Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016

Thằng Cười - Tập II

 

images

                        

               Thằng Cười

                           L'Homme qui rit

                                    Tác Giả:  Victor Hugo

 

 

 

THẰNG CƯỜI – Tập II

Văn học cổ điển nước ngoài – Văn học Pháp

Hoàng  Lâm và Lệ Chi dịch

                                    Phùng Văn Tửu giới thiệu

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC

Mục Lục

III. BẮT ĐẦU RẠN NỨT

1. QUÁN TACAXTƠ.

2. HÙNG BIỆN GIỮA TRỜI

3. NƠI NGƯỜI KHÁCH QUA ĐƯỜNG XUẤT HIỆN LẠI

4. TRONG THÙ GHÉT, ĐỐI LẬP LẠI HÓA ĐỒNG TÂM

5. QUAN THIẾT TRƯỢNG

6. MÈO HỎI CUNG CHUỘT

7. VÌ SAO MỘT ĐỒNG TIỀN VÀNG LẠI LẪN TRONG ĐỒNG TIỀN XU.

8. TRIỆU CHỨNG NGỘ ĐỘC.

9. ABYSSUS ABYSSUM VOCAT

IV. HẦM HÌNH SỰ.

1. SỰ CÁM DỖ CỦA THÁNH GUYNPLÊN.

2. HẾT VUI ĐÙA ĐẾN NGHIÊM NGHỊ.

3. LEX, REX, FEX.

4. UYÊCXUYT THEO DÕI CẢNH SÁT

5. NƠI HẮC ÁM

6. DƯỚI NHỮNG BỘ TÓC GIẢ NGÀY XƯA LÀ NHỮNG PHÁP QUAN NÀO?

7. RUN SỢ

8. RÊN SIẾT

V.BIỂN CẢ VÀ SỐ PHẬN CÙNG RUNG CHUYỂN TRƯỚC MỘT CƠN GIÓ

1. TÍNH VỮNG CHẮC CỦA NHỮNG VẬT MỎNG MANH

2. VẬT GÌ TRÔI DẠT CŨNG TẤP VÀO BỜ

3. KHÔNG MỘT AI TỪ XIBIRI ĐỘT NGỘT SANG XÊNÊGAN MÀ KHÔNG BỊ NGẤT (HÂMBON).

4. QUYẾN RŨ

5. TƯỞNG NHỚ, HÓA RA QUÊN

VI. NHỮNG BỘ MẶT KHÁC NHAU CỦA UYÊCXUYT

1. LỜI NGƯỜI YẾM THẾ NÓI

2. VIỆC ÔNG TA LÀM.

3. NHỮNG CHUYỆN RẮC RỐI.

4. MOEDIBUS SURDLS CAMPANA MUTA

5. LỢI ÍCH QUỐC GIA THỂ HIỆN CẢ TRONG VIỆC NHỎ LẪN VIỆC LỚN.

VII TITĂNG

1. THỨC TỈNH.

2. CUNG ĐIỆN CŨNG GIỐNG HỆT RỪNG SÂU.

3. EVA

4. XATĂNG

5. NHẬN RA NHAU, NHƯNG KHÔNG QUEN NHAU.

VIII. CAPITÔN VÀ VÙNG PHỤ CẬN.

1. PHÂN TÍCH NHỮNG CHUYỆN TÔN NGHIÊM

2. KHÔNG THIÊN VỊ.

3. CĂN PHÒNG CŨ.

4. NGHỊ VIỆN CŨ.

5. CHUYỆN TRÒ CAO ĐẠO.

6. THƯỢNG VIỆN VÀ HẠ VIỆN

7. BÃO NGƯỜI NGUY HẠI HƠN BÃO BIỂN

8. NẾU KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI CON NGOAN THÌ CŨNG LÀ NGƯỜI ANH TỐT.

IX. SỤP ĐỔ

1. QUÁ ĐỈNH CAO SANG ĐẾN CHỖ TẬN CÙNG ĐAU KHỔ

2. NHỮNG GÌ CÒN LẠI

Phần kết : BIỂN CẢ VÀ TRỜI ĐÊM

III. BẮT ĐẦU RẠN NỨT

1. QUÁN TACAXTƠ.

Thời ấy, Luân Đôn chỉ có một cái cầu là cầu Luân Đôn, với một số nhà nằm trên. Cầu này nối liền Luân Đôn với Xaothuak, vùng ngoại ô lát bằng loại đá cuối sông Tami, gồm toàn phố nhỏ và ngõ hẹp, nhiều chỗ rất hẹp và cũng như trong thành phố, rất nhiều nhà cửa, chỗ ở và chòi gỗ, một thứ tạp nham dễ cháy làm mồi cho thần hỏa hoành hành. Năm 1666 đã chứng minh điều ấy.

Hồi bây giờ Xaothuak đọc là Xuđric; ngày nay người ta đọc thành Xuxuok, gần đúng. Vả lại cách đọc các tên Anh tốt nhất là chẳng đọc gì cả. Như Xaothamton thì cứ nói Stpntn.

Đấy là thời mà Satam được đọc là Giơtem[1].

Xaothuak thời ấy giống như Xaothuak ngày nay, cũng giống như Vôgira giống Macxây. Đó là một thị trấn; một thành phố. Tuy vậy, ở đấy giao thông đường biển cũng rất tấp nập. Trong một bức tường cũ khổng lồ trên sông Tami có gắn những khoanh sắt để buộc các loại tàu thuyền chạy trên sông. Bức tường ấy gọi là tường Epfrôc hay là Epfrôc-Xton. York, hồi còn thuộc Xăcxơ, tên là Epfrôc. Tục truyền có một vị công tước xứ Epfrôc chết đuối dưới chân bức tường ấy. Nước ở đấy quả tình khá sâu đối với một công tước. Lúc triều xuống vẫn còn sáu sải có dư. Cái bến nhỏ này tốt nên nó thu hút tầu thuyền đi biển và chiếc thuyền bầu cổ của Hà Lan, tức là chiếc Vôgrat, đến buộc tại Epfrôc-Xton. Thuyền Vôgrat, chạy thẳng một tuần một chuyến từ Luân Đôn đến Rôtecđam và từ Rôtecđam đến Luân Đôn. Các thuyền khác chạy hai chuyến một ngày, hoặc đi Depfor, hoặc đi Grinuyt, hoặc đi Grevơxen, tùy theo con nước lên xuống. Quãng đường đến Grevơxen, mặc dầu dài đến hai mươi hải lý, đi mất có sáu tiếng.

Thuyền Vôgrat thuộc kiểu ngày nay ta chỉ được thấy trong các viện bảo tàng hàng hải. Thứ thuyền bầu này gần giống chiếc đò. Thời đó, trong khi nước Pháp bắt chước Hylạp thì Hà Lan bắt chước Trung Quốc. Thuyền khoang rất kín, vuông góc, với một buồng sâu ở giữa thuyền và hai sàn tàu, một phía trước, một phía sau, có sàn thấp giống như những tàu sắt có tháp canh nhỏ ngày nay, nhờ vậy có điểm lợi là ít bị sóng đập lên thuyền những lúc gió to, và điểm bất tiện là thủy thủ dễ bị sóng hất xuống biển vì thiếu lan can. Không có gì ngăn giữ lại trên boong người sắp ngã. Vì vậy thường xảy ra tai nạn rơi xuống hiển và mất xác khiến phải bỏ loại thuyền ấy. Thuyền Vôgrat đi thẳng một mạch sang Hà Lan, và đến Grevơxen cũng không đỗ lại.

Một mép gờ bằng đá kiểu cổ, vừa bằng đá tảng vừa xây gạch, chạy dọc bên dưới Epfrôc-Xton, nước lên hay xuống cũng vẫn đi lại được, giúp cho việc lên xuống các tàu thuyền buộc vào tường được dễ dàng. Từng quãng, từng quãng, bức tường cũ lại có cầu thang cắt ngang. Nó đánh dấu mũi nam của Xaothuak. Một chỗ đắp cao cho phép người qua lại tì tay lên Epfrôc-Xton Như tì vào lan can bến tàu. Từ đó nhìn thấy sông Tami. Bên kia dòng nước, là hết Luân Đôn. Chỉ còn có đồng ruộng.

Phần trên Epfrôc - Xton, chỗ khuỷu sông Tami, gần đối diện với lâu đài Xanh Giêm, sau lưng Lambet- Haodơ, không xa con đường dạo chơi lúc ấy gọi là Focxhon[2], giữa một lò gốm làm đồ sứ và một lò thủy tinh làm chai vẽ hoa, có một bãi đất hoang cỏ mọc xanh um, ngày xưa ở Pháp gọi là đất trồng trọt, đường dạo chơi, và ở Anh gọi là bolinh-grin. Từ chữ bolinh-grin - thảm cỏ xanh để lăn một hòn cù, chúng ta có chữ bolinh- grin[3]. Ngày nay, trong nhà người ta vẫn có loại bãi cỏ như thế, có điều người ta đưa nó lên bàn, nó bằng dạ chứ không phải bằng cỏ xanh, và người ta gọi nó là bàn bi-a.

Vả lại không hiểu tại sao đã có từ bulova (hòn cù xanh), cũng vẫn là từ bolinh-grin. Kể cũng kỳ lạ, một nhân vật nghiêm trang như từ điển mà cũng có những khoản xa xỉ vô ích như vậy.

Bãi cỏ xanh của Xaothuak hồi ấy gọi là Tarinhzô-phin, vì trước thuộc các nam tước Haxtinh, vốn là nam tước Tarinhzô và Môsơlin. Từ tay lãnh chúa Haxtinh, Tarinhzô-phin chuyển sang tay lãnh chúa Tacaxtơ, những vị này đã khai thác nó trước mắt công chúng, cũng như về sau một công tước xứ Orlêăng đã khai thác Pale-Royan. Rồi sau đó Tarinhzô-phin trở thành đồng cỏ hoang và tài sản của giáo khu.

Tarinhzô-phin là một thứ bãi chợ phiên, thường xuyên, rộn ràng bọn ảo thuật, đi dây, múa rối, cánh nhạc sĩ sân khấu, và lúc nào cũng đầy dẫy bọn ngốc nghếch đến "nhìn quỉ sứ", như ngài tổng giám mục Sacpơ vẫn nói. Nhìn quỉ sứ tức là đi.

Nhiều quán rượu, lấy khách từ các rạp hát chợ phiên ấy và cũng gửi khách đến đấy, nhìn ra cái bãi quanh năm hội hè kia mà phát đạt. Các quán rượu ấy chỉ là những cửa hàng nhỏ, ban ngày mới có người ở. Tối đến chủ quán đút chìa khóa vào túi quần và ra về. Có độc một quán là nhà hẳn hoi. Khắp cả bãi không có cái nhà nào khác, vì lều lán, chợ phiên luôn luôn có thể biến mất trong chốc lát; tất cả cánh làm trò kia chẳng có gì ràng buộc và lúc nào cũng lang thang. Dân nghề múa rối sống một cuộc đời mất gốc.

Quán rượu ấy có tên là quán Tacaxtơ, lấy tên các lãnh chúa cũ, giống nhà trọ hơn quán rượu, và giống lữ quán hơn nhà trọ, có một cửa cho xe ra vào và một cái sân khá rộng.

Cửa xe ra vào mở từ sân ra bãi chợ phiên là cửa chính thức của quán Tacaxtơ, và bên cạnh là một cái cửa phụ cho người ra vào. Phụ tức là ưa thích. Cái cửa thấp này là cửa ra vào duy nhất. Nó mở thẳng vào tiệm rượu, một cái nhà tồi tàn, thênh thang, ám khói, kê bàn, trần thấp lè tè. Tầng trên có một cửa sổ. Cửa lớn, có chốt có then cố định, lúc nào cũng đóng im ỉm. Phải đi qua tiệm rượu mới vào được sân.

Trong quán Tacaxtơ có một chủ và một tớ. Chủ tên Nicơlex, tớ tên Gôvicâm. Ông Nicơlex - chắc hẳn là Nicôla biến thành Nicơlex do lối phát âm của người Anh - là một lão goá vợ hà tiện, run rẩy, luôn luôn tôn trọng pháp luật. Thêm lông mày chổi sể và bàn tay lông lá.

Còn thằng bé mười bốn, chuyên bưng bê và hễ ai gọi Gôvicâm thì dạ, có một cái đầu to hay toe toét với một chiếc tạp dề. Nó húi trọc, dấu hiệu của phận tôi đòi.

Nó ngủ ngay tầng trệt, trong một buồng xép, nơi trước kia người ta nuôi chó. Buồng xép có một cái lỗ con thay cửa sổ nhìn ra bãi.

2. HÙNG BIỆN GIỮA TRỜI

Một buổi chiều gió to khá lạnh, đầy đủ lý do trên để rảo bước ngoài phố, một người đang đi trên cánh đồng Tarinhzô, men theo bức tường quán Tacaxtơ, bỗng dừng lại. Lúc ấy, vào quãng cuối đông năm 1704 – 1705. Người ấy, ăn mặc như thủy thủ, có dáng vẻ khỏe mạnh, tầm vóc cân đối, điều quy định với triều thần và không cần đối với thường dân. Tại sao y đứng lại? Để nghe. Nghe gì? Một giọng người đang nói. Chắc hẳn ở trong sân, bên kia bức tường, giọng có hơi già yếu, nhưng vẫn sang sảng, đến nỗi người qua lại ngoài đường ai cũng nghe. Đồng thời, trong khu vực có tường bao quanh mà giọng nói kia đang huyên thuyên, có tiếng ồn ào của đám đông. Giọng người kia nói:

- Thưa quí ông và quí bà Luân Đôn, tôi đã tới. Tôi xin thân ái chúc mừng quý vị là những công dân nước Anh. Quí vị là một dân tộc vĩ đại. Hơn thế nữa, quí vị là tầng lớp hạ lưu vĩ đại. Nắm đấm của quí vì còn đẹp hơn đường kiếm của quí vị. Quí vị luôn luôn thèm khát. Quí vị là quốc gia quen ăn các quốc gia khác. Chức năng thật tuyệt vời. Cái lối hấp thụ thế giới đó sắp xếp nước Anh riêng biệt sang một bên. Về mặt chính trị và triết học, và cai quản thuộc địa, dân số, công nghệ, và về mặt quyết tâm gây tai hoạ cho kẻ khác nhưng đối với mình lại là điều có lợi, thì quí vị thật độc đáo và phi thường. Đã gần đến lúc trên trần gian có hai tấm bảng, một cái ghi: phía dành cho người, một cái ghi: phía dành cho công dân Anh. Tôi nhận xét như vậy vì vinh quang của quí vị bởi tôi không phải là công dân Anh cũng không phải là con người, nhưng tôi có các vinh dự là một bác sĩ. Hai mặt ấy đi đôi với nhau. Thưa quí vị hào hoa phong nhã, tôi làm nghề đi dạy. Dạy gì? Hai điều, những gì tôi biết và những gì tôi không biết. Tôi bán thuốc và cho ý kiến. Xin quí vị xích lại gần đây và hãy lắng nghe, khoa học đang mời chào quí vị. Xin quí vị dỏng tai lên. Nếu tai bé, nó sẽ nắm được ít chân lý, nếu tai to, nhiều điều ngu ngốc sẽ lọt vào. Vậy xin chú ý. Tôi dạy Xođôđôxya Epiđêmica. Tôi có một anh bạn chuyên môn gây cười, còn tôi, tôi thích suy nghĩ. Chúng tôi cùng ở chung một cái hộp, cái cười vốn cũng con nhà gia giáo như hiểu biết. Khi người ta hỏi Đêmôcrit: Nhờ đâu mà ông biết? Ông đáp: Tôi cười. Còn tôi, nếu ai hỏi tôi: Tại sao ông cười? Tôi sẽ đáp: Tôi biết. Vả lại tôi không cười. Tôi là người uốn nắn những sai lầm của dân chúng. Tôi định tẩy rửa trí tuệ của quý vị. Nó bẩn quá. Chúa cho phép dân chúng bị lầm lẫn và bị đánh lừa. Không nên xấu hổ một cách ngu ngốc, tôi thành thực thú nhận là tôi tin ở Chúa, kể cả khi Chúa mắc phải sai lầm. Có điều khi nào thấy rác rưởi, sai lầm là rác rưởi, thì tôi quét dọn. Làm sao tôi biết được những điều tôi biết cái đó chỉ liên quan đến tôi. Mỗi người thu lượm khoa học theo lối của mình. Lăctăngxơ hỏi một cái đầu Viêcgin bằng đồng, nó trả lời ông: Xinvextơrơ đệ Nhị nói chuyện với chim không nói? Giáo hoàng có hót không? Đấy là những câu hỏi. Đứa con chết rồi của giáo sĩ Do thái Êlêaza nói chuyện với thánh Ôguxtanh. Nói riêng với nhau ở đây, từ hoài nghi tất cả những chuyện ấy. trừ chuyện cuối cùng. Thằng bé chết rồi còn nói được, cứ cho là thế đi, nhưng ở dưới lưỡi của nó có một chiếc lá bằng vàng trên khắc đủ các chòm sao. Quí vị thấy tính phải chăng của tôi. Tôi phân biệt cái đúng cái sai. Đây nhé, có những sai lầm khác mà chắc các vị, các vị đáng thương của dân chúng, mà tôi muốn tránh cho các vị. Điôxcôrit tưởng có Chúa trong cây giuyxkiam. Crixip tưởng có trong cây xinôpaxt. Giôdep tưởng có trong rễ cây bôrax. Hôme lại tưởng trong cây tỏi. Nhầm tuốt. Nằm trong các loại cây ấy,không phải Chúa, mà là quỉ sứ. Điều đó tôi đã xác minh rồi, bảo rằng con rắn cám dỗ Êva có mặt người như Camuy là không đúng. Garxuya Hortô, Cadamôxtô và Giăng Huygô, tổng giám mục xứ Tơrevơ, không công nhận việc chỉ cần cưa một cái cây ra là có một con voi. Tôi xin bái phục trước ý kiến của họ. Thưa quí vị công dân, những cố gắng của Lute là nguồn gốc của mọi ý đến sai lầm. Dưới triều đại của một vị vua như thế, phải xuất hiện những khí tượng sai lầm và hủy diệt. Thưa với quần chúng nhân dân, Claođiux Punse chết không phải vì gà con không ra khỏi chuồng; sự thật do biết trước cái chết của Claođiux Punse. Luxife đã có ý không cho gà ăn. Benzeebut truyền cho hoàng đế Vexpaziêng phép thuật giúp người què đứng được và trả ánh sáng lại cho người mù, bằng cách chạm vào người, đấy là việc hiển nhiên đáng khen nhưng động cơ thì có tội. Thưa các bậc hào hoa phong nhã, xin hãy cảnh giác với những vị "học giả" thường lợi dụng rễ cây brioan và cây culourơ trắng, họ lấy mật ong và tiết gà làm thuốc đau mắt. Các ngài cần thấy rõ chỗ giả dối. Chòm sao Thần nông sinh ra đâu phải do yêu cầu tự nhiên của Giuypite; sự thực là vì Mecquya tạo nên chòm sao ấy như vậy. Việc Ađam có rốn là không đúng. Lúc thánh Giorgiơ giết một con rồng, bên cạnh ông ta không có con gái một vị thánh nào cả. Ở trong phòng thánh Gierôm không có đồng hồ trên lò sưởi, thứnhất vì đang sống trong động, ông ta không có phòng riêng, thứ hai vì ông không có lò sưởi, thứ ba vì lúc ấy đã làm gì có đồng hồ. Chúng ta phải cải chính lại. Hỡi các vị đang yêu quí đang lắng nghe tôi nói, nếu người ta bảo quí vị rằng: ai ngửi cỏ nữ lang hoa sẽ có thằn lằn sinh ra trong óc, rằng thịt bò thối nở ra trong mật ong, rằng thịt ngựa thối thành ong bò vẽ, rằng người chết nặng hơn người sống; rằng máu dê hoà tan ngọc bích, rằng khi gặp một con sâu, một con ruồi và một con nhện trên cùng một cái cây là điềm đói kém, chiến tranh và dịch hạch, rằng có thể chữa bệnh lão suy bằng một con sâu tìm thấy trong đầu một con hoẵng, thì xin quí vị chớ có tin, đấy chỉ là những điều sai lầm. Nhưng sau đây là một số chân lý: da bê biển chống được sét, cóc ăn đất nên trong đầu nó có hòn sỏi, hoa hồng Giêriczcô nở đêm trước lễ Giáng sinh; rắn không chịu được bóng cây tần bì; voi không có khớp xương buộc phải ngủ đứng, tựa vào cây; các vị cứ cho cóc ấp trứng gà, các vị sẽ được bọ cạp, con này sau đẻ ra kỳ nhông, một người mù sẽ sáng mắt khi đặt một bàn tay lên phía trái bàn thờ, bàn tay kia bịt mắt; tiết trinh không loại trừ sinh đẻ. Hỡi các vị hiền lành, xin hãy nhớ kỹ những điều hiển nhiên ấy, sau đó các vị có thểtin vào Chúa theo hai cách, hoặc như người khát nước tin ở quả cam, hoặc con lừa tin ở cái roi. Bây giờ tôi xin giới thiệu với quí vị con người của tôi.

Đúng lúc ấy một ngọn gió khá mạnh rung chuyển các khung các cửa và ván che quán rượu, vì nó là nột ngôi nhà đứng chơ vơ. Nghe y hệt một liếng rì rầm trên trời. Diễn giả chờ một lúc rồi lại nói át đi:

- Gián đoạn. Được. Gió bắc, mày cứ nói, thưa các vị hào hoa phong nhã, tôi không có giận đâu. Gió vốn ít lời như tất cả những kẻ cô đơn, trên ấy chẳng có ai làm bạn với gió. Cho nên nó phải ăn nói lăng nhăng. Bây giờ tôi lại xin tiếp tục. Các vị được thưởng thức ở đây những nghệ sĩ cùng chung tài hợp sức. Chúng tôi có tất cả 4 người. A lupo principium[4]. Trước tiên tôi bắt đầu bằng anh bạn thân của tôi là một con sói. Nó không hề che giấu đâu đó. Mời quí vị nhìn xem, nó có học, nghiêm trang và minh mẫn. Chắc hẳn Thượng đế đã có lúc định cho làm tiến sĩ trường đại học; nhưng muốn thế phải hơi đần độn một tí, mà nó thì không như vậy. Tôi xin nói thêm, nó không có thành kiến và không quí tộc tí nào. Gặp cơ hội nó cũng chuyện trò với chó cái, mặc dầu nó được quyền lấy một con sói cái. Các thái tử của nó, nếu có hẳn phải hoà tiếng ăng ẳng của mẹ chúng với tiếng rống của bố chúng một cách dễ thương. Vì nó hay rống. Phải rống với người chứ. Nó cũng sủa vì hạ cố văn minh. Một thái độ hoà nhã cao thượng. Ômô là một con chó hoàn hảo. Chúng ta hãy tôn trọng chó. Chó là một loại thú vật rất chi kỳ dị, nó đổ mồ hôi đằng lưỡi và mỉm cười đằng đuôi. Thưa quí vị hào hoa, về mặt khôn ngoan, Ômô sánh ngang, còn về mặt thân ái nó hơn hẳn loại sói không lông ở Mêhicô, giống xôlôitiênixki đáng khen. Tôi xin thêm là nó rất nhún nhường. Nó có cái nét khiêm tốn của một con sói có ích cho người đời. Nó biết giúp đỡ và rất từ thiện, một cách trầm lặng. Chân trái của nó không cần biết chân phải đã có hành động gì tốt. Đấy là những ưu điểm của nó. Còn một người nữa, người hạn thứ hai của tôi, chỉ nói một câu: nó là một con quái vật. Rồi quí vị sẽ được ngắm nhìn nó, trước đây nó bị bọn cướp biển bỏ rơi trên bờ đại dương hoang vắng. Cô này là một cô gái mù. Có phải một biệt lệ không? Không. Tất cả chúng ta đều là những người mù. Anh hà tiện là một thằng mù, thấy vàng mà không thấy cảnh giầu sang. Anh xa xỉ là một thằng mù thấy đoạn mở đầu mà không thấy chỗ kết thúc. Cô ả làm dáng là một con mù, ả không thấy những nếp nhăn của ả. Nhà bác học là một thằng mù, ông không thấy cái dốt của mình. Người quân tử là một thằng mù vì không thấy thằng vô lại. Tên vô lại là một thằng mù nó không thấy Chúa. Chúa là một thằng mù, lúc tạo nên trời đất, Chúa đã không thấy quỉ sứ sẽ len lỏi vào trần gian. Tôi, tôi là một thằng mù, tôi nói mà không thấy quí vị điếc. Con bé mù này, cùng đi với chúng tôi, là một nữ tu sĩ bí mật. Giá ở địa vị mình, Vexta[5] đã trao cho nó que củi cháy dở. Trong tính nết, nó có những chỗ tối tăm hiền lành như những chỗ thiếu sót trên tấm da cừu. Tôi tin rằng nó là con gái vua mà không dám khẳng định. Tính hoài nghi đáng khen vốn là tính chất của người hiền lành. Còn tôi, tôi vẫn quen vật lý và chuyên hành dược[6]. Tôi suy tư và tôi băng bó[7] Chrurgus sum[8]. Tôi chữa các bệnh sốt, chướng khí và ôn dịch. Hầu hết các bệnh phớt tỉnh và đau khổ của chúng ta đều là những thứ mụn nhọt tự gây để rút bớt độc và một khi chữa chạy tốt, chúng tránh cho ta những bệnh khác tệ hại hơn một cách nhẹ nhàng. Tuy thế, tôi không dám khuyên quí vị chuốc lấy một cái nhọt, nói cách khác, một cái đinh râu. Nó là một thứ bệnh chết tiệt vô tích sự. Người ta chết vì nó, nhưng chỉ thế thôi. Tôi không phải dốt nát, cũng chẳng phải quê mùa gì. Tôi tôn trọng khoa hùng biện và thi ca, tôi sống trong một tình thân trong trắng với các nữ thần ấy. Bây giờ tôi xin kết thúc hằng một ý kiến. Thưa quí ông hào hoa, quí bà phong nhã, trong lòng quí vị, từ nơi ánh sáng đến đây, xin quí vị hãy trau dồi đức hạnh, tính khiêm nhường, lòng ngay thẳng, công lý và tình yêu. Dưới trần gian này, mỗi người có thể bằng cách ấy có được một chậu hoa nho nhỏ trên cửa nhà mình. Thưa quí ngài quí tộc và quí ông, tôi đã nói xong. Trò vui sắp bắt đầu.

Anh chàng có lẽ là thủy thủ, từ nãy vẫn đứng nghe phía ngoài, liền bước vào căn phòng thấp của quán rượu đi ngang qua phòng, trả mấy xu vào cửa, đi tuốt vào một cái sân chật ních công chúng, nhận thấy ở cuối sân có một cái lán có bánh xe, cửa mở toang, và thấy trên sân khấu một ông già mình khoác tấm da gấu, một chàng trai có vẻ như đeo mặt nạ, một cô gái mù và một con sói.

- Lậy Chúa tôi! - y kêu lên - đúng là những con người tuyệt diệu.

3. NƠI NGƯỜI KHÁCH QUA ĐƯỜNG XUẤT HIỆN LẠI

Hộp Xanh, người ta vừa nhận ra nó, đã đến Luân Đôn. Nó dừng lại ở Xaothuak. Uyêcxuyt bị cái bãi cỏ lôi cuốn, bãi có điểm đặc biệt là ở chợ phiên không bao giờ vắng người, kể cả mùa đông.

Được nhìn cái mái tròn của nhà thờ Thánh Pôn, Uyêcxuyt đã thấy thú vị rồi.

Luân Đôn nói chung là một thành phố có mặt hay.

Việc hiến dâng một ngôi nhà thờ lớn cho Thánh Pôn biểu thị một hành vi dũng cảm. Ngôi nhà thờ lớn thật sự thiêng liêng là nhà thờ Thánh Pie. Người ta ngờ Thánh Pôn có tính chất tưởng tượng, mà về mặt tôn giáo, tưởng tượng tức là tà giáo. Thánh Pôn chỉ là thánh trong trường hợp giảm khinh thôi, ông chỉ bước vào cõi đời qua cái cửa của các hoạ sĩ.

Một toà nhà thờ lớn là một biểu tượng. Nhà thờ Thánh Pie tượng trưng cho La Mã, thành phố giáo lý; nhà thờ Thánh Pôn mang dấu hiệu Luân Đôn, thành phố của ly giáo. Triết lý của Uyêcxuyt có những cánh tay dài đến nỗi nó chứa đựng tất cả mọi thứ, ông là người biết đánh giá những điểm khác biệt ấy, vả Luân Đôn quyến rũ ông có lẽ phần nào cũng do ông thích thánh Pôn.

Cái sân lớn của Tacaxtơ đã khiến Uyêcxuyt quyết định việc lựa chọn. Hình như cái sân này đã được dự kiến dành cho Hộp Xanh; quả là một rạp hát hoàn chỉnh. Sân hình vuông, ba mặt có nhà xây, với một bức tường đối diện có các tầng lầu, lấy chỗ cho Hộp Xanh dựa lưng, lại thêm cái cổng xe rộng thênh thang làm cửa ra vào. Một dãy ban-công to hằng gỗ, có mái che do một hàng cột đỡ, dùng làm chỗ đi lại cho những phòng tầng một, áp vào ba bức vách của mặt tiền bên trong sân, với hai góc thước thợ. Các cửa sổ tầng trệt dùng làm hạng lô[9], dưới nhà, nền sân là hạng trước mặt sân khấu, và dãy bao lơn là ban-công.

Hộp xanh, xếp sát vào bức tường, có cả cái phòng xem hát ấy trước mặt. Giống hệt rạp Quả Cầu, nơi đã diễn Ôtenlô, Vua Lia và Bão táp.

Trong một góc, phía sau Hộp Xanh, có một chuồng ngựa.

Uyêcxuyt đã đàn xếp với ông chủ quán rượu là ông Nicơlex.

Vì tôn trọng luật pháp, ông này đồng ý nhận con sói nhưng phải trả đắt hơn. Cái bảng "Guynplên, Thằng Cười", tháo ở Hộp Xanh ra, được treo cạnh tấm bảng quán rượu. Phòng bán rượu, như ta đã biết, có một cửa trong mở ra sân. Bên cạnh cái cửa ấy, người ta đã dùng một thùng rượu rỗng ứng tạo thành một chỗ ngồi cho "cô thu tiền " lúc là Fipi, lúc là Vinơx. Giống như ngày nay. Vào cửa phải trả tiền. Dưới cái bảng "Thằng Cười", một tấm ván sơn trắng, treo vào hai cái đinh, có dòng chữ to viết bằng than, nhan đề vở kịch lớn của Uyêcxuyt: Hồng hoang chiến bại.

Chính giữa ban-công, ngay trước mặt Hộp Xanh, một phòng có vách chắn hai bên, ra vào bằng một cửa sổ sát đất dành riêng cho "giới quý tộc".

Phòng này cũng khá rộng nên có thể chứa được mười khán giả, ngồi thành hai hàng.

- Chúng ta đang ở Luôn Đôn - Uyêcxuyt nói. - Phải phòng khi có khách quí.

Ông cho trang hoàng khoang "lô" này với những ghế tốt nhất của quán rượu, và đặt ở giữa, một chiếc ghế bành to bọc nhung, núm vàng hoa mận, phòng khi có một pháp quan phu nhân nào đó đến.

Buổi trình diễn đã bắt đầu.

Lập tức quần chúng kéo tới.

Nhưng khoang dành cho quí tộc vẫn bỏ trống.

Trừ điểm ấy ra, kết quả thật mỹ mãn, đến nỗi trong nghề xiếc rong chưa bao giờ thấy được như vậy. Toàn thể Xoathuak đổ tới để ngưỡng mộ Thằng Cười.

Dân hề và múa rối ở cánh đồng Tarinhzô hốt hoảng vì Guynplên. Ấn tượng như lúc một con diều hâu sà xuống một lồng vàng anh và mổ vào cong thức ăn của chúng, Guynplên ngốn hết công chúng của họ.

Ngoài lớp linh tinh: nuốt gươm, nhăn mặt, trên bãi cỏ còn có trò vui thật sự. Có một rạp xiếc toàn đàn bà ầm ĩ suốt từ sáng đến tối vang rộn đủ loại khí cụ, nào trống, nào chuông, nào sáo, nào kèn mục tử, nào tù và Đức, tù và Anh, sáo ngang, sáo dọc. Trong một mái lều rộng, có những người nhảy nhót mà những tay chạy giỏi của chúng ta hiện nay ở Pirênê, Duynma, Bordonavô và Mêlôga cũng không theo kịp, những người này nhảy từ đỉnh Picrơphit xuống đồi Limaxông, nghĩa là gần như rơi xuống. Có một chuồng thú rong. Ở đây khán giả được thấy hổ ăn: con hổ bị người luyện thú quất, cố táp lấy cái roi và nuốt cái dây. Tên hề có mõm và móng vuốt ấy cũng bị át nết.

Lòng hiếu kỳ, tiếng vỗ tay, tiến vào cửa, quần chúng. Thằng Cười thu hút hết. Trong nháy mắt là xong. Chỉ có Hộp Xanh.

- Hồng hoang chiến bại và hồng hoang chiến thắng - Uyêcxuyt nói, tự xem mình có nửa phần trong thành công của Guynplên và kéo khăn bàn về mình, nói theo ngôn ngữ kép hát. Thành công của Guynplên thật là kỳ diệu, tuy nhiên nó vẫn mang tính chất địa phương. Lội qua nước là điều khó khăn đối với một danh tiếng. Tên tuổi của Secxpia phải một trăm ba mươi năm mới từ đất Anh vượt đến đất Pháp; nước là một bức tường thành và nếu Vonte không làm thang cho Secxpia trèo, điều mà về sau ông ta rất tiếc, Secxpia vẫn còn ở bên kia bức tường, bên Anh, giam hãm là một vòng vinh quang trên đảo.

Vinh quang của Guynplên không vượt qua khỏi cầu Luân Đôn. Nó không có tầm cỡ một tiếng vang của đô thành lớn, ít ra là trong buổi đầu. Nhưng Xaothuak có thể cũng đủ thoả mãn thamvọng của một anh hề.

Uyêcxuyt thường nói: "Túi tiền thu nhập cũng như một cô gái sai lầm, cứ phình mãi lên trông thấy".

Họ trình diễn Uyêcxuyt Ruyêxuyt rồi Hồng hoang chiến bại.

Trong giờ nghỉ Uyêcxuyt chứng minh tài nói bằng bụng và thực hành tài nói tiếng bụng cao siêu của mình; ông bắt chước mọi thứ tiếng trong đám khán giả, tiếng hát, tiếng kêu, giống đến mức chính người hát và người kêu cũng phải kinh ngạc; đôi khi ông bắt chước tiếng ồn ào của công chúng và thở phì phò y như một mình ông là đám đông. Tài nghệ thật phi thường.

Ngoài ra, ta vừa thấy xong, ông có tài diễn thuyết như Xixêrông[10] và còn bán các thứ thuốc, chăm sóc các loại bệnh, chữa chạy bệnh nhân nữa.

Xaothuak say sưa mê mẩn.

Uyêcxuyt thoả mãn được Xaothuak hoan nghênh, nhưng ông không vì thế mà ngạc nhiên.

Họ là những tơrinôbăng ngày xưa - Ông nói và tiếp thêm:

- Ta không hề lẫn lộn họ, về mặt tế nhị của thị hiếu, với những atơrôbat cư trú ở Becxơ, với người Bỉ sống ở Xômôcxet và người Pari đã thành lập York. Buổi diễn nào, sân quán rượu, biến thành hạng dưới nhà, cũng chật ních khán giả rách rưới và nhiệt tình.

Họ là những dân chèo thuyền, phu kiệu, thợ đóng tàu, xà ích trên sông, thủy thủ mới lên bờ đem tiền lương nướng vào chè chén và gái đĩ. Có bọn đầy tớ đeo kiếm, bọn ăn chơi phóng đãng và bọn thị vệ đen tức là bọn lính bị phạt về tội kỷ luật, phải mặc áo đỏ lộn lót đen ra ngoài và vì thế mà có tên blekgac từ đó chúng ta biến thành blagơ[11]. Tất cả đám người ấy, từ ngoài đường và vào rạp hát lại đổ xô vào phòng giải khát. Những vại bia không làm hại đến thành công. Trong số quần chúng mà người ta quen gọi là "cặn bã" ấy, có một anh chàng cao hơn cả, to hơn, khoẻ hơn, ít nghèo hèn hơn, vai vuông hơn, ăn mặc như thường dân, nhưng không rách rưới; anh ta hoan hô hết sức ồn ào, chen chỗ bằng quả đấm, đầu đội bộ tóc giả bù xù như quỉ sứ luôn mồm chửi rủa, gào hét, giễu cợt, không chút bẩn thỉu, và cần thì đấm người ta sưng mắt và bỏ tiền ra thết rượu.

Anh chàng quen thuộc ấy là khách qua đường mà ban nãy ta vừa nghe thốt lên câu nói đầy nhiệt tình.

Con người sành sỏi ấy bị mê hoặc ngay từ phút đầu đã tức khắc tán thưởng Thằng Cười. Không phải buổi biểu diễn nào anh ta cũng đến xem. Nhưng lần nào đến là anh ta trở thành nhân vật lôi cuốn công chúng[12]: hoan nghênh biến thành hò hét: thành công lên đến không phải đình màn sân khấu vì không có đình màn mà tận chín tầng mây. Mà cả đến mây xanh, vì không có trần, đôi khi cũng còn đổ mưa xuống kiệt tác của Uyêcxuyt.

Đến nỗi Uyêcxuyt phải để ý tới con người kia và Guynplên phải nhìn y.

Thật là một người bạn không quen biết đáng hãnh diện!

Uyêcxuyt và Guynplên muốn tìm hiểu anh ta, hay ít nhất biết anh ta là ai. Một tối nọ, đứng ở hậu trường, tức là chỗ cửa bếp của Hộp Xanh. Uyêcxuyt tình cờ gặp ông chủ quán Nicơlex bên cạnh, liền chỉ cho ông ta con người đứng lẫn trong đám đông và hỏi:

- Ông quen người kia chứ

- Tất nhiên.

- Ai thế

- Một tay thủy thu

- Y tên gì? - Guynplên xen vào.

- Tom-Jim-Jack - người chủ quán đáp.

Rồi vừa bước xuống bậc thang phía sau Hộp Xanh để trở vào quán rượu, ông Nicơlex vừa buông ra ý nghĩ vô cùng sắc sau đây:

- Tiếc rằng hắn ta không phải huân tước! Hắn có thể là một tên vô lại trứ danh.

Vả lại, tuy đóng trong một lữ quán, nhóm Hộp Xanh vẫn không thay đổi tập quán và vẫn duy trì tính chất biệt lập của mình. Ngoài dăm ba lời trao đổi đây đó với ông chủ quán, họ không hề quan hệ với những người thường xuyên hoặc vãng lai. Ở trong quán trọ, và họ tiếp tục chỉ sống riêng với nhau.

Từ ngày đến Xaothuak, sau buổi biểu diễn, sau bữa ăn của ngựa, trong khi Uyêcxuyt và Đêa ngủ mỗi người một nơi, Guynplên có thói quen hít thở khí trời một tí ngoài bãi cỏ giữa quãng mười một giờ và nửa đêm. Một làn sóng nào đó trong đầu óc thúc đẩy con người dạo chơi đêm và thơ thẩn dưới trời cao; tuổi thanh xuân là một giai đoạn đợi chờ bí mật, vì vậy người ta thích đi bách bộ ban đêm, không mục đích. Vào giờ ấy, không còn người nào trên bãi chợ phiên nữa, cùng lắmchỉ có một vài ba anh say rượu loạng choạng, thấp thoáng lảo đảo trong các xó tối; các tiệm rượu rỗng đóng cửa, căn phòng thấp của quán Tacaxtơ tắt đèn, chỉ để lại trong góc nào đó một ngọn nến cuối cùng, soi sáng cho con sâu rượu cuối cùng, một ánh sáng tù mù lọt qua khung cửa quán rượu mở hé. Guynplên tư lự, thoả mãn, nghĩ vẩn vơ, sung sướng trước một niềm hạnh phúc thần tiên còn mờ mịt, đi đi lại lại trước cánh cửa mở hé đó. Nó đang nghĩ gì? Đến Đêa, chẳng đến gì hết, đến tất cả, đến những nơi sau thẳm. ít khi nó đi xa quán rượu, nó thấy đi vài bước ra ngoài thế là đủ.

Rồi nó lại quay về, thấy toàn thể Hộp Xanh ngủ say và nó cũng đi ngủ.

4. TRONG THÙ GHÉT, ĐỐI LẬP LẠI HÓA ĐỒNG TÂM

Thành công không bao giờ được yêu quý, nhất là bởi những người vì thành công ấy mà thất bại. Mấy khi kẻ bị ăn lại tôn thờ những kẻ ăn mình. Chắc chắn là Thằng Cười được đặc biệt chú ý. Cánh múa rối xung quanh đều bất bình. Thành công của sân khấu như một cái ống xi-phông, nó hút quần chúng và làm rỗng xung quanh nó.

Cửa hiệu trước mặt hoảng hốt. Việc tăng thu của Hộp Xanh - chúng tôi đã nói - lập tức kéo theo mọi giảm thu xung quanh... Đột nhiên các trò vui từ trước đến nay vẫn đông khách bỗng thất nghiệp. Cứ như một mực nước đánh dấu ngước triều, nhưng với độ phù hợp rất chính xác; ở đây tăng ở kia giảm. Tất cả các gánh hát đều từng biết những hiệu quả thủy triều như vậy: triều chỉ lên ở gánh này trong điều kiện triều xuống ở gánh kia.

Toàn bộ chợ phiên đông như kiến vẫn trình diễn các loại tài năng và đội kèn trên những sân khấu ở quanh đấy thấy mình sạt nghiệp vì Thằng Cười, thất vọng nhưng cũng choáng váng. Tất cả bọn già lố lăng, bọn hề, bọn múa rối, đều ganh tị với Guynplên. Quả là một thằng sung sướng có được cái mõm thú dữ! Những bà mẹ làm trò hề và nhảy múa trên dây, có con xinh xẻo, hằm hằm nhìn con mình và chỉ vào Guynplên nói: "Hoài của, sao mày không có được bộ mặt như thế kia". Một số bà còn giận dữ đánh con vì con xinh quá. Nhiều bà, giá biết được điều bí mật, đã thu xếp cho con trai mình "theo kiểu Guynplên". Một cái đầu thiên thần mà không đem lại tí gì thì chẳng bằng bộ mặt quỉ có lợi. Có hôm người ta còn nghe bà mẹ một em bé đẹp như tranh vẽ và thường đóng vai điển trai, gào thật to: "con cái chúng ta đều bị nặn hỏng cả. Chỉ có một thằng Guynplên là đạt thôi". Và vừa nắm tay doạ con, bà vừa nói tiếp: "bà mà biết bố mày là thằng nào thì bà cả xé xác nó ra!". Guynplên là một con gà đẻ trứng vàng. Một hiện tượng thật kỳ diệu! Trong tất cả các lều lán đều thốt lên như vậy. Cánh leo dây múa rối, thích thú và uất ức, vừa thán phục Guynplên, vừa nghiến răng kèn kẹt. Điên cuồng ngưỡng mộ: đó là đố kỵ. Thế là hò hét. Họ tìm cách phá rối vở Hồng hoang chiến bại, họ âm mưu, họ thổi còi, họ lằm bằm, họ la lối. Như vậy càng giúp Uyêcxuyt có cớ để diễn thuyết một cách hùng hồn với dân chúng, anh bạn Tom-Jim-Jack có cơ hội tống mấy quả đấm để lập lại trật tự. Những quả đấm của Tom-Jim-Jack cuối cùng đã khiến cho Guynplên phải lưu ý, Uyêcxuyt phải quí mến. Từ xa thôi, vì Hộp Xanh quen sống một mình và cách biệt với mọi người; còn Tom-Jim-Jack, đàn anh của cánh vô lại, đóng vai một kiếm khách bậc thầy, không có quan hệ, không thân mật, chuyên phá phách, chuyên cầm đầu, lúc hiện lúc ẩn, chơi với hết thảy mọi người, nhưng lại chẳng đồng hành. Cuộc đố kỵ điên cuồng chống Guynplên không chịu thua vì mấy cái tát của Tom-Jim-Jack. La ó, thất bại, bọn leo dân múa rối trên cánh đồng Tarinhzô liền thảo một lá đơn khiếu nại. Họ đệ trình lên nhà chức trách.

Đấy là đường lối thông thường. Chống lại một sự thành công gây trở ngại cho mình, người ta tụ tập quần chúng, rồi người ta kêu lên quan. Các cố đạo hợp sức với cánh múa rối. Thằng Cười đã làm hại dần các buổi thuyết giáo. Không chỉ các lều trại, mà các nhà thờ cũng vắng hẳn người. Các tiểu giáo đường của năm giáo khu Xaothuak không còn ai đến nghe giảng. Người ta bỏ bài giảng để đến xem Guynplên. Hồng hoang chiến bại, Hộp Xanh, Thằng Cười, tất cả là những trò khả ố đó của Baal[13] đều hơn hẳn tài hùng biện của lầu giảng. Tiếng kêu gào trong sa mạc, vox clamans in deserto, không bằng lòng và sẵn sàng kêu chính phủ. Các linh mục của năm giáo khu than phiền với giám mục Luân Đôn, giám mục lại kiện lên vua.

Đơn kiện của dân múa rối dựa trên tôn giáo. Họ tuyên bố tôn giáo đã bị xúc phạm. Họ tố cáo Guynplên là phù thủ và Uyêcxuyt vô đạo.

Còn các cha cố lại nêu lên vấn đề trật tự xã hội. Họ đứng về phía các văn kiện của nghị viện bị vi phạm, bỏ chuyện chính thống sang một bên. Như vậy khôn ngoan hơn. Vì người ta đang ở thời đại của ông Lôck mới chết chưa đầy sáu tháng, ngày 28 tháng mười 1704 và thuyết hoài nghi mà Bolinhbrôc sắp hà hơi cho Vonte đang bắt đầu. Sau này Oetxlây phải đứng ra khôi phục Kinh Thánh cũng như Lôyôla đã khôi phục chế độ Giáo hoàng.

Bằng lối ấy Hộp Xanh bị đánh tới tấp từhai phía, bởi cánh múa rối nhân danh các bộ Ngũ tập ở đầu Cựu ước và bởi vì các ngài trong giáo sắc nhân danh các qui tắc cảnh sát. Một bên là trời, một bên là sở lục lộ, các cha cố thì vì sở lục lộ mà cánh leo dây vì đạo trời. Hộp Xanh bị các cha tố cáo về tội choán chỗ và bị cánh làm trò tố cáo về tội phạm Thánh.

Có cớ gì không? Có nắm được gì không? Có. Tội trạng của họ là gì? Đây: nó có một con sói. Ở nước Anh sói bị cấm chỉ. Chó nhà; được, sói, dứt khoát không. Nước Anh chấp nhận chó biết sủa chứ không chấp nhận chó biết rống, điểm khác biệt giữa sân gia súc và rừng rú, các ngài viện trưởng và trợ tế của năm giáo khu Xaothuak trong đơn khiếu tố dẫn ra nhiều điều lệ của vua và đặt chó sói ngoài vòng pháp luật. Họ kết luận đại loại như phải bỏ tù Guynplên và nhốt con sói lại, hoặc ít nhất phải trục xuất. Vấn đề lợi ích công cộng, nguy hiểm đối với khách vãng lai...vân vân. Thế rồi họ kêu lên viện Đại học. Họ dẫn chứng phán quyết của nhóm Bát thập lương y của Luân Đôn, một tổ chức uyên bác thời Hăngri VIII cũng có dấu ấn như nhà nước, nuôi bệnh nhân với tư cách toà án, có quen bỏ tù những ai vi phạm luật pháp của nó hay làm sai đơn thuốc của nó, và trong các nhận xét có ích cho sức khoẻ công dân không để cho ai nghi ngờ điều sau đây đã thành của khoa học: người nào bị một con sói nhìn thấy trước tiên, người ấy bị khản tiếng suốt đời. Hơn nữa người ta có thể bị cắn.

Vậy Ômô là cái cớ.

Nhờ chủ quán, Uyêcxuyt đánh hơi được những âm mưu ấy, ông lo lắng. Sợ hai loại móng vuốt ấy, cảnh sát và công lý. Đối với giới tư pháp chỉ sợ là đủ; không cần phải phạm pháp. Uyêcxuyt ít muốn va chạm với cánh quận trưởng, hiến binh, pháp quan và thám tử, ông không hề khao khát muốn ngắm gần hết những bộ mặt quan trên ấy. Đối với các ngài tư pháp, ông muốn tò mò nhìn thì cũng như chuột đồng tò mò muốn nhìn bầy chó săn thôi.

Ông bắt đầu việc hối tiếc mình đã đến Luân Đôn.

- Cái tốt nhất là kẻ thù của cái tốt vừa, - Ông lẩm bẩm một mình. Ta cứ tưởng câu tục ngữ này đã lạc hậu, thế là sai lầm. Những chân lý ngu si lại là những chân lý thật.

Chống lại bằng ấy các thế lực liên minh với nhau, cánh leo dây múa rối thì lấy cớ vì lợi ích tôn giáo, các ngài tư tế bất bình nhân danh y học. Hộp Xanh đáng thương, bị nghi có yêu thuật ở Guynplên và bệnh sợ nước ở Ômô, chỉ trông mong vào mỗi một điều cứu được nó, nhưng là một sức mạnh lớn ở nước Anh, tính bất động của thành phố. Chính chủ nghĩa dửng dưng của địa phương đã đẻ ra nền tự do của nước Anh. Tự do ở nước Anh có thể ví như biển xung quanh nước Anh. Nó là một thứ thủy triều. Phong tục cổ dần dần dâng lên trên luật pháp. Một nền pháp chế quái gở bị chôn vùi, tập quán ở trần, một bộ luật độc ác vẫn còn thấy được qua sự trong suốt của nền tự do bao la, đấy là nước Anh. Thằng Cười, Hồng hoang chiến bại, Ômô, có thể là đối tượng chống đối của bọn múa rối, cánh mục sư, lớp giám mục, nghị viện công xã, nghị viện nguyên lão, nhà vua và Luân Đôn và cả nước Anh và vẫn được sống yên ổn, chừng nào Xaothuak còn ủng hộ chúng. Hộp Xanh là nơi mua vui ưa thích của ngoại ô và chính quyền địa phương dường như dửng dưng. Ở nước Anh, dửng dưng tức là che chở. Chừng nào quận trưởng của lãnh địa bá tước Xơre, mà Xaothuak trực thuộc. vẫn không động đậy, thì Uyêcxuyt còn ăn ngon và Ômô có thể ngủ yên trên hai tai sói của nó.

Với điều kiện không đi đến chỗ bóp chết, những chuyện thù ghét đó vẫn phục vụ cho thành công. Trước mắt, Hộp Xanh cũng không vì thế kém sút. Ngược lại. Công chúng biết có chuyện âm mưu. Thằng Cười vì thế càng nổi tiếng. Quần chúng đánh hơi được những sư việc bị tố cáo và hoan nghênh chúng. Bị nghi ngờ tức là được tiến dẫn. Dân chúng theo bản năng, nâng đỡ những gì bị đe doạ. Vật bị tố cáo, đấy là dấu hiệu của quả cấm; người ta phải vội vã ăn ngay. Vả lại, vỗ tay trêu ghẹo một người nào đó, đặc biệt người đó lại là nhà chức trách, thì thật là thích thú. Để cho hết một buổi tối thú vị, tỏ ra tán thành kẻ bị áp bức và chống đối kẻ áp bức, điều ấy thật là dễ chịu, vui đùa mà đồng thời lại che chở. Chúng ta hãy nói thêm là các rạp hát của bãi cỏ vẫn tiếp tục la ó và âm mưu chống Thằng Cười. Không gì tốt hơn, như thế càng giúp cho sự thành công. Kẻ thù càng làm ầm ỹ, càng thúc đẩy thắng lợi thêm rực rỡ. Một người bạn khen còn mệt hơn một kẻ thù chửi. Chửi rủa không có hại. Đó là điều mà kẻ thù không ngờ đến. Chúng không chửi, và đấy là một ích lợi của kẻ thù. Chúng không thể nào im tiếng, do đấy luôn thức tỉnh công chúng. Quần chúng càng kéo đến đông xem vở Hồng hoang chiến bại.

Uyêcxuyt giữ kín, nhưng ông Nicơlex cho biết về các âm mưu và những đơn từ khiếu nại lên trên; ông không nói cho Guynplên biết, để khỏi làm vẩn đục tính trong sáng của các buổi diễn vì lo nghĩ, nếu có gì không hay xảy đến, bao giờ ông cũng được biết khá sớm.

5. QUAN THIẾT TRƯỢNG[14]

Tuy vậy có lần ông thấy cần phải vi phạm điều khôn ngoan ấy chính vì khôn ngoan thôi, và ông xét ra cố gắng làm cho Guynplên lo lắng cũng có ích. Trong đầu óc Uyêcxuyt, đúng đây là một việc quan trọng hơn các âm mưu của dân chợ phiên và cánh nhà thờ nhiều. Lúc đếm tiền vào cửa, Guynplên nhặt được một đồng xu rơi ở đất; nó nhìn kỹ rồi, trước mắt ông chủ quán, từ chỗ tương phản giữa đồng tiền xu tượng trưng cho sự nghèo khổ của dân chúng và hình nữ hoàng Anh, tượng trưng cho cảnh xa hoa ăn bám của ngai vàng, nó đã thốt lên một câu nói không hay. Câu nói này được ông Nicơlex nhắc lại: đã đi xa đến nỗi lại trở về với Uyêcxuyt qua mồm Fibi và Vinox. Nghe xong, Uyêcxuyt run bắn cả người. Lời nói phản nghịch. Tội phạm thượng, ông mắng Guynplên kịch liệt :

- Mày phải giữ gìn cái mõm khả ố của mày đấy. Có một qui tắc đối với người trên là đừng làm gì hết và một quí tộc đối với người dưới là không nói gì cả. Kẻ nghèo chỉ có một người bạn là im lặng. Nó chỉ được phát âm mỗi một tiếng: Vâng. Thú nhận và đồng ý, đấy là toàn bộ quyền hạn của nó. Vâng, trước mặt quan toà. Vâng, trước mặt vua. Các bậc quyền quí, nếu họ thích thì họ cứ vác gậy nện vào lưng chúng ta, tao đã từng được nếm nhiều, đấy là đặc quyền của họ và có đánh dập xương chúng ta ra họ cũng chẳng mất gì về mặt cao quí của họ cả. Hải yến vùng Nam Hải là một giống chim ưng. Chúng ta hãy kính trọng cây vương trượng, nó vốn đứng đầu các loại gậy. Kính trọng là khôn ngoan, và hèn hạ là ích kỷ. Kẻ nào xúc phạm nhà vua thì cũng như cô bé cả gan cắt bờm sư tử. Người ta cho biết mày đã nói bậy bạ về đồng tiền xu, nó cũng như đồng Lya, mà mày đã miệt thị cái huy chương cao cả ấy, nhờ nó mà ở chợ người ta cấp cho chúng ta một nửa góc cá mồi muối. Mày cứ liệu hồn. Phải đứng đắn lên. Mày nên hiểu là có nhiều loại hình phạt. Mà phải thấm nhuần những chân lý của luật pháp. Mày ở trong một đất nước mà kẻ nào cưa một cái cây con là bị lặng lẽ dẫn đến giá treo cổ. Những kẻ hay thề bồi đều bị còng chân. Người say rượu bị nhốt vào một cái thùng gỗ thủng đáy để cho nó đi, mặt trên thùng có một lỗ cho đầu ló lên và ở thành thùng có hai lỗ cho tay thò ra, thành thử nó không thể nằm, kẻ nào đánh người trong điện Oetminxtơ[15] thì bị tù chung thân và tịch thu tài sản. Kẻ nào đánh người trong cung vua thì bị chặt bàn tay phải. Búng mũi ai chảy máu là mày cụt tay ngay. Kẻ nào bị pháp viện giám mục xác nhận theo tà giáo đều bị thiêu sống. Chính vì một tội không đáng kể mà Cơtơbe Ximxơn đã bị xé xác bằng bàn quay[16], cách đây ba năm, năm 1702, không lâu lắm như mày thấy đấy, người ta đã quay trên đài bêu tội nhân một tên gian ác tên là Đanien Đi Fô, tên này dám cả gan in tên các thành viên công xã đã phát biểu hôm trước tại nghị viên. Kẻ nào bất trung với vua đều bị mổ sống, moi tim, và người ta cầm quả tim đó quật vào hai má nó. Mày cần phải nhớ kỹ khái niệm ấy về quyền hạn và công lý. Không bao giờ được tự cho phép mình nói một lời, và hễ có thoáng điều gì e ngại là phải vù ngay, đấy là kiểu dũng cảm mà tao vẫn thực hành và tao khuyên nên theo. Về mặt táo bạo, mày cứ bắt chước giống chim, còn về mặt chuyện trò tào lao thì cứ làm như loài cá. Vả lại, nước Anh có điểm đáng ca ngợi là pháp chế rất chi ôn hòa.

Quở mắng xong, Uyêcxuyt vẫn lo lắng mất một thời gian nữa, Guynplên hoàn toàn không thế. Tính to gan của thanh niên cũng do thiếu kinh nghiệm. Tuy nhiên hình như Guynplên cũng có lý do để bình tĩnh, vì mấy tuần trôi qua yên ổn, và chẳng có dấu hiệu gì về hậu quả câu nói ám chỉ hoàng hậu.

Như ta biết. Uyêcxuyt vốn cả lo, nên cứ như con hoẵng nghe ngóng, luôn luôn để ý đến mọi người. Một hôm, ít lâu sau lần ông giáo huấn Guynplên, nhân nhìn qua cái lỗ con ở bức tường trông ra ngoài, Uyêcxuyt tái mặt.

- Guynplên đâu?

- Cái gì ạ?

- Mày nhìn xem.

- Dạ nhìn đâu?

- Ngoài bãi kia kìa.

- Dạ, rồi sao?

- Mày thấy mấy người đang đi qua kia không?

- Người mặc bộ đồ đen ấy ư?

- Đúng.

- Dạ, người cầm cái gì như cái chùy phải không?

- Đúng.

- Thế rồi sao?

- Này. Guynplên, người ấy là quan thiết trượng đấy.

- Quan thiết trượng là thế nào?

- Đó là vị pháp quan của Đoàn một trăm.

- Pháp quan của Đoàn một trăm là thế nào?

- Đó là vị proepositus hundredi[17].

- Dạ procpositus hundredi là cái gì?

- Đó là vị quan chức đáng sợ.

- Ông ta cầm cái gì ở tay thế?

- Đó là cái thiết trượng.

- Thiết trượng là cái gì?

- Đó là một vật bằng sắt.

- Ông ta dùng của ấy để làm gì?

- Trước tiên ông ta tuyên thệ trên nó. Vì vậy người ta gọi ông là quan thiết trượng.

- Thế rồi sao?

- Sau đó với cái ấy ông ta chạm vào các người.

- Dạ, với cái gì cơ?

- Với cái thiết trượng

- Dạ, quan thiết trượng chạm vào người ta bằng cái thiết trượng?

- Đúng.

- Thế nghĩa là thế nào?

- Thế nghĩa là: đi theo ta.

- Và thế là phải đi theo lão?

- Đúng.

- Đi đâu?

- Đi đâu tao biết được

- Thế lão có nói dân mình đi đâu không?

- Không.

- Nhưng mình có thể hỏi lão điều ấy chứ?

- Không.

- Sao lại thế?

- Ông ta chẳng bảo gì mình mà mình cũng chẳng nói gì với ông ta cả.

- Nhưng...

- Ông ta chạm vào mình bằng cái thiết trượng, thế là đủ. Mình phải bước đi.

- Nhưng đi đâu?

- Theo ông ta. Đi đâu tuỳ ý ông ta. Guynplên ạ.

- Thế người ta cưỡng lại ?

- Thì bị treo cổ.

Uyêcxuyt lại thò đầu qua cái lỗ con, thở một hơi dài và nói:

- Ơn chúa, lão đi qua rồi. Không phải lão đến nhà ta.

Uyêcxuyt hoảng hốt có lẽ vì những chuyện thóc mách và những lời tố cáo có thể có được về câu nói vô ý thức của Guynplên, hơn là vì lý trí.

Ông Nicơlex được nghe hai bên nói chuyện, thấy chẳng ăn gì mà làm hại đến những người đáng thương của Hộp Xanh. Chính nhờ Thằng Cười mà ông kiếm được một món lợi khá to. Vở Hồng hoang chiến bại có hai mặt thành công: nó làm cho nghệ thuật thắng lợi trong Hộp Xanh, đồng thời làm cho thói rượu chè phát triển trong quán rượu.

6. MÈO HỎI CUNG CHUỘT

Uyêcxuyt còn bị một phen náo động nữa, khá hãi hùng. Lần này chính ông là đương sự. Ông bị gọi đến Bisopghêt, trước một hội đồng gồm ba bộ mặt rỗ khó thương. Ba bộ mặt đó là ba vị tiến sĩ gọi là uỷ viên, một vị tiến sĩ thần học, đại diện cho viện trưởng viện Oetminxtơ, một vị tiến sĩ y khoa, đại diện cho đoàn Bát thập, một vị tiến sĩ sử học và dân luật, đại diện trường Gretsam. Ba chuyên gia inomni re scibili[18] ấy có cảnh sát theo dõi những lời ăn tiếng nói của công chúng trên khắp một trăm ba mươi giáo khu Luân Đôn, bảy mươi ba giáo khu Mitđonxêc và hiểu theo nghĩa rộng, năm giáo khu Xaothuak. Các kiểu xét xử thuộc về thần học như thế hiện vẫn còn ở nước Anh và hoành hành có hiệu quả. Ngày 23 tháng chạp năm 1868, theo án quyết toà án Acsơ, được phán quyết của các Nguyên lão Cơ mật viện xác nhận, linh mục Macônôsi đã bị cảnh cáo và phải trả án phí, vì tội thắp nến trên bàn. Tế lễ đâu phải chuyện đùa.

Thế là một hôm Uyêcxuyt nhận được của các vị tiến sĩ đại diện lệnh phải đến trình diện; cũng may lệnh được trao đúng tay ông và ông giữ được bí mật, ông lẳng lặng tuân theo trát đòi, nơm nớp nghĩ đến việc mình có thể bị xem như thủ xướng câu chuyện, đến mức có thể bị nghi là to gan trong chừng mực nào đó. Đây là một bài học đau xót đối với ông, vẫn thường khuyên người khác im lặng. Garrule, sana te ipsum[19]. Ba ngài tiến sĩ uỷ viên ngồi tại Bisopghêt. Ở phía trong cùng một căn phòng tầng trệt, trên ba cái ghế có tay vịn bằng da mầu đen. Trên đầu họ, trong tường, ba bức tượng bán thân của Minôx, Ekơ và Rađamăng; trước mặt, một cái bàn, và ở chân, một cái yên bị cáo. Uyêcxuyt được một người hầu đeo khí giới thầm lặng và nghiêm trang dẫn vào; nhác trông thấy ba vị, lập tức trong tư tưởng, ông gán cho mỗi vị cái tên của diêm quan trên đầu họ.

Minôx, vị thứ nhất, người đại diện cho thần học, ra hiệu cho ông ngồi trên cái yên bị cáo. Uyêcxuyt chào rất đúng tư cách, nghĩa là sát tận đất và biết rằng người ta vẫn thuần phục gấu bằng mật ong, các ngài tiến sĩ bằng tiếng La tinh, ông vừa nói vừa lễ phép cúi gập đôi người:

- Tres faclunt capatulum,[20]. - Và cúi đầu, đức khiêm nhường tước hết vũ khí, ông đến ngồi trên ghế.

Mỗi vị tiến sĩ đều có trước mặt, trên bàn, một tập hồ sơ và đang giở xem từng trang.

Minôx bắt đầu:

- Anh vẫn hay nói ở nơi công cộng?

- Thưa vâng - Uyêcxuyt đáp.

- Dựa vào quyền gì

- Tôi là triết gia.

- Đó không phải là một cái quyền.

- Tôi làm trò múa rối nữa - Uyêcxuyt nói.

- Thế thì lại khác.

Uyêcxuyt thở phào nhưng kính cẩn. Minôx nói tiếp:

- Với tư cách múa rối anh có thể nói, nhưng với tư cách triết gia, anh phải im lặng.

- Tôi xin cố gắng ạ. - Uyêcxuyt nói.

Và ông nghĩ bụng: - Tôi có thể nói nhưng tôi phải im lặng. Rắc rối thật.

Ông vô cùng hoảng sợ.

Vị đại diện cho Chúa tiếp tục.

- Anh nói nhiều điều rất chướng tai. Anh xúc phạm đến tôn giáo. Anh phủ nhận những chân lý hiển nhiên nhất. Anh truyền bá những sai lầm rất phản nghịch. Chẳng hạn, anh bảo tính trinh bạch ngoại trừ tư cách làm mẹ.

Uyêcxuyt hiền lành ngước mắt lên.

- Bẩm tôi không nói thế. Tôi nói tư cách làm mẹ loại trừ tính trinh bạch.

Minôx trầm ngâm và lẩm bẩm:

- Xét cho cùng, có trái ngược.

Chính ra vẫn thế thôi. Nhưng Uyêcxuyt đã tránh được đòn thứ nhất.

Minôx vừa nghiền ngẫm câu trả lời của Uyêtxuyt vừa đắm mình trong cái ngu lâu của lão, thành thử vẫn im lặng một lúc.

Vị đại diện cho sử học, người mà Uyêcxuyt gọi là Rađamăng, che đỡ sự thất bại của Minôx bằng câu chất vấn sau đây:

- Bị cáo, những trò xấc xược của anh thuộc đủ loại. Anh nên công nhận rằng trận Phacxan thua vì Brutuyx và Catluyx gặp một tên da đen.

