và tập trung hết tinh thần vào trang giấy trước mặt. Vì nhờ những trận đòn tôi mới có được sự tinh thông và tài năng, nên đổi lại tôi đánh các thợ học việc của tôi mà không thấy lương tâm cắn rứt. Hơn thế nữa, tôi biết rằng ngay cả một trận đòn không có lý do chính đáng, nếu nó không làm suy sụp tinh thần người thợ học việc, thì rốt cuộc sẽ có lợi cho anh ta.”

“Cho dù thế, anh hiểu rằng trong khi đánh một thợ học việc đẹp như thiên thần, có đôi mắt dịu dàng, thỉnh thoảng anh bị kích động bởi chính niềm vui trong việc đó, và anh biết rằng Sư phụ Osman có lẽ cũng trải qua chính cảm giác đó với anh, đúng không?”

“Đôi khi thầy lấy cục đá cẩm thạch dùng để đánh bóng mà gõ thật mạnh sau tai tôi đến độ nó bị ù đặc trong nhiều ngày, và tôi quay mòng mòng choáng váng. Đôi khi thầy vả tôi quá mạnh đến độ trong nhiều tuần má tôi vẫn còn đau, đủ khiến tôi chảy nước mắt liên tục.Tôi sẽ không bao giờ quên, nhưng tôi vẫn yêu thầy.”

“Không,” Siyah nói, “anh rất giận sư phụ. Anh trả thù cho sự giận dữ vốn đã lặng lẽ tích tụ sâu trong lòng anh bằng cách làm minh họa cho cuốn sách bắt chước bọn Tây vực của Enishte của tôi.”

“Ngược lại mới đúng kìa. Những trận đòn mà một nhà tiểu họa trẻ nhận từ thầy mình đã ràng buộc anh ta vào người thầy với lòng tôn trọng sâu sắc cho đến ngày anh ta chết.”

“Việc cắt cổ họng Iraj và Siyavush từ phía sau một cách độc ác và phản bội, như anh đang làm với tôi, xuất phát từ sự kình địch giữa anh em ruột, và sự kình địch giữa anh em ruột, như trong Shahnameh luôn luôn do một người cha bất công gây ra.”

“Đúng.”

“Ông bố bất công của những nhà tiểu họa các anh, người đã khiến các anh lao vào cắt cổ lẫn nhau, giờ đang chuẩn bị phản bội anh,” anh ta nói một cách trâng tráo. “A, tôi van anh, nó đang cứa tôi đây anh ta rên rỉ. Anh ta khóc hồi lâu trong đau đớn. Rồi anh ta tiếp tục, “Sự thực thì việc cắt cổ họng tôi và để máu chảy ra như một con cừu tế thần sẽ chỉ là một việc làm trong chốc lát. nhưng nếu anh làm chuyện này mà không lắng nghe những gì tôi sắp giải thích - dù sao thì tôi cũng không nghĩ anh sẽ làm, ái, thôi đủ rồi - thì mãi mãi anh sẽ thắc mắc không biết tôi sắp nói những gì. Làm ơn nhích lưỡi gươm ra một tí đi.” Tôi làm thế. “Sư phụ Osman, người theo sát từng bước chân và từng hơi thở của anh từ nhỏ, người sung sướng theo dõi tài năng thiên phú của anh phát triển thành nghệ thuật giống như một bông hoa mùa xuân dưới sự chăm sóc của ông ta, giờ đã quay lưng lại với anh để cứu họa xưởng của ông ta và phong cách của nó, thứ mà ông ta đã dâng hiến cả cuộc đời.”

“Tôi đã kể ba dụ ngôn cho anh vào ngày chúng ta chôn Zarif Kính mến để anh có thể biết thứ mà họ gọi là ‘phong cách’ thực sự đáng kinh tởm như thế nào.”

“Những câu chuyện đó liên quan đến phong cách cá nhân của một nhà tiểu họa,” Siyah nói một cách thận trọng, “trong khi Sư phụ Osman quan tâm đến việc bảo tồn phong cách của cả xưởng vẽ.”

Anh ta giải thích, Đức vua cho rằng việc tìm ra kẻ giết Zarif Kính mến và Enishte của anh ta mang một tầm quan trọng lớn lao đến thế nào, Ngài thậm chí còn cho phép họ xem xét Quốc khố vì mục đích này, và Thầy Osman sử dụng cơ hội này để phá hủy cuốn sách của Enishte của anh ta và trừng phạt những kẻ phản bội thầy qua việc bắt chước người châu Âu. Siyah nói thêm rằng, dựa vào phong cách, Thầy Osman nghi ngờ Zeytin là tác giả vẽ con ngựa có cái mũi bị rạch, nhưng trong vai trò trưởng ban Trang trí, thầy tin chắc rằng tội ác là của Leylek và sẽ giao tay này cho bọn đao phủ. Tôi có cảm giác anh ta đang nói thật dưới sức ép lưỡi gươm của tôi, và tôi thấy muốn hôn anh ta bởi vì anh ta say sưa với những gì anh ta đang nói như một đứa trẻ. Những gì nghe được không khiến tôi bận tâm, việc Leylek bị loại ra có nghĩa là tôi sẽ trở thành trưởng ban Trang trí sau khi Thầy Osman mất - cầu Thượng đế cho thầy sống lâu.

Tôi không xao động vì những gì anh ta nói có thể xảy ra, mà ưu tư vì rất có thể nó sẽ không xảy ra. Suy đoán những gì đàng sau lời kể lể của Siyah, tôi có thể hình dung rằng Thầy Osman sẵn sàng hy sinh không chỉ Leylek mà cả tôi nữa. Nghĩ tới khả năng khó tin đó, tim tôi đập liên hồi và tôi tới gần nỗi kinh hoàng của tình trạng bị bỏ rơi hoàn toàn mà một đứa trẻ cảm thấy khi bất ngờ bị mất cha. Mỗi khi nghĩ đến điều này, tôi phải cố dằn mình không cắt họng Siyah. Tôi không muốn tranh luận điều này với Siyah hay bản thân tôi: Tại sao việc chúng tôi vẽ vài bức minh họa ngu ngốc theo phong cách các bậc thầy châu Âu lại đưa chúng tôi xuống ngang hàng những kẻ phản bội? Một lần nữa, tôi nghĩ rằng đằng sau cái chết của Zarif là Leylek và Zeytin, và những âm mưu của họ nhằm chống lại tôi. Tôi thu thanh gươm khỏi cổ họng Siyah.

“Mình hãy đến nhà Zeytin, rồi lục soát từ trên xuống dưới,” tôi nói. “Nếu bức tranh cuối cùng có ở đó, ít nhất chúng ta cũng biết mình phải sợ ai. Nếu không có, mình sẽ kéo anh ta theo để ủng hộ và đột kích tiếp vào nhà Leylek”.

Tôi bảo anh ta hãy tin tôi và rằng con dao găm của anh ta là thứ vũ khí đủ cho cả hai chúng tôi. Tôi xin lỗi vì thậm chí không mời được anh ta một ly trà chanh. Khi tôi cầm cái đèn dầu lên, cả hai chúng tôi nhìn một cách đầy ý nghĩa tấm nệm mà trên đó tôi đã đè anh ta. Tôi xách đèn bước đến gần anh ta, nói với anh ta rằng vết cắt nhẹ trên cổ họng anh ta sẽ là một dấu hiệu cho tình bạn của chúng tôi. Anh ta chỉ chảy máu một chút xíu.

Tiếng huyên náo do bọn người Erzurum và những kẻ đuổi theo họ gây ra vẫn còn nghe thấy được trên đường phố, nhưng không ai chú ý đến chúng tôi. Chúng tôi nhanh chóng đến nhà Zeytin. Chúng tôi gõ cổng ngoài sân, cửa nhà, và nôn nóng gõ lên những tấm rèm cửa sổ. Không có ai ở nhà; chúng tôi gây ồn ào đến độ chắc chắn là không phải anh ta đang ngủ. Siyah nói ra điều cả hai chúng tôi đều nghĩ: “Có nên vào trong không?” Tôi dùng sống dao găm của Siyah vặn cái khoen khóa cửa, sau đó nhét dao vào khoảng trống giữa trụ cửa và cánh cửa rồi cả hai dùng hết sức bẩy nó ra, chúng tôi đã phá được khóa. Chúng tôi gặp phải mùi hôi của sự ẩm thấp, bụi bặm và sự cô đơn đã tích tụ qua nhiều năm. Dưới ánh đèn, chúng tôi thấy chiếc giường bừa bộn, những chiếc khăn thắt lưng ném trên nệm, áo chẽn, hai cái khăn xếp, áo lót, cuốn tự điển Ba Tư của Nakshibendi, một cái giá gỗ để máng khăn xếp, một tấm nỉ, kim và chỉ, một cái chảo đồng nhỏ đầy vỏ táo, khá nhiều nệm, một tấm khăn trải giường bằng nhung, thuốc màu, cọ và tất cả đồ dùng của anh ta. Tôi định lật xem qua xấp giấy viết, từng lớp từng lớp giấy Hindustan được cắt tỉa cẩn thận, và những trang đã minh họa trên chiếc bàn nhỏ, nhưng tôi dằn lại vừa bởi Siyah hăng hái hơn tôi, vừa bởi tôi biết rất rõ một nhà tiểu họa tài hoa sẽ gặp phải xui xẻo ra sao nếu anh ta lục lọi đồ dùng cá nhân của một nhà tiểu họa kém tài hơn.

Zeytin không tài năng như người ta nghĩ, anh ta chỉ được cái nhiệt tình. Anh ta cố che đậy tài năng kém cỏi của mình bằng cách sùng kính những bậc thầy xa xưa. Tuy nhiên, những truyền thuyết xưa chỉ khơi dậy trí tưởng tượng của người nghệ sĩ; chính bàn tay mới làm việc vẽ tranh.

Trong khi Siyah tỉ mỉ lục soát các rương và hộp, rồi kiểm tra tới đáy những chiếc rổ đựng quần áo giặt, tôi không chạm vào bất cứ thứ gì mà chỉ nhìn những cái khăn tắm Bursa của Zeytin, chiếc lược gỗ mun, khăn rửa tay cáu bẩn, những lọ nước hoa hồng, tấm vải thắt lưng lố bịch với mẫu in khối kiểu Ấn Độ. những áo khoác độn bông, áo choàng phụ nữ bẩn thỉu dày cộp có một vết rách, chiếc khay bằng đồng bị mẻ, những tấm thảm nhớp nhúa cùng những đồ dùng khác quá rẻ tiền và luộm thuộm so với số tiền anh ta kiếm được. Zeytin hoặc quá keo kiệt và cất giấu kín tiền bạc hoặc anh ta phung phí nó theo kiểu nào đó... “Đích thị là ngôi nhà của một tên sát nhân,” sau đó tôi nói. “Thậm chí không hề có một tấm thảm cầu nguyện.” Nhưng đây không phải là điều tôi nghĩ. Tôi tập trung đầu óc. “Đây là đồ dùng cá nhân của một người không hề biết làm sao để được hạnh phúc...” tôi nói. Nhưng trong thâm tâm, tôi buồn rầu nghĩ sự khốn khổ và gần gũi với Quỷ sứ đã nuôi dưỡng hội họa như thế nào.

“Dù biết cần phải có gì để được toại nguyện, người ta vẫn thấy đau khổ như thường,” Siyah nói.

Anh ta đặt trước mặt tôi một loạt những bức tranh được vẽ trên giấy Samarkand thô, lót bằng những tờ giấy dày mà anh ta lấy ra từ đáy một cái rương. Chúng tôi nghiên cứu những bức tranh: một con quỷ Satan thỏa mãn mãi tận xứ Khorasan vừa chui từ dưới đất lên, một cái cây, một mỹ nữ, một con chó và bức tranh Thần chết mà tôi đã vẽ. Đây là những bức minh họa mà người kể chuyện vừa bị giết đã treo mỗi đêm khi ông ta kể những câu chuyện bôi bác của mình. Bị câu hỏi của Siyah thúc đẩy, tôi chỉ ra bức tranh Thần chết tôi đã vẽ.

“Trong cuốn sách của Enishte của tôi cũng có những bức này,” Siyah nói.

“Cả người kể chuyện lẫn chủ quán cà phê đều hiểu sự khôn ngoan trong việc nhờ các nhà tiểu họa vẽ minh họa mỗi đêm. Người kể chuyện sẽ nhờ một người trong chúng ta vẽ nhanh một bức trên loại giấy thô này, hỏi chúng ta một chút về câu chuyện và về những câu nói đùa của chúng ta, sau đó thì cộng thêm vào một ít chất liệu của ông ta, rồi bắt đầu buổi biểu diễn tối hôm đó.

“Tại sao anh vẽ cho ông ta cùng một bức tranh Thần chết mà anh đã vẽ cho cuốn sách của Enishte của tôi?”

“Theo yêu cầu của người kể chuyện, đó là nhân vật duy nhất trên trang giấy. Nhưng tôi không vẽ với sự chú tâm và nỗ lực như tôi đã vẽ cho cuốn sách của Enishte; tôi vẽ nó nhanh lắm, theo kiểu mà tay tôi muốn vẽ. Những người khác, có lẽ do muốn tỏ ra khôn ngoan, đã vẽ cho người kể chuyện theo kiểu đơn giản và thô thiển hơn những gì họ vẽ cho cuốn sách bí mật đó.”

“Ai vẽ con ngựa với lỗ mũi mở hoác đó?” anh ta hỏi.

Hạ đèn xuống, chúng tôi xem xét con ngựa với vẻ ngạc nhiên. Nó giống hệt con ngựa được vẽ cho cuốn sách của Enishte, nhưng nó nhanh hơn, cẩu thả hơn và dành cho một thị hiếu đơn giản hơn, như thể ai đó không những đã trả cho nhà minh họa ít tiền và bảo anh ta vẽ nhanh, mà còn buộc anh ta vẽ một con ngựa thô hơn và, tôi tin chắc rằng vì lý do này mà nó giống con ngựa thực hơn.

“Leylek sẽ biết rõ ai vẽ con ngựa này,” tôi nói. “Anh ta là một tên ngốc tự phụ, kẻ không thể sống được một ngày mà không lắng nghe chuyện tầm phào về các nhà tiểu họa, đó là lý do tại sao anh ta đến quán cà phê đó hàng đêm. Phải, hầu như chắc chắn Leylek đã vẽ con ngựa này.

CHƯƠNG 56
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ “LEYLEK”

Kelebek và Siyah đến vào lúc nửa đêm; họ trải những bức tranh dưới sàn trước mặt tôi rồi yêu cầu tôi cho họ biết ai vẽ bức nào. Nó gợi tôi nhớ lại trò chơi khăn xếp của ai mà chúng tôi thường chơi hồi nhỏ: Các vị vẽ nhiều kiểu khăn đội đầu khác nhau của hoja, lính kỵ binh, quan tòa, đao phủ, thủ quỹ và thư ký rồi cố xếp chúng vào những tên gọi tương ứng được viết trên những tờ giấy khác lật úp mặt xuống.

Tôi bảo họ rằng chính tôi vẽ con chó. Chúng tôi đã thuật câu chuyện về nó cho người kể chuyện. Tôi nói rằng Kelebek dịu dàng, người đang kề con dao găm ngay họng tôi, hẳn đã vẽ bức tranh Thần chết mà trên đó ánh đèn đang chập chờn dễ chịu. Tôi nhớ rằng Zeytin đã vẽ Satan một cách hăng say mà câu chuyện về nó hoàn toàn do người kể chuyện vừa chết bịa ra. Tôi đã bắt đầu vẽ cái cây mà những chiếc lá của nó được vẽ bởi tất cả những ai trong chúng tôi đã đến quán cà phê tối đó. Chúng tôi cũng đã nghĩ ra câu chuyện. Với màu Đỏ cũng thế: Một số mực đỏ vương vãi trên một tờ giấy, thế là người kể chuyện keo kiệt hỏi liệu chúng tôi có thể vẽ một bức tranh về màu đỏ không. Chúng tôi nhỏ một ít mực đỏ nữa lên trang giấy, rồi mỗi đứa chúng tôi phác thảo hình ảnh về một cái gì có màu đỏ trong một góc và thuật câu chuyện về hình ảnh của mình để người kể chuyện có thể kể lại. Zeytin vẽ con ngựa xuất sắc này ở đây - cầu cho tài năng của anh ta được tán dương - và tôi nghĩ chính Kelebek đã vẽ người phụ nữ u sầu này. Chỉ khi đó Kelebek mới lấy con dao găm khỏi họng tôi và nói với Siyah rằng phải, giờ anh ta mới nhớ anh ta đã vẽ người phụ nữ đó như thế nào. Tất cả chúng tôi đều góp phần vào đồng tiền vàng trong chợ, và Zeytin, hậu duệ của một người theo phái Kalenderi, đã vẽ hai tay khổ tu. Chi phái Kalenderi dựa trên việc quan hệ đồng tính với những chàng trai trẻ và khất thực, và Evhad-ud Dini Kirmani, giáo chủ của họ đã viết pho thánh thư của giáo phái cách nay hai trăm năm mươi năm, tiết lộ bằng thơ rằng ông ta từng thấy sự toàn hảo của Thượng đế được biểu hiện trong những khuôn mặt đẹp.

Tôi xin các anh em họa sĩ lượng thứ cho tình trạng bừa bộn trong ngôi nhà chúng tôn nại lý do rằng chúng tôi bị viếng thăm bất ngờ, và tôi bảo họ rằng tôi lấy làm tiếc không thể mời họ món cà phê ngon hay cam ngọt vì vợ tôi đang ngủ ở phòng trong. Tôi nói thế để họ đừng xông vào đó và tôi khỏi phải đổ máu với họ khi họ không tìm thấy những gì họ đang tìm trong mớ vải bạt, quần áo có giải rút, khăn thắt lưng mùa hè bằng lụa Ấn Độ và the mỏng, vải hoa Ba Tư và những áo choàng trong mấy cái rổ và rương mà họ hăm hở lục lọi, dưới những tấm thảm và nệm, giữa những trang đã minh họa mà tôi thực hiện cho nhiều cuốn sách khác nhau và trong những trang của những tập sách đã khâu xong.

Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng tôi thấy khoái trá khi cư xử cứ như tôi sợ họ. Kỹ năng của một họa sĩ tùy thuộc vào việc chú tâm cẩn thận đến cái đẹp của phút giây hiện tại, ghi nhận đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất trong khi đồng thời lui khỏi thế giới này, cái thế giới vốn tự coi mình quá ư nghiêm túc, và như thể nhìn vào gương, cho phép có một khoảng cách và sức thuyết phục của một lời nói đùa.

Do đó, khi họ hỏi, tôi nói rằng, phải, khi đám dân Erzurum bắt đầu cuộc đột kích thì cũng như hầu hết các buổi tối, có một đám đông khoảng bốn mươi người ở quán cà phê, trong đó ngoài tôi ra còn có Zeytin, họa sĩ Nasir, nhà thư pháp Jemal, hai phụ tá tiểu họa trẻ, những nhà thư pháp trẻ vốn sống cả ngày lẫn đêm với họ, thợ học việc Rahmi cực kỳ xinh xắn, những cậu đẹp trai mới vào nghề khác, sáu bảy người là thi sĩ, bọn say rượu, nghiện cần sa, dân khổ tu, cùng những người khác đã khéo léo dụ dỗ ông chủ cho phép họ gia nhập nhóm người vui nhộn dí dỏm này. Tôi giải thích tình trạng hỗn loạn bao trùm như thế nào ngay khi cuộc đột kích bắt đầu. Khi đám đông khán giả do chủ quán tập hợp để tham gia cuộc giải trí tục tĩu bắt đầu bỏ chạy trong kinh hoàng, không ai nghĩ đến biện pháp thiết lập hàng rào bảo vệ cho cái quán đó hay cho người kể chuyện già nua tội nghiệp ăn mặc như đàn bà. Tôi có đau lòng trước tai họa này không à? “Có chứ! Tôi, họa sĩ Mustafa, còn được gọi là ‘Leylek’, người thực sự dành trọn cuộc đời cho việc minh họa, nhận thấy thật cần thiết việc mỗi đêm được ngồi cùng những anh em họa sĩ mà chuyện trò, đùa giỡn, chế giễu, ca tụng, đọc thơ và nói những lời bóng gió,” tôi thú nhận, nhìn thẳng vào đôi mắt của Kelebek ngu đần, giấu trong dáng vẻ một chàng trai bụ bẫm, có đôi mắt ướt bị giày vò bởi lòng đố kỵ. Thậm chí khi còn là một thợ học việc, tay Kelebek này, mà đôi mắt vẫn dễ thương như đôi mắt một đứa béo là một chàng đẹp trai có nước da tuyệt mỹ, nhạy cảm.

Một lần nữa, khi họ hỏi, tôi mô tả rằng vào ngày thứ hai, khi người kể chuyện, kẻ đang lang thang trong thành phố và vùng lân cận, cầu cho ông ta được yên nghỉ trên Thiên đàng, bắt đầu hành nghề trong quán cà phê, một trong những nhà tiểu họa, có lẽ do ảnh hưởng của cà phê, đã treo một bức tranh lên tường để đùa chơi; người kể chuyện liến thoắng liền chú ý, và như thể để đùa, ông ta bắt đầu một đoạn độc thoại cứ như ông ta là con chó trong tranh, chuyện này gặt hái thành công lớn; từ đó về sau, mỗi đêm ông ta tiếp tục dựa theo các bức tranh do những nhà tiểu họa tài hoa vẽ và kể những câu chuyện dí dỏm mà họ đã thì thầm vào tai ông ta. Do những nhận xét lăng mạ đối với nhà thuyết giáo từ Erzurum lập tức gây phấn khích cho các nghệ sĩ, những kẻ đang khiếp sợ cơn thịnh nộ của nhà thuyết giáo, và lôi kéo thêm nhiều khách đến quán cà phá nên tay chủ quán quê ở Edirne khuyến khích các buổi biểu diễn như thế.

Họ yêu cầu tôi giải thích những bức tranh mà người kể chuyện treo sau lưng ông ta mỗi đêm, những bức tranh họ tìm thấy trong cuộc đột kích ngôi nhà trống của người anh em Zeytin.

Tôi nói rằng không cần phải giải thích bởi vì tay chủ quán, giống như chính Zeytin, là một tên xấu xa man rợ, trộm cắp, ăn xin thuộc phái Kalenderi. Zarif Kính mến chất phác, do khiếp sợ những lời hô hào của Hoja Kính mến, và nhất là những bài thuyết giáo về hình phạt ở địa ngục vào mỗi thứ sáu, hẳn đã than phiền về họ với người Erzurum. Hoặc thậm chí rất có thể là khi Zarif cảnh báo họ dừng trò tinh nghịch của họ lại thì tay chủ quán và Zeytin, cả hai có tính khí giống nhau, đã hiệp lực thủ tiêu một cách man rợ tay thợ mạ vàng bạc mệnh này. Người Erzurum, bị kích động bởi cái chết của Zarif, và có lẽ bởi Zarif đã mô tả cuốn sách của Enishte cho họ, đã cho rằng Enishte chịu trách nhiệm về vụ giết người này và giết ông ta; và, họ hẳn đã đột kích quán cà phê để hoàn tất việc trả thù.

Hai gã Kelebek béo và Siyah trầm trọng (trông cứ như một con ma) này dành bao nhiêu chú ý cho những điều tôi nói trong khi họ lục soát tài sản của tôi, khoái trá moi móc mọi thứ, không bỏ sót một chỗ nào. Khi họ tình cờ thấy đôi giày ống, áo giáp và đồ quân trang của tôi trong một cái rương bằng gỗ óc chó chạm trổ, một vẻ ghen tỵ hiện rõ trên khuôn mặt trẻ con của Kelebek, và tôi tuyên bố một lần nữa điều mà mọi người biết rõ. Tôi là nhà minh họa Hồi giáo đầu tiên tham gia chiến dịch cùng quân đội, là người đầu tiên nghiên cứu cẩn thận và vẽ lại mọi thứ tôi chứng kiến trong nhiều cuốn biên niên sử chiến công - việc bắn đại bác, những ngọn tháp lâu đài của kẻ thù, màu quân phục của binh lính ngoại giáo, tư thế của những xác chết, hàng đống đầu lâu bị cắt lìa dọc hai bờ sông và hiệu lệnh cùng cuộc xung phong của lính kỵ binh mặc giáp!

Khi Kelebek yêu cầu tôi cho anh ta xem cách tôi mặc áo giáp, tôi lập tức và không hề bối rối cởi áo ngoài, áo lót viền lông thỏ đen, quần dài và quần lót của tôi ra. Hài lòng với cách họ nhìn tôi dưới ánh sáng từ bếp lò, tôi mặc vào chiếc áo lót dài sạch, áo ngắn dày bằng vải đỏ mặc bên trong áo giáp khi thời tiết lạnh, vớ len, đôi ủng da màu vàng, ngoài cùng là đôi ghệt. Lấy áo giáp che ngực khỏi thùng đựng, tôi sung sướng mặc nó vào rồi quay lưng về phía Kelebek và, như thể ra lệnh cho một người hầu, bảo anh ta buộc dây của áo giáp thật chặt và sai anh ta gắn giáp che vai.

Khi tôi đeo mảnh giáp bảo vệ cánh tay, găng, bao gươm dệt bằng lông lạc đà và cuối cùng là cái mũ sắt bằng vàng mà tôi đội trong lễ hội, tôi tự hào tuyên bố rằng từ nay trở đi những cảnh đánh nhau sẽ không bao giờ được vẽ như người ta đã vẽ hồi xa xưa nữa. “Người ta không còn chấp nhận việc vẽ kỵ binh của hai đội quân đối nghịch giống hệt nhau bằng cách sử dụng cùng một hình mẫu rồi chỉ lật ngược qua để vẽ kỵ binh quân thù,” tôi nói. “Từ giờ trở đi, nhũng cảnh đánh nhau làm ra trong các xưởng của người Ottoman sẽ được vẽ theo cách tôi đã thấy chúng và đã vẽ chúng: một đám hỗn độn những lính tráng, ngựa, những chiến binh mặc giáp và những thân thể đầy máu!”

Lòng đầy ghen tỵ, Kelebek nói, “Nhà minh họa không vẽ những gì anh ta thấy, mà vẽ những gì Allah thấy.”

“ Phải,” tôi nói, “tuy nhiên, đấng Allah Vinh quang chắc chắn thấy mọi thứ như chúng ta thấy.”

“Dĩ nhiên, đấng Allah thấy những gì chúng ta thấy, nhưng Người không nhận thức nó theo cách chúng ta nhận thức,” Kelebek nói như thể mắng nhiếc tôi. “Cảnh chiến trận lộn xộn kia, mà chúng ta nhận thức trong nỗi hoang mang, Người thì hiểu bằng sự toàn năng của Người rằng ấy là hai đội quân đối nghịch đang dàn trận một cách có trật tự.”