- Tôi nói - Uyêcxuyt nhỏ nhẹ - chính vì Xêda là một vị tướng tài ba hơn.

Nhà sử học không cần chuyển tiếp, bắt ngay sang vấn đề thần thoại.

- Anh đã tha thứ những chuyện đê tiện của Actêông

- Tôi nghĩ rằng - Uyêcxuyt lựa lời nói quanh - một người đàn ông không hề bị mất danh dự vì đã thấy một phụ nữ cởi truồng.

- Vì là anh đã có lỗi - vị pháp quan nghiêm nghị nói.

Rađamăng quay lại vấn đề sử học.

-Về vấn đề các tai nạn xảy đến cho đội kỵ binh của Mitơriđat, anh đã không thừa nhận hiệu năng của các loại cây cỏ. Anh đã phủ nhận việc một thứ lá, như cây Xêcunduca, có thể làm bong móng sắt của ngựa.

- Xin ngài thứ lỗi cho - Uyêcxuyt đáp - Tôi nói rằng hiệu năng đó chỉ có ở lá xfeta-cavalô. Tôi không phủ nhận hiệu năng của một loại lá nào cả.

Và ông nhỏ nhẹ tiếp thêm:

- Cũng như đúc hạnh của một người đàn bà nào cả.

Bằng món phụ nào đó thêm vào câu trả lời, Uyêcxuyt tự tỏ là mình, dù có lo ngại mấy cũng vẫn không ngã ngựa. Uyêcxuyt sợ hãi mà vẫn tỉnh táo.

- Tôi nhấn mạnh - Radamăng nói tiếp - Anh đã tuyên bố việc Xipiông dùng lá Êtiôpi để mở cửa thành Cartagiơ là một chuyện đơn giản, vì lá Êtiôpi không có tính năng bẻ khoá.

- Tôi chỉ nói giá ông ta dùng lá lynarya thì tốt hơn.

- Đó là một ý kiến - đến lượt Rađamăng cũng bị đâm trúng, khẽ nói. Và nhà sử học im lặng.

Vị thần học, sau khi hồi tỉnh, lại hỏi Uyêcxuyt. Lão đã có thì giờ tra cứu sổ tay.

- Anh đã xếp chất thạch anh vào chất có thạch tín, và anh bảo người ta có thể đầu độc bằng thạch hoàng. Kinh Thánh phủ nhận điều đó.

- Kinh Thánh phủ nhận - Uyêcxuyt thở dài, - nhưng thạch tín khẳng định.

Nhân vật mà Uyêcxuyt xem là Ekơ, đại diện cho y học, từ nãy vẫn chưa nói, liền can thiệp vào, hai mắt lim dim cao đạo, bênh vực Uyêcxuyt một cách rất bề trên.

Lão nói:

- Câu trả lời không phải là phi lý.

Uyêcxuyt cảm ơn bằng nụ cười tự hạ nhất.

Minôx bĩu môi nom đến xấu.

- Tôi tiếp tục - Minôx lại nói. - Anh hãy trả lời. Vấn đề rắn Bazilic[21] là vua các loài rắn, dưới cái tên Côcatơrix, anh cho là không đúng.

- Thưa ngài tôn kính - Uyêcxuyt nói, - tôi không hề có ý định hại rắn Bazilic nên tôi đã nói: chắc chắn là nó có một cái đầu người.

- Được đi - Minôx nghiêm nghị đáp - nhưng anh lại thêm rằng Poêruyx có một cái đầu chim ưng. Anh có thểchứng minh điều đó không?

- Bẩm khó đấy - Uyêcxuyt nói.

Chỗ này ông bị đẩy lùi một tí.

Minôx nắm lại phần thắng, tấn công.

- Anh là một tên Do Thái theo đạo Thiên chúa thì có mùi thum thủm.

- Nhưng tôi có thêm một người theo đạo Thiên chúa mà làm dân Do Thái có mùi hôi hôi.

Minôx liếc nhìn vào tập hồ sơ tố giác.

- Anh khẳng định và truyền bá những điều vô lý. Anh nói Êliêng đã thấy con voi viết cách ngôn.

- Thưa ngài tôi rất tôn kính, không phải thế, tôi chỉ nói rằng Ôpriêng có nghe một con hà mã tranh cãi về một vấn đề triết học.

- Anh tuyên bố chuyện một cái đĩa bằng gỗ giẻ gai tự nó đầy những món ăn ưa thích, là không thật.

- Tôi nói rằng đĩa mà lại có phép như vậy thì nó phải do quỷ sứ ban cho ngài.

- Cho tôi!

- Dạ bẩm không, thưa ngài tôn kính, cho tôi ạ! Không, không cho ai cả? Cho tất cả mọi người.

Và trong đầu Uyêcxuyt ngẫm nghĩ: "Mình nói gì mình cũng không biết nữa Nhưng vẻ bối rối bên ngoài của ông tuy lên đến cực độ nhưng cũng không lộ liễu lắm, Uyêcxuyt cố gắng cầm cự.

- Tất cả những điều trên đây. - Minôx lại nói chứng tỏ anh có tin tưởng phần nào vào ma quỉ.

Uyêcxuyt quyết chống đỡ.

- Thưa ngài rất tôn kính, tôi không phải không tin ở ma quỉ. Lòng tin vào ma quỉ là mặt trái đức tin dành cho Chúa. Cái nọ chứng minh cái kia. Kẻ nào không tin tí chút vào ma quỉ thì không tin ở Chúa lắm. Ai tin có mặt trời, phải tin có bóng tối. Quỉ sứ là đêm tối của Chúa. Đêm tối là gì? Là bằng chứng của ban ngày.

Uyêcxuyt ứng biến ở đây một kết hợp rất tài tình của triết học và tôn giáo. Minôx lại đâm ra trầm ngâm và lại chúi đầu vào cái vực im lặng.

Uyêcxuyt lại được thở.

Một cuộc tấn công đột ngột bỗng diễn ra, Ekơ, vị đại diện cho y học, vừa mới khinh khỉnh che chở cho Uyêcxuyt chống lại vị đại diện thần học, đột nhiên trở thành trợ lý tác chiến. Lão đặt nắm đấm lên tập hồ sơ dầy cộp, chi chít. Lão chất vấn đốp vào giữa mặt Uyêcxuyt:

- Người ta đã chứng minh rằng pha lê là nước đá kết tinh, rằng kim cương là pha lê kết tinh, người ta đã xác nhận rằng nước đá để một nghìn năm biến thành pha lê và pha lê để một nghìn thế kỷ biến thành kim cương. Anh đã phủ nhận những điều đó.

- Đâu có. - Uyêcxuyt buồn rầu đáp. - Tôi chỉ nói trong một nghìn năm nước đá có đủ thời gian để tan chảy và một nghìn thế kỷ thì rất khó đếm.

Cuộc hỏi cung tiếp tục, bên hỏi bên trả lời cứ như tiếng kiếm chạm nhau chan chát.

- Anh có phủ nhận việc cây cỏ biết nói.

- Bẩm hoàn toàn không. Nhưng muốn thế, cây cỏ phải mọc ở dưới một cái giá treo cổ.

- Anh công nhận là cây độc sâm gào thét được.

- Không, nhưng nó hát được.

- Anh phủ nhận việc ngón tay thứ tư của bên tay trái có một hiệu năng thân ái.

- Tôi chỉ nói ông hắt hơi sang bên trái là một điềm chẳng lành.

- Anh đã nói về chim phượng hoàng một cách liều lĩnh và láo xược.

- Thưa quí toà anh minh, tôi chỉ nói, khi viết rằng có phượng hoàng ngon nhưng gây ra nhức đầu. Pluytac đi quá xa, vì phượng hoàng không hề tồn tại.

- Lời nói của anh khả ố lắm. Chim xinaman làm tổ bằng vỏ quế, chim rintaxê mà Parysatix dùng làm thuốc độc, chim Manucôđiat vốn là loài chim trên thiên đàng, và chim xêmenda mỏ có ba ống, người ta đều nhầm là phượng hoàng, nhưng phượng hoang đã tồn tại.

- Bẩm tôi không phản đối điều ấy.

- Anh là một con lừa cái.

- Bẩm, tôi không đòi hỏi gì hơn.

- Anh đã thú nhận rằng hương mộc chữa được bệnh viêm hầu, nhưng anh lại thêm không phải do rễ nó có một cái u thần.

- Tôi nói rằng đó là do Giuđa[22] treo cổ ở một cây hương mộc.

- Ý kiến có thể chấp nhận được - nhà thần học Minôx lẩm bẩm, đắc thắng đã trả miếng được thầy thuốc Êkơ.

Kiêu ngạo bị xúc phạm lập tức trở thành giận dữ. Êkơ tỏ ra quyết liệt:

- Tên du cư kia, anh lang thang với trí tuệ cũng không kém gì bằng đôi chân. Anh có những khuynh hướng vừa khả nghi vừa kỳ quặc. Anh sát cánh với ma thuật. Anh quan hệ với những con vật xa lạ. Anh nói với dân hèn về những vật chỉ tồn tại trong đầu óc anh, và mang một tính chất vô lý, như conhêmôrôux.

- Bẩm hêmôrôux là một con rắn độc mà Tơrêmêliux đã từng thấy.

Câu trả lời ấy gây đôi chút bối rối cho cái khoa học nổi khùng của tiến sĩ Êkơ.

Uyêcxuyt thêm:

- Hêmôrôux cũng có thật như sói xạ, cầy hương, đã được Caxtenlyux tả.

Êkơ lợi dụng điểm này để tấn công đến nơi:

- Đây là nguyên văn lời nói rất nguy hại của anh. Nghe đây.

Mắt nhìn vào đống hồ sơ, Êkơ đọc:

- "Hai loại cây cỏ, cây talaxigon và cây aglaphôtix ban đêm có ánh sáng. Ngày là hoa đêm là sao."

Và lão nhìn xoáy vào Uyêcxuyt:

- Anh nói thế nào?

Uyêcxuyt đáp:

- Mỗi cây cỏ là một ngọn đèn. Hương thơm là ánh sáng.

Êkơ lật sang trang khác.

- Anh không công nhận mật rái cá cũng ngang với hương hải ly.

- Tôi chỉ nói, về điểm này có lẽ phải ngờ vực Aêtiux.

Êkơ nổi xung.

- Anh làm nghề thuốc?

- Tôi tập làm nghề thuốc - Uyêcxuyt rụt rè thở dài.

- Trên người sống?

- Chứ không phải trên ngưòi chết - Uyêcxuyt nói.

Uyêcxuyt đối đáp một cách vững vàng nhưng hờ hững, một kiểu pha chế tuyệt vời trong đó vẫn nổi bật tính chất dịu dàng, ông ăn nói ngọt ngào đến nỗi vị tiến sĩ thấy cần phải sỉ vả ông.

- Anh rủ rỉ cái gì với chúng tôi thế? - lão cộc cằn hỏi.

Uyêcxuyt ngơ ngác và chỉ dám trả lời.

- Thanh niên mới biết rủ rỉ, còn người già chỉ biết thở than. Than ôi. Tôi than thở.

Êkơ bẻ lại:

- Tôi cảnh cáo anh về điểm này; nếu một bệnh nhân nào do anh chữa chạy mà chết, anh sẽ bị xử tử.

Uyêcxuyt liền đặt một câu hỏi:

- Thế nếu người ấy khỏi?

- Trường hợp đó - vị tiến sĩ đáp, dịu giọng xuống - anh sẽ bị tử hình.

- Thế thì chẳng khác gì lắm. - Uyêcxuyt nói.

- Nếu chết, người ta trừng phạt tội ngu xuẩn. Nếu khỏi người ta trừng phạt tính ngạo mạn. Cả hai trường hợp, giá treo cổ.

- Tôi không biết chi tiết đó - Uyêcxuyt nói khẽ. - Xin cảm ơn ngài đã chỉ dẫn cho tôi, quả thật không sao hiểu hết những khía cạnh đẹp đẽ của luật pháp.

- Anh liệu hồn.

- Một cách kính cẩn. - Uyêcxuyt nói.

- Chúng tôi biết anh làm những gì rồi.

- Còn tôi- Uyêcxuyt nghĩ bụng. - không phải lúc nào cũng biết điều ấy.

- Chúng tôi có thể tống anh vào ngục.

- Bẩm quí ngài lãnh chúa, tôi cũng phỏng đoán thế.

- Anh thể chối cãi những chuyện vi cảnh và vượt quyền bạn của anh.

- Triết học của tôi xin lỗi.

- Người ta buộc anh về tội to gan.

- Người ta sai vô cùng.

- Người ta bảo anh chữa khỏi nhiều bệnh nhân, có đúng không?

- Tôi là nạn nhân của những trò nói xấu.

Ba cặp lông mày khủng khiếp chĩa vào Uyêcxuyt cau lại, ba bộ mặt thông thái chụm vào nhau thì thầm. Uyêcxuyt thấy như một chiếc mũ lừa lờ mờ thấp thoáng trên ba cái đầu quyền hành kia, tiếng càu nhàu thân mật và có thẩm quyền của tam-vị-nhất-thể kia kéo dài mấy phút; trong khoảng thời gian ấy Uyêcxuyt cảm thấy mình hết lạnh buốt lại nóng bừng vì lo âu, hồi hộp. Cuối cùng Minôx, nhân vật chủ yếu, ngoảnh lại phía ông và nói với vẻ giận dữ.

- Cút.

Uyêcxuyt cảm giác na ná như Giônax thoát khỏi bụng cá voi.

Minôx tiếp:

- Anh được thả.

Uyêcxuyt nghĩ bụng. Họ mà tóm được mình lần nữa thì chết. Thôi xin vái lạy y học.

Và trong thâm tâm, ông tiếp thêm:

- Từ nay ta phải thận trọng, cứ mặc cho mọi mgười chết.

Gập đôi người lại, ông chào tất cả, từ các vị tiến sĩ đến các pho tượng bán thân, cái bàn, mấy bức tường, và giật lùi về phía cửa. Biến mất gần như bóng tối tan dần.

Ông thong thả thoát khỏi căn phòng như một kẻ vô tội, và nhanh như chớp biến khỏi con đường y hệt một tên tội phạm. Việc đến gần những con người của công lý thật là kỳ quặc và đen tối, đến nỗi dù được tha rồi người ta vẫn phải chạy trốn.

Vừa chạy trốn, Uyôcxuyt vừa lẩm bẩm:

- Mình đã thoát nạn một cách vô cùng may mắn. Mình là nhà thông thái sống ở trong rừng, họ là những nhà thông thái được nuôi dưỡng trong nhà. Bọn tiến sĩ làm khổ những nhà thông thái. Khoa học giả là phân bã của khoa học thật; và người ta dùng nó để tiêu diệt các triết gia. Khi tạo ra bọn nguỵ biện, các triết gia tự gây tai họa cho mình. Cứt họa mi sinh ra tầm gửi, lấy tầm gửi người ta làm ra nhựa. Với thứ nhựa đó người ta bắt họa mi, Turdus sibi ma lum cacat[23].

Chúng tôi không cho Uyêcxuyt là người tế nhị, ông dám liều lĩnh dùng những từ diễn tả trong tư tưởng của ông. Ông không nhã nhặn bằng Vonte.

Uyêcxuyt chở về Hộp Xanh, kể lại với ông Nicơlex rằng mình mải theo một người đàn bà đẹp, và không đả động gì câu chuyện ly kỳ của ông cả.

Có điều tối đến ông nói rất khẽ với Ômô:

- Mày phải biết nhá. Tao đã thắng ba cái đầu của Xecbe[24].

7. VÌ SAO MỘT ĐỒNG TIỀN VÀNG LẠI LẪN TRONG ĐỒNG TIỀN XU.

Một sự việc bỗng xảy đến, khiến mọi người quên hết.

Càng ngày quán Tacaxtơ càng trở thành một trung tâm náo nhiệt của cười đùa vui nhộn. Không đâu ồn ào vui vẻ hơn, ông chủ quán và tên hầu bàn không đủ sức để rót bia, rượu mạnh, rượu cần. Tối đến tất cả mọi cửa kính đều sáng choang, căn phòng thấp không một phòng nào bỏ trống. Người ta đua nhau hò reo ca hát, cái lò sưởi to cũ kỹ kiểu bếp lò, chắn lưới sắt và bỏ đầy than, cháy rừng rục. Ánh sáng của quán Tacaxtơ tỏa khắp bãi chợ phiên. Y như một ngôi nhà toàn lửa và tiếng ồn ào.

Trong sân, nghĩa là trong rạp hát, càng đông hơn nữa.

Toàn thể công chúng ngoại ô, mà Xaothuak có thể cung cấp cho các buổi biểu diễn Hồng hoang chiến bại. Đông đến nỗi, nhà hát vừa mở, nghĩa là cái bảng Hộp Xanh vừa hạ xuống, là không sao tìm được chỗ đặt chân.

Cửa sổ đầy ắp khán giả, ban-công chật cứng. Không còn thấy một phiến đá lát nào trên sân, tất cả đều được thay thế bằng mặt người.

Duy cái khoang dành cho giới quý tộc vẫn bỏ không.

Thành thử ở đấy vì nằm giữa ban-công, có một lỗ đen ngòm, gọi theo lối ẩn dụ của tiếng lóng, đó là "một cái lò chẳng có ai". Chỗ nào cũng đông nghịt, trừ ở đấy.

Một tối nọ ở đây bỗng có người. Hôm ấy thứ bẩy, ngày mà người Anh hối hả vui chơi vì Chúa nhật chán lắm. Căn phòng đông như kiến.

Chúng tôi nói là phòng. Đến Sêcxpia rất lâu mới chỉ có sân khách sạn để làm rạp hát, và ông gọi nó là phòng. Phòng lớn.

Lúc màn vừa mở. Ở màn giáo đầu Hồng hoang chiến bại, Uyêcxuyt, Ômô, và Guynplên đã có mặt trên sân khấu. Như thường lệ, Uyêcxuyt đưa mắt nhìn khán giả, và ông bỗng thấy hồi hộp vô cùng. Khoang dành cho "quí tộc" đã có người. Một phụ nữ ngồi, một mình, ngay chính giữa khoang, trên chiếc ghế nhung Utorêc.

Chỉ có một mình mà chật cả khoang.

Có những người phát toả ra ánh sáng. Y hệt Đêa, người đàn bà này cũng có ánh sáng riêng biệt, nhưng khác hẳn. Đêa tái nhợt, người đàn bà này không tươi.

Đều là ánh sáng lê minh, người đàn bà này là bình minh rực rỡ. Đêa xinh đẹp, người đàn bà này lộng lẫy, Đêa chất phác thơ ngây, là màu trắng, là tuyết thạch; người đàn bà này là màu đỏ rực và người ta cảm thấy nó không rõ sắc hồng, ánh sáng phát ra tràn ngập cả khoang và người đàn bà đó ngồi ở giữa, không nhúc nhích, vớimột tư thế sung mãn của thần tượng. Giữa đám dân đen hèn hạ kia, nàng tỏa ra thứ hào quang cao quí của hồng ngọc, nàng làm cho dân chúng xung quanh tràn ngập ánh sáng đến mức như dìm họ vào trong bóng tối, và tất cả những bộ mặt tối tăm kia đều bị nàng che phủ. Sự rực rỡ của nàng xoá nhoà tất cả.

Mọi con mắt đều đổ dồn vào nàng.

Tom-Jim-Jack đứng lẫn trong đám đông. Như mọi người khác, y cũng biến mất trong vầng hào quang của nhân vật sáng chói kia.

Thoạt tiên người đàn bà kia thu hút sự chú ý của công chúng, cạnh tranh với buổi biểu diễn và phần nào làm hại đến kết quả đầu tiên của Hồng hoang chiến bại.

Mặc dầu đượm vẻ rất huyền ảo, đối với những người đứng cạnh, nàng vẫn thật. Đúng là một người đàn bà. Có lẽ còn hơn một người đàn bà nữa, nàng to lớn, khoẻ mạnh, và kiêu kỳ, ăn mặc một cách hết sức lộ liễu. Nàng đeo đôi hoa tai rất to bằng ngọc: cùng với những thứ nữ trang kỳ lạ gọi là chìa khoá nước Anh. Chiếc áo ngoài của nàng bằng loại the Xiêm La[25] mỏng tang, thêu kim tuyến, cực kỳ sang trọng, vì loại áo the như vậy giá đến sáu trăm ê-quy. Một cái cặp to nạm kim cương cài kín chiếc áo lót lộ rõ cả ngực, một kiểu thời trang lộ liễu của thời bấy, giờ may bằng thứ hàng Frizơ mà hoàng hậu Ann Đ'Ôtrisơ[26] dùng làm khăn trải giường, mỏng đến mức có thể luồn nó qua một chiếc nhẫn. Người đàn bà kia như có một thứ áo giáp bằng hồng ngọc, một số hạt ngọc thạch mới mài và những hạt bảo thạch đính khắp trên thân váy. Ngoài ra, đôi lông mày vẽ mực Tàu, cánh tay, khuỷu tay, hai vai, cái cằm, dưới cánh mũi, trên mí mắt, vành tai, lòng bàn tay, đều thoa phấn và một chút gì đo đỏ rất khêu gợi. Và trên tất cả những điểm ấy, một ý chí mãnh liệt tỏ ra mình đẹp. Nàng đẹp đến mức dễ sợ. Đấy là con báo, có thể làm mèo lại có thể vuốt ve. Mắt nàng một bên xanh: một bên đen, Guynplên cũng như Uyêcxuyt, chăm chú quan sát người đàn bà đó. Hộp Xanh phần nào là một gánh hát hư ảo, Hồng hoang chiến bại là một giấc mộng hơn là một vở tuồng. Họ quen gây ảo giác cho công chúng; lần này kết quả ảo giác quay về với họ, căn phòng hắt lại sân khấu sự ngạc nhiên, đến lượt họ hoảng sợ. Họ bị mê hoặc dây chuyền. Người đàn bà nhìn họ, họ nhìn người đàn bà. Đối với họ, đứng cách xa như họ, và qua ánh sáng mờ ảo của cảnh tranh tối tranh sáng trong rạp, mọi chi tiết đều bị xoá nhoà, và y như một ảo giác. Không nghi ngờ gì nữa, đó là một người đàn bà, nhưng đó chẳng phải cũng là một điều huyền ảo sao. Việc một ánh sáng vào chỗ tối tăm của họ khiến họ phải sững sờ. Y hệt một hành tinh xa lạ rơi xuống. Nó từ thế giới của những người hạnh phúc tới. Hào quang phát tán làm cho khuôn mặt kia to ra. Trên mình của người đàn bà kia có những điểm lấp lánh của trời đêm, như một dải Ngân hà. Tưởng đâu những bảo ngọc kia là tinh tú. Cái cặp kim cương kia có lẽ là chùm sao Thất tinh. Đường nét mỹ miều của lồng ngực dường như phi thường. Nhìn nhân vật từ cõi tinh tú kia, người ta cảm thấy lạnh buốt và thoáng được đến trời hạnh phúc tuyệt đỉnh. Gương mặt bình tĩnh khó lay chuyển kia là những chốn cùng thẳm của thiên đường đang cúi nhìn Hộp Xanh nghèo hèn và đám công chúng khốn khổ của nó. Lòng hiếu kỳ tột bậc tự thoả mãn, đồng thời nó cũng mặc cho tò mò của quần chúng được thoả thuê. Bề Trên cho phép Bề dưới nhìn mình.

Uyêcxuyt, Guynplên, Vinox, Fibi, quần chúng, tất cả đều rung động trước ánh sáng chói loà trừ mỗi Đêa, chẳng biết gì trong cảnh đêm tối của mình.

Sự xuất hiện mang tính chất ma quái nhưng không một ý nghĩ nào, mà từ ngữ đó thường gọi lên, thể hiện trên gương mặt kia, nó chẳng có gì mờ ảo, không rõ, bềnh bồng cả.

Không một gợn hơi khói nào, đây là một bóng ma hồng hào tươi tắn, khoẻ mạnh. Tuy vậy, đứng ở vị trí của Uyêcxuyt và Guynplên, do điều kiện quang học, nó lại là ảo ảnh. Những con ma béo người ta quen gọi là ma cà rồng thật. Một nữ hoàng xinh đẹp nào, mà đối với quần chúng cũng là ảo ảnh và mỗi năm ngốn hết ba mươi triệu dân nghèo, thì cũng phải khoẻ đẹp như vậy thôi.

Sau lưng người đàn bà kia, trong bóng tối chập chờn. Người ta nhận thấy tên hầu el mozo[27] một anh, chàng bé nhỏ trẻ con, trắng trẻo, xinh xắn, có dáng vẻ nghiêm trang. Một tiểu đồng thật trẻ, thật nghiêm trang, vốn là kiểu thời thượng bấy giờ. Tên hầu kia mặc áo đi giầy, đội mũ nhung mầu lửa và trên mũ vạch vàng của nó có một túp lông chim anh vũ, dấu hiệu gia nhân quyền quí, và tỏ ra mình là một nô bộc của một phu nhân rất cao sang.

Quân hầu là thành phần của lãnh chúa, cho nên không thể không chú ý đến tên hầu cầm đuôi áo này trong cái bóng của người đàn bà kia. Trí nhớ thường ghi chép mà ta không biết, và Guynplên cũng không ngờ rằng đôi má phình phính, vẻ mặt nghiêm trang, cái mũ có cái vạch và một túp lông chim của tên hầu phu nhân kia, đã để lại trong trí óc mình thột dấu vết. Vả lại tên tiểu đồng cũng chẳng làm gì để người ta phải nhìn nó, thu hút sự chú ý là thiếu lễ độ; nó đứng im lìm trong xó khán đài, và lùi thật sát váo cánh cửa đóng kín.

Mặc dầu có một thằng hầu kín đáo cầm đuôi áo của mình, người đàn bà kia vẫn không vì thế mà kém phần lẻ loi trong khán đài, vì chẳng ai kể đến một tên nô bộc cả.

Sự sao lãng do con người mang tính chất nhân vật kia gây nên tuy có mãnh liệt thật, nhưng đoạn kết thúc vở Hồng hoang chiến bại còn mãnh liệt hơn. Cũng như mọi lần, cảm xúc vẫn không thể cầm được. Có lẽ trong phòng còn thêm chất điện, do người nữ khán giả lộng lẫy vì đôi khi người xem cũng tự góp phần vào buổi biểu diễn. Nụ cười lừng lẫy của Guynplên càng thắng lợi hơn bao giờ hết. Toàn thể khán giả như lịm đi trong trận cười điên loạn không bút nào tả hết, trong đó có nét mặt cuồng nhộn và đàn anh của Tom-Jim-Jack.

Riêng người đàn bà xa lạ, ngồi xem vởtuồng với đôi mắt ma và bất động như một pho tượng, vẫn không cười.

Hiện tượng kỳ quái, nhưng của mặt trời.

Buổi biểu diễn kết thúc, tấm quảng cáo nâng lên, trong Hộp Xanh lại chan hoà không khí đầm ấm.

Uyêcxuyt mở túi tiền vào cửa và dốc lên bàn ăn.

Giữa một đống xu bỗng lấp lánh một đồng tiền vàng Tây Ban Nha.

- Bà ta! - Uyêcxuyt reo to.

Đồng tiền vàng giữa đống xu gỉ xanh, chính là người đàn bà kia giữa đám dân chúng.

- Bà ta đã trả chỗ ngồi bằng một đồng tiền vàng! - Uyêcxuyt phấn khởi nhắc lại.

Đúng lúc ấy, người chủ quán bước vào Hộp Xanh, thò cánh tay qua cánh cửa sổ phía sau, mở cái lỗ thông gió đã nói ở bức tường sau lưng Hộp Xanh và ngang tầm với cửa sổ, nó cho phép nhìn ra bãi, rồi lẳng lặng ra hiệu cho Uyêcxuyt nhìn ra ngoài. Một cỗ xe lộng lẫy, có thêm một lũ quân hầu cầm đuốc, mũ cắm lông chim, với bầy ngựa rất sang, đang phi nước đại rời xa.

Uyêcxuyt kính cẩn cầm đồng tiền vàng giữa ngón cái và ngón trỏ, nói với ông Nicơlex:

- Một nữ thần đấy.

Rồi đôi mắt ông nhìn theo chiếc xe rẽ ở góc bãi, theo cái mui xe được những cây đuốc của bọn quân hầu soi sáng một vòng kim miện có chạm trổ tám bông hoa.

Và ông reo to:

- Hơn thế nữa, một nữ công tước.

Chiếc xe mất hút. Tiếng bánh lăn cũng tắt.

Uyêcxuyt đứng ngây ngất một lúc, rồi với hai ngón tay, trở thành hình thánh thể, ông nâng cao đồng tiền vàng lên như người nâng mình thánh Chúa.

Đoạn ông đặt đồng tiền lên bàn, vừa ngắm nghía vừa nói về "phu nhân". Người chủ quán tiếp chuyện ông. Đấy là một nữ công tước. Đúng, danh vị thì biết rồi. Nhưng còn tên? Không rõ, ông Nicơlex đã nhìn gần cỗ xe, có đầy đủ gia huy, và quân hầu đều có vạch vàng. Tên đánh xe đội bộ tóc giả trông cứ như một vị lãnh chúa tể tướng. Cỗ xe mang hình dáng hiếm thấy. Ở Tây Ban Nha gọi là Côsơ-tumbon, một loại xe lộng lẫy có nắp kiểu quan tài, đấy là cái đế rất sang đỡ vành kim miện. Tên tiểu đồng là một mẫu người bé nhỏ đến nỗi nó có thể ngồi dưới ở bậc lên xuống xe bên ngoài cửa. Người ta thường dùng những loại người xinh xắn ấy đề nâng đuôi áo cho các phu nhân, cũng để đưa cả thư từ. Và có ai nhận thấy cái chòm lông chim anh vũ của tên tiểu đồng không? Đấy mới là điều quan trọng. Nếu không được phép mà cắm lông chim ấy là phải nộp phạt, ông chủ Uyêcxuyt cũng được nhìn tận mặt phu nhân. Đúng là một nữ hoàng. Bao nhiêu vàng bạc châu báu tạo nên sắc đẹp. Nước da thêm trong mát, con mắt thêm kiêu hãnh, dáng điệu thêm cao sang, sắc đẹp thêm ngạo mạn. Không gì sánh kịp cái vẻ thanh lịch láo xược của đôi bàn tay không lao động kia.

Ông chủ Nicơlex kể mãi về vẻ diễm lệ của làn da trắng ngần với những mạch máu xanh xanh, cái cổ, đôi vai, cánh tay, chỗ nào cũng thoa phấn, đôi hoa tai bằng ngọc, mái tóc rắc phấn vàng, toàn thân châu báu, hồng ngọc, kim cương.

- Không sáng bằng đôi mắt - Uyêcxuyt nói khẽ.

Guynplên im lặng.

Đêa lắng nghe.

- Và ông có điểm kinh ngạc nhất không? - Người chủ tiệm hỏi.

- Điểm gì? - Uyêcxuyt hỏi.

- Là tôi đã trông thấy bà ta lên xe.

- Sao nữa?

- Không phải lên một mình đâu nhé.

- Tưởng gì.

- Có một người lên theo bà ta.

- Ai thế?

- Ông đoán xem.

- Nhà vua chăng? - Uyêcxuyt nói.

- Trước tiên - Ông chủ quán Nicơlex gạt luôn, - lúc này không có vua. Chúng ta không sống dưới triều đại một nhà vua. Ông đoán xem ai đã trèo vào xe của nữ công tước ấy nào.

- Giuypite -Uyêcxuyt nói.

Ông chủ quán đáp:

- Tom-Jim-Jack.

Guynplên, từ nãy không nói một lời nào. Chợt bỏ thái độ im lặng, reo lên:

- Tom-Jim-Jack!

Mỗi giây phút ngạc nhiên, qua đó có thể nghe được tiếng Đêa thì thào:

- Không có cách nào ngăn cản và ấy đến đây sao?

8. TRIỆU CHỨNG NGỘ ĐỘC.

"Bóng ma" không trở lại.

Nó không trở lại rạp hát, nhưng nó trở lại trong tâm trí Guynplên.

Trong chừng mực nào đó, Guynplên có xao xuyến băn khoăn, nó thấy hình như đây là lần đầu tiên trong đó nó được nhìn một người đàn bà.

Đột nhiên nó gần như lảo đảo trong trạng thái suy nghĩ vẩn vơ kỳ lạ. Nên cẩn thận với lối mơ màng miễn cưỡng này. Mơ màng cũng huyền bí tinh tế như một thứ hương. Đối với tư tưởng nó cũng như hương thơm đối với cây huệ. Đôi khi nó là sự giãn nở của một ý nghĩ độc hại, và có sức thâm nhập của một làn khói. Con người có thể có thể ngộ độc vì mơ màng cũng như vì hoa thơm. Một lối tự sát say sưa, tuyệt diệu và thê thảm.

Tâm hồn tự sát khi nghĩ đến điều sai trái. Đó là cảnh ngộ độc. Mơ màng thường lôi cuốn, vuốt ve, cám dỗ, trói buộc, rồi biến anh thành đồng phạm. Nó bắt anh dự một nửa phần trong những trò nó lừa lọc lương tâm.

Nó mê hoặc anh. Rồi làm anh sa đoạ. Có thể nói về mơ màng những gì ta thường nói về cờ bạc. Thoạt đầu người ta bị lừa, cuối cùng người ta trở thành bịp bợm.

Guynplên tư lự.

Nó chưa bao giờ thấy đàn bà.

Bóng đàn bà nó đã được thấy trong quần chúng phụ nữ, linh hồn đàn bà nó đã thấy ở Đêa.

Những đàn bà thực sự thì bây giờ nó mới thấy.

Một làn da ấm áp sống động, dưới đó người ta cảm thấy có dòng máu sôi nổi cuộn chảy, những đường nét rõ ràng như đá hoa cương, nhấp nhô như sóng nước, mỗi gương mặt kiêu kỳ, thản nhiên, bao hàm cả cự tuyệt lẫn lôi cuốn, thu lại thành một vẻ chói lọi; làn tóc như nhuộm ánh hồng của một đám cháy, một cách trang sức lẳng lơ vừa chứa đựng vừa gây cho người khác cảm giác rùng mình của khoái lạc: mỗi vẻ trần truồng phác hoạ, bộc lộ nỗi thèm khát ngạo mạn muốn được quần chúng chiếm đoạt mà cũng không đến gần, một lối làm duyên không để ai phạm tới, một sắc đẹp không sao với được; một sự cám dỗ có thêm ý vị trầm luân cảm đoán; một nỗi lo sợ ngại ngần hai mặt, một bên là tình dục, một bên là sợ hãi, Guynplên vừa mới thấy được điều đó. Nó vừa mới thấy một người đàn bà.

Nó vừa thấy được chỗ hơn và chỗ kém của một người đàn bà, một giống cái. Và đồng thời một bậc thần tiên.

Một giống cái của thần thánh.

Điều bí mật ấy, tính chất nam nữ, vừa mới biểu hiện ra với nó.

Ở đâu? Ở chỗ nào với tới.

Ở một quãng cách vôcùng tận.

Số mệnh thật trớ trêu, linh hồn, điều mang tính chất tiên giới ấy thì nó nắm được, nó có trong tay, đó là Đêa, còn tính chất nam nữ, điều trần tục này, nó lại trông thấy ở chốn thăm thẳm của trời cao, đó là người đàn bà kia.

Một nữ công tước.

Hơn cả một nữ thần - Uyêcxuyt đã nói.

Cheo leo khó tới thay!

Trước một cảnh cheo leo như thế, bản thân mơ mộng cũng phải lùi bước.

Liệu nó có điên rồ khi nghĩ đến người đàn bà xa lạ kia không? Nó đang cân nhắc.

Nó nhớ tất cả những điều Uyêcxuyt nói về nó về những cuộc sống hầu như vương giả; những lời nói dông dài của vị triết gia, trước đây nó tưởng như vô ích, trở thành những cọc tiêu cho nó nghiền ngẫm; thường thường trong trí nhớ chúng ta cho có một lớp quên lãng rất mỏng, gặp cơ hội nó đột nhiên để lộ cho chúng ta những gì bên dưới, Guynplên hình dung cái giới uy nghiêm đó, giới lãnh chúa, giới của người đàn bà kia, khắc nghiệt chồng lên cái giới nhỏ mọn là nhân dân trong đó có nó. Và kể cả giới nhân dân nữa, nó có thuộc giới ấy không? Nó chẳng phải phường múa rối là gì? Dưới cả tầng lớp dưới. Lần đầu lên, từ ngày đến tuổi biết suy nghĩ nó mơ hồ cảm thấy đau xót về địa vị thấp kém của nó mà ngày nay chúng ta quen gọi là hèn mạt. Những bức tranh và những bản liệt kê của Uyêcxuyt, những tờ kê khai trữ tình của ông, những bài thơ ông chúc tụng các lâu đài, vườn hoa, vòi nước, hàng cột, những phơi bầy của ông về sự giầu sang và quyền thế, sống lại trong tư tưởng của Guynplên rõ nét như một thực tế xen lẫn với trời mây. Nó bị đỉnh trời ấy ám ảnh. Một con người lại có thể trở thành lãnh chúa, điều ấy nó thấy như hoang đường. Thế mà lại có thật. Khó tin quá! Có những ngài lãnh chúa! Nhưng họ có phải bằng thịt bằng xương như chúng ta không? Thật đáng ngờ. Nó cảm thấy nó cảm thấy nó đang đứng trong bóng tối, có tường bao bọc xung quanh, và cao vút trên đầu, như qua miệng một cái giếng mà nó đang đứng dưới đáy, nó thấy cảnh rực rỡ hỗn độn của trời xanh, của những khuôn mặt và những hào quang, nơi thần tiên ngự trị. Giữa khung cảnh vinh quang đó có hình ảnh chói loà của người nữ công tước.

Đối với người đàn bà kia, nó cảm thấy một thèm muốn kỳ dị, phức tạp vì không thoả mãn được.

Và bất chấp cả nó, điều phi lý đau lòng ấy cứ lởn vởn trong đầu óc Guynplên, bên cạnh, ngay tầm tay, trong thực tại chật hẹp và sờ mó được, nhìn thấy phần linh hồn, còn chỗ không với tới. Ở chốn cùng thẳm của lý tưởng, lại thấy phần xác thịt.

Những tư tưởng ấy, không một tư tưởng nào đến với Guynplên rõ ràng cả. Đây là một thứ sương mù nội tại. Luôn luôn thay dạng đổi hình và bềnh bồng lơ lửng. Nhưng lại tối tăm mù mịt.

Vả lại, trong trí óc Guynplên không lúc nào nghĩ đến một cái gìđó có thể gần được. Ngay cả trong mộng, nó cũng không hề mơ tới chuyện vươn đến người nữ công tước. May mắn thay.

Một khi đã đặt chân lên những cái thang ấy, cảm giác run sợ có thể còn mãi trong đầu óc anh, tưởng trèo lên đỉnh thiên thai lại hoá ra đến bệnh viện tâm thần[28]. Một thèm khát rõ ràng, giá có thành hình trong nó, cũng đã làm cho nó khủng khiếp, Guynplên không cảm thấy một chút gì như thế cả.

Mặt khác, rồi nó có bao giờ gặp lại người đàn bà kia nữa không? Hẳn là không. Say mê một ánh sáng thoáng lóe ở chân trời, ai lại điên cuồng đến mức ấy. Liếc mắt đưa tình với một vì sao, điều đó còn tạm được, người ta còn thấy lại vì sao, nó sẽ tái hiện, nó cố định. Nhưng lẽ nào lại phải lòng một tia chớp.

Guynplên cứ mơ màng vớ vẩn. Thần tượng trong khán đài, uy nghiêm, lịch sự, mờ mờ tỏ in trong những ý nghĩ mông lung của nó rồi lại nhoà mất. Nó nghĩ đến thần tượng, rồi thôi không nghĩ nữa, lo làm những việc khác, rồi lại quay về đấy. Nó như người bị đu đưa, chẳng có gì khác.

Thế mà nó mất ngủ suốt mấy đêm. Giờ phút mất ngủ cũng đầy mộng mị như khi ngủ mê.

Hầu như không sao diễn đạt nổi, trong giới hạn chính xác của chúng, những diễn biến trừu tượng trong đầu óc nó. Trở ngại của từ ngữ là có nhiều đường viền hơn ý nghĩ. Tất cả các ý nghĩ đều hoà lẫn vào nhau qua các mép biên; từ ngữ không thể. Luôn luôn có một khía cạnh mờ mịt nào đó của tâm hồn thoát khỏi chúng. Lời nói có biên giới, tư tưởng không có.

Cõi bao la tối tăm trong lòng ta lạ lùng ở chỗ những gì diễn ra trong tư tưởng Guynplên chỉ thoáng chạm đến Đêa thôi. Đêa thiêng liêng đứng giữa trí óc của Guynplên. Không có gì có thể đến gần cô.

Thế mà những điều trái ngược ấy lại là toàn bộ tâm hồn con người, trong đó có sự xung đột, Guynplên có ýthức về điều ấy không? Cùng lắm chỉ thế thôi.

Trong thâm tâm nó cảm thấy. Ở chỗ có thể rạn nứt - tất cả chúng ta đều có chỗ như thế - một sự xung đột của những ý nghĩ thoáng qua. Đối với Uyêcxuyt thìrõ ràng, nhưng đối với Guynplên lại mù mờ không rõ.

Hai bản năng, một bên lý tưởng, một bên giới tính, đang tranh giành nhau trong người nó. Thường vẫn có những cuộc đọ sức như vậy giữa thần thiện và thần ác trên chiếc cầu bắc qua vực thẳm.

Cuối cùng thần ác bị xô ngã.

Một hôm bỗng nhiên Guynplên không nghĩ gì đến người đàn bà xa lạ kia nữa.

Cuộc chiến đấu giữa hai yếu tố, cuộc đọ sức giữa khía cạnh trần tục và khía cạnh thần tiên, đã diễn ra trong chỗ sâu kín nhất của tâm hồn nó, sâu kín đến mức nó chỉ nhận thấy một cách rất mơ hồ.

Điều chắc chắn là không một phút nào nó sao nhãng tôn thờ Đêa.

Trong nó và từ rất lâu, có trạng thái rối loạn, máu nó có lúc bừng hừng cơn sốt, nhưng nay hết rồi. Một mình Đêa vẫn còn.

Chỉ có ai bảo với Guynplên rằng đã có lúc Đêa sắp lâm nguy, nó còn ngạc nhiên nữa.

Trong một hai tuần, bóng ma hình như đe doạ hai tâm hồn đó bỗng nhiên biến mất.

Trong Guynplên chỉ còn trái tim, là bếp lò, và tình yêu là ngọn lửa.

Vả lại như ta đã nói "nữ công tước" không trở lại.

Điều mà Uyêcxuyt thấy rất giản đơn, "Phu nhân tiền vàng" là hiện tượng. Nó vào. Trả tiền và tan biến. Giá nó trở lại thì hay quá.

Còn Đêa thì không ám chỉ đến người đàn bà đã đi qua ấy nữa. Hẳn là cô có lắng nghe, và cũng hiểu đầy đủ nhờ những tiếng thở dài của Uyêcxuyt, và thỉnh thoảng nhờ một lời cảm thán có ý nghĩa như:

Không phải ngày nào cũng có tiền vàng!

Cô không nhắc đến "người đàn bà" kia nữa. Đấy là một bản năng thầm kín. Tâm hồn thường có những lúc thận trọng tối tăm như vậy, trong chỗ bí mật của những việc thận trọng ấy,không phải là lúc nào. Không nói đến một người, tức như đẩy người đó ra xa. Hỏi thăm lại sợ phải gọi. Im lặng với họ cũng như đóng một cái cửa.

Sự việc tình cờ tự nó rơi vào quên lãng.

Có phải là một sự việc không nữa? Nó có xảy ra thật không? Đêa không biết, mà Guynplên cũng không biết.

Không. Chẳng có gì xảy ra cả. Chính người nữ công tước lan toả trong viễn cảnh xa xăm như một ảo ảnh. Chẳng qua chỉ là một phút mộng mị của Guynplên, và bây giờ nó thoát khỏi. Một phút sao nhãng của mơ màng, cũng như một lúc tan biến của sương mai, không hề để lại dấu vết, và một khi đám mây đã qua, tình yêu vẫn không hề giảm sút trong trái tim hơn vừng dương trên bầu trời rộng.

9. ABYSSUS ABYSSUM VOCAT[29]

Một bộ mặt khác cũng biến mất, đó là Tom-Jim-Jack. Bỗng nhiên anh chàng thôi không đến quán Tacaxtơ nữa.

Những người ở cái thế được nhìn cả hai phía cuộc sống thanh lịch của tầng lớp đại lãnh chúa Luân Đôn có thể ghi nhận rằng có lẽ cũng vào thời kỳ ấy. Tin tức hàng tuần, giữa hai đoạn trích sổ giáo khu, báo tin "huân tước Đêvit Điry Moa theo lệnh nhà vua, đã lên đường nhận chức chỉ huy chiến hạm trong hạm đội trắng đang tuần tra dọc bờ hiển Hà Lan".

Uyêcxuyt nhận thấy Tom-Jim-Jack không đến nữa, điều ấy làm ông bết sức băn khoăn. Từ ngày ra đi cùng xe với phu nhân tiền vàng, Tom-Jim-Jack không hề trở lại. Tất nhiên việc tay Tom-Jim-Jack này dang tay phỗng được các bà nữ công tước là một điều bí ẩn. Đi sâu tìm hiểu là một việc làm thú vị; bao nhiêu câu hỏi đặt ra! Bao nhiêu điều để nói! Cho nên Uyêcxuyt không nói nửa lời.

Vốn là người từng trải, Uyêcxuyt biết những chuyện tò mò mạo hiểm thường gây nhiều phiền toái. Tính tò mò bao giờ cùng phải cân xứng với kẻ tò mò. Nghe ngóng nguy hiểm cho cái tai, rình mò tai hại cho con mắt. Khôn ngoan thì chớ nghe gì hết và chớ nhìn gì cả. Tom-Jim-Jack đã lên ngồi trong chiếc xe sang trọng kia, ông chủ quán đã chứng kiến việc trèo lên. Tên thủy thủ đó ngồi cạnh phu nhân kia có một vẻ kỳ diệu khiến Uyêcxuyt phải thận trọng. Người dưới phải xem những chuyện bất thường trong lối sống của bề trên là thiêng liêng. Tất cả mọi giống bò sát, vẫn mang tên là kẻ nghèo hèn, không có gì làm tốt hơn hết là thu mình trong hang mỗi khi thấy một điều gì kỳ lạ. Im lặng là một sức mạnh. Nhắm mắt lại, nếu anh không có diễm phúc được mù; bịt tai lại, nếu anh không có may mắn được điếc; giữ chặt lưỡi lại nếu anh không đạt mức hoàn hảo là câm. Kẻ mạnh làm theo ý muốn, người yếu làm theo khả năng, ta hãy để mặc cho vô định có tiếng nói. Ta chớ tìm hiểu thần thoại; ta đừng thắc mắc về những vẻ ngoài: ta nên có một lòng tôn trọng sâu sắc đối với những thần tượng. Chúng ta đừng bàn tán đến những chuyện thu hẹp hoặc phóng đại trong những tầng lớp trên vì những lý do ta không biết.

Thông thường đối với chúng ta, những kẻ hèn yếu, đó là những ảo ảnh quang học. Những chuyện thay hình đổi dạng là việc của thần thánh; những sự thay đổi và tan rã của các nhân vật vĩ đại bất thường trôi nổi trên đầu chúng ta là những đám mây không sao hiểu thấu và nguy hiểm nếu ta đi sâu nghiên cứu. Tò mò thái quá là thần tiên nổi giận trong lúc họ tùy ý bay lượn; rất có thể một tiếng sét sẽ cho anh hiểu con bò đực mà anh quan sát quá tò mò kia là Giuypite. Ta không nên vén những nếp áo khoác mầu tường thành của các bậc quyền uy khủng khiếp. Dửng dưng là thông minh. Chớ có động đậy thế là hay hơn cả. Cứ giả vờ chết, người ta sẽ không biết anh. Đấy là lối khôn ngoan của sâu bọ. Uyêcxuyt, thực hành điều đó.

Về phía mình. ông chủ quán cũng lo lắng, một hôm ông gọi Uyêcxuyt lại.

- Ông có biết là người ta không trông thấy Tom-Jim-Jack nữa không?         

- Kìa - Uyêcxuyt nói - tôi không để ý đấy.

Ông chủ Nicơlex lẩm bẩm suy nghĩ, chắc chắn là về chuyện chiếc xe công tước mà lại chở Tom-Jim-Jack, nhận xét hẳn là thiếu cung kính và nguy hiểm Uyêcxuyt; giữ ý không thèm nghe. Tuy nhiên, Uyêcxuyt vốn giàu óc nghệ sĩ, không thể không luyến tiếc Tom-Jim-Jack, ông có hơi chán nản, ông chỉ trao đổi cảm tưởng của mình với Ômô, người tri kỷ kín đáo duy nhất mà ông tin được, ông rỉ tai nói với con sói:

-          Từ hôm Tom-Jim-Jack không đến nữa, với tư cách con người tao cảm thấy trống trải, còn với tư cách nhà thơ tao cảm thấy lạnh lẽo.

Việc thổ lộ với một trái tim bầu bạn có làm vợi bớt nỗi lòng Uyêcxuyt.

Đối với Guynplên, ông giữ thái độ rất kín đáo. Còn anh chàng này không hề đả động đến Tom-Jim-Jack.

Thực ra thêm hay bớt Tom-Jim-Jack cũng chẳng quan hệ gì mấy đối với Guynplên, lúc nào tâm trí cũng để vào Đêa.

Guynplên ngày càng quên dần hết mọi sự. Còn Đêa, cô cũng không ngờ rằng đã có một sự chấn động không rõ rệt. Đồng thời cũng không nghe nói đến chuyện âm mưu khiếu nại chống Thằng Cười nữa. Mọi hằn học hình như đã buông tha. Tất cả đều lắng dịu bên trong và xung quanh Hộp Xanh. Hát rong đã hết, múa rối không còn, cha cố cũng thôi. Không còn ầm ĩ bên ngoài. Thành công mà không bị đe doạ. Số phận có những lúc sáng sủa đột ngột như vậy. Hạnh phúc huy hoàng của Guynplên và Đêa lúc này không gợn chút bóng đen. Nó dần dần lên đến điểm mà không còn gì phát triển hơn nữa. Có một từ ngữ diễn đạt những hoàn cảnh ấy, là cực điểm. Hạnh phúc cũng như biển cả đạt đến chỗ tràn đầy của nó. Điều lo ngại, đối với những ai hoàn toàn hạnh phúc, là biển cả sẽ hạ xuống.

Có hai cách không cho ai chạm tới mình là đứng thật cao hay thật thấp. Cách sau đáng được mong ước hơn, ít ra có lẽ cũng bằng cách trước. Con thảo mao trùng chắc chắn dễ khỏi bị dẫm nát hơn con chim ưng thoát khỏi mũi tên. Cảnh an toàn ấy của kẻ hèn mọn, như chúng ta đã nói, nếu có ai được hưởng nó trên trần, thì đó là hai sinh linh kia, Guynplên và Đêa; nhưng chưa bao giờ nó được trọn vẹn như lúc này. Càng ngày chúng càng sống dựa vào nhau, trong lòng nhau, một cách say sưa tột độ. Trái tim tự bão hoà bằng tình yêu, như nhờ một chất muối thần bảo quản; vì vậy nẩy sinh ra sự gắn bó không bao giờ tan vỡ, của những người yêu nhau từ thủa cuộc đời mới chớm rạng và những mối tình già mãi mãi tươi xanh. Có một kiểu ướp hương của tình ái. Có Philêmông và Bôxi là do Đapni và Clôe[30]. Cảnh già ấy, là cảnh chiều tà giống buổi bình minh chắc chắn dành cho Guynplên và Đêa. Trong lúc chờ đợi, chúng đều trẻ trung.

Uyêcxuyt nhìn cuộc ái ân đó như một người thầy thuốc theo dõi bệnh tình, vả lại ông có cái mà thời ấy,người ta gọi là "con mắt của Ipôcrat"[31]. Ông dán cặp mắt tinh tường vào Đêa, mảnh dẻ xanh xao, và ông lẩm bẩm:

- May mà con bé được hạnh phúc.

Có lúc ông lại nói:

- May mắn cho sức khoẻ của nó.

Ông gật gật đầu và đôi khi chăm chú đọc Avixen, do Vôxpicux Fortunatus dịch, Luvanh 1650, một cuốn sách ông có, mục "rối loạn tim".

Đêa, rất dễ mệt, thường ra hồ hôi, hay mỏi mệt chập chờn, và như ta còn nhớ, hay ngủ ngày. Một lần cô ngủ như thế, nằm trên tấm da gấu và Guynplên không có đấy Uyêcxuyt khẽ cúi xuống áp tai vào ngực Đêa: phía bên tim, ông như nghe ngóng một lúc rồi vừa ngẩng lên vừa thì thầm: "Không được để nó xúc động mạnh. Vết rạn sẽ nứt to rất nhanh".

Quần chúng tiếp tục đổ tới những buổi trình diễn Hồng hoang chiến bại. Thành công của Thằng Cười tưởng như bất tận. Khắp nơi kéo về; không riêng gì Xaothuak nữa, đã lác đác có cả Luân Đôn. Công chúng cũng bắt đầu pha trộn, không chỉ thuỷ thủ thuần tuý và dân đánh xe; theo ý kiến của ông chủ Nicơlex, người am hiểu dân hạ lưu, bây giờ trong đám tiện dân: có cả lớp người lịch sự và tiểu nam tước, ăn mặc giả thường dân.

Giả trang là một trong những thành công của tính ngạo mạn và là kẻ thời thượng lúc bấy giờ. Giới quí tộc đứng lẫn với dân đen là một dấu hiệu tốt và cho thấy thành công đã lan sang đến Luân Đôn. Vinh quang của Guynplên rõ ràng đã đi vào công chúng tầng lớp trên.

Và sự việc đã thành hiện thực. Tại Luân Đôn người ta chỉ nói đến Thằng Cười. Ngay tai câu lạc bộ Môhôc, nơi lui tới của lãnh chúa, người ta cũng nói về nó.

Trong Hộp Xanh không ai ngờ đến điều ấy họ chỉ cần được hạnh phúc. Niềm say sưa của Đêa là tối tối được mơn trớn vầng trán có mớ tóc quăn mầu hung của Guynplên. Trong tình yêu không gì bằng thói quen. Tất cả cuộc sống đều tập trung vào đấy. Việc tái hiện của thiên thể là một thói quen của vũ trụ. Tạo hoá không khác gì một cô gái si tình, và mặt trời là gã tình lang, ánh sáng là một cái cột chói lọi, hình người, đội đỡ cả trần gian. Ngày nào cũng vậy, trong một giờ phút huy hoàng, Quả đất đầy bóng đêm lại đè lặng lên mặt trời đang mọc. Đêa, mù, cũng cảm thấy vẫn hơi ấm ấy, vẫn niềm hy vọng ấy, trở lại với mình lúc cô đặt bàn tay lên đầu của Guynplên.

Là hai kẻ tối tăm tôn thờ nhau, yêu nhau trong im lặng hoàn toàn, chúng sẽ thích ứng vĩnh cửu như vậy.

Một tối nọ, lòng tràn ngập hạnh phúc, như khi ngây ngất hương trời, lòng cảm thấy một nỗi bứt rứt thần tiên, Guynplên đang lang thang, như nó vẫn thường đi sau buổi biểu diễn, trên bãi cỏ, cách Hộp Xanh chừng một năm bước. Con người thường có những phút giãn nở như thế để trút bớt cõi lòng. Đêm khuya tối tăm, và trong suốt; trời sao vằng vặc. Toàn bộ bãi chợ phiên vắng vẻ, mọi người đều ngủ yên và quên lãng trong các lều rải rác quanh cánh đồng Tarinhz.

Chỉ có ánh sáng chưa tắt; đó là chiếc đèn kính trong quán Tacaxtơ, vẫn mở hé chờ đợi Guynplên về.

Nửa đêm vừa điểm ở năm giáo khu Xaothuak, cách quãng và khác âm thanh nhau, từ gác chuông nọ sang gác chuông kia. Guynplên đang nghĩ đến Đêa. Nó có thể nghĩ gì?

Nhưng đêm hôm ấy, ngượng nghịu khác thường, lòng tràn ngập niềm say sưa xen lẫn ngại ngùng, nó đang nghĩ tự Đêa như một người đàn ông nghĩ tới một người đàn bà. Nó tự chê trách mình về điều ấy. Đây là một sự yếu đuối. Trong nó người chồng đang bắt đầu tấn công ngấm ngầm. Nôn nóng, dịu dàng và quyết liệt. Nó đang vượt qua biên giới vô hình; bên này có nàng trinh nữ, bên kia có người đàn bà. Nó lo sợ tự hỏi: nó đang cảm thấy điều mà người ta có thể gọi là nỗi hổ thẹn trong lòng, Guynplên những năm đầu đã dần dần thay đổi mà không hay biết đến một sức phát triển bí mật. Chàng trai mới lớn bẽn lẽn trước kia tự cảm thấy mình vẩn đục và đáng lo ngại. Chúng ta có lỗ tai ánh sáng để nghe trí tuệ nóivà lỗ tai bóng tối để nghe bản năng nói. Trong cái tai khuếch đại ấy nhiều tiếng nói xa lạ mời chào nó. Dù chàng trai trong giấc mơ tình có trong trắng đến mấy thì một chút xác thịt cũng xen vào giữa chàng và giấc mơ hoa. Bao nhiêu ý định mất hết vẻ trong sáng. Điều không dám nói ra do thiên nhiên sắp đặt đi vào ý thức, Guynplên đang có một thèm muốn gì đó về cái vật chất bao trùm mọi dục vọng, mà Đêa không có. Trong cơn sốt của nó, nó thấy hình như không lành mạnh, nó đang làm cho Đêa biến dạng, có lẽ về mặt nguy hại, và nó đang cố thêm thắt cho cái bóng dáng thanh khiết kia thành hình ra thù một người phụ nữ. Ôi, đàn bà, chính mi là thứ chúng ta cần có.

Nhiều thiên đường quá, đến nỗi một lúc nào đó tình yêu không muốn như thế. Nó cần có làn da nóng bỏng, sức sống hồi hộp, cái hôn như tích điện và không sao cưỡng nổi nó cần mái tóc buông xoã, vòng tay ôm ấp có mục đích. Tính vũ trụ gây phiền phức. Chất ête vẫn đè nặng. Tình yêu thừa tính thần tiên cũng như lửa thừa nhiên liệu; vì thế mà ngọn lửa đau khổ, Đêa, có thể nắm bắt được và đã bị nắm giữ, cảnh gần gũi choáng ngợp đem điều mới lạ của tạo hóa trộn vào hai tâm hồn. Giấc mộng tuyệt vời ấy, Guynplên đang ngây ngất trải qua. Một người đàn bà. Nó đang nghe thấy trong lòng có tiếng kêu thầm kín đó của thiên nhiên. Như Pimaliông đang gọt dũa trong mơ một nàng Galatê[32] của trời xanh, nó cũng đánh bạo, trong tận cùng trí óc, chấm sửa lại cái hình dáng trong trắng của Đêa; hình dáng thần tiên quá nhưng chưa mang đủ tính chất địa đàng; vì địa đàng là Eva; và Eva là đàn bà, một người mẹ xác thịt, một người vú nuôi trần tục, là cái bụng thiêng liêng sản sinh ra mọi thế hệ: là vú sữa bất tận, là người ru ngủ thế giới sơ sinh; và đôi vú ngoại trừ đôi cánh. Chữ trinh chỉ là ước mơ được làm mẹ. Tuy vậy trong ảo giác của Guynplên, Đêa vẫn đứng trên xác thịt. Lúc này, lạc lối, trong trí óc, nó đang cố đưa Đêa trở về với xác thịt, và nó đang kéo sợi dây giới tính, vẫn giữ chặt người con gái vào Quả đất. Trong số các con chim ấy, không một con nào được thả, Đêa cũng chẳng hơn gì: không thoát khỏi qui luật: và Guynplên, chỉ thú nhận nửa vời điều ấy, cũng mơ hồ muốn cho Đêa phải khuất phục qui luật đó, nó miễn cưỡng mong muốn như vậy, và cứ cố thôi, rồi lại cứ mong muốn. Nó tự hình dung Đêa mang đủ tính chất người. Nó đi đến chỗ có một ý nghĩ lạ lùng, Đêa, còn người không chỉ của đê mê ngây ngất nữa, mà còn của khoái lạc, Đêa ngửa đầu trên gối. Nó hổ thẹn trước sự lấn át trong mộng tưởng; đó là một sự cố tình xúc phạm, nó cưỡng lại ám ảnh ấy; nó ngoảnh đi, rồi vẫn quay lại; hình như nó sắp phạm tội cưỡng đoạt. Đối với nó, Đêa là một áng mây hồng. Nó đang run rẩy vén bức màn mây, y như vén chiếc áo lót. Trời đang tiết tháng tư.

Cuộc sống có những phút mơ màng của nó.

Guynplên cứ lơ đãng bước lảo đảo như lúc ta đi một mình. Không có ai xung quanh, càng thúc đẩy suy nghĩ miên man. Tư tưởng Guynplên đang hướng về đâu? Chắc nó chẳng dám nói điều đó với nó. Lên trời ư? Không. Vào một chiếc gường. Ngàn sao ơi, các người đang nhìn nó.

Tại sao lại gọi là một người si tình? Lẽ ra phải gọi là một người bị ám ảnh. Ma ám chỉ là biệt lệ, bị đàn bà ám mới là qui luật. Người đàn ông nào cũng bị cái bệnh tâm thần ấy cả. Một người đàn bà đẹp là một mụ phù thủy tai quái. Tên thật của tình yêu là giam giữ.

Ta bị giam giữ vì linh hồn một phụ nữ, mà cũng vì xác thịt người đó nữa. Đôi khi vì xác thịt nhiều hơn vì linh hồn. Linh hồn là người yêu, xác thịt là nhân tình.

Người ta đổ tiếng xấu cho quỉ. Có phải nó cám dỗ Êva đâu. Chính Êva cám dỗ nó.Người đàn bà đã bắt đầu.

Guynplên đang bình tĩnh đi qua. Nó trông thấy người đàn bà. Thế là từ đó nó trở thành quỉ Sa tăng.

Xác thịt là cái mặt trên của cái được biết. Lạ thay, nó lại khiêu khích bằng vẻ thẹn thùng bẽn lẽn. Thật không còn gì làm con người bối rối hơn. Đồ vô liêm sỉ ấy, nó còn xấu hổ hơn nữa.

Vào lúc này, điều đang khiến Guynplên băn khoăn và đang giữ chặt nó, chính là mối tình bề mặt đáng sợ đó. Còn giây phút nào dễ sợ bằng giây phút người ta khao khát sự trần truồng. Rất dễ trượt chân vào tội lỗi lắm. Biết bao tối tăm trong vẻ trắng ngần của vệ nữ!

Trong Guynplên có một cái gì đó đang lớn tiếng kêu gọi Đêa. Đêa con gái. Đêa của một nửa người đàn ông. Đêa bằng da bằng thịt và rực lửa. Đêa với lồng ngực lồ lộ. Hầu như nó đang xua đuổi thiên thần. Còn biến động huyền bí mà mọi cuộc tình duyên đều trải qua, mà lý tưởng lâm nguy. Điều này nằm trong dự tính của tạo hoá.

Thời cơ sa ngã của thần tiên.

Mối tình của Guynplên đối với Đêa đang trở thành một tình son sắt. Tình yêu trinh bạch chỉ là bước quá độ. Thời cơ đã đến. Phải cho Guynplên người đàn bà đó.

Phải có cho nó một người đàn bà.

Cái dốc mà người ta chỉ nhìn thấy phía trước.

Tiếng gọi không rõ ràng của thiên nhiên thật nghiệt ngã.

Toàn bộ người đàn bà, vực thẳm rùng rợn thay!

May mắn cho Guynplên, ngoài Đêa không có người đàn bà nào khác. Người duy nhất Guynplên ưng. Người duy nhất có thểưng nó.

Guynplên có cái cảm giác lớn rờn rợn mơ hồ là sự đòi hỏi sống còn của vô biên.

Thêm vào đó, mùa xuân góp phần rất quan trọng. Nó đang hít thở những không khí không tên của u minh vũ trụ. Nó đi tới trước mặt, lơ láo một cách thích thú. Những hương thơm toả khắp của nhựa sống đang lên, những phát tán ngây ngất lửng lơ trong bóng tối; những hoa đêm chớm nở xa xa, những tổ chim kín đáo đồng tình, dòng nước róc rách, ngọn cỏ lao xao, vạn vật thở dài, không khí mát mẻ ấm áp, toàn hộ cảnh bừng tỉnh huyền bí của tháng tư và tháng năm, đó là giới tính mênh mông tản mát đang thì thầm hứa hẹn niềm khoái lạc, trò khiêu khích ngây ngất, khiến linh hồn phải ấp úng. Lý tưởng không còn biết nó nói gì nữa.

Người nào trông thấy Guynplên bước đi hẳn phải nghĩ: Kìa! Một thằng say rượu.

Thật thế nó gần như lảo đảo dưới sức nặng của con tim, của trời xuân và đêm tối.

Trên bãi cỏ, vắng lặng thanh bình đến nỗi thỉnh thoảng nó lại nói to một mình.

Cảm thấy mình không bị ai nghe, thường thường người ta phải nói.

Guynplên thong thả dạo bước, đầu cúi gằm, tay chắp sau lưng, bàn tay trái trong bàn tay phải, ngón tay xoè rộng.

Thình lình nó cảm thấy có một vật gì lùa vào kẽ tay bất động của mình.

Nó vội quay phắt lại.

Trong bàn tay nó, có một mảnh giấy và trước mặt, một người đàn ông.

Chính con người ấy đã rón rén sau lưng như một con mèo, lùa vào kẽ tay nó mảnh giấy.

Mảnh giấy là một bức thư.

Anh chàng được bóng tối chập chờn của sao đêm soi vào đủ sáng, người bé nhỏ, má phính, còn trẻ, nghiêm trang, mặc bộ chế phục mầu lửa, lộ rõ suốt từ trên xuống dưới qua tà áo khoác mầu xám mà thời bấy giờ vẫn gọi là capênôs, từ ngữ Tây Ban Nha rút ngắn có nghĩa là áo khoác đêm. Hắn đội một chiếc gora đỏ sẫm, y hệt cái mũ chỏm của Hồng y giáo chủ, có vạch vàng dấu hiệu rõ ràng của phường nô hộc. Trên chiếc mũ chỏm thấy có chòm lông chim anh vũ.

Hắn đứng im lặng trước mặt Guynplên. Y hệt một hình bóng trong mơ.

Guynplên nhận ra ngay,tên tiểu đồng của người nữ công tước.

Chưa kịp thốt lên một tiếng ngạc nhiên, đã nghe giọng nói yếu ớt, vừa trẻ con, vừa đàn bà của tên tiểu đồng:

- Ngày mai giờ này ông hãy đến đầu cầu Luân Đôn.

- Tôi sẽ có mặt ở đấy. Tôi sẽ dẫn ông đi.

- Đi đâu?

- Đến chỗ ông được chờ đợi.

Guynplên nhìn xuống bức thư mà nó vẫn vô tình nắm trong tay.

Lúc nó ngước mắt lên, tên tiểu đồng đã không còn đấy nữa. Xa xa trên bãi chợ phiên, một hình dáng mờ mờ nhỏ dần rất nhanh. Đấy là thằng hầu cận đang xa dần.

Nó rẽ ở một góc phố, rồi không còn bóng một ai nữa.

Guynplên nhìn tên tiểu đồng tan biến rồi lại nhìn bức thư. Đời người có những lúc điều phải đến lại không đến, sự kinh ngạc giữ anh cách xa sự vật một lúc.

Guynplên đưa bức thư lên gần mặt như người định đọc, lúc ấy nó mới thấy là không đọc được vì hai lẽ: thứ nhất vì thư chưa bóc: thứ hai là vì đang đêm. Phải mấy phút nó mới nghĩ ra trong quán có chiếc đèn kính. Nó đi mấy bước, chệch sang một bên, y như người không biết về đâu.

Một kẻ mộng du được ma trao cho bức thư cũng đi như vậy thôi.

Cuối cùng nó quyết định, chạy hơn là đi về phía quán rượu, đứng ở ngưỡng cửa hé mở, và nhờ ánh sáng nhìn ngắm lá thư vẫn dán kín, không có dấu vết gì ở chỗ niêm phong cả, và trên phong bì đề: gửi Guynplên. Nó bẻ vỡ xi niêm phong, xé phong bì, mở lá thư, chìa hẳn vào ánh sáng và sau đây là những dòng chữ nó đọc được:

"Anh xấu kinh khủng, tôi đẹp tuyệt trần, anh phường hát rong, tôi nữ công tước. Tôi cao sang đệ nhất, anh hèn hạ tột cùng. Tôi ưng anh. Tôi yêu anh. Anh đến nhé!"

IV. HẦM HÌNH SỰ.

1. SỰ CÁM DỖ CỦA THÁNH GUYNPLÊN.

Có tia lửa chỉ sáng loà trong bóng tối, có tia lửa lại làm bùng cháy hoả diệm sơn.

Có những tia sáng rất to.

Guynplên cầm bức thư, đọc đi đọc lại. Rõ ràng có câu: Tôi yêu anh.

Biết bao kinh hoàng đang tiếp nối nhau trong đầu óc nó.

Đến nỗi, đầu tiên, nó tưởng nó điên.

Điên. Điểm ấy thì chắc chắn rồi. Những điều nó vừa thấy làm gì có thật. Ảo ảnh của chiều hôm đang trêu ghẹo nó, con người khốn khổ. Thằng bé mặc áo đỏ là một ánh sáng của ảo tưởng. Nhiều khi đang đêm có vật không đâu cô đúc lại thành ngọn lửa, đến trêu ghẹo anh. Sau khi đùa giễu, vật hão huyền kia biến mất, để lại Guynplên điên rồ ở lại. Bóng tối thường vẫn làm những việc như thế.

Nỗi kinh hoàng thứ hai mà nó nhận thấy là nó hoàn toàn có đầy đủ lý trí.

Một ảo tưởng ư? Đâu phải. Nếu vậy, còn bức thư này. Nó chẳng nắm trong tay một bức thư là gì? Đây không phải là phong bì, là niêm phong, là giấy trắng. Là chữ viết sao? Có phải nó không biết người viết đâu? Chẳng có gì tối tăm trong chuyện này cả. Người ta đã cầm bút mực, người ta đã viết. Người ta đã châm một ngọn nến và người ta đã lấy xi niêm phong. Tên nó chẳng được ghi trên phong bì là gì: Gửi Guynplên. Giấy viết thơm phức. Mọi việc đều rõ ràng. Thằng bé, Guynplên biết nó. Thằng lùn ấy là một tên tiểu đồng. Cái ánh chớp lập loè ấy là một thằng hầu. Tên tiểu đồng ấy đã hẹn gặp lại Guynplên ngày mai, cũng giờ này. Ở đầu cầu Luân Đôn có phải là ảo tưởng không? Không, không, tất cả những cái ấy đều rõ ràng. Trong đó chẳng có chút mê sảng nào cả. Toàn bộ đều là hiện thực. Guynplên hoàn toàn tỉnh táo. Đây không phải một chuyện ma quái thoáng hiện thoáng tan; đây là một việc đến với nó hẳn hoi. Không. Guynplên không điên. Guynplên không mơ và nó đọc lại bức thư.

Ừ thì đúng. Nhưng rồi sao?

Vậy thì phi thường quá.

Có một người đàn bà ưng nó.

Một người đàn bà ưng nó! Nếu thế, từ nay xin đừng ai nói đến hai chữ vô lý. Một người đàn bà ưng nó! Một người đàn bà đã từng thấy mặt nó! Một người đàn bà không phải mù! Và người đàn bà ấy là ai? Một cô nàng xấu xí chăng? Không. Một cô nàng xinh đẹp hẳn hoi. Một cô gái hát rong chăng? Không. Một nữ công tước.

Có cái gì trong đó: như thế nghĩa là thế nào? Chiến thắng như vậy thì nguy hiểm quá! Nhưng sao lại không liều mạng lao đầu vào đấy?

Sao! Người đàn bà ấy! Con nhân ngư, cái bóng ma, bà phu nhân, người nữ khán giả trong khán đài huyền ảo người đàn bà khó hiểu sáng chói! Và chính người đàn bà ấy. Đúng người đàn bà ấy không sai.

Trong lòng nó, tiếng nổ tí tách của đám cháy bắt đầu đang bắn tung toé ra khắp phía. Chính người đàn bà kỳ dị không quen biết đó! Vẫn con người làm nó xao xuyến bao đêm! Và những tư tưởng hỗn loạn đầu tiên của nó về người đàn bà kia lại tái hiện, như được ngọn lửa tối tăm kia đốt nóng. Quên là một tấm giấy da để xoá chữ cũ viết chữ mới lên thôi chẳng có gì khác. Chỉ cần một biến cố xảy đến, là tất cả những gì đã xoá lại hiện ra giữa các dòng chữ của ký ức kinh ngạc. Guynplên tưởng đã gạt bỏ được khuôn mặt ấy ra khỏi tâm tư, vậy mà nay lại thấy nó ở đấy; khuôn mặt đã in hình trong tâm tư và đã để lại dấu vết trong cái đầu óc vô tư lự, có tội, đã mơ mộng đó. Giấc mơ đã để lại dấu vết rất sâu mà Guynplên không ngờ. Giờ đây đã bắt đầu có triệu chứng đau và tất cả các trạng thái mơ màng đó, từ nay có lẽ không có cách nào cứu chữa, nó lại hằn học tiếp tục suy nghĩ.

Sao? Người ta ưng nó! Sao! Công chúa bước xuống khỏi ngai, thần tượng rời khỏi bàn thờ, tượng đồng bước xuống khỏi bệ, ma quỉ rời khỏi tầng mây! Sao! Con quái vật lại từ chốn tận cùng của cõi vô biên đến đây! Sao vị thần truyền thuyết tối cao ấy, ánh hào quang ngời toả ấy, con hải tinh toàn thân ướt đẫm ngọc châu ấy con người xinh đẹp tuệt trần và không thể tới gần ấy, từ chốn cao xa chót vót tràn đầy tia sáng lại cúi xuống với Guynplên! Sao! Cỗ xe rực sáng bình minh của nàng, do cả chim câu và rồng thiêng đóng kéo, nàng lại dừng nó ngay trên đầu Guynplên, và nàng nói với Guynplên: Anh đến nhé! Sao, nó - Guynplên - mà lại được cái vinh quang khủng khiếp thành đối tượng của một chuyến hạ cố như vậy của trời xanh! Người đàn bà ấy, nếu có thể gắn tên đó lên một hình bóng vũ trụ cao nhất, người đàn bà ấy đang tự nguyện hiến mình, tự dâng mình! Choáng ngợp thay! Thần tiên mà lại bán mình! Cho ai? Cho nó. Cho Guynplên! Những cánh tay của gái giang hồ mà lại mở rộng một vùng hào quang để ôm ghì nó vào ngực nữ thần! Mà lại không vết bẩn nhơ. Những bậc vương giả ấy không bôi đen, ánh sáng rửa sạch thánh thần. Và vị nữ thần đến với nó ta thừa biết việc của mình làm. Có phải nàng không rõ điều rùng rợn hiện thân ở Guynplên đâu. Nàng đã thấy cái mặt nạ thường ngày của Guynplên kia mà! Và cái mới lạ ấy không khiến nàng lùi bước. Guynplên đã được yêu bất chấp hết cả.

Điều vượt tất cả mọi ảo tưởng là chính vì thế mà nó được người ta yêu! Không mảy may khiến nữ thần lùi bước. Cái mặt nạ đó lại lôi cuốn nữ thần. Hơn cả được yêu Guynplên đã được người ta thèm khát. Hơn cả được chấp nhận, nó đã được người ta kén chọn. Nó mà được kén chọn!

Sao! Nơi người đàn bà kia ngự trị, giữa môi trường vương giả của ánh sáng chói ngời, vô trách nhiệm và của quyền uy tự do tuyệt đối, có biết bao công hầu, nàng có thể chọn một hoàng thân, có biết bao huân tước, nàng có thể chọn một huân tước, có những chàng trai đẹp, duyên dáng, oai vệ, nàng có thể chọn Ađônix[33]. Thế mà nàng lại chọn ai? Nhafrông[34]. Nàng có thể lựa chọn trong số các thiên thể và sấm sét vị thiên sứ khổng lồ sáu cánh, vậy mà nàng lại chọn con bọ ngoe nguẩy trong chốn bùn lầy. Một bên là các vị hoàng thân, các ngài lãnh chúa, là tất cả cái gì vĩ đại, giầu có, vinh quang, một bên là tên hát rong múa rối. Vậy mà tên hát rong lại thắng. Thế thì trong trái tim của người đàn bà kia có loại cân gì? Nàng cân tình yêu của nàng bằng quả cân nào Người đàn bà kia nhấc khỏi trán mình chiếc miện quận công và vứt nó lên sân khấu của thằng hề! Người đàn bà kia bỏ khỏi đầu mình vầng hào quang thần thánh và đặt nó lên cái sọ lởm chởm của con quỉ. Không biết cuộc đảo lộn của trời đất, khiến cho sâu bọ lúc nhúc ở trên, trăng sao chìm xuống dưới, đã dìm Guynplên hốt hoảng vào một đống ánh sáng hỗn độn, và kết cho nó một vùng hào quang trong vũng nước dơ. Một người đàn bà quyền uy tột bậc, vùng lên chống đối sắc đẹp và huy hoàng, lại hiến thân cho kẻ bị doạ đầy vào tăm tối, lại thích Guynplên hơn Antinôux[35]. Lại nổi máu tò mò trước cảnh u minh, bước xuống đó và từ sự thoái vị đó của nữ thần, vương quyền của kẻ khốn khổ bước ra, phi phàm, đầu đội vương miện. "Anh xấu kinh khủng...Tôi yêu anh". Mấy chữ này đã chạm vào Guynplên đúng chỗ xấu xa của lòng kiêu hãnh. Kiêu hãnh là cái gót, nơi mà tất cả một đấng anh hùng đều có thể bị đả thương. Trước đây Guynplên vẫn tự hào về vẻ mặt quỉ quái của mình. Chính nhờ dị dạng mà nó được yêu. Nó cũng vậy, cũng như và có lẽ còn hơn cả các thần Giuypite[36] và Apôlông[37].

Lời thú nhận và điều bí ẩn, hai cái mồm ấy, một cái khiêu khích, một cái đe doạ, đều nói như nhau: cứ liều xem!

Chưa bao giờ tính nham hiểm của tình cờ lại khéo sắp đặt đến thế, và đưa cám dỗ đến đúng lúc hơn. Bồi hồi rạo rực, trước cảnh trời xuân và sức trào dâng nhựa sống của vạn vật, Guynplên đang sống trong giấc mơ xác thịt. Cái ông già kiên cường, mà chúng ta không ai chiến thắng nổi, đang trỗi dậy trong chàng trai muộn mằn, hai mươi bốn tuổi đời mà vẫn phơi phới thanh tân. Chính nhờ vào thời cơ ấy, chính vào giây phút thác loạn nhất của cơn khủng hoảng ấy, việc mời chào kia đến với nó, và phơi ra trước mặt nó đôi vú lồ lộ, chói loà của con nhân sư. Tuổi xuân là một mặt dốc, Guynplên đang đứng cúi bỗng có người đẩy nó, Ai? Trời xuân. Ai? Đêm tối. Ai? Người đàn bà kia. Giá không có tiết tháng tư, con người ắt đức hạnh hơn. Bao nhiêu bụi rậm nở hoa đều là một lũ tòng phạm! Tình yêu là một tên ăn trộm, trời xuân là kẻ chứa chấp.

Guynplên bàng hoàng điên đảo.

Phía trước tội lỗi vẫn có chút ít khói của tội ác mà lương tâm không hít thở được. Lòng lương thiện bị cám dỗ thường có cái cảm giác buồn nôn khó hiểu về địa ngục, Nhùng nơi hé mở nửa chừng thường bốc ra nột thứ uế khí báo trước cho người khoẻ mạnh và làm kẻ yếu choáng váng. Guynplên đang gặp cảm giác khó chịu bí mật ấy.

Những điều tiến thoái lưỡng nan, vừa thoảng qua vừa dai đẳng, nó chập chờn trước mặt nó. Tội lỗi ngoan cố chào đón, đang hình thành. Ngày hôm nay, nửa đêm, cầu Luân Đôn, tên tiểu đồng! Có nên đi không? Xác thịt hét: có! Linh hồn quát: không!

Tuy vậy, ta phải nói thẳng dù sự việc thoạt tiên có vẻ kỳ quặc đến mấy nó cũng không hề dám tự đặt một cách rõ ràng câu hỏi: - Có nên đi không? Những hành động đáng chê trách vẫn có chỗ được chừa lại. Cũng như những thứ rượu mạnh quá, người ta không uống cạn một hơi. Người ta đặt chén xuống, hẵng chờ xem, giọt đầu tiên đã rất kỳ lạ.

Điều chắc chắn là nó có thấy bị đẩy từ sau lưng vào chỗ xa lạ.

Nó run sợ. Nó thoáng thấy miệng vực. Nó vội nhảy lùi, nhìn phía nào cũng hãi hùng. Nó nhắm mắt lại. Nó cố hết sức để chối cãi là không có câu chuyện ly kỳ này và để ngờ vực trí tuệ của mình. Tất nhiên đó cách tốt nhất.

Khôn ngoan hơn cả, là tự cho rằng mình điên.

Cơn sốt thật ác nghiệt. Trong đời mình bất cứ người nào gặp chuyện bất ngờ, cũng đều có những phút dao động bi đát như vậy. Người quan sát luôn luôn lo lắng, nghe ngóng, những tiếng âm thầm của số mệnh thúc giục lương tâm.

Than ôi! Guynplên tự hỏi. Nơi nào bổn phận đã rõ ràng, đặt câu hỏi tức là chiến bại.

Vả lại có một chi tiết cần chú ý, nó không hề phát hiện ra tính chất vô liêm sỉ của câu chuyện, mà có lẽ một người sa đoạ cũng phải thấy là chướng chối. Cái khía cạnh trâng tráo lì lợm, nó không hay biết, ý nghĩ truỵ lạc nói trên đây không hề đến gần nó. Nó không đủ sức quan niệm nổi điều đó. Nó trong trắng quá nên không thể nào chấp nhận những giả thuyết phức tạp.

Ở người đàn bà kia, nó chỉ thấy mặt vĩ đại. Than ôi! Nó vẫn quen được tâng bốc. Lòng tự kiêu của nó chỉ thấy thành công. Cho rằng mình là đối tượng của một chuyện trơ trẽn chứ không phải của tình yêu, muốn suy luận nổi điều đó nó cũng cần phải có nhiều thông minh hơn tính chất ngây thơ. Bên cạnh câu: Tôi yêu anh, nó không nhận thấy câu đính chính khủng khiếp: Tôi ưng anh.

Nó không nắm được khía cạnh thú vật của vị nữ thần.

Trí óc có thể bị xâm chiếm. Trong tâm hồn cũng có những thứ phá hoại cái đẹp, đến huỷ hoại đức hạnh của chúng ta, đó là những tư tưởng xấu. Hàng nghìn ý nghĩ trái ngược thay nhau lao vào Guynplên, đôi khi cùng một lúc. Rồi trong nó lại im lặng. Thế là nó ôm lấy đầu, trong tư thế trầm ngâm bi đát, y như lúc lặng ngắm cảnh tời đêm.

Thình lình nó nhận ra một điều, là nó không nghĩ ngợi gì nữa. Trạng thái mơ màng của nó đã đến lúc đen tối mà mọi vật đều biến mất.

Nó cũng để ý là nó vẫn chưa về nhà, dễ đến hai giờ sáng.

Nó bèn bỏ bức thư của tên tiểu đồng vào túi bên, nhưng nhận thấy túi ở bên tim, nó lại rút ra, nhét bức thư nhầu nát vào túi quần cụt, rồi đi về phía quán rượu. Lẳng lặng bước vào, không gọi thằng bé Gôvicâm vẫn chờ cửa nhưng lại gối đầu vào tay ngủ ngay trên bàn, đóng cửa lại, châm ngọn nến ở cái đèn kính của quán rượu, cài chốt, vặn một vòng khoá, tự nhiên cũng thận trọng như người về muộn, trèo lên chiếc thang của Hộp Xanh, chui vào cái lều cũ vẫn dùng làm buồng cho nó, nhìn Uyêcxuyt ngủ, thổi tắt nến nhưng không nằm xuống.

Một giờ trôi qua như thế. Cuối cùng, nhọc quá, nghĩ rằng giường là giấc ngủ, nó bèn đặt đầu lên gối, vẫn mặc cả quần áo, và đành nhượng bộ bóng tối nhắm mắt lại; nhưng bão táp cảm xúc vẫn không ngừng quấy rầy nó. Mất ngủ là một cách đêm tối hành hạ con người, Guynplên rất đau khổ. Lần đầu tiên trong đời nó không bằng lòng với bản thân. Nỗi đau xót sâu kín xen lẫn vào lòng tự kiêu được thoả mãn của nó. Làm gì đây? Sáng rồi. Nghe tiếng Uyêcxuyt dậy, nó vẫn không mở mắt. Nhưng nó vẫn không được thanh thản. Nó nghĩ đến bức thư. Từng lời từng chữ lại hiện lên với nó như một mớ tơ rối. Tư tưởng như một chất lỏng gặp một luồng gió mạnh nào đó thổi từ trong tâm hồn. Tư tưởng quằn quại, trào dâng, và để thoát ra một cái gì như một tiếng rì rầm của sóng nước. Cảnh triều lên xuống, dồn dập, quay cuồng, cảnh ngập ngừng trước ghềnh của sóng biển, cảnh mưa đá, mưa cơn, mây đen với những khoảng từ loé sáng, cảnh một lớp bọt tả tơi xơ xác, cảnh lồng lộn trào dâng rồi đổ ụp, cảnh những cố gắng lớn lao không kết quả, cảnh bão táp xuất hiện từ mọi phía, cảnh bóng tối và tan tác, tất cả những thứ ấy, vẫn nằm trong vực thẳm, đều có trong lòng người, Guynplên đang ở trong trạng thái bão táp ấy.

Giữa lúc lòng đầy lo âu như vậy, mi mắt vẫn nhắm, nó bỗng nghe một giọng nói ngọt ngào: Guynplên, anh ngủ đấy à? Nó giật mình, mở mắt ngồi dậy; cửa phòng quần áo mở hé. Đêa xuất hiện trước ngưỡng cửa. Trên mắt và trên môi cô vẫn cái nụ cười khó tả. Cô đứng thẳng, duyên dáng, yêu kiều, giữa vùng hào quang trong trong vô thức của cô. Một giây phút thiêng liêng Guynplên lặng ngắm Đêa, nó run rẩy, hoa mắt, sực tỉnh: sao lại sực tỉnh? Hết ngủ ư? Không, hết mất ngủ thì đúng hơn. Chính là cô, chính là Đêa; đột nhiên nó cảm thấy trong lòng bão táp tan biến một cách khó tả và từ trên cao cái thiện đang diệu kỳ hạ xuống, át hẳn cái ác; sự huyền bí của con mắt thần xuất hiện: cô gái mù hiền lành sáng chói, riêng sự hiện diện của cô, không cần một cố gắng nào khác: đang xua tan hết mọi bóng tối trong lòng nó; bức màn mây tự vén khỏi óc nó như một bàn tay vô hình kéo lên, và điều kỳ diệu thần thánh, Guynplên lại cảm thấy trời xanh lại ùa vào lương tâm. Nhờ đức hạnh của đấng thiên thần đó, nó đột nhiên trở lại anh chàng Guynplên ngây thơ, hiền lành vĩ đại. Cũng như tạo hóa, linh hồn cũng có những phút đối diện thật huyền bí, cả hai đều im lặng, nàng là ánh sáng, nó là vực sâu, nàng thiêng liêng, nó nguôi dịu, và bên trái tim sôi sục sóng gió của Guynplên, Đêa sáng ngời nhờ một ánh sao nào đó rất khó tả của biển khơi.

2. HẾT VUI ĐÙA ĐẾN NGHIÊM NGHỊ.

Phép mầu thật đơn giản! Trong Hộp Xanh lúc ấy đang giờ ăn trưa, và thực tình Đêa muốn biết tại sao sáng nay Guynplên không đến ngồi ở cái bàn con của hai người.

- Em! - Guynplên reo lên, và thế là hết. Nó không có chân trời nào khác, hình ảnh nào khác bầu trời trong đó có Đêa.

Ai chưa thấy nụ cười tột khởi của biển cả sau trận phong ba, thì không sao hiểu nổi những phút êm đềm như vậy. Không gì yên tĩnh hơn vực thẳm. Vì nó nhấn chìm dễ dàng quá. Trái tim con người cũng thế. Tuy nhiên không phải luôn luôn như vậy.

Chỉ cần Đêa xuất hiện là tất cả ánh sáng trong Guynplên tỏa ra và đến với cô; sau lưng Guynplên choáng váng chỉ còn một lũ yêu ma chạy trốn. Lòng tôn thờ một nữ thần bị hoá giải hết sức tài tình!

Lát sau cả hai người ngồi đối diện nhau, Uyêcxuyt ngồi giữa, Ômô dưới chân. Trên bàn đặt ấm trà với chiếc đèn con thắp sáng. Fibi và Vinox đều ở ngoài và đang lo công việc.

Bữa trưa cũng như bữa tối đều dọn ở ngăn giữa. Do cách kê cái bàn quá hẹp, Đêa ngoảnh lưng về vào phía lỗ hổng của bức vách, hướng ra cửa Hộp Xanh.

Đầu gối hai người chạm nhau, Guynplên rót trà cho Đêa.

Đêa duyên dáng thổi vào tách nước. Thình lình cô hắt hơi. Đúng lúc ấy, trên ngọn đèn, một làn khói đang toả nhẹ, và như có tàn giấy rơi xuống thành tro. Chính làn khói đó đã làm Đêa hắt hơi.

- Gì thế - Cô hỏi

- Không có gì đâu - Guynplên đáp.

Và nó tủm tỉm cười.

Nó vừa đốt bức thư của người nữ công tước.

Thiên thần bảo vệ người đàn bà được yêu, chính là lương tâm của con người đàn ông đang yêu.

Bớt được bức thư đó trên người, Guynplên thấy nhẹ nhõm lạ kỳ và nó cảm thấy lòng thành thật của mình như đại bàng có đôi cánh.

Hình như sự cám dỗ đang bay theo làn khói toả, và cùng với tờ giấy, người nữ công tước đang hoá thành tro bụi.

Hai bên vừa chuyện trò vừa đổ lẫn hai tách trà và thay nhau uống chung một tách. Tiếng thỏ thẻ của cặp uyên ương như tiếng ríu rít của đôi chim sẻ. Trò trẻ thơ xứng đáng với Mẹ ngỗng và Hôme. Hai trái tim yêu đương. Phải chăng tìm tứ thơ ở đâu xa hơn; hai cái hôn đối đáp nhau, cần gì đi đâu xa hơn, cần gì đi đâu xa hơn mới tìm ra ý nhạc.

- Anh có biết chuyện gì không?

- Không.

- Anh Guynplên ạ, em mơ thấy chúng mình là những con vật, và chúng ta có cánh.

- Cánh, thế là chim - Guynplên nói khẽ.

- Vậy nghĩa là thiên thần - Uyêcxuyt lẩm bẩm.

Cuộc trò chuyện lại tiếp tục.

- Anh Guynplên này, nếu không có anh...

- Thì sao?

- Thì sẽ không có chúa lòng lành.

- Trà nóng quá. Bỏng em mất, Đêa.

- Anh thổi vào tách em đi.

- Sáng nay em đẹp quá?

- Anh phải biết, có bao nhiêu chuyện anh muốn nói với anh cơ.

- Em nói đi

- Em yêu anh

- Anh tôn thờ em!

Uyêcxuyt lẩm bẩm một mình:

- Lạy chúa, đúng là những người trong trắng.

Khi người ta yêu nhau, điều tuyệt diệu nhất là những phút giây im lặng. Nó như tích tụ tình yêu để sau đó bùng nổ nhẹ nhàng.

Ngừng một lúc rồi Đêa nới to:

- Ôi giá mà anh biết được Tối tối, lúc chúng mình biểu diễn, khi tay em chạm vào trán anh... Ôi! Guynplên, anh có một mái đầu thật cao quý!... Khi em cảm thấy làn tóc của anh dưới ngón tay em, em bủn rủn cả người, em có một niềm vui thần thánh, em tự nhủ, trong cõi trần đen tối bao quanh em đây, trong vũ trụ cô đơn này, trong cảnh sụp đổ mông mênh tăm tối em đang sống đây, trong cảnh rung chuyển hãi hùng của em và của tất cả: em có một điểm tựa, nó đây. Chính nó. Chính là anh.

- Ôi! em yêu anh quá!

Guynplên nói:

- Anh cũng vậy trên trần gian anh chỉ cómình em. Đối với anh. Em là tất cả. Đêa, em muốn anh phải làm gì? Em có ước mong nột thứ gì không? Em cần gì nào?

Đêa đáp:

- Em thông biết. Em hạnh phúc lắm rồi.

- Ôi! - Guynplên tiếp luôn - cả hai ta đều hạnh phúc!

Uyêcxuyt nghiêm nghị nói to:

- Hừ hai đứa chúng mày hạnh phúc! Thế là phạm tội vi cảnh đấy. Tao đã căn dặn chúng mày rồi kia mà. Hừ! Chúng mày hạnh phúc! Vậy thì phải giữ gìn đừng để ai nhìn thấy chúng mày. Phải chiếm thật ít chỗ thôi. Muốn hạnh phúc phải chui vào lỗ. Nếu có thể, phải thu mình nhỏ hơn hiện giờ nữa. Ý Chúa là kẻ sung sướng càng bé thì hạnh phúc càng to. Những ai mãn nguyện đều phải lẩn trốn, như kẻ gian phi. Hừ, chúng mày toả sáng, trời ơi: chúng mày là những con đom đóm độc ác, người ta sẽ xéo nát chúng mày ra, và thế là phải. Tất cả những trò hú hí ấy là gì? Tao, tao có phải bà bảo mẫu có nhiệm vụ ngồi nhìn anh ả rỉa lông rỉa cánh cho nhau đâu. Sau cùng, chúng mày làm tao đau đầu lắm. Chúng mày cút xéo đi cho rảnh.

Và cảm thấy giọng nói chua chát của mình cứ dịu dần, trở thành trìu mến, ông vội dìm tình cảm của mình vào một tràng cảu rảu rất dài.

- Bố ơi - Đêa nói - sao bố nặng lời thế!

- Là vì tao không ưa người ta sung sướng quá - Uyêcxuyt đáp.

Đến đây, Ômô bỗng như đáp lại lời Uyêcxuyt. Có tiếng gầm gừ dưới chân đôi trai gái.

Uyêcxuyt cúi xuống, đặt tay lên đầu Ômô.

- Đúng rồi, mày nữa, mày cũng bực mình. Mày gầm gừ. Mày dựng đứng cả bờm trên cái thủ sói của mày. Mày không ưa những trò mèo mỡ. Vì mày khôn ngoan. Không cần. Cứ im lặng. Mày đã lên tiếng. Mày đã cho biết ý kiến của mày, được rồi; bây giờ, cứ nằm im đấy.

Con sói lại gầm gừ nữa.

Uyêcxuyt nhìn xuống gầm bàn.

- Yên nào, Ômô! Thôi, đừng có nhấn mạnh nữa, anh triết gia!

Nhưng con sói đứng thẳng lên và nhe răng về phía cửa ra vào.

- Mày làm sao thế - Uyêcxuyt nói.

Và ông nắm lấy da cổ Ômô.

Đêa không để ý đến tiếng gầm gừ của con sói, chỉ ngồi tơ tưởng và thưởng thức một mình giọng nói của Guynplên, im lặng trong trạng thái ngây ngất riêng biệt của những người mù, đôi khi trạng thái đó dường như dành cho tâm hồn họ một tiếng hát để nghe và thay thế cho họ cái ánh sáng họ thiếu bằng một thứ nhạc lý tưởng nào đó. Cảnh mù loà là một đường hầm trong văng vẳng thứ hoà âm sâu sắc bất tận.

Trong lúc Uyêcxuyt cúi đầu mắng Ômô thì Guynplên đã ngước mắt nhìn lên.

Đang định uống tách trà, nó thôi không uống, đặt tách trà xuống bàn, thong thả như chiếc lò xo chùng lại, ngón tay vẫn xoè; và ngồi im, mắt nhìn chằm chằm, không thở nữa.

Một người đàn ông đứng sau lưng Đêa, giữa khung cửa.

Y vận toàn đồ đen với áo choàng tư pháp. Y đội bộ tóc giả xoã xuống tận lông mày, tay cầm một cái gậy sắt hai đầu chạm trổ hình vương miện.

Cái gậy ngắn và to.

Ta hình dung Mêduyzơ[38] thò đầu giữa hai cành cây trên thiên đàng.

Cảm thấy có người mới đến, Uyêcxuyt rùng mình ngẩng đầu lên, tay vẫn giữ chặt Ômô, và nhận ra ngay nhân vật đáng sợ kia, ông nhìn hắn từ đầu đến chân. Ông khẽ nói vào tai Guynplên.

- Quan thiết trượng đấy.

Guynplên chợt nhớ ra.

Một tiếng ngạc nhiên suýt bật lên, nó vội ghìm lại. Chiếc gậy sắt có vương miện ở hai đầu là cây thiết trượng.

Đó là chiếc gậy sắt trên đó các quan tư pháp thành phố lúc nhậm chức phải tuyên thệ; chính nó đã đẻ ra chức vụ thiết trượng quan ngày xưa, của ngành cảnh sát nước Anh.

Sau lưng người đội tóc giả, trong bóng tối lờ mờ, thấp thoáng ông chủ quán thất đảm. Người kia, hiện thân của Muta Themis[39] trong các hiến chương ngày xưa, không có một lời nào, hạ cánh tay phải qua đầu Đêa vẫn hăm hở, và dùng cái gậy sắt chạm vào vai Guynplên, trong khi ngón tay cái trái của y chỉ cánh cửa Hộp Xanh phía sau lưng. Hai cử chỉ ấy, thầm lặng nên càng mang tính chất hách dịch, có nghĩa là: Đi theo ta Pro signo exeundi, sursum nghe[40], pháp điển xứ Normăngđi dạy.

Người nào bị chiếc gậy sắt chạm vào chỉ còn quyền vâng lời. Không còn ý kiến gì trước mệnh lệnh thầm lặng đó cả. Những hình phạt nặng nề của nước Anh chờ đợi kẻ nào ương bướng.

Dưới bàn tay cứng nhắc đó của pháp luật, Guynplên rùng mình, rồi ngồi đờ ra như phỗng.

Giá bị cái gật sắt nện mạnh vào đầu chứ không phải chạm nhẹ vào vai, có lẽ nó cũng không choáng váng hơn thế. Nó thấy buộc lòng phải đi theo viên cảnh sát. Nhưng tại sao? Nó không hiểu.

Về phía mình, Uyêcxuyt cũng thấy hoang mang đau xót ông thoáng thấy một điều gì đó khá rõ nét. Ông nghĩ đến bọn hát rong, đến cánh truyền giáo, đến những kẻ cạnh tranh với ông, đến gánh Hộp Xanh bị tố giác, đến con sói phạm pháp, đến việc rắc rối của chính ông với ba lão ở tôn giáo pháp đình Bisopghết, và biết đâu? Có lẽ những điều này qua thật là hãi hùng, đến những lời nói vô lễ và phản nghịch của Guynplên liên quan đến quyền lực nhà vua, ông run sợ sâu sắc.

Đêa vẫn tủm tỉm cười.

Cả Guynplên, cả Uyêcxuyt, chẳng ai nói nửa lời. Hai người đều chung một ý nghĩ không nên làm cho Đêa lo lắng. Có lẽ con sói cũng cùng tư tưởng đó, nó không gầm gừ nữa. Nói cho đúng thì Uyêcxuyt cũng không buông nó ra.

Vả lại tuỳ lúc Ômô cũng có mặt tinh khôn của nó. Ai mà chẳng nhận thấy một đôi trường hợp lo lắng khôn ngoan của súc vật?

Có lẽ trong chừng mực một con sói có thể hiểu được con người, nó cũng tự cảm thấy bị loại trừ.

Guynplên đứng dậy.

Không thể có chuyện chống đối. Guynplên hiểu như vậy nó nhớ lại những lời nói của Uyêcxuyt và không thể đặt một câu hỏi nào hết. Nó đứng im trước mặt viên thiết trượng quan. Viên thiết trượng quan nhấc cái gậy khỏi vai Guynplên, rụt nó về, cầm thẳng trong tư thế chỉ huy, một cử chỉ của cảnh sát thời ấy được toàn dân hiểu rõ, và bao hàm mệnh lệnh sau đây:

- Người này hay đi theo ta, và không một ai khác, tất cả cả phải ngồi nguyên chỗ. Im lặng.

Không ai được tò mò. Thời nào cũng thế cảnh sát vốn thích những lối rào chắn như vậy.

Lối bắt giữ ấy được mệnh danh là: "bắt giữ người".

Viên thiết thượng quan, chỉ bằng một động tác và như một cái máy xoay tròn, ngoảnh lưng lại rồi oai vệ, trang nghiêm, bước về phía lối ra của Hộp Xanh.

Guynplên nhìn Uyêcxuyt.

Uyêcxuyt chỉ đóng tuồng câm, khẽ nhún vai, khuỷu tay áp sát cạnh sườn, bàn tay xoè rộng, và lông mày dướn cong lên, ý nói: phục tùng người lạ mặt.

Guynplên nhìn Đêa. Cô đang mơ màng và vẫn tiếp tục cười nụ.

Guynplên để mấy đầu ngón tay lên môi gửi cho Đêa một cái hôn khó tả.

Nhờ một lúc quan thiết trượng ngoảnh mặt đi, Uyêcxuyt, phần nào thấy đỡ hãi hùng, liền lợi dụng thời cơ để rỉ tai Guynplên:

- Muốn sống thì chớ có nói trước khi người ta hỏi.

Guynplên cố không làm ồn như khi bước vào phòng người ốm, lấy ở trên vách xuống cái mũ và chiếc áo khoác, quàng áo lên đến tận mặt và kẻo sụp mũ xuống trán; vì chưa ngủ nên nó vẫn còn áo quần làm việc, và trên cổ vẫn còn cái lá sen bằng da; nó nhìn Đêa một lần nữa. Đến cửa ngoài Hộp Xanh, viên thiết trượng quan liên giơ cái gậy lên và bắt đầu bước xuống chiếc thang con bên ngoài; thế là Guynplên cất bước đi theo, như người kia kéo bằng một sợi dây vô hình; Uyêcxuyt nhìn Guynplên ra khỏi Hộp Xanh; con sói lúc ấy mới khẽ gầm gừ: nhưng Uyêcxuyt giữ nó nằm im và khẽ nói với nó:

- Rồi nó khắc về.

Trong sân, ông chủ Nicơlex, bằng một cử chỉ hèn hạ và hách dịch, ngăn chặn những tiếng kêu hốt hoảng từ miệng Vinox và Fibi. Hai ả này buồn bã nhìn theo Guynplên bị dẫn đi, theo bộ quần áo mầu tang và cây gậy sắt của viên thiết trượng quan.

Hai cô gái đờ đẫn như hai pho tượng đá.

Gôvicâm, rụng rời, trố mắt thò mặt giữa một cửa sổ mở hé.

Viên thiết trượng quan đi trước Guynplên mấy bước, không ngoảnh lại, không nhìn nói với thái độ bình thản lạnh lùng, yên trí mình là luật pháp đây.

Cả hai người, trong cảnh im lặng, tha ma, vượt qua sân, qua căn phòng tối của quán rượu và đi ra bãi. Ở đó đang có mấy người qua đường tụ tập trước cửa quán, lão pháp quan định túc số[41] chỉ huy một phân đội cảnh sát. Đám người tò mò này, sững sờ, chẳng nói chẳng rằng, tránh dạt ra và đúng theo kỷ luật Anh Cát Lợi trước cây gậy sắt của viên cảnh sát; lão thiết trượng quan đi về hướng các phố nhỏ, lúc bấy giờ gọi là Litơn Xtren, chạy dài theo sông Tami; còn Guynplên, bên phải bên trái đều có quân của viên pháp quan định túc số đi thành hai hàng rào, thì tái mét, không một cử chỉ, không một động tác nào khác những bước chân của nó, mình quấn chiếc áo khoác như một tấm vải liệm, thong thả rời khỏi quán rượu, câm lặng bước theo sau con người lầm lỳ, yhệt một pho tượng đi theo một bóng ma.

3. LEX, REX, FEX[42].

Việc bắt bớ không cần giải thích, khiến một người Anh ngày nay phải ngạc nhiên, là một biện pháp cảnh sát thường được áp dụng ở Anh. Mãi đến tại triều đại Giorgiơ đệ nhị người ta vẫn sử dụng nó bất chấp luật habeas corpus[43], nhất là đối với những việc tế nhị mà ở Pháp bổ khuyết bằng mật thư, và một trong những vụ buộc tội mà Vanpon phải tự bênh vực là đã ra lệnh bắt hay để cho bắt Niuhop theo cách đó. Vụ buộc tội đó có lẽ không đủ cơ sở vì Niuhop, vua xứ Corxơ, bị các chủ nợ tống giam.

Những việc bắt bớ thầm lặng, mà Xanhtơ Vême ở Đức hay lạm dụng, đều được tục lệ nước Đức ngày xưa chấp nhận, và trong một số trường hợp lại được tục lệ Normăngđi khuyến khích. Một nửa các điều luật trước kia của nước Anh đều do tục lệ nước Đức ngày xưa chi phối, còn một nửa do tục lệ Normăngđi chi phối. Viên chỉ huy đội cảnh vệ hoàng cung Giuyxtiniêng[44] được gọi là "nhân viên thầm lặng của hoàng đế", silentiarus-imperialis. Các pháp quan nước Anh áp dụng lối bắt bớ này, thường dựa vào nhiều văn bản Normăngđi như:

Canes latrant, sergentes silent- Sergenter agree, in esttacere[45]. Họ trích Lundulphus Sagax, đoạn 16: - Faxit imperator silentium[46]. Họ dẫn hiến chương của vua Philip, năm 1307 - multos tene bimus bastonerios qui obmutescentes, sergentare valeant[47] - Họ dẫn những pháp lệnh của Hăngri nước Anh, chương LIII: Surge signo jussus. Taciturnior esto. Học est esse incoptione regis - Họ đặc biệt tự phụ về cái quy tắc được xem như nằm trong những trường hợp miễn trừ cổ xưa của chế độ phong kiến nước Anh: "- Dưới tử tước có các đội trưởng cầm kiếm, những người này phải dùng gươm xử tội tất cả những kẻ tham gia các tổ chức không tốt, những kẻ buộc phải có phạm tội ác, những kẻ lẩn trốn và bị trục xuất... khi bắt chúng phải thật quyết liệt và thật kín đáo để dân lành được bảo vệ an toàn và bọn bất lương không thể gây hại". Bị bắt như thế là bị bắt bằng uy lực của thanh kiếm (Vetus consuetudo Normannioe)[48].

Ngoài ra, cánh cố vấn pháp luật còn viện: in Charta Ludovici Hutini pro normannis[49]. Chương servientesis- apathoe[50]. Các Servientes spathoe, trong ngôn ngữ La tinh hạ lưu tiến dần đến các thổ ngữ của chúng ta, trở thành những Sergentes spadoe.

Những vụ bắt bớ thầm lặng trái hẳn với lối hò hét bắt bớ, và cho thấy rõ là nên giữ im lặng cho đến khi một số điều mờ ám được sáng tỏ.

Chúng có nghĩa là: vấn đề riêng biệt.

Chúng cho biết trong hành động của cảnh sát có phần vì lợi ích nhà nước.

Từ ngữ Private trong pháp luật có nghĩa là xử kín, được áp dụng trong loại bắt bớ này.

Theo một số nhà biên niên sử, chính Eđua đệ Tam đã dùng lối ấy để bắt Mortimơ ngay trong giường mẹ mình là Izaben nước Pháp. Cả trường hợp này nữa, người ta vẫn có thể nghi ngờ, vì Mortimơ lúc ấy đang đương đầu với một cuộc vây hãm trong thành phố mình trước khi bị bắt.

Varvik, chuyên gia nhào nặn ra vua chúa, sẵn lòng áp dụng cái lối "quyến rũ quần chúng" này.

Cromoen cũng hay dùng lối đó, nhất là ở Connot: và chính bằng lối phòng ngừa im lặng đó mà Toren li Accơlô, họ hàng của bá tước Ormông, đã bị bắt tại Kinmacop.

Những kiểu bắt bớ bằng ám hiệu đơn thuần của công lý như vậy tượng trưng cho trát trình diện hơn là trát bắt giữ.

Đôi khi chúng chỉ là một biện pháp thẩm vấn, và qua việc buộc mọi người phải im lặng, còn bao hàm một ý vì nể nào đó đối với người bị bắt.

Đối với dân chúng, vốn ít hiểu biết các chi tiết đó, chúng thường gây khiếp sợ đặc biệt.

Xin đừng quên rằng nước Anh lúc ấy không phải ở vào năm 1705, mà cũng phải ở vào thời kỳ rất xa về sau nữa, như ngày nay. Đại thể rất hỗn độn và đôi khi rất nặng tính chất đè nén. Đanien di Fô, người đã được nếm mùi đài bêu tù. Ở đâu đó có gọi trật tự xã hội nước Anh bằng những chữ: "bàn tay sắt của pháp luật". Không phải chỉ có pháp luật, mà có cả vấn đề chuyên chế. Ta cứ nhớ lại Xtin bị gạt ra khỏi nghị viện, Lôkơ ra khỏi diễn đàn. Hopbơ và Gipbông buộc phải đi trốn, Saclơ Sơcsin, Hium Prixli bị ngược đãi; Gion Uynkex bị bỏ tù. Ta cứ kể ra, vì đếm lại sẽ dài quá, những nạn nhân của luật seditluos libel. Lối bắt bớ lạm quyền phần nào đã lan khắp châu Âu; những biện pháp cảnh sát được nhiều nơi học tập. Ở nước Anh việc vi phạm quái gở vào mọi quyền hạn là chuyện rất có thể xảy ra: ta cứ nhớ lại vụ Nhà báo mặc áo giáp. Ngày nay thế kỷ mười tám, vua Luy XV hạ lệnh bắt ngay giữa phố Piccađili những nhà văn mà ông không ưa. Việc Giorgiơ đệ Nhị tóm cổ kẻ tranh ngôi ngay giữa nhà hát Ca nhạc kịch nước Pháp là việc có thật. Đấy là hai cánh tay rất dài, cánh tay vua nước Pháp thò sang tận Luân Đôn, và cánh tay vua nước Anh thò sang tận Pari. Tự do là như thế đấy.

Phải nói thêm rằng người ta cũng thường hành quyết người ngay trong nhà tù; việc dùng mưu kế xen lẫn hình phạt, một phương sách bỉ ổi mà lúc này nước Anh đang quay lại. Bằng cách đó nước Anh đã cho thế giới thấy cảnh lạ lùng của một dân tộc lớn đang muốn làm tốt hơn nhưng lại chọn lựa điều tệ hại hơn. Trước mặt nó, một bên là quá khứ một bên là tiến bộ, và nó đã nhận lầm, nhìn đêm tối ra ban ngày.

4. UYÊCXUYT THEO DÕI CẢNH SÁT

Như chúng tôi đã nói, theo những luật cảnh sát rất khắc nghiệt thời ấy, lệnh cho một cá nhân phải đi theo trượng quan cũng buộc những kẻ hiện diện lúc bấy giờ không được cựa quậy.

Tuy vậy vẫn có một cố kẻ tò mò to gan, đi sau đoàn người áp giải Guynplên một quãng khá xa.

Uyêcxuyt cũng nằm trong số đó.

Uyêcxuyt đờ đẫn mất một lúc. Nhưng đã bao lần bị vùi dập bởi những chuyện bất ngờ của cuộc đời lang thang và bởi những chuyện độc ác không dè trước, Uyêcxuyt như một chiếc thuyền chiến, được chuẩn bị cho chiến đấu, đã huy động đến vị trí chiến đấu toàn hộ thủy thủ, nghĩa là tất cả trí tuệ, ông lập tức không đờ đẫn nữa, và bắt đầu suy nghĩ. Lúc này đâu phải là lúc xúc động, mà phải nhìn thẳng.

Nhìn thẳng vào sự biến, là nhiệm vụ của kẻ nào không ngu ngốc.

Không nên tìm hiểu mà phải hành động. Ngay lập tức Uyêcxuyt tự hỏi: "- Cần phải làm gì? "

Guynplên đi khỏi, Uyêcxuyt đứng ở giữa hai mối lo sợ: nỗi sợ cho Guynplên khuyên ông nên đi theo, nỗi sợ cho mình, khuyên ông ở lại.

Uyêcxuyt mạo hiểm như một con ruồi và thản nhiên như cây trinh nữ. Nỗi run sợ của ông thật khó tả. Tuy nhiên ông vẫn anh dũng quyết định, và quyết đương đầu với pháp luật, đi theo viên thiết trượng quan vì ông rất lo ngại cho Guynplên.

Chắc ông phải sợ lắm nên mới cả gan như vậy.

Một con thỏ sợ hãi còn có được hành động dũng cảm gì kia chứ!

Con hoẵng cuống cuồng thường nhảy xuống vực. Sợ hãi đến mức dại dột, đấy là một trong những hình thức dại dột, đấy là một trong những hình thức hốt hoảng.

Guynplên bị bắt cóc hơn là bị bắt giữ. Hành động cảnh sát đã tiến hành nhanh đến nỗi bãi chợ phiên, vốn rất vắng vào giờ phút sớm sủa này, hầu như không bị náo động. Trong các lều lán của cánh đồng Tarinhzô hầu như không ai ngờ rằng viên thiết trượng quan đã đến tìm Thằng Cười. Vì vậy không có mấy quần chúng.

Nhờ chiếc áo khoác và cái mũ gần giáp nhau trên mặt, Guynplên không bị những người qua lại nhận ra.

Trước khi đi theo Guynplên, Uyêcxuyt đã có ý đề phòng. Ông gọi riêng ông chủ Nicơlex, thằng nhỏ Gôvicâm, Fibi và Vinox, và yêu cầu họ tuyệt đối không nói gì với Đêa, cô vẫn chẳng hay biết gì cả; cố gắng đừng nói một lời nào có thể gây ngờ vực cho cô về sự việc xảy ra; giải thích với cô là công việc nội trợ của Hộp Xanh đòi hỏi Guynplên và Uyêcxuyt phải vắng mặt; vả lại sắp đến giờ ngủ giữa buổi của cô, trước khi Đêa dậy ông sẽ trở về cùng với Guynplên, tất cả những việc ấy chỉ là chuyện lầm lẫn, là mixtêkơ[51] như ở Anh vẫn gọi; ông và Guynplên rất dễ dàng trình bày để các pháp quan và cảnh sát hiểu; hai người sẽ chỉ rõ chỗ ngộ nhận, và chốc nữa cả hai sẽ về. Nhất là không ai được nói gì với Đêa. Dặn dò xong ông ra đi.

Uyêcxuyt có thể theo Guynplên mà không bị ai chú ý. Tuy đi sau thật xa, ông vẫn tìm cách để khỏi mất hút nó. Táo bạo trong rình mò là dũng cảm của những kẻ rụt rè nhút nhát.

Nói cho cùng, và dù bề ngoài có nghiêm trọng mấy, có lẽ Guynplên cũng chỉ bị cảnh sát gọi vì một chuyện vi phạm gì đó không quan trọng lắm.

Uyêcxuyt nghĩ bụng vấn đề sẽ được giải quyết ngay lập tức thôi.

Sự việc sẽ sáng tỏ, ngay trước mắt, tuỳ theo hướng đi của phân đội áp giải Guynplên, lúc hết phạm vi cánh đồng Tarinhzô, đến lối vào các ngõ hẻm của Litơn-Xtren.

Nếu phân đội rẽ trái, tức là nó dẫn Guynplên đến trụ sở Xaothuak. Như vậy không sợ lắm; một tội nhẹ không đáng kể gì đó thuộc phạm vi thành phố, một bài cảnh cáo của quan toà, vài ba senlinh tiền phạt, rồi Guynplên sẽ được thả, và Hồng hoang chiến bại sẽ lại được trình diễn ngay buổi tối như thường lệ. Chẳng ai hay biết gì cả.

Nếu phân đội rẽ phải thì sẽ nghiêm trọng đấy.

Phía ấy có những nơi nghiêm khắc.

Vào lúc viên thiết trượng quan, dẫn dầu hai hàng cảnh sát với Guynplên đi giữa, đến quãng nhiều ngõ hẻm, Uyêcxuyt hồi hộp để mắt nhìn. Có những lúc toàn bộ con ngươi đều dồn lên hai con mắt.

Họ sắp rẽ bên nào?

Họ rẽ phải.

Uyêcxuyt hãi quá, lảo đảo, tựa vào một bức tường cho khỏi ngã.

Không còn gì giả dối bằng câu người ta thường nói một mình : Ta muốn biết xem phải thế nào. Trong thâm tâm, người ta chẳng muốn gì cả. Người ta sợ hãi một cách thầm lặng. Nỗi lo âu lại càng phức tạp vì một cố gắng tối tăm nên không bao giờ chấm dứt. Người ta không dám nói ra, nhưng trong bụng rất muốn giật lùi, và khi đã trót đi tới rồi người ta hối hận.

Uyêcxuyt cũng thế, ông rùng mình nghĩ bụng:

- Chiều hướng không hay rồi. Lẽ ra lúc nào mình cũng phải biết sớm hơn một tí. Ta đi theo Guynplên làm gì?

Nghĩ thế xong, nhưng vì con người vốn dĩ mâu thuẫn, ông lại rảo bước và cố nén lo âu, hối hả tiến gần đến phân đội để khỏi mất hút trong khu bàn cờ nhằng nhịt phố xá của Xaothuak, sợi dây nối liền giữa Guynplên với ông.

Đoàn cảnh sát không thể đi nhanh, vì nghi thức trang nghiêm của nó.

Viên thiết trượng quan dẫn đầu.

Viên pháp quan định túc số đi đoạn hậu.

Trật tự đó đòi hỏi đi tương đối chậm.

Toàn bộ vẻ uy nghiêm có thể có ở một kẻ thừa hành đều thể hiện rõ nét trên viên pháp quan định túc số. Y phục của lão nằm giữa bộ trang phục choáng lộn của vị tiến sĩ âm nhạc Ocxfoc và bộ quần áo giản dị màu đen của vị tiến sĩ thần học Kembritgiơ. Lão mặc áo quí tộc, ngoài khoác chiếc gôđơbe dài, một thứ áo choàng nữ lót lông thỏ Na-uy. Nhìn lão vừa cổ lỗ vừa tân thời, với bộ tóc giả như Lamoanhông và những ống tay áo như Tơrixtăng ẩn sĩ. Con mắt tròn to của lão xoáy chặt lấy Guynplên chằm chằm như mắt cú vọ. Lão bước thật nhịp nhàng. Không còn tìm đâu ra một con người dữ tợn hơn.

Uyêcxuyt bị lạc mất một lúc trong cái mớ ngõ ngách chằng chịt, đến gần Xanhtơmari, Ôvơ Rai, lại đuổi kịp đoàn người, may sao, bị chậm lại ở gần nhà thờ, do một đoàn trẻ con và chó, một sự kiện thường gặp trên đường phố Luân Đôn, sổ sách cảnh sát ngày xưa vẫn thường ghi dogs and boys[52], bao giờ cũng để chó trước trẻ con.

Một ngườl bị cảnh sát dẫn lên gặp quan toà, nói cho cùng, là một sự việc rất nhỏ nhặt, và ai cũng có công có việc của mình, nên số người tò mò cũng đã phân tán hết. Theo sau Guynplên chỉ còn mỗi Uyêcxuyt.

Đoàn người đi qua trước hai tiểu giáo đường, đối diện nhau, của Ricrieetiv Rơligiơnixt và Ligơ Alêluya, hai môn phái lúc bấy giờ và hiện nay vẫn còn.

Rồi đoàn người vòng vèo đến hết ngõ nọ sang ngõ kia, chọn toàn những con đường chưa có nhà cửa, những phố cỏ mọc và những ngõ vắng vẻ, và đi ngoắt ngéo mãi.

Cuối cùng nó dừng lại.

Đoàn người đang ở trong ngõ con chật hẹp. Không có nhà cửa, đầu phố chỉ có hai ba túp lều. Ngõ này có hai bức tường; một ở bên trái, thấp, một ở bên phải, cao. Bức tường cao đen, xây kiểu Xăcxơ có lỗ châu mai, có máy phóng lao và những ô mắt cáo song sắt to bên trên các cửa hầm chật hẹp. Chẳng có lấy một cửa sổ nào cả: đây đó chỉ thấy những cái khe ngày xưa là họng súng bắn đá và phóng lao. Dưới chân bức tường lớn ấy thấy có một cái cửa tò vò bé tí, rất thấp, y như cái lỗ phía đuôi bẫy chuột.

Cánh cửa tò vò, lắp một hình bán nguyệt nặng nề bằng đá, có một lỗ con chắn lưới sắt, một cái búa to, một ổkhoá lớn, những bản lề cục mịch chắc chắn, đóng đinh chằng chịt, một lớp sắt sơn dầy cộp và cấu tạo bằng sắt nhiều hơn gỗ.

Trông ngõ vắng tanh vắng ngắt. Không có cửa hàng không người qua lại. Nhưng nghe có tiếng động liên tục rất gần, dường như ngõ này song song với một dòng thác. Đó là tiếng ồn ào của tiếng người và xe cộ. Có lẽ bên kia bức tường đen có một đường phố to, chắc là phố chính của Xaothuak, một đầu nối với đường Cantoberi, một đầu nối vào cầu Luân Đôn.

Suốt cả chiều dài ngõ, ngoài đoàn người bao quanh Guynplên ra, nếu kẻ nào đứng rình cũng không thấy ai khác ngoài khuôn mặt nhìn nghiêng tái nhợt của Uyêcxuyt liều lĩnh và thập thò trong bóng tối nhá nhem của một góc tường, vừa nhìn vừa sợ bị trông thấy.

Ông ta đứng lấp vào một chỗ ngoặt của đường phố.

Phân đội tập trung trước cái cửa tò vò.

Guynplên đứng giữa, nhưng sau lưng lúc này là lão thiết trượng quan và cái gậy sắt của lão. Viên pháp quan định túc số nhấc cái búa lên, gõ ba tiếng.

Cái lỗ mở ra.

Viên pháp quan nói:

- Theo lệnh nhà vua.

Cánh cửa nặng nề bằng sắt và gỗ sồi xoay trên bản lề. Một lỗ hổng xanh nhợt và lạnh lùng hiện ra, y hệt một cửa hang. Một mái vòm rùng rợn kéo dài trong bóng tối. Uyêcxuyt trông thấy Guynplên biến mất vào đó.

5. NƠI HẮC ÁM

Lão thiết trượng quan bước theo sau Guynplên.

Đến viên pháp quan định túc số.

Rồi toàn phân đội.

Cánh cửa tò vò khép lại.

Tấm cửa lại nặng nề gắn khít vào khung đá, mà vẫn không thấy ai mở cũng không thấy ai đóng nó cả. Hình như then cửa tự động chạy vào lỗ chốt. Một số máy móc như thế, ngày xưa được sáng chế để thị uy, vẫn còn trong những nhà tù rất cổ. Có cửa mà không thấy người gác. Thành thử ngưỡng cửa nhà tù giống như ngưỡng cửa hầm mộ.

Cửa tò vò này là cái cửa thấp của nhà lao Xaothuak.

Trong toà nhà rêu phong long lở này, không có gì phản lại cái vẻ khiếm nhã vốn dĩ của một nhà tù.

Nhà ngục Xaothuak nguyên là một ngôi đền tà đạo, do người Cachiulan ngày xưa xây dựng cho Mogon tức những vị thần trước kia của người Anh, sau đó trở thành lâu đài của Ethelulfe và pháo đài của thánh Êđua, rồi lại được Giăng Vô thổ[53]nâng lên cương vị nhà tù năm 1199. Nhà ngục này thoạt đầu có một đường phố chạy ngang, cũng như ngục Sonôngxô bị một con sông chảy qua, trong một hay hai thế kỷ vẫn là một cái ghết[54], nghĩa là một cái cửa ô; sau đó bị xây bít lại. Ở Anh vẫn còn một số nhà tù kiểu ấy: chẳng hạn ở Luân Đôn có Niughêt; ở Cantoberi có Uextghêt, ở Êđimbua có Cononghêt. Ở Pháp, ngục Baxti lúc đầu cũng là một cái cửa.

Hầu hết những nhà ngục của Anh đều có bộ mặt như vậy, một bức tường to ở ngoài, bên trong một lô hầm tối. Không gì bi thảm hơn loại nhà tù gô-tic ấy. Nơi đây nhện và công lý chăng lưới ra, và John Howard, tia sáng ấy, chưa soi tới. Tất cả, cũng như cái địa ngục cổ xưa của Bruycxen, đều có thể gọi là Tơrơrembơ, nhà nước mắt.

Đứng trước những công trình xây dựng khắc nghiệt và dã man ấy, người ta hồi hộp lo âu như những nhà hàng hải ngày xưa trước những địa ngục nô lệ mà Plôtơ nói đến, những hòn đảo loảng xoảng tiếng sắt, ferricre- piditoeinsuloe, lúc họ đi qua khá gần có thể nghe thấy tiếng xiềng xích.

Nhà ngục Xaothuak, nơi chuyên diệt trừ tà ma và hành hạ ngày xưa, lúc đầu có các tay phù thủy, như hai câu thơ khắc trên tảng đá gần mờ hết bên trên cửa tò vò:

Sunt arreptitu vexati doemone multo

Est energumenus quem doemon possidet unus[55]

Hai câu thơ này phân định điểm khác biệt tế nhị giữa người bị ma ám và người bị quỷ ám.

Trên dòng ghi ký này, dấu hiệu của công lý tối cao, có một cái thang bằng đá đóng áp vào tường, xưa kia thang bằng gỗ, nhưng sau hoá thành đá vì bị chôn trong lớp đất hoá đá của nơi gọi là Axpli Gôvix, cạnh tu viện Vôboc.

Nhà ngục Xaothuak, ngày nay đã bị phá huỷ, nhìn ra hai đường phố. Ngày xưa, còn là ghết, nó vẫn là lối đi lại giữa hai phố và có hai cửa; nhìn ra phố to là cái cửa nghi lễ, dành cho các nhà chức trách, và nhìn ra ngõ hẹp là cái cửa xép, dành cho những người còn lại. Và cũng dành cho cả người chết; vì khi nào có tù chết trong ngục thì xác đi theo cửa ấy. Âu cũng là một sự giải thoát.

Chết tức là phóng thích cõi vô biên.

Guynplên vừa được đưa vào nhà tù qua cái cửa xép.

Như chúng tôi đã nói, cái ngõ con chỉ là một con đường nhỏ hẹp, rải sỏi, nằm ép giữa hai bức tường đối diện nhau. Loại phố như vậy ở Bruyexen có nơi gọi là phố một người. Hai bức tường không đồng đều, bức tường cao là nhà tù, bức tường thấp là nghĩa địa. Bức tường thấp này bao quanh bãi xác chết của nhà ngục, không cao hơn đầu người mấy tí. Một cái cửa, chọc thủng bức tường, gần như đối diện cửa tò vò nhà ngục. Người chết chỉ phải chịu khó bước qua con đường thôi. Chỉ cần men theo bức tường độ hai mươi bước là vào tới nghĩa địa. Bức tường cao, đặt áp một cái thang của giá treo cổ: trước mặt, trên bức tường thấp, khắc một hình đầu lâu. Bức tường bên này không làm vui được bức tường bên kia.

6. DƯỚI NHỮNG BỘ TÓC GIẢ NGÀY XƯA LÀ NHỮNG PHÁP QUAN NÀO?

Lúc ấy, giá có ai nhìn từ phía bên kia nhà tù, phía cửa tiền, thìthấy cái phố lớn của Xaothuak, và đã để ý đến một chiếc xe du lịch, đỗ trước cái cổng chính đồ sộ của nhà ngục, rất dễ nhận qua chỗ ngồi của chiếc xe mà ngày nay người ta quen gọi là xe ngựa mui trần hai bánh. Một vòng người tò mò vây quanh cỗ xe. Xe có chạm trổ huy hiệu, và người ta thấy một nhân vật bước xuống, đi vào nhà tù; quần chúng phỏng đoán có lẽ đấy là một pháp quan. Ở nước Anh, pháp quan thường là quí tộc và hầu như lúc nào cũng hưởng quyền có dũng sĩ theo hầu. Ở Pháp thì hầu như huy hiệu và áo thụng loại trừ nhau; công tước Xanh Ximông khi nói về pháp quan vẫn bảo: "những hạng người ấy". Ở nước Anh một nhà quí tộc không bao giờ mất danh giá vì làm pháp quan.

Ở nước Anh vẫn có pháp quan lưu động gọi là quan tuần du, và việc trông thấy một pháp quan đi công cán ngồi trong cỗ xe đó là chuyện bình thường. Nhưng kém bình thường hơn là nhân vật được xem như pháp quan lại bước xuống, không phải từ trong xe, mà từ khoang phía trước, vị trí không phải thường dành cho chủ nhân.

Điều đặc biệt khác: Ở Anh thời ấy có hai lối du lịch, bằng "xe khách" cứ năm dặm một senlinh, và bằng xe trạm phóng nước đại mỗi dặm mất ba xu và cứ mỗi trạm thêm bốn xu trả cho phu trạm. Một chiếc xe nhà, mà lại không muốn du lịch từng chặng, cứ mỗi đầu ngựa và mỗi dặm người cưỡi ngựa trạm phải trả bao nhiêu xu, thì nó phải trả bấy nhiêu senlinh: thế mà chiếc xe đỗ trước nhà ngục Xaothuak đóng những bốn ngựa và có hai phu trạm, một kiểu xa phí của bực vương giả. Cuối cùng để hoàn thành việc kích thích và đánh lạc hướng những chuyện phỏng đoán, chiếc xe còn được che chắn rất tỉ mỉ. Cửa hoành kéo lên. Cửa kính có cửa ván che kín; tất cả các lỗ hở mắt có thểnhìn qua đều bịt kỹ, từ bên ngoài không thể nhìn thấy gì ở trong, và có lẽ từ bên trong cũng không thể nhìn thấy gì ở ngoài. Hơn nữa chẳng có người nào trong xe cả.

Xaothuak nằm trong phạm vi Xơrê, nên nhà tù Xaothuak thuộc quyền quận trưởng Xơrê. Những quyền quản hạt riêng biệt như thế rất thường thấy ở nước Anh. Cho nên, chẳng hạn, tháp Luân Đôn[56] xem như chẳng nằm trong lãnh địa nào cả, nghĩa là về mặt pháp lý nó đứng chơ vơ giữa trời. Tháp chỉ công nhận quyền xét xử của quan cảnh sát của nó, gọi là custos turris. Tháp có quyền tài phán riêng. Quyền hạn của custos hay quan cảnh sát lan ra ngoài Luân Đôn đến hai mươi mốt hamlet, tạm dịch là thôn ấp. Vì ở nước Anh những đặc điểm pháp định thường dẫm đạp lên nhau nên chức vụ của người bắn đại bác nước Anh lại do Tháp Luân Đôn quyết định.