Tự nhiên, tôi có phản ứng, tôi muốn nói, “Chúng ta được tùy nghi tin vào đấng Allah và chỉ vẽ những gì Người để lộ cho chúng ta, chứ không phải những gì Người che giấu,” nhưng tôi vẫn im lặng. Và tôi im tiếng không phải vì nếu tôi nói Kelebek sẽ lên án tôi là bắt chước người Âu hoặc vì anh ta không ngớt chích mũi dao găm vào mũ sắt và lưng tôi, làm như để kiểm tra áo giáp của tôi, mà vì tôi tính toán rằng nếu tôi biết kiềm chế và thuyết phục được Siyah cùng tên ngố có đôi mắt đẹp này thì có thể chúng tôi sẽ thoát ra khỏi âm mưu của Zeytin.

Khi biết rằng sẽ không tìm thấy những thứ họ đang tìm ở đây họ nói cho tôi biết họ tìm kiếm cái gì. Đó là một bức tranh mà kẻ giết người tàn nhẫn đó đã mang theo hắn... Tôi nói rằng nhà tôi đã bị lục soát vì chính lý do đó; kết quả là tên sát nhân thông minh đó hầu như chắc chắn đã giấu bức tranh ở nơi không ai có thể tìm ra (tôi đang nghĩ về Zeytin), nhưng họ có lưu ý những lời của tôi không? Siyah giải thích về con ngựa được vẽ với cái mũi bị rạch và rằng thời hạn ba ngày mà Đức vua đã ban cho Thầy Osman sắp hết. Khi tôi hỏi kỹ hơn về ý nghĩa của cái mũi bị rạch, Siyah vừa nói với tôi vừa nhìn thẳng vào mắt tôi rằng, Thầy Osman đã phân tích chúng là một manh mối và đã nối kết chúng với Zeytin, dù thầy nghi ngờ tôi còn nhiều hơn, vì thầy không lạ gì những tham vọng của tôi.

Thoạt tiên, có vẻ họ đến đây gần như với niềm tin rằng tôi là tên sát nhân và muốn tìm chứng cứ cho điều đó, nhưng theo quan điểm của tôi, đây không phải là lý do duy nhất cho cuộc viếng thăm của họ. Họ đến gõ cửa nhà tôi còn vì cô đơn và thất vọng. Khi tôi mở cửa, con dao mà Kelebek chĩa vào tôi run run trên tay anh ta. Không những họ đang khiếp sợ, nghĩ rằng tên sát nhân đê tiện, mà lai lịch của hắn chúng tôi đang cố tìm cho ra, có thể dồn họ vào cảnh tối tăm, sẽ mỉm cười như một người bạn cũ và nhanh chóng cắt cổ họng họ, họ còn mất ngủ vì sợ rằng Thầy Osman có thể bàn bạc cùng Đức vua và Trưởng Ngân khố để giao họ cho bọn tra tấn - ấy là chưa kể đám đông dân Erzurum đang lang thang trên đường phố, vốn cũng làm họ mất tinh thần. Tóm lại họ mong mỏi tình bạn của tôi. Nhưng Thầy Osman đã gieo vào lòng họ một ý niệm ngược lại. Bổn phận lúc này của tôi là thành thật giúp họ thấy rõ Thầy Osman đã sai lầm như thế nào, mà dù sao tận trong thâm tâm họ cũng hy vọng điều đó.

Việc tuyên bố một cách đơn giản rằng bậc thầy vĩ đại sai lầm và đã lú lẫn cầm chắc sẽ khơi dậy sự thù địch ở Kelebek. Vì trong đôi mắt ướt của chàng tiểu họa đẹp trai này, với hai hàng mi chớp chớp giống như bướm, loài côn trùng được dùng làm nghệ danh cho anh ta trong khi anh ta dùng dao găm gõ vào áo giáp của tôi, tôi vẫn có thể đọc thấy ngọn lửa tình yêu yếu ớt dành cho người thầy vĩ đại mà anh ta vốn là học trò cưng.

Hồi tôi còn trẻ, sự gần gũi giữa hai người này, thầy và thợ học việc đã bị những người khác chế giễu đầy ghen tỵ; nhưng bản thân họ không hề quan tâm, họ nhìn vào mắt nhau rất lâu, và vuốt ve nhau trước mặt mọi người; sau đó, Thầy Osman còn tuyên bố một cách sống sượng rằng Kelebek là cây bút lanh lợi nhất và cây cọ tô màu chín chắn nhất. Tuyên bố này - thường rất đúng - trở thành nguồn chơi chữ vô tận giữa các nhà tiểu họa đố kỵ quen dùng bút, cột lọ mực và hộp viết trong những khẩu ngữ ám chỉ thô tục, những so sánh quỷ quái và ẩn dụ tục tĩu. Vì lý do này, tôi không phải là người duy nhất có cảm giác rằng Thầy Osman muốn Kelebek kế tục ông làm trưởng xưởng. Từ lâu, qua cách bậc thầy vĩ đại nói chuyện với người khác về tính khí hung hăng, khó hòa hợp và bướng bỉnh của tôi, tôi đã hiểu đây là những gì ông giấu kín trong lòng, ông ta nghĩ, một cách chính đáng, rằng tôi có xu hướng ngả về các phương pháp châu Âu hơn nhiều so với Zeytin hoặc Kelebek, và không bao giờ có thể chống lại những khao khát mới của Đức vua bằng việc khẳng định rằng, “Những bậc thầy vĩ đại thời xưa không bao giờ vẽ theo cách này.”

Tôi biết mình có thể hợp tác thân thiết với Siyah bởi vì chú rể mới đầy hăm hở của chúng ta hẳn rất muốn hoàn tất cuốn sách của Enishte quá cố, không chỉ để chinh phục trái tim nàng Shekure xinh đẹp và cho nàng thấy rằng anh ta có thể kế nhiệm cha nàng, mà rất có thể còn để lấy lòng Đức vua bằng những biện pháp nhanh nhất mà anh ta có thể nghĩ ra.

Vì thế tôi nêu lên vấn đề này một cách hoàn toàn bất ngờ, bằng cách nói rằng cuốn sách của Enishte là một điều kỳ diệu không gì trên đời này sánh nổi. Khi kiệt tác này được hoàn tất, thuận theo sắc lệnh của Đức vua và ao ước của Enishte Kính mến quá cố cả thế giới sẽ thán phục sức mạnh và sự thịnh vượng của vua Ottoman cũng như tài năng, sự tao nhã và khả năng của chúng ta, những nhà tiểu họa bậc thầy của Ngài. Không những họ sẽ sợ chúng ta, sức mạnh và sự nghiêm khắc của chúng ta, mà họ còn phải bối rối, nhìn cách chúng ta cười và khóc, chúng ta học theo những bậc thầy Tây vực, chúng ta chăm chút những màu sắc tươi sáng nhất và những chi tiết nhỏ nhặt nhất ra sao; và sau cùng, họ sẽ kinh hoàng thừa nhận những điều mà chỉ những vị vua thông minh nhất mới có thể hiểu: rằng chúng ta vừa được đặt trong thế giới của những bức tranh vừa có mặt ở nơi xa rất xa cùng với những bậc thầy xưa.

Kelebek cứ gõ vào tôi liên tục, ban đầu như một đứa trẻ hăm hở xác định xem áo giáp của tôi có phải là đồ thiệt hay không; kế đến, như một người bạn muốn thử nghiệm đồ bền chắc của nó; cuối cùng thì như một kẻ thù đầy ghen tỵ và hết phương cải tạo chỉ muốn làm hại tôi. Sự thực, anh ta hiểu rằng tôi tài năng hơn anh ta; và còn tệ hại hơn, có lẽ anh ta đã nhận ra rằng Thầy Osman cũng biết điều này. Với tài năng Thượng đế ban cho, Kelebek là một thợ cả tuyệt vời, và lòng ghen tỵ của anh ta khiến tôi càng tự hào hơn: Không như anh ta, tôi trở thành bậc thầy nhờ sức mạnh trong “cây bút sậy” của chính mình, chứ không phải nhờ việc nắm giữ cây bút sậy của thầy tôi, và tôi cảm thấy mình có thể buộc anh ta thừa nhận sự vượt trội của tôi.

Cao giọng, tôi giải thích, thật đáng thương làm sao khi có những người muốn phá hoại cuốn sách kỳ diệu của Đức vua và Enishte quá cố. Thầy Osman giống một người cha đối với tất cả chúng tôi; ông là bề trên của mọi người; chúng tôi học được mọi thứ ở thầy! Tuy nhiên, sau khi lần theo những manh mối trong Quốc khố của Đức vua, vì một số lý do nào đó chưa rõ, Thầy Osman cố che đậy việc ông nhận ra Zeytin chính là tên sát nhân ti tiện. Tôi nói tôi tin chắc rằng Zeytin, người chúng tôi không tìm thấy ở nhà, đang trốn trong nhà nguyện khổ xu Kalenderi bỏ hoang gần Cổng Phanar. Nhà nguyện này bị đóng cửa dưới thời ông nội của Đức vua, không phải vì nó là hang ổ của bọn suy đồi và vô đạo đức mà do hậu quả của những cuộc chiến tranh vô tận với Ba Tư, và, tôi nói thênh thậm chí có lần Zeytin khoe khoang rằng anh ta đang giữ nhiệm vụ canh gác nhà nguyện bị cấm này. Nếu họ không tin tôi, nghi ngờ có âm mưu gì đó sau lời lẽ của tôi thì dao găm vẫn trong tay họ, họ có thể thoải mái trừng phạt tôi ngay lúc đó.

Kelebek thọc dao găm hai cú thật mạnh đến độ hầu như không chiếc áo giáp nào chịu nổi. Anh ta quay sang Siyah, người tin những điều tôi nói, hét vào anh ta như một đứa trẻ. Tôi lẻn ra phía sau, vòng cánh tay mặc áo giáp quanh cổ Kelebek và lôi anh ta sát vào tôi. Còn tay kia tôi bẻ ngoặt cánh tay anh ta ra sau làm con dao rơi xuống. Chúng tôi không vật lộn, cũng không giỡn với nhau. Tôi kể lại một cảnh tương tự ít được biết đến trong cuốn Shahnameh.

“Vào ngày thứ ba của cuộc chạm trán giữa quân đội Ba Tư và Turania trang bị đầy đủ áo giáp và vũ khí và dàn trận tại chân núi Hamaran, người Turania phái Shengil xảo trá vào chiến trường để tìm hiểu lai lịch của một người Ba Tư bí ẩn, kẻ mà trong hai ngày trước đó mỗi ngày đã giết một chiến binh Turania vĩ đại,” tôi bắt đầu nói. “Shengil thách thức người chiến binh bí ẩn đó, và anh ta nhận lời. Các đạo quân, áo giáp lấp lánh trong nắng chiều, hồi hộp theo dõi. Hai con ngựa vận giáp sắt của hai chiến binh lao vào nhau với tốc độ khiến cho những tia lửa xẹt ra từ cú va chạm của kim loại làm cháy xem da chúng đến bốc khói. Đây là một cuộc tỉ thí kéo dài. Người Turania bắn tên, người Ba Tư điều khiển gươm và ngựa rất tài tình; và cuối cùng người Ba Tư bí ẩn đánh ngã người Turania sau khi chộp đuôi con ngựa của anh ta. Sau đó anh ta đuổi theo Shengil đang cố đào thoát và chộp áo giáp anh ta từ phía sau trước khi nắm lấy cổ. Sau khi thừa nhận thất bại, người Turania, vẫn lò mò về lai lịch của người chiến binh bí ẩn, đã hỏi một cách vô vọng về điều mọi người bấy lâu nay thắc mắc, ‘Anh là ai?’. ‘Với anh’, người chiến binh bí ẩn đáp ‘Tên tôi là Thần chết.’ Vậy hãy nói cho tôi biết, các bạn của tôi: ông ta là ai?”

“Rustem huyền thoại,” Kelebek nói với vẻ vui sướng trẻ con.

Tôi hôn lên cổ anh ta. “Tất cả chúng ta đều đã phản bội Thầy Osman,” tôi nói. “Trước khi ông ta đưa ra đòn trừng phạt, chúng ta phải tìm ra Zeytin, loại bỏ thứ nọc độc đó đang nằm giữa chúng ta và đi đến một thỏa thuận để chúng ta có thể đứng vững vàng chống lại những kẻ thù muôn thuở của nghệ thuật và những người mong muốn đưa chúng ta thẳng đến những hầm ngục tra tấn. Có lẽ khi đến nhà nguyện khổ tu hoang phế của Zeytin, chúng ta sẽ biết rằng tên sát nhân tàn bạo này thậm chí không phải là một người trong số chúng ta.”

Kelebek tội nghiệp không thốt ra một lời nào. Cho dù anh ta tài ba, tự tin và được ủng hộ tốt đến thế nào, nhưng giống như mọi nhà tiểu họa thích kết bầu kết bạn với nhau bất chấp sự ghen tỵ và ghê tởm lẫn nhau, anh ta sợ phát khiếp việc bị bỏ lại một mình trên cõi đời này và phải xuống Địa ngục.

Trên đường đến Cổng Phanar có một ánh sáng vàng xanh thần bí trên đầu chúng tôi, nhưng đó không phải là ánh trăng. Trong ánh sáng này, vẻ ngoài về đêm trung thực, cũ xưa của Istanbul bao gồm những cây bách, những mái vòm xám xịt, những bức tường đá, những ngôi nhà gỗ và những vùng đất bị hỏa hoạn tàn phá bất ngờ trở nên xa lạ, như thể do một pháo đài của kẻ thù gây ra. Khi leo lên ngọn đồi, từ xa chúng tôi thấy lửa cháy đâu đó ở phía sau Thánh đường Bayazid.

Trong bóng tối dày đặc, chúng tôi gặp một chiếc xe bò chở lưng lửng những bao bột đi về phía tường thành. Trả hai đồng bạc, chúng tôi được cho quá giang. Siyah mang theo những bức tranh, anh ta ngồi xuống một cách cẩn thận. Khi tôi nằm nhìn những đám khói thấp bay lên từ đám cháy, hai giọt mưa rơi trên mũ sắt của tôi.

Sau một chuyến hành trình dài, trong khi tìm kiếm ngôi nhà nguyện khổ tu hoang phế, chúng tôi đã đánh thức mọi con chó trong khu xóm mà vào lúc nửa đêm thế này trông như bị bỏ hoang. Dù chúng tôi thấy đèn đuốc vẫn đang được thắp trong mấy ngôi nhà xây bằng đá như đáp lại tiếng ồn ào của chúng tôi, nhưng gõ cửa đến ngôi nhà thứ tư thì mới có người mở cửa cho chúng tôi, và một người đàn ông đội mũ trùm đầu há hốc nhìn chúng tôi qua ánh đèn như thể chúng tôi là những người chết đội mồ, chỉ đường cho chúng tôi đến ngôi nhà khổ tu hoang phế mà thậm chí không thèm thò mũi ra ngoài trời mưa đang rơi nhanh, và vui vẻ nói thêm rằng khi đến đó chúng tôi cũng không yên ổn được với những âm hồn ma quỷ đâu.

Trong khu vườn của ngôi nhà hoang phế này chúng tôi được chào đón bằng sự yên tĩnh của những cây bách uy nghiêm dửng dưng trước cơn mưa và mùi hôi thôi của lá cây mục rữa. Tôi dán mắt vào một khe hở giữa những tấm ván đóng vách của ngôi nhà hoang, và nhìn qua lớp rèm của một cửa sổ nhỏ, ở đó, dưới ánh đèn dầu, tôi thấy bóng một người đang cầu nguyện hoặc có lẽ đang giả vờ cầu nguyện, vì biết chúng tôi đến.

CHƯƠNG 57
TÔI ĐUỢC GỌI LÀ “ZEYTIN”

Tôi có nên bỏ dở bài kinh nguyện mà đứng dậy mở cửa cho họ, hay cứ để họ chờ ngoài mưa cho đến khi tôi cầu kinh xong? Khi nhận ra họ đang nhìn tôi, tôi đọc nốt bài kinh trong tâm trạng hơi bối rối. Tôi mở cửa, và họ ở đó - Kelebek, Leylek và Siyah. Tôi kêu lên một tiếng mừng rỡ rồi ôm lấy Kelebek.

“Ôi, hồi gần đây sao mà chúng ta khổ sở thế!” Tôi than thở, vùi đầu vào vai anh ta. “Họ muốn cái gì ở chúng ta? Tại sao họ lại giết chúng ta?”

Mỗi người trong bọn đều biểu lộ nỗi kinh hoàng của việc bị tách ra khỏi nhóm, mà tôi thỉnh thoảng vẫn gặp ở mỗi họa sĩ bậc thầy trong cuộc đời tôi. Ngay cả ở đây, trong ngôi nhà này, họ cũng không muốn tách khỏi nhau.

“Chúng ta có thể ẩn trốn an toàn ở đây trong vài ngày.”

“Chúng tôi e rằng kẻ chúng ta cần phải sợ có lẽ nằm trong số chúng ta,” Siyah nói.

“Tôi cũng lo lắm”, tôi nói. “Vì tôi có nghe mấy lời đồn đại như thế.”

Có những tin đồn lan truyền từ các sĩ quan Ngự lâm quân đến ban tiểu họa nói rằng bí ẩn quanh vụ sát hại Zarif Kính mến và Enishte quá cố đã được làm sáng tỏ: Hắn ta là một người trong chúng tôi, những người đã tham gia làm cuốn sách đó.

Siyah hỏi tôi đã vẽ bao nhiêu bức tranh cho cuốn sách của Enishte.

“Bức đầu tiên tôi vẽ là Satan. Nó là một dạng biến thể của loài quỷ dưới lòng đất thường gặp trong tác phẩm của những bậc thầy xưa trong các xưởng của xứ Akgoýunly. Người kể chuyện và tôi cùng theo phái Sufi; đó là lý do tại sao tôi vẽ hai người khổ tu. Tôi chính là người đã đề nghị Enishte đưa họ vào cuốn sách của ông, thuyết phục ông rằng có một chỗ đặc biệt cho những nhà khổ tu này trên lãnh thổ Ottoman.”

“Có vậy thôi à?” Siyah hỏi.

Khi tôi đáp, “Phải, chỉ có vậy,” anh ta bước tới cửa với vẻ bề trên của một ông thầy bắt gặp một thợ học việc ăn cắp; anh ta mang vào một cuộn giấy không bị ướt nước mưa, đặt trước mặt ba họa sĩ chúng tôi như một con mèo mẹ tha con chim bị thương đến cho các con của nó.

Tôi đã nhận ra các trang giấy đó ngay khi chúng còn được kẹp dưới nách anh ta: Chúng là những bức minh họa tôi đã cứu được ở quán cà phê trong cuộc đột kích. Tôi không mất công hỏi làm thế nào những người này vào được nhà tôi và tìm được chúng. Tuy nhiên Kelebek, Leylek và tôi, mỗi người đều lặng lẽ thú nhận những bức tranh chúng tôi đã vẽ cho người kể chuyện, cầu cho ông ta được yên nghỉ. Về sau, duy nhất con ngựa, một con ngựa cực đẹp đầu cúi thấp vẫn chưa được khẳng định là thuộc về ai. Tin tôi đi, tôi thậm chí không nhận ra rằng một con ngựa đã được vẽ ra.

Anh không phải là người vẽ con ngựa này hả?” Siyah hỏi, như một ông thầy cầm cây roi.

“Không phải tôi,” tôi đáp.

“Còn con ngựa trong cuốn sách của Enishte?”

“Tôi cũng không vẽ con ngựa đó.”

“Tuy nhiên, dựa trên phong cách của con ngựa, người ta khẳng định rằng anh đã vẽ nó,” anh ta nói. “Hơn nữa, chính Sư phụ Osman đã đưa ra kết luận này.”

“Nhưng tôi không có phong cách gì cả,” tôi nói. “Tôi không nói điều này vì lòng tự hào nhằm phản công lại những thị hiếu gần đây. Mà tôi cũng không nói thế để chứng minh tôi vô tội. Đối với tôi, việc có phong cách còn tệ hại hơn việc sát nhân.”

“Anh có một phẩm chất rõ rệt phân biệt anh với những bậc thầy xưa và những họa sĩ khác,” Siyah nói.

Tôi mỉm cười với anh ta. Anh ta bắt đầu kể lại những việc mà tôi tin chắc tất cả các vị bây giờ đã biết. Tôi chăm chú lắng nghe chuyện Đức vua, trong cuộc hội đàm với Trưởng ngân khố để tìm một giải pháp cho những vụ giết người, lắng nghe chuyện ba ngày của Thầy Osman, lắng nghe ‘phương pháp gái điếm’, lắng nghe đặc điểm trên mũi những con ngựa và lắng nghe chuyện Siyah được cho vào Cấm cung như nhờ một phép màu để xem xét những cuốn sách tuyệt trần đó. Có những phút giây trong cuộc đời tất cả chúng ta khi, thậm chí ngay giữa lúc ta đang trải nghiệm những sự kiện nào đó, ta đã nhận ra rằng mình đang trải qua những sự kiện mà dù rất lâu về sau ta vẫn không bao giờ quên được. Mua rơi rầu rĩ. Như thể bực bội vì mưa, Kelebek giữ chặt con dao một cách phiền muộn, Leylek, sau lưng áo giáp phủ đầy bột trắng, mạnh dạn tiến vào giữa ngôi nhà nguyện khổ tu, đèn trong tay. Những họa sĩ bậc thầy này, bóng in trên tường như những con ma, là những anh em của tôi, và tôi yêu họ biết bao! Tôi vui vì được là một nhà tiểu họa.

“Anh hiểu được vận may của mình khi được nhìn vào những tác phẩm vĩ đại của các bậc thầy xưa trong nhiều ngày với Thầy Osman bên cạnh không?” Tôi hỏi Siyah. “Ông ta có hôn anh không? Ông ta có vuốt ve khuôn mặt đẹp trai của anh không? Anh có kính sợ tài năng và kiến thức của ông ta không?”

“Ở đó, giữa những tác phẩm vĩ đại của các bậc thầy xưa, Sư phụ đã chỉ cho tôi về phong cách của anh,” Siyah nói. “Sư phụ đã dạy tôi rằng khuyết điểm giấu kín của ‘phong cách’, không phải là cái do người họa sĩ tự ý chọn, mà nó được quyết định bởi quá khứ của người nghệ sĩ và những ký ức đã quên của anh ta. Ông ấy cũng chỉ cho tôi những khuyết điểm, yếu kém và lỗi lầm ẩn giấu này, có lúc một chuyện xấu hổ như thế được giấu kín để chúng ta không bị xa lìa những bậc thầy xưa, rồi sau đó sẽ xuất hiện để được ca ngợi như ‘những đặc điểm cá nhân’ hay phong cách,’ bởi vì các bậc thầy châu Âu đã truyền bá chúng khắp thế giới. Từ nay trở đi, nhờ những tên ngốc vốn tự hào về những lỗi lầm của chính chúng, thế giới này sẽ là một nơi nhiều màu sắc hơn, ngu ngốc hơn và, dĩ nhiên, thiếu hoàn hảo hơn rất nhiều.”

Việc Siyah tin chắc chắn vào những gì anh ta nói đã chứng minh rằng anh ta là một trong những tên ngốc thế hệ mới.

“Thầy Osman có thể giải thích lý do tại sao, trong nhiều năm, tôi vẽ hàng trăm con ngựa với lỗ mũi bình thường trong những cuốn sách của Đức vua không?” tôi hỏi.

“Đó là do tình yêu và những trận đòn mà Sư phụ dành cho anh hồi anh còn nhỏ. Bởi vì Sư phụ vừa là cha vừa là người thân yêu đối với tất cả các anh, nên Sư phụ không thấy rằng ông đã gắn bó tất cả các anh với chính ông và từng người các anh với nhau. Sư phụ không muốn mỗi người trong các anh có một phong cách riêng, Sư phụ muốn cả họa xưởng trong cung điện có chung một phong cách. Bởi vì cái bóng đầy kính sợ mà sư phụ đã trùm lên tất cả các anh, các anh đã quên những gì đến từ bên trong, những điều không hoàn hảo, những yếu tố và những khác biệt vốn nằm bên ngoài giới hạn của hình thức chuẩn mực. Chỉ khi các anh vẽ cho những cuốn sách khác, những trang khác, mà Sư phụ Osman không bao giờ thấy được, thì các anh mới vẽ con ngựa vốn đã nằm trong tâm trí các anh bao nhiêu năm nay.”

“Mẹ tôi, cầu cho bà yên nghỉ, thông minh hơn cha tôi nhiều,” tôi nói. “Một đêm nọ, tôi ở nhà, khóc lóc, nhất quyết không bao giờ quay lại xưởng vẽ bởi vì tôi không những khiếp sợ những trận đòn của Thầy Osman, mà còn sợ cả những trận đòn của những ông thầy cáu kỉnh và khắc nghiệt khác và những trận đòn của các trưởng nhóm vốn luôn luôn hăm dọa chúng tôi bằng cây thước. Trong lúc an ủi, người mẹ quá cố thân yêu của tôi đã khuyên tôi rằng có hai hạng người trên trái đất: những kẻ hoảng sợ và bị khuất phục bởi những trận đòn thời thơ ấu, mãi mãi bị áp bức, bà nói, bởi vì những trận đòn đã đạt hiệu quả là tiêu diệt những ma quỷ nội tâm; và thứ nhì là những kẻ may mắn mà với họ những trận đòn đã làm kinh hãi và chế ngự được ma quỷ bên trong họ nhưng không tiêu diệt họ. Dù nhóm sau không bao giờ quên những ký ức đau đớn thời thơ ấu này - bà cảnh báo tôi đừng nói điều này với bất cứ ai - nhưng đến lúc nào đó những trận đòn sẽ giúp họ phát triển tính khôn ngoan, thấu hiểu điều chưa biết, có được bạn bè, nhận dạng được kẻ thù, nhận ra những âm mưu ngấm ngầm sau lưng họ và, để tôi nói thêm liền đây, vẽ giỏi hơn bất cứ ai khác. Bởi vì tôi không thể vẽ những cành cây một cách hài hòa, Thầy Osman sẽ vả tôi mạnh đến nỗi, giữa những giọt nước mắt cay đắng, những khu rừng sẽ mọc ra um tùm trước mặt tôi. Sau khi giận dữ quất vào đầu tôi, bởi vì tôi không thể thấy những lỗi ở cuối trang, ông ân cần lấy một tấm gương đặt trước trang giấy để tôi có thể thấy tác phẩm đó như mới thấy lần đầu. Sau đó, áp má ông sát má tôi, ông âu yếm chỉ ra những sai lầm hiện ra trong gương như có phép màu đến độ tôi không bao giờ quên được tình yêu thương lẫn nghi thức đó. Buổi sáng sau một đêm tôi khóc mướt trên giường, do lòng tự ái bị xúc phạm vì ông đã trừng phạt tôi bằng cây thước trước mặt mọi người, ông đến hôn cánh tay tôi quá âu yếm đến nỗi tôi biết rất rõ rằng một ngày kia tôi sẽ trở thành một nhà tiểu họa huyền thoại. Không, không phải tôi vẽ con ngựa đó.”