Có những tập tục pháp định khác dường như kỳ quặc hơn nữa. Cho nên toà án bộ tư lệnh hải quân nước Anh lại tham khảo và áp dụng luật pháp của Rôđơ và Ôlêrông (đảo của Pháp đã trở thành của Anh).

Quận trưởng một tỉnh rất quan trọng. Bao giờ ông ta cũng làm kỵ sĩ, và đôi khi là hiệp sĩ. Trong các hiến chương cũ, ông ta được phong spectabili "người ai cũng phải nhìn". Tước vị trung gian, giữa illustris và clarissimus[57], kém chức trước, hơn chức sau. Ngày xưa quận trưởng lãnh địa do dân chúng lựa chọn, nhưng vì Êđua đệ Nhị và sau đó Hăngri VI dành quyền chỉ định cho nhà vua, các quận trưởng trở thành sản phẩm của nhà vua. Tất cả đều do nhà vua bổ nhiệm; từ quận trưởng Oextmorolen vốn cha truyền con nối, và các quận trưởng Luân Đôn và Mitdonxêc do phường hội trong Comonhôn bầu. Các quận trưởng xứ Galơ và xứ Sextơ được một số đặc quyền về thuế má. Tất cả những chức vụ ấy vẫn còn ở nước Anh nhưng bị suy tàn dần do cọ xát với các phong tục và tư tưởng, chúng không còn giữ bộ mặt như ngày xưa. Quận trưởng lãnh địa có nhiệm vụ hộ tống bảo vệ các "tuần du". Như con người có hai tay, ông ta cũng có hai viên chức, cánh tay phải, viên phó quận, và cánh tay trái, viên pháp quan định túc số. Viên pháp quan định túc số, được viên pháp quan trong đoàn một trăm người gọi là thiết trượng quan giúp việc, có trách nhiệm bắt giữ, xét hỏi và mọi trách nhiệm thuộc về quận trưởng, giam cầm bọn trộm cắp, giết người, làm loạn, du thủ du thực, và mọi kẻ phản nghịch, để chờ các quan tuần du xét xử. Chỗ khác biệt giữa phó quận và pháp quan định túc số chỉ tham dự.

Quận trưởng nắm giữ hai toà án, một toà án cố định và trung ương, toà contri-cortơ và toà án lưu động, toà Sêrip-tocn. Như vậy ông ta tượng trưng cho thống nhất và chia cắt. Với tư cách quan toà, trong các vấn đề tranh chấp ông ta được sự giúp đỡ và hướng dẫn của một viên đình lại đội mũ, gọi là sergens coi foe, vốn là một đình lại luật sư đội mũ vải trắng Cambrai, ngoài đội thêm mũ chỏm đen. Quận trưởng thanh lý các nhà tù ; lúc đến một thành phố của tỉnh, ông ta có quyền sơ bộ thải bớt tù nhân, điều này dẫn đến chỗ hoặc tha hẳn, hoặc treo cổ, tức là "giải toả nhà ngục"gaol deliver. Quận trưởng xuất trình giấy cáo tố cho hai mươi bốn vị bồi thẩm buộc tội, nếu tán thành họ phê lên trên billa vera[58]; nếu không tán thành họ phê ignoramus[59] ; thế là buộc tội bị huỷ bỏ và quận trưởng có đặc quyền xé giấy cáo tố. Nếu trong thời gian luận tội, một bồi thẩm chết, thế là theo pháp định bị can được trắng án và trở thành vô tội; quận trưởng đã có đặc quyền bắt giữ bị can hay có quyền tha bị can. Điều khiến ngươi ta đặc biệt quí trọng và sợ hãi quận trưởng là ông ta có nhiệm vụ thi hành tất cả mọi mệnh lệnh của nhà vua; phạm vi thật đáng sợ. Mặt chuyên chế nằm trong mấy chữ đó. Lớp viên chức gọi là vecdo và những vecdo và những coronơ thuộc đoàn tuỳ tùng của quận trưởng và lớp thư ký ngoài chỗ trợ lực cho lão quận trưởng còn có một đoàn tuỳ tùng rất oai vệ cưỡi ngựa và quân hầu đầy tớ. Sembơclên nói quận trưởng là "linh hồn của công lý, của Luật pháp và của Lãnh địa".

Ở nước Anh có một sức phá hoại kín đáo không ngừng nghiền nát, làm tan rã luật pháp và phong tục. Chúng ta cần nhấn mạnh là ngày nay cả quận trưởng, cả thiết trượng quan, cả pháp quan định túc số, không ai thi hành nhiệm vụ của mình như họ đã thi hành thời ấy. Ở nước Anh cũ, thường có đôi chút lẫn lộn về quyền hạn, và những chức năng không rõ rệt thường được giải quyết dẫm đạp lên nhau, một việc mà ngày nay không hề có. Tình trạng lẫn lộn giữa cảnh sát và công lý không còn nữa. Danh từ vẫn còn nhưng chức vụ đã thay đổi. Chúng tôi còn nghĩ rằng danh từ thiết trượng quan cũng đã thay đổi nghĩa. Trước kia nó có nghĩa một pháp quan, ngày nay có nghĩa một đơn vị lãnh thổ; trước kia nó chỉ rõ người trong đoàn một trăm, ngày nay nó chỉ rõ đơn vị tổng (centum).

Vả lại thời ấy quận trưởng lãnh địa bao gồm, hơn một tí kém một tí, và cô đúc trong quyền hạn của mình, vừa của nhà vua vừa của thành phố, cả hai pháp quan ngày xưa ở nước Pháp gọi là trung uý dân sự và trung uý cảnh sát. Tính chất trung uý dân sự của Pari được qui định khá rõ trong chỉ thị cảnh sát sau đây: "Người trung uý dân sự không bỏ qua những vụ cãi cọ gia đình vì việc cướp bóc luôn luôn thuộc về ông ta" (22 tháng bảy 1704). Còn trung uý cảnh sát, nhân vật gây lo ngại, vừa phức tạp vừa mơ hồ, được tóm tắt lại ở những điển hình tốt nhất là Ronê Acghenxân; theo lời Xanh Ximông, trên mặt ông này có đủ ba diêm thần một lúc.

Ba vị diêm thần này đã thấy tại Bisopghêt Luân Đôn.

7. RUN SỢ

Nghe tiếng cửa tò vò ken két đóng lại, Guynplên rùng cả mình. Nó cảm thấy cái cửa vừa đóng kín đó là cánh cửa giữa ánh sáng với u minh, một bên nhìn ra cảnh nhộn nhịp trần gian, một bên dần vào cõi chết, giờ đây tất cả mọi thứ được mặt trời soi sáng đều ở sau lưng, nó đã vượt qua biên giới của cái gọi là cuộc đời và đang đứng bên ngoài. Nó thấy trong lòng tê tái vô hạn. Người ta sắp làm gì nó đây? Tất cả những chuyện ấy nghĩa là thế nào?

Nó đang ở đâu?

Nó chẳng nhìn thấy gì xung quanh cả; nó đang đứng trong cảnh tối tăm mù mịt. Cánh cửa khép lại như bưng lấy mắt nó một lúc. Cửa thông gió cũng sập kín như cửa ra vào. Chẳng có cửa hầm, chẳng có đèn đóm. Đấy là một lối thận trọng của những thời xa xưa. Có lệnh cấm thắp sáng bên trong nhà ngục để kẻ mới đến khỏi nhận thấy gì cả.

Guynplên đưa tay ra, chạm vào tường bên phải và bên trái: nó đang đứng trong một hành lang. Dần dần ánh sáng hầm không biết từ đâu rịn rỉ tới, lơ lửng ở những nơi tối tăm, và con ngươi cũng giãn nở dần theo, khiến nó nhận thấy đây đó một đường nét, và hành lang lờ mờ hiện ra trước mắt nó.

Từ trước đến nay, chỉ thoáng thấy những cảnh khắc nghiệt của hình phạt qua những lời phóng đại của Uyêcxuyt nên Guynplên cảm thấy như một bàn tay rát to và đen tối tóm chặt. Bị sức mạnh vô hình của pháp luật nhào nặn quả thật hãi hùng. Dũng cảm trước tất cả mọi thứ, nhưng đứng trước công lý người ta cũng hốt hoảng. Vì sao? Vì công lý của con người chỉ như bóng hoàng hôn, mà quan toà thì luôn luôn lảng vảng ở đấy. Guynplên nhớ đến những lời Uyêcxuyt nói về việc cần phải im lặng: nó muốn gặp lại Đêa; trong hoàn cảnh của nó, có mặt tuỳ nghi hành định làm cho sáng tỏ lại làm xấu thêm. Tuy nhiên, về một mặt khác, câu chuyện này nặng nề quá khiến cuối cùng nó phải chịu thua, không thể không đặt một câu hỏi:

- Thưa các ngài, các ngài dẫn tôi đi đâu?

Không ai đáp lời nó cả.

Đây là luật bắt giữ thầm lặng, và văn bản Normăngđi rất rõ ràng:

A silentiarus ostio proepositis introducti sunt[60].

Thái độ im lặng đó khiến cho Guynplên ớn lạnh cả người. Từ trước đến nay nó vẫn nghĩ là nó mạnh: nó rất tự mãn; tự mãn tức là có quyền thế. Nó vẫn quen sống cách biệt, tưởng cách biệt là không ai chạm đến mình. Ấy thế mà đột nhiên nó tự cảm thấy bị đè nén bởi cái sức mạnh tập thể gớm guốc. Vùng vẫy thế nào với kẻ vô danh khủng khiếp này, với luật pháp bây giờ? Nó mất hết tinh thần trước điều bí ẩn. Một nỗi sợ hãi xa lạ đã tìm thấy chỗ yếu trên tấm áo giáp của nó. Lại thêm nó chưa được ngủ, chưa được ăn; nó chỉ mới khẽ chạm môi vào tách trà. Suốt đêm nó sống trong cảnh mê sảng, và vẫn còn thấy sốt hầm hập. Nó khát, có lẽ nó đói nữa. Dạ dầy khó chịu thì quấy rầy đủ mọi cách. Từ tối hôm qua nó gặp bao nhiêu sự cố dồn dập. Những cảm xúc đang giầy vò nó đang ủng hộ nó; không có phong ba, cánh buồm chỉ là mảnh giẻ rách mà gió thổi phồng đến rách toang ra. Nó lại cảm thấy đang ở trong người nó. Nó cảm thấy yếu dần.

Liệu nó có ngã lăn ra bất tỉnh trên nền đá lát không?

Ngất lịm là thủ đoạn của đàn bà và là sự nhục nhã của đàn ông. Nó cố lên gân, nhưng vẫn run rẩy.

Nó có cảm giác của một người hẫng chân.

8. RÊN SIẾT

Đoàn người bắt đầu cất bước.

Họ tiến tới, trong hành lang.

Không có phòng lục sự sơ bộ nào cả. Chẳng có bàn giấy, chẳng có sổ sách gì hết. Nhà tù thời bấy giờ không nặng về giấy tờ. Chúng chỉ cần khép kín lại trước mặt anh, thường thường chẳng cần biết tại sao. Là nhà tù, và tù nhân, thế là đủ.

Đoàn người phải giãn dài và khuôn theo hình dáng hành lang. Hầu như họ đi theo hàng một; dẫn đầu là lão thiết trượng quan, tiếp đến Guynplên, rồi viên pháp quan định túc số, rồi đến cánh nhân viên cảnh sát đi thành khối và bịt kín hành lang sau lưng Guynplên như một cái nút đệm. Hành lang chật dần; lúc này hai khuỷu tay Guynplên chạm vào tường; cái vòm bằng bê- tông sỏi chốc chốc lại có chỗ nhô ra bằng đá hoa như muốn thắt ngang, phải cúi đầu mới qua được, trong hành lang không thể nào chạy nhanh; có trốn cũng buộc phải đi thong thả; con đường ống này lại ngoằn ngoèo; đã là lòng là ruột thì phải ngoắt ngoéo, lòng nhà tù cũng như ruột con người; đây đó lúc bên phải lúc bên trái có những chỗ cắt khoét trong tường, vuông vuông, và bịt kín bằng lưới sắt to, cho thấy những cầu thang, cái này đi lên, cái kia dẫn xuống. Đến một cái cửa đóng kín, tự động mở ra, đoàn người đi qua, cửa lại tự động khép lại. Sau đó gặp một cửa thứ hai, đoàn người đi qua, rồi một cửa thứ ba cũng xoay trên bản lề như thế. Nhưng cửa ấy đều như tự động mở tự động đóng. Chẳng thấy một bóng người nào cả, hành lang thắt lại, thì đồng thời vòm trần cũng thấp xuống; nền đá lát hành lang nhầy nhụa như lòng lợn. Cái mầu nhạt nhạt tù mù thay cho ánh sáng mỗi lúc lại thêm mờ đục; không khí ngột ngạt. Nhưng rùng rợn nhất là cứ phải đi xuống.

Phải chú ý mới nhận thấy là đang đi xuống, ở những chỗ tối, chỉ hơi dốc cũng đã ghê rợn rồi. Không gì đáng sợ bằng những chỗ tối tăm mà cứ phải lần theo những đường dốc khó thấy. Đi xuống tức là bước vào nơi lạ lẫm hãi hùng.

Đi như thế bao lâu? Guynplên cũng không biết nữa.

Qua cái máy cán đó. qua cảnh lo âu ấy, giây phút cứ dài ra vô tận.

Thình lình đoàn người đứng lại.

Bóng tối dày đặc.

Hành lang rộng ra đôi tí.

Guynplên bỗng nghe cạnh người một tiếng động mà chỉ tiếng phèng la của Tàu mới có thể cho ta được một ý niệm; ynhư một tiếng gõ vào vách ngăn của vực thẳm.

Chính viên thiết trượng quan vừa gõ cái gậy của yvào một tấm sắt.

Tấm sắt ấy là một cánh cửa.

Không phải một cánh cửa xoay, mà một cánh cửa sập. Gần như một cái bừa.

Bỗng có tiếng loạc soạc chói tai trong một đường rãnh, và trước mắt Guynplên vụt hiện ra một ô vuông sáng. Tấm sắt vừa được rút lên vào cái kẽ ở vòm trần như kiểu bẫy chuột. Một lỗ hổng hiện ra.

Không thể gọi đây là ánh sáng, nó là một thứ lờ mờ.

Nhưng đối với con ngươi giãn to của Guynplên, thứ ánh sáng nhạt nhạt và đột ngột đó thoạt tiên loé lên như một tia chớp.

Mất một lúc nó không trông thấy gì hết. Phân biệt trong ánh sáng chói loà cũng khó như trong đêm tối.

Rồi, từng tí một, con ngươi của nó thích ứng dần với ánh sáng cũng như đã thích ứng với bóng tối, cuối cùng nó phân biệt được rõ ràng, chút ánh sáng, lúc đầu tưởng như chói quá, dịu dần trong con ngươi của nó và trở lại nhợt nhạt ; nó đánh liều nhìn qua cái lỗ hổng toang hoác trước mặt, và điều nó nhận thấy thật là khủng khiếp.

Dưới chân nó, độ hai mươi bậc thang, cao, hẹp, nhẵn thín, gần như thẳng đứng, gần như không có tay vịn bên phải bên trái, một thứ mào đá y hệt mảng tường cắt xén thành cầu thang, đi vào và chui tuột xuống một cái hầm rất sâu, Chúng dẫn xuống tận dưới xa.

Hầm này tròn, vòm hình cung nhọn, thấp lè tè, vì không xây cuốn, tình trạng nứt nẻ thường thấy ở mọi hầm ngầm mà bên trên chồng chất những công trình rất nặng.

Chỗ cắt làm cửa mà tấm sắt vừa mở ra cho thấy, và nối vào cầu thang, được xén vào vòm trần, thành thử đứng từ chỗ cao đó mắt nhìn vào hầm như chúi xuống giếng.

Hầm rộng, và nếu là đáy giếng thì là đáy một cái giếng khổng lồ. Ý niệm và cái từ ngữ "trôn ngục" ngày xưa gợi nên chỉ có thể áp dụng cho cái hầm này với điều kiện phải hình dung một cái ngục nhốt sư tử hoặc hổ báo.

Hầm chẳng lát đá gạch gì hết. Nền là mặt đất ẩm ướt lạnh lẽo của những nơi sâu thẳm.

Giữa hầm, bốn cái cột thấp, dị hình, chống đỡ một cửa lớn hình cung nhọn nặng nề, bốn đường gân giao nhau ở trong cửa gần giống mặt trong mũ giám mục. Cái cửa to này, tương tự như những thánh đường dưới đó ngày xưa người ta để những quan tài đá, cao đến tận mái vòm, tạo thành một kiểu phòng trung tâm, nếu có thể gọi là phòng một khoảng trống bốn phía, và thay cho bốn bức tường là bốn cột trụ.

Giữa vòm lủng lẳng một chiếc đèn đồng, tròn và bịt lưới như cửa sổ nhà tù. Chiếc đèn này toả ra xung quanh, lên trên hàng cột, một ánh sáng trắng nhợt, với những vạch bóng cắt ngang- Chính thứ ánh sáng này đã làm loá mắt Guynplên lúc đầu. Bây giờ nó chỉ còn mầu đỏ hầu như tù mù.

Trong hầm chẳng còn thứ ánh sáng nào khác.

Không cửa sổ, không cửa ra vào, không cửa hầm.

Giữa bốn cột trụ, ngay dưới chiếc đèn, chỗ nhiều ánh sáng nhất, có một bóng trắng, khủng khiếp, dán sát trên mặt đất.

Hình bóng nằm ngửa. Người ta thấy một cái đầu với cặp mắt nhắm nghiền, một thân hình mà nửa trên biến mất dưới một đống gì đó nho nhỏ dị dạng, bốn chi dính vào thân theo hình chữ thập thánh Angđrê và kéo căng về hướng bốn cột trụ bằng bốn sợi xích buộc vào chân vào tay. Mỗi sợi xích bắt vào một vòng sắt ởchân cột. Hình hài đó nằm im trong tư thế tàn nhẫn của hình phạt xé xác, xám xịt giá lạnh như tử thi. Nó trần truồng; đó là một người đàn ông.

Guynplên sững sờ, đứng trên cầu thang, nhìn xuống.

Thình lình nó nghe có tiếng rên.

Thì ra cái xác vẫn còn sống.

Ngay cạnh bóng ma đó, trong một hình cung nhọn của cái cửa, hai bên chiếc ghế bành to đặt trên một tảng đá rộng, có hai người đứng, mặc áo thụng đen; ngồi trên chiếc ghế bành là một ông già mặc áo thụng đỏ, xanh mét, cứng đờ, hung ác, tay cầm một bó hoa hồng.

Một kẻ ngu dốthơn Guynplên ắt cũng hiểu bó hoa hồng là thế nào.

Quyền xét xử với bó hoa trên tay tiêu biểu cho pháp quan vừa của nhà vua vừa của thành phố. Lãnh chúa - thị trưởng Luân Đôn vẫn xét xử như thế. Giúp đỡ các quan toà xét xử, đó là tác dụng của những cánh hồng đầu xuân.

Ông già ngồi trên ghế bành là viên quận trưởng lãnh địa Xorê.

Ông ta có cái cứng nhắc oai vệ của người La Mã trong cương  vị đế vương.

Chiếc ghế bành là chiếc ghế ngồi duy nhất trong hầm.

Bên cạnh chiếc ghế bành, có một cái bàn trên để đầy giấy tờ sổ sách, và chiếc đũa trắng dài của quận trưởng.

Đứng bên phải và bên trái viên quận trưởng là hai vị tiến sĩ, một y khoa, một luật khoa; ông này dễ nhận ra nhờ cái mũ đình lại luật sư trên bộ tóc giả. Cả hai đều không mặc áo thụng đen, một người mặc áo quan toà, một người mặc áo thầy thuốc. Hai loại người này để tang cho những người chết do họ tạo ra.

Sau lưng viên quận trưởng, ở mép cái bục của tảng đá ngồi thu lu một viên lục sự đội bộ tóc giả tròn; ycó cạnh người, một cái nghiên để trên mặt nền, một tập hồ sơ bìa cứng để trên đầu gối và một tờ giấy da trên tập hồ sơ, tay y luôn luôn cầm bút trong tư thế một người luôn luôn sẵn sàng ghi chép.

Viên lục sự ấy gọi là lục sự giữ túi; điểm đó thấy rõ qua cái túi con để ở chân, trước mặt y. Những cái túi con ấy, ngày xưa vẫn dùng trong các phiên toà, được mệnh danh là "túi công lý".

Một người mặc toàn đồ da, khoanh tay đứng tựa lưng vào một cột trụ. Đó là một tên quân hầu của đao phủ.

Những người trên đây hình như đang mê say trong tư thế buồn thảm của họ, quanh con người bị xích. Không ai nhúc nhích, cũng không ai nói năng.

Trên toàn bộ cảnh tượng đó, một không khí bình tĩnh kỳ quái.

Trước mặt Guynplên là một cái hầm hình sự. Những loại hầm như thế ngày xưa đầy rẫy ở nước Anh. Hầm mộ nhà thờ Bôsăng Taoơ vẫn dùng vào việc ấy một thời gian rất lâu, cũng như hầm ngầm của Lôlar- Prizân. Có cái hầm gọi là "hầm mộ của Lêđi-Plêxơ" và ngày nay người ta có thấy ở Luân Đôn loại hầm như vậy. Trong cái phòng sau cùng này, có một cái lò sưởi khi cần.

Tất cả những nhà thờ thời vua Gion, ngục Xaothuak thuộc số đó, đều có hầm hình sự.

Những việc sau đây đều được thi hành rất thông thường ở nước Anh hồi ấy, và nói cho cùng, về mặt tố tụng hình sự, hiện nay vẫn có thể thi hành,vì tất cả luật lệ ấy vẫn tồn tại. Nước Anh hiến cho ta cái cảnh kỳ lạ của một bộ luật dã man sống rất hoà hợp với nền tự do. Phải công nhận đó là đôi vợ chồng tuyệt diệu.

Tuy nhiên đôi chút ngờ vực cũng không phải không đúng lúc. Nếu xảy ra một sự khủng hoảng, thì việc quay lại lối tra tấn cổ xưa không phải không thể có. Pháp chế nước Anh là một con hổ đã thuần. Nó có vẻ hiền lành nhưng vẫn còn đủ móng vuốt.

Cắt móng cho luật pháp là điều khôn ngoan.

Luật pháp hầu như không nghĩ đến quyền lợi. Một bên là hình phạt, một bên là nhân loại. Các triết gia phản đối; nhưng còn lâu trước khi công lý con người gắn liền được với công lý thực sự.

Tôn trọng luật pháp là châm ngôn của nước Anh. Ở Anh người ta tôn thờ các điều luật một cách quá đáng nên không bao giờ huỷ bỏ chúng. Một đạo luật già cứ việc tàn tạ như một bà già; nhưng không ai giết một bà già cũng như đạo luật già. Không thi hành chúng nữa, có thế thôi. Cho chúng tự do nghĩ rằng mình vẫn đẹp vẫn trẻ. Cứ mặc cho chúng mơ tưởng là mình vẫn tồn tại. Thứ lễ độ đó gọi là tinh thần tôn trọng.

Tập quán Normăngđi đã có nhiều nếp nhăn; thế mà khối quan toà nước Anh vẫn còn liếc mắt đưa tình với nó đấy. Người ta vẫn âu yếm bảo tồn một vật cổ xấu xí, nếu nó của xứ Normăngđi. Còn gì tàn bạo độc ác hơn cái giá treo cổ? Năm l867 người ta xử phạt một người đàn ông[61] chặt làm bốn mảnh để dâng cho người đàn bà, là nữ hoàng.

Vả lại ở Anh không hề có tra tấn. Sử sách vẫn nói như thế. Quý hoá thay tính chất chính trực vô tư của lịch sử.

Machiơ Oetminxtơ chứng nhận "luật pháp Xăcxơ rất nhân hậu và hiền lành" không xử tội nhân, và còn nói thêm : "Người ta chỉ cắt mũi, móc mắt, và xẻo bộ phận sinh dục" thế thôi.

Guynplên ngơ ngác ở đầu cầu thang, bắt đầu run bắn cả chân tay. Nó rợn cả người. Nó cố nhớ xem mình đã phạm tội gì. Tiếp theo cái im lặng của viên thiết trượng quan là hình ảnh một cực hình. Một bước tiến thực sự, nhưng một bước bi đát. Nó thấy điều bí ẩn tối tăm của luật pháp đang đè nặng lên người nó mỗi lúc lại thêm mù mịt.

Hình người nằm ở đất lại rên khừ khừ lần thứ hai.  Guynplên có cảm giác bị đẩy nhẹ vào vai.

Chính viên thiết trượng quan đẩy nó.  Guynplên hiểu là phải đi xuống.

Nó tuân lệnh.

Nó bước xuống cầu thang, từng bực từng bực một. Bực thang rất thấp, độ hai mươi nhăm phân. Lại thêm không có tay vịn, chỉ có thể bước xuống một cách thận trọng. Xuống theo Guynplên, cách sau hai bực, là viên thiết trượng quan giơ thẳng cây gậy sắt, và theo sau viên thiết trượng quan, cũng cách quãng như thế, là viên pháp quan định túc số.

Chân bước xuống những bực thang đó, mà trong lòng Guynplên cảm thấy tiêu tan hết hy vọng. Đúng là kiểu chết dần từng bước từng bước. Mỗi bực đi xuống lại làm tắt thêm chút ánh sáng le lói trong lòng nó. Mỗi lúc một tái nhợt, nó xuống hết cầu thang.

Con sâu quằn quại trên đất và bị xích vào bốn cột trụ lại tiếp tục rên hừ hừ.

Có tiếng trong bóng tối tù mù nói ra:

- Tiến gần lại.

Chính viên quận trưởng nói với Guynplên.

Guynplên bước lên một bước.

Gần nữa - tiếng đó bảo.

Guynplên bước thêm bước nữa.

Sát vào - viên quan quận trưởng lại nói.

Viên pháp quan định túc số khẽ rỉ vào tai Guynplên, nghiêm nghị đến nỗi tiếng thì thầm trở thành trịnh trọng

-          Anh đang đứng trước ngài quận trưởng lãnh địa Xorê.

Guynplên tiến sát đến bên người bị hành hình nằm giữa hầm. Viên thiết trượng quan và viên pháp quan định túc số đứng lại, để cho Guynplên bước tới một mình.

Lúc Guynplên đến đứng dưới cửa, được nhìn tận mắt cái của khốn khổ mà từ nãy nó mới trông thấy từ xa, và lại là một người còn sống, nỗi ghê sợ của nó bỗng trở thành hãi hùng.

Con người bị xích trên mặt đất hoàn toàn trần truồng, chỉ có mỗi mảnh giẻ dơ dáng gớm guốc mà người ta có thể gọi là cái lá nho hình phạt; đây là cái succingulum  của người La Mã, cái christipanmus của người gô-tic, mà tiếng lóng xứ Gôlơ cổ xưa của chúng ta chuyển thành cripanhơ[62]. Chúa Giê-su, trần truồng trên cây thánh giá, chỉ có mảnh giẻ như thế.

Tội nhân rùng rợn mà Guynplên đang nhìn dường như quãng năm sáumươi tuổi. Đầu hắn ta hói, râu bạc tua tủa ở cằm, hắn nhắm mắt, há mồm. Răng nhe cả ra. Bộ mặt hốc hác giơ xương  bên cạnh cái sọ người chết. Hai tay, hai chân nối liền bằng xích vào bốn trụ đá. Hợp thành một chữ X. Trên ngực và bụng, một tấm sắt mỏng, trên tấm sắt chất đống năm sáu tảng đá to. Tiếng rên hừ hừ của hắn. lúc như tiếng thở. lúc lại là tiếng rống.

Viên quận trưởng. vẫn không rời bó hoa hồng, đưa bàn tay còn lại cầm chiếc đũa trắng ở bàn, vừa đưa thẳng nó ra vừa nói:

- Theo lệnh nhà vua.

Đoạn ông ta đặt chiếc đũa xuống bàn.

Tiếp đó, thong thả như tiếng chuông nguyện, không một cử chỉ, cũng cứng nhắc như tội nhân, viên quan quận trưởng cất giọng nói:

- Hỡi con người bị xiềng xích kia, lần cuối cùng hãy nghe tiếng nói của công lý. Anh được lôi từ hầm tối ra và dẫn đến nhà ngục này. Anh được chất vấn đúng theo thủ tục formalus verbis pressus, không kể những văn kiện và thông báo đã đọc và sẽ đọc lại lần nữa cho anh nghe. Do có tư tưởng xấu xa và tà tâm, anh vẫn cố tình im lặng, không chịu trả lời quan toà. Đó là một thứ tự do đáng ghét, và trong số những hành vi đáng phạt hình cashlis, thì đó là tội ác và khinh tội về eversenesse.

Viên đình lại đội mũ đứng bên phải quận trưởng cắt lời và nói với giọng dửng dưng đượm một vẻ gì thật ảm đạm.

Overhernessa. Luật Anfrêt và Gôtrân. Chương sáu.

Viên quận trưởng nói tiếp:

- Điều luật được tất cả mọi người tôn kính, trừ những tên trộm cướp làm nhơ bẩn rừng rú là nơi hươu nai sinh đẻ.

Như tiếng chuông nọ nối tiếp tiếng chuông kia, viên đình lại nói:

- Qui faciunt vastum in foresta ubi damoe solent founinare[63]

- Kẻ nào không chịu trả lời pháp quan - viên quận trưởng nói - đáng nghi là phạm tất cả mọi tật xấu. Nó bị xem như có thể phạm toàn bộ điều ác.

Viên đình lại xen vào.

- Prodigus, devorator, prousus, salax, ruffianus, ebriosus, luxuriosus, simulator, consumptor patrimonu, elluo, ambro,et gluto[64]

Mọi tật xấu - viên quận trưởng nói - tức là mọi tội lỗi. Kẻ nào không khai tí gì, kẻ ấy thú nhận tất cả. Kẻ nào im lặng trước các câu hỏi của quan toà, kẻ ấy rõ ràng nói dối và giết cha.

- Mendax et parricida - viên đình lại nói.

Viên quận trưởng tiếp:

Người kia, không ai được phép lẩn tránh và im lặng. Lối khuyết tịch giả dối gây một ung nhọt cho luật pháp. Nó giống như Điômeđơ làm thương tổn một nữ thần. Lầm lì trước công lý là một hình thức chống đối. Xúc phạm công lý tức là xúc phạm nhà vua. Không còn gì đáng ghét và liều lĩnh hơn. Kẻ nào lẩn tránh khẩu cung, kẻ đó đánh cắp chân lý. Luật pháp đã dự kiến đến chuyện đó. Đối với những trường hợp như vậy, người Anh thời nào cũng đều hưởng quyền hố huyệt, đinh ba và xiềng xích.

- Anglicana, charta[65] năm 1088 - viên đình lại nói.

Rồi vẫn cái vẻ trịnh trọng máy móc, hắn thêm:

- Ferrum, et fossam, et jurcas, com alus libertatibus[66]

Viên quận trưởng tiếp:

-Bởi vậy, người kia, vì anh không muốn từ bỏ thái độ im lặng, mặc dù trí óc hoàn toàn sáng suốt và hoàn toàn hiểu rõ công lý đòi hỏi anh điều gì, vì anh ngoan cố một cách quá quắt, lẽ ra anh phải bị tra khảo và theo qui định của luật hình sự, anh đã nếm mùi đau đớn của cái gọi là "hình phạt mạnh và cứng"[67]. Đây là những gì đã được áp dụng đối với anh. Luật pháp buộc tôi phải cho anh biết một cách xác thực. Anh đã được dẫn đến cái hầm ngầm này, anh đã bị lột bỏ hết quần áo, anh phải nằmtrần truồng trên đất, hai tay hai chân xích căng ra bốn trụ của luật pháp, một tấm sắt đã được đè lên bụng anh, và người ta đã đặt lên người anh một lượng đá mà anh có thể chịu đựng được. "Và hơn nữa". Luật pháp nói.

- Plusque - viên đình lại xác định.

Viên quận trưởng tiếp tục:

Trong hoàn cảnh đó và trước khi kéo dài cuộc thử thách, anh đã được tôi, quận trưởng lãnh địa Xơre, nhiều lần khuyên bảo thúc giục trả lời và nên nói; anh vẫn ngoan cố im lặng như ác quỉ, mặc dù anh đã bị tra tấn, xiềng xích còng gông.

- Attachiamenta legalia[68] - viên đình lại nói.

- Do anh từ chối và lì lợm - lão quận trưởng nói - theo lẽ công bằng với ngoan cố của tội phạm, thử thách đã được tiếp tục đúng theo qui định của pháp lệnh và văn bản. Ngày thứ nhất người ta không cho anh uống, không cho anh ăn.

- Hoc est super jejunare[69] viên đình lại nói.

Im lặng một lúc, có tiếng thở rít lên nghe rất dễ sợ của con người nằm dưới đống đá.

Viên đình lại luật sư nốt nốt chỗ hắn ngắt quãng:

- Ađe augmentum abstimentioe ciborum dimiun- tione. Consuetudo britannica[70] điều năm trăm linh bốn.

Hai con người ấy, lão quận trưởng và viên đình lại cứ luân phiên nhau; không còn gì ảm đạm hơn cái không khí đơn điệu bất di bất dịch đó; giọng nói rùng rợn trả lời giọng nói nham hiểm: cứ như linh mục và trợ tế hình phạt, đang tiến hành buổi lễ tàn ác của luật pháp.

Lão quận trưởng lại bắt đầu:

- Ngày thứ nhất, người ta không cho anh uống, không cho anh ăn. Ngày thứ nhì người ta cho anh ăn mà không cho anh uống; người ta đã nhét vào mồm anh ba miếng bánh đại mạch. Ngày thứ ba người ta cho anh uống mà không cho anh ăn. Người ta đã rót vào mồm anh, ba lần, ba cốc, một chai nước múc ở cống nhà tù. Đã đến ngày thứ tư. Tức hôm nay. Bây giờ, nếu anh tiếp tục không trả lời, anh sẽ bị bỏ mặc cho đến khi chết. Công lý muốn như vậy.

Viên đình lại luôn luôn phụ hoạ, tán thành:

- Mors rei homagium est bonoe legi[71]

- Và trong lúc anh tự cảm thấy chết dần một cách thê thảm - lão quận trưởng lại tiếp tục - sẽ không một ai giúp đỡ anh, dù cho máu có trào ra khỏi họng, ra chân râu, ra kẽ nách và mọi lỗ hở trên người từ mồm đến hết thắt lưng.

- A throtebella -viên đình lại nói - et pabu et subhircis, et a grugno usque ad crupponum.

Lão quận trưởng tiếp tục.

- Người kia, hãy coi chừng. Vì hậu quả liên quan đến anh. Nếu anh từ bỏ thái độ im lặng đáng ghét của anh, và nếu anh thú nhận, anh sẽ chỉ bị treo cổ, và được hưởng melde feoh là một số tiền.

- Damnum cònitens - viên đình lại nói - habeat le melde feoh. Leges Inoe, chương hai mươi.

- Món tiền này - lão quận trưởng nhấn mạnh - sẽ trả cho anh bằng doitkins, suskins và galihalpens, trường hợp duy nhất loại tiền này có thể dùng được, theo lời văn đạo luật bãi bỏ, năm thứ ba triều Hăngri đệ Ngũ, và anh sẽ có quyền và được hưởng scortum ante mortem, sau đó sẽ bị thắt cổ trên giảo đài. Đó là những quyền lợi của việc thú nhận. Anh có đồng ý trả lời công lý không?

Lão quận trưởng im lặng và chờ đợi. Tội nhân vẫn không nhúc nhích.

Lão quận trưởng lại nói:

- Im lặng là nơi ẩn náu có nhiều nguy hiểm hơn giải thoát. Ngoan cố là hiểm độc và đáng bị đoạ đầy. Kẻ nào im lặng trước công lý là phản nghịch đối với nhà vua. Chớ có giữ thái độ bất phục tùng không hợp với đạo tôi trung đó. Hãy nghĩ đến chúa thương. Chớ có chống đối với nữ hoàng kiều diễm của chúng ta. Khi tôi nói với anh, anh hãy trả lời với nữ hoàng. Anh nên làm kẻ thần dân trung hậu.

Tội nhân thở khò khè.

Lão quận trưởng lại nói tiếp:

- Như vậy sau bảy mươi hai giờ đầu tiên thử thách, bây giờ chúng ta đang ởngày thứ tư. Người kia, hôm nay là ngày quyết định. Luật pháp qui định việc đối chất vào ngày thứ tư.

Quarta die, frontem ad frontem ađuce - viên đình lại lầm bầm trong miệng.

- Luật pháp anh minh - lão quận trưởng lại nói - đã chọn giờ phút tối hậu này, để có được điều mà tổ tiên chúng ta gọi là "sự xét xử bằng cái lạnh chết người", vì đây là lúc con người được tin tưởng qua lời thú nhận có hay không của nó.

Viên đình lại luật sư lại nói:

Judicium pro frodmortell, quod homines cre- dendíint per suum  ya et per suumna. Hiến chương vua Ađenxtan. Tập một, trang một trăm bảy mươi ba.

Một lát chờ đợi, rồi lão quận trưởng cúi mặt nghiêm nghị về phía tội nhân.

- Hỡi con người nằm ở đất kia.

Lão dừng lại một tí.

- Người kia - hắn quát to - anh có nghe ta nói không?

Người kia không nhúc nhích.

- Nhân danh pháp luật - lão quận trưởng nói - anh hãy mở mắt ra.

Mí mắt người kia vẫn nhắm nghiền.

Lão quận trưởng ngoảnh về phía người thầy thuốc đứng bên trái.

- Bác sĩ khám nghiệm xem.

- Probe, da diagnóticum - viên đình lại nói.

Lão thầy thuốc bước xuống thềm, cứng nhắc, oai nghiêm, tiến đến gần người kia, cúi xuống, ghé tai cạnh mồm tội nhân, bắt mạch cổ tay, nách và đùi, rồi ngẩng lên.

- Thế nào? - lão quận trưởng hỏi.

- Nó vẫn nghe được - lão thầy thuốc nói.

- Nó có nhìn thấy không - lão quận trưởng hỏi.

Lão thầy thuốc đáp:  - Nó có thể nhìn thấy.

Theo lệnh của lão quận trưởng, viên pháp quan định túc số và viên thiết trượng quan tiến lên. Viên thiết trượng quan đứng cạnh đầu tội nhân; viên pháp quan định túc số dừng lại sau lưng Guynplên.

Lão thầy thuốc lùi lại một bước giữa hàng cột trụ.

Đúng lúc ấy, lão quận trưởng nâng bó hoa hồng lên như một linh mục nâng cây ngù rảy nước thánh, cao giọng gọi tội nhân và trở nên hung dữ:

- Hỡi con người khốn khổ kia, hãy nói lên! luật pháp yêu cầu người trước khi tuyệt diệt ngươi. Ngươi muốn làm ra vẻ câm, nhưng hay ngẫm đến nấm mồ câm lặng; ngươi muốn làm ra vẻ điếc, nhưng hãy ngẫm đến kiếp đoạ đầy cũng điếc đặc. Hãy nghĩ đến cái chết, nó còn ghê rợn hơn ngươi. Hãy suy nghĩ kỹ đi, người sắp bị bỏ mặc trong hầm tối này. Hỡi con người đồng loại của ta, hãy lắng tai mà nghe, vì ta cũng là một con người! Hỡi người anh em, hãy lắng tai mà nghe vì ta là kẻ có đạo! Hỡi đứa con của ta, hãy lắng tai mà nghe vì ta là một người già! Hãy coi chừng ta, vì ta nắm trong tay đau khổ của người, và lát nữa ta sẽ rất khủng khiếp. Sự khủng khiếp của luật pháp tạo nên vẻ uy nghiêm của quan toà. Hãy ngẫm đến việc chúng ta cũng run sợ trước mắt ta. Quyền uy của chính ta khiến ta kinh ngạc. Chớ có đẩy ta đến chỗ cùng đường. Ta cảm thấy ta đầy độc ác thiêng liêng của trừng phạt. Hỡi kẻ bất hạnh, đối với công lý cần phải có lòng sợ hãi thực sự và thích đáng, và hãy vâng lời ta. Giờ phút đối chất đã đến, và ngươi phải trả lời. Chớ có ngoan cố chống đối lại. Chớ có đi vào chỗ vô phương cứu gỡ. Hãy nhớ rằng việc kết liễu thuộc quyền của ta. Hỡi các tử thi đã bắt đầu, hãy lắng nghe đây! Nếu người không muốn thở hắt ra tại đây hàng giờ, hàng ngày, hàng tuần, và ngắc ngoải kéo dài một cảnh hấp hối khủng khiếp đói khát, đầy cứt đái, dưới những tảng đá nặng kia, một mình trong hầm ngầm này, không ai dòm ngó, bị lãng quên, bị thủ tiêu, mặc cho chuột nhấm lon[72] ăn, bị những con vật trong tối gặm cắn, trong lúc mọi người đi đi, lại lại, mua mua, bán bán, và xe cộ rầm rập lăn bánh ở đường phố trên đầu ngươi, trừ phi người không thích rên siết luôn mồm trong chốn tận cùng tuyệt vọng này, nghiến răng, khóc lóc, nguyền rủa, không có lấy một thầy thuốc để xoa dịu những vết thương, không có lấy một linh mục để ban cốc rượu thánh cho linh hồn người; ôi trừ phi người không muốn cảm thấy từ từ nẩy nở trên môi người lớp bọt rùng rợn của mộ địa, ôi! ta khẩn nài ngươi, ta van xin ngươi, hãy nghe ta! Ta kêu gọi ngươi hãy tự cứu lấy mình, hãy thương lấy bản thân, hãy làm những điều người ta đòi hỏi ngươi, hãy chịu khuất phục công lý, vâng lời, ngoảnh mặt lại, mở mắt ra, và nói xem ngươi có biết người này không.

Người bị tra tấn không ngoảnh đầu lại, cũng không mở mắt ra.

Lão quận trưởng lần lượt đưa mắt cho viên pháp quan định túc số và cho viên thiết trượng quan.

Viên pháp quan định túc số liền nhấc mũ và bỏ áo khoác của Guynplên ra, nắm lấy vai nó, xoay cho nó nhìn thẳng vào ánh đèn, về phía người bị xích. Khuôn mặt Guynplên nổi bật trong bóng tối, với tất cả đường nét quái đản, hoàn toàn sáng rõ.

Cùng một lúc, viên thiết trượng quan cúi  xuống, nắm lấy thái dương người bị tra tấn giữa hai bàn tay, xoay cái đầu bất động về phía Guynplên, rồi bằng hai ngón tay cái và hai ngón tay trỏ mở banh những mí mắt nhắm nghiền. Đôi mắt hung dữ của người kia hiện ra.

Tội nhân trông thấy Guynplên.

Thế là, tự ngóc đầu lên và mở thật to mí mắt, hắn nhìn Guynplên.

Hắn rung bần bật như một con người có thể rung khi có một quả núi trên ngực, và hét to:

- Chính nó! Phải! Chính nó.

Và khủng khiếp, hắn bật cười ha hả - Chính nó - hắn nhắc lại.

Rồi mặc cho đầu đập xuống đất, hắn nhắm mắt lại.

- Lục sư, viết đi - lão quận trưởng nói.

Guynplên, tuy là rụng rời, cho đến lúc ấy vẫn tỏ thái độ gần như bình tĩnh. Tiếng hét của người bị tra tấn; Chính nó! Làm nó thảng thốt. Tiếng: Lục sự, viết đi làm nó lạnh toát cả.  Hình như nó chợt hiểu ra có một kẻ khốn kiếp đang lôi kéo nó vào số kiếp của hắn, mà nó, Guynplên, nó không thể đoán được tạisao, rằng lời thú nhận không hiểu nổi của người kia đang khép lại trên người nó như chiếc bản lề gông. Nó hình dung người kia với nó bị xích chung vào một đài bêu tù hai cột song song. Guynplên hẫng chân trong cảnh hốt hoảng này, và cố vùng vẫy. Nó ấp úng mấy câu rời rạc, hoang mang cực độ một cách ngây thơ và, run rẩy, hãi hùng, cuống cuồng, kêu lên mấy tiếng nó chợt nghĩ ra cùng tất cả những tiếng lo âu, có vẻ như những viên đạn vô nghĩa.

- Không đúng! Không phải tôi! Tôi không biết người này. Nó không thể biết tôi vì tôi không biết nó. Tối nay tôi sắp có buổi biểu diễn. Người ta muốn gì tôi? Tôi yêu cầu trả tự do lại cho tôi. Như thế cũng vẫn chưa hết, tại sao người ta lại dẫn tôi vào cái hầm này. Thế ra không còn luật pháp gì nữa cả. Thưa quí toà, tôi xin nhắc lại, không phải tôi? Ai muốn nói gì thì nói. Tôi vẫn vô tội. Tôi biết rõ như thế. Tôi muốn ra khỏi đây. Thế này là không đúng. Giữa người này với tôi không có chút liên quan gì hết. Người ta có thể điều tra. Cuộc sống của tôi chẳng phải là một cái gì che dấu cả. Người ta đến bắt tôi như bắt một tên ăn trộm. Tại sao lại thế? Tên kia, tôi có biết bắn là ai đâu? Tôi là một thằng bé lang thang, làm trò trong những ngày phiên và ở các chợ. Tôi là Thằng Cười. Có khá nhiều người đến xem tôi. Chúng tôi đóng tại cánh đồng Tarinhzô. Tôi vẫn sinh sống lương thiện mười lăm năm nay. Tôi hai mươi lăm tuổi. Tôi ở tại quán rượu Tacaxtơ. Tôi tên là Guynplên. Thưa quí tòa, quí toà làm phúc cho tôi ra khỏi đây. Xin đừng lạm dụng cảnh thấp hèn của những kẻ khốn khổ, xin quí toà rủ lòng thương xót một người không hề làm gì sai trái, và không được ai che chở, không được ai bảo vệ. Trước mặt quí toà là một thằng múa rối đáng thương.

- Trước mắt tôi - lão quận trưởng nói - là huân tước Fermên Clăngsacli, nam tước Clăngsacli và Hâncơvin kiêm hầu tước Corlêo ở Xixin, nguyên lão Anh quốc.

Rồi vừa đứng dậy, vừa bỏ chiếc ghế bành của mình cho Guynplên, lão quận trưởng nói tiếp:

- Thưa huân tước, xin ngài hãy hạ cố ngồi xuống.

V.BIỂN CẢ VÀ SỐ PHẬN CÙNG RUNG CHUYỂN TRƯỚC MỘT CƠN GIÓ

1. TÍNH VỮNG CHẮC CỦA NHỮNG VẬT MỎNG MANH

Đôi khi số phận mời ta một cốc rượu nồng. Từ trong trời mây một bàn tay thò ra và đột nhiên đưa cho ta cái cốc đen tối đầy chất men xa lạ.

Guynplên không hiểu.

Nó nhìn lại sau lưng để xem người ta nói với ai.

Âm thanh quá cao không thể lọt vào tai; cảm xúc quá mạnh cũng không lọt vào trí óc. Có một giới hạn để hiểu cũng như để nghe.

Viên thiết trượng quan và viên pháp quan định túc số tiến đến cạnh Guynplên đỡ lấy hai cánh tay; nó cảm thấy người ta đang đặt nó ngồi vào chiếc ghế bành mà lão quận trưởng vừa rời khỏi.

Nó để mặc cho làm, không tìm hiểu xem tại sao lại có thể như thế.

Khi Guynplên ngồi yên vị, viên pháp quan định túc số và viên thiết trượng quan lùi lại mấy bước và đứng thẳng đờ sau chiếc ghế bành.

Lão quận trưởng liền đặt bó hoa hồng xuống nền nhà, đeo cặp kính do viên lục sư tiến đưa, rút ở các tập hồ sơ bề bộn trên bàn ra một tờ giấy da hoen ố, xỉn vàng, mốc xanh, đôi chỗ nham nhở gẫy gập, dường như bị xếp nhỏ quá, và một mặt đầy chữ rồi đứng dưới ánh đèn, đưa tờ giấy lên gần mắt, bằng giọng trang trọng nhất của mình, lão đọc:

"Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần, "Hôm nay, ngày thứ hai mươi chín tháng Giêng năm một nghìn sáu trăm chín mươi của Đức Chúa chúng ta.

"Một đứa bé mười tuổi đã bị bỏ rơi một cách độc ác trên bờ biển hoang vắng xứ Porlan, chủ tâm để cho chết đói, chết rét và chết một mình.

"Đứa bé này lúc lên hai đã bị bán đoạn theo lệnh đức chí tôn hoàng thượng Giắc đệ Nhị.

"Đứa bé này là huân tước Fecmên Clăngsacli, con trai hợp pháp duy nhất của huân tước Linơx Clăngsacli, nam tước Clăngsacli và Hâncơvin, kiêm hầu tước Corlêon nước ý đại lợi, nguyên lão của vương quốc Anh Cát Lợi, đã quá cố, và của Ann Bratxo, vợ Người đã quá cố.

“Đứa bé này là người thừa kế một tài sản và tước vị của bố. Vì vậy nó đã bị bán đoạn, bị cắt xẻo, làm biến dạng và thủ tiêu theo lệnh đức chí tôn hoàng thượng, đứa bé này đã được nuôi dưỡng, huấn luyện, để làm trò xiếc rong ở các chợ và các ngày phiên.

Nó bị bán lúc mới lên hai, sau khi lãnh chúa sinh ra nó qua đời; mười livrơ xteclinh đã được đưa cho đức vua để mua một đứa bé, cũng như để trang trải một khoản chuyển nhượng, miễn giảm và bất khả xâm phạm.

"Huân tước Fecmên Clăngsacli, thuở mới lên hai: đã bị bán cho tôi, ký tên dưới đây, người viết những dòng chữ này, sau đó bị cắt xẻo, và làm biến dạng bởi một người Flamăng xứ Flăngđrơ tên là Acquanon, tên này là người duy nhất nắm được các bí quyết và phương pháp của bác sĩ Conquext.

"Chúng tôi dự định tạo đứa bé thành một cái mặt nạ cười. Masca ridens.

"Với ý đồ đó Acquanon đã thực hành phẫu thuật Bucca fissa usque an aures[73], đặt lên mặt một nụ cười vĩnh cửu.

"Bằng một phương tiện chỉ có Acquanon biết, đứa bé bị ngủ thiếp và mất hết cảm giác trong thời gian tiến hành công việc, chẳng biết gì về ca phẫu thuật nó phải chịu đựng.

Nó không biết nó là huân tước Clăngsacli.

"Nó trả lời khi ai gọi đến tên Guynplên.

"Ấy là do tuổi thơ và trí nhớ kém cỏi của nó khi nó bị bán mua, vì nó vừa mới tròn hai tuổi.

"Acquanon là người duy nhất biết phẫu thuật Bucca fissa, và đứa bé này là con người duy nhất chịu phẫu thuật đó.

"Phẫu thuật ấy duy nhất và đặc biệt ở chỗ, dù sau nhiều năm, đứa bé có trở thành ông già chứkhông còn là một đứa trẻ, và mái tóc đen của nó có trở thành bạc trắng, cũng lập tức được Acquanon nhận ra ngay.

Vào giờ phút chúng tôi viết giấy này, Acquanon, người biết chính xác tất cả những việc này và đã nhúng tay vào đó như thủ phạm, đang bị giam giữ trong những nhà tù của đức điện hạ hoàng thân Orăngiơ, thường gọi là vua Ghiôm đệ Tam. Acquanon bị bắt giữ về tội tòng đảng với cánh Comprasicôx hay Sâylax. Hắn bị giam giữ trong vọng lâu Satam.

Đứa bé này được bán cho chúng tôi, đúng theo lệnh nhà vua, tại Thuỵ Sĩ, cạnh hồ Giơnevơ, giữa Lôzan và Vêvây, ngay trong ngôi nhà mà bố mẹ nó qua đời, và do tên đày tớ cuối cùng của lãnh chúa Linox trao lại; tên đày tớ này ít lâu sau cũng chết như các chủ nó, thành thửsự việc tế nhị và bí mật này giờ đây không một ai trên đời biết dược, từ mỗi Acquanon đang ở trong ngục tốt Satam và chúng tôi, những người sắp từ giã cõi trần.

Chúng tôi, ký tên dưới đây, đã nuôi dưỡng và giữ gìn trong tám năm, để kiếm lợi trong nghề sinh sống của chúng tôi vị lãnh chúa ấu thơ mà chúng tôi mua được của nhà vua.

Ngày hôm nay, rời trốn nước Anh để khỏi phải chia sẻ mạt vận của Acquanon, do rụt rè và sợ hãi, vì những cấm lệnh và tuyên cáo hình luật đã được ban bố tại nghị viện, chúng tôi đã bỏ rơi vào lúc xẩm tối trên bờ biển xứ Porlan thằng bé Guynplên nói trên, vốn là huân tước Fecmên Clăngsacli.

"Thế mà chúng tôi đã tuyên thệ giữ kín với nhà vua, nhưng không phải với Chúa.

"Đêm hôm nay, giữa biển khơi, bị một cơn bão nghiêm khắc bao vây theo ý muốn của Thượng đế, giữa cảnh thất vọng, nguy khốn, quì gọi trước đấng cứu thế cứu vớt được cuộc đời chúng tôi và có lẽ muốn cứu thoát linh hồn chúng tôi, không còn gì để mong đợi ở con người nữa, chỉ thấy hãi hùng trước Chúa, lấy hối hận về những hành động xấu xa tội lỗi của chúng tôi làm mỏ neo và phương tiện cứu rỗi, cam tâm chịu chết, bằng lòng nếu công lý trời cao được thoả mãn, nhẫn nhục, ăn năn và tự đấm ngực, chúng tôi làm bản tự khai này, giao phó nó cho trùng dương hung dữ để biển cả tuân theo ý Chúa sử dụng tuỳ theo lẽ thiện, Và cầu mong Đức Bà Rất Đồng Trinh cứu giúp chúng tôi, A men. Và chúng tôi đã ký”.

Lão quận trưởng ngừng đọc, nói:

- Đây là những chữ ký. Tất cả đều khác nhau về dạng chữ.

Rồi lão lại đọc tiếp:

- Tiến sĩ Gieenađu Giextêmunđê - Axumxiông - Một thánh giá, và bên cạnh: Baebara, Fecmoa, đảo Tirip, trong Ebuyt. - Gayzođora, captan. – Giănggirat, Giắc Catuốczơ tức Nacbone - Luyc - Pie Capgarup, nhà tù Mahông".

Lão quận trưởng lại ngừng và nói:

- Chú thích ghi bởi bàn tay đã viết văn bản và ký chữ thứ nhất.

Rồi lão đọc:

- Trong số ba thuỷ thủ, người chủ đã bị một ngọn sóng bốc mất, chỉ còn lại hai- Và đã ký - Ganđizum - Avê Maria, ăn trộm" Lão quận trưởng, vừa đọc vừa ngắt quãng, tiếp tục.

- Dưới tờ giấy có viết: "Giữa biển khơi, trên thuyền Matutma, chiến thuyền Bixcay của vịnh Patxagiơ".

- Tờ giấy này - lão quận trưởng thêm - là một tờ giấy da của bộ Tư pháp có ảnh chìm của vua Giắc đệ Nhị. Bên lề bản khai và cùng một dạng chữ, có chú thích này:

- Tờ khai này do chúng tôi viết ở mặt sau bản chiếu chỉ do nhà vua cấp cho chúng tôi để miễn trừ trách nhiệm cho chúng tôi về việc mua đứa bé. Xin lật mặt sau tờ giấy sẽ thấy chiếu chỉ.

Lão quận trưởng lật tờ giấy da, giơ nó lên bằng bàn tay phải, phơi ra ánh sáng. Mọi người thấy một trang trắng, nếu từ ngữ trang trắng có thể áp dụng cho một thứ mốc meo như thế, và ở giữa trang có ba chữ viết, hai chữ la-tinh, jussu regis[74] và một chữ ký Jeffrys.

- Jussu regis. Jeffrys - lão quận trưởng nói, chuyển từ giọng trầm sang giọng cao.

Có một người bị một viên ngói từ trên lâu đài mơ mộng rơi xuống đầu, đó là Guynplên.

Nó bắt dầu nói như người ta nói trong trạng thái vô ý thức:

- Glecnađu, phải, ông tiến sĩ. Một ông già buồn bã.Tôi rất sợ ông ta. Gayzơđera, captan, nghĩa là thủ lĩnh.Có mấy người đàn bà, Aunxlông và một bà nữa. Rồi anh Prôvăngxơ. Đó là Capgarup. Hắn vẫn uống bằng cái chai bèn bẹt, trên có một cái tên màu đỏ.

- Nó đây, lão quận trưởng nói.

Và lão đặt lên bàn một vật mà viên lục sư vừa rút ở trong túi công lý ra.

Đó là một bầu rượu có quai bọc vỏ mây. Cái chai rõ ràng đã trải qua nhiều bước giãi dầu. Nó đã phải lênh đênh trên sóng nước. Sò hến, rong rêu bám vào. Nó đã bị đủ loại gỉ của dại dương ăn mòn và khảm khắc. Cổ chai có một vòng nhựa đường, chứng tỏ nó được gắn kín. Nó đã được phá si mở ra. Tuy vậy người ta vẫn nhét lại vào cổ chai một nùi dây nhưng nhựa đường đã dùng làm nút.

- Những người sắp chết - lão quận trưởng nói - đã bỏ bản khai tôi vừa đọc vào chính cái bầu này. Bức thư gửi cho công lý đã được biển cả trung thành giao lại.

Lão quận trưởng cất cao giọng cho thêm oai vệ, và tiếp tục:  - Cũng như ngọn núi Harôv rất tuyệt vời về lúa mì và sản xuất ra thứ bột thơm ngon để làm bánh tiến dâng thánh thượng, biển cả cũng giúp cho Anh quốc tất cả những việc gì nó có thể giúp, và khi một huân tước mất tích, thì biển cả lại tìm ra và đưa huân tước trở về.

Đoạn lão nói tiếp :

- Trên bầu rượu này quả có một cái tên bằng mực đỏ.

Và cất cao giọng lão ngoảnh về phía tội nhân bất động:

- Tên của nhà ngươi - kẻ bất lương hiện diện tại đây. Vì đó là những con đường tăm tối mà chân lý, bị chôn vùi trong vực thẳm những hành động của con người, từ đáy sâu trở về mặt nước.

Lão quận trưởng cầm bầu rượu, chìa ra ánh sáng một phía của vật trôi giạt đã được cọ rửa, hẳn là do yêu cầu của công lý. Trên lớp mây ngang dọc có một sợi guột đỏ, nhiều chỗ đã đen vì nước và thời gian. Sợi guột tuy có gẫy đôi chỗ vẫn mang rõ trên nền mây tám chữ: Acquanon.

Lúc này lão quận trưởng, lại cất cái giọng đặc biệt, rất lạ lùng và có thể gọi là giọng của công lý, ngoảnh về phía tội nhân:

- Acquanon! Khi chiếc bầu rượu này, trên có tên nhà ngươi, được ta, quận trưởng, lần đầu tiên đưa cho ngươi thấy, cho ngươi xem, cho ngươi ngắm, thoạt tiên nhà ngươi đã vui vẻ công nhận đúng là của mình: rồi khi ta đọc cho ngươi nghe tờ giấy gập cất ở trong, thì nhà ngươi không chịu nói gì thêm và, có lẽ hy vọng đứa bé bị bỏ rơi sẽ không được tìm ra, ngươi sẽ thoát khỏi trừng phạt, nhà ngươi đã không chịu trả lời. Sau việc từ chối đó, nhà người bị hình phạt mạnh và cứng, và lần thứ hai được nghe đọc tờ giấy da trong đó có bản khai và lời xưng tội của đồng bọn của ngươi. Vẫn vô ích. Hôm nay, ngày thứ tư là ngày pháp định của việc đối chất, trước mặt con người đã bị bỏ rơi ở Porlan ngày hai mươi chín tháng Giêng năm một nghìn sáu trăm chín mươi, hy vọng ma quái trong ngươi đã tan biến, ngươi đã phá bỏ im lặng và nhận ra nạn nhân của nhà ngươi.

Tên tội nhân mở mắt ra, ngóc đầu dậy và bằng một giọng âm vang quái gở của giờ phút hấp hối, với một vẻ bình thản nào đó lẫn tiếng khò khè, thốt lên một cách bi đát dưới đống đá kia những lời mà cứ một tiếng nó lại phải nâng cái nắp quan tài đặt trên người lên: nó bắt đầu nói:

- Tôi đã thề giữ bí mật, tôi đã cố hết sức giữ trọn lời thề. Những kẻ tối tăm là những con người trung tín, và dưới địa ngục vẫn có một sự lương thiện. Hôm nay im lặng đã trở thành vô dụng. Đành vậy. Cho nên tôi đành phải nói. Vâng, đúng. Chính nó. Hai chúng tôi đã nhào nặn ra nó; nhà vua, bằng ý muốn của nhà vua, tôi, bằng nghệ thuật của tôi.

Và nhìn Guynplên, nó nói thêm:

- Bây giờ mày hãy cười lên, mãi mãi.

Và chính bản thân hắn cũng cất tiếng cười.

Lần cười thứ hai này, còn hung ác hơn lần thứ nhất, có thể xem như là một tiếng thổn thức.

Tiếng cười vừa dứt thì người kia nằm vật xuống. Mí mắt nhắm lại.

Lão quận trưởng đã nhường lời cho tội nhân, tiếp tục:

- Mọi việc đều đã được ghi chép.

Để cho viên lục sư có đủ thời giờ viết xong, lão nói:

- Acquanon, theo đúng luật pháp, sau khi đối chất có kết quả, sau khi đọc lần thứ ba lời khai của đồng bọn nhà ngươi, từ nay được sự nhìn nhận và xưng tội của nhà ngươi xác nhận, và sau nhiều lần thú nhận của nhà ngươi, ngươi sẽ được tháo bỏ xiềng xích và trả về theo ý muốn nhà vua, để được treo cổ như một tên ăn trộm

- Ăn trộm - viên đình lại đội mũ nói - Nghĩa là mua bán trẻ con. Luật Vizigôt, quyển bảy, mục ba, đoạn Usurpaverit; và luật xalic, mục bốn mươi mốt, đoạn hai; và luật frizông, mục hai mươi mốt, De Plagio. Và Alêcxăng Nocam nói:

- Qui pueros vendis, plagiarius est tibi nomen[75].

Lão quận trưởng đặt tờ giấy da xuống bàn, bỏ kính, cầm lại bó hoa hồng, và nói:

- Chấm dứt hình phạt mạnh và cứng, Acquanon, hãy cảm tạ nữ hoàng đi.

Viên pháp định túc số ra hiệu cho người mặc áo da.

Người này, theo các hiến chương cũ, là tên giúp việc đao phủ, "tên tiểu đồng giảo đài" liền đến bên tội nhân, bỏ từng tảng đá một trên bụng hắn ra, nhấc tấm sắt lên, để lộ những xương sườn bị biến dạng của tên khốn khổ, rồi cởi bỏ cổ tay và mắt cá hắn ra khỏi bốn cái xiềng xích hắn vào các cột trụ.

Tội nhân, sau khi được bỏ đá và xích, vẫn nằm bẹp trên đất, mắt nhắm nghiền, tay chân giang thẳng như một người bị hình phạt đóng lên thập tự đã được nhổ

- Acquanon - Lão quận trưởng nói - đứng dậy.

Tội nhân không nhúc nhích.

Tên tiểu đồng giảo đài nhấc một bàn tay của hắn lên rồi buông ra; bàn tay lại rơi xuống. Bàn tay kia được nhấc lên cũng lại rơi xuống. Tên giúp việc đao phủ nắm một chân, rồi chân nữa, các gót chân lại rơi đập xuống đất. Các ngón tay vẫn cứng đờ, các ngón chân vẫn bất động. Bàn chân của một thân hình nằm sóng sượt có một cái gì thật rùng rợn.

Lão thầy thuốc đến gần, móc trong túi một mảnh gương con bằng thép, giơ nó ra trước cái mồm há hốc của Acquanon; rồi dùng ngón tay vạch mí mắt hắn ra. Mí mắt không khép lại. Hai con ngươi mờ đục vẫn nằm im.

Lão thầy thuốc thẳng người lên và nói:

- Hắn chết rồi.

Và lão thêm:

- Hắn chết rồi.

Và lão thêm:

- Hắn đã cười, tiếng cười đã giết chết hắn.

- Không quan trọng - lão quận trưởng nói - Sau việc thú nhận thì sống hay chết chỉ là hình thức.

Rồi với bó hoa hồng, vừa trỏ Acquanon, lão quận trưởng vừa hạ lệnh cho viên thiết trượng quan:

- Bộ xương cần được đưa khỏi đây trong đêm nay.

Thiết trượng quan gật đầu tán thành.

Và lão quận trưởng tiếp thêm:

- Nghĩa địa nhà tù ở ngay trước mặt.

Thiết trượng quan lại gật đầu tán thành.

Viên lục sư cắm cúi viết Lão quận trưởng tay trái cầm bó hoa, tay phải cầm chiếc đũa trắng, đứng thẳng người trước mặt Guynplên vẫn ngồi từ nãy, cúi chào thật thấp rồi, bằng một cử chỉ long trọng khác, ngửa đầu ra sau và nhìn thẳng Guynplên, nói:

- Với ngài hiện diện tại đây, chúng tôi là Philíp Đăngzin Păcxông, hiệp sĩ, quận trưởng lãnh địa Xorê, có thêm Ôbri Đôminich, kỵ sĩ, thư ký và lục sư của chúng tôi, và các viên chức thường lệ, có đầy đủ lệnh trực tiếp và đặc biệt của nữ hoàng, chiểu theo chứng thư uỷ nhiệm, quyền hạn và nhiệm vụ của chức trách chúng tôi, và với giấy phép của huân tước tư pháp đại thần Anh quốc, có đầy đủ biên bản và chứng thư, chiểu theo các giấy tờ do bộ hải quân chuyển đến, sau khi xác minh những chứng thư và chữ ký, sau khi đọc và nghe các lời khai, sau khi cho đối chất, tất cả mọi việc xác minh và điều tra pháp định đã được bổ sung, không còn gì nữa, và được tiến hành một cách đúng đắn, mỹ mãn, chúng tôi xin kính báo với ngài và xin tuyên bố, phòng khi pháp luật cần đến, rằng ngài là Fecmên Clăngsacli, nam tước Clăngsacli và Hâncơ vin, kiêm hầu tước Corlêon ở Xixin, nguyên lão Anh quốc, và xin cầu mong Chúa bảo vệ huân tước.

Nói xong lão cúi chào.

Viên đình lại luật sư, lão bác sĩ, viên pháp quan định túc số, viên thiết trượng quan, viên lục sư, tất cả những người có mặt, trừ đao phủ, đều chào theo, cung kính hơn, và cúi thấp sát tận đất trước mặt Guynplên.

-Thế này thì - Guynplên nói thật to- phải thức tỉnh ta.

Và nó đứng thẳng lên, mặt tái nhợt.

- Đúng là tôi thức tỉnh ngài - một giọng nói bỗng vang lên. một giọng nói từ nãy đến giờ chưa ai được nghe.

Từ sau một cột trụ bước ra một người. Từ lúc tấm sắt nâng lên để cho đoàn cảnh sát đi qua, không có ai bước vào hầm, nên rõ ràng là người kia đã đứng trong bóng tối trước khi Guynplên vào, vai trò hợp pháp của y là quan sát, và y có sứ mệnh cùng nhiệm vụ phải đứng đó. Y to béo, phì nộn, đội tóc giả theo kiểu triều đình, mặc áo khoác đi đường, có vẻ già hơn là trẻ, và rất chững chạc.

Y cúi chào Guynplên một cách cung kính, thoải mái, với cái vẻ thanh nhã của một kẻ gia nhân của quí tộc, và không vụng về ngượng ngập như pháp quan.

- Vâng - y nói - tôi đến thức tỉnh ngài dậy. Từ hai mươi lăm năm nay, ngài vẫn ngủ. Ngài vẫn sống trong một giấc mộng và bây giờ phải xua tan nó đi. Ngài tưởng ngài là Guynplên, nhưng ngài chính là Clăngsacli. Ngài tưởng ngài thuộc tầng lớp dân thường, nhưng ngài thuộc tầng lớp lãnh chúa. Ngài tưởng ngài đứng ở hàng cuối cùng, nhưng ngài đứng ở hàng thứ nhất. Ngài tưởng ngài là một tên múa rối, nhưng ngài là nguyên lão nghị viện. Ngài tưởng ngài nghèo khổ, nhưng ngài rất giàu sang phú quí. Ngài tưởng ngài nhỏ mọn, nhưng ngài hết sức vĩ đại. Xin ngài hãy tỉnh dậy, bẩm ngài huân tước của tôi

Bằng một giọng hết sức nhỏ nhẹ, chứa đựng đôi chút hãi hùng. Guynplên thì thào:

- Thế nghĩa là thế nào?

- Bẩm huân tước, như thế có nghĩa - con người to béo kia đáp - rằng tôi tên là Backinphêđrô, rằng tôi là quan chức bộ hải quân, rằng vật trôi dạt này, cái bầu rượu của Acquanon, đã tìm được thấy ở bờ biển, rằng nó được đưa tới cho tôi để tôi phá bỏ nút si, theo qui định và đặc quyền của chức vụ tôi, rằng tôi đã mở nó ra trước mặt hai pháp quan đã tuyên thệ về nhiệm vụ Jetxân[76], cả hai người này đều có chân trong nghị viện là Uynliam Blatuốt ở thành phố Bath và Tomax Giecvoa ở Xaohamtơn, rằng hai vị đã tuyên thệ đó đã tả và chứng thực nội dung bầu rượu, đã ký vào biên bản khai khán cùng với tôi, rằng tôi đã báo cáo lên nữ hoàng, rằng theo lệnh nữ hoàng tất cả mọi thủ tục hợp pháp cần thiết đã được tiến hành kín đáo đúng theo đòi hỏi của một vấn đề tế nhị nhường này, rằng việc cuối cùng, việc đối chất, vừa mới được thực hiện xong; như thế nghĩa là ngài có một triệu tiền niên thu; như thế có nghĩa ngài là huân tước của Vương quốc thống nhất Anh Cát Lợi, là nhà lập pháp và quan toà, chánh án tối cao, nhà lập pháp lớn nhất, khoác áo đỏ, quàng lông chồn trắng, ngang hàng các hoàng thân, bằng vai các hoàng đế, rằng trên đầu ngài đội vành miện nguyên lão, rằng ngài sẽ thành hôn với một nữ công tước, con gái một nhà vua.

Trước sự thay đổi hình dạng, giáng xuống đầu nó như sét đánh, Guynplên choáng váng ngất lịm đi.

2. VẬT GÌ TRÔI DẠT CŨNG TẤP VÀO BỜ

Toàn bộ câu chuyện ly kỳ này đều do một người lính bắt được một cái chai trên bãi biển.

Chúng tôi xin kể rõ sự việc.

Việc gì cũng đều liên quan đến cả một guồng máy.

Một hôm, một trong bốn pháo thủ, thuộc đơn vị đóng ở lâu đài Canse, nhặt được trên bãi cát lúc thuỷ triều rút một cái bầu rượu bằng mâydo sóng biển tấp vào. Bầu rượu mốc meo có nút tẩm nhựa đậy kín. Người lính đã đưa cái vật trôi dạt ấy đến cho đại tá lâu đài và đại tá đã chuyển nó đến thuỷ sư đô đốc Anh quốc. Thuỷ sư đô đốc tức là bộ hải quân; đối với những vật trôi dạt bộ hải quân đây là Backinphêđrô. Backinphêđrô đã mở bỏ nút bầu ra, và đã đệ trình bầu rượu lên nữ hoàng. Nữ hoàng lập tức được biết chuyện. Hai cố vấn tôn kính được thông báo và hỏi ý kiến, huân tước tư pháp vốn là người theo luật pháp, "bảo vệ lương tâm đức vua nước Anh" và huân tước thống chế chuyên "thẩm xét huy chương và nguồn gốc giới quí tộc". Tômax Haova, công tước Norphon, nguyên lão công giáo, vốn là thế tập đại thống chế Anh quốc, đã nói qua người đại diện bá tước - thống chế của mình là Hăngri Haova, bá tước Blinđơn, rằng mình sẽ đồng ýkiến với tư pháp đại thần, còn huân tước tư pháp đại thần thì chính là Uynliam Caopơ, nhà phẫu thuật bình luận ở Bitlu có xuất bản ở Anh cuốn Khái luận về cơ gần như cùng lúc với Êchiên Abây xuất bản ở Pháp cuốn Lịch sử xương; một nhà phẫu thuật khác hẳn một huân tước. Huân tước Uynlliam Caopơ nổi tiếng nhân vụ Tanhô Jevetơn tử tước Lôngơvin, vì đã đưa ra câu châm ngôn "vì lòng tôn kính hiến pháp nước Anh, khôi phục một nguyên lão còn quan trọng hơn khôi phục một nhà vua". Bầu rượu tìm thấy ở Canse đã thức tỉnh cao độ sự chú ý của ông ta. Tác giả một cách ngôn thường rất thích những cơ hội để áp dụng nó. Đây là trường hợp khôi phục một nguyên lão. Công việc tìm kiếm được tiến hành ngay. Guynplên có bảng quảng cáo ở ngoài đường, rất dễ tìm. Acquanon cũng thế. Nó chưa chết.

Nhà tù làm ruỗng nát con người, nhưng vẫn bảo tồn nó, nếu giam giữ có nghĩa là bảo tồn. Những kẻ được giao phó cho các nhà ngục rất ít khi bị quấy rầy. Người ta không mấy khi thay đổi hầm tối nhiều hơn thay đổi quan tài. Acquanon vẫn nằm trong vọng lâu Satam. Chỉ có việc với tay chuyển nó từ Satam đến Luân đôn. Đồng thời tư hỏi bên Thụy sĩ. Mọi sự việc đều được xác nhận. Người ta lục ở các phòng lục sự địa phương ở Vêvây, ở Lôzan, thấy giá thú của huân tước Linơx bị lưu đày, giấy khai sinh đứa trẻ, những giấy khai tử của bố mẹ, và "để sử dụng khi cần thiết người ta xin hai bản, có chứng chỉ hợp lệ". Tất cả những việc trên đều được tiến hành hết sức bí mật với tính chất thượng khẩn như thời ấy vẫn nói, và với "sự im lặng của chuột chũi" do Bêcon đề xuất và thực hành, sau đó được Blăcxton tôn lên thành luật lệ, đối với những việc của toà tư pháp đại thần và của nhà nước, và đối với những chuyện gọi là thuộc thượng viện.

Chữ Jussu regis và chữ ký Jeffrys được xác minh. Đối với người nào đã học bệnh lý những trường hợp trái chứng gọi là "tuỳ hứng", chữ Jussu regis này rất đơn giản. Tại sao Giắc đệ Nhị lẽ ra phải giấu kín những việc này, lại còn để những bút tích có nguy cơ phá hoại cả sự thành công? Tính vô liêm sỉ. Tính bất chấp kiêu căng. Ồ! các bạn tưởng chỉ có gái đĩ mới không biết xấu hổ! Quốc sự cũng thế thôi. Et se cupit ante videri[77].  Phạm một tội ác và tự hào về nó, đó là tất cả câu chuyện. Nhà vua cũng tự xâm mình như người tù chung thân. Thoát khỏi cảnh sát và lịch sử, là điều có lợi, nhưng người ta lại bực tức về chuyện ấy, người ta muốn được nổi tiếng và được thừa nhận kia. Anh cứ nhìn cánh tay tôi đây, hãy để ý cái hình vẽ này, một đền thờ yêu đương và một trái tim rực lửa bị một mũi tên xuyên qua, chính tôi là Laxone[78]. Jussu regis. Chính ta là Giắc đệ Nhị. Người ta làm một việc xấu xa, người ta để dấu ấn lên trên. Tự bổ sung bằng việc vô liêm sỉ, tự mình tố cáo mình, làm cho hành động xấu xa của mình không mai một, đó là tính ngông cuồng láo xược của kẻ bất lương. Crixtin bắt Mônanđesi, buộc y thú tội, rồi cho người sát hại, và nói: Ta là nữ hoàng Thụy sĩ ở tại hoàng cung nước Pháp. Có kẻ bạo chúa lẩn tránh như Tiberơ thì cũng có kẻ bạo chúa khoe khoang như Philip đệ Nhị. Một bên độc hơn bọ cạp, một bên ác hơn hổ báo. Giắc đệ Nhị thuộc loại sau. Người ta được biết, ông ta có gương mặt cởi mở, vui tính, đấy là điểm khác với Philip đệ Nhị. Philip nom dễ sợ, còn Giắc lại vui tính. Nhưng cả hai đều hung ác. Giắc đệ Nhị là con hổ hiền lành. Cũng như Philip đệ Nhị, ông ta tỏ ra bình thản về tội ác của mình, ông ta là con quái vật do ân phước của Chúa. Vậy thì ông ta chẳng việc gì phải giấu giếm, phải làm cho giảm nhẹ, và những vụ giết người của ông ta là thể theo đạo trời. Kể ra ông ta cũng thích để lại nhưng hồ sơ kiểu ximăngca[79] của mình, với tất cả các vụ giết người của mình, được ghi số, đề ngày, sắp xếp dán nhãn hiệu và để thứ tự, mỗi vụ trong một ô riêng, y như cá trong phòng thí nghiệm của một dược sĩ. Ký tên vào tội ác của mình, thế mới là vương giả.

Mỗi hành vi phạm xong là một hối phiếu cho phát ngân viên không tên. Hối phiếu này vừa đến kỳ hạn với tên ký mặt sau rất buồn thảm Jussu regis.

Nữ hoàng Ann, một mặt mũi không phải là phụ nữ, vì bà có tài giữ kín điều bí mật, đã đòi hỏi huân tước tư pháp đại thần một báo cáo mật về vấn đề quan trọng này: loại gọi là "báo cáo rỉ tai vua". Những báo cáo kiểu này vẫn thường được dùng dưới các thời quân chủ, ở Viên, có cố vấn rỉ tai, nhân vật của cung đình. Đấy là một tước vị cổ xưa, thuộc triều Corôlanhgiêng, tước auricularius theo các hiến chương cũ Palatina. Nhân vật nói thầm với hoàng đế.

Uynliam, nam tước Caopơ, tư pháp đại thần Anh quốc được nữ hoàng tin cậy, vì ông ta cũng cận thị như nữ hoàng và còn hơn nữ hoàng nữa, đã thảo ra một bản tường trình mở đầu như sau: "Có hai con chim dưới quyền Xalômông, một con rẽ quạt, tức con huydbyt, nói được mọi thứ tiếng, và một con chim ưng, con ximuôcganka, với đôi cánh bóng có thể che kín cả một lữ đoàn hai vạn người. Dưới một hình thức khác, thượng đế cũng thế" vân vân. Quan tư pháp đại thần xác nhận có một người thừa kế nguyên lão bị bắt cóc, bị cắt xẻo rồi lại được tìm thấy. Ông ta không chút chê trách Giắc đệ Nhị, nói cho cùng, đó là bố đẻ của nữ hoàng. Ông ta còn viện ra nhiều lý lẽ. Thứ nhất: có những châm ngôn quân chủ ngày xưa Esenioratu erip- imus In returagio cadat[80], Thứ hai: quyền nhà vua được cắt xẻo vẫn có từ lâu đời. Điều này Semboclên đã công nhận. Corpora et bona nostrorum subjectorum nostrarsunt[81].Giắc đệ Nhất đã đọc thuộc lòng một cách tự hào và uyên bác, ông ta đã sai móc mắt một số vương công tước vì lợi ích quốc gia, một số hoàng thân quá gần gũi ngai vàng, đã bị bóp chết giữa hai tấm đệm, xem như bị trúng phong. Vậy mà, bóp chết, còn hơn cắt xẻo. Vua Tuynix đã móc mắt cha đẻ là Muylây Atxem, nhưng các sứ thần của cha không phải vì thế mà không được đón tiếp. Như vậy là nhà vua có thể sai cắt bỏ tay chân cũng như tước bỏ một địa vị, vân vân, việc ấy rất hợp pháp, v.v... Nhưng một điều hợp pháp này không huỷ bỏ một điều hợp pháp khác. "Nếu một người bị dìm mà nổi lên mặt nước và chưa chết, thì đó chính là Chúa đã sửa sai việc làm của vua. Nếu lại tìm được ngươi thừa kế, thì phải trả vành miện lại cho người đó. Đúng như trường hợp huân tước Anla, vua xứ Northâmbrơ, bản thân cũng đã từng làm nghề múa rối. Vậy cũng phải xử lý đúng như thế với Guynplên, cũng là vua, nghĩa là huân tước. Tính thấp hèn của nghề nghiệp, phải trải qua và chịu đựng bởi lẽ không thể tránh được, không làm phai mờ huy hiệu; chứng cớ vua Apđôlômin đã có lúc làm vườn; chứng cớ Giôdep là thánh mà có lúc đã đi chăn cừu". Tóm lại, ngài tư pháp đại thần thông thái kết luận phải phục hồi toàn bộ tài sản và tước vị cho Fecmên, huân tước Clăngsacli, bị gọi nhầm là Guynplên. "với điều kiện duy nhất, phải được đối chất với tên bất lương Acquanon và phải được tên này công nhận". Thế là với những lý lẽ đó, ngài tư pháp đại thần, người bảo vệ lương tâm nhà vua theo hiến pháp, làm yên ổn lương tâm nữ hoàng.

Ngài huân tước tư pháp đại thần còn nhắc nhỏ, ở khoản tái bút, trường hợp Acquanon không chịu trả lời thì nó phải chịu " hình phạt mạnh và cứng " trường hợp này muốn đạt thời hạn là frodmortell do hiến chương vua Ađenxtan qui định, việc đối chất phải tiến hành vào ngày thứ tư; như thế tất nhiên có hơi bất tiện, vì nếu tội nhân chết vào ngày thứ hai hoặc thứ ba thì việc đối chất gặp khó khăn; nhưng pháp luật cứ phải được tuân hành. Bất tiện của pháp luật thuộc về pháp luật.

Vả lại trong tư tưởng của ngài huân tước tư pháp đại thần, việc Acquanon nhận diện Guynplên chẳng có gì phải nghi ngại.

Nữ hoàng Anh, được báo cáo đầy đủ về hình dạng dị kỳ của Guynplên, không muốn làm hại em gái mình, người đã được thừa hưởng thay những tài sản của Clăngsacli, sung sướng quyết định nữ công tước Giôzian sẽ là vợ của vị tân huân tước, tức Guynplên.

Vả lại việc phục hồi huân tước Fecmên Clăngsaeli là một trường hợp rất đơn giản, vì người thừa kế vừa hợp pháp vừa trực tiếp. Đối với những quan hệ cha con còn ngờ vực, hoặc đối với những tước thế khanh "in abeyance"[82] bị thân thuộc bàng hệ khiếu nại, thì phải hỏi ý kiến của nguyên lão nghị viện. Không cần truy tầm xa, xin kể việc nghị viện được hỏi ý kiến năm 1782 về nam tước Xitnây do Elizabet Peri khiếu nại; năm 1798 về nam tước Cômông do Tômax Xtêpântơn khiếu nại; năm 1803 về nam tước Săngđô do cha Timoen Brigiơ khiếu nại; năm 1831 về nguyên lão Banbiun do trung tướng Noulix khiếu nại, vân vân; nhưng ở đây không có gì tương tự thế cả. Không có sự tranh chấp nào hết; mọi việc hợp pháp hiển nhiên; một quyền lợi rõ ràng và chắc chắn; chẳng có lý do gì phải đệ trình nghị viện; nữ hoàng, được huân tước tư pháp đại thần làm cố vấn, có đầy đủ tư cách để công nhận và chấp thuận vị tân huân tước.

Baakinphêđrô chỉ đạo hết mọi công việc.

Nhờ hắn ta, công việc vẫn ngấm ngầm bí mật, vẫn kín như bưng, đến nỗi cả Giôzian, cả Đêvit, đều không hay biết gì đến sự việc kỳ diệu đang đục khoét dưới chân họ. Giôzian rất kiêu ngạo, vốn khó tới gần, nên cũng dễ bao vây. Cô nàng tự cô lập mình. Còn huân tước Đêvit thì cứ đẩy anh ta ra biển, trên bờ biển Flăngđrơ là xong.

Anh ta sắp mất hết quyền lợi huân tước mà không ngờ đến, ở đây chúng ta cần chú ý đến một chi tiết. Cách mười dặm từ căn cứ hải quân do Đêvit chỉ huy, một đại tá tên là Halibơctơn bỗng tấn công hạm đội Pháp. Bá tước Pembrôc chủ tịch hội đồng, liền đề nghị phong đại tá Halibơctơn lên thiếu tướng hải quân. Nữ hoàng Anh gạch tên Halibơctơn và đặt Đêvit vào chỗ ông ta, để lúc biết mình không còn là nguyên lão, huân tước Đêvit ít ra cũng còn tự an ủi với chức thiếu tướng hải quân.

Ann tự cảm thấy hài lòng. Một anh chồng ghê tởm cho cô em gái, một cấp bậc xứng đáng cho huân tước Đêvit. Vừa hiểm độc vừa nhân đức.

Nữ hoàng sắp được thưởng thức vở hài kịch rồi. Vả lại nữ hoàng tự nhủ như thế là công bằng, rằng mình sửa sai một việc lạm quyền của tiên hoàng tôn kính, rằng mình hành động theo tư cách một nữ hoàng vĩ đại, rằng mình tuân theo ý Chúa mà che chở kẻ vô tội, rằng thượng đế trong những con đường thiêng liêng và huyền bí của Người, vân vân,  thích thú biết bao khi làm được một điều chính đáng, và điều ấy lại làm cho người mình không yêu quí phải khó chịu.

Hơn nữa nữ hoàng chỉ cần biết rằng anh chồng tương lai của cô em mình dị hình cũng đủ lắm rồi. Guynplên dị dạng bằng cách nào, như thế nào? Backinphêđrô thấy không cần phải cho nữ hoàng biết điều đó, và Ann cũng chẳng thèm hỏi đến những điều đó. Thái độ khinh miệt thâm thúy của bậc vương giả. Với lại có gì quan trọng? Nghị viện nguyên lão chỉ có thể biết ơn thôi. Huân tước tư pháp đại thần, bậc tiên tri, đã có ý kiến. Khôi phục một nguyên lão là khôi phục toàn bộ uy quyền nguyên lão. Nhân cơ hội này. nữ hoàng tỏ ra là người bảo vệ phúc hậu và cung kính đối với đặc quyền của tầng lớp nguyên lão. Dù bộ mặt của vị tân huân tước có thế nào đi nữa. thì một bộ mặt cũng không thể bắt bẻ một đạo luật. Không nhiều thì ít, Ann đều có nghĩ đến tất cả những điều ấy và cứ việc giản đơn thẳng bước tới đích của mình, tới cái đích cao cả của đàn bà và của vua chúa, làm cho mình được thoả mãn.

Nữ hoàng lúc này đang ở Uynxơ, nhờ vậy có một quãng cách giữa những âm mưu của triều đình với công chúng.

Chỉ những người tuyệt đối cần thiết mới được biết điều bí mật sắp xảy ra.

Còn Backinphêđrô thì như mở cờ trong bụng nên mặt mũi hắn lại thêm một nét rùng rợn.

Trên đời này điều có thể trở thành gớm guốc nhất, chính là sự vui mừng.

Hắn được cái thú làm kẻ đầu tiên được thưởng thức bầu rượu của Acquanon. Hắn có vẻ ít ngạc nhiên thôi vì kinh ngạc chỉ thuộc về một đầu óc nhỏ mọn. Vả lại như vậy mới xứng đáng với hắn, với kẻ từ bao lâu vẫn đứng canh trước cái cổng tình cờ, có phải không? Hắn đã mất công chờ đợi, thì phải có một cái gì đến chứ.

Điều nil mirari[83] đó nằm trong thái độ của hắn. Phải nói rằng trong thâm tâm hắn cũng kinh ngạc. Giá có ai giật được cái mặt nạ hắn vẫn đeo trên lương tâm, trước Chúa nữa, hắn phải thấy điều này; đúng vào lúc ấy, Backinphêđrô đang bắt đầu tin tưởng rằng hắn, kẻ thù thân cận và nhỏ bé nhất, dứt khoátkhông thể nào phá vỡ được cuộc đời cao sang của nữ công tước Giôzian. Do đó mà trong thâm tâm hắn hằn học điên cuồng. Hắn đã đến cái điểm cùng cực gọi là thất vọng. Càng thất vọng hắn càng hung dữ. Cắn răng mà chịu, đó là thành ngữ bi đát mà rất thật! Một tên ác gặm cắn sự bất lực. Có lẽ Backinphêđrô đang ở vào lúc từ bỏ, chứ không phải là thôi mong muốn điều bất hạnh cho Giôzian, mà thôi làm hại cô ả; không phải thôi điên cuồng, mà là thôi cắn xé. Tuy nhiên, cũng có một thất bại đau đớn biết mấy khi phải bỏ cuộc! Từ nay giữ mối hận thù trong bao, như một con dao găm trong viện bảo tàng! Nhục nhã cay đắng thay.

Bỗng thình lình vừa đúng lúc - trò tình cờ vô tận phổ biến vốn ưa thích những chuyện trùng hợp như vậy - cái bầu rượu của Acquanon, từ ngọn sóng này tới ngọn sóng khác, lọt vào tay hắn. Trong vô định vẫn có một cái gì thuần thục dường như tuân theo lệnh của cái ác.

Backinphêdrô có thêm hai nhân chứng bất kỳ tham dự, những người đã tuyên thệ trung lập của bộ hải quân, mở bầu rượu, thấy tờ giấy da, trải rộng nó ra, đọc - Ta hãy hình dung vẻ hớn hở quái gở đó!

Kể cũng kỳ lạ khi nghĩ rằng biển cả, gió trời, không gian, sóng nước, ba đào, bão táp, trăng trong, gió mát, lại có thể bỏ nhiều công sức để làm nên hạnh phúc của một tên gian hung. Sự đồng loã này đã kéo dài mười lăm năm trường. Một công trình bí mật. Suốt mười lăm năm ấy, không một phút nào biển cả ngừng tay, không tham dự vào đấy. Sóng nước đã chuyển cho nhau cái chai bềnh bồng, đá ngầm đã tránh né sức va chạm của thuỷ tinh, không một vết rạn nứt nào làm nứt nẻ bầu rượu, không một cọ sát nào làm hư hại nút chai, rong biển không hề làm mục nát lớp mây, sò hến không hề gặm mất chữ Acquanon, nước không thấm vào trong vật trôi nổi, meo mốc không làm tan mảnh giấy, ẩm ướt không xoá nhoà chữ viết, biết bao công sức chăm lo của vực thẳm! Và bằng cách đó, cái vật mà Giecnacdu đã vứt vào bóng tối, bóng tối đã giao lại cho Backinphêđrô, và bức thư gửi cho Chúa đã rơi vào tay quỉ dữ. Trong trời biển mênh mông có sự lạm dụng lòng tin, và sự trớ trêu tối tăm lẫn trong mọi vật đã khuôn xếp để làm cho chiến thắng trung thực này thêm phức tạp, thằng bé Guynplên mất đi trở thành huân tước Clăngsacli, từ một chiến thắng độc địa, nó đã độc ác biến thành một nghĩa cử, và đã đem công lý phục vụ cho hành vi bất chính. Rút nạn nhân khỏi tay Giắc đệ Nhị là đem một miếng mồi đến cho Backinphêđrô. Nâng Guynplên dậy và bắt nộp cho Giôzian, Backinphêđrô đang thành công, và chính vì mục đích ấy mà trong bao năm sóng nước, ba đào, gió cả, đã dồi dập, laylắc, đẩy tới, vắt lui, dằnvặt và nâng niu cái bong bóng thuỷ tinh chứa đựng biết bao cảnh đời phức tạp! Chính vì mục đích ấy mà có sự đồng minh thân thiết giữa gió cả, nước triều và bão táp! Biết bao lo lắng của kỳ diệu vì một tên khốn kiếp ! Người cộng tác vô biên của một con giun! Vận mệnh có những ý muốn tối tăm như vậy đấy.

Trong lòng Backinphêđrô có một tia chớp kiêu ngạo của khổng lồ. Hắn thầm nghĩ tất cả những việc ấy đều được thực hiên để giúp hắn. Hắn tự cảm thấy hắn vừa là trung tâm vừa là mục đích.

Hắn đã lầm. Chúng ta hãy thanh minh cho ngẫu nhiên. Đấy không phải là ý nghĩ thật sự trong sự việc phi thường đã làm lợi cho lòng hận thù của Backinphêđrô. Đại dương nhận làm bố mẹ một đứa trẻ mồ côi, giáng bão táp xuống bọn đao phủ, bót nát chiếc thuyền đã hắt hủi em bé, chôn vùi những bàn tay chắp lại của những kẻ đắm thuyền: từ chối tất cả những lời van xin và chỉ nhận của chúng lòng ăn năn hối hận; bão táp nhận cất giữ một đồ vật từ tay thần chết, chiếc thuyền vững chắc trên đó tội ác được thay thế bằng cái bình dễ vỡ chứa đựng sự đền bù; biển cả thay đổi vai trò, như một con báo đổi làm bảo mẫu, lo ru không phải đứa trẻ mà lo ru số mệnh của nó, trong khi nó cứ lớn lên không hay biết gì về mọi việc mà vực thẳm đang làm cho nó, bao nhiêu sóng cả, nơi bầu rượu được vứt vào, lo canh giữ cho cái quá khứ mang sẵn một tương lai; trận cuồng phong thổi vào nó một cách khoan hồng; những luồng nước điều khiển vật trôi giạt mỏng manh qua hành trình khôn lường của nước; những dè dặt của rong rêu, của sóng biển: của vách đá; toàn bộ lớp bọt mênh mông của vực thẳm nhận bảo vệ một kẻ vô tội; làn nước thản nhiên như một lương tâm; cảnh hỗn mang khôi phục trật tự; thế giới u minh trở thành ánh sáng; tất cả bóng tối dùng cho sự xuất hiện của tinh cầu đó, chân lý; người bị trục xuất được an ủi trong mồ, kẻ thừa tự được trả lại tài sản, tội ác nhà vua được xoá bỏ, dự tính của thần thánh được tuân theo, kẻ bé nhỏ, yếu hèn bị bỏ rơi được vô biên nâng đỡ; đó là tất cả những điều lẽ ra Backinphêđrô có thể thấy được trong sự kiện thành công của hắn, đó là những điều hắn không thấy được. Hắn không hề cho rằng mọi việc đều vì Guynplên, hắn tự nhủ mọi việc đều vì Backinphêđrô, rằng hắn xứng đáng được như vậy. Bọn ác quỉ đều thế cả.

Vả lại chỉ ai ít hiểu về tính hiền hoà vô bờ bến của biển cả mới ngạc nhiên về một vật mỏng manh lại có thể bồng bềnh trôi giạt mười lăm năm không hỏng. Mười lăm năm có là bao. Ngày 4 tháng 10 năm 1867 trong Morbihăng, giữa đảo Groa, mũi bán đảo Gavrơ và núi Lang thang ngư dân Por-luy đã bắt được một cái bình La-Mã từ thế kỷ thứ ba, mặt ngoài loang lổ vì nước biển ăn. Chiếc bình cổ đó đã bềnh bồng một nghìn năm trăm năm.

Dù Backinphêđrô có muốn làm ra vẻ lạnh lùng đến mấy thì sự kinh ngạc của hắn cũng không kém nỗi vui mừng của hắn.

Mọi việc cứ tự dẫn đến; mọi việc đều như được chuẩn bị sẵn. Các chi tiết trong câu chuyện ly kỳ sắp thoả mãn hận thù của hắn đều rải rác trước tầm tay. Chỉ việc xích gần và chắp nối chúng lại. Một việc lắp ráp thú vị để tiến hành một việc chạm trổ tinh vi.

Guynplên: Cái tên này thì hắn biết, Masca ridens[84]. Cũng như mọi người, hắn dã có dịp đi xem Thằng Cười. Hắn đã đọc cái bảng quảng cáo treo ở quán Tacaxtơ như người ta vẫn đọc một tờ quảng cáo rạp hát hấp dẫn quần chúng; hắn đã để ý, hắn nhớ ra ngay lập tức từng chi tiết nhỏ, dù phải xác minh lại sau; tờ quảng cáo đó, qua khơi gợi chớp nhoáng trong đầu óc hắn, tái hiện trước cặp mắt cú vọ của hắn, và đến nằm cạnh tờ giấy da của bọn bị đắm tàu, như câu trả lời bên cạnh câu hỏi; như giải đáp bên cạnh câu đố, và những dòng chữ: "Tại đây khán giả được nhìn thấy Guynplên, bị bỏ rơi từ thuở lên mười, đêm 29 tháng giêng năm 1690, trên bờ hiển Porlan"', trước mắt hắn, đột nhiên có một ánh sáng chói ngời huyền bí. Hắn chợt nhìn thấy hình ảnh; cảnh đỏ rực của Mane Thecel Pharès trên một lời quảng cáo chợ phiên. Thế là tiêu tan hết tất cả cái nền tảng của cuộc đời Giôzian. Một sự sụp đổ đột ngột. Đứa bé mất tích đã tìm ra. Có một huân tước Clăngsacli. Thế là Đêvit-Điry Moa tay trắng. Chức tước, của cải, quyền thế, địa vị, tất cả từ huân tước Đêvit ra đi và nhập vào Guynplên. Tất cả lâu đài, đất săn, rừng rú, dinh thự, cung điện, điền trang, trong đó có cả Giôzian, đều thuộc về Guynplên. Còn Giôzian, cách giải quyết thật trớ trêu! Trước mặt cô ả bây giờ là ai. Kiêu căng về nguồn gốc lại gặp một thằng múa rối; xinh đẹp đài các lại vớ được một con quái vật. Có bao giờ người ta lại hy vọng một điều như vậy không. Sự thật Backinphêđrô đang sống trong say sưa hoan hỉ. Tất cả mọi âm mưu nham hiểm nhất đều có thể thua xa lòng hào hiệp độc ác của bất ngờ. Khi thực tại muốn thì nó làm nên những kiệt tác. Backinphêđrô thấy tất cả ước mơ của hắn đều ngu ngốc. Hắn đang có được cái hay hơn nhiều.

Sự thay đổi sắp diễn ra do bàn tay hắn, dù có phản lại hắn đi nữa hắn cũng vẫn không kém phần mong mỏi. Có những giống côn trùng không vụ lợi biết rằng chích xong chúng sẽ chết mà cũng cứ chích. Backinphêđrô thuộc loại sâu bọ đó.

Nhưng lần này hắn không có được cái ưu điểm của lòng vô tư. Huân tước Đêvit Điry-Moa không mang ơn gì hắn, còn huân tước Fecmên Clăngsacli sẽ mang ơn hắn về tất cả mọi mặt. Từ kẻ được che chở. Backinphêđrô sắp trở thành kẻ bảo trợ. Mà lại bảo trợ cho ai? Cho một nguyên lão Anh quốc. Hắn sẽ có một huân tước của hắn: Một huân tước do hắn tác thành! Công việc đầu tiên Backinphêđrô định bụng là buộc Guynplên phải phục tùng. Và vị huân tước ấy sẽ là em rể của nữ hoàng do một cuộc lương duyên giữa quí tộc với bình dân. Xấu xí như vậy, nó sẽ làm cho Giôzian khổ tâm bao nhiêu thì sẽ làm vừa lòng nữ hoàng bấy nhiêu. Được cái đặc ân ấy thúc đẩy, lại đóng áo mão nghiêm trang và khiêm tốn vào, Baekinphêđrô có thể trở thành một nhân vật quan trọng. Trước kia hắn vẫn ước ao đi vào giáo chức. Hắn vẫn có ý muốn mơ hồ trở thành giám mục.

Trong khi chờ đợt hắn thấy vui lòng hả dạ.

Thật là một thành công đẹp đẽ! Bao nhiêu công việc của tình cờ đã hoàn tất mỹ mãn quá! Sự phục thù, vì hắn gọi cái đó là phục thù, đã được sóng nước nhẹ nhàng đưa lại cho hắn. Hắn đã không uổng công mai phục.

Tảng đá ngầm chính là hắn. Vật trôi giạt chính là Giôzian. Giôzian, vấp phải Backinphêdrô. Niềm vui sướng tột cùng của tên khốn kiếp.

Hắn vốn khôn khéo trong cái nghệ thuật vẫn được thiên hạ gọi là khêu gợi, chủ yếu là khẽ chích một cú vào đầu óc người khác rồi nhét vào đấy một ý định của mình; vừa đứng tránh sang một bên làm ra bộ không tham dự vào, hắn vừa sắp đặt sao cho Giôzian đến Hộp Xanh và nhìn thấy Guynplên. Điều đó không thể gây tác hại. Tên hát rong với địa vị thấp hèn của nó là một vịthuốc để pha chế trong âm mưu của hắn. Sau này cái đó sẽ tăng thêm hương vị.

Hắn đã lặng lẽ chuẩn bị sẵn tất cả. Điều hắn mong mỏi là một cái gì thật bất ngờ. Công việc hắn thực hiện chỉ có thể miêu tả bằng những chữ kỳ quặc này; tạo nên một tiếng sét.

Những điều sơ bộ làm xong, hắn đã chăm lo để các thủ tục cần thiết được hoàn thành đúng thể thức hợp pháp. Bí mật vẫn không mảy may vì thế bị vi phạm, im lặng nằm trong pháp luật.

Việc đối chất giữa Acquanon và Guynplên đã tiến hành xong; Backinphêđrô cũng có mặt. Chúng ta vừa được thấy kết quả rồi.

Cùng ngày hôm ấy, một chiếc xe trạm của nữ hoàng thình lình đến Luân đôn theo lệnh nữ hoàng để mời tôn nữ Giôzian về Uynxo, nơi mà lúc này nữ hoàng Anh đang nghỉ mùa. Vì một lý do nào đó trong đầu óc, Giôzian cũng không muốn tuân lệnh, hay ít ra cũng hoãn lại một ngày và lùi việc ra đi vào hôm sau, nhưng lệnh triều đình đâu có cho phép những kiểu chống đối như vậy. Cô nàng đành phải lên đường ngay và rời khỏi tư dinh của mình ở Luân đôn là Hâncơvin - Haozơ để đến tư dinh ở Uynxo là Corlêon - Lotglơ.

Nữ công tước Giôzian rời Luân đôn đúng vào lúc viên thiết trượng quan đến quán Tacaxtơ để bắt Guynplên dẫn đến hầm hình sự Xaothuak.

Lúc Giôzian đến Uynxo, viên hoàng môn quan đũa đen canh giữ cửa phòng trình diện: liền báo cho biết rằng nữ hoàng đang làm việc với huân tước tư pháp đại thần, chỉ có thể tiếp vào hôm sau; vì vậy cô nàng phải ở lại Corlêon-Lotgiơ, sẵn sàng chờ lệnh nữ hoàng, và sáng mai lúc ngủ dậy nữ hoàng sẽ trực tiếp ban lệnh. Giôzian trở về tư dinh, lòng đầy tức giận, bực bội, ngồi ăn: nhức đầu, cho quân hầu lui hết, trừ một tên tiểu đồng, rồi cũng cho nó lui nốt, và nằm nghỉ giữa lúc trời còn sáng.

Vừa đến nơi, cô nàng đã được biết cũng vào ngày mai, huân tước Đêvit Điry-Moa, từ ngoài biển có giấy phải lập tức trở về nhận lệnh nữ hoàng, được chờ đợi tại Uynxo.

3. KHÔNG MỘT AI TỪ XIBIRI[85] ĐỘT NGỘT SANG XÊNÊGAN[86] MÀ KHÔNG BỊ NGẤT (HÂMBON).

Việc một người bị ngất, dù là người vững vàng nhất, kiên cường nhất, khi đột ngột bị số phận giáng một chuỳ thật mạnh, cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Một người bị bất ngờ quật ngã cũng y hệt một con bò bị búa đồ tể nện. Frăngxoa Anbexcola, chính người đã phá tan xiềng xích của những hải cảng Thổ Nhĩ Kỳ, khi được bầu làm giáo hoàng, đã bất tỉnh nhân sự mất một ngày. Thế mà từ hồng y giáo chủ lên giáo hoàng, bước đi còn ngắn hơn từ anh hề lên nguyên lão nghị viện Anh quốc.

Không gì mãnh liệt hơn sự mất thăng bằng.

Khi Guynplên tỉnh lại mở mắt ra thì trời đã tối. Nó ngồi trong một chiếc ghế bành, giữa một căn phòng phủ toàn nhung đỏ, cả tường, trần và nền nhà. Cất bước là đặt chân lên nhung. Đứng bên cạnh, đầu để trần là anh chàng bụng phệ, khoác áo đi đường, đã từ sau cột trụ trong hầm Xaothuak bước ra. Guynplên ngồi một mình trong phòng với người ấy. Ngồi ở ghế bành: giơ cánh tay ra, nó có thể với tới hai cái bàn, trên một bàn đặt một cây đèn chùm với sáu ngọn bạch lạp đang cháy. Trên một bàn có giấy má và một cái két nhỏ, trên bàn kia có những món ăn ngay, thịt gà nguội, rượu vang, tửu tinh, đặt trên một chiếc khay đỏ.

Bên ngoài, qua lớp kính của một cửa sổ dài suốt từ nền lên đến trần, dưới bầu trời sáng của đêm tháng tư, thấp thoáng có một hàng cột trụ đứng theo hình bán nguyệt bao quanh một cái sân danh dự với cổng tam quan, một cửa thật rộng và hai cửa thấp; cái cổng để xe ra vào rất to, ở giữa; bên phải, cổng cho người cưỡi ngựa, bé hơn; bên trái, cổng cho bộ hành, bé. Cả mấy cửa đều có song sắt nhọn, sáng loáng; cửa giữa, ở trên chạm trổ rất cầu kỳ. Hàng cột có lẽ bằng đá hoa cương trắng, cũng như lớp gạch lát sân, nom như có tuyết phủ và cùng với lớp gạch mỏng, bao quanh một hình khảm mở mờ trong bóng tối; hình khảm ấy, nhìn ban ngày với cả những lớp men và mầu sắc chắc phải tạo thành một huy hiệu rất to, theo phong cách Florăng. Những hàng trụ bao lơn lên xuống chữ chi chứng tỏ có những cầu thang sân thượng. Phía trên sân, sừng sững một công trình kiến trúc đồ sộ mơ hồ sương phủ vì đang lúc đêm tối.

Những khoảng tròn đầy sao làm nổi bật bóng dáng một toà cung điện.

Người ta nhận thấy một mái nhà rất rộng, những đầu hồi xoắn ốc, những cửa mái có lưỡi trai như mũ sắt, những ống khói tương tự cột tháp, và những đầu tường trên có những tượng thần nam nữ đứng im bất động. Qua hàng cột, trong bóng tối chập chờn, một vòi nước thiên thai êm ái phun rào rào, từ thuỷ tán này trút xuống thuỷ tán kia, hoà lẫn tiếng mưa với tiếng nước đổ nhìn giống như vô vàn châu báu tung toé, và điên cuồng phân phát cho gió trời muôn nghìn kim cương ngọc quí để giải buồn cho các pho tượng bao quanh. Hàng dãy dài cửa sổ nổi bật, cách nhau bằng những bức hoành treo vũ khí xây nổi, và những tượng bán thân đặt trên bệ, trên đỉnh nóc, cái chiến tích và những mũ quân nhân có tuy bằng đá xen lẫn với các tượng thần.

Cuối căn phòng Guynplên ngồi đối diện với cửa sổ, một bên có lò sưởi cũng cao như bức tường lớn, còn bên kia, dưới một long đình, đặt một chiếc giường vương giả rộng thênh thang, trèo lên phải dùng thang và có thể nằm ngang được. Chiếc ghế đầu giường để ngay cạnh. Một hàng ghế bành ở dưới chân tường và một hàng ghế tựa để ở trước dãy ghế bành bổ sung cho đồ đạc trang hoàng. Trần hình vòng hoa; một ngọn lửa gỗ to kiểu Pháp cháy rừng rực trong lò sưởi ; qua ngọn lửa đượm và qua những vạch màu hồng màu lục, người sành sỏi hẳn phải biết đấy là lửa củi tần bì, rất xa xỉ; căn phòng rộng đến nỗi thắp hai ngọn đèn chùm mà vẫn tối. Đây đó, những màn cửa, buông thõng phấp phới, cho biết có lối thông sang các buồng khác. Đồ đạc hình dáng vuông vắn nặng nề của thời Giắc đệ Nhất, một kiểu tráng lệ đã lỗi thời, cũng như tấm thảm nền và lớp thảm căng khắp căn buồng, long đình, trần, màn giường, ghế đẩu, rèm cửa, lò sưởi khăn bàn, ghế bành, ghế tựa, tất cả đều phủ nhung mầu mận chín. Không có mầu vàng, trừ trần nhà. Cách đều bốn góc, một cái khiên to, tròn, bằng kim khí chạm óng ánh, gắn chặt vào trần, trên đó lấp lánh một huy hiệu nổi sáng ngời; trong huy hiệu đó, trên hai huy chương cạnh nhau, người ta thấy một cái mũ xoắn nam tước và một vòng miện hầu tước, không rõ thếp vàng hay bằng đồng mạ. Hình như bằng vàng thì phải. Giữa trần nhà lãnh chúa ấy, như một bầu trời đêm rộng lẫy, cái huy hiệu hình thuẫn sáng rực kia có cái vẻ chói lọi âm thầm của một vừng ô trong đêm tối. Một con người man rợ kết hợp với một con người tự do đứng trong một cung điện cũng lo sợ gần như lúc đứng trong nhà tù. Chốn huy hoàng này khiến người ta bàng hoàng bối rối. Phàm cái gì lộng lẫy cũng đều toát ra không khí hãi hùng. Người sống trong ngôi nhà tônnghiêm này có thể là ai? Toàn bộ cảnh hùng vĩ này thuộc về kẻ khổng lồ nào? Cung điện này là hang ổ của con sư tử nào? Guynplên chưa thật hoàn hồn, cảm thấy lòng mình thắt lại, chợt nói:

- Ta đang ở đâu thế này?

Anh chàng đứng trước mặt vội trả lời:

- Bẩm huân tước, ngài đang ở trong tư dinh của ngài.

4. QUYẾN RŨ

Muốn nổi lên mặt nước phải có thời gian.

Guynplên bị quẳng xuống chỗ tột cùng của kinh ngạc.

Trong chốn xa lạ con người không thể đứng vững được ngay.

Trong quân đội cũng như trong lĩnh vực tư tưởng đều có cảnh tan rã; việc tập hợp không dễ thực hiện được ngay tức khắc.

Người ta tự cảm thấy như tan tác và đang chứng kiến một cảnh tiêu tán kỳ quái của bản thân.

Chúa là cánh tay, con người là hòn sỏi, tình cờ là cây súng cao su. Bạn thử cưỡng lại xem, một khi đã bị bắn đi.

Guynplên, xin bỏ qua từ ngữ này của chúng tôi, nẩy thìa lia từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Sau bức thư tình của người nữ công tước, đến việc phát hiện ra hầm ngầm Xaothuak.

Trong số phận, khi bắt đầu gặp một chuyện bất ngờ, bạn hãy chuẩn bị đến cảnh; dồn dập liên tiếp. Cánh cửa tàn ác ấy một khi đã mở thì những điều bất ngờ ùa ngay vào. Bức tường của bạn bị chọc thủng thì những sự kiện ồ ạt tuôn qua. Phi thường không chỉ đến một lần.

Phi thường là một cảnh tối tăm. Cảnh tối tăm ấy đang bao trùm Guynplên. Nhưng điều xảy đến hình như rất khó hiểu. Nó nhìn thấy tất cả mọi việc qua làn mây mù ấy, do một rung động sâu sắc để lại trong trí tuệ như lớp bụi của một cảnh đổ sập. Chấn động đã rung chuyển toàn bộ. Trước mắt nó chẳng có gì rõ nét. Tuy vậy cũng dần dần thấy trong suốt lại. Lớp bụi lắng xuống, ít một, ít một, ngạc nhiên bớt dần, Guynplên như người mở to mắt, và chằm chằm nhìn vào giấc mộng, cố xem có những gì trong ấy. Nó phân tích đám mây kia rồi lại tổng hợp lại. Có lúc nó hoảng hốt. Trí óc nó giao động trong bất ngờ, hết bị đẩy sang bên hiểu được lại bị kéo về bên không hiểu nổi. Ai chẳng có thứ quả lắc đó trong đầu? Tư tưởng nó cứ dần dần giãn nở ra trước bóng tối sự kiện bất ngờ, cũng như con ngươi của nó đã căng dần trong bóng tối hầm ngầm Xaothuak. Cái khó là làm sao đặt được ít nhiều quãng cách giữa bao cảm giác dồn dập. Muốn cho những ý nghĩ mờ đục đó có thể bốc cháy được tức là hiểu được, phải có không khí giữa các cảm xúc, ở đây lại thiếu không khí. Sự việc xảy ra có thể nó là rất khó thở. Lúc bước xuống hầm ngầm Xaothuak khủng khiếp, Guynplên chờ đón cái gông khổ sai; người ta lại đặt lên đầu nó vòng miện nguyên lão. Sao lại có thể như thế? Giữa điều Guynplên e sợ và điều xảy ra không có đủ quãng cách, sự việc nối tiếp nhau quá nhanh, hãi hùng của nó biến đổi quá đột ngột nên không rõ. Hai mặt tương phản liền nhau quá. Guynplên phải cố sức để rút đầu óc mình ra khỏi gọng kìm đó.

Nó vẫn im lặng. Đó là bản năng của những phút kinh ngạc cao độ thường ngả sang thế thủ hơn người ta tưởng. Kẻ nào không nói gì tức là đang đối phó với tất cả mọi thứ. Một lời nói lỡ mồm, bị guồng máy không tên tóm được, có thể cuốn cả người vào những bánh xe xa lạ.

Trẻ con thường sợ bị xéo bẹp. Quần chúng luôn luôn sợ người ta dẫm lên mình. Thế mà Guynplên từ lâu đã là quần chúng.

Nỗi lo lắng của con người có một trạng thái đặc biệt được diễn tả bằng mấy từ: nhìn thấy đến, Guynplên đang ở trong trạng thái ấy. Trước một hoàn cảnh mới xẩy ra, người ta tự cảm thấy chưa đứng vững. Người ta theo dõi một cái gì có nối tiếp. Người ta chăm chú một cách mơ hồ. Người ta nhìn thấy. Thấy cái gì? Không biết. Thấy ai? Người ta cố mở to mắt.

Anh chàng bụng phệ nhắc lại:

- Bẩm huân tước, ngài đang ở trong dinh thự của ngài.

Guynplên tự sờ nắn mình. Trong những giây phút ngạc nhiên, người ta cố nhìn, để tin chắc rằng mọi vật đang có thật, rồi người ta tự nắn mình để tin chắc rằng bản thân mình tồn tại. Đúng là người ta đang nói với nó: nhưng bản thân nó đã đổi khác rồi. Nó không còn chiếc áo len thuỷ thủ và cái lá sen bằng da nữa. Nó đang mặc một chiếc gilê bằng dạ ngân tuyến, và một tấm áo xa - tanh thêu, sờ vào cũng biết, nó cảm thấy trong túi gilê có một túi tiền to đầy. Một cái quần nhung rộng phủ ngoài chiếc quần hề chật, bó sát người; chân nó dận giầy cao gót đỏ. Người ta đã thay đổi quần áo cho nó, cũng như đã chuyển nó đến cung điện này.

Anh chàng kia lại nói:

- Xin huân tước vui lòng nhớ rõ cho điều này; chính tôi là Backinphêđrô. Tôi là thư ký bộ hải quân! Chính tôi đã mở bầu rượu của Acquanon và đã rút số mệnh của ngài từ trong đó ra. Trong chuyện cổ tích Ả rập, một người câu cá cũng đã rút từ trong chai ra một người khổng lồ như thế.

Guynplên nhìn chằm chằm vào cái mặi nhăn nhở đang nói với mình.

Backinphêđrô tiếp:

- Bẩm huân tước, ngoài cung điện này ra ngài còn biệt thự Hâncơvin to hơn nữa. Ngài có lâu dài Clăngsacli, thái ấp của ngài, và nguyên là một pháo đài thời Êđua Lão vương. Ngài có riêng mười chín pháp quan, cùng với làng mạc và nông dân. Như vậy là dưới ngọn cờ huân tước và quí tộc của mình, ngài có quãng tám vạn bồi thần và dân đinh. Tại Clăngsali ngài là quan toà: xét xử tất cả, từ tài sản đến con người, và ngài chủ toạtriều đình nam tước của ngài. Nhà vua chỉ hơn ngài cái quyền đúc tiền. Nhà vua, mà luật pháp Normăngđi gọi là Chief-signor[87], nằm trong tay công lý, toà án và coin. Coin là tiền tệ. Trừ vấn đề đó ra, ngài là vua trong lãnh địa của mình, cũng như nhà vua trong vương quốc của vua, với tư cách nam tước ngài có quyền có một giá treo cổ bốn trụ ở nước Anh, và với tư cách hầu tước, một đài bêu tù bẩy cột ở Xixin, vì công lý một lãnh chúa đơn thuần có hai cột, công lý của thành chủ ba, và công lý của công tước tám. Ngài có tư cách hoàng thân chiếu theo các cựu hiến chương Northâmbrơ. Ngài bà con thông gia với các tử tước Valăngxya ở Iêclăng và Pasơ, và với các bá tước amfravin ở Êcôx là Anguyx. Ngài là tộc trưởng như Cămben, Acmanasơ và Măc Calâmmo. Ngài có tám thành bang là Ricânvơ, Bectân, Hen Kectờ, Hombon, Morican, Gâmđrêt, Torenvađrêt và các chỗ khác. Ngài có quyền về mỏ than Pilinmo và các mỏ bạch ngọc ở Toren; ngoài ra ngài nắm toàn bộ xứ Pennet-sêzơ và ngài có một quả núi với một thành phố nằm trên. Thành phố ấy tên là Vainocauton; ngọn núi tên là Moi-enli. Toàn bộ những thứ ấy đem lại cho ngài một khoản lợi tức bốn vạn livrơ- xteclinh, nghĩa là bốn mươi lần hai vạn rưỡi phorăng niên thu, đủ thoả mãn một người Pháp.

Trong khi Backinphêdrô nói, Guynplên mỗi lúc một thêm kinh ngạc, nhớ lại. Ký ức là một cảnh chìm ngập mà một lời nói có thể khuấy động đến tận đáy. Tất cả những tên người được Backinphêđrô nhắc tới đó. Guynplên đều biết hết. Chúng đã được ghi trên những dòng cuối cùng của hai tấm bảng che lều, nơi nó đã trải qua thời niên thiếu, và do vô ý thức thường đưa mắt lên đó, nó đã thuộc lòng. Là đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi, lúc đến cái lều lưu động Uê-mơt, nó đã được thấy gia tài của nó kê khai đầy đủ đang chờ đợi nó, và sáng sáng thì thằng bé đáng thương tỉnh dậy, việc đầu tiên con mắt vô tình và lơ đãng của nó đánh vần, là lãnh địa và thái ấp của nó. Một chi tiết kỳ lạ thêm vào tất cả những chuyện bất ngờ của nó là trong mười lăm năm lang thang khắp các đầu đường xó chợ, đóng vai thằng hề trên một sân khấu nay đây mai đó, lần hồi kiếm sống từng ngày, nhặt nhạnh từng xu, sống bằng vụn bánh, nó đã ngao du với toàn bộ tài sản phô trương trên cảnh cùng khổ của nó.

Backinphêđrô chạm ngón tay trỏ vào cái két con để trên bàn.

- Bẩm huân tước, cái két này đựng hai nghìn ghi-nê mà nữ hoàng xinh đẹp gửi để ngài chi dùng bước đầu.

Guynplên phác một cử chỉ, nói:

- Cái đó sẽ dành cho bố Uyêcxuyt của tôi.

- Bẩm huân tước, vâng- Uyêcxuyt ở quán Tacaxtơ.

Viên đình lại đội mũ - người đã đưa chúng ta đến tận đây là chốc nữa lại trở về, sẽ mang đến cho cụ. Có lẽ tôi sẽ đi Luân đôn. Trường hợp đó chính tôi sẽ đảm nhiệm việc này.

- Để tôi đích thân đem số tiền đến cho bố tôi - Guynplên đáp.  Backinphêđrô không nhăn nhở nữa, nói luôn:

- Không được.

Có một lối uốn giọng để nhấn mạnh. Backinphêđrô đang dùng cái giọng đó. Hắn dừng lại như để đặt một dấu chấm vào câu hắn vừa nói. Rồi hắn lại tiếp tục, với cái giọng cung kính và đặc biệt của kẻ tôi đòi tự cảm thấy mình là chủ.

- Bẩm huân tước, lúc này ngài đang ở cách Luân đôn hai mươi ba dặm, tại Corlêon-Lotgiơ, trong tư dinh của ngài ở thành nội, liền với hoàng cung tại Uynxơ, ngài ở đây nhưng không một ai hay biết. Ngài đã được đón đi trong một chiếc xe bịt kín đứng chờ ngài ở cổng nhà lao Xaothuak. Những người hộ tống ngài vào cung điện này không biết ngài là ai. Nhưng họ biết tôi, thế là đủ. Có thể là người ta đã đưa ngài đến tận phòng này, nhờ một chiếc chìa khoá bí mật mà tôi cũng có. Trong nhà có những người đang ngủ, và không phải lúc gọi mọi người dậy. Vì vậy chúng ta có đủ thì giờ để giải thích, vả lại cũng ngắn thôi. Tôi xin nói ngay để ngài rõ.

Tôi được nữ hoàng uỷ nhiệm.

Backinphêđrô vừa nói vừa bắt đầu giở mớ hồ sơ để cạnh chiếc két.

- Bẩm huân tước, đây là chiếu chỉ nguyên lão của ngài. Đây là đạo dụ về thái ấp hầu tước của ngài ở Xixin. Đây là giấy tờ và chứng chỉ về tám thái ấp nam tước với ấn tín của mười một nhà vua, từ Banđơret, vua xứ Kentơ đến Giắc đệ Lục và đệ Nhất, vua Anh quốc và xứ Êcôx. Đây là những chứng thư về quyền ngôi thứ của ngài. Đây là giấy tờ niên thu, và các chứng khoán, mục lục các phong thổ, thể tập tài sản, thuế bồi thuộc, đất cát và điền trang của ngài. Trên đầu ngài, trong các huy hiệu ở trần, là hai vòng miện của ngài: chiếc mũ xoắn nam tước nạm ngọc và vành hoa hầu tước. Tại đây, ở bên cạnh, trong phòng áo của ngài, có tấm áo nguyên lão của ngài, bằng nhung đỏ đính giải lông chồn trắng. Ngay hôm nay, cách đây vài giờ huân tước tư pháp đại thần, và vị đại diện bá tước đô đốc Anh quốc, sau khi được biết kết quả việc đối chất giữa ngài và tên Comprasicôx Acquanon, đã nhận lệnh của nữ hoàng. Nữ hoàng đã ký theo ý của Người, tức cũng như theo pháp luật. Tất cả mọi thủ tục giấy  tờ đều đã hoàn tất. Ngày mai, không thể chậm hơn, ngài sẽ được nhận vào nghị viện quí tộc; tại đấy mấy hôm nay đang thảo luận về một dự án do nữ hoàng đề nghị, nội dung tăng thêm mười vạn livrơ xteclinh, tức hai triệu năm mươi vạn livrơ Pháp, tuế phí của công tước Câmbơlan, chồng của nữ hoàng; ngài có thể tham dự cuộc tranh luận.

Backinphêđrô dừng lại, thở thong thả, rồi mới tiếp:

- Tuy nhiên, chưa có gì dứt khoát cả. Người ta không thể miễn cưỡng làm nguyên lão Anh quốc được.

Mọi chuyện đều có thể hủy bỏ và biến mất, trừ phi ngài hiểu. Mọi sự kiện tan biến trước khi nảy nở, điều đó vẫn thường thấy trên sân khấu chính trị. Bẩm huân tước, giờ này việc của ngài vẫn còn ở trong vòng im lặng. Nghị viện nguyên lão ngày mai mới được thông báo. Vì lợi ích quốc gia, việc của ngài vẫn được giữ bí mật, hậu quả của nó lớn lắm nên những nhân vật quan trọng, những người chỉ lúc này mới được biết về sự tồn tại và mọi quyền lợi của ngài, sẽ quên hết ngay lập tức nếu lợi ích quốc gia lệnh cho họ phải quên. Cái gì nằm trong đêm tối có thể vẫn ở trong đêm tối. Việc xoá bỏ ngài đơn giản thôi, nó lại càng dễ đàng vì ngài có một người anh con riêng của cụ thân sinh ra ngài và của một phụ nữ. Trong thời gian cụ đi đày, bà ta là nhân tình của vua Saclơ đệ Nhị, cho nên anh ngài vẫn ở trong triều, và mặc dù là con hoang, người anh đó sẽ hưởng hết mọi quyền lợi thế tước của ngài. Ngài có muốn như thế không? Tôi nghĩ là không. Vậy mọi việc đều tuỳ thuộc ở ngài. Phải vâng theo ý nữ hoàng. Đến mai ngài mới được rời khỏi tư dinh này, trong một chiếc xe của nữ hoàng, để đến nghị viện quí tộc. Bẩm huân tước, ngài có muốn thành nguyên lão Anh quốc hay không? Nữ hoàng đã để ý đến ngài, Người muốn dành cho ngài một cuộc lương duyên gần như vương giả. Bẩm huân tước Fecmên Clăngsacli, đây là giây phút quyết định. Số phận chẳng bao giờ mở một cánh cửa này mà không đóng lại một cánh khác. Có những bước đi đã tới là không thể lùi được nữa. Kẻ nào đã thay hình đổi dạng thì sau lưng có cả một cảnh tiêu tan. Bẩm huân tước, Guynplên đã chết rồi. Ngài có hiểu không?

Guynplên run bần bật suốt từ đầu đến chân, rồi nó trấn tĩnh lại và nói:

- Có

Backinphêđrô mỉm cười, cúi chào, cầm cái két, thu vào trong áo khoác rồi đi ra.

5. TƯỞNG NHỚ, HÓA RA QUÊN

Những thay đổi lạ lùng diễn ra trong tâm hồn con người là gì?

Cùng một lúc Guynplên được đặt lên đỉnh núi và bị đẩy xuống một vực sâu.

Nó đang xây xẩm đầu óc.

Một tình trạng, choáng váng hai mặt.

Choáng váng lúc lên và choáng váng khi rơi xuống.

Một sự nhào trộn ác liệt.

Nó cảm thấy mình đi lên chứ không thấy mình ngã.

Thật dễ sợ khi trông thấy một chân trời mới. 

Một viễn cảnh thường có những lời khuyên bảo, không phải lúc nào cũng hay cả.

Trước mắt nó là cửa Thiên thai, cạm bẫy cũng nên, của một đám mây tự xé ra và cho nhìn thấy mầu xanh thăm thẳm.

Thăm thẳm đến mức đen tối.

Nó đang đứng trên ngọn núi mà từ đó người ta có thể trông thấy các vương quốc của trần gian.

Vì núi không có thật, nên núi càng đáng sợ. Những ai đứng trên đỉnh núi đều sống trong cảnh mộng.

Ở đấy cám dỗ là vực thẳm và mãnh liệt đến mức địa ngục trên đỉnh núi ấy hy vọng làm sa đoạ cả thiên đường và quỷ sứ dẫn cả Chúa tới.

Quyến rũ vĩnh cửu, hy vọng thật kỳ lạ.

Xatăng cám dỗ Giêsu, thì con người làm sao chống đỡ nổi?

Cung điện, lâu đài, quyền thế, giầu sang, mọi hạnh phúc con người bát ngát xung quanh, một thếgiới đầy lạc thú trải dài đến tận chân trời, một trần gian sáng chói mà mình là trung gian; ảo ảnh nguy hại thay.

Và ta thử hình dung trạng thái hoang mang trước một cảnh tượng không được sắp đặt, không có những bậc chuẩn bị, không đề phòng, không chuyển tiếp.

Guynplên như một người đang ngủ trong hang chuột nay bỗng tỉnh dậy trên đỉnh tháp chuông Xtơraxbua.

Choáng váng là một trạng thái minh mẫn khác thường. Nhất là khi nó bao gồm hai lực quay ngược chiều, vừa đưa bạn đến với ánh sáng vừa dẫn bạn vào đêm đen.

Vừa nhìn rõ quá, vừa không đủ thấy.

Vừa thấy tất cả, vừa chẳng thấy gì.

Người ta ở trong trạng thái mà tác giả sách này đã gọi ở đầu đó là "người mù bị hoa mắt".

Còn lại một mình, Guynplên bắt đầu bước những bước dài. Sôi sục thường dẫn đầu cho bùng nổ.

Trong tâm trạng bồn chồn ấy, trong cái thế ngồi đứng không yên ấy, nó trầm ngâm suy nghĩ. Sự sôi sục ấy là một cuộc thanh lý. Nó đang cầu viện đến ký ức. Chuyện lạ kỳ là có những điều ta tưởng đâu chỉ nghe lõm bõm lại hoá ra nghe rất tường tận. Nó nhớ lại hết sức rõ ràng rành mạch; tờ khai của bọn đắm thuyền do lão quận trưởng đọc trong hầm ngầm Xaothuak; nó nhớ từng lời, qua đó nó thấy lại toàn bộ thời niên thiếu của nó.

Đột nhiên nó dừng chân, chắp tay sau lưng, nhìn lên trần, lên trời, lên bất cứ thứ gì trên đầu.

- Phải trả thù! Nó nói.

Nó như người ngoi được đầu lên khỏi mặt nước. Hình như nó nhìn thấy tất cả, quá khứ, tương lai, hiện tại qua một ánh sáng đột ngột.

À! - nó kêu lên, vì có những tiếng kêu trong tận cùng tư tưởng – À! ra thế! Trước đây ta là huân tước. Mọi việc đã rõ ràng. À! Người ta đã lấy cắp của ta, phản bội ta, thủ tiêu ta, tước đoạt gia tài ta, bỏ rơi ta, ám sát ta! Cái xác ma của số kiếp ta đã bồng bềnh mười lăm năm ròng trên biển cả, rồi đột nhiên nó chạm vào đất liền và đã đứng dậy: sống lại! Ta sống lại. Ta sinh ra! Ta vẫn cảm thấy rõ ràng dưới lớp quần áo tả tơi của ta phập phồng một cái gì khác một thằng khốn khổ, và khi ta ngoảnh về phía con người, ta vẫn cảm thấy rõ họ là bầy cừu, rằng ta không phải con chó mà là mục đồng! Mục sư các dân tộc, dìu dắt mọi người, hướng đạo và chỉ huy, cha ông ta là như vậy ; và trước kia cha ông ta thế nào thì nay ta như thế. Ta là dòng dõi quí tộc, ta có một thanh kiếm, ta là nam tước, đầu ta đội mũ sắt, ta là hầu tước, mũ ta có chùm lông, ta là nguyên lão, ta có một vòng miện. À! Người ta đã lấy mất của ta tất cả những thứ ấy. Ta vốn là người trong ánh sáng, người ta đã bắt ta sống trong bóng tối. Những kẻ đã trục xuất bố rồi lại đem bán con. Khi bố ta chết, họ đã rút phiến đá lưu đày mà bố ta vẫn dùng gối đầu để đặt nó lên cổ ta và quẳng ta xuống cống! Ôi! Cái lũ côn đồ ấy đã hành hạ thời niên thiếu của ta, phải rồi, chúng đang cử động và đứng ở tận cùng trí nhớ của ta, phải rồi, ta đang thấy lại chúng. Ta đã là miếng thịt trên mồ bị một bầy quạ rỉa. Máu ta đã chảy và ta đã kêu gào dưới những bóng dáng khủng khiếp đó. À! Ra đấy là nơi họ đã đẩy ta xuống, dưới sự giày xéo của kẻ qua người lại, dưới sự giẫm đạp của tất cả mọi người, dưới cả người thấp hèn nhất, thấp hèn hơn cả nông nô, thấp hèn hơn cả tôi tớ, thấp hèn hơn cả kẻ thô bỉ, thấp hèn hơn cả nô lệ, nơi mà hỗn mang trở thành bùn nhơ, ở nơi tận cùng của tan biến! Chính từ nơi đó ta sống lại! Giờ đây ta như thế này. Phải trả thù.