“Chúng tôi,” Siyah ám chỉ Leylek và chính anh ta, “sẽ lục soát nhà nguyện này để tìm bức tranh cuối cùng mà tên đê tiện sát hại Enishte của tôi đã đánh cắp. Anh đã từng thấy bức tranh cuối cùng đó chưa?”

“Không có gì, đó là điều chấp nhận được đối với Đức vua, những nhà minh họa giống chúng ta bị buộc chặt vào những bậc thầy xưa hoặc những tín đồ Hồi giáo bị buộc chặt vào đức tin của họ,” tôi nói và im lặng.

Tuyên bố của tôi càng khiến anh ta hăm hở hơn. Anh ta và Leylek bắt đầu lục soát toàn bộ ngôi nhà, xới tung mọi thứ. Có lúc, chỉ để làm cho công việc của họ dễ dàng hơn, tôi đi theo họ.

Trong một phòng có trần bị dột, tôi chỉ cái hố dưới sàn để họ không bị ngã và để họ có thể lục soát nó nếu họ muốn. Tôi trao cho họ một chìa khóa lớn của căn phòng nhỏ trong đó vị giáo trưởng đã sống cách nay ba mươi năm, trước khi những người ủng hộ tu viện này gia nhập phái Bektashis và phân tán đi. Họ hăm hở bước vào, nhưng khi thấy toàn bộ bức tường đã sập mất và mưa tạt vào phòng, họ chẳng buồn lục soát nó.

Tôi thấy mừng rằng Kelebek không đi cùng họ, nhưng nếu tìm thấy chứng cứ liên quan đến tôi thì anh ta cũng sẽ đứng vào hàng ngũ của họ. Leylek có cùng ý nghĩ như Siyah, vốn sợ rằng Thầy Osman sẽ giao chúng tôi cho những kẻ tra tấn, và nhất quyết rằng chúng tôi phải hỗ trợ nhau, phải hợp lực lại để đối đầu với Trưởng Ngân khố. Tôi có cảm giác rằng Siyah không chỉ bị thúc đẩy bởi ước muốn tặng cho Shekure món quà cưới đích thực bằng việc tìm ra kẻ giết Enishte của anh ta, mà anh ta còn có ý định đưa những nhà tiểu họa Ottoman đi theo con đường của các bậc thầy châu Âu bằng cách dùng tiền của Đúc vua trả lương cho họ để họ hoàn tất cuốn sách của Enishte phỏng theo người Tây vực (điều này không chỉ phạm thượng mà còn lố bịch nữa). Tôi cũng hiểu, với một mức độ chắc chắn nào đó, rằng gốc rễ của âm mưu này là mong ước của Leylek muốn loại bỏ chúng tôi và thậm chí cả Thầy Osman nữa, vì anh ta mơ ước trở thành Trưởng ban Minh họa và (vì mọi người đoán rằng Thầy Osman thích Kelebek hơn) anh ta sẵn sàng dùng mọi cách để gia tăng cơ hội của mình. Nhất thời tôi cảm thấy bối rối. Lắng nghe mưa rơi, tôi cân nhắc hồi lâu. Kế đến, giống như một người trốn khỏi đám đông và cố gắng dâng thỉnh nguyện lên Đức vua và quan Tể tướng khi họ cưỡi ngựa ngang qua, tôi bất ngờ có ý muốn làm cho Leylek và Siyah yêu mến tôi. Dẫn họ qua một hành lang tối và một cửa lớn, tôi đưa họ tới một căn phòng dễ sợ vốn là nhà bếp. Tôi hỏi liệu họ có tìm được thứ gì giữa đống đổ nát này không. Dĩ nhiên họ không tìm thấy. Không hề có dấu vết gì của ấm đun nuớc, nồi, chảo và những ống bễ từng được dùng để nấu ăn cho kẻ lang thang nghèo khổ. Thậm chí tôi chưa từng cố gắng dọn dẹp căn phòng ghê tởm phủ đầy mạng nhện, bụi, bùn, những mảnh vỡ cùng cứt chó và mèo này. Như thường lệ, một cơn gió mạnh, nổi lên như thể từ hư vô, làm mờ ngọn đèn - khiến bóng của chúng tôi khi tỏ khi mờ.

“Các anh đã lục đi soát lại mà không tìm được kho báu cất giấu của tôi,” tôi nói.

Theo thói quen, tôi dùng mu bàn tay như một cây chổi quét lớp tro tại chỗ từng là lò sưởi và, khi một miệng lò cũ hiện ra, tôi giở nắp sắt của nó lên gây ra tiếng cọt kẹt. Tôi giơ đèn đến bên miệng lò. Tôi sẽ không bao giờ quên cái kiểu Leylek nhảy xổ tới háo hức chộp lấy mấy cái túi da bên trong trước khi Siyah kịp ra tay. Anh ta sắp mở mấy cái túi đó ngay bên miệng lò, nhưng vì tôi đã quay trở ra phòng khách lớn, theo sau là Siyah vì anh ta sợ phải ở lại đó, nên Leylek phóng cặp chân dài theo sau chúng tôi.

Khi họ thấy một chiếc túi đựng đôi vớ len sạch, chiếc quần dải rút, áo lót màu đỏ của tôi, những chiếc áo lót đẹp nhất, áo sơ mi lụa, dao cạo, lược và những vật dụng hàng ngày khác của tôi, họ thoáng bối rối. Còn cái túi kia mà Siyah mở ra thì có năm mươi ba đồng tiền vàng Venice, những miếng vàng lá tôi đánh cắp ở xưởng trong mấy năm gần đây, cuốn sổ ghi chép những mẫu vẽ mà tôi giấu không cho ai biết, thêm mấy miếng vàng lá đánh cắp nữa giấu trong sổ, những bức tranh bậy bạ - một số tự tay tôi vẽ và một số tôi sưu tầm, một chiếc vòng mã não kỷ niệm của mẹ tôi cùng một lọn tóc bạc của bà, và những cây bút cùng cọ tốt nhất của tôi.

“Nếu thực sự tôi là tên sát nhân nhu các anh nghi ngờ,” tôi nói với vẻ tự hào ngu ngốc, thì bức tranh cuối cùng hẳn phải nằm trong kho tàng bí mật đó của tôi, chứ không phải những thứ này.”

“Tại sao những thứ này ở đây?” Leylek hỏi.

“Khi Ngự lâm quân lục soát nhà tôi, như họ đã lục soát nhà các anh, họ đã trắng trợn tịch thu hai trong số những đồng vàng mà tôi đã dành cả đời để sưu tầm. Tôi nghĩ chúng ta có thể bị lục soát lần nữa vì tên giết người đê tiện này - và tôi đã đúng. Nếu tôi có giữ bức tranh cuối cùng đó thì nó phải ở đây.”

Đúng là sai lầm khi thốt ra câu cuối cùng này; tuy nhiên, tôi có cảm giác rằng họ cảm thấy nhẹ nhõm và không còn sợ rằng tôi sẽ bóp cổ họ trong góc tối căn nhà nữa. Tôi cũng giành được sự tin cậy của các vị chứ?

Tuy nhiên, vào lúc này lòng tôi tràn ngập một cảm giác bất ổn nghiêm trọng; không, đó không phải là chuyện những đồng nghiệp minh họa của tôi, những người tôi biết rõ từ hồi nhỏ, đã biết việc tôi tham lam dành dụm tiền bạc trong nhiều năm, tôi mua và để dành vàng, hay thậm chí chuyện họ biết về những sổ ghi chép và những bức tranh tục tĩu của tôi. Thực ra thì, tôi hối tiếc vì đã cho họ xem tất cả những thứ này trong phút giây hoảng sợ. Chỉ những điều bí ẩn của một người sống hoàn toàn vô mục đích mới có thể bị phơi bày một cách dễ dàng như thế.

“Tuy nhiên,” một hồi lâu sau Siyah nói, “chúng ta phải thống nhất xem mình sẽ nói những gì khi bị tra tấn nếu Sư phụ Osman bất ngờ giao nộp chúng ta mà không cảnh báo trước.”

Một nỗi se thắt và buồn phiền ập xuống chúng tôi. Trong ánh đèn mờ nhạt, Leylek và Kelebek đang nhìn chăm chú những bức tranh thô tục trong sổ ghi chép của tôi. Họ biểu lộ vẻ hoàn toàn thờ ơ, thực tế, thậm chí họ hạnh phúc theo một kiểu đáng sợ nào đó. Tôi cảm thấy một thôi thúc mạnh mẽ phải nhìn lại bức tranh - tôi có thể đoán ra đó là bức nào; tôi đứng dậy đi vòng ra sau lưng họ, nhìn vào bức tranh tục tĩu mình đã vẽ, rùng mình cứ như tôi đang nhớ lại được một ký ức hạnh phúc những giờ đã xa xôi. Siyah đến bên chúng tôi. Vì lý do nào đó, việc cả bốn chúng tôi cùng nhìn bức minh họa đó làm nhẹ lòng tôi.

“Có thể nào người mù và người sáng là như nhau không?” Cuối cùng Leylek nói. Có phải anh ta ngụ ý rằng cho dù hình ảnh chúng tôi thấy là tục tĩu, nhưng lạc thú của sự nhìn thấy mà Allah ban cho chúng tôi vẫn là vinh quang không? Không, Leylek mà biết gì về những vấn đề như thế? Anh ta chưa từng đọc kinh Koran. Tôi biết rằng những bậc thầy Herat xưa thường xuyên đọc to câu thơ này. Những bậc thầy vĩ đại đã dùng câu thơ này làm câu trả lời cho những kẻ thù của hội họa, những kẻ đã cảnh báo rằng đạo giáo của chúng ta cấm chỉ việc vẽ tranh và các họa sĩ sẽ bị đày xuống Hỏa ngục vào Ngày phán xét. Tuy nhiên, cho đến phút giây ma quái ấy, tôi chưa từng một lần được nghe từ Kelebek những lời này mà hiện có vẻ tự ý chúng thoát ra khỏi miệng anh ta.

“Tôi muốn miêu tả người mù và người sáng không giống nhau như thế nào!”

“Ai là người mù và ai là người sáng?” Siyah hỏi ngây thơ.

“Người mù và người sáng không như nhau, đó là nghĩa của câu ‘ve ma yestevil’ama ve’l basiru’nun’ ”. Kelebek nói và tiếp tục:

“…mà cũng không là bóng tối và ánh sáng.

Cái bóng và sức nóng không như nhau,

Cả người chết và người sống cũng không như nhau.”

Tôi rùng mình trong chốc lát, nghĩ về số phận của Zarif Kính mến, Enishte và người kể chuyện anh em vừa bị giết tối nay. Liệu mấy đứa kia có sợ như tôi không? Chẳng ai động đậy một hồi lâu.

Leylek vẫn để mở cuốn sách của tôi, nhưng có vẻ không thấy hình ảnh thô bỉ tôi vẽ dù rằng tất cả chúng tôi đều nhìn vào nó!

“Tôi muốn vẽ Ngày phán xét”, Leylek nói. “Cuộc phục sinh của người chết, và sự chia tách kẻ có tội ra khỏi kẻ vô tội. Tại sao chúng ta không thể vẽ Lời thiêng của đạo giáo chúng ta?”

Hồi chúng tôi còn trẻ, làm việc với nhau trong cùng một căn phòng của xưởng vẽ, chúng tôi thỉnh thoảng cũng ngước mặt khỏi bàn làm việc, như những bậc thầy già thường làm để cho mắt nghỉ ngơi, và bắt đầu nói về bất cứ đề tài nào nảy ra trong đầu. Hồi đó, giống như bây giờ chúng tôi đang làm khi nhìn vào cuốn sách mở ra trước mặt, chúng tôi không nhìn nhau khi tán gẫu. Vì mắt của chúng tôi thường hướng đến một điểm xa xôi nào đó bên ngoài cửa sổ mở. Tôi không chắc có phải là do sự kích động khi nhớ lại một điều gì đó đẹp đẽ khó quên từ thời học việc thanh bình của tôi, do sự hối tiếc thật lòng mà tôi cảm thấy vào giây phút đó bởi vì đã bao lâu nay tôi không đọc kinh Koran, hay do nỗi sợ hãi trước tội ác mà tôi chứng kiến tại quán cà phê tối đó, nhưng khi đến lượt tôi nói, tôi bất chợt bối rối, tim tôi đập liên hồi như thể tôi đang gặp mối đe dọa hiểm nguy nào đó, và vì không nghĩ ra điều gì khác, tôi chỉ nói như sau:

“Các anh có nhớ những bài thơ ở cuối chương Al-Baqara([16]) không? Tôi muốn vẽ chúng nhất: Ôi Thượng đế, xin đừng phán xét chúng con qua những gì chúng con quên và qua lỗi lầm của chúng con. Ôi Thượng đế, xin đừng đặt lên vai chúng con gánh nặng mà chúng con không mang nổi như đã làm với những người đi trước chúng con. Hãy tha thứ và xóa tội cho chúng con về những vi phạm và tội lỗi của chúng con! Hãy cư xử với chúng con với lòng nhân từ, ôi Thượng đế kính yêu.” Giọng tôi vỡ vụn và tôi bối rối vì những giọt nước mắt bất ngờ của mình - có lẽ bởi vì tôi thận trọng với lời mỉa mai mà chúng tôi luôn dành sẵn hồi còn học việc để tự bảo vệ và tránh phơi bày cảm xúc.”

Tôi nghĩ những giọt nước mắt của tôi sẽ nhanh chóng cạn đi, nhưng không kìm mình được, tôi bắt đầu khóc như mưa gió. Trong khi khóc, tôi có cảm giác rằng từng người trong số họ đều chìm trong những cảm xúc về tình anh em, sự hủy diệt và nỗi buồn. Từ giờ trở đi, phong cách châu Âu sẽ chiếm ưu thế trong xưởng của Đức vua; những pho sách và phong cách mà chúng tôi đã dành cho cả cuộc đời sẽ dần dần bị quên lãng - phải, quả thực, toàn bộ dự án liều lĩnh này sẽ đến hồi kết thúc. Và nếu người Erzurum không bóp cổ và kết liễu chúng tôi thì những kẻ tra tấn của Đức vua sẽ làm chúng tôi tàn tật... Nhưng trong khi tôi khóc, nức nở và thở vắn than dài - cho dù tôi vẫn lắng nghe tiếng mưa rơi lộp độp buồn não nuột - một phần tâm trí tôi ý thức rõ rằng những thứ này không phải là thứ tôi đang khóc than. Mấy đứa kia ý thức điều này tới mức độ nào? Tôi cảm thấy hơi có lỗi về những giọt nước mắt của mình, chúng vừa thực lòng, vừa giả dối.

Kelebek đến bên tôi, đặt cánh tay lên vai tôi, vuốt tóc tôi, hôn má tôi và nói những lời ngọt ngào an ủi tôi. Sự thể hiện tình bạn này càng khiến tôi khóc với vẻ thật tình và hối lỗi hơn. Tôi không thấy được khuôn mặt anh ta, nhưng, vì lý do nào đó, tôi đã nghĩ một cách sai lầm rằng anh ta cũng đang khóc. Chúng tôi ngồi xuống. Chúng tôi nhắc lại chuyện cả bọn bắt đầu thời kỳ học việc cùng một năm, nỗi buồn kỳ lạ của việc bị tách khỏi mẹ và bất ngờ bắt đầu một cuộc sống mới, cơn đau của những trận đòn chúng tôi hứng chịu trong những ngày đầu, niềm vui từ những món quà đầu tiên của Trưởng Ngân khố, và những ngày chúng tôi được về nhà, chạy suốt con đường. Thoạt đầu chỉ có anh ta nói trong khi tôi lắng nghe một cách rầu rĩ, nhưng về sau, khi Leylek, và đôi khi sau đó nữa, Siyah - người đến xưởng một thời gian rồi bỏ đi, trong những năm đầu học việc của bọn tôi - tham gia cuộc chuyện trò ảm đạm của chúng tôi, tôi quên rằng mình vừa mới khóc, và bắt đầu nói cười thoải mái với họ.

Chúng tôi hồi tưởng lại những sáng mùa đông chúng tôi dậy sớm, nhóm bếp lò trong căn phòng lớn nhất của xưởng và lau sàn nhà bằng nước nóng. Chúng tôi nhớ lại một “thợ cả” già, cầu cho ông được yên nghỉ, một người tẻ ngắt và cẩn thận đến độ ông ta có thể suốt một ngày chỉ vẽ độc một chiếc lá của một cái cây và khi thấy chúng tôi nhìn những chiếc lá xanh tươi mơn mởn của cây cối mùa xuân qua khung cửa sổ mở thay vì nhìn vào chiếc lá ông ta vẽ, ông không đánh đòn chúng tôi, mà thường quát tháo chúng tôi đến cả trăm lần. “Không phải ngoài đó, trong này này!” Chúng tôi nhắc lại tiếng kêu khóc mà cả xưởng đều nghe thấy của cậu thợ học việc gầy nhẳng đang đi ra cửa, túi xách trong tay, bị đuổi về nhà bởi vì cường độ công việc khiến một con mắt cậu ta bị lác. Kế đến, chúng tôi tưởng tượng cách chúng tôi nhìn (với niềm vui sướng bởi đó không phải là lỗi lầm của chúng tôi) mực đỏ tươi từ một lọ mực bằng đồng bị nứt rỉ ra dần dần lên trang giấy mà ba nhà minh họa đã phải làm suốt ba tháng ròng (nó vẽ quân Ottoman hai bên bờ sông Kinik trên đường tiến về Shirvan, thoát được mối nguy chết đói bằng việc chiếm Eresh và lấp đầy bao tử họ). Trong một thái độ tôn trọng và tao nhã, chúng tôi nói về chuyện cả ba chúng tôi cùng yêu và cùng nhau làm tình với một quý cô Circasia, người đẹp nhất trong các bà vợ của một quan chức bảy mươi tuổi, ông ta muốn trần nhà mình được trang trí phỏng theo nhũng mẫu vẽ trong hành cung săn bắn của Đức vua sao cho xứng với những cuộc chinh phục, sức mạnh và tài sản của ông ta. Sau đó, chúng tôi háo hức nhắc lại những sáng mùa đông chúng tôi ăn món xúp đậu lăng ngay ngưỡng cửa mở toang để hơi nóng của nó không làm mềm giấy. Chúng tôi cũng than thở việc bị tách khỏi bạn bè và thầy dạy trong xưởng khi các thầy buộc chúng tôi đi đến những nơi xa xôi để làm thuê sau khi đã biết nghề. Có lúc, vẻ hòa nhã của Kelebek thân mến khi anh mới mười sáu tuổi bỗng hiện ra trước mắt tôi: Anh ấy đánh bóng giấy đến độ láng mướt bằng cách dùng miếng vỏ sò láng chà thật nhanh trong khi ánh nắng một ngày hè xuyên qua khung cửa sổ mở chiếu vào cánh tay trần màu mật ong của anh. Trong một chốc anh ngừng công việc đang làm một cách chăm chú và cẩn thận để cúi xuống trang giấy xem xét một chỗ bị hỏng. Sau khi dùng vỏ sò chà vài nhát trên chỗ bị hư bằng những động tác khác, anh ta trở lại động tác cũ, đưa tay tới lui trong khi nhìn ra xa xa bên ngoài cửa sổ, chìm trong mơ mộng. Tôi không bao giờ quên rằng trước khi nhìn ra ngoài lần nữa, anh nhìn thoáng vào mắt tôi - như sau này tôi làm với những người khác. Cái nhìn bi thương này chỉ có một ý nghĩa, mà mọi thợ học việc đều biết rõ: Thời gian không trôi nếu các vị không mơ mộng.

CHƯƠNG 58
TÔI SẼ BỊ GỌI LÀ TÊN SÁT NHÂN

Các vị đã quên tôi rồi, đúng không? Tại sao tôi phải che giấu sự hiện diện của tôi với các vị thêm nữa? Bởi vì nói chuyện bằng giọng này, cái giọng càng lúc càng trở nên mạnh mẽ hơn, đối với tôi đã trở nên quá thú vị. Nhiều lúc, phải cố lắm tôi mới kìm được mình, và tôi sợ rằng sự căng thẳng trong giọng nói của tôi sẽ tố giác tôi là ai. Nhiều lần, tôi tự cho phép mình thoải mái, và đó là khi những lời này, những dấu hiệu của tính cách thứ hai của tôi - mà các vị có thể nhận ra - thốt khỏi miệng tôi; hai tay tôi bắt đầu run, mồ hôi lấm tấm trên trán và tôi lập tức nhận ra rằng những lời thì thào nho nhỏ của thân thể tôi đây, đến lượt chúng sẽ cung cấp những manh mối mới.

Nhưng tôi rất toại nguyện ở đây! Khi chúng tôi an ủi nhau bằng hai mươi lăm năm ký ức chúng tôi được gợi nhớ lại không phải về những oán thù, mà về những cái đẹp và niềm vui của hội họa. Cũng có một điều gì đó trong việc chúng tôi ngồi đây với một cảm giác về ngày tận thế sắp đến, vỗ về nhau bằng đôi mắt đầy lệ khi chúng tôi nhớ lại cái đẹp của những ngày đã qua, điều gợi ta nhớ lại những phi tần trong hậu cung.

Tôi lấy so sánh này từ Abu Said xứ Kirman, người đưa những câu chuyện về các bậc thầy xưa của Shiraz và Herat vào cuốn Tarih của ông viết về các con trai của Tamerlane. Cách nay ba mươi năm, vua Jihan, người trị vì Garagoýunly, đến phương Đông, ở đó ông đánh bại những đội quân nhỏ và cướp đất của các đại hãn và tiểu vương Timurid vốn đang đánh lẫn nhau. Cùng những bộ lạc Thổ Nhĩ Kỳ bách thắng của mình, ông đi xuyên Ba Tư vào tới phương Đông, cuối cùng, tại Astarabad, ông đánh bại Ibrahim, cháu nội của vua Ruh vốn là con trai của Tamerlane; sau đó ông chiếm Gorgan và phái quân tấn công pháo đài Herat.

Theo sử gia xứ Kirman nói trên, chiến thắng này, vốn đã tàn phá không chỉ Ba Tư mà cả sức mạnh bất khả chiến bại từ trước đến nay của triều đại Tamerlane vốn cai trị hơn nửa thế giới từ Hindustan đến Byzantium trong nửa thế kỷ, đã gây ra một cơn bão táp hủy diệt đến nỗi mọi đàn ông và phụ nữ trong pháo đài Herat bị bao vây chìm trong hỗn loạn. Sử gia Abu Said gợi lại cho người đọc với một niềm vui tai ác về việc vua Jihan xứ Garagoýunly đã tàn sát tất cả nhũng ai thuộc dòng dõi Tamerlane tại các pháo đài ông ta chinh phục được, rồi tuyển lựa phi tần từ những hậu cung của các tiểu vương và vương hầu mà bổ sung họ vào hậu cung của mình, và nhẫn tâm phân tán các nhà tiểu họa và buộc họ làm thợ học việc cho nhũng họa sư của ông ta. Đến chỗ này trong cuốn Tarih, sử gia chuyển sự chú ý từ vị vua và các chiến binh của ông ta, những kẻ đang cố hất văng đối phương ra khỏi các ngọn tháp có lỗ châu mai của những pháo đài, sang những nhà tiểu họa ngồi giữa đống bút và thuốc màu trong xưởng, chờ đợi cao điểm khủng khiếp của cuộc vây hãm mà kết quả của nó từ lâu đã rõ ràng. Ông ta liệt kê tên của các họa sĩ, tuyên bố lần lượt từng người trong bọn họ đã nổi tiếng thế giới như thế nào và sẽ không bao giờ bị lãng quên, và những nhà minh họa này, tất cả họ, giống như các phi tần trong hậu cung của nhà vua, từ lâu đã bị quên lãng ôm nhau khóc, không thể làm gì khác ngoài việc nhắc lại những tháng ngày hạnh phúc tuyệt vời đã qua của họ.

Chúng tôi, giống như những phi tần buồn rầu trong hậu cung, cũng nhớ lại những món quà gồm những áo viền lông và những túi đầy tiền mà Đức vua đã ban cho chúng tôi để trả công cho những chiếc hộp, tấm gương và bản khắc được trang trí đầy màu sắc, những quả trứng đà điểu được tô điểm, tác phẩm cắt giấy, những bức tranh tờ đơn, những cuốn sưu tập ngộ nghĩnh, những bộ bài và cuốn sách chúng tôi dâng lên Ngài vào những dịp lễ. Đâu rồi những họa sĩ có tuổi, nhiều đau khổ, làm việc vất vả của thời đó, vốn vẫn hài lòng với những phần thưởng nhỏ bé như vậy? Họ không bao giờ giam mình tại nhà và giấu giếm một cách đầy ghen tỵ những phương pháp của họ với người khác, sợ rằng việc làm thêm ban đêm của họ bị phát hiện, mà vẫn đến xưởng mỗi ngày dù chuyện gì xảy ra đi nữa. Đâu rồi những nhà tiểu họa già cống hiến cả cuộc đời cho việc vẽ những họa tiết rắc rối trên các bức tường lâu đài, những lá cây bách mà sự độc đáo của chúng phải xem xét kỹ mới nhận ra, và những thứ cỏ thảo nguyên bảy lá được dùng để lấp đầy khoảng trống? Đâu rồi những thợ cả tầm thường, những người không bao giờ nhen nhóm chút lòng ghen tỵ, đã chấp nhận sự thông minh và công bằng vốn có trong việc Thượng đế ban phát tài nghệ và khả năng cho một số họa sĩ này và ban sự kiên nhẫn và cam chịu cho một số họa sĩ kia. Chúng tôi nhớ lại những bậc thầy này, một số họ bị còng lưng và không ngớt mỉm cười, một số khác mơ mộng và say sưa, một số khác nữa quyết tâm gả đi một cô con gái lỡ thì; và khi hồi tưởng, chúng tôi đã nỗ lực dựng lại những chi tiết bị quên lãng của xưởng làm việc như nó từng có trong những năm học việc và buổi đầu làm thợ cả của chúng tôi.

Các vị còn nhớ chăng, tay họa sĩ thường độn lưỡi trong má khi anh ta kẻ dòng các trang giấy - độn sang bên trái nếu dòng anh ta kẻ hướng sang phải, và sang phải nếu dòng đi về phía trái; người nghệ sĩ gầy, nhỏ con thường cười một mình, cười như nắc nẻ và lẩm bẩm, kiên nhẫn, kiên nhẫn, kiên nhẫn, trong khi nhỏ thuốc màu; người thợ mạ vàng bậc thầy bảy mươi tuổi, dành nhiều giờ liền nói chuyện với các thợ học việc của người đóng sách dưới nhà và tuyên bố rằng mực đỏ phết lên trán thì có thể ngăn lão hóa; bậc thầy khó tính, người đã nhờ một thợ học việc cả tin, nếu không thì chặn bất cứ ai ngẫu nhiên đi qua để nhờ họ thử độ đậm đặc của thuốc màu bằng móng tay của họ sau khi móng tay của chính ông ta đã được sơn hết cả; và nhà họa sĩ bệ vệ, kẻ thường khiến chúng tôi cười to mỗi khi ông ta vuốt râu mình bằng cái chân thỏ đầy lông dùng để gom bụi vàng được sử dụng trong việc mạ? Các vị còn nhớ họ không? Tất cả bọn họ đâu rồi?