Nó ngồi xuống, nó đứng lên, hai tay ôm lấy đầu rồi lại bước đi, và trong nó bài độc thoại sau đấy lại nổi lên:

- Ta đang ở đâu? Trên đỉnh: Ta vừa sà xuống đâu? Trên ngọn! Điểm tột cùng này, chốn cao sang hùng vĩ, mái vòm của thế giới này, nơi quyền uy tột bực, là nhà của ta. Ngôi đền giữa không trung này, ta chính là một trong những vị thần ở đó! Chỗ không ai vào được thì ta đang trú ngụ. Chốn tôn nghiêm ta vẫn đứng dưới nhìn lên, nơi toả xuống biết bao hào quang khiến ta phải nhắm mắt, cái thái ấp bất khả xâm phạm này, cái thành trì mà những kẻ diễm phúc không chiếm nổi này, ta đang đặt chân đến. Ta đang ở trong đó. Ta là người ở đó. A! Vòng quay quyết định! Trước khi ta đứng dưới nay ta đứng trên, ở trên, mãi mãi. Thế là ta thành huân tước ta sẽ có áo choàng đỏ, ta sẽ có vòng hoa trên đầu, ta sẽ dự lễ đăng quang của vua chúa, họ sẽ tuyên thệ trước tay ta, ta sẽ xét xử các đại thần và thân vương, ta sẽ tồn tại. Từ những chốn tận cùng mà họ đã vứt ta xuống, ta lại vọt lên đến tận đỉnh trời. Ta có lâu đài ở thành phố và ở nông thôn, ta có dinh thự, vườn tược, khu săn bắn, những cánh rừng, xe song mã, tiền nghìn bạc triệu; ta sẽ mở hội, ta sẽ làm ra luật pháp, ta sẽ tuỳ ý lựa chọn hạnh phúc và trò vui, và thằng Guynplên du đãng, trước kia không có quyền nhặt một bông hoa trên cỏ sẽ có thể hái những vì sao trên trời.

Bóng tối đang buồn thảm đổ xô vào một tâm hồn.

Trong Guynplên, trước đây là anh hùng, và phải nói hiện nay vẫn là anh hùng, cao sang vật chất đang thay thế sự cao thượng tinh thần. Một sự chuyển tiếp thảm đảm. Đức hạnh suy đốn vì một lũ ma quỷ đi qua, bất ngờ tập kích vào chỗ yếu của con người. Tất cả những gì thấp hèn vẫn được gọi là cao thượng, những tham vọng, những ước muốn đen tối của bản năng, những đam mê, những thèm khát, nhờ tính chất lành mạnh của tai hoạ đẩy lùi Guynplên, đang ồ ạt chiếm lại trái tim hào hiệp kia. Và điều đó do đâu? Do tìm ra một tờ giấy da trong một vật trôi giạt được trùng dương cuốn đến. Một lương tâm bị tình cờ cưỡng bức đó là điều vẫn thường thấy.

Guynplên đang ngửa cổ nốc no kiêu căng, khiến cho tâm hồn nó trở thành tăm tối. Chất rượu bi đát đó là như vậy.

Trạng thái ngây ngất ấy đang xâm chiếm nó; nó bằng lòng và, hơn thế, nó còn gật gù thưởng thức. Hậu quả của một cơn khát dài ngày. Con người có phải là đồng phạm với cốc rượu làm mất lý trí mình không. Nó luôn luôn mơ hồ ước muốn như thế. Nó vẫn không ngớt nhìn về phía những kẻ cao sang, nhìn tức là ao ước. Con chim ưng non đâu phải vô tội khi sinh ra trong tổ chim ưng.

Làm huân tước. Giờ đây có những lúc nó thấy điều ấy cũng rất đơn giản.

Mới có mấy giờ trôi qua, mà quá khứ hôm qua đã quá xa vời ! 

Guynplên đã gặp chỗ mai phục của cái tốt hơn, lại mất mất cái tốt.

Tai họa cho kẻ nào được người ta nói: Nó hạnh phúc quá!

Con người thường đứng vững bước vận rủi hơn trước vận may. Người ta thoát khỏi tai vạ một cách toàn vẹn hơn khỏi hạnh phúc. Sarip là cùng khổ, nhưng Xila[88] lại là giầu sang. Những kẻ đứng vững khi sét đánh lại bị quất ngã vì chói mắt. Anh không ngạc nhiên trước vực sâu nhưng lại sợ bị mây trời và mộng mị cuốn bổng. Cuộc bay bổng sẽ nâng anh lên cao và sẽ làm anh nhỏ bé lại. Việc phong thánh có một sức mạnh ác hại làm mất tinh thần.

Trong hạnh phúc không dễ gì mà tự hiểu được mình. Tình cờ chỉ là một sự trá hình. Không gì lừa dối như bộ mặt ấy. Nó là Thượng đế chăng. Nó là Định mệnh chăng?

Ánh sáng có thể không phải là ánh sáng. Vì ánh sáng là chân lý, còn ánh tù mù có thể là một cái gì dối trá. Tưởng nó soi sáng, vậy mà không, nó gây hoả hoạn.

Đang đêm, một bàn tay đặt một cây nến, cục mỡ bò hèn hạ trở thành vì sao, bên mép một lỗ hổng trong tối. Con bướm sà vào đấy.

Nó chịu trách nhiệm đến chừng mực nào?

Ngọn lửa quyến rũ con bướm cũng như mắt rắn quyến rũ con chim.

Bảo con bướm và con chim đừng dấn đến có được không? Chiếc lá có thể nào không vâng lời ngọn gió? Hòn đá có thể nào không tuân theo lực hấp dẫn?

Những câu hỏi về vật chất, mà cũng là những câu hỏi về tinh thần.

Sau bức thư của người nữ công tước, Guynplên đã vùng lên. Trong nó có những ràng buộc sâu sắc chống cự lại. Nhưng những trận cuồng phong, sau khi làm kiệt gió ở một phía chân trời lại bắt đầu từ phía khác, và số phận cũng như thiên nhiên có những lúc rất mãnh liệt.

Đợt thứ nhất lay chuyển, đợt thứ hai nhổ bật gốc rễ.

Than ôi! Những cây đại thụ thường đổ vì đâu?

Thế là con người, lúc còn là thằng bé lên mười, một mình trên vách biển Porlan, sẵn sàng chiến đấu, đã nhìn thẳng vào những gì phải đương đầu, cơn gió mạnh cuốn đi chiếc thuyền nó định bước xuống, vực sâu cướp mất của nó mảnh ván cứu sống, quãng không mông mênh doạ nó phải lùi bước, mảnh đất chối từ không cho nó trú ngụ, bầu trời từ chối nó một ánh sao, cảnh cô liêu không thương xót, bóng tối không thèm nhìn, đại dương, bầu trời, tất cả mọi bạo lực trong một vô biên và tất cả mọi bí ẩn trong một vô biên khác; con người đã không run sợ cũng không chịu thua trước sự thù nghịch to lớn của vô hình, con người mới bé tí đã phải đương đầu với cái chết; con người trong cuộc xung đột không cân xứng đó đã dám đánh thức tất cả mọi may rủi chống đối mình lúc nhận nuôi một em bé, mà chính nó cũng chỉ là một đứa bé mang thêm một gánh nặng, trong khi nó cũng đã mỏi mệt, mong manh, làm cho sức khoẻ của nó càng dễ bị cắn xé, và tự tay tháo bỏ rọ mõm cho những con quái vật củabóng tối rình nấp xung quanh; con người, đấu với thú dữ trước tuổi, ngay từ lúc mới rời khỏi nôi mẹ, đã vật lộn với số mệnh, con người mặc dù không cân sức đã dám chống cự; con người đột nhiên thấy xung quanh mình có sự che cản hãi hùng của loài người, đã chấp nhận sự che cản đó và hiên ngang bước tiếp; con người đã biết chịu rét, chịu khát, chịu đói một cách anh dũng, con người tí hon về tầm vóc đã là khổng lồ trong tâm hồn; cái thằng Guynplên đó, kẻ đã chiến thắng ngọn gió cả của một vực thẳm dưới hai hình thức bão táp và nghèo khổ, đang lảo đảo dưới ngọn gió này quả là một trò hư ảo!

Thế là, sau khi tận dụng hết mọi trò thống khổ bần cùng, giông bão, gào thét, tai họa, hấp hối, để chống đối với con người đứng thẳng, định mệnh bắt đầu mỉm cười, và con người đột nhiên ngây ngất, cảm thấy lảo đảo.

Nụ cười của định mệnh. Có thể nào tưởng tượng được mộtcái gì khủng khiếp hơn nữa không. Đó là phương tiện cuối cùng của kẻ bất nhân chuyên thử thách tâm hồn, muốn bắt con người phải chịu đựng. Con hổ nằm trong số phận đôi khi cũng làm ra vẻ hiền lành. Một sự chuẩn bị đáng sợ. Vẻ hiền từ ghê tởm của con quái vật.

Sự ngẫu hợp giữa hoàn cảnh suy vi với lúc vinh thăng danh vọng, mọi người đều có thể nhận thấy điều đó trong mình. Sự phát triển đột ngột thường phá vỡ và gây nên trạng thái nóng sốt.

Trong đầu óc Guynplên cảm thấy cảnh quay cuồng choáng ngợp của một loạt chuyện mới lạ, tất cả cảnh tranh tối tranh sáng của việc thay hình đổi dạng, không biết những trò đối chiếu kỳ dị nào, quá khứ vấp phải tương lai, hai Guynplên, bản thân nó tuy một mà hai; sau lưng, một thằng bé rách rưới từ trong đêm tối bước ra, lò dò, run rẩy, đói khát, làm trò cười; trước mặt, một lãnh chúa chói lọi hào hoa, lộng lẫy, làm cho Luân đôn hoa mắt, Nó đang trút bỏ một đứa và đang hoà mình với một đứa. Nó đang từ thằng múa rối đi ra và nhập vào vị huân tước. Thay đổi lớp da mà đôi khi thay đổi cả tâm hồn. Có những lúc việc ấy lại quá giống giấc mộng. Thật phức tạp. Vừa dở, vừa hay. Guynplên nghĩ đến bố. Thật là đau xót một ông bố chưa từng biết mặt. Nó cố hình dung bố nó. Nó nghĩ đến người anh mà người ta vừa nói với nó. Thế đấy, một gia đình: ôi một gia đình cho nó, cho Guynplên! Nó hoang mang lúng túng trước những cảnh huy hoàng; trước mặt nó những nghi thức xa lạ đang tan thành mây khói; nó nghe văng vẳng tiếng kèn đồng.

- Sau đó-nó nói một mình -ta sẽ là một nhà hùng biện.

Và nó tự hình dung một cảnh lộng lẫy bước vào nghị viện quý tộc, lòng tràn ngập những điều mới lạ. Có biết bao điều muốn nói? Biết bao chuyện nó đã tích luỹ được! Còn lợi thế nào hơn, đứng giữa họ, được là người đã thấy tận mắt, đã sờ tận tay, đã chịu đựng, đã đau khổ, và được thét vào mặt họ: Ta đã được gần tất cả những gì mà các người bị xa cách! Đối với những công dân quyền quí ấy, phè phỡn ảo mộng, nó sẽ ném thực tế vào mặt họ, họ sẽ run rẩy vì nó sẽ thật, và họ sẽ vỗ tay vì nó sẽ vĩ đại. Nó sẽ xuất hiện giữa những con người quyền uy tột bậc ấy, quyền uy hơn cả họ; nó sẽ hiện ra trước mặt họ như một người cầm đuốc dẫn đường, vì nó sẽ chỉ cho họ chân lý, và như một người cầm kiếm vì nó sẽ chỉ cho họ công lý. Còn chiến thắng nào hơn!

Vừa dàn dựng những ý đồ như thế trong đầu óc nửa sáng suốt nửa thác loạn của mình, Guynplên vừa có những động tác mê sảng, tuyệt vọng khi ngồi trong một chiếc ghế bành, khi thiu thiu ngủ, lúc giật nẩy mình. Nó đi đi lại lại nhìn lên trần nhà, ngắm nghiá những mũ miện, mơ hồ nghiên cứu những tượng hình trên huy hiệu, sờ nắm lớp nhung trên tường, lay thửchiếc ghế, lật giở giấy tờ, đọc các tên, đánh vần tước vị, Bôđixtơn, Hơmbân, Gâmđrêt, Hâncơvin, Clăngsacli, so sánh các loại si con dấu, nắn nắn những con tơ trên dấu ấn nhà vua, lại gần cửa sổ, lắng nghe tiếng nước phun, nhận xét các pho tượng, kiên trì đếm những cột đá hoa như một người mộng du và nói: Có thế thật.

Rồi nó lại sờ nắm chiếc áo xa-tanh của nó. và tự hỏi:

- Có đúng là ta không? Đúng.

Nó đang trải qua một trận bão lòng.

Trong cơn bão ấy, nó có cảm thấy rã rời mệt mỏi không? Nó có uống không, cóăn không, có ngủ không? Nếu có làm những việc ấy thì cũng hoàn toàn vô ý thức. Trong một số hoàn cảnh khốc liệt, các bản năng có tuỳ tiện tự thoả mãn mà tư tưởng không hề can thiệp vào. Vả lại tư tưởng Guynplên lúc này còn kém hơn cả một làn khói. Lúc ánh lửa đen ngòm của phún thạch trào lên khỏi lòng giếng cuồn cuộn, thì miệng núi lửa có biết đến những bầy gia súc dang gậm cỏ ở chân núi không?

Giờ khắc trôi qua.

Bình minh xuất hiện và trời bắt đầu sáng. Một tia nắng trắng xuyên qua phòng, đồng thời lan vào tâm trí Guynplên.

- Còn Đêa - ánh sáng nói với nó.

VI. NHỮNG BỘ MẶT KHÁC NHAU  CỦA UYÊCXUYT

1. LỜI NGƯỜI YẾM THẾ NÓI

Sau khi nhìn thấy Guynplên mất hút dưới cánh cửa nhà ngục Xaothuak. Uyêcxuyt đứng nhớn nhác trong cái xó ông dùng làm chỗ quan sát. Trong tai ông vẫn ken két mãi tiếng ổ khoá và then sắt: tưởng như tiếng rống mừng vui của nhà tù vừa ngoạm được một người khổng lồ. Ông đứng chờ. Chờ cái gì? Ông rình xem. Xem cái gì? Những tấm cửa nghiệt ngã kia một khi đã khép thì có bao giờ mở lại ngay; vì đứng mãi trong bóng tối nên chúng bị liệt khớp, và cử động khó, nhất là khi cần phóng thích; vào thì được, ra thì khác, Uyêcxuyt biết thế. Nhưng chờ đợi là một việc không phải tự do muốn thôi lúc nào cũng được; thường thường người ta chờ đợi một cách miễn cưỡng, hành động của ta thường sinh ra một lực quán tính vẫn tồn tại cả lúc đối tượng không còn nữa, nóthâm nhập vào ta, giữ chặt lấy ta, và trong một thời gian buộc ta phải tiếp tục cái việc từ nay không còn mục đích. Rình mò vô ích là tư thế ngu xuẩn mà đôi khi chúng ta thường có, là lối mất thì giờ vô ý thức của bất cứ người nào chăm chú đến một vật đã mất. Chẳng ai thoát khỏi những chuyện  bất di bất dịch ấy cả. Người ta cứ khăng khăng theo đuổi một cách lơ đãng. Không biết tại sao mình đứng ở chỗ này mà cũng cứ đứng. Việc đã bắt đầu một cách tích cực thì nay cứ tiếp tục một cách bị động. Một sự kiên trì mệt mỏi khiến cuối cùng thoát ra kiệt quệ. Uyêcxuyt vốn khác người, vậy mà cũng cứ chôn chân tại chỗ như bất cứ ai, vì vừa phải mơ màng vừa phải theo dõi do một sự kiện có toàn quyền đối với ta mà ta lại không thể làm gì được, ông lần lượt quan sát hai bức tường đen, lúc ngắm bức thấp, lúc nhìn bức cao, hết nhìn cái cửa có cái thang giá treo cổ, lại nhìn cái cửa có chiếc đầu lâu; ông như bị kẹp giữa hai gọng kìm của nhà tù và nghĩa địa. Con đường mọi người vẫn tránh và thất nhân tâm này ít kẻ qua lại đến mức không ai nhận thấy Uyêcxuyt cả.

Cuối cùng ông ra khỏi cái góc tường vẫn dùng làm chỗ nấp cho ông, một thứ chòi gác ngẫu nhiên nơi ông vẫn đứng theo dõi, và thong thả bước đi. Mặt trời xế bóng, ông đã canh gác quá lâu. Chốc chốc ông lại ngoái cổ nhìn cái cổng tò vò kinh tởm thấp lè tè, nơi Guynplên đã chui vào. Mắt ông mờ đi, đờ đẫn. Đến đầu ngõ ông rẽ sang phố khác rồi một phố khác nữa, mơ hồ theo đúng lối ông đi cách đấy mấy giờ. Thỉnh thoảng ông vẫn ngoảnh lại làm như còn có thể nhìn thấy cổng nhà tù, mặc dù không đi trong phố nhà lao nữa. Dần dần ông về gần đến cánh đồng Tarinhzô. Các ngõ hẻm lân cận bãi chợ phiên đều là những lối mòn vắng vẻ len giữa bờ dậu các khu vườn, ông lom khom men theo các hàng rào và các mương rãnh. Thình lình ông đứng lại, thẳng người lên và nói to:

- Càng hay!

Cùng lúc ấy, ông khẽ đấm hai cái vào đầu, rồi hai cái vào đùi, dấu hiệu của người xét xử sự việc đúng như phải xét xử.

Rồi ông lầu bầu một mình, chốc chốc lại vùng nói to:

- Đáng đời lắm! Hừ thằng ăn mày! Thằng kẻ cướp! Thằng bả gà! Thằng ăn hại! Thằng phản nghịch. Chính những lời nó nói về chính phủ đã dẫn nó đến chỗ ấy. Đúng là một tên phản loạn. Ta đã nuôi một tên phản loạn trong nhà. Thế là thoát nợ. Thật may cho ta. Nó làm hại cả nhà. Tống cổ vào nhà lao! Hừ! Càng tốt! Pháp luật thật là tuyệt vời! A! Quân bạc ác! Thế mà ta đã nuôi nó! Cứ nai lưng ra mà làm. Việc gì đến nó mà nó phải nói, phải lý luận? Cũng đòi xen vào việc nước! Thử hỏi thế thôi. Trong khi đếm tiền nó đã nói nhằng nói nhịt về thuế má, về kẻ nghèo, về nhân dân, về những thứ không dinh dáng gì đến nó! Nó đã dám có ý kiến về tiền xu! Nó đã bình luận một cách độc ác và ranh mãnh về tiền đồng của vương quốc, nó đã miệt thị những đồng yla của nữ hoàng! Một phac-thinh thì cũng như nữ hoàng! Hình tượng thiêng liêng, trời ơi, hình tượng thiêng liêng mà. Ta có một nữ hoàng hay không nào? Phải tôn kính lớp gỉ đồng của nữ hoàng chứ. Mọi chuyện  đều do chính phủ. Phải biết thế mới được. Ta, ta đã từng sống nhiều. Ta biết đủ mọi chuyện. Thiên hạ sẽ bảo ta: Thế ra ông muốn dính dáng đến chính trị sao? Chính trị, thưa các bạn, tôi quan tâm đến nó cũng như đến lớp lông xù của một con lừa. Có hôm ta được ăn một gậy của một tiểu nam tước. Ta tự nhủ: Thế là đủ, ta hiểu thế nào là chính trị rồi. Dân chúng có một đồng tiền đồng, họ đem cho, nữ hoàng nhận, dân chúng cảm ơn. Không gì đơn giản hơn. Còn lại là việc của các huân tước. Các vị quí tộc lãnh chúa thần quyền và thế quyền. Hừ! Guynplên bị giam! Nó bị khổ hình! Đúng thôi. Thật công bằng, tuyệt diệu, đáng đời và hợp pháp. Đó là lỗi tại nó. Cấm bép xép kia mà. Mày có phải huân tước không, đồ ngu si? Quan thiết trượng đã bắt nó, quan định túc số đã dẫn nó đi, ngài quận trưởng đã giam giữ nó.Lúc này chắc hẳn nó đang bị một ông đình lại nào đó căn vặn từng ly từng tý. Những con người khôn ngoan ấy, họ vặt lông tội ác như thế đấy. Thế là chú mình bị tóm cổ. Mặc xác nó, càng tốt cho ta. Thật ra, ta rất chi bằng lòng. Ta phải thật thà thú nhận là may cho ta lắm. Việc ta nhặt thằng bé và con bé này là một chuyện hết sức điên rồ! Trước kia, Ômô và ta thanh thản biết bao! Cái quân vô lại ấy, không biết chúng đã đến lều của ta làm gì? Lúc chúng còn bé tí, hỏi rằng ta có nâng niu ấp ủ chúng không. Ta có vất vả đêm ngày kéo lê chúng bằng sợi dây da của ta không. Chuyện cứu vớt quí hoá thật! Một thằng xấu xí kinh khủng, một con chột cả hai mắt! Cứ cố mà thắt lưng buộc bụng! Có phải vì chúng mà ta đã nếm đủ một sự đói khát không! Rồi khôn lớn, rồi cũng giở trò yêu với đương! Rồi đến những trò ve vuốt tán tỉnh của lũ tàn tật. Chú cóc tía, cô chuột chù, tình ca đấy. Ta nuôi trong nhà những của như thế đấy. Tất cả những trò này phải kết thúc bằng công lý thôi. Con cóc đã nói chuyện chính trị được. Thế là ta hết nợ nó. Lúc ông thiết trượng đến, thoạt tiên ta cũng ngu ngốc thật, con người luôn luôn nghi ngờ hạnh phúc, ta cứ nghĩ là ta không trông thấy điều trước mắt, là một giấc mộng, là một trò đùa của giấc mơ. Nhưng không, không có gì thật hơn. Chuyện dễ hiểu thôi, Guynplên rõ ràng đang ngồi tù. Đây là bàn tay của Thương đế. Xin đội ơn Thương đế. Chính con quái vật ấy với những trò ầm ĩ của nó, đã khiến người ta chú ý đến cơ sở của ta, và đã tố giác con sói đáng thương của ta! Guynplên đi rồi, Thế là ta thoát được cả hai. Một hòn đá, hai cục u. Vì Đêa cũng sẽ chết bởi chuyện này. Khi nào con bé không nhìn thấy Guynplên nữa - con ngốc ấy, hiện nay nó vẫn thấy thằng kia - nó sẽ không còn lý do gì để sống nữa, nó sẽ nói: ta làm gì trên đời này? Và thế là con bé cũng sẽ đi nốt. Thượng lộ bình an. Cút đi cả hai đứa. Xưa nay ta vẫn ghét cay ghét đắng cả hai đứa đó! Chết đi, Đêa. Ôi! Ta mãn nguyện biết chừng nào!

2. VIỆC ÔNG TA LÀM.

Uyêcxuyt về đến quán Tacaxtơ.

Đồng hồ điểm sáu rưỡi, theo lời nói của người Anh thì là nửa giờ quá sáu. Trước lúc hoàng hôn một tí.

Ông chủ Nicơlex đang đứng ở ngưỡng cửa. Từ sáng, bộ mặt thất đảm của ông ta không sao tươi tỉnh nổi, vẻ hoảng hốt vẫn còn đọng trên đó.

Thoáng trông thấy Uyêcxuyt từ xa, ông ta đã hỏi to:

- Thế nào?

- Thế nào cái gì?

- Guynplên nó về không? Muộn lắm rồi. Công chúng sắp kéo đến đấy. Tối nay có buổi trình diễn của Thằng Cười không?

- Thằng Cười là tôi - Uyêcxuyt nói.

Và ông vừa nhìn người chủ tiệm và hô hố cười ngạo nghễ.

Đoạn ông trèo thẳng lên tầng một, mở cái cửa sổ cạnh bảng Guynplên Thằng Cười, và cái bảng quảng cáo Hồng hoang chiến bại, nhổ cái nọ, giật cái kia, cắp hai tấm bảng vào nách, rồi đi xuống.

Ông chủ Nicơlex để mắt theo dõi ông.

- Sao ông lại gỡ ra?

Uyêcxuyt lại phá lên cười.

- Tại sao ông cười? - ông chủ quán hỏi tiếp.

- Tôi quay về với cuộc sống riêng tư.

Ông Nicơlex chợt hiểu, và lệnh cho thằng giúp việc, tên hầu bàn Gôvicâm, hễ thấy ai đến thì báo cho họ biết tối nay không có buổi diễn. Ông bỏ cái thùng cũ ra khỏi cánh cửa, cái thùng vẫn dùng làm bàn thu tiền, và dẹp nó vào một góc căn phòng thấp.

Một lúc sau Uyêcxuyt trèo lên Hộp Xanh.

Ông đặt hai cái bảng vào một góc, rồi bước đến chỗ ông vẫn gọi là "khuê phòng".

Đêa đang ngủ.

Cô nằm trên giường, áo xiêm vẫn để nguyên, cốt váy bỏ ra như khi ngủ trưa.

Bên cạnh Đêa, Vincx và Fibi đang tư lự, một cô ngồi trên ghế đẩu, một cô ngồi ở đất.

Mặc dù đã muộn, hai cô vẫn không mặc áo cộc tay của nữ thần vào, dấu hiệu chán nản sâu sắc, các cô vẫn bó tròn trong cái chăn len gai và chiếc áo dài vải thô.

Uyêcxuyt ngắm nhìn Đêa và lẩm bẩm:

- Nó tập cho quen với một giấc ngủ dài hơn đấy.

Ông bảo thẳng với Fibi và Vinox:

- Mấy cô cần phải biết, từ nay chấm dứt chuyện kèn trống rồi. Các cô có thể cất hết kèn vào ngăn kéo.

Các cô không đóng bộ cánh tiên vào là đúng. Như thế này thì các cô xấu quá, nhưng mà phải. Cứ mặc váy rách cũng được. Tối nay không diễn. Mai cũng không, ngày kia cũng không, ngày kìa cũng không. Không còn Guynplên nữa. Không làm thế nào tìm ra nó nữa đâu.

Và ông lại đứng nhìn Đêa.

- Con bé sẽ đau khổ lắm. Nó sẽ như một ngọn đèn bị thổi tắt.

Ông phồng má thổi.

- Phù! Thế là hết.

Và ông khẽ cười khan.

- Bớt Guynplên là bớt tất cả. Cũng như ta nếu bớt Ômô. Còn hơn thế nữa. Con bé sẽ cô đơn hơn ai hết. Người mù, họ bì bõm trong buồn khổ còn hơn chúng ta.

Ông đi đến bên cái cửa mái ở trong cùng.

- Ngày dài thật! Bảy giờ rồi mà vẫn còn trông rõ. Nhưng ta cũng cứ thắp đèn lên.

Ông bật lửa, châm ngọn đèn kính ở trần Hộp Xanh lên.

Ông cúi xuống bên Đêa.

- Đến cảm mất thôi. Này mấy cô, mấy cô đã cởi hết giải áo của nó. Tục ngữ Pháp có câu:

Trời tháng tư

Chớ từ bỏ áo.

Thấy ở đất có chiếc đinh ghim lấp lánh, ông vội nhặt lên ghim vào tay áo. Đoạn ông vừa đi đi lại lại trong Hộp Xanh, vừa khoa tay múa chân.

- Ta hoàn toàn làm chủ mọi tài năng của ta. Ta đang lúc sáng suốt, vô cùng sáng suốt. Ta thấy sự việc này rất phải, và ta tán thành điều đang xảy ra. Lúc nào nó dậy, ta sẽ bảo thẳng sự việc với nó. Tai họa sẽ đến ngay thôi. Không còn Guynplên. Chào Đêa. Mọi chuyện sắp xếp khéo thật! Guynplên vào tù, Đêa ra nghĩa địa. Hai đứa sẽ đối diện nhau. Đúng là điệu múa quỷ. Hai số kiếp rút lui vào hậu trường. Ta hãy cất hết quần áo. Đóng khoá vali lại. Vali, xin hiểu là quan tài. Hai sinh mạng ấy ra đi. Đêa không có mắt. Guynplên không có mặt. Trên kia Chúa lòng thành sẽ trả lại ánh sáng cho Đêa và vẻ đẹp cho Guynplên, chết là việc sắp đặt lại trật tự. Mọi chuyện đều tốt lành. Vinox, Fibi, móc trống vào đinh đi. Các cô ơi, cái tài làm ồn ào của các cô rồi đi hết. Sẽ không biểu diễn nữa, không thổi kèn nữa đâu. Hồng hoang chiến bại đã bị đánh bại. Thằng Cười tiêu ma. Kèn trống tịt hết. Đêa ngủ luôn. Con bé làm thế cũng đúng. Ở địa vị nó, ta cũng sẽ không dậy. Hừ! Rồi nó sẽ lại ngủ tiếp. Yếu đuối như thế thì chết ngay thôi. Dây vào chuyện chính trị là thế đấy. Một bài học nhớ đời! Chính quyền có lý thật! Giao Guynplên cho quận trưởng. Giao Đêa cho phu huyệt. Thế là song đôi. Đối xứng bổ ích cho hiểu biết. Mong rằng ông chủ quán đã đóng cửa cài then. Tối nay chúng ta sẽ cùng nhau chết trong nhà. Không phải ta, cũng không phải Ômô. Nhưng là Đêa. Ta, ta sẽ lại tiếp tục cho chiếc xe ngựa lăn bánh. Ta là con người của cuộc đời lang thang khúc khuỷu. Ta sẽ thải hai cô gái ra. Chẳng giữ lại cô nào cả. Ta có xu hướng trở thành một lão già trác táng. Một cô sen ở với một anh chàng phóng đãng, đúng là mỡ để miệng mèo. Ta không thích chuyện cám dỗ. Không hợp với tuổi ta nữa.

Turpe senilis amor[89]. Ta sẽ một mình đi tiếp con đường của ta với Ômô. Chính Ômô sẽ ngạc nhiên! Guynplên đâu? Đêa đâu? Anh bạn già ơi, thế là ta chỉ có mình với ta. Hừ, ta rất vui sướng. Những thơ ca mục đồng của chúng chỉ tổ làm rộn ràng ta. Hử! Cái thằng Guynplên chết tiệt, nó chẳng về nữa? Nó bỏ mặc chúng ta ở đây. Được rồi. Bây giờ đến lượt Đêa. Sẽ không lâu đâu. Ta thích những chuyện hoàn chỉnh. Chẳng dại gì búng mũi quỉ để ngăn cản nó chết. Cứ chết đi, mày nghe chứ! A! con bé dậy rồi!

Đêa mở mí mắt, vì có nhiều người mù ngủ cũng nhắm mắt. Gương mặt hiền hậu không biết gì của cô gái tươi sáng hẳn lên.

- Nó mỉm cười - Uyêcxuyt nói khẽ - còn ta thì cười.

Thế là tốt Đêa cất tiếng gọi:

- Fibi! Vinox! Sắp đến giờ biểu diễn rồi. Chắc em đã ngủ lâu lắm. Đến mặc áo cho em đi.

Cả Fibi và Vinox đều không nhúc nhích- Trong khi ấy vẻ nhìn khó tả trên đôi mắt mù của Đêa vừa gặp con ngươi của Uyêcxuyt. Ông rùng mình.

- Kìa! - ông quát to - chúng mày làm gì thế? Vinox, Fibi, chúng mày không nghe cô bảo gì à? Chúng mày điếc hay sao! Nhanh lên! Sắp biểu diễn rồi.

Cả hai cô gái ngơ ngác nhìn Uyêcxuyt.

Uyêcxuyt quát to:

- Chúng màykhông trông thấy công chúng kéo vào sao? Fibi, mặc áo cho Đêa. Vinox, nổi trống lên.

-Vâng lời là Fibi. Thụ động là Vinox. Cả hai cô đều là hiện thân của khuất phục. Đối với họ, ông chủ Uyêcxuyt lúc nào cũng bí hiểm. Không bao giờ để người khác hiểu được mình là một bí quyết để luôn luôn được vâng lệnh. Các cô chỉ nghĩ giản đơn là Uyêcxuyt điên, và cứ chấp hành mệnh lệnh. Fibi lấy áo, Vinox lấy trống ở móc xuống.

Fibi bắt đầu mặc áo cho Đêa. Uyêcxuyt hạ cái màn phòng khuê và, từ sau tấm màn, nói tiếp:

- Nhìn xem kìa, Guynplên! Công chúng đã tới đầy quá nửa sân rồi. Họ đang xô đẩy nhau ở các lối vào. Đông quá thể! Thế mà Fibi và Vinox cứ như không trông thấy, mày nghĩ xem. Mấy cô ả này thực là đần độn! Dân Ai Cập ngố quá! Đừng vén màn lên. Phải biết xấu hổ chứ. Đêa đang mặc áo đấy.

Ông nghỉ một tí rồi thình lình có tiếng thốt lên.

- Đêa xinh quá!

Đấy là giọng nói của Guynplên. Fibi và Vinox giật mình ngoảnh lại. Đúng là giọng Guynplên, nhưng qua mồm Uyêcxuyt.

Bằng dấu hiệu, qua kẽ màn, Uyêcxuyt cấm không cho hai cô gái ngạc nhiên.  Ông lại bắt chước giọng Guynplên:

- Thiên thần.

Rồi ông lại lấy giọng Uyêcxuyt:

- Đêa mà thiên thần; Mày điên đấy, Guynplên ạ. Chỉ có dơi là động vật có vú biết bay thôi.

Và ông tiếp luôn:

- À này Guynplên, đi thả Ômô ra đi. Như thế phải hơn.

Đoạn ông bước xuống cầu thang phía sau Hộp Xanh, rất nhanh, bắt chước điệu bộ nhanh nhẹn của Guynplên. Có tiếng ầm ĩ giả tạo mà Đêa có thể nghe được.

Ông bảo với tên hầu bàn ở ngoài sân, do câu chuyện ly kỳ này mà hoá ra thất nghiệp và tò mò.

- Chìa hai tay ra - ông nói thật khẽ với nó.

Và ông bỏ vào tay nó một nắm xu.

Gôvicâm cảm động trước cử chỉ hào hiệp đó.

Uyêcxuyt thì thầm vào tai nó:

- Này chú bé, chú ra đứng giữa sân, nhảy múa, đập phá, gào thét, la lối, huýt sáo, khẽ gù như bồ câu, hí vang như ngựa, vỗ tay dậm chân, cười toáng lên, đập vỡ một cái gì đó.

Xấu hổ vá chán nản thấy những người đến xem Thằng Cười quay lưng đi và kéo nhau sang các lán khác của bãi chợ phiên, ông Nicơlex đã đóng cửa quán rượu.

Ông ta còn từ chối không bán rượu tối hôm nay để tránh bị quấy rầy vì các câu hỏi; và do buổi biểu diễn không thành, trở nên rỗi việc, ông ta đứng trên ban công nhìn xuống sân, tay cầm một cây nến. Uyêcxuyt cố ý khum hai bàn tay quanh miệng, gào to:

- Ông ơi, ông cứ bắt chước thằng hầu bàn của ông, gào lên, sủa lên, rống lên.

Ông lại trèo lên Hộp Xanh và nói với con sói:

-Mày cố rống rõ to vào.

Rồi cao giọng:

- Đông quá thể. Ta e buổi biểu diễn gặp trắc trở mất thôi.

Trong khi ấy Vinox ra sức gõ trống.

Uyêcxuyt lai nói tiếp:

- Đêa đã mặc xong áo. Ta sắp bắt đầu, được rồi.

Tiếc rằng đã để công chúng vào nhiều quá. Họ chen chúc khiếp chưa! Kìa Guynplên! Có cả bọn dân đen thả lỏng! Tao đánh cuộc hôm nay sẽ thu được nhiều nhất. Nào, mấy cô nàng trơ trẽn, nổi nhạc lên chứ! Fibi, đến đây cầm lấy kèn. Được rồi, Vinox, khua trống của mày đi. Cứ nện thật khoẻ vào, Fibi, lấy tư thế thần Danh vọng đi. Các cô mình ơi, như thế chưa được hớ hênh lắm. Cứ lột quách mấy cái áo giaket kia ra. Thay đồ vải bằng đồ voan đi. Quần chúng vốn thích hình dáng đàn bà. Mặc cho mấy nhà đạo đức quát tháo. Khiếm nhã một tí thôi mà. Ta cứ khêu gợi. Và cứ chơi những khúc du dương cuồng loạn. Cứ rống to vào, cứ pop pop, pep pep, cứ thổi kèn, cứ gióng trống! Trời, bao nhiêu là người, Guynplên ơi!

Ông dừng lại:

- Guynplên, giúp tao một tay. Hạ cái bảng xuống.

Trong khi ấy ông mở khăn tay ra.

- Nhưng hẵng để tao gầm trong cái giẻ rách của tao đã.

Và ông xỉ mũi thật mạnh, vì người nói giọng bụng bao giờ cũng phải làm như thế.

Bỏ khăn vào túi xong, ông rút chốt ròng rọc, tiếng rít quen thuộc vang lên. Tấm bảng hạ xuống.

- Guynplên, không cần phải vén màn. Cứ để màn đến khi nào bắt đầu biểu diễn. Chúng ta sẽ không ở trong nhà. Cả hai cô ra phía trước sân khấu. Nổi nhạc lên đi, các cô! Pum! Pum! Pum! Khán giả rất đông đủ. Đây là cặn bã của dân chúng. Lạy Chúa tôi, bao nhiêu là dân đen.

Hai cô ả đực, ngơ ngác vâng lời, vội đem nhạc cụ đến ngồi vào chỗ quen thuộc ở hai góc tấm bảng đã bị hạ xuống.

Thế rồi Uyêcxuyt bỗng trở nên phi thường, ông không phải là một người nữa, mà cả một đám đông. Buộc phải lấy cái rỗng làm cái đầy, ông phải cầu cứu đến khoa nói giọng bụng điêu luyện. Toàn thể dàn nhạc giọng người và giọng súc vật trong người ông cùng nổi lên một lúc. Một mình ông mà như cả một đoàn người. Người nào nhắm mắt cũng tưởng như

mình đang đứng ở một quảng trường vào một ngày hội hay một ngày bạo động. Những tiếng nói lắp, những tiếng ồn ào, từ Uyêcxuyt phát ra như một cơn gió lốc, ca hát, hò reo, nói chuyện, khạc nhổ, hắt xì, hút thuốc, đối thoại, hỏi nhau, trả lời, tất cả cùng một lúc. Những âm tiết vừa thoạt phát lên xoắn vặn vào nhau. Trong cái sân chẳng có lấy một bóng người đó, người ta nghe có cả đàn ông, đàn bà, trẻ con. Đấy là cảnh hỗn độn rõ rệt của ồn ào. Qua cảnh nhốn nháo ấy, như qua một đám khói, len lách những âm điệu chướng tai kỳ lạ, những tiếng chim rúc, những tiếng mèo gào, những tiếng trẻ con vừa bú vừa khóc oa oa. Có cả tiếng khàn khàn của những anh say rượu. Tiếng chó không bằng lòng dưới chân những người đang càu nhàu. Tất cả các thứ giọng vọng đến từ xa, từ gần, từ trên, từ dưới, từ trước mặt, từ sau lưng. Toàn bộ là một cảnh ồn ào, chi tiết lại là một tiếng kêu. Uyêcxuyt đấm tay dậm chân, nói vọng từ cuối sân rồi lại thốt lên từ dưới đất. Vừa náo nhiệt vừa thân tình. Ông chuyển từ thì thầm sang rầm rộ, từ rầm rộ sang ầm ĩ, từ ầm ĩ sang cuồng loạn.

Ông vừa là ông vừa là tất cả. Độc thoại bằng đủ thứ tiếng. Có cái trò bịt mắt thì cũng có cái trò đánh lừa lỗ tai. Trò Prôtê diễn cho xem thì Uyêcxuyt diễn cho nghe. Không gì kỳ diệu bằng trò mô phỏng đám đông.

Thỉnh thoảng ông lại vén màn phòng khuê lên nhìn Đêa. Đêa vẫn lắng tai nghe ngóng.

Ngoài sân, về phía mình, tên hầu bàn vẫn gào thét như điên.

Vmox và Fibi vẫn ra sức thổi kèn và lồng lộn đánh trống.

Ông chủ Nicơlex, khán giả duy nhất, cũng như hai cô, lẳng lặng cho là Uyêcxuyt điên; vả lại như thế cũng chỉ là một chi tiết ảm đạm thêm vào nỗi buồn của ông ta thôi. Ông chủ khách sạn hiền lành lẩm bẩm: ồn ào quá thể! Lão vốn nghiêm khắc như người luôn luôn nhớ là có luật pháp.

Gôvicâm sung sướng thấy mình được việc trong cái trò nhốn nháo này, cũng cố lồng lộn như Uyêcxuyt. Nó lấy thế làm thích thú. Hơn nữa nó còn được tiền.

Omô vẫn tư lự.

Uyêcxuyt, ngoài việc làm ầm ĩ, còn nói xen thêm.

- Guynplên này, cũng như thường lệ, vẫn có âm mưu phá phách đấy. Bọn cạnh tranh với chúng ta muốn phá thắng lợi của chúng ta. Tiếng hò hét càng làm cho chiến thắng thêm ý vị. Với lại quần chúng đông quá. Họ không được thoải mái. Khuỷu tay họ không chịu để yên đâu. Cốt sao họ không làm gãy ghế thôi! Chúng ta, sẽ gặp một đám dân chúng điên cuồng đây. Chà! Chỉ anh bạn Tom-Jim-Jack có đây nhỉ! Nhưng anh ta không đến nữa. Mày xem, đầu người nọ gác lên đầu người kia.

Người đứng không có vẻ bằng lòng, mặc dù đứng, theo Galiêng, là một động tác mà con người vĩ đại ấy gọi là "động tác chủ âm". Chúng ta sẽ rút ngắn buổi diễn lại.

Và chỉ quảng cáo mỗi Hồng hoang chiến bại, ta sẽ không diễn Uyêcxuyt ru Uyêcxuyt. Thế cũng là dược rồi. Gớm, ầm ĩ quá sức! Ôi, vui nhộn của quần chúng! Thế nào họ cũng đã sẽ làm hỏng hết của ta cho xem! Nhưng không thể để mãi thế này được. Làm sao mà biểu diễn nổi.

Công chúng sẽ không nghe nổi một câu nào trong vở kịch. Tao phải ra nói với họ thôi. Guynplên, hé màn ra một tí.

Thưa quí ông, Đến đấy, Uyêcxuyt tự quát mình bằng một giọng yếu ớt và the thé? - Đả đảo lão già!!! Rồi ông lại nói, bằng chính giọng của ông, - Nghe như là dân chúng họ chửi ta. Xixêrông nói đúng: plebs, fexurbis[90]. Không cần, ta cứ có ý kiến với đám tiện dân. Làm cho họ nghe được sẽ vất vả đây.

Nhưng ta cũng cứ nói. Này anh chàng, hãy lo bổn phận của anh. Guynplên, thử nhìn cái mụ già mồm đang quang quác đàng kia kìa.

Uyêcxuyt im lặng một lúc, để xen vào một thứ tiếng rít. Ômô bị khiêu khích. cũng rít góp một tiếng thứ hai, và Gôvicâm một tiếng thứ ba.

Uyêcxuyt lại tiếp tục:

- Đàn bà tệ hơn đàn ông. Thời cơ không thuận tiện lắm. Mặc, ta cứ thử dùng quyền lực của lời nói xem sao.

Lúc nào cũng có thể hùng biện cả. Guynplên, nghe đây, khai đề mềm dẻo.

- Thưa quí ông quí bà, chính tôi là gấu. Tôi xin bỏ cái đầu tôi ra để có lời với quý vị. Tôi kính cẩn yêu cầu im lặng.

Uyêcxuyt thay quần chúng quát to:

- Xì!!!

Rồi lại tiếp tục:

- Tôi vốn kính trọng thính giả của tôi. Xì cũng là một thán từ như một từ khác. Xin chào quần chúng nhốn nháo. Tôi không bao giờ nghi ngờ việc tất cả quí vị đều là dân hạ lưu. Điều đó không làm giảm sút lòng quí mến của tôi chút nào. Một lòng quí mến có suy nghĩ. Tôi vốn kính trọng sâu sắc các ngài hay khoác lác, làm vinh dự cho tôi bằng kinh nghiệm của các ngài. Trong quí vị có những người dị hình dị tướng, tôi không hề vì thế mà phật ýđâu. Các ngài thọt chân, các vị lưng gù; con chồn chân trái ngắn hơn chân phải; sự việc đó đã được Arixtôt ghi nhận trong cuốn sách của ông nói về dáng đi súc vật. Trong các ngài. ai có hai chiếc áo lót thì một chiếc mặc trên người, một chiếc để ở nhà tên cho vay nặng lãi. Tôi biết đấy là việc thông thường. Ngày xưa Anbukec cũng đã cầm bộ ria và thành Đơni cầm vòng hào quang của mình. Dân Do thái vẫn cho vay, cho cầm hào quang nữa. Đấy là những tấm gương lớn. Có nợ có nần tức là cũng đã có một cái gì rồi. Tôi kính trọng những người khố rách trong quí vị.

Uyêcxuyt tự ngắt lời bằng câu nói giọng rất trầm:

- Tổ sư ngu!!!

Rồi ông lại trả lời bằng giọng hết sức lễ phép:

- Đồng ý. Tôi là một nhà thông thái. Tôi xin lỗi vì điều đó, trong chừng mực có thể. Tôi khinh miệt khoa học một cách khoa học. Ngu dốt là một thực tế mà người ta vẫn dùng để tự nuôi dưỡng; khoa học là một thực tế mà người ta vẫn phải kiêng cữ. Thông thường người ta buộc phải chấp nhận; làm nhà thông thái và chịu gầy ốm; gặm cỏ và làm một con lừa. Thưa quí vị một miếng ngon đâu. Tôi thích ăn miếng thăn bò hơn viết tên nó là yêu - cân. Tôi, tôi chỉ có một ưu điểm.

Là con mắt ráo hoảnh. Đúng như quí vị thấy, tôi không bao giờ khóc. Phải nói rằng tôi chưa bao giờ được vừa lòng. Chưa bao giờ vừa lòng. Kể cả vừa lòng tôi. Tôi khinh ghét bản thân tôi. Nhưng tôi xin thưa với các vị thuộc phái chống đối hiện có mặt, nếu Uyêcxuyt chỉ là một nhà thông thái, thì Guynplên là một nghệ sĩ.

Ông khịt mạnh lần nữa:

- Xì!!!

Và ông lại tiếp tục:

- Lại xì! Đó là một lời phản đối. Nhưng dù sao tôi cũng xin cho qua. Và Guynplên, thưa quí ông, quí bà, lại có bên cạnh một nghệ sĩ khác, chính nhân vật đặc sắc và có lông vẫn đi theo chúng tôi, lãnh chúa Ômô, trước kia là chó rừng, ngày nay là sói văn minh, và thần dân trong thành của nữ hoàng. Ômô tà một kép hát câm tài nghệ điêu luyện cao siêu. Xin quí vị hãy chăm chú và im lặng. Chốc nữa quí vị sẽ xem Ômô biểu diễn cũng như Guynplên, và phải biết tôn trọng nghệ thuật. Điều ấy mới hợp với những quốc gia lớn. Quí vị có phải là người rừng không? Tôi xin thừa nhận điều đó. Trường hợp ấy, sylvoe sint consule dignoe[91]. Hai nghệ sĩ cũng bằng một quan chấp chính. Được. Họ vừa ném vào tôi một cái lõi bắp cải. Nhưng không trúng. Việc ấy vẫn không ngăn cản được tôi nói. Ngược lại. Mối nguy thoát khỏi vốn hay ba hoa. Gacrula pericula[92], Guynplên nói thế. Quần chúng trong quí vị có những ông say rượu! Cũng có cả những bà rượu say. Tốt lắm. Đàn ông hôi như cú, đàn bà xấu như ma. Quí vị có đủ mọi lý do tuyệt diệu để đến chen chúc trên những cái ghế quán rượu này, do vô công rỗi nghề, do lười biếng, do quãng cách giữa hai vụ trộm, do rượu poocte, rượu mạnh, rượu táo, mạch nha, rượu branđy, rượu gin, và sức quyến rũ của trai gái. Tuyệt lắm. Đây là cho tất cho kẻ nào thích chớt nhả. Nhưng tôi thì phải nhịn. Dâm dật, cũng được. Tuy nhiên chè chén say sưa cũng phải giữ gìn tư thế chứ. Quí vị vui nhộn, nhưng ầm ĩ quá. Quí vị có tài bắt trước tiếng súc vật; nhưng quí vị sẽ bảo sao nếu trong khi quí vị thì thầm tình tự với bạn gái trong phòng bán nguyệt, mà tôi lại cứ ăng ẳng bên tai quí vị? Như thế quí vị sẽ khó chịu.

Vậy thì như thế sẽ làm chúng ta khó chịu. Tôi cho phép quí vị được im lặng. Nghệ thuật cũng đáng được kính trọng như trác táng. Tôi nói với quí vị một cách đúng đắn đấy.

Ông tự mắng mình:

- Ôn vật lão, với bộ lông mày chổi sể của lão.

Và ông đáp lại:

- Thưa ông đáng tôn kính, ta hãy để yên những cái chổi sể đấy. Bắt ép cây cỏ phải giống như người hay thú vật là điều vô đạo đấy! Vả lại ôn dịch có bao giờ vật cổ đâu. Hình ảnh ấy không dùng. Xin quí vị làm ơn im lặng cho! Xin quí vị cho phép được nhắc nhở, quí vị hơi thiếu cái tính chất oai nghiêm, đặc điểm của người quí tộc Anh thực sự. Tôi nhận thấy trong số quí vị, người nào đi giầy thủng để lòi ngón ra cũng đều lợi dụng việc đó để gác chân lên những khán giả phía trước, thành thử buộc các bà phải nhận xét rằng đế giầy luôn thủng ở đầu xương bàn chân. Các ngài nên bớt giơ bàn chân và nên chìa bàn tay ra nhiều hơn. Từ trên này, tôi nhìn thấy có những tên lưu manh đang thọc móng vuốt tài tình của chúng vào túi những con người khờ dại bên cạnh. Các chàng móc túi thân mến ơi, nên biết ngượng một tí. Các chàng muốn đánh đấm đồng bào thì tuỳ ý, nhưng chớ bóc lột họ. Bị các người đấm sưng mắt, người ta không giận bằng bị các người xoáy mất một xu. Các người cứ việc hủy hoại mặt mũi, được. Dân tư sản quí tiền bạc hơn sắc đẹp. Vả lại, xin các người hãy nhận những thiện cảm của tôi. Tôi không hề có cái tính dỏm đời là miệt thị dân kẻ cắp đâu. Điều xấu vẫn luôn luôn tồn tại. Mọi người đều chịu đựng điều xấu, và mọi người đều làm điều xấu. Không ai không có sâu bọ tội lỗi của mình. Tôi chỉ nói loại sâu họ ấy thôi. Tất cả chúng ta ai chẳng có chỗ ngứa? Chúa gãi khi chúa bị quỉ sứ châm.

Bản thân tôi, tôi cũng có lỗi. Plaudite, cives[93].

Uyêcxuyt phác một cử chỉ dài, rồi nói át bằng những lời lời cuối cùng này:

- Thưa quí vị huân tước và quí ông, tôi thấy bài nói của tôi đã được hân hạnh làm mất lòng quí vị. Tôi xin cáo biệt các lời hò hét của quí vị một lúc. Bây giờ tôi xin đội lại cái đầu của tôivào và buổi diễn sắp bắt dầu.

Ông bỏ giọng diễn thuyết để lấy giọng thân mật:

Guynplên, mày nghĩ thế nào về tất cả cái lũ lưu manh ấy? Như người ta biết, từ bốn mươi năm nay nước Anh đã phải chịu đựng bao nhiêu khổ cực vì sự khích động của những đầu óc cay độc và ranh ma này! Người Anh xưa kia hiếu chiến, còn bọn này đa sầu và dị giác, họ tự đắc khinh miệt luật pháp, bất chấp uy quyền nhà vua. Tao đã làm tất cả những gì mà tài hùng biện của con người có thể làm được. Tao đã không tiếc dùng những hoán dụ đẹp đẽ như má chàng trai mới lớn. Họ dã dịu đi chưa? Đáng ngờ lắm. Còn chờ đợi gì ở một dân tộc ăn uống quá ư kỳ lạ, lúc nào cũng nhồi nhét thuốc lá, đến mức ở xứ này cả những ông nhà văn thường thường sáng tác cũng phải ngậm tẩu ở miệng! Không cần, ta cứ diễn thôi.

Có tiếng vòng treo màn trượt trên lao sắt. Tiếng trống của hai cô gái đực cũng chấm dứt. Uyêcxuyt lấy bộ quần áo rách trên móc xuống. diễn phần giáo đầu, nói khẽ. "Hừ, Guynplên, bí mật thôi!" đoạn ông xô đẩy với con sói.

Trong khi ấy, cùng lúc lấy bộ áo rách, ông đã lấy ở đinh xuống bộ tóc giả rối bù và vứt nó vào một góc sàn gần tầm tay.

Buổi diễn vở Hồng hoang chiến bại tiến hành gần như thường lệ, nhưng bớt phần ánh sáng xanh và các thứ đèn thần. Con sói cũng diễn rất tận tình. Vào lúc định sẵn, Đêa xuất hiện, rồi bằng giọng nói run run và thán thành, cô kêu gọi Guynplên. Cô giơ hai tay ra, tìm cái đầu nó. Uyêcxuyt nhảy bổ đến bộ tóc giả, vò bù nó lên, đội nó vào, rồi nhẹ nhàng- vừa nín thở, tiến cái đầu bù vào bàn tay Đêa.

Đoạn tập trung hết tài nghệ và bắt chước giọng nói của Guynplên, với một tình yêu rất khó tả, ông hát lời con quái vật đáp lại tiếng gọi của thần linh.

Tài bắt chước khéo quá khiến, lần này nữa, hai cô ngỗng đực lại đưa mắt tìm Guynplên, và tỏ ra hốt hoảng vì nghe tiếng mà không thấy Guynplên.

Gôvicâm, kinh ngạc, giẫm chân, hoan hô, vỗ tay, làm ầm ỹ kinh khủng, và một mình cười như có cả một tốp thần linh. Phải công nhận là tên hầu bàn này phát huy một tài nghệ khán giả hiếm có.

Fibi và Vinox, những người máy do Uyêcxuyt bấm lò xo, lại làm rùm beng như thông lệ với số nhạc cụ bằng đồng và da lừa để chấm dứt buổi biểu diễn và tiễn công chúng ra về.  Uyêcxuyt ngẩng lên, mồ hôi ướt đầm.

Ông nói khẽ với Ômô: - Mày hiểu không, phải kéo dài thời gian. Tao cho là chúng mình đã thành công. Tao đã xoay sở không đến nỗi tồi, vậy mà chính tao là người có quyền lo lắng cuối cùng. Từ nay đến mai.

Guynplên còn có thể trở về đây, không cần phải giết chết Đêa ngay. Tao giải thích sự việc cho mày biết đấy.

Ông bỏ bộ tóc giả ra và lau trán.

- Ta là một tay nói giọng bụng thiên tài - ông thì thầm. - Tài của ta thật bất hủ. Ta có thể sánh với Brabăng, tay nói giọng bụng của vua Pháp, Frăngxoa đệ Nhất. Đêa yên trí là Guynplên vẫn đang ở đây.

Bố ơi - Đêa nói - Guynplên đâu?

Uyêcxuyt giật mình quay lại.

Đêa đang đứng ở cuối sân khấu, dưới cái đèn treo trên trần. Mặt tái mét. Cô nói tiếp với một nụ cười thất vọng khó tả.

- Con biết. Anh ấy đã rời bỏ chúng ta. Anh ấy đã đi rồi. Con biết là anh ấy có cánh mà.

Và ngước đôi mắt trắng dã nhìn vào cõi vô biên, cô nói thêm:

- Còn con thì bao giờ đây? 

3. NHỮNG CHUYỆN RẮC RỐI.

Uyêcxuyt đứng sững sờ.

Ông đã không đánh lừa dược.

Có phải lỗi tại tài nói giọng bụng của ông không?

Chắc chắn là không. Ông đã đánh lừa được Fibi và Vinox có mắt, chứ không lừa nổi Đêa mù. Vì ở Fibi và Vinox chỉ có con người là sáng suốt, còn ở Đêa chính trái tim đã nhìn thấy rõ.

Ông không thể trả lời một tiếng nào. Và ông nghĩ thầm Bos in lingua[94]. Người sửng sốt có một con bò trên lưỡi.

Trong những cảm kích phức tạp, nhục nhã là cảm xúc xuất hiện đầu tiên. Uyêcxuyt thầm nghĩ:

- Ta đã hoài phí tài bắt chước tiếng của ta.

Và như mọi người mơ mộng bị dồn đến chân tường không còn phương sách gì nữa, ông tự sỉ vả.

- Thất bại hoàn toàn. Thế là ta đã hoài công dùng hết cách để hòa âm. Bây giờ rồi ta sẽ ra sao đây?

Ông nhìn Đêa. Cô vẫn im lặng, mỗi lúc một thêm tái nhợt không nhúc nhích. Cặp mắt mù vẫn đăm đăm nhìn vào chốn xa vời.

Một sự kiện bỗng đến kịp thời.

Uyêexuyt thoáng thấy trong sân ông chủ Nicơlex tay cầm đèn, ra hiệu với mình.

Ông Nicơlex không dự phần cuối vở kịch ma do Uyêcxuyt đóng. Vì có người gõ cửa quán rượu, ông Nicơlex phải đi mở cửa. Có hai lần gõ cửa, thành thử ông chủ Nicơlex vắng mặt hai lượt. Mải bận với bài độc thoại trăm giọng nên Uyêcxuyt không biết việc đó.

Thấy ông chủ Nicơlex câm lặng vẫy, Uyêcxuyt bước xuống. Ông đến gần người chủ khách sạn.

Uyêcxuyt để một ngón tay lên miệng.

Ông Nicơlex cũng để một ngón tay lên miệng.

Cả hai cứ thế nhìn nhau.

Người này bảo với người kia: Ta nói chuyện, nhưng cần phải kín miệng.

Ông chủ tiệm lẳng lặng mở căn phòng thấp của quán rượu. Ông Nicơlex bước vào, Uyêcxuyt bước vào.

Ngoài họ ra không có ai hết. Mặt hàng nhìn ra đường, cả cửa trong lẫn cửa ngoài đều đóng kín. Ông chủ quán đóng sập cái cửa ra sân lại, làm anh chàng Gôvicâm tò mò chưng hửng.

Ông Nicơlex đặt đèn lên bàn.

Cuộc đối thoại bắt đầu. Giọng nói rất khẽ như tiếng thì thầm.

- Ông Uyêcxuyt

- Gì thế ông Nicơlex?

- Cuối cùng thì đã hiểu ra.

- Ô hay!!!

- Ông muốn làm cho con bé mù đáng thương tin rằng ở đây mọi việc vẫn bình thường.

- Chẳng có luật nào cấm nói giọng bụng.

- Ông có tài đấy.

- Không.

- Thật thần tình hết sức, ông muốn nói gì cũng được.

- Tôi bảo ông là không mà.

- Bây giờ tôi có điều muốn nói với ông.

- Chuyện chính trị chăng?

- Tôi cũng chẳng biết.

- Tôi sẽ không nghe đâu.

- Đây. Trong lúc ông một mình diễn vở tuồng và đóng vai công chúng, có người gõ cửa tiệm rượu.

- Có người gõ cửa à?

- Phải.

- Tôi không thích chuyện đó.

- Tôi cũng vậy.

- Rồi sao?

- Rồi tôi ra mở.

- Ai gõ thế.

- Người đã nói với tôi.

- Y nói gì?

- Tôi đã nghe y.

- Ông đã trả lời thế nào?

- Chẳng trả lời gì cả. Tôi đã trở vào xem ông diễn.

- Thế rồi?

- Rồi có người gõ cửa lần thứ hai.

- Ai? Vẫn người ấy sao.

- Không. Người khác.

- Lại một người nữa đã nói với ông?

- Một người chẳng nói gì với tôi cả.

- Tôi thích hắn ta hơn.

- Tôi thì không.

- Ông nói rõ đi, ông Nicơlex.

- Ông thử đoán xem người đã nói lần đầu là ai.

- Tôi không có thì giờ làm Ơđip[95].

- Đấy là ông chủ rạp xiếc.

- Bên cạnh đây?

- Bên cạnh đây ?

- Nơi có dàn nhạc điên?

- Điên.

- Thế rồi?

- Thế rồi này ông Uyêcxuyt, lão muốn đề nghị với ông.

- Đề nghị à?

- Đề nghị.

- Tại sao?

- Là vì.

- Ông Nicơlex ạ, ông hơn tôi một điểm, vì ban nãy ông hiểu được điều bí ẩn của tôi, còn tôi, bây giờ, tôi lại không hiểu bí ẩn của ông.

- Lão chủ rạp xiếc cậy tôi nói với ông rằng sáng nay lão đã trông thấy đoàn cảnh binh đi qua, rằng lão là chủ rạp xiếc, lão muốn tỏ ra là bạn của ông, lão đề nghị mua lại của ông, với giá năm mươi livrơ xteclinh tiền mặt, cái xe, cái Hộp Xanh, hai con ngựa, kèn trống với cả mấy cô thổi kèn, vở tuồng của ông, với cô mù hát theo, con sói, và cả ông nữa.

Uyêcxuyt mỉm cười khinh mạ.

- Ông chủ quán Tacaxtơ này, ông nói với ông chủ rạp xiếc rằng Guynplên sẽ trở về.

Người chủ quán cầm một vật gì đó trên cái ghế trong bóng tối, và ngoảnh lại phía Uyêcxuyt, giơ cao cả hai cánh tay, để thõng ở bàn tay này một chiếc áo khoác.

Ở bàn tay kia một chiếc lá sen bằng da, một cái mũ da và một áo len thủy thủ.

Ông Nicơlex nói:

- Người gõ cửa lần thứ hai là một viên cảnh binh, y chẳng nói chẳng rằng, đi vào rồi lại đi ra, và đã đưa thứ này đến.

Uyêcxuyt nhận ra miếng lá sen, chiếc áo len, cái mũ và tấm áo khoác của Guynplên.

4. MOEDIBUS SURDLS CAMPANA MUTA[96]

Uyêcxuyt nắn nắn lớp da mũ, lần da áo khoác, lớp len chiếc áo thủy thủ, lần da tấm lá sen, không thể ngờ vực gì nữa về những di vật ấy, và bằng một cử chỉ ngắn gọn, hách dịch, chẳng nói một lời, chỉ cho ông Nicơlex cánh cửa quán rượu.

Ông Nicơlex mở cửa.

Uyêcxuyt liền lao bổ ra khỏi quán.

Ông Nicơlex nhìn theo và thấy Uyêcxuyt đang đem hết sức tàn của đôi chân già chạy về hướng sáng nay viên thiết trượng quan đã dẫn Guynplên đi. Mười lăm phút sau Uyêcxuyt hổn hển đến cái ngõ, nơi có cái tổng nhà ngục nhỏ Xaothuak, và là nơi ông đã đứng quan sát suốt mấy tiếng đồng hồ.

Ngõ này không cần phải đến nửa đêm mới vắng vẻ.

Nhưng ban ngày nó buồn, còn ban đêm thì đáng nghi ngại. Quả một giờ nào đó, chẳng ai dám mạo hiểm bén mảng đến đấy. Dường như người ta sợ hãi bức tường xích lại gần nhau, và nếu nhà tù và nghĩa địa bỗng giở chứng ôm hôn nhau thì người ta hãi bị chết chẹt vì cử chỉ âu yếm ấy. Ảnh hưởng đến đêm tối, những cây liễu cụt của ngõ Vôve ở Paris cũng vì thế mà mang tiếng không hay. Người ta cho rằng ban đêm những cành cụt còn lại ấy biến thành những bàn tay to tóm chặt lấy những người qua đường.

Như chúng tôi đã nói, do bản năng, nhân dân Xaothuak vẫn tránh cái phố giữa nhà tù và nghĩa địa này. Trước kia, ban đêm phố được chắn bằng một sợi xích sắt. Thật là vô ích vì sợi xích tốt nhất để chấn giữ đường phố này là nỗi sợ hãi do đường phố gây nên.

Uyêcxuyt cương quyết đi vào phố.

Ông đang có ý nghĩ gì. Chẳng có ý nghĩ gì cả.

Ông đến phố này khi được biết tin. Ông có định gõ cửa nhà ngục không? Chắc chắn là không. Phương sách hãi hùng và vô hiệu ấy không nảy ra trong đầu óc ông.

Mưu toan vào đấy để hỏi một tin tức chăng? Có mà điên.