Đâu rồi những bàn đánh bóng sử dụng quá nhiều đến độ trở thành một bộ phận của thân thể thợ học việc rồi sau đó bị ném sang một bên, và những chiếc kéo cắt giấy bị các thợ học việc làm cho cùn vì trò chơi “kiếm sĩ”? Đâu rồi những bàn viết có khắc tên những bậc thầy vĩ đại để chúng không bị lẫn lộn, mùi thơm của mực Trung Hoa và tiếng kêu lách cách nhè nhẹ của những bình cà phê đang sôi trong im lặng? Đâu rồi những loại cọ khác nhau chúng tôi làm từ lông cổ và lông trong tai những con mèo con được sinh ra từ lũ mèo mướp của chúng tôi mỗi mùa hè, và những bó giấy Ấn Độ lớn được giao cho chúng tôi để những lúc nhàn rỗi chúng tôi có thể thực hành nghệ thuật của mình như những nhà thư pháp đã làm? Đâu rồi con dao nhíp cán bằng thép xấu xí mà muốn sử dụng thì phải được Trưởng ban Minh họa cho phép, do đó tạo ra một sự răn đe cho cả xưởng khi chúng tôi phải cạo bỏ những sai sót lớn; và những gì đã xảy ra với những nghi thức vốn xoay quanh những sai sót này?

Chúng tôi cũng đồng ý rằng Đức vua quả là sai khi để cho những nhà tiểu họa bậc thầy làm việc tại nhà. Chúng tôi nhắc đến những chiếc bánh nóng tuyệt vời được người ta bưng từ nhà bếp cung điện ra cho chúng tôi vào những tối mùa đông sau khi chúng tôi làm việc đến nhức mắt dưới ánh nến và đèn dầu. Cười to với những giọt lệ trên khóe mắt, chúng tôi nhớ lại cách ông thợ cả mạ vàng già cả lú lẫn, người mắc chứng bệnh run kinh niên và không thể cầm bút hay giấy, vào những lần đến thăm xưởng làm việc hàng tháng, luôn mang theo những chiếc bánh rán tẩm xirô mà con gái ông làm cho bọn thợ học việc chúng tôi. Chúng tôi nói về những trang cực đẹp do Kara Memi quá cố, Trưởng ban Minh họa trước Thầy Osman thực hiện, được phát hiện trong phòng ông, vốn vẫn bỏ trống nhiều ngày sau đám tang của ông, trong cặp giấy nằm bên dưới cái nệm lông ông thường trải ra để ngủ mỗi buổi chiều.

Chúng tôi nói về và đặt tên cho những trang mà chúng tôi thấy tự hào và thỉnh thoảng muốn lấy ra nhìn nếu có bản sao của chúng, theo cách mà Thầy Kara Memi đã làm. Chúng giải thích cách thực hiện bầu trời ở nửa trên của bức tranh vẽ cung điện trong cuốn Huner-nama được minh họa với lớp sơn lót vàng, báo trước ngày tận thế, không phải vì chính màu vàng của nó, mà bởi sắc độ của nó giữa các ngọn tháp, mái vòm và cây bách - cách sử dụng màu vàng sao cho tao nhã.

Chúng thể hiện trạng thái bối rối và khó xử của đấng Tiên tri Vinh quang của chúng ta, khi những thiên thần xốc nách ông giữa lúc ông bay lên Thiên đàng từ một đỉnh tháp; một bức tranh có màu sắc long trọng đến độ khi nhìn vào cảnh tượng đầy ơn phúc này thì ngay cả trẻ con trước tiên cũng run lên với lòng sùng mộ và kính sợ sau đó thì cười to đầy kính cẩn như thể bản thân chúng bị cù.

Tôi đã giải thích cách tôi khắc họa lại dọc theo rìa trang giấy việc quan tể tướng trước đây trấn áp bọn nổi loạn đã chạy trốn lên núi bằng cách xếp chồng những đầu lâu mà ông ta đã chặt một cách đầy tôn kính và tế nhị, vẽ từng cái đầu một cách trang nhã, không như cái đầu của một xác chết bị thương mà như một khuôn mặt độc đáo và riêng biệt theo phong cách của họa sĩ chân dung Tây vực vẽ những nếp nhăn trên trán họ trước khi chết, quệt màu đỏ lên cổ họ, làm cho đôi môi muộn phiền của họ lục vấn về ý nghĩa của cuộc đời, mở lỗ mũi của họ cho đến hơi thở gấp gáp cuối cùng, và khép mắt họ lại với cõi đời này; và vì thế, tôi làm cho bức tranh thấm đẫm ánh hào quang kỳ bí khủng khiếp.

Như thể chúng là những ký ức không thể quên và không thể tìm lại được của riêng chúng tôi, chúng tôi nuối tiếc thảo luận những cảnh trí ưa thích về tình yêu và chiến tranh, nhắc lại những điều kỳ diệu phi thường nhất và những nét tinh tế đến rơi nước mắt trong những bức đó. Những khu vườn biệt lập và bí ẩn nơi các cặp tình nhân gặp nhau trong những đêm đầy sao đi qua trước mắt chúng tôi: cây cối mùa xuân, những con chim kỳ quái, thời gian ngưng trôi... Chúng tôi tưởng tượng những trận chiến đẫm máu kinh hoàng và gần ngay trước mắt như những cơn ác mộng của chính chúng tôi, những thân thể bị xé làm đôi, những con ngựa chiến với áo giáp lấm tấm máu, những con người đẹp đẽ đâm nhau bằng dao găm, những phụ nữ miệng nhỏ, tay nhỏ, mắt xếch, cúi đầu theo dõi các sự kiện qua cửa sổ mở hé... Chúng tôi nhớ lại những chàng trai tuấn tú cao ngạo, tự phụ, và những vua chúa đẹp trai mà quyền lực cũng như cung điện của họ từ lâu đã chìm vào lịch sử. Giống như những phi tần cùng nhau khóc trong hậu cung của các vị vua đó, chúng tôi hiện biết mình đang chuyển từ cuộc sống sang ký ức, nhưng chúng tôi có chuyển từ lịch sử sang truyền thuyết như họ không? Để tránh bị lôi xa hơn vào cõi kinh hoàng bằng việc kéo dài bóng dáng của nỗi sợ bị lãng quên - thậm chí khủng khiếp hơn cả nỗi sợ chết - chúng tôi hỏi nhau về những cảnh chết chóc mình ưa thích.

Điều đầu tiên chúng tôi nghĩ đến là cách Satan lừa Dehhak, giết cha anh ta. Vào thời điểm xảy ra truyền thuyết đó, vốn được mô tả trong phần đầu của Shahnameh, thế gian vừa mới được tạo ra, và mọi thứ quá đơn giản đến độ chẳng có gì cần giải thích. Nếu muốn có sữa, các vị chỉ việc vắt sữa một con dê rồi uống; các vị có thể nói “ngựa.” rồi cứ thế cưỡi lên ngựa phóng đi; các vị có thể ngẫm nghĩ “cái ác”, thế là Satan sẽ xuất hiện và thuyết phục các vị về cái đẹp trong việc giết cha của chính các vị. Việc Dehhak giết Merdas, người cha dòng dõi Ả Rập của anh ta, là đẹp, vừa bởi nó vô cớ, vừa bởi nó xảy ra vào ban đêm trong vườn ngự uyển lộng lẫy trong khi những ngôi sao vàng chiếu lấp lánh trên hàng cây bách và những đóa hoa xuân đầy màu sắc.  Kế đến chúng tôi nhớ về Rustem huyền thoại, người vô tình giết con trai mình là Suhrab, chỉ huy quân đối phương mà Rustem đã đụng độ suốt ba ngày. Có điều gì đó làm xúc động chúng tôi trong cách Rustem đấm ngực mình, bối rối và đầy đau đớn, khi ông nhìn thấy dải băng tay mà ông đã đưa cho mẹ đứa bé từ trước đó nhiều năm và nhận ra rằng kẻ thù mà ông đã sung sướng tặng cho nhiều nhát gươm lại chính là con trai mình.

Điều gì đó là cái gì?

Mưa vẫn tiếp tục rơi lộp độp trên mái nhà và tôi đi tới đi lui. Bất ngờ tôi nói ra điều này:

“Hoặc cha chúng ta, Thầy Osman, sẽ phản bội và giết chúng ta, hoặc chúng ta sẽ phản bội và giết ông ấy.”

Chúng tôi thấy kinh hoàng bởi điều tôi nói nghe thật đúng; chúng tôi im lặng. Vẫn bước đều, và kinh hoàng trước ý nghĩ rằng mọi thứ sẽ trở lại tình trạng cũ, tôi tự nhủ: “Hãy kể câu chuyện về vụ Afrasiyab giết Siyavush để đổi đề tài. Nhưng đó là một sự phản bội không làm tôi sợ hãi được. Hãy kể lại cái chết của Husrev.” Vậy thì được, những kể theo phiên bản của Firdusi trong Shahnameh, hay phiên bản của Nizami trong Husrev o Shirin? Sức thu hút của phiên bản trong Shahnameh nằm ở chỗ Husrev đau đớn nhận ra nhân dạng của kẻ giết người đang xâm nhập vào phòng ngủ của ông! Như một phương sách cuối cùng, Husrev nói rằng ông ta muốn cầu kinh, thế nên ông phái đứa tớ trai chuyên chăm sóc ông đi lấy nước, xà phòng, quần áo sạch và nệm cầu kinh của ông; cậu trai ngây thơ đó không hiểu rằng ông chủ phái mình đi tìm người trợ giúp, nên bèn đi lấy những thứ theo lời ông chủ sai bảo. Khi chỉ còn một mình với Husrev, việc đầu tiên của tên sát nhân là khóa cửa lại. Trong cảnh này ở cuối pho Shahmameh, người đàn ông mà những kẻ chủ mưu đã tìm được để giao thi hành vụ ám sát này được Firdusi mô tả với sự kinh tởm: Hắn bốc mùi hôi thối, lông lá xồm xoàm và bụng phệ.

Tôi đi tới đi lui, đầu óc quay cuồng những ngôn từ, nhưng như trong một cơn mơ, giọng của tôi không nói nên lời.

Ngay khi đó tôi có cảm giác rằng mấy tên kia đang xì xào với nhau, nói xấu tôi.

Họ tóm chân tôi quá nhanh đến độ cả bốn chúng tôi đổ sụm xuống sàn. Có một cuộc vật lộn và đánh nhau dưới đất, nhưng không lâu. Tôi nằm ngửa bên dưới cả ba chúng nó.

Một đứa đè lên hai gối tôi. Người kia trên tay phải tôi.

Siyah ấn hai gối lên hai vai tôi, anh ta đè sức nặng toàn thân lên ngực và bụng tôi, và ngồi lên tôi. Tôi hoàn toàn bất động. Tất cả chúng tôi đều choáng váng và thở hào hển. Đây là những gì tôi nhớ được: cậu tôi có một con trai ngỗ nghịch lớn hơn tôi hai tuổi - tôi hy vọng hắn ta đã bị bắt vì cướp bóc những đoàn thương nhân và đã bị xử trảm từ lâu. Tên khốn nạn ghen tỵ này, do nhận ra tôi hiểu biết nhiều hơn hắn và cũng thông minh và tao nhã hơn hắn, thường tìm mọi lý do để gây lộn, nếu không thì hắn cứ khăng khăng đòi chúng tôi phải đấu vật với nhau, và sau khi nhanh chóng khóa chặt tôi, hắn đè tôi xuống bằng cách ấn đầu gối vào vai tôi y như thế này; hắn thường nhìn vào mắt tôi, như Siyah lúc này, và để một dải nước bọt chảy xuống, đợi đến khi nó tụ thành một dòng đủ lớn thì từ từ hướng nó vào mắt tôi, và khoái chí vô cùng khi tôi cố tránh bằng cách quay đầu hết sang phải lại sang trái.

Siyah bảo tôi không được giấu bất cứ điều gì. Bức tranh cuối cùng ở đâu? Thú nhận đi!

Tôi cảm thấy hối tiếc và giận dữ đến nghẹt thở vì hai lý do:Thứ nhất tôi đã nói mọi điều tôi biết mà chẳng ích gì, vì không biết rằng họ đã nhất trí với nhau từ trước; thứ hai, tôi đã không chạy trốn, vì không thể tưởng tượng rằng lòng đố kỵ của họ đạt đến mức độ này.

Siyah dọa cắt cổ tôi nếu tôi không giao nộp bức tranh cuối cùng.

Thật lố bịch làm sao. Tôi mím chặt môi như thể sự thật sẽ thoát ra nếu tôi mở miệng. Một phần trong tôi nghĩ rằng tôi chẳng còn làm được gì nữa. Nếu họ đã thông đồng với nhau giao nộp tôi cho Trưởng Ngân khố như là tên sát nhân thì họ sẽ cứu được mạng mình. Niềm hy vọng duy nhất của tôi nằm ở Thầy Osman, người có thể chỉ ra một nghi phạm khác hay một manh mối khác, nhưng lúc đó, liệu tôi có chắc chắn rằng những gì Siyah nói về thầy là đúng không? Anh ta có thể giết tôi ở đây và ngay bây giờ, sau đó đổ trách nhiệm lên đầu tôi, có phải thế không?

Họ kê dao găm sát cổ tôi, và tôi thấy ngay việc này đem đến cho Siyah một khoái lạc như thế nào đến độ anh ta không thể che giấu. Chúng tát tôi. Con dao đang cứa vào da tôi phải không?

Chúng lại tát tôi.

Tôi có thể thoát được nhờ lý luận sau: Nếu tôi có thể giữ được bình thản, thì sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra cả! Điều này cho tôi sức mạnh. Chúng không còn giấu được sự thật rằng ngay từ thời học việc chúng đã ganh tỵ với tôi, tôi, người rõ ràng tô màu theo cách hay nhất, vẽ nét chắc tay nhất và làm tranh minh họa đẹp nhất. Tôi yêu chúng vì lòng đố kỵ cực độ của chúng. Tôi mỉm cười với những anh em yêu dấu này.

Một đứa trong bọn, tôi không muốn các vị biết là ai trong số họ, chịu trách nhiệm cho trò ô nhục tồi tệ này, say đắm hôn tôi như thể anh ta đang hôn người yêu mà từ lâu anh ta khao khát.

Những tên khác ngồi nhìn bên ánh đèn dầu mà chúng mang đến gần bên. Tôi không thể làm gì trừ việc hôn đáp lại người anh em yêu quý của tôi. Nếu chúng tôi đang đến gần sự kết thúc mọi chuyện, hãy để mọi người biết rằng tôi làm minh họa giỏi hơn ai hết. Hãy tìm các trang của tôi mà nhìn xem.

Anh ta bắt đầu đánh tôi một cách giận dữ, như thể tôi chọc giận anh ta bằng cách đáp lại nụ hôn của anh ta bằng một nụ hôn.

Nhưng những tên kia đã ngăn anh ta lại. Chúng có một phút giây do dự. Siyah bực bội vì giữa họ có sự bất đồng. Như thể họ không giận tôi, mà giận con đường mà cuộc sống của họ đang hướng tới, do đó họ muốn trả thù cả thế giới này.

Siyah lấy từ khăn quàng vai của anh ta ra một vật: một cây kim nhọn hoắt. Trong chớp mắt, anh ta đưa nó tới sát mặt tôi và làm ra vẻ như sắp đâm vào mắt tôi.

“Cách nay tám mươi năm, Bihzad vĩ đại, thầy của những bậc thầy, khi hiểu rằng mọi thứ đang đến hồi kết thúc với sự sụp đổ của Herat, đã tự đâm mù mắt mình một cách đáng kính để không ai có thể buộc ông ta vẽ theo cách khác,” anh ta nói. “Ngay khi ông ta cố ý đâm cây kim nhọn này vào mắt và rút nó ra, bóng tối tuyệt diệu của Thượng đế từ từ phủ lên kẻ tôi tớ yêu quý của Người, vị họa sư với bàn tay kỳ diệu đó. Cây kim này vốn được gửi từ Herat đến Tabriz cho Bihzad giờ đã mù và say xỉn, được vua Tahmasp gửi đến làm quà cho cha của Đức vua chúng ta cùng với cuốn Shahnameh huyền thoại đó. Mới đầu Sư phụ Osman không thể xác định tại sao món này được gửi đến. Nhưng hôm nay, ông ấy có thể thấy được ý đồ xấu xa và luận lý đúng đắn ẩn sau món quà độc ác này. Sau khi Sư phụ Osman hiểu rằng Đức vua muốn chân dung của Ngài được vẽ theo phong cách các bậc thầy châu Âu và rằng tất cả các anh, những người mà sư phụ yêu hơn cả con ruột, đã phản bội mình, sư phụ đã bắt chước Bihzad đâm cây kim này vào hai mắt ông vào đêm cuối cùng trong Quốc khố. Bây giờ, nếu tôi đâm anh mù, kẻ đáng nguyền rủa chịu trách nhiệm cho việc hủy hoại xưởng làm việc mà Sư phụ Osman đã dành cả đời tạo dựng, thì đã sao nào?”

“Dù anh có đâm tôi mù hay không, thì cuối cùng chúng ta cũng không thể tìm được một chỗ cho chúng ta ở đây nữa,” tôi nói. “Nếu Thầy Osman thật sự bị mù hoặc qua đời, và chúng ta vẽ theo cách chúng ta thấy muốn vẽ, chấp nhận những khuyết điểm và cá tính của chúng ta dưới ảnh hưởng của người Tây vực để chúng ta có thể sở hữu một phong cách nào đó, thì chúng ta có thể giống chính mình, nhưng chúng ta sẽ không là chính mình. Không, cho dù chúng ta có đồng ý vẽ giống như những bậc thầy xưa, viện cớ rằng chỉ đi theo con đường này chúng ta mới là chính chúng ta, thì Đức vua, người đã quay lưng cả với Thầy Osman, sẽ tìm người khác thay thế chúng ta. Sẽ không còn ai nhìn vào chúng ta nữa, chúng ta sẽ chỉ khơi được lòng thương hại mà thôi. Cuộc đột kích quán cà phê chỉ xát muối vào vết thương của chúng ta bởi vì phân nửa trách nhiệm cho sự cố này sẽ rơi xuống đầu đám tiểu họa chúng ta, những kẻ đã vu khống nhà thuyết giáo đáng kính đó.”

Dù tôi đã cố hết sức thuyết phục họ rằng chúng tôi không nên cãi cọ, nhưng chẳng ích gì. Chúng không có ý định lắng nghe tôi Chúng đang hoảng hốt. Nếu như chúng có thể quyết định nhanh, trước buổi sáng, dù đúng dù sai, rằng ai trong số cả bọn có tội thì chúng tin rằng chúng có thể cứu được mình, thoát khỏi sự tra tấn và rằng mọi thứ có liên quan tới xưởng sẽ tiếp tục tồn tại trong nhiều năm tới như nó đã tồn tại từ trước đến nay.

Tuy nhiên, những gì Siyah đe dọa hành động không làm hai tên kia hài lòng. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ai khác mới là thủ phạm, và nếu Đức vua biết được chúng đã đâm mù mắt tôi chẳng vì lý do gì? Chúng khiếp sợ cả sự thân cận của Siyah với Thầy Osman lẫn thái độ láo xược của anh ta đối với thầy. Chúng cố giật lại cây kim mà Siyah, trong cơn giận dữ mù quáng, khư khư giữ chặt trước mắt tôi.

Siyah rơi vào nỗi kinh hoàng, cứ như họ đang giật cây kim khỏi tay anh ta, cứ như chúng tôi đứng về một phe chống lại anh ta. Có một cuộc giằng co nữa. Tôi chỉ làm được mỗi một việc là nghiêng đầu tránh cuộc giằng giật cây kim, vốn có nguy cơ gí sát mắt tôi.

Mọi chuyện xảy ra quá nhanh đến độ thoạt đầu tôi không thể thấy những gì xảy ra. Tôi cảm thấy một cơn đau nhói nhưng có giới hạn trong mắt phải tôi; trán tôi thoáng tê cứng. Rồi mọi thứ trở lại bình thường, nhưng một nỗi kinh hoàng đã bén rễ trong tôi. Ngọn đèn dầu đã tàn, nhưng tôi vẫn thấy rõ dáng người trước mặt tôi đâm cây kim một cách dứt khoát, lần này vào mắt trái tôi. Anh ta đã tước cây kim từ tay Siyah vài phút trước đó, và bây giờ đâm cẩn thận hơn, tỉ mỉ hơn. Khi tôi hiểu cây kim đã đâm thấu vào mắt tôi, tôi nằm im như chết, dù vẫn cảm thấy cái cảm giác cháy bỏng đó. Sự tê công trên trán tôi như lan khắp đầu tôi, nhưng ngừng lại khi cây kim được rút ra. Chúng nhìn cây kim rồi nhìn vào mắt tôi. Như thể chúng không chắc những gì đã diễn ra.

Khi mọi người hiểu rõ nỗi bất hạnh đã giáng xuống tôi, cơn kích động dừng lại và sức nặng trên hai cánh tay tôi biến mất.

Tôi bắt đầu gào khóc, gần như rú lên. Không phải do đau đớn, mà do kinh hoàng khi hiểu rõ những gì chúng đã gây ra cho tôi.

Thoạt tiên tôi có cảm giác rằng tiếng khóc của tôi không chỉ làm tôi dễ chịu, mà cả chúng nữa. Giọng của tôi mang chúng tôi lại gần nhau.

Dù vậy, vì tiếng rú của tôi cứ dai dẳng, sự bồn chồn của chúng tăng lên. Tôi không còn thấy đau đớn nữa. Tôi chỉ nghĩ được rằng đôi mắt tôi đã bị chọc thủng bằng một cây kim.

Nhưng tôi chưa mù. Tạ ơn Thượng đế, tôi vẫn có thể thấy chúng đang nhìn tôi trong nỗi kinh hoàng lẫn buồn rầu, tôi vẫn thấy được bóng của chúng chuyển động một cách vô định trên trần nhà. Điều này khiến tôi vừa vui vừa cảnh giác. “Thả tôi ra,” tôi gào lên. “Thả tôi ra để tôi có thể thấy mọi thứ một lần nữa, tôi van các bạn.”

“Nói cho chúng tôi biết, nhanh lên,” Siyah nói. “Anh hẹn gặp Zarif Kính mến đêm đó như thế nào? Rồi tụi tôi thả anh ta.”

“Tôi từ quán cà phê về nhà. Zarif tội nghiệp đi tới bắt chuyện với tôi. Anh ta rất kích động và bồn chồn. Lúc đầu tôi thấy thương hại anh ta. Nhưng giờ hãy để tôi yên, tôi sẽ kể cho các anh nghe sau. Mắt tôi đang mờ.”

“Không mờ ngay đâu,” Siyah nói với vẻ dứt khoát. “Tin tôi đi, Sư phụ Osman sau khi mắt đã bị đâm vẫn có thể nhận dạng những con ngựa có mũi bị rạch cơ mà.”

“Zarif Kính mến bất hạnh bảo anh ta muốn nói chuyện với tôi và tôi là người duy nhất anh ta có thể tin cậy.”

Nhưng giờ tôi không thương hại anh ta, mà thương hại Chính tôi.

“Nếu anh kể cho chúng tôi nghe trước khi máu đông thành cục trong mắt anh, thì đến sáng anh có thể nhìn thấy thế giới này đến thỏa thích lần cuối cùng,” Siyah nói. “Nhìn kìa, mưa tạnh rồi.”

“Quay lại quán cà phê đi, tôi nói với Zarif, nhưng tôi lập tức cảm thấy rằng anh ta không thích ở đó, thậm chí nó còn làm anh ta sợ nữa. Đây là lần đầu tôi biết Zarif đã hoàn toàn tách khỏi chúng ta và đi con đường riêng của anh ta sau khi vẽ cùng chúng ta suốt hai mươi lăm năm. Trong tám hoặc mười năm qua, sau khi anh ta cưới vợ tôi thường xuyên gặp anh ta ở xưởng, nhưng tôi thậm chí không biết anh ta đang bận làm gì... Anh ta bảo tôi anh ta đã thấy bức tranh cuối cùng có chứa đựng một tội ác nghiêm trọng đến độ không bao giờ chúng ta có thể sống yên với nó được. Do đó, anh ta khẳng định tất cả chúng ta sẽ bị thiêu trong Hỏa ngục. Anh ta rất lo lắng và bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi, chìm trong cảm giác về sự hủy diệt của một người vô tình phạm phải tội dị giáo.”

“Cái gì dị giáo?”

“Khi tôi hỏi anh ta đúng câu hỏi này, anh ta trợn mắt đầy ngạc nhiên như muốn nói, Anh muốn nói là anh không biết hả? Đến lúc đó tôi nghĩ: bạn mình lẩm cẩm làm sao, như tất cả chúng ta vậy. Anh ta nói Enishte bất hạnh đã trơ tráo sử dụng phương pháp phối cảnh trong bức tranh cuối cùng. Trong bức này, các vật thể không được vẽ theo tầm quan trọng của chúng trong ý nghĩ của đấng Allah, mà như chúng hiện ra trước con mắt trần tục - theo cách mà bọn Tây vực vẽ. Đây là tội phạm thượng thứ nhất.Tội phạm thượng thứ hai là vẽ Đức vua, giáo chủ Hồi giáo, cùng kích cỡ với một con chó. Tội phạm thượng thứ ba cũng dính dáng đến việc vẽ Satan cùng kích cỡ, và trong một ánh sáng khả ái. Nhưng vượt trên tất cả - một kết quả tự nhiên của việc du nhập sự hiểu biết của bọn Tây vực vào hội họa của chúng ta - là việc vẽ hình Đức vua lớn như người thật và khuôn mặt Ngài với đầy đủ chi tiết! Ciống như những kẻ sùng bái ngẫu tượng vẽ... Hoặc giống như những ‘chân dung’ mà bọn Cơ đốc giáo, những kẻ không thể thoát khỏi xu hướng thờ ngẫu tượng cố hữu của họ, đã vẽ trên những bức tường giáo đường của họ và thờ phượng nó. Zarif Kính mến, người biết được những bức chân dung này qua Enishte của anh, nắm điều này rất rõ, và tin một cách chính đáng rằng nghệ thuật vẽ chân dung là tội lỗi lớn lao nhất, và sẽ là sự sụp đổ của hội họa Hồi giáo. Vì chúng tôi không đến quán cà phê, nơi mà, như anh ta khẳng định, Nhà thuyết giáo đáng kính của chúng ta và tôn giáo của chúng ta đang bị bôi nhọ, anh ta giải thích tất cả chuyện này với tôi trong khi chúng tôi thả bộ dọc phố. Thỉnh thoảng anh ta dừng lại, như thể tìm sự giúp đỡ, hỏi tôi liệu tất cả điều này có thực sự đúng không, phải chăng không còn lối thoát nào khác và liệu chúng tôi có bị thiêu trong Hỏa ngục không. Anh ta hết sức hối tiếc và tự đấm ngực mình với vẻ thống hối, nhưng tôi không tin. Anh ta là một kẻ mạo danh làm bộ hối hận.”