Nhà tù không mở cửa cho kẻ muốn ra thì cũng chẳng mở cho khách muốn vào. Bản lề nhà tù chỉ xoay theo luật pháp. Điều đó Uyêcxuyt thừa biết. Vậy ông đến phố này làm gì. Để nhìn. Nhìn gì? Chẳng nhìn gì cả? Nhìn cái không biết. Nhìn cái có thể nhìn. Lại đến trước cánh cửa, nơi Guynplên đã biến mất, thế cũng đã là một việc rồi. Đôi khi bức tường đen tối nhất, cau có nhất, cũng lên tiếng. Và giữa những hòn đá cũng có một tí ánh sáng thoát ra. Đôi khi từ một đống đổ nát, kín mít tối tăm vẫn có chút ánh mờ. Quan sát bề ngoài một sự việc là một cách nghe ngóng bổ ích. Chúng ta đều có cái bản năng chỉ để một quãng cách hết sức nhỏ hẹp giữa ta và sự việc ta đang quan tâm. Vì vậy mà Uyêcxuyt đã trở lại cái ngõ có lối vào thấp lè tè của nhà lao.

Đúng lúc đặt chân vào ngõ, ông bỗng nghe một tiếng chuông, rồi lại tiếng thứ hai.

- Kìa - ông nghĩ bụng - đã nửa đêm rồi sao.

Bất giác ông bắt đầu đếm.

- Ba, bốn, năm.

Ông ngâm nghĩ:

- Tiếng chuông cách nhau xa thật! Chậm quá! Sáu, bảy.

Và ông nhận xét:

- Âm thanh gì mà bi thảm thế! Tám, chín. A! Còn gì đơn giản hơn. Ngồi trong nhà tù thì đến đồng hồ cũng phải ủ rũ. Mười. Với lại nghĩa địa ở ngay đây. Cái chuông này vừa báo giờ cho người sống vừa báo kiếp ngàn thu cho người chết. Mười một. Chao ôi! Nhất nhật tại tù như thiên thu tại ngoại[97]. Mười hai.

Ông dừng lại.

- Đúng. Nửa đêm rồi.

Chuông bỗng điểm tiếng thứ mười ba.

Uyêcxuyt rùng cả mình.

- Mười ba!!!Lại có tiếng thứ mười bốn. Rồi tiếng thứ mười lăm.

- Thế nghĩa là thế nào?

Tiếng chuông vẫn tiếp tục cách quãng khá dài.

Uyêcxuyt lắng nghe.

- Không phải chuông đồng hồ.

- Đây là chuông Muta. Hèn gì mình bảo nửa đêm sao lại gõ lâu thế!!!Chuông này có gõ đâu, nó thánh thót. Có gì buồn thảm xảy ra thế không biết?

Ngày xưa, các nhà tù cũng như các tu viện đều có chuông riêng, gọi là chuông muta, dành cho những trường hợp buồn bã. Muta, "chuông câm", là một thứ chuông thánh thót rất khẽ, có vẻ như cố sức không cho ai nghe thấy.

Uyêcxuyt lại đến đứng ở chỗ thuận tiện cho việc rình nấp, nơi ông đã theo dõi được nhà tù phần lớn ngày hôm nay.

Tiếng thánh thót vẫn nối tiếp nhau cách quãng rùng rợn.

Lối chấm câu của tiếng chuông nguyện trong không trung thật là độc ác. Nó đánh dấu những đoạn buồn bã trong lo lắng của con người. Tiếng chuông nguyện không khác gì tiếng cười rên rỉ. Báo hiệu giờ phút lâm chung. Nếu đây đó trong các gia đình ở quanh vùng chuông điểm đây đó có những giấc mơ đang chờ đợi thì tiếng chuông nguyện kia cắt chúng ra từng đoạn cứng nhắc. Mơ mộng mông lung là một kiểu trốn tránh; trong khắc khoải thường có một cái gì lờ mờ giúp cho hy vọng nẩy sinh. Tiếng chuông nguyện, sầu thảm, xác định rõ ràng. Chuông nguyện hủy bỏ trạng thái lờ mờ ấy, và trong trạng thái vẩn đục mà lo lắng cố đứng lơ lửng, chuông nguyện buộc nó phải lắng xuống thành chất kết tủa. Tiếng chuông nguyện tuỳ từng người mà nói theo chiều hướng buồn phiền hay sợ hãi của họ. Tiếng chuông bi đát ư, điều đó liên quan đến anh. Cảnh cáo.

Không gì ảm đạm bằng một bản độc thoại theo nhịp điệu đó. Nhưng lần quay lại đều đều biểu thị một ý định. Chiếc búa ấy - tức là cái chuông - định rèn gì trên cái đe ấy ? - tức là trên tư tưởng.

Uyêcxuyt cứ miên man đếm những tiếng thánh thót của hồi chuông nguyện, mặc dầu chẳng có mục đích gì cả. Cảm thấy mình đang trên đà trôi trượt, ông cố tránh không phỏng đoán gì cả. Phỏng đoán là một dốc trên đó con người thường đi quá xa vô ích. Tuy nhiên từng chuông kia có nghĩa là thế nào?

Ông nhìn vào bóng tối, chỗ ông biết có cái cửa nhà lao. Thình lình đúng chỗ ấy, chỗ cái lỗ đen ngòm, bỗng có một vệt đỏ. Vệt đỏ cứ lớn dần và trở thành một ánh sáng.  Vệt đỏ ấy không có vẻ gì là một ánh mờ mờ. Nó có ngay hình dáng và góc cạnh. Cánh cửa nhà ngục vừa mới xoay trên bản lề. Vệt đỏ làm nổi bật hình tò vò và khung cửa.

Nó chỉ hé ra chứ không mở hắn. Nhà tù có bao giờ mở to, nó chỉ mở hé. Có lẽ vì buồn phiền.

Cái cửa cổng để cho một người đi qua, tay cầm bó đuốc.

Tiếng chuông vẫn không gián đoạn. Uyêcxuyt cảm thấy bồn chồn vì hai mối bận tâm; ông đứng im, tai chăm chú nghe tiếng chuông nguyện, mắt chăm chú nhìn bó đuốc.

Sau khi người kia đi qua, cánh cửa, từ nãy chỉ hé, mở rộng hẳn và để cho hai người nữa ra, rồi một người thứ tư. Người thứ tư này là lão thiết trượng quan, trông rất rõ nhờ ánh đuốc. Lão vẫn cầm cái gậy sắt trong tay.

Theo sau lão thiết trượng, từ dưới cổng tò vò, một số người lặng lẽ tiến ra, thứ tự, hai anh một, cứng đờ như một dãy cột biết đi.

Đoàn người trong đêm khuya ấy cứ từng cặp từng cặp vượt qua cánh cửa thấp lè tè, như những cặp đôi trong một đám rước của những người ăn năn tội, không gián đoạn, với một cố gắng bi thảm không gây tiếng động, trang trọng, hầu như nhẹ nhàng. Một con rắn trườn ra khỏi một cái lỗ cũng thận trọng như thế.

Ngọn đuốc làm nổi bật các bộ mặt nhìn nghiêng sáng nay đã dẫn Guynplên đi.

Không còn nghi ngờ gì nữa. Vẫn những người ấy. Họ xuất hiện lại.

Tất nhiên rồi Guynplên cũng sẽ xuất hiện.

Họ đã dẫn nó đến đấy, bây giờ họ đang dẫn nó ra.

Thật rõ ràng.

Mắt Uyêcxuyt càng chăm chú hơn. Họ có thả Guynplên ra không?

Hai hàng cảnh sát từ mái vòm thấp tuôn ra rất thong thả, như từng giọt một. Tiếng chuông vẫn không ngừng, như gõ nhịp cho bước đi. Ra khỏi nhà tù, đoàn người ngoảnh lưng lại Uyêcxuyt, rẽ sang phải, đi vào đoạn phố đối diện với đoạn ông đứng nấp.

Một ngọn đuốc thứ hai bỗng sáng lên dưới cổng tò vò.

Dấu hiệu đoàn người sắp chấm dứt.

Uyêcxuyt sắp thấy họ đem cái gì đi. Tên tù nhân.

Con người ấy.

Uyêcxuyt sắp thấy Guynplên.

Cái họ đem đi xuất hiện kia rồi.

Đấy là một chiếc quan tài.

Bốn người khiêng một chiếc quan tài trên phủ một tấm dạ đen.

Theo sau họ, một người đàn ông vác xẻng.

Một ngọn đuốc thứ ba bập bùng trong tay một nhân vật đang đọc một quyển sách. Ông này chắc phải là một thầy tư tế kết thúc đoàn người.

Chiếc quan tài nhập vào đoàn cảnh sát, đã rẽ sang phải.

Đồng thời đầu đoàn người đứng lại.

Uyêcxuyt nghe tiếng chìa khoá rít ken két.

Đối diện với nhà lao, trong bức tường thấp chạy dài bên kia phố, một lỗ cửa thứ hai chợt sáng lên nhờ một ngọn đuốc đi qua phía dưới.

Cánh cửa ấy, bên trên ta nhận thấy có chiếc đầu lâu, là cửa nghĩa địa.

Lão thiết trượng bước qua cái cửa ấy, tiếp đến là mấy người đàn ông, rồi ngọn đuốc thứ hai sau ngọn đuốc thứ nhất; đoàn người cứ ngắn dần như con rắn chui đầu vào hang; toàn bộ đoàn cảnh sát chui vào trong bóng tối thứ hai bên kia cửa, rồi chiếc quan tài, rồi người vác xẻng, rồi thầy tư tế với cây đuốc, với quyển sách, và cánh cửa lại đóng kín lại.

Chỉ còn mỗi chút ánh sáng le lói, phía trên một bức tường.

Văng vẳng có liếng nói lào thào, rồi tiếng thùm thụp.

Chắc hẳn thầy tư tế và người phu đào huyệt đang hắt lên chiếc quan tài, một người hắt những câu kinh, một người hắt những xẻng đất.

Tiếng lào thào chấm dứt, tiếng thùm thụp cũng chấm dứt.

Có tiếng rục rịch, các ngọn đuốc sáng lên, lão thiết trượng lại đi qua, tay giơ cao chiếc gậy sắt, dưới cái cánh cửa mở lại của nghĩa địa, rồi thầy tư tế quay ra với quyển sách, người đào huyệt với cái xẻng, đoàn người tái hiện không có quan tài; hàng người đôi vẫn âm thầm theo hành trình cũ giữa hai cánh cửa nhưng ngược chiều, cánh cửa nghĩa địa lại đóng vào, cánh cửa nhà tù lại mở ra, cái vòm mộ địa của chiếc cổng tò vò lại nổi lên.

Đường hành lang tối mò lại mờ mờ xuất hiện, cảnh đêm đen dày đặc của nhà ngục lại rành rành trước mắt, và toàn bộ hình ảnh ấy lại chui hết vào trong bóng tối.

Tiếng chuông nguyện tắt hẳn. Im lặng. Ổ khoá bi thảm của tăm tối đến chấm dứt tất cả.

Bóng ma tan biến. Chỉ có thế thôi.

Một đoàn yêu quái đi qua rồi tiêu tán.

Cứ xích gần nhưng việc trùng hợp lôgic lại, cuối cùng sẽ tạo thành một cái gì giống như điều tất yếu. Sau việc Guynplên bị bắt, sau lối bắt bớ thầm lặng đó, đến số quần áo do cảnh sát đem về, đến tiếng chuông nguyện của nhà tù nơi nó bị dẫn tới, lại ghép thêm, ta cần nói rõ hơn, điều bi đát trên đây, một chiếc quan tài hạ huyệt.

- Nó chết rồi. - Uyêcxuyt thét lên.

Ông ngồi phịch xuống một cái cột mốc.

- Chết! Họ giết nó rồi! Guynplên ơi! Con ơi! Con trai của bố ơi!!!

Rồi ông khóc nức nở.

5. LỢI ÍCH QUỐC GIA THỂ HIỆN CẢ TRONG VIỆC NHỎ LẪN VIỆC LỚN.

Than ôi! Uyêcxuyt vẫn tự hào không bao giờ khóc.

Bình lệ đã đầy. Một tình trạng chứa chan như vậy, dồn trong từng giọt từng giọt, hết đắng cay này đến chua xót khác, suốtcả một cuộc đời đằng đẵng, đâu phải trong chốc lát mà vơi hết được ngay. Uyêcxuyt thổn thức rất lâu.

Giọt lệ đầu tiên như một mũi kim châm cứu. Ông khóc cho Guynplên, cho Đêa, cho bản thân Uyêxuyt, cho Ômô. Ông khóc như một trẻ thơ. Ông khóc như một người già. Ông khóc vì tất cả những gì ông đã chê cười.

Giờ đây ông thanh toán nốt chỗ còn lại. Quyền được khóc của con người có bao giờ quá hạn.

Có điều người chết vừa được hạ huyệt kia lại là Acquanon; nhưng Uyêcxuyt đâu có buộc phải biết chuyện ấy.

Nhiều giờ đã trôi qua.

Trời bắt đầu rạng, tấm khăn nhợt nhạt của trời mai lại trải ra trên bãi cỏ với những nếp tối mờ mờ. Bình minh đến quét trắng mặt trước quán Tacaxtơ. Ông Nicơlex vẫn chưa đi nằm, vì đôi khi vẫn một sự việc mà người ta mất ngủ mãi.

Tai họa bao giờ cũng tỏa ra khắp bốn phía. Bạn thử ném một hòn đá xuống nước, rồi hãy đếm những tia nước tung tóe lên xem.

Ông Nicơlex cảm thấy mình cũng bị động chạm. Thật khó chịu khi có những sự biến ở trong nhà mình. Không được yên tâm lắm và cảm thấy có nhiều chuyện lôi thôi, ông Nicơlex đâm ra tư lự. Ông hối tiếc là đã đón "những của nợ" về nhà - Giá mà ông biết trước thế này! - Cuối cùng rồi chúng sẽ đem tai họa đến cho ông. Bây giờ làm thế nào mà tống khứ được chúng nó đây? - Ông có hợp đồng cho thuê với Uyêcxuyt. Nếu giẫy được lão ra, thì còn gì may bằng! - Làm thế nào đuổi được chúng bây giờ?

Bỗng có tiếng đập ầm ầm vào cửa quán rượu; ở nước Anh những tiếng như vậy báo hiệu có người quan trọng. Âm điệu tiếng đập cửa tương ứng với cấp bực của quan giai.

Tiếng đập cửa không hẳn là của một huân tước.

Nhưng đúng là của một pháp quan.

Chủ quán, run bần bật, khẽ hé cánh cửa thông gió.

Đúng có một pháp quan, ông Nicơlex thấy ở cửa nhà mình, qua ánh sáng lúc tinh mơ, một tốp cảnh sát, đứng đầu nổi bật lên hai người, trong đó có viên pháp quan định túc số.

Sáng qua ông Nicơlex đã được thấy viên pháp quan định túc số rồi, nên ông nhận ra lão ngay.

Người kia ông không biết.

Tay này là một con người lịch sự phì nộn, mặt bủng beo mầu sáp ong, đội tóc giả theo thời lưu và khoác áo choàng đi đường.

Ông Nicơlex rất sợ nhân vật thứ nhất, viên pháp quan định túc số. Giá ông được ra vào chốn cung đình, ông còn sợ tay thứ hai hơn nữa, vì đấy là Backinphêđrô.

Một người trong toán đập cửa lần thứ nhì, thật mạnh.

Chủ quán, lo lắng toát cả mồ hôi trán, vội mở cửa ra.

Viên pháp quan, với giọng nói của một người có trọng trách cảnh sát và rất hiểu biết về bọn du đãng, cất cao giọng hỏi một cách nghiêm khắc:

- Ông Uyêcxuyt đâu?

Lão chủ quán bỏ mũ xuống đáp:

- Bẩm quan lớn. Ở đây ạ.

- Ta biết rồi - viên pháp quan nói.

- Cố nhiên là thế ạ, bẩm quan lớn.

- Bảo ông ta đến đây.

- Bẩm quan lớn, ông ta không có nhà.

- Ông ta đi đâu?

- Bẩm tôi không rõ.

- Sao vậy?

- Ông ta chưa về.

- Thế ông ta ra đi sớm lắm sao?

- Bẩm không. Nhưng ông ta ra đi rất muộn.

- Quân du đãng! - viên pháp quan tiếp.

- Bẩm quan lớn - ông Nicơlex nói khẽ - ông ta kia rồi.

Quả thật, Uyêcxuyt vừa xuất hiện ở một góc tường.

Ông vừa về đến quán rượu. Gần như suốt cả đêm ông chỉ đứng giữa nhà ngục nơi mà từ trưa ông đã thấy Guynplên chui vào, và nghĩa địa, nơi mà nửa đêm ông đã nghe tiếng đất lấp huyệt. Mặt ông tái nhợt vì hai nhẽ, vì buồn rầu và vì ánh mai chạng vạng.

Tinh mơ, một thứ ánh sáng tù mù ở trạng thái phôi thai, để lại những hình dáng, kể cả những hình dáng, cửa động, lẫn lộn với bóng đêm mờ ảo. Uyêcxuyt, xanh nhợt, lờ mờ, bước thất thểu, giống hệt một bóng người trong mộng.

Trong cuộc giải trí độc ác của lo âu này, ông đã từ quán rượu ra đi đầu trần. Ông cũng không nhận thấy là mình không đội mũ nữa Mớ tóc xám lưa thưa của ông phất phơ trước gió. Đôi mắt ông vẫn mở mà dường như không nhìn. Nhiều lúc người ta thức mà hóa ra ngủ, cũng như có lúc người ta ngủ mà lại thức- Uyêcxuyt có vẻ như điên.

- Ông Uyêcxuyt - người chủ tiệm rượu gọi to - lại đây. Các ngài quan lớn cần gặp ông.

Ông Nicơlex, chỉ muốn làm dịu sự kiện, vừa đưa ra vừa muốn giữ lại cái từ "các ngài", đối với cả đoàn thì kính trọng, nhưng có lẽ lại xúc phạm đối với người chỉ huy, vì như thế ông này bị lẫn lộn với cấp dưới.

Uyêcxuyt giật nẩy mình như người ngủ say ngã xuống giường.

- Có việc gì thế? - ông vừa nói xong thì nhận thấy cảnh sát và, đứng đầu cảnh sát, viên pháp quan.

Lại một lần xúc động mãnh liệt nữa.

Hết lão thiết trượng, bấy giờ đến viên pháp quan định túc số. Người nọ như hất ông cho người kia. Có những chuyện cổ tích về đá chuyền như thế.

Viên pháp quan định túc số ra hiệu cho ông đi vào tiệm rượu.  Uyêcxuyt vâng lời ngay.

Gôvicâm vừa ngủ dậy và đang quét nhà, vội dừng tay nép vào sau dãy bàn, buông chổi ra, nín thở. Nó lùa nắm tay vào đầu tóc và gãi gãi, tỏ vẻ chăm chú vào sự việc.

Viên pháp quan định túc số ngồi vào chiếc ghế, trước một cái bàn; Backinphêđrô ngồi xuống ghế.

Uyêcxuyt và ông Nicơlex vẫn đứng. Nhân viên cảnh sát, đứng ngoài, túm tụm trước cái cửa đã đóng lại pháp luật vào Uyêcxuyt và nói:

- Anh có một con sói.

Uyêcxuyt đáp.

- Bẩm không hẳn thế.

- Anh có một con sói - viên pháp quan nhắc lại -  nhấn mạnh vào tiếng "sói" bằng một giọng quả quyết.

Uyêcxuyt đáp.

- Vì rằng…

Rồi ông im lặng.

- Tội vi cảnh - viên pháp quan nói tiếp.

Uyêcxuyt đánh liều biện bạch:

- Nó là kẻ giúp việc cho tôi.

Viên pháp quan đặt bàn tay lên bàn, năm ngón xòe rộng, một cử chỉ rất đẹp của nhà chức trách.

- Anh hề kia, ngày mai, giờ này, anh và con sói của anh, phải rời khỏi nước Anh. Nếu không, con sói sẽ bị bắt giữ, đưa đến phòng lục sự, và giết chết.

Uyêcxuyt nghĩ bụng; - Lại tiếp tục chuyện giết người. Nhưng ông chẳng nói nửa lời, đành đứng run bần bật.

- Anh hiểu chứ. - viên tháp quan lại nói tiếp.

Uyêcxuyt tán thành bằng một cái gật đầu.

Viên pháp quan nhấn mạnh:

- Giết chết.

Im lặng một lúc.

- Treo cổ, hoặc dìm nước.

Viên pháp quan định túc số nhìn Uyêcxuyt:

- Còn anh, vào tù.

Uyêcxuyt nói khẽ:

- Bẩm quan.

- Ngày mai trước khi trời sáng, anh đã phải đi khỏi đây. Nếu không, đó là mệnh lệnh.

- Bẩm quan.

- Gì?

- Chúng con phải rời khỏi nước Anh, cả nó cả con?

- Đúng.

- Hôm nay ?

- Hôm nay.

- Làm thế nào được?

Lão Nicơlex sung sướng quá. Viên pháp quan, mà lão vẫn gờm mặt, đã đến giúp lão. Cảnh sát lại hóa ra trợ thủ, của lão, của Nicơlex. Y đã giải thoát lão khỏi "những của nợ"- Biện pháp lão đang tìm, y đem đến cho lão. Tên Uyêcxuyt, lão đang mong tống khứ, cảnh sát đuổi hộ. Trường hợp bất khả kháng. Không còn gì để biện bạch. Lão mừng quýnh, nói xen vào.

- Bẩm quan lớn, người này - lão đưa ngón tay chỉ vào Uyêcxuyt - Người này hỏi làm thế nào để rời khỏi nước Anh ngày hôm nay ư? Không gì đơn giản hơn. Ngày nào, đêm nào, ở các bến sông Tami, bên này cầu Luân đôn cũng như bên kia, cũng có tàu đi các nước. Người ta rời nước Anh đi Đan Mạch, đi Hà Lan, đi Tây Ban Nha, không đi Pháp vì có chiến tranh, nhưng đi khắp mọi nơi. Đêm nay nhiều tàu sẽ nhổ neo, vào quãng một giờ sáng, giờ nước triều. Trong số đó có chiếc thuyền bầu Vôgrát, của Rôtecđam.

Viên pháp quan định túc số nhún vai, bảo Uyêcxuyt;

- Được. Anh đi tàu nào cũng được. Tàu Vôgrat.

- Bẩm quan - Uyêcxuyt nói.

- Sao?

- Bẩm quan, giá như trước kia, tôi chỉ có mỗi cái lều nhỏ bốn bánh thì còn được. Nó sẽ nằm gọn trên một chiếc tàu. Nhưng …

- Nhưng sao?

- Nhưng bây giờ tôi có cái Hộp Xanh, nó là cả một cơ ngơi lớn với hai con ngựa. Một chiếc tàu dù có rộng đến mấy, nó cũng không bao giờ nằm lọt.

- Việc ấy liên can gì đến ta. - viên pháp quan nói. Người ta sẽ giết chết con sói.

Uyêcxuyt run rẩy, tự cảm thấy mình đang bị một bàn tay bằng nước đá nhào nặn. - Đồ quái vật! - ông nghĩ bụng. Giết người! Đó là phương sách của chúng.

Lão chủ tiệm rượu mỉm cười, nói với Uyêcxuyt:

- Ông Uyêcxuyt này, ông có thể bán lại cái Hộp Xanh.

Uyêcxuyt nhìn Nicơlex.

- Ông Uyêcxuyt, có người muốn mua đấy.

- Ai?

- Mua chiếc xe. Mua hai con ngựa. Mua hai cô ả đực.

Mua…

- Ai thế? - Uyêcxuyt nhắc lại.

- Ông chủ rạp xiếc bên cạnh.

- Đúng rồi.

Uyêcxuyt nhớ lại.

Lão Nicơlex ngoảnh sang phía viên pháp quan định túc số.

- Bẩm ngài, việc mua bán có thể kết thúc ngay hôm nay. Ông chủ rạp xiếc bên cạnh muốn mua chiếc xe to và hai con ngựa.

- Ông chủ rạp xiếc đó làm thế là phải - viên pháp quan nói - vì ông ta sẽ cần đến nó. Một cỗ xe với mấy con ngựa, cái đó sẽ được việc cho ông ta đấy. Hôm nay ông ta cũng phải đi. Các cha cố các giáo khu Xaothuak than phiền về những chuyện ồn ào tục tĩu của cánh đồng Tarinhzô. Ngài quận trưởng đã có biện pháp. Tối nay, sẽ không còn một lều rạp hát rong nào trên bãi này nữa. Chấm dứt các vụ lộn xộn. Nhân vật đáng kính đích thân đến đây lúc này…

Viên pháp quan định túc số ngừng lại để cúi chào Backinphêđrô; Backinphêđrô cũng chào lại.

Nhân vật đáng kính đích thân đến đây hôm nay đã từ Uynxo tới tối hôm qua- ông đưa mệnh lệnh tới. Nữ hoàng đã truyền: "Phải quét cho sạch".

Suốt đêm miên man suy nghĩ, Uyêcxuyt không phải đã không đặt ra một số câu hỏi. Nói cho cùng ông chỉ nhìn thấy có mỗi một chiếc quan tài. Ông có chắc Guynplên nằm trong ấy không? Trên đời có thể có người chết khác Guynplên lắm chứ? Một chiếc áo quan đi qua, đâu phải là một người thiên cổ tự xưng danh tánh. Sau vụ bắt bớ Guynplên có một đám ma. Điều đó chẳng nói lên gì cả Post hoc, non propter hoc[98] vân vân. Uyêcxuyt bỗng đâm ra ngờ vực. Hy vọng thường bùng cháy và loé sáng trên lo âu như dầu trên nước. Ngọn lửa trên mặt đó cứ nổi trôi mãi mãi trên đau khổ của con người. Cuối cùng Uyêcxuyt đi đến chỗ nghĩ bụng: có khả năng là người ta đã chôn Guynplên, nhưng không chắc lắm. Biết đâu đấy - Có thể Guynplên vẫn còn sống.

Uyêcxuyt liền nghiêng mình trước viên pháp quan định túc số.

- Bẩm quí toà tôn kính, tôi sẽ đi. Chúng tôi sẽ đi. Sẽ đi. Đi theo tàu Vôgrat. Đi Rốttecđam. Tôi xin tuân lệnh. Tôi sẽ bán cái Hộp Xanh, mấy con ngựa, cho kèn trống, mấy người đàn bà Ai cập. Nhưng có một người cùng ở với tôi, một người bạn, mà tôi không thể bỏ lại : Guynplên.

- Guynplên chết rồi - có tiếng nói.

Uyêcxuýt cảm thấy lạnh cả người, như có con rắn bò trên lưng. Chính Backinphêđrô vừa nói.

Ánh sáng le lót cuối cùng đang tan biến. Không còn nghi ngờ gì nữa. Guynplên đã chết rồi.

Nhân vật này phải biết điều đó. Y vốn khá nham hiểm trong việc này.

Uyêcxuyt cúi chào.

Lão Nicơlex là người rất hiền lành ngoài tính hèn nhát của lão. Nhưng, khi hoảng sợ, lão lại rất tàn nhẫn.

Hung bạo tột cùng, là sự sợ hãi.

Lão lầu bầu: "Đơn giản quá".

Và sau lưng Uyêcxuyt, lão xoa xoa tay, dấu hiệu đặc biệt của những kẻ ích kỷ, nó có nghĩa: Thế là ta sạch nợ! Và hình như diễn ra trên cái chậu thau của Pôngxơ Pila[99].

Uyêcxuyt cúi đầu, lòng buồn rười rượi. Bản án của Guynplên đã được thi hành, tử hình; còn ông, phán quyết của ông cũng đã được tống đạt, trục xuất. Chỉ còn việc chấp hành. Ông miên man ngẫm nghĩ.

Chợt ông cảm thấy có người chạm vào khuỷu tay.

Đấy là nhân vật kia, người đi theo viên pháp quan định túc số. Uyêcxuyt rùng mình.

Cái giọng vừa nói Guynplên chết rồi thì thầm vào tai ông:

- Đây là mười livrơ xteclinh do một người luôn luôn mong muốn ông gặp điều lành gửi cho ông.

Đoạn Backinphêđrô đặt một túi tiền con lên mặt bàn trước mặt Uyêcxuyt.

Người ta còn nhớ cái két con mà Backinphêđô cầm đi.

Mười ghinê trên hai-nghìn, đó là tất cả nhưng gì Backinphêđrô có thể làm được. Theo lương tâm hắn, như vậy đã là đủ lắm rồi. Nếu hắn đưa nhiều hơn thì hắn lỗ. Hắn đã bỏ công phu tìm ra một huân tước, hắn đang bắt đầu khai thác việc đó. Vậy món lời đầu tiên của cái mỏ thuộc về hắn là đúng quá. Những kẻ nào cho như vậy là hèn mạt thì đó là quyền của họ, nhưng ngạc nhiên thì sai. Backinphêđrô thích tiền, nhất là tiền trộm cắp được. Trong tên đố kỵ có một tên keo kiệt. Backinphêđrô đâu phải không có tật xấu. Phạm tội ác, việc ấy không ngăn cản có thêm một số thói hư. Hổ báo vẫn có rận kia mà.

Vả lại đây là trường phái Bêcon[100].

Backinphêdrô ngoảnh lại phía viên pháp quan định túc số và nói với y:

- Thưa ông, mong ông kết thúc cho. Tôi rất bận. Một chiếc xe kiệu đóng bằng chính ngựa của nữ hoàng đang đợi tôi. Tôi phải hoả tốc bay về Uynxo, và phải có mặt ở đó trước hai tiếng đồng hồ. Tôi có việc phải báo cáo và  nhiều mệnh lệnh phải tuân hành.

Viên pháp quan định túc số liền đứng dậy.

Lão  đi đến bên cánh cửa chỉ đóng bằng khoá thường, mở nó ra, không nói một lời, nhìn các nhân viên cảnh sát và hách dịch búng ngón tay. Cả nhóm lẳng lặng đi vào, người ta cảm thấy có việc ngiêm trọng sắp xảy ra.

Lão Nicơlex thích thú về sự kết thúc nhanh gọn, cắt đứt những chuyện rắc rối, sung sướng được thoát khỏi cái mớ bòng bong đó, lúc thấy cảnh sát dàn ra, chỉ sợ người ta bắt Uyêcxuyt ngay trong nhà lão. Hai cuộc bắt bớ liên tiếp trong nhà lão, vụ Guynplên rồi vụ Uyêcxuyt, việc đó có thể gây thiệt hại cho quán rượu; làng rượu vốn không ưa những chuyện rắc rối với cảnh sát. Đây là một trường hợp tham gia thích đáng có tính chất van xin và khoan đại. Lão Nicơlex ngoảnh về phía viên pháp quan định túc số bộ mặt hớn hở của lão, trên đó thái độ tôn kính đã hạn chế bớt tin tưởng.

- Bẩm quan lớn tôi xin lưu ý quan lớn rằng, một khi con sói phạm pháp sắp bị đưa ra khỏi nước Anh, khi tên Uyêcxuyt không dám chống cự, - và khi mệnh lệnh của quan lớn được chấp hành đứng đắn, thì không cần thiết phải có những ông cảnh sát tôn kính đây nữa. Quan lớn sẽ xét thấy những hành động đáng kính của cảnh sát, vốn rất cần thiết cho lợi ích nhà, đã gây thiệt hại cho một cửa hàng, và nhà tôi vô tội. Bọn hát rong của Hộp Xanh một khi quét sạch, như nữ hoàng đã lệnh, tôi thấy ở đây không còn tội phạm nữa, và tôi nghĩ rằng con bé mù và hai ả gái già không có tội tình gì cả, vậy tôi thiết tha yêu cầu quan lớn chiếu cố đơn giản hoá cuộc công cán của quan lớn, và cho những ông đứng đắn vừa mới vào đây đi về, vì họ chẳng có công việc gì phái làm ở nhà tôi và nếu ngài cho phép tôi được chứng minh lời nói đúng đắn của tôi dưới hình thức một câu hỏi kính cẩn thì tôi sẽ chỉ rõ tính vô ích về sự hiện diện của các ông đáng tôn kính đây khi hỏi quan lớn: tên Uyêcxuyt đã quyết định ra đi, vậy họ còn bắt ai ở đây nữa?

- Anh - viên pháp quan nói.

Không ai tranh cãi với một mũi kiếm xuyên quangười cả. Lão Nicơlex lăn kềnh ra, đổ xuống, bấu vào một cái bàn, một cái ghế, vào bất cứ một vật gì, rồi nằm vật ra đất.

Viên pháp quan định túc số nói thật to, đến nỗi giá có người đừng ngoài bãi, họ cũng nghe được:

- Nicơlex Plâmtơrơ, chủ cái quán rượu này, đây là điểm chói cùng phải giải quyết. Tên hát rong này và con sói này là phường du thủ du thực. Chúng bị đuổi khỏi nơi đây. Nhưng kẻ can phạm nặng nhất chính là anh. Chính tại nhà anh, chính do anh ưng thuận, mà luật pháp đã bị vi phạm, và anh, người có môn bài, người được giao giữ một trách nhiệm công cộng, anh đã để xẩy ra việc xấu xa ngay trong nhà anh Nicơlex, giấy phép của anh bị thu hồi, anh sẽ nộp phạt, và anh sẽ đi tù.

Các nhân viên cảnh sát quây ngay lấy lão chủ quán. Viên pháp quan định túc số chỉ Gôvicâm, nói tiếp:

- Thằng nhãi này, đồng bọn với anh, bị bắt.

Cổ tay một cảnh sát hạ ngay xuống cổ Gôvicâm, nó ngơ ngác nhìn viên cảnh sát. Thằng bé, chậm hiểu, không tỏ vẻ sợ hãi lắm, đã thấy nhiều chuyện lạ, tự hỏi có phải đây là đoạn tiếp của vở hài kịch không.

Viên pháp quan định túc số chụp mũ lên đầu, khoanh hai tay lên bụng, một cử chỉ oai vệ tột cùng, và nói tiếp:

- Thế là quyết định, anh sẽ đi tù và bị tống lao. Anh với thằng bé này. Còn ngôi nhà này, quán Tacaxtơ, sẽ đóng cửa, niêm phong, vít kín. Để làm gương. Bây giờ, anh đi theo chúng tôi.

VII TITĂNG[101]

1. THỨC TỈNH.

Còn Đêa!!!Đối với Guynplên lúc này, đang nhìn trời mai chớm rạng tại Corlêon-Lotglơ, trong khi ở quán Tacaxtơ xảy ra những chuyện trên đây, thì hình như hai tiếng đó từ ngoài vào, nhưng hai tiếng đó lại ở ngay trong lòng nó.

Ai mà chẳng có lúc được nghe những tiếng kêu thầm kín của tâm hồn?

Vả lại mặt trời cũng đã lên.

Bình minh là một tiếng nói.

Mặt trời có ích lợi gì nếu nó thức tỉnh cô nàng tối tăm ngủ kỹ, là lương tâm?

Ánh sáng và đức hạnh cũng cùng một phạm trù.

Dù Chúa là Kirixitô hay là tình yêu, thì luôn luôn vẫn có một giây phút Chúa bị lãng quên, bởi người tốt nhất nữa; tất cả chúng ta, kể cả các bậc thánh nhân đều cần một tiếng nói để giúp ta nhớ lại, và chính bình minh thúc giục cái tiếng báo hiệu cao cả đó trong ta phải nói lên. Lương tâm lên tiếng trước bổn phận, cũng như con gà cất tiếng gáy khi trời gần sáng.

Trái tim con người, đống hỗn mang ấy, nghe lời phán Fiat lux[102].

Guynplên - chúng ta vẫn tiếp tục gọi nó như vậy - Clăngsacli là một huân tước, Guynplên là một con người, Guynplên như người chết sống lại.

Đã đến lúc phải buộc chặt động mạch lại.

Tính lương thiện trong người nó đang rịn rỉ.

- Còn Đêa! - nó nói.

Nó cảm thấy như đang có một sự truyền máu hào hiệp vào huyết mạch của nó. Một cái gì lành mạnh, náo nhiệt đang ùa vào người nó. Sự tràn ngập mãnh liệt của tư tưởng tốt, giống như cảnh một người trở về nhà mà không có chìa khoá cửa, và cứ đường hoàng trèo tường vào. Có chuyện trèo tường đấy, nhưng chính điều thiện trèo. Có chuyện phá hoại đấy, nhưng phá hoại điều ác.

- Đêa! Đêa! Đêa! - Nó nhắc đi nhắc lại.

Nó tự khẳng định tấm lòng của nó.

Và nó hỏi to:

- Em đang ở đâu?

Hầu như nó ngạc nhiên thấy không có ai trả lời.

Nó ngơ ngác nhìn trần, nhìn các bức tường, rồi dần dần tỉnh ngộ, nó lại hỏi:

- Em đang ở đâu? Anh đang ở đâu?

Và trong căn phòng đó, trong cái chuồng đó, nó lại bước đi như một con thú dữ bị giam giữ.

- Anh đang ở đâu. Ở Uynxo. Còn em? ở Xaothuak.

Ôi! Lạy Chúa tôi! Đây là lần đầu tiên có một quãng cách giữa đôi ta. Ai là người đã đào nên quãng cách đó, khiến cho anh đây, em đó! Ôi! Không thể thế được. Không thể thế được. Họ đã làm gì anh thế này?

Nó đứng lại.

- Ai đã nói với anh về nữ hoàng? Anh có biết điều ấy không? Thay đổi? Anh mà thay đổi! Vì sao? Vì giờ đây anh là huân tước. Em có biết việc gì xảy ra không. Đêa.

Em là phu nhân đấy. Những điều xảy ra thật lạ lùng.

Họ… Bây giờ cần phải tìm cho thấy lại lối đi. - Có phải họ đã làm anh đi lạc hướng không? Có một kẻ đã nói với anh với vẻ mập mờ, khó hiểu. Anh còn nhớ những lời hắn nói: "Bẩm huân tước một cánh cửa mở ra bao giờ cũng đóng một cánh cửa khác lại. Những gì sau lưng ngài không còn nữa". Nói một cách khác: Ngài là một thằng hèn! Cái thằng đó, tên khốn nạn! Hắn nói với anh như thế khi anh chưa tỉnh. Hắn lợi dụng giây phút ngạc nhiên đầu tiên của anh. Lúc ấy anh như con mồi của hắn. Không biết hắn ở đâu rồi để anh mắng cho hắn một trận! Hắn nói với anh với nụ cười đen tối trong mộng. A!!!Bây giờ anh mới thực sự là anh ! Được rồi. Họ lầm to nếu họ tưởng muốn làm gì huân tước Clăngsacli thì làm!!! Nguyên lão Anh quốc? Được, với một nguyên lão phu nhân là Đêa. Điều kiện! Anh có chấp nhận điều kiện không? Nữ hoàng à? Anh cần gì nữ hoàng! Anh chưa bao giờ trông thấy nữ hoàng cả. Anh đâu phải huân tước để thành nô lệ. Anh tự do bước vào chốn quyền uy. Dễ họ tưởng cởi trói cho anh mà không mất gì à. Họ đã cởi bỏ cho anh cái rọ mõm, có thế thôi. Đêa! Uyêcxuyt!!!Chúng ta cùng sống chết với nhau. Trước kia em với bố thế nào thì anh như thế. Bây giờ anh thế nào thì chỉ với bố cũng như thế. Em và bố hãy đến đây! Không. Ta phải đến đấy! Ngay bây giờ. Ngay lập tức! Ta đã chờ lâu quá rồi- Không thấy ta trở về họ đã phải nghĩ ngợi những gì?

Món tiền ấy! Khi ta nhớ đến việc ta gửi tiền cho họ- Lẽ ra ta phải đích thân cầm về. Ta nhớ rồi, cái thằng đó nó bảo ta không thể ra khỏi đây. Để xem. Nào, phải có một chiếc xe! Một chiếc xe! Thắng ngựa vào. Ta muốn đi tìm họ. Quân hầu đâu? Đã có lãnh chúa thì phải có quân hầu chứ. Ở đây ta là chủ. Đây là nhà của ta. Và ta sẽ bẻ hết chốt, ta sẽ phá toang hết khoá, ta sẽ đá tung hết cửa ra. Kẻ nào chặn lối ta đi, ta sẽ đâm thủng người ra vì bây giờ ta đã có một cây kiếm.

Thử xem kẻ nào dám chống cự ta nào. Ta có một người vợ là Đêa. Ta có một người cha là Uyêcxuyt. Nhà ta là lâu đài, ta tặng nó cho bố Uyêcxuyt. Tên ta là một vòng kim miện, ta trao nó cho Đêa. Nhanh lên! Ngay tức khắc! Đêa! Anh đây rồi! A! Chẳng mấy lúc ta sẽ vượt qua quãng cách! Nào!!!

Nói xong, vén bức rèm trước mắt, Guynplên hùng hổ lao ra khỏi phòng.

Nó đứng giữa một du lang.

Nó cất bước đi tới.

Một du lang thứ hai xuất hiện.

Tất cả các cửa đều mở.

Nó cứ bước liều, từ phòng nọ sang phòng kia, hết hành lang nọ đến hành lang kia, tìm kiếm một lối ra.

2. CUNG ĐIỆN CŨNG GIỐNG HỆT RỪNG SÂU.

Trong các cung điện kiểu Ý Đại Lợi, Corlêôn-Lotglơ thuộc vào loại này, có rất ít cửa ra vào. Toàn bộ đều là màn, trướng, thảm phủ.

Thời ấy, không một cung điện nào mà nội thất lại không đầy rẫy một cách kỳ lạ những phòng, những du lang ngập ngụa, xa hoa, vàng bạc, cẩm thạch, gỗ chạm, lụa là đông phương, với những ngóc ngách chỗ nàykín đáo tối tăm, chỗ kia chan hoà ánh sáng. Đấy là những trang nhã sang trọng tươi vui, những buồng con đánh vecni bóng nhoáng, lát phủ gạch men Hà Lan hoặc gạch trang trí Bồ Đào Nha, những khung cửa sổ cao ngăn thành gác xép và những phòng con toàn kính, một loại đèn lồng rất đẹp có thể ở được. Các chiều dày của tường vách khoét rộng, đều trú ẩn được. Đây đó có những gian nhà nhỏ xinh xắn, vốn là phòng để áo, được gọi là những phòng con. Chính tại đấy thường xảy ra các tội ác.

Nếu cần giết quận công Đơ Guizơ, hay làm cho bà tổng thống xinh đẹp Đơ Xinvêcan lạc đường, hay là về sau bóp nghẹt tiếng khóc những cô bé do Lơben dẫn đến, thì thật tiện lợi. Một chỗ phức tạp mà người mới đến không thể nào lần ra được. Một địa điểm bắt cóc;

một hang cùng không biết đến, nơi kết thúc các chuyện mất tích. Các vị hoàng thân, các ngài lãnh chúa, vẫn thường để chiến lợi phẩm của họ trong những hang động lịch sự này; chính ở đấy bá tước Sarôle đã dẫn bà Cuôcsăng, vợ của ông uỷ viên thỉnh nguyện, ông Đơmôngtuylê đã giấu con gái của Hôđơri, tá điền ở La Cơroa Xanh Lăngfroa; hoàng thân Đơ Côngti đã giấu hai cô làm bánh xinh đẹp của đảo Ađăng; quận công Bơckinhgam đã giấu cô nàng Penyoen đáng thương, vân vân. Những việc xảy ra ở đấy là những việc tiến hành, như luật La Mã gọi, Vi, clam ẹt precano, bằng sức mạnh, bí mật và trong một thời gian ngắn. Ai đã vào đó đều phải ở lại đó theo ý muốn của chủ nhân. Đây là những nhà ngục chung thân được mạ vàng. Vừa là nhà tu kín vừa là hậu cung. Có những cầu thang quanh co, trèo lên, lần xuống. Một loại vòng khớp nối vào nhau theo hình trôn ốc dẫn về điểm xuất phát. Một dãy hành lang kết thúc thành phòng cầu nguyện. Một buồng xưng tội ghép vào phòng khuê. Có lẽ các nhánh san san hô và các lỗ thủng của bọt biển đã được dùng làm mẫu cho các nhà kiến trúc để tạo ra "những phòng con" của vương hầu và lãnh chúa. Các đường nhánh chằng chịt nhau.

Nhiều bức chân dung xoay tròn trên các lỗ hổng tạo thành cửa ra vào. Cái gì cũng máy móc cả. Phải thế mới được; ở đây thường diễn ra nhiều thảm kịch. Các tầng gác của loại tổ ong này dẫn từ hầm ngầm lên đến rầm thượng. Một loại thạch tâm kỳ quặc khảm chặt vào tất cả các lâu đài, đầu tiên là cung điện Vecxai, và nó giống như chỗ của bọn người lùn trong nhà những tên khổng lồ. Chỗ này là hành lang nơi ngồi nghỉ, chỗ kia là những tổ chim, ổ ong, chỗ nấp. Đủ loại hang lỗ làm nơi chui rúc cho những chuyện nhỏ nhen hèn mọn của các ngài. Những chốn này, ngoằn nghèo và xây kín, gọi ta nghĩ đến những trò chơi, bịt mắt, khua tay, bụm miệng cười những trò bịt mắt bắt dê, nấp trốn đi tìm; và đồng thời khiến ta nghĩ đến những Atơrit, những Plãngta- giơnê những Mêđixit, đến những hiệp sĩ man rợ enx; đến Riziô, đến Mônanđesi, đến những thanh kiếm đuổi theo một tên chạy trốn từ phòng này sang phòng khác.

Thời xưa cũng có những chỗ ở bí mật kiểu đó; nơi mà xa hoa được thính ứng với những chuyện khủng khiếp. Kiểu mẫu của chúng được bảo tồn dưới đất trong một số mồ mả Ai cập, như trong hầm mộ nhà thờ của vua Xammêtiquyx do Patxalăcca phát hiện. Qua các nhà thờ cổ, ta thấy được cảnh hãi hùng của những công trình xây đựng đáng nghi ngờ đó. Error cicum fexus.

Lecus implicitus gyris.

Lúc này Guynplên đang đứng trong những phòng con của Corlêon-Lotglơ.

Nó đang nóng ruột muốn đi ngay, muốn ra ngoài, muốn gặp lại Đêa. Cái mớ chằng chịt này toàn du lang, buồng kín, của bí mật, của bất ngờ, luôn luôn chận giữ nó và làm chậm bước của nó. Nó chỉ muốn chạy cho nhanh nhưng cứ buộc phải lang thang vơ vẩn trong đó. Nó tưởng chỉ cần đẩy một cánh cửa, hóa ra lại phải gỡ cả một con tơ.

Hết một phòng lại một phòng. Rồi những giao điểm của các phòng khác. Nó chẳng gặp một cái gì sống động cả. Nó lắng tai nghe. Không chút động tĩnh.

Chữ la tinh : một lối đi rối rắm vòng quanh, một nơi cuốn quanh thành hình vòng tròn.

Đôi lúc hình như nó lại quay về chỗ cũ.

Thỉnh thoảng nó tưởng như thấy có người đến với nó. Nhưng lại chẳng có ai. Chính nó, trong một tấm gương, với trang phục lãnh chúa.

Chính là nó, thật vô lý quá. Nó tự nhận ra, nhưng không phải ngay tức khắc.

Nó đi mãi, gặp chỗ nào cũng đặt chân vào.

Nó lần theo các chỗ quanh co của lối kiến trúc thân thình; đây một buồng con sơn chạm diêm dúa, hơi tục tĩu và rất kín đáo; kia một phòng nguyện khả nghi khảm xà cừ và gắn mảnh sứ, với những đồ vật bằng ngà muốn nhìn phải dùng kính hiển vi, như những nắp hộp thuốc; lại kia nữa, một trong những tư thất cầu kỳ kiểu Florăng, sửa sang lại cho các bà u uất, thời kỳ người ta gọi là khuê phòng. Khắp nơi, trên trần, trên tường, cả trên sàn nữa, có những tượng chim chóc, cây cối, bọc nhung hoặc bằng kim khí, những loại cây cỏ kỳ lạ quấn ngọc quí, những mặt kiến trúc lỗ chỗ, những lớp huyền đen, những hình chiến sĩ, hoàng hậu tiên cá mặc áo giáp bụng giao long. Những chuỗi pha lê mài cạnh tăng thêm màu sắc phản quan.

Thủy tinh giả làm ngọc quí. Các ngóc ngác tối tăm cũng lấp lánh.Không biết tất cả nhưng mảnh nhỏ sáng chói đó, nơi màu xanh ngọc bích kết hợp với màu vàng mặt trời mọc, nơi những vết màu cổ bồ câu trôi nổi bềnh bồng, là những tấm gương nhỏ li ti hay là những hòn lục ngọc khác thường. Một khung cảnh huy hoàng rực rỡ, vừa tinh vi vừa vĩ đại. Đây là cung điện xinh xắn nhất, nếu không phải là hộp châu báu khổng lồ nhất. Một ngôi nhà của Mab[103] hoặc một thứ nữ trang của Giêô. Guynplên cứ loay hoay kiếm lối thoát.

Mãi nó vẫn không tìm ra. Không tài nào định hướng nổi. Không có gì làm cho đầu óc ngây ngất hơn cảnh giàu sang khi mới thấy nó lần đầu tiên. Nhưng ngoài ra đây còn là một mê hồn cung. Mỗi bước đi lại thêm một cảnh huy hoàng tráng lệ chặn lối. Dường như muốn chống đối lại việc nó định đi. Có vẻ như không muốn buông tha nó. Nó như bị dính chặt vào một đống nhựa những kỳ quan. Nó cảm thấy mình bị tóm chặt và giữ riệt. Nó nghĩ bụng:

- Cung điện gì mà khủng khiếp quá.

Nó lần mò giữa chốn mê cung, lòng đầy lo lắng, tự hỏi như thế nghĩa là thế nào, có phải mình đang bị cầm tù không, vừa tức giận vừa khát khao cảnh trời lộng. Nó cứ nhắc đi nhắc lại - Đêa! Đêa! Như người cầm mối dây giải thoát mà không dám buông ra.

Chốc chốc nó lại gọi:

- Này, có ai đấy không!!!

Chẳng có tiếng trả lời.

Mãi vẫn không hết các phòng. Chỗ nào cũng vắng lặng như tờ, nguy nga, ghê rợn.

Ta hãy hình dung những lâu đài có ma cũng như thế.

Một số cửa hơi nóng kín đáo giữ cho các du lang và các buồng con một nhiệt độ mùa hè. Dường như một tay phù thuỷ nào đó đã bắt giữ tháng sáu lại vào giam cầm nó trong chốn mê cung này. Đôi lúc lại thoang thoảng mùi thơm. Phải đi qua những luồng hương thơm ngào ngạt. Chỗ nào cùng toàn thảm là thảm. Giá có dạo chơi trần truồng cũng được.

Guynplên nhìn qua các cửa sổ. Cảnh vật không ngừng thay đổi. Có lúc là những vườn cây tươi mát củamùa xuân và ban mai, có lúc là những mặt trời mới với những pho tượng khắc, có lúc lại là những sân dạo chơi kiểu Tây Ban Nha, loại sân nhỏ hình tứ giác giữa các toà nhà đồ sộ, lát đá, rêu phong, lạnh lẽo; đôi khi một dòng nước nhỏ, đó là sông Tami, đôi khi một ngọn tháp lớn, đó là Uynxo.

Bên ngoài, vào lúc sớm tinh mơ như thế, tịnh không có một bóng người qua lại.

Nó dừng chân. Nó nghe ngóng, rồi nói:

- Ôi! Ta phải đi khỏi chốn này. Ta sẽ về với Đêa. Người ta không thể dùng sức mạnh giữ ta lại được. Liệu hồn kẻ nào muốn ngăn cản không cho ta ra! Cái tháp lớn kia là thế nào? Nếu có một tên khổng lồ, một con chó ngao giữ cửa địa ngục, một con rồng chận cửa trong cái lâu đài ma ám này, ta sẽ tiêu diệt nó. Một đạo quân ta cũng nuốt sống. Đêa! Đêa!!!

Chợt nó nghe có một tiếng động nho nhỏ, rất khẽ. Y như tiếng nước chảy.

Lúc này nó đang đứng trong một hành lang hẹp, tối, trước mặt mấy bước, có một tấm màn sẻ đôi chăng kín.

Nó đi ngay đến bên tấm màn, vạch ra, bước vào.

Nó lọt vào chỗ bất ngờ.

3. EVA[104]

Một căn buồng bát giác, vòm trần kiểu quai giỏ, không có cửa sổ, lấy ánh sáng từ trên xuống, toàn bộ tường, nền và trần đều lát phủ cẩm thạch màu hoa đào; giữa buồng là một mái vòm bằng cẩm thạch màu đen, có cột xoắn theo kiểu nặng nề duyên dáng của Elizabet, hắt bóng xuống một cái thuỷ-bàn hình bồn tắm cũng bằng cẩm thạch đen như thế, giữa thuỷ-bàn một tia nước nhỏ tí vừa thơm vừa ấm, nhẹ nhàng, thong thả, phun đầy bồn, đấy là những gì Guynpiên nhìn thấy trước mắt.

Nước tắm đen để tôn màu trắng lên thành rực rỡ.

Chính tia nước nó đã lọt đến tai Guynplên. Một lỗ thoát trong bồn tắm được bố trí rất khéo không để cho nước tràn ra. Thuỷ-bàn bốc hơi, nhưng rất ít nên chỉ thấy có vài giọt nước trên mặt đá hoa. Tia nước rất mảnh, giống một ngọn roi thép dẻo, chỉ một làn gió thoảng cũng có thể uốn cong.

Chẳng có bàn ghế gì cả. Nếu không tính đến ở cạnh bồn tắm một thứ vừa ghế vừa giường, có đủ cả gối, khá dài để một người đàn bà nằm trên có được ở chân một con chó hay người tình của mình, do đó nảy sinh ra từ ngữ can-al-pie mà chúng ta đã chuyển ra thành canapé[105].

Đấy là một loại ghế dài Tây Ban Nha có tay vịn bằng bạc. Gối đệm toàn bọc lụa trắng bóng.

Bên cạnh bồn tắm, một cái bàn phấn bằng bạc khối kê áp vào giường với đủ các thứ đồ dùng. Ở giữa, tám chiếc gương Vơni con gắn trong một khung bạc tượng trưng cho một cửa sổ.

Ở bức tường lửng gần chiếc tràng kỷ nhất có khoét một lỗ vuông giống như một cái cửa mái và bịt kín bởi một tấm bảng bằng bạc lá màu đỏ. Tấm bảng này có bản lề như một chiếc cửa ván. Trên lá bạc màu đỏ lấp lánh một vòng miện khảm men màu huyền và mạ vàng. Trên tấm bảng, gắn vào tường, một cái chuông đồng mạ, nếu không phải bằng vàng.

Đối điện với lối vào căn buồng, trước mặt Guynplên đang đứng sững sờ, bức tường lửng bằng đá hoa dừng lại và được thay thế bằng một cái cửa cũng rộng như thế, cao suốt đến trần, và che bằng một bức màn bạc dài rộng.

Bức màn này trong suốt, tinh vi, huyền ảo. Có thể nhìn xuyên qua được.

Giữa màn, chỗ con nhện thường đậu, Guynplên chợt nhận thấy một vật hết sức phi thường, một người đàn bà trần truồng.

Trần truồng theo nghĩa đen ư? Không! Người đàn bà ăn vận hẳn hoi. Lại ăn vận suốt từ đầu đến chân. Y phục là một tấm áo trong, rất dài, như áo thiên thần trong tranh thánh, nhưng mỏng đến mức tưởng như sũng nước. Do đó người đàn bà gần như trần truồng, mà còn phản trắc và nguy hiểm hơn cả trần truồng thật sự.

Lịch sử có ghi lại những đám rước công chúa và các bà lớn đi giữa hai hàng tu sĩ; lấy cớ đi chân đất và phải hạ mình, nữ công tước Đơ Môngpăngxiê đã tự phô mình ra đúng như thế với toàn thể Pari trong một chiếc áo lót đăng-ten. Xin đính chính; tay có cầm một cây nến.

Tấm màn bạc, trong suốt như một tấm kính, là một bức màn gió. Chỉ treo giữ ở phía trên và có thể vén lên được. Nó ngăn cách căn buồng cẩm thạch là một buồng tắm, với một phòng là phòng ngủ. Căn phòng rất nhỏ này là một thứ hang động toàn gương. Khắp nơi, những tấm gương vòm tiếp giáp nhau ghép thành hình đa diện, nối bằng những thanh đũa mạ vàng, phản chiếu chiếc giương đặt ở chính giữa. Trên giường, cũng bằng bạc như cái bàn phấn và chiếc tràng kỷ, người đàn bà đang nằm. Cô nàng ngủ.

Cô nàng nằm ngủ, đầu hơi ngửa, một chân đạp lên chăn y như một nữ yêu trên đó mơ màng đang vỗ cánh.

Chiếc gối đăng-ten rơi xuống tấm thảm ở đất.

Giữa tấm thân trần truồng của cô nàng và mắt Guynplên có hai vật ngăn cách, tấm áo lót của cô nàng và bức màn gió bằng bạc mỏng, hai lớp trong suốt. Căn phòng phải gọi là hốc tường hơn là phòng, được chiếu sáng một cách dè dặt bởi cái ánh từ buồng tắm hắt sang.

Người đàn bà có lẽ không biết thẹn thùng, nhưng ánh sáng lại e thẹn.

Giường không có cột, không có tán, không có đỉnh, thành thử mở mắt ra là người đàn bà có thể thấy mình trăm nghìn lần trần truồng trong những tấm gương trên đầu.

Khăn trải giường có cái vẻ bừa bộn của một giấc ngủ không yên. Những nếp nhăn mềm mại tỏ rõ là vải rất mỏng. Thời ấy nghĩ đến cảnh mình sẽ bị đoạ đày, một nữ hoàng thường hình dung địa ngục là một chiếc giường với khăn trải giường bằng vải thô.

Vả lại cái mốt ngủ trần truồng du nhập từ nước Ý và đã có từ thời những người La Mã. Oraxơ nói: Sub clara muda lucerna[106].

Một chiếc áo mặc trong nhà bằng thứ lụa đặc biệt, chắc là lụa Trung Quốc, vì trong các nếp nhăn thấp thoáng thấy có thêu một con rắn mối to vàng, vứt ở chân giường.

Bên kia giường, cuối hốc tường, có lẽ có một cái cửa bị che khuất, nhưng nổi bật nhờ một cái gương khá to trên vẽ mấy con công và mấy con thiên nga. Trong căn phòng ngập bóng tối này mọi thứ đều bóng lộn. Các quãng cách giữa pha lê và vàng bạc đều được trát bằng cái chất lấp lánh mà ở Vơni người ta gọi là "mật thuỷ tinh".

Ở chân giường thêm một cái yên sáng bằng bạc, có giá xoay và cây đèn cố định; trên yên đặt một quyển sách mở sẵn, đầu trang có tựa đề bằng chữ hoa đỏ:

Alcoranus Mahumedis[107].

Guynplên chẳng thấy một chi tiết nào trên đấy cả.

Nó chỉ nhìn thấy người đàn bà.

Nó vừa sững sờ vừa hoảng hốt; hai cảm giác mâu thuẫn, nhưng lại rất thật.

Người đàn bà kia, nó nhận ra ngay.

Cô nàng đang nhắm mắt và ngoảnh mặt về phía nó.

Chính là người nữ công tước.

Chính cô nàng, con người bí mật đã tập trung tất cả mọi thứ chói lọi rực rỡ xa lạ, người đã gây cho nó biết bao ác mộng không dám nói ra, người đã viết cho nó một bức thư quá ư kì dị. Người đàn bà duy nhất trên đời mà nó có thể nói “Nàng đã trông thấy ta và nàng ưng ta!” Nó đã xua tan các ác mộng, nó đã đốt cháy bức thư. Nó đã đẩy lùi nàng ra thật xa, ra khỏi những mơ màng và ký ức, nó không nghĩ đến nàng nữa; nó đã quên nàng.

Giờ đây nó đang thấy lại nàng!!! Nó đang thấy lại nàng trong tư thế khủng khiếp.

Người đàn bà trần truồng là người đàn bà nắm chắc vũ khí trong tay.

Nó không thở nữa. Nó tự cảm thấy như bị nâng bổng lên giữa một ánh hào quang và bị đẩy tới. Nó nhìn chằm chằm. Người đàn bà đang ở ngay trước mặt nó! Có thể nào như thế không?

Tại rạp hát, nữ công tước. Ở đây, hải tinh, thuỷ thần, tiên nữ. Lúc nào cũng là bóng ma.

Nó định chạy trốn nhưng cảm thấy không thể được.

Mắt nó trở thành hai sợi xích, xích chặt nó vào hình ảnh kia.

Phải chăng đây là một gái giang hồ? Phải chăng đây là một nàng trinh nữ. Cả hai. Metxalin[108], có lẽ đang có mặt đâu đó, cũng phải mỉm cười, và Đian[109] cũng phải cẩn thận. Trên sắc đẹp kia có thứ ánh sáng huyền bí khó hiểu. Không có thứ trong trắng nào sánh kịp hình dáng trinh bạch và kiêu kỳ kia. Có những loại tuyết thoạt nhìn cũng biết chưa bao giờ bị chạm tới. Người đàn bà kia mang những sắc trắng thiêng liêng của đỉnh Yungfrau[110]. Từ vầng trán vô ý thức kia: từ mái tóc xoã tung kia, từ hàng mi khép kín kia,. từ những mạch máu mờ xanh kia, từ cặp vú tròn trĩnh như tạc kia, từ đôi hông và hai đầu gối lượn theo những đường nét tươi hồng của tấm áo lót, toát lên tính chất thần tiên của một giấc ngủ tôn nghiêm. Sự trơ trẽn kia hoà tan thành ánh sáng rực rỡ. Con người kia trần truồng một cách bình thản đến mức như nắm trong tay cái quyền vô liêm sỉ của thần thánh, nó có cái vẻ thanh thản của một tiên nữ trên đỉnh Thần Sơn, biết mình là con gái của vực thẳm, có thể nói với đại dương “Bố ơi!”, và cứ tự phô mình, ngạo nghễ không để ai với tới, mặc cho mọi thứ đi qua, mọi mắt nhìn, mọi thèm thuồng, mọi thác loạn, mọi mơ tưởng, cứ kiêu hãnh chập chờn trên chiếc giường phòng khuê kia cũng như Vệ nữ trong bọt nước mênh mông.

Cô nàng đã ngủ suốt đêm và đang kéo dài giấc ngủ đến tận khi trời sáng rõ; lòng tin tưởng bắt nguồn trong bóng tối và tiếp tục trong ánh sáng.

Guynplên rùng mình. Nó chiêm ngưỡng.

Chiêm ngưỡng không lành mạnh, nhưng thú vị vô cùng.

Nó sợ.

Số phận có bao giờ cạn chuyện bất ngờ đâu.

Guynplên tưởng mình đã đến chỗ tận cùng, vậy mà nó chỉ mới bắt đầu. Những tia chớp kia là thế nào mà cứ liên tiếp giáng xuống đầu nó, và cuối cùng, như tiếng sét tối hậu, lại quẳng cho nó, con người đang run rẩy, một nữ thần ngủ say? Những cửa trời liên tiếp kia là thế nào, mà cuối cùng giấc mơ của nó lại từ đó thoát ra đáng kỳ vọng và đáng sợ? Những cử chỉ ân cần của kẻ cám dỗ xa lạ kia là thế nào mà cứ mang đến cho nó, hết cái nọ đến cái kia, những khát vọng mơ hồ, những manh tâm không rõ nét, và cả những ý nghĩ xấu xa trở thành xác thịt, và cứ đè nặng lên nó bằng một loạt thực tế say sưa rút ra từ chỗ phi lý? Liệu có âm mưu gì không, trong toàn bộ bóng tối chống lại một con người khốn khổ, và nó sẽ ra sao với tất cả những nụ cười của số phận ảm đạm quanh nó đây? Cái cảm giác choáng váng cố tình sắp đặt đây là thế nào? Người đàn bà đó! Nằm kia! Tại sao? Bằng cách nào? Không có một giải thích nào cả. Tại sao lại nó? Tại sao lại cô nàng? Có phải vì người nữ công tước kia, mà người ta đã cố tình cho nó làm nguyên lão Anh quốc không? Ai đã dẫn dắt hai bên đến với nhau?

Ai bị lừa phỉnh? Ai là nạn nhân? Người ta lợi dụng lòng tin của ai? Có phải người ta lừa dối Chúa không? Tất cả những chuyện ấy, nó không xác định được rõ ràng, mà chỉ thoáng thấy được qua một lớp mây đen trong đầu óc.

Ngôi nhà màu nhiệm và hiểm ác này, toà lâu đài kỳ quặc này, kiên cố như một nhà ngục; liệu có nằm trong âm mưu đó không. Guynplên đang bị hút biến vào. Có những thế lực đen tối đang bí mật trói buộc nó. Một dẫn lực đang xiềng xích nó, ý chí nó bị rút ra, đang tách rời khỏi nó. Bám vào đâu bây giờ? Nó vừa ngơ ngác vừa mê mẩn. Lần này nó tự cảm thấy mất hết tri giác, không có cách nào cứu vãn được. Cuộc sa ngã rùng rợn thẳng xuống cái vực thẳm chói loà vẫn tiến diễn.

Người đàn bà vẫn ngủ.

Đối với Guynplên trạng thái hoang mang cứ trầm trọng thêm mãi, đây cũng không còn là nữ lãnh chúa, nữ công tước, phu nhân nữa; đây là người đàn bà.

Những chuyển biến trong con người luôn luôn diễn ra ngấm ngầm. Trong cơ thể chúng ta, những tật xấu thường có một con đường vạch sẵn không nhìn thấy. Dù ngây thơ và bề ngoài trong trắng, chúng ta cũng vẫn có như thể bên trong ta. Không tì vết chưa hẳn đã là không khuyết điểm. Tình yêu là một quy luật. Khoái lạc là một cạm bẫy. Có trạng thái say sưa, lại có trạng thái nghiện rượu. Say là thèm muốn một phụ nữ; nghiện là thèm muốn đàn bà.

Guynplên, không tự chủ được nữa, đang run bần bật.

Làm gì để đối phó với cuộc gặp gỡ này đây? Vải vóc không nhiều, lụa là không lắm, quần áo không rườm rà diêm dúa, không có gì kiểu cách kín đáo quá hở hang quá, không có bóng mây che. Trần truồng cô đọng một cách đáng sợ. Một thôi thúc bí mật, hết sức trắng trợn của địa đàng. Toàn bộ khía cạnh đen tối của con người đều buộc phải hiện rõ. Eva nguy hại hơn Xatăng nhiều.