“Sao anh biết được?”

“Chúng ta đã biết Zarif Kính mến từ nhỏ. Anh ta rất trật tự, lặng lẽ, bình thường và tẻ nhạt, giống như việc mạ vàng của anh ta. Làm như người đàn ông đứng trước mặt tôi lúc đó ngu ngốc hơn, khờ khạo hơn, mộ đạo hơn, nhưng hời hợt hơn Zarif mà chúng ta đã biết.”

“Tôi nghe nói anh ta cũng rất thân cận với bọn Erzurum,” Siyah nói.

“Không một người Hồi giáo nào cảm thấy bị giày vò và hối tiếc vì phạm phải một tội ác vô tình như thế,” tôi nói. “Một người Hồi giáo tốt biết rõ rằng Thượng đế vốn công bằng và hữu lý khi xem xét ý định của lũ tôi tớ của Người. Chỉ những tên ngu ngốc óc bằng hạt đậu mới tin họ sẽ xuống Hỏa ngục vì vô ý ăn phải thịt lợn. Dù sao thì một người Hồi giáo đích thực cũng biết nỗi sợ bị đày xuống Hỏa ngục chỉ là để răn đe người khác, chứ không phải chính anh ta. Đây là điều Zarif Kính mến đang làm, anh biết đó, anh ta muốn hù dọa tôi. Chính Enishte của anh là người đã dạy anh ta rằng anh ta có thể làm một điều như thế, và lúc đó tôi biết mọi chuyện quả thực là như vậy. Bây giờ hãy nói hết sức trung thực với tôi đi, những anh em minh họa của tôi, máu đã bắt đầu đóng cục trong mắt tôi chưa, mắt tôi đã mất màu chưa?”

Chúng mang đèn đến nhìn vào mắt tôi, lộ rõ mối quan tâm và lòng trắc ẩn của những nhà phẫu thuật.

“Coi bộ chưa có thay đổi gì cả.”

Ba người này, đang nhìn vào mắt tôi, có phải là cảnh cuối cùng tôi thấy trên thế gian này không? Tôi biết mình sẽ không bao giờ quên những giây phút này cho đến cuối đời, và tôi kể lại những gì tiếp theo bởi vì dù hối tiếc, tôi vẫn cảm thấy hy vọng:

“Enishte của anh đã dạy cho Zarif rằng ông ta có can dự đến một dự án bị cấm đoán nào đó bằng việc che đậy bức tranh cuối cùng, bằng việc chỉ để lộ một khoảng trống nào đó cho từng người chúng ta và nhờ chúng ta vẽ cái gì đó vào chỗ trống đó - bằng cách tạo cho bức tranh một vẻ bí ẩn và bí mật. Chính Enishte là người gây ra nỗi sợ hãi tội dị giáo. Chính ông ta, chứ không phải những người Erzurum vốn chưa từng thấy một bản thảo có trang trí nào trong đời họ, là người đầu tiên lan truyền sự kích động và hoang mang về cái tội lỗi đã nhiễm vào chúng ta. Trong khi đó, một họa sĩ với lương tâm trong sạch thì có gì phải sợ?

“Trong thời đại chúng ta một họa sĩ với lương tâm trong sạch thì có nhiều thứ phải sợ chứ,” Siyah nói một cách thỏa mãn. “Thực tế không ai có gì chống đối lại việc trang trí, trừ những bức tranh bị đạo giáo của chúng ta cấm đoán. Bởi vì những bức minh họa của các bậc thầy Ba Tư và ngay cả kiệt tác của những bậc thầy Herat vĩ đại nhất cuối cùng cũng được xem như một bước mở rộng việc trang trí phần viền trang sách, sẽ không ai tranh cãi với họ, lấy lý do rằng họ tôn vinh cái đẹp của văn phẩm và vẻ tráng lệ của thư pháp. Và dù sao đi nữa thì có ai xem tranh của chúng ta chứ? Tuy nhiên, khi chúng ta sử dụng những phương pháp Tây vực, nền hội họa của chúng ta sẽ ít tập trung vào việc trang trí và mẫu thiết kế phức tạp, mà tập trung nhiều vào việc mô tả trực tiếp. Đây là điều bị kinh Koran Vinh quang cấm đoán và làm phật lòng đấng Tiên tri của chúng ta. Cả Đức vua lẫn Enishte của tôi đều biết điều này rất rõ. Đấy là lý do khiến Enishte của tôi bị giết.”

“Enishte của anh bị giết bởi vì ông ta sợ.” tôi nói. “Giống như anh, ông ấy bắt đầu khẳng định rằng tranh minh họa, cái mà chính ông ta đang làm, không đối lập với tôn giáo hay sách thánh... Đây đúng là cái cớ cho đám Erzurum, những người đã cố sức tìm cho bằng được một khía cạnh đối lập với tôn giáo để vin vào. Zarif và Enishte của anh là một cặp xứng đôi.”

“Và anh là người đã giết cả hai, đúng vậy không?” Siyah nói.

Trong một thoáng tôi nghĩ anh ta sẽ đánh tôi, và ngay lúc đó tôi cũng biết người chồng mới của Shekure xinh đẹp, thực sự chẳng có gì phàn nàn về việc Enishte của anh ta bị giết. Anh ta sẽ không đánh tôi, mà cho dù anh ta có đánh, với tôi điều đó chẳng còn quan trọng nữa.

“Trong thực tế, do Đức vua rất muốn có một cuốn sách được thực hiện dưới ảnh hưởng của những họa sĩ Tây vực,” tôi bướng bỉnh nói tiếp. “Enishte của anh muốn chuẩn bị một cuốn sách đầy khiêu khích mà sự trái đạo lý của nó nuôi dưỡng lòng tự hào của ông ta, ông ta cảm thấy một sự kính sợ mù quáng đối với tranh của các bậc thầy Tây vực mà ông đã thấy trong những chuyến đi, và ông đã bị lừa bịp hoàn toàn bởi thứ nghệ thuật mà ông kể cho chúng ta nghe trong suốt nhiều ngày - anh chắc đã từng nghe câu chuyện bậy bạ về luật phối cảnh và thuật vẽ chân dung. Nếu anh hỏi tôi, thì chẳng có gì tác hại hay phạm thượng trong cuốn sách chúng ta đang làm cả... Vì ông ta ý thức rõ điều này, nên ông ta giả vờ như mình đang chuẩn bị một cuốn sách cấm và điều này khiến ông ta hết sức hài lòng... Việc được dính dáng vào một dự án nguy hiểm như thế với sự cho phép của đích thân Đức vua với ông ta cũng quan trọng như những bức tranh của các bậc thầy Tây vực. Thực vậy, nếu chúng ta vẽ một bức tranh với ý định trưng bày nó, điều đó sẽ là phạm thượng. Nhưng theo tôi thấy, không một bức nào trong số đó có bất cứ điều gì đối lập với tôn giáo, bất cứ sự mất đức tin, sự bất kính hay thậm chí sự trái đạo lý nào dù mơ hồ nhất. Anh có cảm thấy điều gì như thế không?”

Đôi mắt tôi hầu như đã yếu đi một cách khó nhận thấy, nhưng nhờ Thượng đế, tôi vẫn có thể thấy đủ để biết rằng câu hỏi của tôi đã khiến chúng dừng lại.

“Các anh không dám chắc,đúng không?” tôi nói, hể hả. “Thậm chí dù các anh bí mật tin rằng dấu tích báng bổ hoặc bóng đen của việc phạm thượng có tồn tại trong các bức tranh chúng ta đã làm, các anh vẫn không bao giờ có thể chấp nhận niềm tin này và biểu lộ nó, bởi điều này tương đương với việc tin vào những kẻ cuồng tín và bọn Erzurum, những kẻ phản đối và buộc tội các anh. Mặt khác các anh không thể khẳng định với một chút tin tưởng nào rằng các anh trong trắng như tuyết mới vừa rơi, bởi điều này sẽ có nghĩa là từ bỏ cả lòng tự kiêu quay cuồng lẫn thái độ tự mãn thanh cao của việc tham gia vào một hoạt động bí mật, bí ẩn và bị cấm đoán. Anh có biết tôi đã nhận ra rằng tôi đã cư xử huênh hoang theo cách này đến thế nào không? Bằng cách đưa Zarif Kính mến tội nghiệp đến nhà nguyện này vào nửa đêm hôm đó! Tôi mang anh ta đến đây với lý do rằng chúng tôi gần như lạnh cóng vì đi bộ ngoài đường quá lâu. Thực tế, tôi thấy vui khi cho anh ta biết tôi là một mẫu Kalenderi suy nghĩ độc lập theo kiểu xưa, hay còn tệ hơn, rằng tôi khao khát trở thành một người Kalenderi. Khi Zarif hiểu tôi là đệ tử cuối cùng của một dòng khổ tu dựa trên thói đồng tính nam, việc sử dụng cần sa, lối sống lang thang và mọi kiểu hành vi khác thường, tôi nghĩ anh ta sợ và thậm chí còn tôn trọng tôi hơn, và do đó quá sợ hãi mà im lặng. Như số mệnh đã định đoạt, điều hoàn toàn trái ngược đã xảy ra. Người bạn thời trai trẻ đần độn của chúng ta không thích ở đây, và anh ta nhanh chóng quả quyết rằng những lời buộc tội báng bổ mà anh ta đã biết được qua Enishte của anh là hoàn toàn chính xác. Vì vậy người bạn thời học việc yêu quý của chúng ta, ban đầu hãy còn van nài: ‘Hãy cứu tôi, hãy thuyết phục tôi rằng chúng ta sẽ không xuống Hỏa ngục để tối nay tôi có thể ngủ bình yên,’ thì sau đó, bằng một giọng đầy đe dọa mới tìm ra được, lại bắt đầu nhất quyết rằng ‘điều này sẽ chẳng dẫn đến cái gì ngoại trừ điều xấu.’ Anh ta tin chắc vị hoja thuyết giáo xứ Erzurum sẽ nghe được những tin đồn rằng trong bức tranh cuối cùng chúng ta đã không theo đúng lệnh của Đức vua, mà sự sai phạm này Ngài sẽ không bao giờ tha thứ. Thuyết phục anh ta rằng mọi chuyện đều tốt đẹp là việc hầu như không thể. Anh ta đã kể hết cho giáo đoàn ngu ngốc của nhà thuyết giáo đó, cường điệu những sự phi lý của Enishte, những lo lắng về sự lăng mạ đối với tôn giáo và việc vẽ Quỷ sứ với vẻ ưu ái, và đương nhiên họ tin mọi lời vu khống này. Tôi không cần phải nói với các anh rằng không chỉ những nghệ nhân mà toàn bộ cộng đồng thợ thủ công đã ngày càng ghen tỵ với chúng ta từ khi chúng ta trở thành tâm điểm chú ý của Đức vua. Bây giờ tất cả bọn họ sẽ sung sướng đồng thanh tuyên bố ‘bọn tiểu họa đã phạm tội dị giáo.’ Hơn nữa, sự hợp tác giữa Enishte và Zarif sẽ chúng minh lời vu khống này là sự thật. Tôi nói ‘Lời vu khống’, bởi vì tôi không tin những gì người anh em Zarif của tôi nói về cuốn sách và bức tranh cuối cùng. Cho đến lúc đó tôi chưa nghe thấy điều gì chống lại Enishte quá cố của anh. Tôi thấy việc Đức vua chuyển thiện cảm của Ngài từ Thầy Osman sang Enishte Kính mến là hoàn toàn thích đáng, và thậm chí tôi tin, tuy chưa đến cùng múc độ những gì Enishte mô tả chi tiết với tôi về các bậc thầy Tây vực và nghệ thuật của họ. Tôi từng thật lòng tin rằng các nghệ sĩ Ottoman chúng ta có thể thoải mái học theo khía cạnh này nọ của phương pháp Tây vực bao nhiêu tùy chúng ta muốn hoặc bao nhiêu tùy chúng ta được thấy trong một chuyến ra nước ngoài, mà không phải đánh đổi với Quỷ sứ hay mang lại thiệt hại to lớn cho chúng ta. Cuộc sống từng đã dễ dàng, Enishte của anh, cầu cho ông được yên nghỉ, đã kế vị Thầy Osman, và là người cha mới đối với tôi trong cuộc sống mới này.”

“Chúng ta khoan hãy thảo luận điểm đó,” Siyah nói. “Trước hết hãy tả anh đã giết Zarif như thế nào?”

“Vụ này,” tôi nói, nhận ra rằng tôi không thể sử dụng từ “vụ sát hại.” tôi phạm phải tội này không chỉ vì chúng ta, để cứu chúng ta, mà còn để bảo vệ cả xưởng vẽ. Zarif Kính mến biết anh ta đã trở thành một mối đe dọa lớn. Tôi đã cầu nguyện Thượng đế, van xin Người cho tôi một dấu hiệu cho tôi biết tên vô lại này thực sự đáng khinh như thế nào. Những lời cầu nguyện của tôi đã được đáp lại khi tôi đề nghị đưa tiền cho Zarif. Thượng đế đã cho tôi thấy hắn là kẻ xấu xa đến thế nào. Tôi chợt nghĩ đến những đồng tiền vàng, nhưng do thần thánh gợi ý, tôi đã nói dối. Tôi bảo những đồng vàng không có trong ngôi nhà này, mà tôi đã giấu chúng ở chỗ khác. Chúng tôi ra ngoài. Tôi dẫn hắn ta qua những con phố vắng và những khu hẻo lánh mà chưa rõ mình sẽ đi đâu.

Tôi không rõ mình sẽ làm gì, tóm lại là tôi sợ. Lúc kết thúc chuyến lang thang của chúng tôi, sau khi đến một con phố mà chúng tôi đã đi qua ban nãy, tay thợ dát vàng Zarif anh em của chúng ta, người đã dành cả cuộc đời cho hình thức và việc lặp lại, đã nhen nhúm nghi ngờ. Nhưng Thượng đế đã dẫn tôi đến mảnh đất trống bị hỏa hoạn tàn phá, và gần đó là một cái giếng khô.”

Đến chỗ này tôi biết mình không thể tiếp tục và tôi đã nói với chúng như thế. “Nếu ở vào địa vị của tôi, các anh hẳn cũng cân nhắc đến việc bảo vệ anh em họa sĩ của mình và làm giống như vậy,” tôi tự tin nói.

Khi tôi nghe chúng đồng ý với tôi, tôi muốn khóc. Tôi đã định nói rằng chính sự thông cảm của chúng, mà tôi hầu như không đáng được huởng, đã làm dịu trái tim tôi, nhưng không. Tôi đã định nói rằng đó là bởi tôi lại nghe tiếng huỵch của cái xác hắn đụng đáy giếng nơi tôi thả hắn xuống sau khi giết hắn, nhưng không. Tôi đã định nói rằng đó là bởi tôi nhớ lại mình từng hạnh phúc thế nào trước khi trở thành kẻ sát nhân, tôi từng giống mọi người như thế nào, nhưng không. Người đàn ông mù thường đi qua khu tôi lúc chúng tôi còn nhỏ xuất hiện trong trí tôi: ông ta lấy ra một cái muôi múc nước bằng kim loại bẩn thỉu từ mớ quần áo còn bẩn thỉu hơn, và thường gọi bọn trẻ chúng tôi đang đứng đàng xa cạnh vòi nước nhìn ông ta: “Các bé ơi, đứa nào hứng đầy tách nước từ vòi giùm lão già mù này nào?” Khi không ai đến giúp lão, lão nói, “Đây là một việc làm tốt, các bé ơi, một hành vi mộ đạo!” Màu tròng mắt của ông ta đã nhạt, chúng gần như cùng màu với tròng trắng trong mắt ông ta.

Bị kích động bởi ý nghĩ mình trở nên giống như ông già mù nọ, tôi thú nhận mình đã giết Enishte Kính mến một cách vội vã như thế nào, mà không hào hứng gì với chuyện đó. Tôi không quá trung thực và cũng không quá lừa dối chúng: Tôi đã tìm được một mức độ trung dung, để câu chuyện không làm lòng tôi quá ưu phiền, và chúng tin chắc rằng tôi đã không đi đến nhà Enishte để giết ông ta. Tôi muốn nói cho rõ rằng đây không phải là một vụ giết người có dự tính trước, mà chúng đã suy ra ý đó khi tôi nhắc chúng điều sau đây trong khi cố tự bào chữa cho mình: “Nếu không ấp ủ những ý định xấu, người ta không bao giờ phải xuống Hỏa ngục.”

“Sau khi gửi Zarif Kính mến đến cho các Thiên thần của Allah,” tôi nói một cách đầy trầm tư, “những gì mà người chết biểu lộ với tôi trong những giây phút cuối cùng của hắn ta bắt đầu gặm nhấm tôi như một con sâu. Sau khi làm cho tay mình nhuốm máu, bức tranh cuối cùng ngày một ám ảnh tâm trí tôi hơn, và vì thế, với quyết tâm phải nhìn thấy nó, tôi đến nhà Enishte của anh, người không còn mời bất cứ ai trong chúng ta đến nhà ông ta nữa. Ông ta không những từ chối cho xem bức tranh mà còn cư xử như thể chẳng có vấn đề gì. Ông ta khịt mũi, không có một bức tranh nào mà cũng không có bất cứ điều gì khác quá bí ẩn đến độ gây ra một vụ giết người! Để ngăn không bị làm nhục hơn nữa, và để ông ta chú ý, tôi liền thú nhận chính tôi là người đã giết Zarif Kính mến và ném hắn ta xuống một cái giếng. Vâng, sau đó ông ta lắng nghe tôi hơn, nhưng ông ta tiếp tục sỉ nhục tôi. Một người sỉ nhục con trai mình thì làm sao có thể trở thành một người cha được? Thầy Osman vĩ đại có thể giận dữ chúng ta, thầy ấy có thể đánh chúng ta, nhưng ông chưa một lần sỉ nhục chúng ta. Ôi, những người anh em của tôi, chúng ta đã phạm sai lầm lớn khi phản bội thầy ấy.”

Tôi mỉm cười với những người anh em hiện đang tập trung chú ý vào đôi mắt tôi, lắng nghe tôi như thể tôi đang hấp hối. Giống như một người sắp chết, tôi thấy chúng ngày càng mờ dần và biến khỏi mắt tôi.

“Tôi đã giết Enishte của anh vì hai lý do. Thứ nhất, bởi vì ông ta đã trơ trẽn buộc Thầy Osman bắt chước Sebastiano, nghệ sĩ Venice. Thứ hai, bởi vì trong một phút yếu lòng, tôi đã hạ mình hỏi ông ta liệu tôi có phong cách của riêng tôi không.”

“Ông ta trả lời sao?”

“Có vẻ như tôi có một phong cách. Những dĩ nhiên theo ông ta, đây không phải là một sự lăng mạ. Tôi nhớ mình đã tự hỏi, trong nỗi xấu hổ, liệu đây có thực là một lời ca ngợi hay không: Tôi xem phong cách như một kiểu mất gốc và ô nhục, nhưng nỗi nghi ngờ đang ăn mòn tôi. Tôi chẳng muốn dính líu gì với phong cách, nhưng Quỷ sứ đang cám dỗ tôi và hơn nữa, tôi tò mò.”

“Mỗi người đều thầm ao ước có một phong cách,” Siyah nói một cách khôn ngoan. “Mỗi người cũng ao ước mình được vẽ chân dung, như Đức vua ao ước vậy.”

“Điều đau khổ này không thể cưỡng lại được sao?” tôi nói. “Khi tai họa này lan truyền, sẽ không có ai trong chúng ta chống chọi được những phương pháp của người Âu.”

Tuy nhiên không ai lắng nghe tôi. Siyah đang kể lại câu chuyện về một tù trưởng Thổ Nhĩ Kỳ u uất bị lưu đày mười hai năm đến Trung Hoa vì ông ta đã vội biểu lộ tình yêu của mình dành cho con gái của nhà vua. Vì không có chân dung của người mình yêu, người mà ông ta mơ tưởng tới trong suốt mười hai năm đó, ông ta đã quên khuôn mặt nàng giữa bao mỹ nữ Trung Hoa, và nỗi đau thất tình của ông ta được đấng Allah biến thành một thử thách lớn lao.

“Nhờ Enishte của anh, tất cả chúng ta mới biết được nghĩa của ‘chân dung’ ” tôi nói. “Cầu Thượng đế phù hộ, một ngày nào đó chúng ta sẽ can đảm kể câu chuyện đời mình y như cách chúng ta đã sống.”

“Mọi truyền thuyết chỉ là truyền thuyết của mỗi người,” Siyah nói.

“Mọi sự trang trí cũng là sự trang trí của Thượng đế,” tôi nói, hoàn tất bài thơ của thi sĩ Hatifi xứ Herat. “Nhưng khi những phương pháp của người Âu trở nên phổ biến, mọi người sẽ xem việc kể chuyện đời người khác như chuyện đời của chính mình là một tài năng đặc biệt.”

“Đây chẳng qua chính là ý muốn của Satan.”

“Giờ hãy thả tôi ra,” tôi la to. “Hãy để tôi nhìn cuộc đời này lần cuối.”

Họ kinh hãi, và một niềm tin mới dấy lên trong tôi.

“Anh sẽ lấy bức tranh cuối cùng ra chứ?” Siyah hỏi.

Tôi nhìn Siyah cái nhìn mà anh ta nhanh chóng hiểu ra tôi sẽ làm thế và anh ta thả tôi ra. Tim tôi bắt đầu đập dữ dội.

Tôi chắc từ lâu các vị đã phát hiện ra lai lịch của tôi, mà tôi đã cố che giấu. Cho dù vậy, đáng ngạc nhiên rằng tôi đang cư xử giống như những bậc thầy Herat xưa, vì họ thường giấu chữ ký không phải để che giấu lai lịch của họ mà vì nguyên tắc và lòng tôn trọng đối với những bậc thầy của họ. Đầy kích động, tôi đi qua những căn phòng tối đen của ngôi nhà, đèn dầu trên tay, nhường đường cho chiếc bóng nhợt nhạt của chính tôi. Màn bóng tối đã bắt đầu phủ lên mắt tôi, hay những căn phòng và hành lang này thực sự tối om? Tôi sẽ có bao nhiêu ngày và tuần, bao nhiêu thời gian trước khi tôi bị mù? Bóng tôi và tôi dừng lại giữa những bóng ma trong nhà bếp, giở lên những trang giấy từ góc sạch sẽ của chiếc tủ đầy bụi rồi nhanh chóng quay trở lại. Siyah đi theo tôi như để phòng tôi nhưng anh ta quên mang theo con dao găm. Có lẽ, phải chăng tôi đã cân nhắc việc cầm lấy con dao và đâm mù mắt anh ta trước khi mắt tôi mù?

“Tôi vui vì thấy bức tranh này một lần nữa trước khi bị mù,” tôi nói đầy tự hào. Tôi muốn tất cả các bạn cũng thấy nó. Nhìn đây!”

Dưới ngọn đèn dầu, tôi cho chúng xem bức tranh cuối cùng mà tôi đã lấy ở ngôi nhà của Enishte vào ngày tôi giết ông ta.

Thoạt tiên tôi quan sát vẻ tò mò và rụt rè của chúng khi chúng nhìn bức tranh tờ đôi. Tôi vòng qua đứng bên chúng, và tôi run rẩy khi nhìn. Cú đâm vào mắt tôi, hoặc có lẽ một niềm sung sướng bất thần, làm tôi phát sốt.

Những bức tranh mà chúng tôi vẽ trên nhiều chỗ khác nhau của hai trang giấy suốt năm ngoái - cây, ngựa, Satan, Thần chết, chó và phụ nữ - bức to bức nhỏ, đã được sắp xếp theo bố cục mới mẻ và vụng về của Enishte, theo một cách để phần dát vàng và những đường viền của Zarif Kính mến quá cố khiến chúng tôi không còn cảm thấy mình đang nhìn vào một trang sách mà đang nhìn thế giới từ một khung cửa sổ. Ngay giữa thế giới này, nơi lẽ ra là chỗ của Đức vua, lại là chân dung của chính tôi, mà tôi nhìn thoáng qua với vẻ tự hào. Tôi ít nhiều không hài lòng với nó vì sau khi lao động vô ích suốt nhiều ngày, nhìn vào gương rồi tẩy xóa và vẽ lại tôi vẫn không thể đạt tới độ cực giống; nhưng tôi vẫn cảm thấy niềm phấn chấn không thể kiềm chế bởi vì bức tranh không chỉ đặt tôi vào trung tâm thế giới bao la này mà, vì một lý do quái quỷ và không giải thích được, nó làm tôi có vẻ sâu sắc hơn, phức tạp hơn và bí ẩn hơn con người thực của tôi. Tôi chỉ muốn những anh em họa sĩ của tôi công nhận, hiểu và chia sẻ sự hồ hởi của tôi. Tôi vừa là trung tâm của mọi thứ, giống như một vị vua, đồng thời cũng là chính tôi. Tình huống này nuôi dưỡng lòng tự hào của tôi cũng như làm tăng sự bối rối của tôi. Cuối cùng hai cảm giác này cân bằng lẫn nhau. và tôi có thể thoải mái và rất thích thú với bức tranh. Nhưng để niềm vui này trọn vẹn, tôi biết mọi điểm trên mặt và áo sơ mi của tôi, mọi nếp nhăn, mảng tối, nốt ruồi và mụn nhọt, mọi chi tiết từ ria mép tôi đến kết cấu vải của quần áo tôi mặc, và tất cả màu sắc của chúng ở mọi sắc độ đều phải hoàn hảo, đến tận những chi tiết nhỏ nhặt nhất, đến mức tối đa mà khả năng của những họa sĩ Tây vực có thể đạt tới.  Tôi nhận thấy trên gương mặt những người bạn cũ của tôi nỗi sợ hãi, vẻ hoang mang và cái cảm giác không thể lẩn tránh được đang hủy hoại tất cả chúng tôi: lòng ghen tỵ. Ngoài nỗi khiếp sợ giận dữ của chúng đối với một người bị sa lầy một cách vô vọng vào tội lỗi, chúng còn có sự đố kỵ.

“Trong những đêm tôi ở đây chăm chú nhìn bức tranh này dưới ánh đèn dầu, lần đầu tiên tôi cảm thấy Thượng đế đã từ bỏ tôi và chỉ có Satan làm bạn với tôi trong nỗi cô đơn này,” tôi nói. “Tôi biết rằng cho dù tôi thực sự là trung tâm của thế giới - và mỗi lần tôi nhìn vào bức tranh thì đấy chính là điều tôi mong muốn - bất chấp vẻ rực rỡ của màu đỏ vốn thống trị bức tranh, bất chấp việc đứng giữa những thứ tôi yêu quý này, kể cả những người bạn khổ tu và người phụ nữ giống như Shekure xinh đẹp. tôi vẫn cô đơn. Tôi không sợ việc có tính cách và cá tính, mà cũng không sợ rằng những người khác cúi đầu và thờ phụng tôi; ngược lại, đấy là điều tôi ao ước.”

“Ý anh muốn nói rằng anh không hề cảm thấy hối hận?” Leylek nói giống như một người vừa rời khỏi buổi thuyết giáo ngày thứ Sáu.

“Tôi cảm thấy giống Quỷ sứ không phải bởi vì tôi đã giết hai người, mà bởi vì chân dung của tôi đã được vẽ theo kiểu này. Tôi nghi ngờ rằng tôi giết họ để tôi có thể vẽ bức tranh này. Nhưng bây giờ sự cô đơn tôi cảm thấy khiến tôi kinh hoàng. Việc bắt chước các bậc thầy Tây vực mà không đạt tới sự sắc sảo của họ khiến một nhà tiểu họa trở thành tệ hơn một tên nô lệ. Hiện tôi hết sức muốn thoát ra khỏi cái bẫy này. Dĩ nhiên, tất cả các anh đều biết: Sau khi đã nói và làm mọi chuyện cần thiết, tôi đã giết cả hai để xưởng vẽ có thể tồn tại như xưa nay, và đấng Allah chắc chắn cũng biết điều này.”

“Nhưng điều này thậm chí sẽ mang rắc rối nhiều hơn cho chúng ta,” Kelebek thân yêu nói.

Tôi bất ngờ chộp lấy cổ tay của Siyah ngốc nghếch vốn vẫn đang nhìn bức tranh, và vận hết sức bình sinh bấu chặt vào da thịt anh ta, tôi siết chặt và xoắn cánh tay anh ta một cách giận dữ. Con dao anh ta cầm một cách hờ hững rớt xuống. Tôi chộp lấy.

“Bây giờ các anh không thể giải quyết những rắc rối của các anh bằng cách giao tôi cho kẻ tra tấn,” tôi nói. Làm như chọc vào mắt anh ta, tôi đưa mũi dao lên mặt Siyah. “Đưa cây kim cho tôi.”

Anh ta lấy nó ra và trao cho tôi bằng tay kia, và tôi ghim nó vào khăn quàng. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt như cừu non của anh ta.

“Tôi thương hại cho Shekure xinh đẹp vì nàng không có chọn lựa nào khác trừ việc cưới anh” tôi nói. “Nếu tôi không buộc phải giết Zarif Kính mến để cứu tất cả các anh khỏi bị hủy hoại thì nàng hẳn đã cưới tôi và hạnh phúc. Thực sự thì tôi là người hiểu đầy đủ nhất những câu chuyện và tài năng của người Âu khi cha nàng kể về họ cho chúng ta nghe. Vì vậy, hãy lắng nghe cho kỹ lần cuối những gì tôi nói với anh: Không còn bất cứ chỗ nào nữa ở Istanbul này cho những nhà tiểu họa bậc thầy chúng ta, những người chỉ mong được sống bằng khả năng và danh dự. Phải, đây là những gì tôi nhận ra. Nếu chúng ta bị dồn đến mức phải bắt chước những bậc thầy Tây vực như Enishte quá cố và Đức vua mong ước, chúng ta sẽ bị kiềm chế, nếu không bởi người Erzurum và những kẻ như Zarif Kính mến thì cũng bởi sự hèn nhát chính đáng trong chúng ta, và chúng ta sẽ không thể tiếp tục tồn tại. Nếu chúng ta chịu sự chi phối của Quỷ sứ và tiếp tục phản bội tất cả những gì đã có trước đây trong một cố gắng vô ích hòng đạt được một phong cách và tính cách châu âu, chúng ta vẫn sẽ thất bại - giống như tôi đã thất bại trong việc tự vẽ chân dung mình bất chấp mọi kiến thúc và sự lão luyện của tôi. Bức tranh sơ đẳng mà tôi đã vẽ này, mà thậm chí hao hao giống tôi cũng không đạt được, đã cho tôi thấy những gì chúng ta đã biết từ lâu mà không dám thừa nhận: Phải mất vài thế kỷ mới mong đạt được sự lão luyện của người Tây vực. Nếu cuốn sách của Enishte Kính mến hoàn tất và gửi cho họ, những bậc thầy Venice sẽ cười chúng ta và cái cười chế giễu của họ sẽ tới tai viên pháp quan Venice - chỉ có thế. Họ sẽ châm biếm rằng người Ottoman đã thôi không làm người Ottoman nữa và sẽ không còn sợ chúng ta. Sẽ tuyệt diệu làm sao nếu chúng ta cứ quyết tâm theo con đường của những bậc thầy xưa! Nhưng không một ai muốn điều này, kể cả Đức vua, cả Siyah Kính mến - người đau khổ bởi vì anh ta không có chân dung của Shekure yêu quý. Trong trường hợp đó, các bạn hãy ngồi xuống và chẳng làm gì khác ngoại trừ bắt chước người Âu hết thế kỷ này sang thế kỷ nọ! Hãy tự hào ký tên bạn lên những bức tranh bắt chước của bạn. Những bậc thầy Herat xưa đã cố vẽ thế giới theo cách Thượng đế nhìn nó, và để che giấu tính cách của mình, họ không bao giờ ký tên. Tuy nhiên, các anh thì buộc phải ký tên mình để che giấu việc thiếu vắng tính cách. Nhưng có một giải pháp khác. Mỗi người các anh có lẽ đã được mời gọi, và nếu có chuyện đó, các anh đã giấu không cho tôi biết: Akbar, vua xứ Hindustan, đang vung vãi tiền bạc và những lời tâng bốc, cố tập hợp những họa sĩ tài năng nhất thế giới về triều đình ông ta. Rõ ràng là cuốn sách được hoàn tất cho năm thứ một ngàn lịch Hồi giáo sẽ không được thực hiện ở Istanbul này, mà trong xưởng làm việc ở Agra.”

“Một họa sĩ trước tiên phải trở thành một tên sát nhân để được lên cao và mạnh mẽ như anh sao?” Leylek hỏi.

“Không, là kẻ giỏi giang nhất và tài hoa nhất là đủ,” tôi nói một cách khinh thường.

Một con gà kiêu hãnh gáy hai tiếng ở xa xa. Tôi gom túi đồ và những đồng tiền vàng của tôi, cuốn sổ ghi chép những mẫu vẽ, và đút những tranh minh họa của tôi vào cặp. Tôi nghĩ xem mình có thể giết từng đứa trong bọn chúng như thế nào bằng con dao găm, mà mũi của nó tôi đang dí vào cổ họng Siyah, nhưng tôi chẳng cảm thấy gì ngoài lòng yêu mến đối với những người bạn từ hồi nhỏ - kể cả Leylek, người đã đâm cây kim nhọn vào mắt tôi. Tôi hét vào mặt Kelebek lúc này đã đứng dậy, vì thế khiến anh ta phải ngồi xuống lại. Bây giờ, tin rằng tôi có thể thoát khỏi ngôi nhà này một cách an toàn, tôi bước vội về phía cửa, và tại ngưỡng cửa, tôi vội vã thốt ra những lời quan trọng mà tôi đã nghĩ ra trước đó:

“Việc tôi bỏ chạy khỏi Istanbul sẽ giống cuộc bỏ trốn của Ibn Shakir khỏi Baghdad dưới sự chiếm đóng của người Mông Cổ.”

“Trong trường hợp đó anh phải đi về phía Tây thay vì phía Đông,” Leylek đố kỵ nói.

“Cả Đông lẫn Tây đều thuộc về Thượng đế!” tôi nói bằng tiếng Ả Rập giống như Enishte quá cố.

“Nhưng Đông là đông và Tây là tây,” Siyah nói ([17]).

“Một nghệ sĩ không bao giờ đầu hàng bất cứ kẻ ngạo mạn nào,” Kelebek nói, “anh ta phải vẽ theo cách anh ta thấy phù hợp hơn là lo lắng về Đông hay Tây.”

“Quá đúng.” tôi nói với Kelebek. “Xin hãy nhận cái hôn của tôi.” Tôi đi chưa được hai bước về phía anh ta thì Siyah chộp tôi lại. Một tay tôi cầm chiếc túi đựng quần áo và những đồng tiền vàng của tôi, kẹp dưới nách tay kia là cái cặp đựng các bức tranh. Mải lo bảo vệ tài sản nên tôi không bảo vệ được mình. Tôi không thể ngăn không cho anh ta chộp cánh tay đang cầm dao. Nhưng may mắn không đứng về phía anh ta, anh ta vấp phải chiếc bàn làm việc thấp và mất thăng bằng. Thay vì chộp được cánh tay tôi, anh ta chỉ níu vào nó. Dùng hết sức lực đá anh ta và cắn ngón tay anh ta, tôi thoát được. Anh ta rú lên, sợ mình mất mạng. Rồi tôi giẫm lên bàn tay nó, khiến anh ta đau đớn tột độ. Vung con dao trước mặt hai người kia, tôi la to:

“Đứng im!”

Họ ngồi im tại chỗ. Tôi thọc mũi dao găm vào mũi Siyah, theo cách mà Keykavus đã làm trong truyền thuyết. Khi nó bắt đầu chảy máu, những giọt nước mắt cay đắng bắt đầu chảy từ đôi mắt van nài của anh ta.

“Bây giờ, hãy nói cho tôi biết,” tôi nói, “tôi có bị mù không?”

“Theo truyền thuyết, máu đóng thành cục trong mắt một số người, song ở một số người khác thì không. Nếu đấng Allah hài lòng với nghệ thuật của anh, Người sẽ ban màn đêm lộng lẫy của Người cho anh và chăm sóc anh. Trong trường hợp đó anh sẽ không nhìn thấy thế giới khốn khổ này, song sẽ thấy những khung cảnh tuyệt đẹp mà Người thấy. Nếu Người không hài lòng, anh sẽ tiếp tục thấy thế giới theo cách anh hiện thấy.”

“Tôi sẽ thực hành nghệ thuật đích thực ở Hindustan” tôi nói. “Tôi chưa vẽ được bức tranh để Allah dựa vào đó mà phán xét tôi.”

“Đừng nuôi ảo tưởng rằng anh có thể thoát khỏi những phương pháp của người Tây vực,” Siyah nói. “Anh có biết rằng Akbar Đại hãn đã khuyến khích tất cả họa sĩ của ông ta ký tên vào tác phẩm của họ không? Những thầy tu Dòng Tên ở Bồ Đào Nha từ lâu đã giới thiệu hội họa và những phương pháp của châu Âu ở đó. Hiện giờ chúng có mặt khắp nơi.”

“Luôn luôn có công việc cho người nghệ sĩ nào muốn giữ lại sự thanh khiết, luôn có nơi để trú chân,” tôi nói.

“Phải,” Leylek nói, “bị mù và trốn tới những quốc gia không tồn tại.”

“Tại sao anh muốn giữ nguyên sự thanh khiết?” Siyah hỏi. “Hãy ở lại đây với chúng tôi.”

“Với phần đời còn lại các anh sẽ chẳng làm gì ngoài việc thi đua với người Tây vực để tìm kiếm phong cách cá nhân,” tôi nói. “Nhưng chính vì các anh ganh đua với người Tây vực, các anh sẽ không đạt được phong cách cá nhân.”

“Chúng ta còn biết làm việc gì khác đâu”, Siyah nói một cách nhục nhã.

Dĩ nhiên, không phải nghệ thuật mà chính Shekure xinh đẹp là nguồn hạnh phúc duy nhất của anh ta. Tôi chuyển con dao găm vấy máu khỏi chiếc mũi đang chảy máu của Siyah và đưa nó lên đầu anh ta như lưỡi gươm một đao phủ đang chuẩn bị xử trảm người bị kết án.

“Nếu tôi muốn, tôi có thể cắt đầu anh ngay tức khắc”, tôi nói, thông báo một điều đã quá rõ. “Nhưng tôi sẵn sàng tha cho anh vì con của Shekure và hạnh phúc của nàng. Hãy tử tế với nàng và đừng cư xử tàn nhẫn và bừa bãi với nàng. Hứa với tôi đi”

“Tôi hứa,” anh ta nói.

“Tôi ban Shekure cho anh,” tôi nói.

Nhưng cánh tay tôi hành động theo ý nó, không chú ý đến lời tôi. Tôi đâm con dao xuống bằng tất cả sức lực vào Siyah.

Ngay phút cuối, vừa bởi Siyah đã né, vừa bởi tôi đổi hướng cú đâm, con dao trúng vào vai chứ không ngay cổ anh ta. Tôi hốt hoảng nhìn hành động này hoàn toàn do cánh tay tôi thực hiện.

Khi tôi rút con dao ra, vốn đã cắm lút cán vào người Siyah, chỗ đó loang ra một màu đỏ thuần khiết. Việc tôi đã làm khiến tôi vừa sợ hãi vừa xấu hổ. Nhưng nếu tôi mù đi lúc ở trên tàu, có lẽ khi qua vùng biển Ả Rập, tôi biết rằng mình không thể trả thù bất cứ người anh em tiểu họa nào của tôi.

Leylek, do sợ rằng sẽ đến lượt anh ta, và sợ thế là có lý, đã chạy trốn vào những căn phòng tối bên trong. Giơ cao ngọn đèn, tôi đuổi theo anh ta, nhưng liền thấy sợ hãi và quay trở lại. Hành động cuối cùng của tôi là hôn Kelebek và nói lời giã biệt với anh ta. Vì mùi máu đã xen giữa chúng tôi, tôi không thể hôn anh ta cho thỏa. Nhưng anh ta đã nhận thấy mắt tôi đẫm lệ.

Tôi rời ngôi nhà trong sự im lặng chết chóc bị ngắt quãng bởi tiếng rên rỉ của Siyah. Gần như chạy, tôi băng qua khu vườn ẩm ướt và lầy lội rồi qua khu xóm tối đen. Con tàu đưa tôi đến xưởng làm việc của Akbar Đại hãn sẽ khởi hành sau giờ cầu kinh sáng; vào giờ đó con thuyền chèo cuối cùng sẽ rời bến cảng Galleon để ra con tàu đó. Trong khi tôi chạy, nước mắt tôi chảy dài.

Khi băng qua Aksaray giống như một tên trộm, tôi có thể lờ mờ nhìn thấy ánh bình minh ở chân trời. Đối diện vòi nước đầu tiên trong khu xóm mà tôi gặp, giữa những con phố nhìn những đường hẻm hẹp và các bức tường là ngôi nhà đá mà tôi đã trú ngụ trong đêm đầu tiên đến Istanbul cách nay hai mươi lăm năm. Ở đó, bên trong cổng sân mở rộng, một lần nữa tôi thấy cái giếng mà tôi từng muốn nhảy xuống lúc nửa đênh do bị giày vò bởi tội lỗi vì đã mười một tuổi mà còn đái dầm ra tấm nệm được một người bà con xa trải ra cho tôi để thể hiện lòng hiếu khách tử tế và hào phóng. Lúc tôi đến được Bayazid, cửa hàng của tay thợ sửa đồng hồ (nơi tôi thường đến để sửa chiếc đồng hồ hư của tôi) cửa hàng bán chai lọ (nơi tôi đến mua những chiếc đèn pha lê rỗng, những tách đựng nước mang về trang trí và những chai nhỏ đem về vẽ những thiết kế hoa cỏ rồi bí mật bán cho bọn giàu có) và những nhà tắm công cộng (nơi một thời bàn chân tôi thường đến theo thói quen vì nó vừa rẻ tiền vừa vắng vẻ), tất cả đứng nghiêm kính cẩn trước mặt tôi và đôi mắt đầy lệ của tôi.

Chẳng có ai quanh quán cà phê bị thiêu rụi và phá tan hoang này, cũng chẳng có ai ở nhà Shekure xinh đẹp và người chồng mới của nàng, người lúc này đây có lẽ đang hấp hối. Tôi chẳng cầu mong gì cho họ ngoài hạnh phúc. Khi lang thang khắp các ngả đường trong những ngày sau khi tôi để tay mình vấy máu, mọi con chó, những bóng cây, những cửa sổ che kín rèm, những ống khói đen ngòm, những bóng ma và những kẻ dậy sớm làm lụng vất vả và bất hạnh của Istanbul vội đến thánh đường để cầu kinh sớm luôn luôn nhìn tôi với sự oán thù; nhưng từ giây phút tôi thú nhận những tội ác của mình và quyết định rời bỏ thành phố duy nhất tôi từng biết này, tất cả lại nhìn tôi với vẻ thân thiện.

Sau khi băng qua Thánh đường Bayazid, tôi nhìn xuống cửa sông Halic từ một mũi đất: Chân trời đang sáng dần lên, nhưng mặt nước vẫn đen ngòm. Nhấp nhô giữa những con sóng vô hình, hai chiếc xuồng đánh cá, những con tàu hàng buồm cuộn lại và một con thuyền bỏ không cứ nài nỉ tôi đừng nên bỏ đi. Có phải những giọt lệ từ mắt tôi chảy xuống là do cây kim gây ra không? Tôi tự nhủ hãy mơ về cuộc sống huy hoàng mà tôi sẽ có ở Hindustan nhờ những tác phẩm tráng lệ mà tài năng của tôi sẽ tạo ra ở đó!

Tôi rời con đường, chạy qua hai khu vườn lầy lội và ẩn vào một ngôi nhà đá giữa đám cây xanh. Đây là ngôi nhà tôi đã đến mỗi thứ Ba khi còn là thợ học việc để gặp Thầy Osman và đi theo sau thầy hai bước mang túi, cặp, hộp viết và bàn viết của ông trên đường đến xưởng làm việc của chúng tôi. Nơi đây không có gì thay đổi trừ những cây tiêu huyền trong sân và dọc đường đã quá lớn, đến độ một vẻ hùng vĩ, mạnh mẽ và thịnh vượng gợi nhớ thời vua Suleyman đã phủ trên ngôi nhà và con đường.

Vì con đường dẫn đến cảng đã gần, tôi ngả theo sự cám dỗ của Quỷ sứ, và thuận theo nỗi xao xuyến muốn nhìn lại những cổng vòm của xưởng vẽ nơi tôi đã sống qua một phần tư thế kỷ. Bởi thế nên tôi mới đi theo con đường ngày xưa mình đã đi khi còn là thợ học việc, theo sau Thầy Osman: dọc phố Okçu đầy mùi hoa chanh choáng ngợp vào mùa xuân, đi qua tiệm bánh nơi thầy tôi sẽ mua những chiếc bánh nhân thịt tròn, đi ngược con dốc đầy bọn ăn mày và cây mộc qua cùng cây dẻ, đi qua những rèm cửa đóng kín của ngôi chợ mới và bác thợ cạo mà thầy tôi chào mỗi sáng, dọc theo cánh đồng trống nơi những nghệ sĩ xiếc nhào lộn sẽ dựng lều vào mùa hè và biểu diễn, phía trước những ngôi nhà trọ bốc mùi hôi thối dành cho dân độc thân, bên dưới những cổng vòm Byzantine đầy mùi ẩm mốc, trước mặt lâu đài của vua Ibrahim và cây cột có dạng ba con rắn cuộn quanh trục đứng mà tôi đã vẽ hàng trăm lần, đi qua cây tiêu huyền mà chúng tôi đã vẽ mỗi lần một cách khác nhau, giờ hiện ra trong Hippodrome và dưới cây dẻ cùng cây dâu tằm nơi bọn sẻ và ác là sà xuống hót líu lo như điên vào buổi sáng.

Cánh cửa nặng nề của xưởng làm việc đóng kín. Chẳng có ai ngay lối vào hay bên dưới hàng hiên có mà vòng cung bên trên. Tôi chỉ mới nhìn thoáng lên những cửa sổ nhỏ đóng kín mà từ đó khi còn là những thợ học việc ngột ngạt vì buồn chán, chúng tôi thường ngắm nhìn cây cối thì có người quát lên với tôi.

Hắn ta có giọng the thé chói tai. Hắn nói rằng con dao găm có cán nạm ngọc dính máu trong tay tôi là của hắn và rằng cháu trai hắn, Shevket, và Shekure đã cùng nhau ăn cắp từ nhà hắn.

Đây là chứng cứ rõ ràng cho thấy tôi là người của Siyah, những kẻ đã đột kích nhà hắn đêm qua để bắt cóc Shekure. Người đàn ông ngạo mạn, giọng nói the thé và giận dữ này cũng biết mặt những người bạn họa sĩ của Siyah và biết họ sẽ quay lại xưởng làm việc. Hắn vung một thanh gươm dài lung linh một màu đỏ kỳ lạ và cho thấy rằng hắn có một số ân oán mà, vì lý do nào đó, hắn có ý định giải quyết với tôi. Tôi định nói với hắn rằng có một sự hiểu lầm nào đó, nhưng rối tôi thấy vẻ giận dữ kỳ quái trên khuôn mặt hắn. Tôi có thể thấy rõ qua vẻ mặt hắn rằng hắn sắp sửa tấn công tôi quyết liệt. Tôi muốn nói biết bao câu, “Tôi van anh, hãy dừng lại.” Nhưng hắn đã ra tay.

Tôi thậm chí không kịp giơ dao lên, tôi chỉ giơ tay cầm túi xách lên.

Túi xách rớt xuống. Bằng một động tác nhẹ nhàng, không giảm tốc độ, lưỡi gươm thoạt tiên cắt lìa bàn tay tôi sau đó lướt đến cổ tôi, tiện đứt đầu tôi.

Tôi biết mình đã bị chặt đứt đầu qua hai bước chân kỳ quặc của cái thân tội nghiệp của tôi, bỏ tôi lại phía sau trong cơn bối rối, qua động tác vung vẩy con dao một cách ngốc nghếch và qua cách thân xác lẻ loi của tôi đổ sụm xuống, máu phun ra từ cổ như một vòi nước. Hai bàn chân tội nghiệp của tôi, vốn vẫn tiếp tục di chuyển như thể đang đi, giãy giụa một cách vô ích như chân của một con ngựa đang giãy chết.

Từ mặt đất lầy lội nơi cái đầu tôi rơi xuống, tôi không thể thấy tên sát nhân mà cũng không thấy túi xách của tôi đựng đầy những đồng tiền vàng và tranh vẽ, mà tôi vẫn muốn ôm thật chặt. Những thứ này ở đằng sau tôi, về hướng ngọn đồi dẫn xuống biển và cảng Galleon mà tôi sẽ không bao giờ đến được. Đầu tôi sẽ không bao giờ còn ngoảnh lại và thấy được chúng hay phần còn lại của thế giới này. Tôi đã quên chúng và để cho ý nghĩ của tôi mang tôi đi xa.

Đây là những gì hiện đến với tôi ngay trước khi tôi bị chém đứt đầu: Con tàu sẽ nhổ neo rời cảng; hình ảnh này trong ý nghĩ của tôi được nối liền với mệnh lệnh bảo tôi nhanh chân lên; đó là cách mẹ tôi thường kêu “nhanh lên” khi tôi còn nhỏ. Mẹ ơi, cổ con đau quá và tất cả vẫn im lạng.

Đây là điều mà người ta gọi là cái chết.

Nhưng tôi biết tôi chưa chết. Đồng tử bị đâm thủng của tôi bất động, nhưng tôi vẫn có thể thấy rất rõ qua đôi mắt mở to.

Những gì tôi thấy ở tầm sát đất đầy trong suy nghĩ của tôi: Con đường hơi dốc lên, bức tường, cổng vòm, mái nhà của xưởng vẽ, bầu trời... bức tranh lùi xa dần theo kiểu đó.

Có vẻ như phút giây quan sát này cứ tiếp tục và tôi hiểu ra việc nhìn đã trở thành một dạng ký ức. Tôi nhớ lại những gì tôi nghĩ khi nhìn hàng giờ liền vào một bức tranh đẹp: Nếu các vị nhìn đủ lâu, tâm trí các vị sẽ bước vào thời đại của bức họa.

Mọi thời điểm giờ đã trở thành thời điểm này.

Có vẻ như không ai thấy được tôi, khi ý nghĩ của tôi mờ nhạt dần, cái đầu lấm bùn của tôi sẽ tiếp tục nhìn vào con dốc u buồn này, bức tường đá và những cây dâu, cây dẻ gần kế bên nhưng dẫu có nhiều năm sau nữa cũng không thể nào tới được.

Sự chờ đợi vô tận này bất ngờ có những mức độ tẻ nhạt và cay đắng, tôi chẳng muốn gì hơn là rời bỏ thời điểm này.

CHƯƠNG 59
TÔI, SHEKURE

Siyah giấu chúng tôi trong ngôi nhà của một người bà con xa, ở đó tôi trải qua một đêm không ngủ. Trên giường nơi tôi cuộn người cùng Hayriye và bọn trẻ, thỉnh thoảng tôi có thể ngủ gật giữa tiếng ngáy và tiếng ho, nhưng trong những giấc mơ chập chờn tôi thấy những sinh vật lạ và phụ nữ mà tay chân bị cắt rời rồi được gắn bừa trở lại; họ không ngừng đuổi theo tôi và liên tục làm tôi sực tỉnh. Gần sáng, cái lạnh làm tôi thức giấc, tôi đắp chăn cho Shevket và Orhan, ôm chúng, hôn đầu chúng và cầu xin đấng Allah ban cho chúng những giấc mơ vui vẻ, như tôi từng được hưởng trong những tháng ngày hạnh phúc khi tôi còn ngủ bình yên dưới mái nhà người cha quá cố của tôi.

Tuy nhiên tôi không ngủ được. Sau bài kinh buổi sáng, nhìn ra đường qua rèm cửa sổ trong căn phòng nhỏ tối, tôi thấy những gì tôi luôn thấy trong những giấc mơ hạnh phúc của tôi: Một người như bóng ma, kiệt sức vì chiến đấu và những vết thương trên người, đang vung gậy như thể đang giơ thanh kiếm, khao khát tiến về phía tôi với những bước chân quen thuộc. Trong giấc mơ của tôi, bất cứ khi nào tôi sắp ôm người đàn ông ấy, tôi đều giật mình thức giấc trong nước mắt. Khi tôi thấy người đàn ông trên đường là Siyah, cái tiếng rú vốn không bao giờ thoát khỏi cổ họng tôi trong các giấc mơ liền bật lên.

Tôi chạy ra mở cửa.

Mặt anh sưng vù, bầm tím vì đánh nhau. Mũi anh rách và đầy máu, anh có một vết thương dài từ vai đến cổ, áo sơ mi của anh chuyển sang màu đỏ tươi cửa máu. Giống như người chồng trong những giấc mơ của tôi, Siyah mỉm cười yếu ớt với tôi bởi vì anh rốt cuộc cũng đã về được tới nhà.

“Vào trong đi,” tôi nói.

“Gọi bọn trẻ đi,” anh nói. “Chúng ta về nhà.”

“Anh đâu đủ sức về nhà.”

“Chẳng có lý do gì để sợ hắn ta nữa,” anh nói. “Kẻ sát nhân là Velijan Kính mến, tên Ba Tư.”