Cái nhân tính và cái siêu nhân tính kết quyện vào nhau. Niềm ngây ngất đê mê đáng lo ngại dẫn đến sự chiến thắng thô bạo của bản năng trước bổn phận.

Đường nét tuyệt vời của sắc đẹp thật vô cùng mãnh liệt.

Khi nó thoát khỏi lý tưởng và hạ mình thành hiện thực, thì đối với con người gần nó là một điều tai hại.

Chốc chốc, người nữ công tước lại ẻo lả trở mình trên giường, và có những động tác mơ hồ như hơi thoảng giữa trời xanh, thay đổi tư thể nằm như mây bay thay hình đổi dạng. Cô nàng uốn mình, tạo thành rồi lại phá bỏ những đường cong tuyệt mỹ. Tất cả những nét mềm mại của nước, phụ nữ đều có cả. Cũng như làn nước, người nữ công tước có một cái gì đó không thể nắm bắt được. Điều kỳ lạ là phải nói cô nàng nằm đó, xương thịt hẳn hoi, mà vẫn huyền ảo khôn cùng. Sờ nắm được đấy mà vẫn như xa với. Guynplên kinh hoàng tái nhợt, cứ đứng ngắm mãi. Nó lắng nghe lồng ngực kia đập mà tường như nghe tiếng thở của hồn ma. Nó bị cuốn hút, nó cố giãy giụa. Làm gì để chống lại cô nàng đây? Làm gì để chống lại nó đây ?

Nó sẵn sàng chờ đón tất cả một thứ, trừ mỗi điều kia. Một kẻ đứng gác hung ác chắn ngang cửa, một quái vật canh ngục dữ tợn cần chiến đấu, đó là những gì nó đã trù tính đến. Nó dự đoán sẽ gặp con chó Xexbe[111] nhưng lại gặp nữ thần Êbe[112].

Một người đàn bà trần truồng. Một người đàn bà nằm ngủ.

Cuộc chiến đấu thật là tối tăm mờ mịt!!!Nó nhắm mắt lại. Nhiều bình minh quá nên mắt nó xốn xang nhức nhối. Nhưng qua mi mắt nhắm nghiền, lập tức nó lại vẫn trông thấy cô nàng. Tối tăm hơn, nhưng vẫn đẹp như thế.

Chạy trốn đâu phải là chuyện dễ. Nó đã cố thử mà không được. Nó bị giữ chặt như trong giấc mộng. Khi ta muốn giật lùi, cám dỗ lại ghìm chặt chân ta xuống nền đường. Đi tới còn được, giật lùi thì chịu. Những cánh tay vô hình của tội lỗi từ lòng đất vươn ra, kéo cho chúng ta trượt ngã.

Một sáo ngữ vẫn được mọi người chấp nhận, nói rằng cảm xúc phai nhạt. Không còn gì sai lầm hơn. Có khác gì nói gặp axit nitric giỏ từng giọt, một vết thương sẽ dịu di rồi lành hẳn, và cực hình xé xác làm cho Đamiêng[113] chai đi.

Sự thật mỗi lần tái diễn, cảm giác lại thêm nhức nhối mãnh liệt hơn.

Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Guynplên đã đạt tới điểm tột cùng. Các bình chứa ấy, lý trí của nó trước điều kinh ngạc mới này, đang tràn ra ngoài. Nó cảm thấy trong lòng có một sự thức tỉnh dễ sợ.

La bàn, nó không còn nữa. Trước mắt nó chỉ có mỗi một điều cụ thể duy nhất là người đàn bà kia. Một hạnh phúc nhất định nào đó đang chờ đón, giống hệt một cảnh đắm thuyền. Không thể nào điều khiển được nữa.

Một luồng nước không ngăn cản nổi, lại thêm đá ngầm.

Đá ngầm đây không phải là núi, mà là yêu phụ. Một tảng nam châm đang nằm dưới lòng vực thẳm. Rút ra khỏi sức hút ấy Guynplên cũng muốn lắm, nhưng bằng cách nào? Nó cảm thấy không còn điểm buộc nào nữa.

Bước thăng trầm biến đổi của con người thật không bờ bến. Một con người cũng có thể tan rã như một chiếc thuyền. Mỏ neo chính là lương tâm. Điều bi đát, lương tâm có thể vỡ.

Nó không có đến cả phương kế cuối cùng này:

- Ta dị hình và khủng khiếp. Nàng sẽ xua đuổi ta. - Người đàn bà kia đã viết thư nói rằng nàng yêu nó.

Trong nguy khốn vẫn có lúc hẫng chân. Khi chúng ta nhô ra ngoài điều ác nhiều hơn là tựa lên điều thiện, thì cái khối lượng của ta, lơ lửng trên tội lỗi, cuối cùng sẽ thắng và đẩy ta ngã nhào. Giai đoạn buồn thảm đó đã đến với Guynplên chưa?

Làm thế nào để thoát khỏi?

Thế ra người nữ công tước đó! Người đàn bà đó! Là cô nàng! Trước mắt nó, trong căn phòng này, ở nơi vắng vẻ này, cô nàng đang nằm ngủ, phó mặc, một mình. Cô nàng đang ở trong tay nó, và nó đang nằm trong quyền định đoạt của cô nàng.

Người nữ công tước!!! Ta đã từng thấy một ngôi sao ở nơi tận cùng của không trung. Ta đã chiêm ngắm nó. Nó xa xôi biết bao!!! Một vì sao đứng yên thì có gì đáng sợ? Thế rồi một hôm, một đêm, ta thấy nó di chuyển. Ta nhận thấy có chút ánh sáng rung rinh quanh nó. Tinh cầu ấy, ta vẫn tưởng nó vô tri vô giác, bỗng cử động. Nó không phải là một định tinh, mà là một ngôi sao chổi. Đó là vật phóng hỏa rất lớn của trời xanh. Tinh cầu lẩn đi, lớn dần, rung rinh làn tóc đỏ rực, trở thành rất to. Nó đang đi về phía bạn. Ôi khủng khiếp, nó đang tiến thẳng đến bạn! Ngôi sao chổi nhận ra bạn, ngôi sao chổi ao ước được gần bạn, ngôi sao chổi thèm khát muốn gần bạn. Một cảnh xích gần đáng ghê sợ của trời xanh. Cái đang đến với bạn là sự tràn ngập ánh sáng, làm cho lóa mắt; là sự sống quá thừa thãi, là cái chết. Bước đầu mà thiên đỉnh dành cho bạn đấy, bạn từ chơi. Mối tình mà vực sâu hiến đứng cho bạn đấy, bạn cố đẩy ra. Bạn để bàn tay lên mắt, bạn che mặt lại, bạn lẩn trốn, bạn tưởng đã thoát khỏi. Bạn lại mở mắt ra. Vì sao dễ sợ kia vẫn còn đó. Nó không còn là một vì sao nữa mà là cả một thế giới. Một thế giới xa lạ. Một thế giới đầy nham thạch và lửa hồng. Huyền diệu của vực thẳm. Nó tràn ngập bầu trời. Chỉ còn mỗi một mình nó. Viên hồng ngọc nằm tận cùng cõi vô biên, ở xa là kim cương, đến gần là lò lửa rực. Bạn đứng giữa ngọn lửa của nó.

Và bạn cảm thấy bắt đầu bị một ngọn lửa của thiên đàng đốt cháy.

4. XATĂNG 

Thình lình người đàn bà đang ngủ chợt tỉnh. Cô nàng ngồi dậy với tư thế uy nghi, đột ngột, hài hoà; làn tóc nâu óng mượt nhẹ xoã trên hông; chiếc áo lót tuột xuống làm lộ rõ cả đôi vai; với bàn tay mềm mại, cô nàng khẽ sờ ngón chân hồng, và ngắm nhìn hồi lâu bàn chân trần, đáng được Pêriklex tôn thờ và Phiđiax bắt trước: đoạn cô nàng vươn vai, ngáp dài như một con hổ cái lúc mặt trời mới mọc.

Chắc hẳn Guynplên đang thở một cách khó khăn, như khi ta nín thở.

- Có kẻ nào đấy không?

Cô nàng vừa nói vừa ngáp, vô cùng duyên dáng.

Lần đầu tiên Guynplên được nghe giọng nói ấy.

Giọng nói của một con người có sức mê hoặc; âm sắc cao sang ngọt ngào; giọng điệu mơn trớn làm dịu bớt thói quen sai phái.

Đồng thời, quì thẳng người lên - có một bức tượng cổ cũng quì như thế qua trăm nghìn nếp gấp trong suốt - cô nàng kéo tấm áo vào người, đoạn nhảy xuống giường, đứng trần truồng trong khoảnh khắc tên bay, rồi lập tức lại quấn lại. Trong nháy mắt tấm áo lụa phủ kín người cô nàng. Tay áo dài lê thê che mất cả bàn tay. Chỉ còn thấy có mấy đầu ngón chân, trắng muốt, móng nhỏ, như chân trẻ con.

Cô nàng vén mớ tóc trên lưng, hất lên tấm áo, rồi chạy đến sau giường, chỗ cuối hốc vách, áp tai vào tấm gương hoa, dường như nó che dấu một cái cửa.

Cô nàng co ngón tay trỏ, gõ gõ vào mặt gương.

- Có ai đấy không? Huân tước Đêvit! Có phải anh đã đến không? Mấy giờ rồi? Ngươi đấy à? Backinphêđrô?

Cô nàng ngoảnh lại.

- Không, không phải từ phía này. Có ai trong buồng tắm không? Trả lời đi chứ! Mà xét cho cùng thì không, chẳng ai có thể vào từ phía ấy cả.

Cô nàng đi đến bên tấm rèm bạc, lấy đầu bàn chân để mở, dùng vai vạch màn ra và bước sang căn buồng cẩm thạch.

Guynplên cảm thấy lạnh buốt như lúc thoát dương.

Không có chỗ nào để ẩn nấp. Chạy trốn thì quá muộn. Vả lại nó không còn hơi sức để chạy. Nó chỉ ước gì nền nhà tách đôi ra để độn thổ. Không có cách nào để khỏi bị bắt gặp cả.

Cô nàng nhìn nó, ngạc nhiên vô cùng, nhưng không chút rùng mình, với một sắc thái vừa mừng vui vừa khinh bỉ.

- Kìa. Guynplên - cô nàng nói.

Rồi đột nhiên, bật nhảy tới, vì con mèo cái ấy là một con báo, cô nàng bám lấy cổ Guynplên.

Cô nàng ôm chặt đầu nó vào giữa hai cánh tay trần, trong giây phút sôi nổi đôi ống tay áo đã tụt xuống.

Rồi thình lình, đẩy Guynplên ra, vỗ mạnh bàn tay bé nhỏ như vuốt mãnh cầm lên hai vai Guynplên, cô nàng đứng trước nó, nó đứng trước cô nàng, cô nàng bắt đầu nhìn nó một cách kỳ quặc.

Cô nàng nhìn chòng chọc với đôi mắt sáng quắc[114], nhãn quang hỗn hợp, chứa đựng một cái gì vừa gian xảo, vừa mang tính chất thần linh. Guynplên lặng ngắm con người xanh lơ và con người đen nhánh, luống cuống trước hai luồng mắt bất động của trời xanh và của địa ngục. Người đàn bà kia và người đàn ông này đang trao đổi với nhau niềm thán phục nham hiểm. Hai bên đang làm cho nhau ngây ngất, anh bằng bộ mặt dị hình, ả bằng sắc đẹp vô song, cả hai bằng tính chất rùng rợn.

Guynplên chẳng nói chẳng rằng, như bị đè dưới một khối nặng không sao nâng nổi.

Cô nàng bỗng nói to:

- Anh tài thật. Anh đã đến. Anh biết là tôi buộc lòng phải đi khỏi Luân Đôn. Anh đã theo tôi. Anh làm thế là phải. Anh đến được đây là một việc phi thường.

Việc chịu ảnh hưởng lẫn nhau luôn luôn phát sinh như một tia chớp. Guynplên, được một nỗi lo sợ vu vơ, man rợ và chính đáng, báo trước một cách mơ hồ, vội lùi ngay lại, nhưng những móng tay hồng bấu chặt trên vai cứ giữ riệt lấy nó. Có một điều gì khắc nghiệt đang hình thành. Nó đang đứng giữa hang hổ của người đàn-bà-dã-thú, mà bản thân nó cũng là người đàn-ông-dã-thú.

Cô nàng nói tiếp:

- Cái con Ann ngu xuẩn ấy, anh biết chứ? Cái con nữ hoàng, nó gọi tôi đến Uynxo làm gì không rõ. Lúc tôi đến, thì nó đang đóng chặt cửa với lão đại thần ngu ngốc của nó. Nhưng anh làm thế nào mà đến được tận đây với tôi? Tôi cho như thế mới gọi là tu mi nam tử. Trở ngại. Không bao giờ có trở ngại cả. Được vời, là đến ngay. Anh có hỏi dò phải không? Tên tôi, nữ công tước Giôzian, điều đó tôi nghĩ là anh đã biết. Ai đưa anh vào thế? Chắc hẳn lại là tên tiểu đồng. Cái thằng thông minh thật. Tôi sẽ ban cho nó một trăm ghi-nê. Anh đã làm thế nào? Nói cho tôi biết đi. Thôi, không cần nói. Tôi thích anh phải phi thường kia. Anh đã khá quái gở, đủ để làm người kỳ diệu rồi. Thế đấy, anh từ trời xanh rơi xuống hoặc anh từ tầng ba âm phủ trồi lên, qua cái cửa sập của tĩnh ngục[115]. Còn gì đơn giản hơn, mái trần tách đôi hoặc là nền nhà mở toác. Từ chín tầng mây nhảy xuống hay từ lửa diêm vút lên, chính anh đến bằng cách ấy. Anh xứng đáng dược bước vào đây như những đấng thần linh. Thôi nhé, anh là người yêu của tôi.

Guynplên, ngơ ngác, lắng nghe, cảm thấy tư tưởng mình mỗi lúc một thêm dao động. Thế là hết. Không thể nào ngờ vực nữa. Bức thư đêm qua, người dàn bà này xác nhận. Nó, Guynplên, tình nhân của một nữ công tước, tình nhân được yêu chiều! Lòng kiêu hãnh vô bờ có đến nghìn cái đầu đen tối, đang rung động trong trái tim bất hạnh kia.

Tính tự kiêu tự đắc, sức mạnh to lớn trong ta, thường chống lại ta.

Người nữ công tước nói tiếp:

- Anh đã đến đây tức là anh đã muốn như thế. Tôi không đòi hỏi gì hơn cả. Có một đấng ở trên cao, hoặc ở dưới thấp, thúc đẩy chúng ta đến với nhau. Đây là Hoàng Tuyền[116] đính ước với Bình minh[117]. Đính ước bừa bãi, ngoài mọi luật pháp. Ngày hôm nay gặp anh, tôi đã nói: - Chính hắn. Ta nhận ra hắn ngay. Đúng là con quái vật mà ta hàng mơ ước. Hắn sẽ thuộc về ta. - Phải tiếp tay cho số phận. Vì vậy tôi đã viết thư cho anh.

Guynplên, cho phép tôi hỏi một câu nhé? Anh có tin ở tiền định không? Tôi thì tôi tin, từ khi tôi đọc Giấc mộng Xipiông của Xixêrông. Kìa, tôi vẫn không để ý. Lại áo quí tộc nữa. Anh ăn vận theo kiểu lãnh chúa. Tại sao lại không nhỉ? Anh vốn là phường hát rong mà. Thêm một lý do nữa. Một người múa rối thì kém gì một huân tước.

Vả lại huân tước là cái gì? Là những thằng hề. Anh có một tầm dáng rất đẹp, người anh rất cân đối. Việc anh đến đây thật là không tiền khoáng hậu. Anh đến từ lúc nào thế? Anh đứng đấy từ bao lâu rồi? Anh có thấy tôi trần truồng không? Tôi đẹp lắm, phải không anh? Tôi đang định đi tắm. Ôi! Tôi yêu anh. Anh đã đọc bức thư của tôi rồi đấy! Chính anh đọc thư chứ? Hay có người đọc hộ? Anh có biết đọc không? Hẳn là anh không biết chữ. Tôi đặt nhiều câu hỏi với anh, nhưng anh đừng trả lời. Tôi không thích giọng nói của anh. Nó êm ái quá.

Một con người không thể sánh nổi như anh không nên cất tiếng nói, mà chỉ nên nghiến răng. Anh hát nghe du dương thật đấy. Nhưng tôi không ưa như thế. Đấy là điểm duy nhất của anh là tôi không vừa ý. Mọi điểm còn lại đều phi thường, mọi điểm còn lại đều tuyệt diệu. Giá ở Ấn Độ thì anh dã là thần linh. Anh sinh ra với cái vẻ cười khủng khiếp ấy tiền mặt sao? Không, phải không?

Chắc hẳn là một hình phạt cắt xẻo. Tôi ước sao anh đã phạm một tội ác gì đấy. Nào, anh hãy đến ngả vào lòng em đi.

Cô nàng bỗng ngồi phịch xuống tràng kỷ, kéo luôn Guynpiên ngã theo bên cạnh. Cả đôi quấn quít lấy nhau mà không biết bằng cách nào. Những gì cô nàng nói lướt qua Guynplên như một cơn gió mạnh. Nó chỉ mơ hồ nắm được ý nghĩ của cơn bão từ cuồng loạn đó. Trong mắt cô nàng là cả một trời ngưỡng mộ. Cô nàng liến thoắng huyên thuyên như điên như dại, bằng một giọng cuống quít, dịu dàng. Lời nói của cô nàng là một điệu nhạc, nhưng qua tai Guynplên điệu nhạc đó chỉ như một ngọn cuồng phong.

Cô nàng lại chằm chằm nhìn Guynplên.

- Cạnh anh, tôi cảm thấy mất hết cả phẩm giá, ôi, hạnh phúc biết chừng nào! Làm ông hoàng bà chúa lo mà nhạt nhẽo thế! Sống trong tư thế uy nghiêm, thật không còn gì nhọc nhằn hơn. Suy vi sa đoạ mới thật là thoải mái. Tôi đã chán ngấy cái trò tâu bẩm quá rồi nên tôi cần được đời khinh miệt.  Chúng tôi phần nào thích thú những chuyện chơi ngông, khởi đầu là Vênuyx, Cơlêôpat, các bà Đơ Sơvrơ, Đơ Lôngơvin[118] và kết thúc là tôi. Tôi sẽ đưa anh ra khoe, tôi tuyên bố như vậy. Đây là một thiên tình sử sẽ làm thương tổn cho dòng họ hoàng gia Xtuya[119] của tôi. A! Tôi thấy dễ thở quá! Tôi đã tìm được lối ra rồi! Tôi thoát khỏi cái vòng xiềng xích vương giả rồi. Bị phế truất tức là được giải thoát. Đoạn tuyệt, tất, khinh thường tất, việc gì cũng làm, cái gì cũng phá, thế mới gọi là sống chứ. Anh nghe đây, tôi yêu anh.

Cô nàng dừng lại và mỉm cười một cách ghê rợn.

- Tôi yêu anh đây không chỉ vì anh dị hình mà còn vì anh hèn hạ. Tôi yêu con người quái dị, và tôi yêu phường hát rong. Một người tình nhục nhã, thô bỉ, xấu xa, bị phỉ báng, phơi mình trước trăm miệng cười chê trên cái đài bêu tù gọi là sân khấu, điều ấy có một thú vị tuyệt vời. Đó là cắn vào quả cấm. Một người tình ô nhục thật là cực kỳ. Cắn ngập răng vào quả táo, không phải của thiên đường mà của địa ngục, đó là điều ngày đêm cám dỗ tôi, tôi thèm cái đó, tôi khát cái đó, tôi chính là Êva. Êva của vực thẳm. Có lẽ anh là một con quỉ mà không biết đấy. Tôi vẫn giữ mình để đợi chờ một người thật xấu trong mộng. Anh là một con rối do một hồn ma giật giây. Anh là hình ảnh của cái cười vĩ đại dưới địa ngục. Anh là người tình quân mà tôi hằng chờ đợi. Tôi phải có được một chuyện tình như các Mêđê[120], các Caniđi. Tôi vẫn đinh ninh thế nào cũng gặp một trong những chuyện hết sức ly kỳ ban đêm. Anh chính là điều tôi mong muốn. Tôi đang nói với anh những chuyện mà anh không được quyền hiểu. Guynplên ạ, chưa một người nào chiếm đoạt được tôi đâu nhé, nay tôi tự hiến thân cho anh, trong trắng như than hồng rực lửa. Tất nhiên anh không tin lời tôi nói, nhưng giá anh biết rằng điều đó tôi cũng bất cần!!!Những lời nói của Giôzian dồn dập như hoả diệm sơn phun lửa. Một lỗ thủng chọc vào sườn núi Etna[121] sẽ cho ta một ý niệm về tia lửa ấy.

Guynplên ấp úng:

- Phu nhân.

Cô nàng vội vã đặt bàn tay lên miệng Guynplên:

- Im! Tôi đang chiêm ngưỡng anh. Guynplên, tôi là người xử nữ phóng đãng. Tôi là cô gái trinh dâm dật.

Chưa một tay đàn ông nào dược biết tôi, và tôi có thể là Piti ở Đenph[122], có dưới gót chân trần của tôi cái ghế ba chân bằng đồng, nơi các cha, tỳ tai lên tấm da Pitông[123], khẽ thì thầm câu hỏi với vị thần vô hình. Tim tôi là đá, nhưng nó giống như nhưng hòn sỏi bí mật mà biển cả lăn đến chân núi Hânthơli-Nab. Ở cửa sông Tami và trong chúng nó, nếu đập vỡ sẽ thấy có một con rắn. Con rắn đó là khối tình của tôi. Khối tình cực kỳ mãnh liệt!!! Vì nó đã khiến anh đến đây. Khoảng cách giữa chúng ta không thể có được. Tôi đang ở trên sao Xiriuyx[124], anh đang ở trên sao Aliôth. Anh đã vượt qua muôn trùng và bây giờ anh đang ở đây. Tốt lắm. Anh cứ im lặng như thế. Anh chiếm đoạt em đi.

Cô nàng dừng lại. Guynplên rùng cả mình. Cô nàng lại mỉm cười.

- Anh thấy không,Guynplên, mơ mộng là sáng tạo. Mỗi ước mơ là một tiếng gọi. Xây dựng một ảo tưởng, chính là khiêu khích thực tế. Bóng tối toàn năng và hãi hùng không chịu để cho ai thách thức cả. Nó thoả mãn ước muốn của chúng ta. Thế là anh đã đến. Tôi có dám sa ngã không? Dám lắm chứ. Tôi có dám làm nhân tình, làm hầu thiếp, làm nô lệ, làm vật riêng của anh không?

Rất sung sướng thôi. Guynplên ơi, tôi là dàn bà. Đàn bà tức là đất sét muốn trở thành bùn nhơ. Tôi đang cần được tự khinh bỉ. Điều đó làm cho lòng kiêu hãnh càng thêm thi vị. Hợp kim của cao quí là đê tiện. Không còn gì kết hợp tốt hơn. Anh, kẻ bị đời khinh bạc, anh hãy khinh bỉ tôi đi. Hèn hạ của hèn hạ, ôi khoái lạc biết chừng nào! Bông hoa kép của ô nhục; ta giơ tay hái lấy.

Hãy chà đạp lên tôi đi. Có như vậy anh mới càng yêu quí tôi hơn. Tôi biết như thế. Anh có biết vì sao tôi tôn thờ anh không? Vì tôi khinh rẻ anh. Anh quá thấp hèn hơn tôi nên tôi phải đặt anh lên bàn thờ. Xáo trộn cái trên với cái dưới, đó là hỗn mang. Hỗn mang là gì? Một cảnh nhơ bẩn mông mênh. Với cảnh thơ thẩn ấy Chúa đã làm nên ánh sáng, với thứ thối tha ấy Chúa đã tạo ra trần gian. Anh không biết tôi đồi bại đến mức nào đâu. Anh cứ nhào bóp một vì sao trong bùn nhơ, đó sẽ là tôi đây.

Con đàn bà tai quái ấy vừa nói vừa ưỡn bộ ngực trinh nữ ra, qua chiếc áo mở phanh.

Cô ả tiếp:

- Đối với mọi người tôi là sói cái, còn đối với anh tôi là con chó cái. Người ta sẽ ngạc nhiên biết nhường nào!!! Ngọt ngào thay khi được nhìn lũ ngốc ngạc nhiên. Tôi, tôi hiểu tôi lắm. Tôi có phải là nữ thần không ?

Amphitơrit[125] đã hiến thân cho Xiclôp[126] Fluctivoma Amphitrite. Tôi có phải là tiên không? Uyêcgien[127] đã hiến mình cho Buygơrit, anh chàng có cánh, tám tay như cánh giơi. Tôi có phải là công chúa không? Mari Xtuya đã được Rizyo[128]. Ba người đẹp, ba quái vật. Tôi còn vĩ đại hơn họ nhiều, vì anh ghê tởm hơn họ.

Guynplên ạ, chúng ta sinh ra là để gặp nhau. Con quái vật bên ngoài ở anh, chính là con quái vật trong người tôi. Vì vậy mà nảy sinh ra khối tình của tôi. Thị hiếu bất thường ư? Cứ cho là thế đi. Phong ba là gì? Là một chuyện bất thường. Giữa đôi ta có một lực tương ứng mang tính chất vũ trụ; cả anh và tôi, đôi ta đều thuộc về đêm tối, anh do bộ mặt, tôi do trí thông minh. Đến lượt anh, anh sáng tạo ra tôi. Anh đến, thế là tâm hồn tôi lộ rõ ra ngoài. Trước đây tôi không hề biết nó. Nó thật kỳ dị. Anh đến gần, khiến con giao long thoát khỏi tôi, một tiên nữ. Anh phát hiện cho tôi thấy bản chất thực sự của tôi. Anh giúp tôi khám phá được bản thân tôi. Anh xem, tôi giống anh biết chừng nào. Anh hãy nhìn vào tôi như nhìn vào một tấm gương trong. Mặt anh chính là tâm hồn tôi. Trước đây tôi không biết tôi khủng khiếp đến như vậy. Thì ra tôi, tôi cũng là một con quái vật! Ôi, Guynplên, anh làm tôi hết cả buồn chán.

Cô nàng có tiếng cười quái đản của một đứa trẻ, tiến đến bên tai Guynplên và nói rất khẽ:

- Anh có muốn được nhìn một người đàn bà điên không? Chính tôi đây.

Mắt cô ả xoáy vào Guynpiên. Mỗi khoé mắt là một đạo bùa mê. Chiếc áo cô ả trễ tràng đến dễ sợ. Cảm giác ngây ngất mê muội đầy thú tính đang xâm chiếm Guynplên. Một thứ ngây ngất gần như hấp hối.

Trong khi người đàn bà kia nói, nó cảm thấy như bị lửa bắn tung toé vào mình. Nó cảm thấy điều không thể cứu vãn đang rịn rỉ. Nó không đủ sức để thốt lên một lời nào cả. Cô nàng dừng lại, ngắm nghía nó và thì thầm.

- Ôi, quái vật.

Nom cô ả thật dữ tợn.

Thình lình cô nắm lấy tay Guynplên.

- Guynplên, tôi là ngai vàng. Anh là sân khấu hát rong. Chúng ta hãy đứng cho ngang hàng nhau. Ôi! Sung sướng quá, thế là tôi đã sa ngã. Tôi chỉ muốn sao mọi người đều có thể biết tôi đê tiện đến chừng mực nào. Có thế người ta mới cúi rạp xuống hơn nữa, vì càng khinh bỉ người đời càng bò sát đất. Giống người vốn như vậy. Hằn thù nhưng vẫn luồn cúi. Rồng nhưng là sâu bọ. Ôi! tôi đồi bại chẳng kém gì thần linh. Có cất bỏ khỏi tôi điều đó, tôi cũng vẫn là con hoang của một ông vua. Tôi hành động với tư cách nữ hoàng. Rôđôp là ai? Một nữ hoàng yêu Phơte, con người có cái đầu cá sấu. Để tưởng nhớ người yêu, nữ hoàng đã xây dựng kim tự tháp thứ ba. Păngtêzilê đã yêu con nhân mã tên là Xagite, và là một chòm sao. Còn nữ Ann nước Áo thì anh bảo sao? Mazaranh có đáng gọi là xấu không? Anh, anh không xấu, anh chỉ dị dạng. Người xấu nhỏ nhen, người dị dạng hùng vĩ. Người xấu là con quỉ  nhăn mặt sau lưng đẹp. Dị dạng là mặt trái của uy nghi. Nó là mặt sau. Núi Ôlempơ có hai phía, một phía tắm mình trong ánh sáng, sinh ra Apôlông, phía kia chìm ngập trong bóng tối, sinh ra Pôliphem. Anh, anh là Tităng. Anh sẽ là Bêhemôth của rừng sâu, là Lêvyatưng trên biển cả, là Typhông trong vũng bùn nhơ. Anh thật  tuyệt vời. Trong cái dị dạng của anh có sấm sét. Mặt anh biến dạng vì một tiếng sét. Trên mặt anh chính là sự quằn quại nổi giận của quả đấm to bằng lửa. Nó đã nhồi nặn anh và đã đi qua. Trong một phút điên cuồng, cơn phẫn nộ lớn lao đen tối đã lấy nhựa quét lên tâm hồn anh, làm thành bộ mặt phi thường khủng khiếp đó. Địa ngục là một cái lò tra tấn để nung thanh sắt đỏ gọi là Định mệnh; anh đã bị thanh sắt đó in dấu. Yêu anh tức là hiểu được điều vĩ đại. Chiến công đó tôi giành được. Say đắm Apôlông là cố gắng cực kỳ đẹp đẽ! Vinh quang phải đo bằng kinh ngạc. Tôi yêu anh. Biết bao nhiêu đêm, biết bao nhiêu đêm, biết bao nhiêu đêm, tôi đã mơ tưởng đến anh.

Đây là một lâu đài của tôi. Rồi anh sẽ được thấy những khu vườn của tôi. Có những dòng suối trong dưới ngàn hoa lá, có những hang động ta có thể ôm nhau hôn hít, và  những tượng đài rất đẹp bằng đá hoa cương của kỵ sĩ Becnanh. Và bao nhiều hoa nữa! Rất nhiều hoa. Mùa xuân là cả một rừng hồng rực cháy. Tôi đã nói với anh nữ hoàng là chị tôi chưa nhỉ. Anh muốn làm gì tôi, xin cứ tự nhiên. Tôi sinh ra để Giuypite hôn chân và để Xatăng nhổ vào mặt. Anh có theo tôn giáo nào không? Tôi theo phái giáo hội La Mã. Bố tôi là Giắc đệ Nhị chết ở Pháp với một đám Giê-duyt xung quanh. Chưa bao giờ tôi được cảm thấy được điều mà hiện giờ tôi đang cảm thấy ở bên anh.

Ôi! Tôi chỉ ước ao được cùng anh tối tối ru mình giữa tiếng nhạc, tựa chung một gối, dưới làn mái đỏ trong chiếc thuyền vàng, bềnh bồng giữa muôn ngàn tiếng ngọt ngào êm dịu của biển cả. Anh nhục mạ tôi đi. Anh đánh tôi đi.

Anh trả thù tôi đi. Anh cứ xem tôi như một con người bỉ ổi. Tôi tôn quý anh mà.

Những lời âu yếm ngọt ngào cũng có thể gầm rít.

Bạn hoài nghi điều đó ư ? Xin cứ vào hang sư tử mà xem. Trong người đàn bà kia, rùng rợn hoà hợp với duyên dáng. Thật không gì bi đát hơn. Người ta cảm thấy vừa là móng vuốt vừa là nhung lụa. Vừa tấn công nham hiểm, vừa nhượng bộ. Trong lối vờn đùa ấy có cả trò chơi, có cả giết hại. Cô ả yêu đương một cách láo xược. Kết quả là cảnh thác loạn lan truyền. Ngôn ngữ thật ghê gớm, thô bỉ mà lại dịu dàng rất khó tả. Chửi mắng mà không ra chửi mắng. Tôn thờ lại hoá ra lăng mạ. Tát vào mặt nhưng lại thần thánh hoá. Giọng nói của cô ả in vào những lời nói giận dữ và si tình một cái gì vĩ đại của Prômêtê. Những hội hè được Êsin[129] ca ngợi của Nữ Thần Vĩ-đại đem lại cho những người phụ nữ bắt bướm dưới sao cái điên cuồng ảm đạm hùng tráng.

Những cực điểm đó làm cho các điệu vũ tối tăm dưới cành lá Đôdôm thêm phức tạp. Người đàn bà kia như bị biến dạng, nếu người ta có thể biến dạng về phía trái ngược với trời. Tóc ả rung lên như bờm ngựa, tấm áo dài hết khép lại phanh; không gì đẹp như lồng ngực đầy tiếng hét man rợ ấy, những tia sáng của con mắt xanh lẫn với những ánh lửa rực của con mắt đen, cô ả thật siêu phàm. Guynplên, bải hoải, cảm thấy mình bị đánh quị trước sức xâm nhập sâu sắc của một cảnh tắc gang như vậy.

- Tôi yêu anh! - cô ả hét lên.

Và cô ả cắn Guynplên bằng một cái hôn.

Hôme có nói đến những đám mây có lẽ sắp cần thiết trên người Guynplên và Giôzian cũng như trên Giuypite và Giuynông. Đối với Guynplên, được yêu bởi một người đàn bà sáng mắt đã trông thấy mình, được cảm thấy sức ép của đôi môi thần thánh trên cái mồm dị dạng của mình, thật là một điều ngọt ngào và nóng bỏng. Trước người đàn bà đầy bí ẩn này, nó cảm thấy tất cả mọi thứ trong người đều tiêu tan thành mây khói. Kỷ niệm về Đêa đang vùng vẫy và khẽ rên rỉ trong bóng tối đó. Có một bức phù điêu cổ tượng trưng con nhân sư đang ăn một vị thần ái tình, đôi cánh của vị thần hiền lành rỉ máu giữa hàm răng hung dữ và nhăn nhở kia.

Guynplên có yêu người đàn bà kia không? Con người có giống như quả đất có hai cực không? Trên cái trục cứng rắn của ta, chúng ta có phải là quả cầu ngày đêm xoay chuyển, xa là tinh tú mà gần lại là bùn nhơ không? Phải chăng quả tim có hai mặt, mặt này yêu giữa ánh sáng, mặt kia yêu trong bóng tối? Đây là người đàn bà ánh sáng, kia là người đàn bà ô trọc.

Thiên thần vốn cần thiết. Nhưng lẽ nào ma quỉ cũng là một nhu cầu? Liệu có cánh dơi cho tâm hồn không? Giờ phút màn chiều xế bóng có nhất thiết điểm cho tất cả mọi người không? Tội lỗi có phải là một bộ phận hợp thành của số phận không thể từ chối được của chúng ta không? Trong bản chất chúng ta, điều ác có phải cùng chung một khối với các thứ còn lại không? Tội lỗi có đúng là một món nợ phải trả không? Bao nhiêu rung động sâu sắc.

Thế mà một giọng nói vẫn bảo ta rằng yếu đuối là một tội ác. Điều mà Guynplên đang cảm thấy sao mà khó nói, xác thịt, sự sống, hãi hùng, khoái cảm, một niềm say đắm nặng trĩu, và toàn bộ khối lượng xấu hổ có trong kiêu hãnh. Liệu nó có quị ngã xuống không?

Cô ả nhắc lại:

- Tôi yêu anh!!!

Và như điên như dại, ả ghì chặt Guynplên vào ngực.

Guynplên thở hổn hển.

Thình lình ngay cạnh hai người vang lên một hồi chuông lanh lảnh và trong trẻo. Chính cái chuông gắn trong tường đang rung. Người nữ công tước ngoảnh đầu.

- Nó muốn gì ta thế nào?

Và đột nhiên, xạch một tiếng như tiếng bẫy sập, tấm bảng trắng bạc có khảm hình vương miện mở ra.

Phía trong một cái tủ xoay, lót nhung màu xanh lam, hiện ra, với một phong thư đặt trên chiếc đĩa vàng.

Phong thư to, vuông, và để chìa chỗ niêm phong có dấu ấn trên si đỏ. Chuông vẫn tiếp tục rung.

Tấm bảng hạ xuống gần chạm vào chiếc tràng kỷ hai người đang ngồi. Người nữ công tước, nằm nghiêng nghiêng, một tay bám chặt cổ Guynplên, chìa tay kia ra, cầm lấy phong thư trên đĩa và đẩy mạnh tấm bảng ra.

Cái tủ xoay đóng lại và tiếng chuông cũng tắt.

Người nữ công tước dùng ngón tay bẻ si, mở phong bì, rút ra hai tờ giấy, và vứt chiếc phong bì xuống đất cạnh chân Guynplên.

Dấu si tuy vỡ cũng vẫn còn rõ chữ. Guynplên có thể nhận thấy một vành vương miện với chữ A ở dưới.

Chiếc phong bì rách phô cả hai mặt, thành thử có thể đồng thời đọc được tên người nhận ngoài bì; Gửi nữ công tước Giôzian kiều diễm.

Trong phong bì có một tờ giấy da và một tờ giấy trắng mịn. Tờ giấy da to, tờ giấy trắng bé. Trên tờ giấy da có in một dấu ấn lớn của bộ tư pháp, bằng thứ si màu xanh lục gọi là si lãnh chúa. Người nữ công tước hồi hộp, hai mắt tràn ngập say đắm, hơi bĩu môi chán chường nói:

- Hừ, lại gì nữa thế này? Lại một tờ giấy lộn! Mụ này đúng là con phá rối!!!

Và đặt tờ giấy da sang một bên, ả hé mở tờ giấy.

- Đúng chữ của mụ. Đúng chữ bà chị tôi đây. Thật chán mớ đời. Guynplên, ban nãy tôi hỏi anh có biết đọc không. Anh biết đọc đấy chứ?

Guynplên gật đầu ra hiệu có.

Cô ả duỗi dài người trên tràng kỷ gần như một người đàn bà nằm ngủ, giấu kỹ đôi chân dưới tấm áo và đôi tay dưới ống tay áo, trong một tư thế trơ trẽn kỳ quặc, vừa phô hai vú ra, vừa âu yếm nhìn Guynplên bằng đôi mắt tình tứ, cô ả vừa chìa tờ giấy trắng.

- Nào Guynplên, anh thuộc quyền em đấy. Bắt đầu nhiệm vụ đi. Cục cưng của em, đọc em nghe xem bà nữ hoàng viết gì cho em nào.

Guynplên cầm tờ giấy trắng, mở ra, và đọc bằng một giọng chứa đựng đủ các kiểu run rẩy:

"Ái muội, kèm theo đây của một tờ biên bản có thị lực và chữ ký người tin cẩn của chúng ta, Uynliam Caopơ, huân tước tư pháp đại thần Anh quốc. Qua biên bản này nảy sinh ra sự việc đặc biệt trọng đại là người con trai hợp pháp của huân tước Linơx Clăngsacli vừa được xác nhận và tìm thấy dưới cái tên Guynplên, trong hoàn cảnh hèn hạ của một cuộc sống lang thang du đãng giữa những người hát rong và làm nghề múa rối. Việc mai danh biệt tích này xảy ra từ thời thơ ấu của y. Theo luật pháp vương quốc, và chiếu theo quyền thừa hưởng, huân tước Fecmên Clăngsacli, lệnh nam của huân tước Linơx, ngay ngày hôm nay sẽ được thừa nhận và phục quyền vào nguyên lão nghị viện. Vì vậy, để hậu đãi ái muội và duy trì cho ái muội quyền chuyển dịch các tài sản và dinh cơ của các huân tước Clăngsacli Hâncơvin, chúng tôi cho y được thay thế huân tước Đêvit Điry- Moa trong mọi ân sủng của ái muội. Chúng tôi đã cho đưa huân tước Fecmên đến tư dinh của ái muội tại Corlêon Lotgiơ; lấy tư cách là nữ hoàng và là chị, tôi hạ lệnh và muốn rằng huân tước Fenên Clăngsacli, từ trước đến nay vẫn mang tên Guynplên, phải là chồng của ái muội, và ái muội sẽ lấy y làm chồng, đó là vương ý của tôi."

Trong lúc Guynplên đọc, với những âm sắc hầu như nghiêng ngả theo từng lời, người nữ công tước, nhổm dậy khỏi cái gọi là trường kỷ, lắng tai nghe, mắt nhìn trừng trừng. Guynplên vừa đọc xong,cô ả vội giằng phắt ngay lấy bức thư.

- Ann, Nữ Hoàng. - cô ả và nói vừa đọc chữ ký, với một âm điệu mơ màng.

Đoạn cô ả nhặt ở đất lên tờ giấy da và đưa mắt lướt qua. Đây là bản khai của những tên bị đắm trên thuyền Matutina, được sao lại trên một tờ biên bản có chữ ký của quận trưởng Xaothuak và của huân tước tư pháp đại thần.

Đọc xong tờ biên bản, cô ả đọc lại bức thư của nữ hoàng. Đoạn cô ả nói:

- Được rồi.

Và bình tĩnh, đưa ngón tay chỉ cho Guynplên bức rèm hành lang, mà qua đó anh đã đi vào.

- Cút ngay - cô ả nói.

Guynplên ngơ ngác, đứng đực ra như phỗng.

Cô ả lạnh lùng nói tiếp:

- Anh đã là chồng tôi thì mời anh ra ngay.

Guynplên chẳng nói chẳng rằng, hai mắt nhìn xuống như một tội phạm, vẫn không nhúc nhích.

Cô ả nói thêm:

- Anh không có quyền ở đây. Chỗ này là chỗ dành cho nhân tình tôi.

Guynplên như bị đóng đinh tại chỗ.

- Được - cô ả nói. Anh không ra thì tôi ra vậy. Hừ!!! Anh là chồng của tôi! Còn gì hơn nữa. Tôi căm thù anh.

Và đứng yên, ném vào không trung, không rõ ném cho ai, một cử chỉ vĩnh biệt kiêu kỳ, cô ả bước ra.

Bức rèm hành lang khép lại sau lưng cô ả.

5. NHẬN RA NHAU, NHƯNG KHÔNG QUEN NHAU.

Guynplên đứng lại một mình.

Một mình đứng trước cái bồn tắm ấp áp và chiếc giường khăn gối ngổn ngang.

Trong đầu óc nó, ý nghĩ rối bời như một mớ bòng bong. Những gì nó đang suy nghĩ không giống như tư tưởng. Đây là một thứ gì tản mạn, phân tán, khắc khoải, không tài nào hiểu nổi. Trong nó có một cái gì như cảnh mạnh ai nấy chạy trong một giấc mơ.

Bước vào những nơi xa lạ đâu phải là một chuyện đơn giản.

Từ khi nhận được bức thư của người nữ công tước do tên tiểu đồng cầm đến. Guynplên bắt đầu sống những giờ phút lạ lùng, mỗi lúc một thêm khó hiểu. Cho đến lúc này nó vẫn ở trong mộng; nhưng nó đã nhìn thấy rõ, giờ đây nó đang lần mò trong mộng.

Nó không suy nghĩ. Nó cũng không mơ mộng vẩn vơ nữa. Nó chịu đựng.

Nó ngồi lặng trên chiếc trường kỷ, chỗ người nữ công tước bỏ đi.  Thình lình trong bóng tối có tiếng chân bước. Một tiếng chân đàn ông. Tiếng chân từ phía đối diện với hành lang, lối người nữ công tước bước ra. Tiếng chân đến gần, nghe nhỏ thôi nhưng rất rõ. Guynplên, mặc dù đang trầm ngâm, cố lắng tai.

Đột nhiên, bên kia bức rèm bạc mà người nữ công tước đã để hé, sau chiếc giường,cánh cửa dễ đoán được sau tấm gương hoa bỗng mở rộng; một giọng nói đàn ông, vui vẻ, hát thật to, hắt vào phòng gương cái điệp khúc của một bài hát Pháp cổ xưa:

Ba chú ỉn con, trên đống phân chuồng, gào kêu eng éc như mấy chường kiệu phu.

Một người đàn ông bước vào.

Anh ta đeo kiếm bên hông, tay cầm mũ lông chim có tuy và huy hiệu, mình mặc một tấm áo hải quân rất đẹp, có đính cấp hiệu.

Guynplên thẳng người lên, như cú lò xo bật dậy.

Nó nhận ra người ấy, mà người ấy cũng nhận ra nó.

Từ hai cửa miệng sửng sốt, cùng một lúc thoát ra hai tiếng kêu:

- Guynplên!!!

- Tom-Yim-Jack!!!

Người cầm mũ lông chim tiến thẳng đến bên Guynplên đang khoanh tay.

- Guynplên, sao cậu lại ở đây?

- Còn anh. Tom-Yim-Jack, sao anh lại đến đây?

- A! Ta hiểu rồi. Giôzan! Lại một trò dửng mỡ. Một tên hát rong xấu như quỉ sứ, thú vị quá làm sao cưỡng nổi. Guynplên, cậu đã cải trang để đến đây.

- Và cả anh nữa, Tom-Yim-Jack.

- Guynplên, tấm áo lãnh chúa kia là thế nào?

- Tom-Yim-Jack, cái áo sĩ quan kia là thế nào?

- Guynplên, ta không trả lời các câu hỏi đâu nhé.

- Tom-Yim-Jack, tôi cũng không.

- Guynplên, tôi không phải tên là Tom-Yim-Jack.

- Tom-Yim-Jack, tôi không phải tên là Guynplên.

- Guynplên, tại đây ta đang ở trong nhà của ta.

- Tom-Yim-Jack, tại đây tôi đang ở trong nhà của tôi.

- Ta cấm cậu nhại lại lời ta nói. Cậu có tài châm biếm, nhưng ta có cái gậy của ta. Chấm dứt ngay cái trò nhại diễu của cậu, đồ khốn khiếp vô lại.

Guynplên tái mặt.

- Mày vô lại! Rồi mày sẽ chịu trách nhiệm về câu lăng mạ đó.

- Trong lều của mày thì tha hồ. Bằng quả đấm.

- Tại đây, và bằng những đường kiếm.

- Anh bạn Guynplên ơi, cung kiếm là chuyện quý tộc. Ta chỉ đánh nhau với kẻ ngang hàng. Chúng ta bình đẳng trước nắm đấm, chứ không ngang hàng trước mũi kiếm đâu. Tại quán Tacaxtơ, Tom-Yim-Jack có thể đấu quyền Anh với Guynplên. Tại Uynxo,thì khác hẳn. Mày nên rõ điều này; ta là thiếu tướng hải quân.

- Còn ta, ta là nguyên lão Anh quốc.

Con người mà Guynplên gọi là Tom-Yim-Jack bật phì cười.

- Tại sao không là quốc vương luôn thể? Thực tế, mày nói cũng có lý lắm. Một anh phường tuồng đóng vai gì thì nên vai ấy. Mày cứ bảo tên mày là Têzơx, quận công Aten.

-Ta là nguyên lão Anh quốc và chúng ta sẽ đánh nhau.

- Guynplên, hậu quả chuyện trò dài dòng đấy. Chớ có đùa với kẻ có thể sai quấy cho mày một trận. Ta tên là huân tước Đêvit Điry-Moa.

- Còn ta, ta tên là huân tước Clăngsacli.

Huân tước Đêvit lại cười phá lên lần nữa.

- Khá lắm. Guynplên là huân tước Clăngsacli. Đúng cái tên cần có để chiếm đoạt Giôzian. Mày hay nghe đây, ta tha lỗi cho mày đấy. Và mày có biết tại sao không? Vì chúng ta đều là hai gã tình nhân. 

Tấm rèm hành lang chợt tách ra, một giọng nói vang lên:

- Thưa quý đức ông, các ngài là hai đấng phu quân.

Cả hai cùng ngoảnh lại.

- Backinphêđrô! - Đêvit thốt lên.

Quả là Backinphêdrô thật.

Hắn tủm tỉm cúi chào thật thấp hai vị huân tước.

Sau lưng hắn, cách mấy bước, thấy có một người quí tộc gương mặt cung kính và nghiêm nghị, tay cầm một chiếc đũa đen.

- Bẩm huân tước, tôi, hoàng môn quan đũa đen.

Tuân lệnh nữ hoàng, tôi đến tìm huân tước.

VIII. CAPITÔN[130] VÀ VÙNG PHỤ CẬN.

1. PHÂN TÍCH NHỮNG CHUYỆN TÔN NGHIÊM

Bước đi lên đáng sợ, từ mấy tiếng đồng hồ, cứ luôn luôn thay đổi màu sắc khiến cho Guynplên hoa cả mắt, và đã dẫn nó đến Uynxo, giờ đây lại đưa nó trở lại Luân đôn.

Những thực tế huyền ảo cứ nối tiếp nhau trước mắt nó không gián đoạn.

Chẳng có cách nào lẩn tránh được cả. Thực tế này vừa buông nó ra, thực tế kia lại bắt giữ nó lại.

Nó không có thì giờ để kịp thở nữa.

Ai đã từng thấy người là trò tung hứng là đã được nhìn thấy số phận. Những vật tung rơi đó, hết tung lên rồi lại rơi xuống, là những con người nằm trong tay số phận.

Vật tung rơi là thứ đồ chơi.

Ngay chiều hôm ấy, Guynplên ở tại một nơi rất kỳ lạ.

Nó ngồi trên một chiếc ghế dài có hình hoa huệ.

Ngoài bộ áo lụa, nó khoác một chiếc áo dài nhung đỏ lót lụa trắng, có lông chồn trắng, trên vai đính hai giải lông chồn trắng thêu kim tuyến.

Xung quanh nó, những người đủ mọi lứa tuổi, trẻ có, già có, cũng ngồi như nó, trên hoa huệ, cũng khoác áo đỏ và công chồn trắng như nó.

Trước mặt, một số người khác đang quỳ gối. Nhóm này mặc áo lụa đen. Một số trong những người quì gối đang viết.

Đối điện với nó, cách xa một tí, nó thấy có mấy bực thềm, một cái bục, một long đình, một huy chương to lấp lánh giữa một con sư tử và một con kỳ lân; dưới long đình, trên cái bục, trên bực thềm cao nhất, tựa lưng vào chiếc huy chương, là một chiếc ghế bành thếp vàng có hình vương miện. Đấy là một cái ngai.

Ngai của Đại Anh quốc.

Guynplên, bản thân là nguyên lão, đang ngồi trong nguyên lão nghị viện Anh quốc.

Guynplên đã được đưa vào nghị viện nguyên lão bằng cách nào? Chúng ta hãy nói ngay điều đó.

Suốt ngày từ sáng đến chiều, từ Uynxơ đến Luân đôn, từ Corlêon-Lotglơ đến Oexminxtơ-Hon, là cả một cuộc đi hết bực thang này đến bực thang khác. Mỗi bực thang lại thêm một lần choáng váng mới.

Từ Uynxo nó được đưa đi trong những chiếc xe của nữ hoàng, với đoàn hộ tống đúng nghi thức dành cho một vị nguyên lão.

Đội vệ binh danh dự giống hệt đội vệ binh đứng gác.

Ngày hôm ấy, trên con đường từ Uynxo đến Luân đôn, dân chúng dọc bờ sông trông thấy một đoàn quí tộc ân cấp của nhà vua phi ngựa theo hai chiếc xe trạm lộng lẫy kiểu hoàng gia. Viên hoàng môn quan đũa đen ngồi trong xe thứ nhất, tay cầm chiếc đũa. Trong xe thứ hai, người ta nhận thấy một chiếc mũ lông chim trắng đổ bóng kín cả một khuôn mặt. Ai đi qua thế? Một hoàng thân chăng? Một tù nhân chăng.

Đó chính là Guynplên.

Nom có vẻ như một kẻ bị dẫn tới tháp Luân Đôn[131], nếu không phải là một người được đưa đến nguyên lão nghị viện.

Nữ hoàng đã khéo sắp đặt mọi việc. Vì đây là người chồng tương lai của cô em, nên nữ hoàng đã cho một đoàn hộ tống riêng của mình.

Viên tuỳ tùng của hoàng môn quan đũa đen cưỡi ngựa dẫn dầu đoàn.

Trong xe của hoàng môn quan đũa đen, trên chiếc ghế phu, có một cái gối bằng dạ ngân tuyến. Trên gối này đặt một cái cặp đen đóng hình vương miện.

Đến Brenfo, trạm cuối cùng trước khi đến Luân Đôn, hai chiếc xe và đoàn hộ tống dừng lại.

Một cỗ xe bốn bánh bằng đồi mồi đóng bốn ngựa đang túc trực, phía sau có bốn tên hầu, phía trước có hai kỵ mã, và một người đánh xe đội tóc giả. Bánh xe, kệ để đồ, càng xe, toàn bộ trang bị trên xe đều mạ vàng. Đàn ngựa đều thắng yên cương bằng bạc.

Chiếc xe dạ hội này hình dáng oai nghiêm và kỳ lạ, đáng được long trọng có mặt trong số năm mươi mốt cỗ xe nổi tiếng mà Rubô đã để lại cho ta những bức tranh.

Hoàng môn quan đũa đen bước xuống xe, viên tuỳ tùng của y cũng xuống ngựa.

Viên tuỳ tùng bê cái gối dạ ngân tuyến ra khỏi chiếc ghế phu, trên để cái cặp in hình vương miện. Hắn bưng cái gối bằng cả hai tay, và đứng sau lưng hoàng môn quan.

Hoàng môn quan đũa đen mở cửa chiếc xe tứ mã, không người, rồi mở cửa xe của Guynplên. Hai mắt nhìn xuống, y kính cẩn mời Guynplên sang ngồi vào chiếc xe tứ mã.

Guynplên xuống xe trạm rồi bước lên cỗ xe tứ mã.

Hoàng môn quan cầm đũa và viên tuỳ tùng bưng gối cũng bước lên theo, ngồi xuống cái ghế dài thấp dành cho tiểu đồng trong những xe lễ tân ngày xưa.

Phía trong xe chăng xa-tanh trắng và hàng Binsơ với những riềm, những quả găng bạc. Trần xe có trang trí huy chương.

Số kỵ mã của hai chiếc xe trạm vừa bỏ lại đều bận y phục quân nhà vua. Còn tên đánh xe: cánh kỵ mã và quân hầu của cỗ xe tứ mã lại vận chế phục khác, rất lộng lẫy.

Guynplên, qua chuyến mộng du làm nó thất đảm, nhận thấy đám đầy tớ rực rỡ đó liền hỏi hoàng môn quan đũa đen.

- Bọn quân hầu nào thế?

Viên hoàng môn quan đũa đen đáp:

- Bẩm huân tước, quân hầu của ngài.

Hôm ấy, nghị viện nguyên lão họp vào buổi tối.

Curia erat serena[132] theo như các biên bản cũ. Ở nước Anh nghị trường sẵn lòng sinh hoạt ban đêm. Người ta được biết có lần Sêridan mở đầu bài diễn văn vào lúc nửa đêm và kết thúc nó vào lúc mặt trời mọc.

Hai chục xe chạm đi không, trở lại Uynxo; cỗ xe tứ mã có Guynplên ngồi, tiến về hướng Luân đôn.

Cỗ xe đồi mồi tứ mã đi bước một từ Brenfi về Luân đôn. Tư thế bộ tóc giả của tên đánh xe đòi hỏi phải vậy. Nhìn vẻ mặt long trọng của tên đánh xe, Guynplên cũng lây dáng nghiêm trang.

Vả lại những sự chậm trễ đó đều có vẻ như được tính toán. Chốc nữa ta sẽ thấy được lý do có lẽ xác đáng.

Trời chưa tối, nhưng cũng sắp rồi, khi cỗ xe đồi mồi dừng lại trước cổng Hoàng Cung, một cái cổng thấp, nặng nề, giữa hai tháp con dẫn từ Hoaitơ Hon sang Oextminxtơ.

Đoàn quí tộc ân cấp cưỡi ngựa vây quanh cỗ xe tứ mã.

Một tên tòng bộc, đứng phía sau nhảy xuống đường.

Viên hoàng môn quan đũa đen, có tên tuỳ tùng bưng gối theo sau, bước ra khỏi xe và tâu với Guynplên:

- Bẩm huân tước, kính mời huân tước xuống xe. Xin huân tước cứ để mũ trên đầu.

Trong chiếc áo khoác đi đường. Guynplên vẫn mặc chiếc áo lụa hôm qua. Nó không có kiếm.

Nó để áo khoác lại trên xe.

Dưới mái vòm dành cho xe cộ của cổng Hoàng Cung có một cái cửa ngang nhỏ được tôn cao thêm nhờ mấy bậc cấp.

Trong nghi thức trang nghiêm, đi trước là dấu hiệu tôn kính. Viên hoàng môn quan đũa đen đi trước, sau lưng có tay tuỳ tùng.

Guynplên bước theo sau.

Tất cả bước lên bậc cấp và đi qua cái cửa ngang.

Một lúc sau, họ đứng trong một căn phòng tròn, rộng, giữa có cột trụ; đây là phần dưới một tháp con, thuộc tầng dưới cùng, lấy ánh sáng qua những lỗ hẹp hình cung nhọn như những khe nhỏ trong hậu tầm, và ngay giữa trưa cũng rất tối. Đôi khi cảnh thiếu ánh sáng lại tôn thêm vẻ trang nghiêm. Bóng tối vốn uy nghiêm.

Trong căn phòng này có mười ba người đang đứng nghiêm. Phía trước ba, hàng thứ nhì sáu, phía sau bốn.

Trong số ba người đứng đầu, một anh mặc áo nhung đỏ, hai anh kia cũng mặc áo đỏ nhưng bằng xa-tanh. Cả ba đều có huy hiệu Anh quốc đeo trên vai.

Sáu anh đứng ở hàng thứ hai mặc áo cồn bằng hàng vân trắng, mỗi anh có một huy hiệu khác nhau trên ngực.

Bốn anh đứng phía sau đều mặc áo vân đen khác hẳn nhau, người thứ nhất bởi chiếc áo choàng xanh lam, người thứ nhì bởi chiếc huy hiệu thánh Giorgiơ đỏ ở bụng, người thứ ba bởi hai thánh giá đỏ sẫm trên ngực và trên lưng, người thứ tư bởi cái cổ lông đen, gọi là da xabenlin. Tất cả đều đội tóc giả, không mũ, hông đeo kiếm.

Vì tranh tối tranh sáng nên rất khó nhận ra mặt họ.

Mà họ cũng không thể trông thấy Guynplên.

Lão hoàng môn quan đũa đen giơ chiếc đũa lên và nói:

- Bẩm huân tước Fecmên Clăngsacli, nam tước Clăngsacli và Hâncơvin, hạ thần, hoàng môn quan đũa đen, đệ nhất quan chức phòng xuất tịch, xin phép được chuyển giao lãnh chúa lại cho Giarơchie, vụ trưởng vụ lễ nghi Anh quốc.

Nhân vật mặc áo nhung, để những người khác đứng lại sau, cúi sát đất chào Guynplên và nói:

- Bẩm huân tước Fecmên Clăngsacli, thần, Giarơchie, vụ trưởng vụ lễ nghi. Thần là quan chức do công tước Norphon, bá tước nguyên soái thế tập, sáng lập và gia phong. Thần đã tuyên thệ trung thành với nhà vua, và các nguyên lão và các hiệp sĩ dòng Giarơchie. Ngày gia phong của thần, ngày thần được bá tước - nguyên soái Anh quốc rót lên đầu một chén rượu, thần đã trịnh trọng hứa giúp đỡ giới quý tộc, tránh giao du với những kẻ thành tích bất hảo, tha thứ chứ không khiển trách những người quý phái, cứu giúp các quả phụ và các trinh nữ. Chính thần chịu trọng trách chu tất tang nghi cho các nguyên lão và chăm lo bảo vệ huy hiệu của các nguyên lão. Thần đến chờ đợi sự sai khiến của lãnh chúa.

Người thứ nhất trong hai người mặc áo xa-tanh gập người xuống chào và nói:

- Bẩm huân tước, thần là Claren, vụ phó vụ lễ nghi Anh quốc. Thần là quan chức phụ trách mai táng các quý tộc dưới hàng nguyên lão. Thần đến chờ đợi sự sai bảo của lãnh chúa.

Người mặc áo xa-tanh kia cúi chào và nói:

-Bẩm huân tước, thần là Noroa, vụ phó thứ hai vụ lễ nghi Anh quốc. Thần đến chờ đợi sự sai bảo của lãnh chúa.

Sáu người ở hàng thứ hai, đứng im và không nghiêng mình, tiến lên một bước.

Người thứ nhất bên phải Guynplên nói:

- Bẩm huân tước, lũ thần, sáu trợ lý lễ nghi Anh quốc. Thần là York.

Rồi mỗi truyền lệnh sứ tức trợ lý lễ nghi lần lượt lên tiếng, và tự xưng danh.

- Thần là Lancat.

- Thần là Lysơmông.

- Thần là Sextơ.

- Thần là Xômơxet.

- Thần là Uynxo.

Những huy hiệu trên ngực họ là huy hiệu các lãnh địa và thành phố họ mang tên.

Bốn người mặc áo đen, đứng sau các truyền lệnh sứ, đều đứng im.

Vụ trưởng vụ lễ nghi Giarơchie đưa ngón tay chỉ họ cho Guynplên và nói:

- Bẩm huân tước, đây là bốn nhân viên trong vụ lễ nghi.

- Áo xanh.

Người khoác áo choàng xanh cúi đầu chào.

- Rồng Đỏ.

Người mang huy chương Thánh Giorgiơ cúi chào.

- Thập tự Đỏ.

Người mang chữ thập đỏ cúi chào.

- Cửa hậu trường.

Người khoác lông xabenlin cúi chào.

Theo hiệu lệnh của vụ trưởng vụ lễ nghi, nhân viên thứ nhất, Áo Xanh, tiến lên, đỡ từ tay viên tuỳ tùng của hoàng môn quan chiếc gối dạ ngân tuyến và cái cặp có hình vương miện.

Vụ trưởng vụ lễ nghi nói với hoàng môn quan đũa đen:

- Lễ tất. Tôi xin lĩnh nhận ngài lãnh chúa.

Những thủ tục này khác tiếp theo thuộc về nghi lễ cổ xưa trước thời Hăngry VIII, mà nữ hoàng Anh cố gắng phục hồi trong một thời gian. Ngày nay tất cả những việc trên đây không còn gì nữa. Tuy vậy nghị viện nguyên lão vẫn tưởng mình bất di bất dịch; và nếu những gì xa xưa còn tồn tại ở một nơi nào đó, thì chính là những điểm trên đây. Tuy vậy nó cũng có thay đổi. E Pur si muovel.

Chẳng hạn cái may pole, tức là cái cột tháng Năm mà thành phố Luân Đôn vẫn trồng trên đường các vị nguyên lão đi đến nghị viện, thì nay ra sao? Cột cuối cùng còn thấy được trồng vào năm 1713. Từ đó "may pole" đã biến mất. Lạc hậu.

Bề ngoài vẫn bất động; thực tế có thay đổi. Chẳng hạn như danh hiệu: Anbơmaclơ. Tưởng chừng nó vĩnh cửu. Vậy mà đã có mười gia đình mang danh hiệu đó.

Ôđô, Mađơvin, Bêtuyn, Plăngtagiơnê, Bôsăng, Monk.

Với danh hiệu Lixextơ đã nối tiếp năm tên khác nhau, Bônông, Bnivô, Đulây, Xitnây, Côkơ. Với Lincôn, sáu. Với Pembrôk, bảy, vân vân. Gia đình thay đổi, nhưng danh hiệu vẫn giữ nguyên. Nhà viết sử hời hợt tưởng đâu là bất di bất dịch. Thực sự chẳng có gì trường cửu cả. Con người chỉ có thể là sóng. Chính nhân loại mới là nước.

Giới quý tộc tự hào về điểm mà phụ nữ vẫn lấy làm xấu hổ là tuổi già, nhưng cả phụ nữ lẫn quý tộc đều ảo tưởng mình vẫn trẻ mãi. Có lẽ nghị viện nguyên lão sẽ không bao giờ nhận ra mình qua điều ta vừa đọc tự đây và điều ta sắp đọc, gần giống như người đàn bà đẹp ngày xưa không muốn có nếp nhăn. Gương soi là một tên bị cáo già; nó hay vào hùa.

Tất cả nhiệm vụ của nhà viết sử là làm sao cho giống.

Viên vụ trưởng vụ lễ nghi nói với Guynplên.

- Xin huân tước vui lòng theo tôi.

Y nói thêm:

- Người ta sẽ chào ngài. Ngài chỉ cần khẽ hất vành mũ lên thôi. Sau đó, đoàn tiến thành hàng về phía một cái cửa ở cuối phòng tròn.

Lão hoàng môn quan đũa đen dẫn đầu.

Rồi đến anh Áo Xanh bưng gối; rồi đến vụ trưởng vụ lễ nghi; sau vụ trưởng vụ lễ nghi là Guynplên mũ vẫn đội trên đầu.

Các vụ phó vụ lễ nghi, truyền lệnh sử, nhân viên vụ lễ nghi, đứng lại trong căn phòng tròn.

Guynplên, trước mặt có lão hoàng môn quan đũa đen, sau lưng có vụ trưởng vụ lễ nghi, đi từ phòng nọ sang phòng kia, theo một hành trình ngày nay không thể nào tìm ra được, vì toà nhà cũ của nghị viện Anh quốc đã bị phá huỷ.[133] Ngoài các phòng, nó còn đi qua căn phòng quốc vụ viện kiểu gôtic, nơi xảy ra cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Ciăc đệ Nhị và Monmoath, nơi đã chứng kiến việc người cháu hèn nhát quỳ gối vô ích trước mặt ông chú độc ác.

Quanh căn phòng này, treo thành hàng trên tường, theo thứ tự năm, cùng với tên và huy hiệu, chín bức chân dung toàn thân của những nguyên lão cũ. Huân tước Nauxlađrông 1305. Huân tước Balion 1306. Huân tước Môngbêgon