“Zeytin...” tôi nói. “Anh đã giết tên khốn đó rồi hả?”

“Hắn sẽ trốn đến Ấn Độ trên con tàu khởi hành từ cảng Galleon,” anh nói và tránh mắt tôi, biết rằng anh đã không hoàn thành đủ nhiệm vụ.

“Anh đi bộ về nhà được không?” tôi hỏi. “Hay ta bảo họ mang ngựa đến cho anh?”

Tôi có cảm giác rằng anh sẽ chết khi về đến nhà và thấy thương hại anh. Không phải bởi vì anh sẽ chết một mình, mà bởi vì anh chưa bao giờ biết bất kỳ hạnh phúc thực sự nào. Tôi có thể thấy từ nỗi buồn và sự quyết tâm trong mắt anh rằng anh ước gì không ở trong ngôi nhà xa lạ này, rằng anh thực sự muốn biến mất mà không bị bất kỳ ai nhìn thấy trong trạng thái khủng khiếp này. Khá khó khăn, người ta đưa anh lên ngựa.

Suốt chặng đường về, khi chúng tôi đi qua những con phố nhỏ chật hẹp tay ôm chặt những túi đồ, hai đứa trẻ thoạt tiên khiếp sợ đến nỗi không dám nhìn mặt Siyah. Nhưng ngồi trên con ngựa đi nước kiệu chầm chậm, Siyah vẫn có thể tả lại anh đã ngăn chặn những âm mưu của tên giết người đốn mạt, kẻ đã giết ông ngoại chúng, và đã thách hắn đấu gươm như thế nào. Tôi có thể thấy bọn trẻ đã nồng nhiệt hơn với anh, và tôi cầu xin đấng Allah: Đừng để anh ấy chết!

Khi chúng tôi tới nhà, Orhan la to, “Về nhà rồi!” với một niềm vui đến độ tôi có trực giác rằng Azrael, Thiên sứ của Thần chết đã xót thương chúng tôi và Allah sẽ ban cho Siyah thêm thời gian nữa. Nhưng qua kinh nghiệm tôi biết rằng người ta không thể biết khi nào Allah Vinh quang đến mang linh hồn của mình đi, và tôi đã không hy vọng một cách thái quá.

Chúng tôi giúp Siyah xuống ngựa. Chúng tôi đưa anh lên lầu để anh nằm trên giường trong phòng cha tôi, căn phòng có cánh cửa xanh. Hayriye đun nước và mang lên lầu. Hayriye và tôi cởi đồ anh, xé quần áo rồi dùng kéo cắt, cởi chiếc áo đầy máu dính vào da thịt anh, khăn quàng vai, giày và đồ lót của anh. Khi chúng tôi mở rèm cửa sổ, ánh nắng mùa đông dịu dàng đậu trên cành lá trong vườn tràn khắp phòng, phản chiếu trên bình đựng nước, nồi, hộp keo, lọ mứt, ly và dao nhíp, soi sáng làn da nhợt nhạt như chết của Siyah và những vết thương màu anh đào ngâm dấm của anh.

Tôi nhúng những miếng khăn trải giường vào nước nóng và xát xà phòng vào. Sau đó tôi lau chùi thân thể Siyah cẩn thận như đang chùi một tấm thảm cổ quý giá, âu yếm và hăm hở như thể chăm sóc một trong những đứa con tôi. Không chạm mạnh vào những vết sưng trên mặt anh, không làm đau những vết cắt trên mũi anh, tôi rửa sạch vết thương khủng khiếp trên vai anh như một bác sĩ có thể làm. Như tôi vẫn làm khi tắm cho bọn trẻ khi chúng còn bé xíu, tôi thì thầm âu yếm với anh bằng một giọng du dương. Trên ngực và cánh tay anh cũng có những vết cắt. Những ngón tay trái của anh tím bầm vì bị cắn. Những miếng khăn tôi dùng để lau người anh nhanh chóng chuyển sang màu đỏ máu.

Tôi sờ ngực anh; qua bàn tay tôi cảm thấy bụng anh mềm mại; tôi nhìn dương vật anh hồi lâu. Tiếng bọn trẻ vọng lên từ dưới sân. Tại sao một số thi sĩ gọi bộ phận này là “bút sậy”?

Tôi nghe thấy Esther bước vào nhà bếp với giọng vui nhộn và vẻ bí ẩn của chị ta khi mang tin tức đến, và tôi xuống nhà chào chị ta.

Chị ta quá kích động đến nỗi cứ thế nói ngay mà không ôm hôn tôi: Cái đầu bị cắt rời của Zeytin được người ta tìm thấy trước cửa xưởng vẽ; những bức tranh chứng tỏ tội ác của hắn ta và chiếc túi xách của hắn cũng được thu hồi. Hắn có ý định trốn đến Hindustan, nhưng lại quyết định đến thăm xưởng vẽ lần cuối trước khi đi.

Có những nhân chứng về sự việc này: Hasan, khi chạm trán Zeytin, đã rút thanh gươm đỏ mà cắt đầu Zeytin chỉ với một nhát chém.

Trong khi chị ta kể lại, tôi nghĩ về nơi người cha bất hạnh của tôi đang có mặt. Biết rằng tên sát nhân đã nhận sự trừng phạt đích đáng, thoạt tiên những sợ hãi của tôi được trút đi. Và sự trả thù đã tạo cho tôi một cảm giác về sự thoải mái và công bằng. Lúc đó, tôi tự hỏi liệu người cha quá cố của tôi có trải qua cảm giác này không; bất chợt tôi thấy rằng toàn bộ thế giới này giống một tòa lâu đài với vô số phòng có cửa ăn thông với nhau. Chúng ta chỉ cần dùng ký ức và óc tưởng tượng là có thể đi từ phòng này đến phòng kế bên, nhưng hầu hết chúng ta do lười biếng nên chẳng mấy khi sử dụng những khả năng này, mà mãi mãi ở trong căn phòng cũ.

“Đừng khóc, cưng,” Esther nói. “Cô thấy đó, cuối cùng mọi thứ đều hóa ra tốt đẹp.”

Tôi đưa cho chị ta bốn đồng vàng. Chị ta cầm lấy, lần lượt bỏ từng đồng vào miệng mà cắn một cách thô bạo với vẻ hăm hở và khao khát.

“Tiền đồng bị bọn Venice làm giả khắp nơi,” chị ta mỉm cười nói.

Ngay khi chị ta ra về, tôi dặn Hayriye không cho bọn trẻ lên lầu. Tôi lên phòng Siyah nằm, khóa trái của lại và nằm sát thân thể trần truồng của Siyah. Rồi vì tò mò hơn vì thèm muốn, vì quan tâm hơn là sợ hãi, tôi làm chuyện mà Siyah muốn tôi làm trong ngôi nhà Người Do Thái bị treo cổ vào đêm cha tôi bị giết.

Tôi không thể nói tôi hoàn toàn hiểu tại sao những thi sĩ Ba Tư suốt nhiều thế kỷ đã so sánh bộ phận của giống đực này với cây bút sậy, cũng như so sánh miệng của phụ nữ chúng tôi với lọ mực, hoặc điều gì nằm đằng sau những so sánh như thế mà nguồn gốc đã bị quên lãng qua việc lặp đi lặp lại như vẹt - đó có phải do cái miệng nhỏ không? Sự im lặng bí ẩn của lọ mực? Có phải chính Thượng đế cũng là một nhà trang trí? Tuy nhiên, tình yêu phải được hiểu không phải qua luận lý của một người đàn bà như tôi, kẻ luôn nghĩ cách để bảo vệ chính mình, mà qua tính phi luận lý của nó.

Vì vậy, hãy để tôi nói cho bạn một bí mật: Ở đây, trong căn phòng đầy mùi chết chóc, không phải cái vật trong miệng tôi làm tôi vui thích. Trong khi tôi nằm đó với cả thế giới đang phập phồng giữa hai môi, những gì khiến tôi vui thích là tiếng líu lo hạnh phúc của hai con trai tôi đang gây gổ đùa giỡn với nhau trong sân.

Trong khi miệng tôi bận ngậm như thế, mắt tôi có thể nhận ra Siyah đang nhìn tôi theo một cách hoàn toàn khác. Anh ấy nói anh ấy sẽ không bao giờ quên khuôn mặt và cái miệng tôi một lần nữa. Như mấy cuốn sách cũ của cha tôi, da anh ấy đã bốc mùi giấy mốc, mùi của bụi và vải trong Quốc khố thấm đẫm tóc anh. Khi tôi buông thả mình và vuốt ve những vết thương, vết cắt và chỗ sưng tấy của anh, anh rên rỉ như một đứa trẻ, càng lúc càng rời xa cái chết, và chính lúc đó tôi hiểu mình sẽ trở nên gắn bó với anh hơn. Giống như một con tàu vững chãi tăng dần tốc độ khi những cánh buồm no gió, cuộc ái ân dần dần tăng tốc đã đưa chúng tôi tự tin đi vào những vùng biển xa lạ.

Qua cung cách anh lèo lái qua những vùng biển này, ngay cả trên giường trong khi gần chết, tôi có thể nói rằng Siyah đã đi qua những vùng biển này nhiều lần trước đây với đủ loại phụ nữ không đứng đắn ai mà đếm xuể bao nhiêu. Trong khi tôi bối rối không biết cánh tay tôi hôn là của tôi hay của anh, tôi đang bú ngón tay của tôi hay cả cuộc đời này, thì anh nhìn bằng một con mắt hé mở, gần như say sưa với những vết thương và khoái lạc của anh, kiểm tra xem thế giới này đang mang anh tới đâu, và thỉnh thoảng anh lại ôm lấy đầu tôi âu yếm, nhìn mặt tôi đầy kinh ngạc, lúc thì như đang nhìn vào một bức tranh, lúc thì như đang nhìn một cô gái điếm Mingeria.

Ở tuyệt đỉnh khoái lạc, anh kêu to giống như những nhân vật huyền thoại bị xả làm đôi bằng một nhát gươm trong những bức tranh huyền thoại vốn đã khiến trận chiến giữa quân đội Ba Tư và Turania trở thành bất tử; việc tiếng kêu đó có thể bị láng giềng nghe thấy khiến tôi kinh hãi. Giống như một nhà tiểu họa bậc thầy đích thực vào phút giây cảm hứng thăng hoa nhất, cầm cây bút sậy của mình dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Allah, nhưng vẫn có thể lưu tâm đến hình thức và bố cục của toàn trang, Siyah tiếp tục hướng dẫn vị trí của chúng tôi trong thế giới này từ một góc trong trí óc anh đi qua cả cơn kích động cực điểm nhất.

“Em có thể nói với họ rằng em đang bôi thuốc mỡ lên các vết thương của anh,” anh nói hụt hơi.

Những lời này không chỉ tạo nên sắc màu cho tình yêu của chúng tôi - vốn đang đến một nút thắt giữa sự sống và cái chết, sự cấm đoán và Thiên đàng, sự vô vọng và nỗi ngượng ngùng, chúng cũng là cái cớ lý giải tình yêu của chúng tôi. Trong hai mươi sáu năm kế tiếp, cho đến khi Siyah người chồng thân yêu của tôi gục xuống chết cạnh giếng vào một sáng nọ vì đau tim. Mỗi chiều, khi ánh nắng chiếu vào phòng qua rèm cửa, và trong mấy năm đầu chung sống, trong tiếng nô đùa của Shevket và Orhan, chúng tôi làm tình, luôn luôn gọi chuyện đó là “bôi thuốc mỡ vào những vết thương.” Đây là chuyện những đứa con ghen tỵ của tôi, mà tôi không muốn chúng phải chịu đòn do những cơn ghen tỵ của một người cha thô lỗ và u sầu, vẫn tiếp tục ngủ chung với tôi trong nhiều năm. Mọi phụ nữ nhạy cảm đều biết tốt hơn là nên ngủ với con của họ thay vì với người chồng ủ ê đã bị cuộc đời làm cho bầm dập.

Chúng tôi, con tôi với tôi, đều hạnh phúc, nhưng Siyah thì không. Lý do rõ rệt nhất cho điều này là vết thương trên vai và cổ anh không lành hẳn; người chồng yêu quý của tôi đã trở thành “tàn tật,” như tôi vẫn nghe người khác nói về anh. Nhưng điều này không ảnh hưởng đến cuộc sống của anh, trừ cái vẻ bề ngoài của nó. Thậm chí có nhiều lúc tôi nghe những người phụ nữ khác, những kẻ thấy chồng tôi từ xa, mô tả anh là đẹp trai. Nhưng vai phải của Siyah thấp hơn vai trái và cổ anh vẫn nghiêng lệch một cách kỳ cục. Tôi cũng nghe người ta tán chuyện rằng một phụ nữ như tôi chỉ có thể cưới một người chồng mà cô ta cảm thấy thấp hơn mình, và nếu như vết thương của Siyah là nguyên nhân cho sự bất mãn của anh, thì nó cũng là nguồn hạnh phúc chung bí mật của chúng tôi.

Về những chuyện đồn đại, có lẽ cũng có một phần sự thực trong đó. Dù tôi có cảm thấy nghèo khổ túng thiếu tới đâu do không thể đi qua những đường phố Istanbul trên lưng một con ngựa đẹp hiếm có, với những nô lệ, tớ gái và người phục vụ vây quanh - những gì mà Esther nghĩ tôi đáng được hưởng - thỉnh thoảng tôi cũng ước ao có một người chồng can đảm và anh dũng luôn ngẩng cao đầu nhìn cuộc đời với vẻ chiến thắng.

Dù thế nào thì Siyah vẫn sầu não. Bởi vì tôi biết rằng nỗi buồn của anh không liên quan gì đến cái vai của anh, nên tôi tin rằng đâu đó, trong một góc bí mật của tâm hồn, anh bị ám bởi một âm hồn đau khổ khiến anh nản chí ngay cả trong những phút giây ân ái cực khoái của chúng tôi. Để xoa dịu âm hồn đó, nhiều lúc anh uống rượu, nhiều lúc anh nhìn chăm chăm những bức minh họa trong sách và quan tâm đến nghệ thuật, nhiều lúc anh cùng các nhà tiểu họa khác theo đuổi những cậu trai xinh đẹp suốt nhiều ngày đêm liền. Có những lúc anh giải khuây bằng cách bầu bạn với đám họa sĩ, nhà thư pháp và thi sĩ trong những trò chơi chữ, những câu nói hai nghĩa, những lời bóng gió, ẩn dụ và những trò nịnh hót, có những lúc anh quên hết mọi thứ mà chuyên tâm vào nhiệm vụ phụ tá và một chân thư ký công quyền cho Tổng trấn Suleyman Gù, người mà anh đã xin được phục vụ.

Bốn năm sau, khi Đức vua băng hà và lên nối ngôi là vua Mehmed, người hoàn toàn quay lưng với nghệ thuật, thì nhiệt tình của Siyah dành cho trang trí và hội họa chuyển từ một niềm vui công khai thành một bí mật riêng tư, cái bí mật mà anh theo đuổi sau những cánh cửa đóng chặt. Có những lúc anh mở một trong những cuốn sách của cha tôi để lại và nhìn với vẻ có lỗi và buồn bã vào một bức minh họa được làm từ thời các con trai của Tamerlane ở Herat – vâng, Shirin đem lòng yêu Husrev sau khi thấy bức tranh vẽ chàng - không phải như thể nó là một phần trong trò chơi của tài năng vẫn được chơi trong giới quý tộc, mà như thể anh đang ngẫm nghĩ về một bí mật ngọt ngào từ lâu đã chôn vào ký ức.

Trong năm thứ ba của triều đại Đức vua, Nữ hoàng Anh gửi cho Đức vua một chiếc đồng hồ kỳ diệu chứa một nhạc cụ với một ống gió. Phái đoàn Anh lắp ráp chiếc đồng hồ khổng lồ này sau nhiều tuần làm việc vất vả với đủ thứ bộ phận, bánh răng, bức tranh và tượng nhỏ mà họ mang từ Anh qua, dựng nó trên dốc Vườn Thượng uyển đối diện Halic. Nhiều đám đông tụ tập trên các con dốc Halic hoặc chèo xuồng đến để xem kinh ngạc và thán phục, thấy những món trang trí và pho tượng to bằng người thật xoay quanh nhau một cách có mục đích trong khi cái đồng hồ khổng lồ đó phát ra tiếng nhạc ồn ào và khủng khiếp, thấy những pho tượng tự khiêu vũ một cách tao nhã và đầy ý nghĩa theo giai điệu cứ như chúng là những tạo vật của Thượng đế hơn là của tôi tớ Người, và thấy đồng hồ báo giờ với toàn thể Istanbul bằng một tiếng rền vang nghe giống tiếng gõ chuông.

Thỉnh thoảng Siyah và Esther nói với tôi chuyện cái đồng hồ, cũng như việc nó là tâm điểm của sự kinh ngạc bất tận của bọn tiện dân và những đám đông ngốc nghếch ở Istanbul, đã thành một nỗi khó chịu cho những người sùng đạo và Đức vua như thế nào vì nó biểu tượng cho sức mạnh của bọn ngoại giáo. Vào một thời điểm khi những lời đồn kiểu này rộ lên, vua Ahmed, người kế vị vua Mehmed, thức dậy lúc nửa đêm dưới sự thúc đẩy của đấng Allah, đã cầm lấy vương trượng và đi từ hậu cung đến vườn Thượng uyển, ở đó Ngài đập vỡ tan cái đồng hồ và những bức tượng của nó thành từng mảnh vụn. Những người kể cho chúng tôi nghe tin tức và những lời đồn này giải thích rằng khi Đức vua ngủ, Ngài thấy khuôn mặt đáng kính của Đấng tiên tri chìm trong ánh sáng thần thánh và vị Tông đồ của Thượng đế này đã cảnh báo Ngài: Nếu Đức vua cho phép thần dân của Ngài kính sợ những bức tranh và, còn tệ hại hơn, kính sợ những vật thể giống hệt Loài người và qua đó cạnh tranh với những tạo vật của Allah, thì vị vua này đang xa rời ý muốn của thánh thần. Họ cũng thêm rằng Đức vua cầm lấy vương trượng khi vẫn đang mơ. Đây hầu như là chuyện Đức vua đã đọc cho sử gia trung thành của Ngài chép lại. Ngài giao cuốn sách này, nhan đề “Những tinh hoa của các bộ sử,” cho các nhà thư pháp thực hiện và ban thưởng hậu hĩ cho họ những túi đầy vàng, dù Ngài cấm các nhà tiểu họa làm minh họa trong đó.

Vì vậy niềm vui của việc vẽ tranh và minh họa, vốn nở rộ suốt một thế kỷ ở Istanbul và được nuôi dưỡng bởi nguồn cảm hứng từ những vùng đất Ba Tư, giờ đã héo khô. Mối xung đột giữa những phương pháp của các bậc thầy Herat xưa với những bậc thầy Tây vực, vốn mở đường cho những cuộc tranh cãi giữa các họa sĩ và những tình huống khó xử bất tận, không bao giờ được giải quyết. Vì ngành hội họa đã bị từ bỏ, các họa sĩ vẽ không giống người phương Đông mà cũng không giống người phương Tây. Các nhà tiểu họa không trở nên giận dữ và nổi loạn, mà giống như những ông già lặng lẽ chết vì bệnh, họ dần chấp nhận tình cảnh này với sự đau khổ và nhẫn nhục. Họ không tò mò mà cũng không mơ về tác phẩm của những bậc thầy vĩ đại cửa Herat và Tabriz, những người họ từng học theo với lòng tôn kính, hoặc những bậc thầy Tây vực với những phương pháp cách tân mà họ từng khao khát, họ bị kẹt một cách tiến thoái lưỡng nan giữa lòng đố kỵ và sự căm ghét. Giống như cánh cửa của ngôi nhà bị đóng lại vào ban đêm và thành phố bị rơi vào bóng tối, hội họa cũng bị từ bỏ. Người ta đã nhẫn tâm quên rằng chúng ta từng nhìn thế giới của chúng ta một cách hoàn toàn khác.

Cuốn sách của cha tôi, buồn thay, vẫn chưa hoàn tất. Những trang đã hoàn tất bị Hasan bỏ lại bừa bãi dưới đất được chuyển đến Quốc khố; ở đó, một thủ thư có năng lực và khó tính đã khâu chúng lại cùng những tranh minh họa khác không ăn nhập gì của xưởng, và vì thế chúng bị tách thành nhiều cuốn sưu tập tranh. Hasan bỏ trốn khỏi Istanbul và biến mất, không ai còn nghe về chú ấy. Shevket và Orhan không bao giờ quên rằng không phải Siyah mà chính chú Hasan của chúng mới là kẻ sát hại cha tôi. Thế chỗ Thầy Osman, người chết hai năm sau khi bị mù, Leylek trở thành Trưởng ban Trang trí, Kelebek, người cũng rất kính nể tài năng của người cha quá cố của tôi, đã dành hết phần đời còn lại để vẽ những họa tiết trang trí thảm, vải và lều. Những phụ tá thợ cả trẻ tuổi của xưởng cũng đắm mình vào công việc tương tự. Không ai coi việc từ bỏ tranh minh họa là mất mát lớn lao. Có lẽ bởi vì không ai từng thấy khuôn mặt của chính mình được vẽ chính xác trên trang giấy.

Toàn bộ cuộc đời tôi, tôi rất muốn được vẽ thành hai bức tranh, điều mà tôi chưa từng đề cập với bất kỳ ai:

1. Chân dung của chính tôi; nhưng tôi biết những nhà tiểu họa của Đức vua dù cố gắng đến đâu rồi cũng sẽ thất bại, bởi cho dù họ có thể thấy nhan sắc của tôi, nhưng tiếc thay, sẽ không ai trong bọn họ tin rằng khuôn mặt một phụ nữ là đẹp nếu không vẽ đôi mắt và đôi môi cô ta giống mắt và môi một phụ nữ Trung Hoa. Nếu họ thể hiện tôi như một mỹ nhân Trung Hoa, theo cách mà những bậc thầy Herat xưa vẽ, có lẽ những ai nhìn nó và nhận ra tôi có thể thấy được khuôn mặt tôi đằng sau khuôn mặt của người đẹp Trung Hoa. Nhưng những thế hệ sau, cho dù nhận ra rằng đôi mắt tôi không xếch như vậy, họ cũng chẳng bao giờ xác định được khuôn mặt tôi thực sự như thế nào. Hiện nay tôi hạnh phúc biết bao trong tuổi già - tôi sống được là nhờ nguồn an ủi từ con cái - ôi, giá như tôi có một bức chân dung mình hồi trẻ!

2. Một bức tranh hạnh phúc: Những gì mà thi sĩ Blond Nazim xứ Ran đã nhắc đến trong một khổ thơ của ông. Tôi biết rõ bức tranh này phải được vẽ như thế nào. Hãy tưởng tượng bức tranh vẽ một người mẹ với hai đứa con; đứa nhỏ được nàng bế trên tay, vừa nâng niu nó vừa mỉm cười, nó đang sung sướng bú bầu ngực căng tròn của nàng và cũng mỉm cười. Đôi mắt thoáng vẻ ghen tỵ của đứa lớn và đôi mắt của người mẹ phải cố định. Tôi thích mình là người mẹ trong bức tranh đó. Tôi muốn chim trên bầu trời được vẽ như thể đang bay, và đồng thời, chúng cứ lơ lửng một cách hạnh phúc và vĩnh viễn ở đó, theo phong cách của những bậc thầy Herat xưa, những người có khả năng dừng thời gian lại. Tôi biết điều đó không dễ dàng.

Orhan của tôi, đứa đủ ngốc để trở nên hợp lý trong mọi vấn đề, một mặt nhắc tôi rằng những bậc thầy Herat dừng được thời gian đó không bao giờ vẽ được tôi như vậy, còn các bậc thầy Tây vực những người thường vẽ những bức chân dung Mẹ và Con, lại không bao giờ có thể dừng được thời gian. Nó khăng khăng trong nhiều năm rằng dù theo kiểu nào thì bức tranh hạnh phúc của tôi cũng không thể vẽ được.

Có lẽ nó đúng. Trong thực tế, chúng ta không tìm những nụ cười trong các bức tranh hạnh phúc, thay vào đó, chúng ta tìm hạnh phúc trong chính cuộc sống. Những họa sĩ biết điều này, nhưng đó chính là điều họ không thể vẽ. Đó là lý do tại sao họ lấy niềm vui của việc nhìn thay thế cho niềm vui của cuộc sống.

Trong niềm hy vọng rằng nó có thể viết lại câu chuyện này, vốn không thể mô tả bằng tranh, tôi đã kể lại cho con trai Orhan của tôi. Không chút do dự, tôi đưa cho nó những lá thư mà Hasan và Siyah đã gửi cho tôi, cùng những bức minh họa con ngựa thô sơ với vết mực nhòe, được tìm thấy trên người Zarif Kính mến tội nghiệp. Đặc biệt, bạn đừng để Orhan lừa nếu nó mô tả Siyah có vẻ đãng trí hơn thực tế, nói về cuộc sống của chúng tôi khó khăn hơn sự thực, Shevket tồi tệ hơn, và tôi đẹp hơn và khắc nghiệt hơn tôi ngoài đời. Để có được một câu chuyện thuyết phục và thú vị thì không có lời dối trá nào mà Orhan không dám nói ra.

1990-92, 1994-98

HẾT.

NIÊN BIỂU

336-330 tr. C.N: Darius trị vì Ba Tư. Ông là vị vua cuối cùng của triều đại Achaemenid và để mất đế quốc mình vào tay Alexander Đại đế.

336-323 tr. C.N: Alexander Đại đế thành lập đế quốc. Ông chinh phục Ba Tư và xâm chiếm Ấn Độ. Những kỳ công trong vai trò người hùng và quân vương của ông đã thành huyền thoại trong khắp thế giới Hồi giáo thậm chí cho đến thời hiện đại.

622: Hegira. Cuộc di cư của Tiên tri Muhammad từ Mecca đến Medina, và cũng là sự kiện khởi đầu lịch Hồi giáo.

1010: Shahnameh (Sách các vua) của Firdusi. Thi sĩ Ba Tư Firdusi (sống khoảng năm 935-1020) dâng tặng Shahnameh của ông cho vua Mahmud xứ Ghazni. Những tình tiết của nó về lịch sử và thần thoại Ba Tư - gồm cuộc xâm lược của Alexander, những chuyện về anh hùng Rustem và cuộc chiến giữa Ba Tư và Turan - đã truyền cảm hứng cho các nhà tiểu họa từ thế kỷ 14.

1202-1227: Triều đại của Thành Cát Tư Hãn. Ông xâm lược Ba Tư, Nga và Trung Hoa, và bành trướng đế quốc của ông từ Mông Cổ đến châu Âu.

Khoảng 1141-1209: Lúc sinh thời của Thi sĩ Ba Tư Nizami. Ông viết bộ sử thi lãng mạn Khamse (Ngũ bảo), gồm những câu chuyện sau, tất cả đều đã truyền cảm hứng cho những nhà tiểu họa: Makhzan al-Asrar, Khusraw o Shirin, Layli o Majnun, Haft Peykar và Eskandarname.

1258: Vụ cướp phá thành Baghdad. Hốt Liệt Ngột (trị vì 1251-1265), cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, chinh phục Baghdad.

1300-1922: Đế quốc Ottoman, một cường quốc Hồi giáo dòng Sunni, cai trị đông nam châu Âu, Trung Đông và Bắc Phi. Vào lúc bành trướng nhất, đế quốc này vươn tới các cổng thành Vienna và Ba Tư.

1370-1405: Triều đại của vua Tamerlane Thổ Nhĩ Kỳ. Đã chinh phục những vùng đất mà Garagoýunly cai trị ở Ba Tư. Tamerlane chinh phục những lãnh thổ từ Mông Cổ đến Địa Trung Hải bao gồm các phần của Nga, Ấn Độ, Afghanistan, Iran, Iraq và Anatolia (nơi ông đánh bại vua Ottoman Bayazid I năm 1402).

1370-1526: Triều đại Timurid, do Tamerlane thiết lập, thúc đẩy sự hồi sinh đời sống trí tuệ và nghệ thuật, trị vì ở Ba Tư, Transoxiana và Trung Á. Các trường phái tiểu họa tại Shiraz, Tabriz và Herat hưng thịnh dưới sự cai trị của dòng họ Timurid. Đầu thế kỷ 15, Herat là trung tâm hội họa của thế giới Hồi giáo và là quê hương của bậc thầy vĩ đại Bihzad.

1375-1467: Garagoýunly (tiếng Anh: Blacksheep, Cừu đen) một liên minh bộ tộc Thổ Nhĩ Kỳ, cai trị nhiều vùng đất của Iraq, đông Anatolia và Iran. Vua Jihan (trị vì năm 1438-1467), vua cuối cùng của Garagoýunly, bị Uzyn Hasan (tiếng Anh: Tall Hasan, Hasan Cao) của nước Akgoýunly đánh bại năm 1467.

1378-1502: Akgoýunly (tiếng Anh: Whitesheep, Cừu trắng) liên minh bộ tộc Thổ Nhĩ Kỳ cai trị bắc Iraq, Azerbaijan và đông Anatolia. Vua Akgoýunly là Uzyn Hasan (trị vì năm 1452- 78) đã không kìm hãm được sự bành trướng về phía đông của đế quốc Ottoman, nhưng ông đã đánh bại vua Jihan của Garagoýunly năm 1467 và Abu Said của Timurid năm 1468, mở rộng lãnh thổ đến Baghdad, Herat và Vịnh Ba Tư.

1453: Vua Ottoman Fatih Mehmet (Mehmet Kẻ Chinh phục) chiếm Istanbul. Chấm dứt đế quốc Byzantine. Vua Mehmet về sau đặt Bellini vẽ chân dung mình.

1501-1736: Đế quốc Safavid cai trị ở Ba Tư. Việc xác lập Hồi giáo dòng Shia thành quốc giáo đã giúp thống nhất đế quốc. Kinh đô của đế quốc thoạt tiên đặt ở Tabriz, sau chuyển đến Kazvin, và sau đến Isfahan. Vị vua đầu tiên của Safavid, vua Ismail (trị vì 1501-1524), đã chinh phục những vùng đất do Akgoýunly cai trị ở Azerbaijan và Ba Tư. Ba Tư suy yếu đáng kể dưới triều vua Tahmasp I (trị vì 1524-1576).

1512: Cuộc trốn chạy của Bihzad. Nhà tiểu họa vĩ đại Bihzad đã di cư từ Herat đến Tabriz.

1514: Vụ cướp phá tòa lâu đài Bảy tầng trời. Vua Ottoman Yavuz Selim, sau khi đánh bại quân Safavid tại Chaldiran, đã cướp bóc lâu đài Bảy tầng trời ở Tabriz. Ông trở về Istanbul với một bộ sưu tập quý giá gồm các tranh tiểu họa và sách Ba Tư.

1520-1566: Kanuni Suleyman (Suleyman Phi thường) và Thời đại Hoàng kim của nền văn hóa Ottoman. Triều đại vua Ottoman Kanuni Suleyman. Những cuộc chinh phục quan trọng đã bành trướng đế quốc về phía đông và tây, trong đó có cuộc vây hãm Vienna lần thứ nhất (1529) và chiếm lấy Baghdad từ đế quốc Safavid (1535).

1556-1605: Triều đại Akbar, Hoàng đế Hindustan, hậu duệ của Tamerlane và Thành Cát Tư Hãn. Ông đã lập các xưởng vẽ cho các nhà tiểu họa ở Agra.

1566-1574: Triều đại vua Selim II của đế quốc Ottoman. Những hòa ước được ký với Áo và Ba Tư.

1571: Trận đánh Lepanto. Một trận thủy chiến kéo dài bốn giờ giữa các lực lượng Thiên chúa giáo liên minh và quân Ottoman sau cuộc xâm lược Cyprus của người Ottoman (1570). Dù Ottoman bại trận nhưng Venice vẫn nhượng Cyprus cho Ottoman vào năm 1573. Trận đánh có tác động lớn lên tinh thần người Âu và là đề tài cho nhiều bức tranh của Titian, Tinteretto và Veronese.

1574-1595: Triều đại vua Murat III của Ottoman (triều đại xảy ra các sự kiện trong tiểu thuyết này). Triều đại của ông chứng kiến một loạt cuộc đấu tranh trong khoảng 1578-1590, được gọi là những cuộc chiến Ottoman-Safavid. Ông là vị vua Ottoman quan tâm nhất đến tiểu họa và sách, từng cho thực hiện Huner-nama (Sách các kỹ năng), Sur-nama (Sách các lễ hội) và Zafar-nama (Sách các chiến thắng) ở Istanbul. Những nhà tiểu họa Ottoman nổi bật nhất, trong đó có Osman nhà tiểu họa (Sư phụ Osman) và những học trò của ông, đã góp công vào những sách đó.

1576: Đề nghị giảng hòa của vua Tahmasp với Ottoman. Sau nhiều thập niên thù địch, vua Safavid Tahmasp đã gửi lễ vật cho vua Ottoman Selim II sau khi vua Kanuni Suleyman băng hà nhằm thúc đẩy một nền hòa bình lâu dài. Trong số những món quà gửi đến Edirne có một phiên bản cực hiếm của cuốn Shahnameh, được thực hiện trong thời gian hai mươi lăm năm. Cuốn sách này sau được chuyển vào Quốc khố trong lâu đài Topkapi.

1583: Nhà tiểu họa Ba Tư Velijan (nghệ danh Zeytin), khoảng mười năm sau khi đến Istanbul được triệu đến làm việc cho triều đình Ottoman.

1587-1629: Triều đại của vua Safavid Abbas I, bắt đầu bằng việc phế truất người cha Muhammad Khodabandeh của ông. Vua Abbas làm suy yếu thế lực của người Thổ Nhĩ Kỳ ở Ba Tư bằng việc chuyển kinh đô từ Kazvin đến Isfahan, ông giảng hòa với Ottoman năm 1590.

1591: Câu chuyện của Siyah và các họa sĩ cung đình Ottoman. Một năm trước lễ kỷ niệm lần thứ một ngàn (tính theo năm âm lịch) cuộc di cư Hegira, Siyah từ phương đông trở về Istanbul bắt đầu những sự việc được kể lại trong tiểu thuyết này.

1603-1617: Triều đại của vua Ottoman Ahmet I, người phá hủy cái đồng hồ lớn cùng nhiều bức tượng được Nữ hoàng Elizabeth I gửi đến cho Đức vua làm quà tặng.

THỬ TÌM MỘT CÁCH GIẢI MÃ TÊN TÔI LÀ ĐỎ

(Thay lời bạt)

Đến đây các bạn đã đọc xong Tên tôi là Đỏ. Chúng tôi, những người dịch, vốn đã sống với tiểu thuyết này vài tháng để hoàn tất bản dịch, rất muốn bàn bạc trao đổi với quý bạn những suy nghĩ của mình, trong một nỗ lực thấu hiểu được tác phẩm với tư cách người đọc, chứ không phải với tư cách một nhà phê bình chuyên nghiệp.

Chúng tôi tin rằng (mà niềm tin thì không đòi hỏi phải chứng minh, nên rất mong các bạn lượng thứ cho chúng tôi việc chứng minh này) mọi sáng tác văn học và nghệ thuật đều có nhiều cách đọc, hiểu và lý giải khác nhau. Do đó, chắc chắn một kiệt tác như Tên tôi là Đỏ cũng vậy (nó là kiệt tác vì nó đủ thuyết phục và hấp dẫn đối với nhiều tầng lớp người đọc ở nhiều nền văn hóa khác nhau, Đông cũng như Tây). Nên chúng tôi tin rằng (lại “tin” nữa) tác phẩm này có thể có ba tầng ý nghĩa, hay ba cách đọc khác nhau. Và chúng tôi gọi “ba tầng” cho dễ hiểu chứ không có ý đồ cho rằng tầng này thâm sâu hơn tầng kia, nghĩa là, mỗi tầng đều có giá trị như nhau.

Thứ nhất, bạn có thể xem nó như một tiểu thuyết hình sự. Xét cho cùng, tiểu thuyết hình sự không có gì là kém cỏi, hay thiếu tính văn chương, vì tác giả phải có tay nghề đủ cao để buộc người đọc lật sang trang kế tiếp cho đến hết cuốn sách, buộc người đọc phải suy nghĩ, lý giải (tức là “sống”), cùng nhân vật cho đến kết thúc. Nói cách khác, tiểu thuyết hình sự cũng khó viết như mọi loại hình tiểu thuyết khác, thậm chí còn khó viết hơn loại tiểu thuyết tự sự, với nhân vật xưng “tôi” (ngôi thứ nhất), và quyền tùy nghi phát biểu mọi điều mình nghĩ mà không cần chứng minh hay lý giải cho tác giả.

Tên tôi là Đỏ cũng kể về chuyện sát nhân (không chỉ một, mà là hai vụ sát nhân), quá trình điều tra, truy cứu, và sau cùng, tìm ra thủ phạm (nếu nhìn theo hướng này thì Tội ác và Trừng phạt của Dostoyevsky cũng là một tiểu thuyết hình sự). Cách kể chuyện theo lối tự thuật (account) của nhiều nhân vật đã cho phép tác giả mô tả suy nghĩ và diễn biến tâm lý của từng nhân vật mà không cần dựng lên tình huống làm lộ ra tâm lý đó, nghĩa là, tác giả có thể thọc lưỡi dao mổ xẻ của mình vào mỗi nhân vật, sâu hay nông tùy thích. Và cách kể chuyện đó dẫn dắt độc gia bóc trần từng lớp vỏ tâm lý, vì không hẳn mỗi nhân vật đều thú thật ngay từ dòng đầu những suy nghĩ của mình, cho đến khi nhận ra thực chất của mỗi nhân vật, và mỗi vấn đề theo những cách nhìn khác nhau.

Tiểu thuyết hình sự phải duy trì sự tò mò, căng thăng và hồi hộp của người đọc cho đến phút chót. Thậm chí, tiểu thuyết hình sự còn phải cung cấp cho người đọc một kết thúc có hậu (thí dụ như thiện thắng ác thua, kẻ tốt được tưởng thưởng và kẻ xấu bị trừng phạt, hay thủ phạm bị vạch mặt còn công an điều tra được vinh danh) phù hợp với cách nghĩ của mọi người (điều này lý giải tại sao một truyện hình sự, hay một truyện ma, dù rùng rợn tới đâu, cũng không gây đau tim và bất ngờ như một trận bóng đá). Tên tôi là Đỏ hội đủ những tiêu chuẩn trên. Nên các bạn đừng ngạc nhiên khi nhiều bài phê bình nhận định đã gọi tác phẩm này là “truyện hồi hộp” (thriller) hay “kỳ án” (mystery), có lẽ vì mục đích thúc đẩy độc giả tìm đọc tác phẩm này.

Không chỉ có vậy, Tên tôi là Đỏ còn là một tiểu thuyết lịch sử. Nó kể về một giai đoạn trong lịch sử nghệ thuật hội họa Thổ Nhĩ Kỳ (nên nhớ, Pamuk học kiến trúc trước khi viết văn, điều đó lý giải tại sao ông am tường nghệ thuật truyền thống Thổ Nhĩ Kỳ). Bối cảnh câu chuyện là cuối thế kỷ 16 (chính xác là năm 1591 như tác giả định rõ và Pamuk, trong nhiều lần trả lời phỏng vấn, đã kêu gọi độc giả đọc kỹ, và đọc lại nhiều lần, phần Niên biểu ở cuối sách).

Cuối thế kỷ 16 là giai đoạn suy tàn của nền tiểu họa Thổ Nhĩ Kỳ, hay nền hội họa Hồi giáo nói chung. Trong thế giới Hồi giáo, hội họa không được trọng vọng, thậm chí còn bị cấm đoán vì giáo lý đạo Hồi cấm tôn thờ ngẫu tượng (tức hình ảnh của thần thánh mang hình dáng con người). Từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 16, hội họa Thổ Nhĩ Kỳ, dù đạt đỉnh cao và để lại nhiều tác phẩm có giá trị, vẫn chỉ đóng vai trò minh họa cho văn bản. Nhà thư pháp (người biết đọc biết viết và có thể chép lại cổ thư) luôn được coi là nghệ sĩ đích thực trong khi nhà minh họa chỉ vẽ tranh để thể hiện những cảnh trí hay chi tiết của câu chuyện được ghi trong cổ thư, và bị đánh giá thấp hơn. Ban đầu họ chỉ vẽ tranh ở phần lề trang sách, do đó họ được gọi là “tiểu họa” (những bức tranh cực nhỏ), rồi sau đó mới giành được quyền có tranh minh họa chiếm nguyên cả trang sách.

Do giáo luật cấm thờ ngẫu tượng, nên hội họa Thổ Nhĩ Kỳ không mang tính tả chân mà chỉ có tính ước lệ. Họ vẽ người có hình dáng người (nghĩa là có chân tay, mặt mũi, áo quần, vân vân, của con người, chứ không giống một ai cụ thể), và xác định đó là ai qua trang phục, màu sắc hay cử chỉ trong tranh. Từ Giáo luật này, các giáo sĩ suy ra rằng hội họa không được quyền sáng tạo (vì “sáng tạo” là độc quyền của Thượng đế) mà chỉ có quyền thể hiện những khái niệm, hay những câu chuyện, mà mọi người đều đã biết, qua những hình ảnh ước lệ, tựa như trong nghệ thuật “hát bộ” (không phải “hát bội”) của Việt Nam, một diễn viên kẹp một cây chổi giữa hai chân phải được hiểu là “một người đang cưỡi ngựa”, không cần biết người đó là vua quan hay thứ dân. Tư tưởng này đưa tới cách vẽ hoàn toàn mô phỏng theo những bậc thầy xưa chứ không dám tìm ra một phong cách mới, và điều đó được coi là duy trì, hay phát huy, truyền thống cổ, và là một việc làm “tốt hoặc hợp đạo giáo.” Cách vẽ này, tức cách vẽ của những bậc thầy xưa, cũng chẳng có gì sáng tạo mà chỉ là ít nhiều mô phỏng hoặc chịu ảnh hưởng hội họa Trung Hoa, vốn lan tới Tây Á theo sự bành trướng của để quốc Mông Cổ vào thế kỷ 12-13. Đó là cách vẽ không theo luật phối cảnh, vật ở gần hay ở xa đều giữ nguyên vai trò của nó chứ không thay đổi theo tầm nhìn gần hay xa. Đó là cách vẽ theo cái nhìn “Từ một đỉnh tháp,” giống như cách nhìn thế giới của Thượng đế, tức là “Nhìn từ trên cao.” quan điểm này được biện minh bằng lý luận rằng “nếu theo luật phối cảnh thì một thánh đường Hồi giáo, hay nhà vua, hay Thượng đế, khi ở xa, sẽ nhỏ hơn một con chó, hay thậm chí, nhỏ hơn một sợi lông chó. Và vẽ như thế là phạm thượng hoặc báng bổ.”.

Cuối thể kỷ 16, theo chân các nhà truyền đạo Thiên chúa giáo và những đội quân viễn chinh chiếm thuộc địa, hội họa Tây phương bắt đầu lan vào thế giới Hồi giáo, cụ thể là phong cách tả thực và luật phối cảnh. Thế là ở đây nảy sinh xung đột giữa Đông và Tây, tức giữa hai nền văn hóa, chủ đề chính của tiểu thuyết này. Các họa sĩ trong truyện bị giằng xé giữa hai lựa chọn: học theo phong cách Tây phương, hoặc tiếp tục đi theo truyền thống, và hai lựa chọn này còn nghiêm trọng hơn vì chúng gắn liền với ý thức tôn giáo (theo truyền thống nghĩa là tôn trọng giáo luật, còn theo phương Tây là trái giáo luật).

Dĩ nhiên, những người muốn học theo phong cách Tây phương cũng tìm được cơ sở lý luận, dựa vào tôn giáo, cho quyết định của mình.

Họ trích dẫn một câu trong kinh Koran: “Đông và Tây đều thuộc về Thượng đế”, để biện minh rằng vẽ theo kiểu nào cũng là thuận theo ý muốn của Thượng đế chứ không có gì là trái giáo luật cả.

Và theo quy luật tất yếu, cái mới sẽ thắng cái cũ. Nền hội họa phương Tây đã lấn át hội họa Hồi giáo (hay phương Đông) truyền thống và đẩy nó vào lịch sử, và từ thế kỷ 17 trở đi, nền tiểu họa, và cả hội họa Thổ Nhĩ Kỳ, bước vào buổi suy tàn và các họa sĩ Thổ bắt đầu vẽ theo phong cách Tây phương, cho đến tận hôm nay. Đó cũng là bi kịch xảy ra với các nhà tiểu họa trong tác phẩm này.

Ỏ tầng thứ ba, theo chúng tôi, Tên tôi là Đỏ chính là tiếng kêu bi thương của nghệ thuật trước những thế lực phi nghệ thuật. Nghệ thuật, và người làm nghệ thuật không còn được quyền là chính mình và phục vụ trước hết cho chính mình. Nghệ thuật, để tồn tại, phải phục vụ cho những thế lực phi nghệ thuật, có thể là thế quyền (vua chúa, những kẻ có quyền lực) hoặc thần quyền (như tôn giáo, guồng máy chế ngự tinh thần và tư tưởng của con người). Dĩ nhiên, nghệ thuật có thể phục vụ cho bất kỳ ai, bất kỳ thế lực nào hay chủ trương nào, để đổi lấy tiền bạc, những ưu đãi hay danh vọng cho người làm nghệ thuật. Nhưng đó, theo chúng tôi tin, không phải là vai trò hay nhiệm vụ duy nhất của nghệ thuật.

Nhưng thôi, chúng ta không nên rơi vào cuộc tranh luận muôn thuở và nhạy cảm, giữa “nghệ thuật vị nhân sinh hay nghệ thuật vị nghệ thuật”. Trong tác phẩm này, những nhà tiểu họa, tức những người làm nghệ thuật, đã sống, suy nghĩ và làm việc theo kiểu những người khác (cụ thể là giới thế quyền và thần quyền) đã suy nghĩ và làm việc. Họ không biết, và không có khả năng, suy nghĩ và sáng tạo độc lập với tư cách con người và tư cách nghệ sĩ. Và nói theo kiểu của Karl Marx và những tiền bối của ông, họ đã vong thân (đánh mất, hay bỏ quên, chính mình). Đó là tình trạng mà trong đó con người không hiểu mình là ai, đang giữ vai trò gì, và do đó phải hành xử ra sao, và con người đành rơi vào hoặc trôi theo, cung cách suy nghĩ và hành động của người khác của giai cấp khác, và thậm chí của kẻ thù của mình.

Các nhà tiểu họa trong đây đã yêu, ghét, vui, buồn, hay thậm chí giết nhau, không phải vì họ muốn như thế, mà hoàn toàn là do họ bị chi phối bởi một đạo giáo, triết lý, hay cách tư duy của người khác, hay cách nghĩ được xã hội thừa nhận.

Đến đây, xin bạn đọc cho phép tôi được kể một chuyện ngoài lề. Trong tác phẩm The Painted Bird (Con chim bị sơn), Zerzi Kosinski (nhà văn Ba Lan, 1933-1991) đã mô tả một thợ bẫy chim sống một mình trong rừng, và thú giải khuây của ông ta là lấy những con chim nhỏ, không bán được nhiều tiền, rồi phết sơn lên lông của chúng. Khi được thả ra, những con chim này liền cất tiếng kêu. Tiếng kêu đó thu hút đồng loại của nó, nhưng khi những con chim đồng loại tới gần, chúng lại rất đỗi hoang mang vì nghe tiếng kêu thì thấy quen thuộc, nhưng nhìn hình dáng thì rất xa lạ (trọng mắt mà rẻ tai). Sự hoang mang này đã đẩy một số con tấn công, và có khi giết chết, con chim bị sơn. Dĩ nhiên, bạn có thể kết luận rằng những con chim giết nhau vì khác biệt bề ngoài, nhưng tôi lại nghĩ rằng, ở một tầng ý nghĩa khác, Kosinski đã tạo nên một ẩn dụ tuyệt vời về kiếp vong thân, ở cả hai phía, không sơn và bị sơn.

Trở lại với Tên tôi là Đỏ, chúng tôi tin rằng Pamuk đã nhấn mạnh ý nghĩa này khi ông rất nhiều lần, mô tả tình yêu thương bạn bè và thầy trò giữa các bậc thầy tiểu họa, ngay cả khi họ quyết định giết nhau, qua lời tự thuật của kẻ sát nhân cũng như các nạn nhân của y. Nghĩa là, tuy rất thương nhau nhưng họ vẫn giết nhau, không phải vì họ muốn thế, mà bởi vì khác biệt trong tư duy và niềm tin tôn giáo, và dĩ nhiên cũng vì lòng vị kỷ, muốn bảo toàn sinh mạng hay những gì mình đã có được.

Đối mặt với bi kịch đó, người nghệ sĩ có những phản ứng riêng, có kẻ bỏ nghề hay làm những công việc nghệ thuật tầm thường để kiếm sống, như trang trí thảm, đồ gốm, hay chai lọ, và cực đoan hơn, tự đâm mù mắt mình để khỏi phải thay đổi phong cách hay sáng tác theo ý người khác, nhất là ý muốn của giới thống trị (như trường hợp Sư phụ Osman và Bihzad trong tác phẩm này). Ta hãy khoan phê phán việc làm đó là đúng hay sai, mà hãy cố hiểu tại sao họ làm như thế. Chi tiết này trong truyện không chỉ là sự kiện, mà còn là một biểu tượng, và qua đó, tác giả lại buộc ta tiếp tục suy nghĩ về kiếp vong thân của con người.

Tôi đã đọc, dịch và yêu mến tác phẩm này, rồi kính trọng cả tác giả vì những hiểu biết và tình cảm mà ông đã dành cho truyền thống văn hóa của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ của ông. Chắc chắn rằng, qua tác phẩm của ông, độc giả thế giới đã được tiếp cận, thấu hiểu và yêu mến, dù ít hay nhiều, nền văn hóa Thổ cũng như cả nền văn minh Hồi giáo, dù rằng trong bối cảnh hiện đại, nền văn minh ấy đang bị gắn liền, hay gán ghép, một cách ít nhiều sai lạc, với những hành vi khủng bố.

Chúng tôi mong rằng các bạn sẽ xem đây là những ý nghĩ vụn vặt của một người đọc (chỉ là người đọc thôi) chứ không phải là nhà phê bình hay giảng dạy về lý luận văn học, nên do đó chúng tôi rất mong nhận được ý kiến trao đổi, chia sẻ hoặc phản bác của bạn đọc gần xa.

Và sau đó, qua một vài trống canh, các bạn có thể quên hết những ý kiến trên và trực tiếp thưởng thức lại danh tác này.

PHẠM VIÊM PHƯƠNG.

[1] Sogukcesme: Cổng Nguồn lạnh.

[2] Alay Meydani: Sân duyệt binh.

[3] Bab-us-Selam: Còn gọi là Cổng chào mừng hoặc Cổng thứ nhì.

[4] Divan Meydani: Sân thứ nhì.

[5] Trong những đoạn trên, tác giả mô tả đường vào lâu đài Topkapi, thời đó là hoàng cung của vua Thổ. Hầu hết địa danh trong lâu đài này đã được chuyển sang tiếng Anh , nhưng không hoàn toàn giống với cách dịch của các sách hướng dẫn du lịch.

[6] Có lẽ tác giả muốn nói tới cuốn Kitab al-Jalil fi’ilm al-firasah (Sách quan trọng về khoa nhân tướng học) của Shams al-Din al-Dimashqi (chết 1327), trong đó trích dẫn bảy tác giả cổ đại về vấn đề này, như Aristotle, Fakhr al-Razi, Ibn al-Arabi... Cuốn này được coi là tác phẩm bằng tiếng Ả Rập phổ biến nhất về lãnh vực này.

[7] Hippodrome: Trường đua ngựa được xây từ thời đế quốc La Mã khi Istanbul còn mang tên Constantinople, thủ phủ của đế quốc Đông La Mã. Khi triều đại Ottoman chiếm thành phố này năm 1453 và biến nó thành kinh đô Thổ Nhĩ Kỳ. Kiến trúc này bị bỏ hoang phế vì người Thổ không thích môn đua ngựa.

[8] Zafar-nama: Sách các chiến thắng.

[9] Selim: Cương nghị.

[10] Bostan: Khu vườn.

[11] Al-Araf: Những đỉnh cao.

[12] Divan Meydani: Sân Thượng hội đồng.

[13] Kalila wa Dimna: Bản dịch tiếng Ả Rập của Panchatantra, tập ngụ ngôn loài vật bằng thơ chen lẫn văn xuôi, nguyên gốc của Ấn Độ.

[14] Zuhal: Vị thần trong truyền thống Ả Rập, tương đương với thần Saturnus của La Mã, Kronos (Cha chủa thần Zeus) của Hy Lạp, Thổ tinh của Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, và Shani trong truyền thống Ấn Độ, vốn được coi là vị thần phán xét mọi người theo hành vi thiện hay ác của họ.

[15] Nuh chính là nhân vật Noah, người đóng con tàu để cứu mọi sinh vật qua trận Đại Hồng Thủy trong Kinh thánh. Trong Koran, Nuh được coi là một trong năm vị tiên tri chính của Hồi giáo. Câu chuyện về ông được kể trong chương “Hud.”

[16] Al-Baqara: Con Bò.

[17] Câu trước, “Đông và Tây đều thuộc về Allah” là trong kinh Koran chương Al-Baqara (Con bò). Câu sau “Đông là đông và Tây là tây” là câu thơ nổi tiếng của Rudyard Kipling (1865-1936) trong bài “The Ballad of East and West.” được tác giả gắn vào miệng một nhân vật ở thế kỷ 16.

Không có nhận xét nào: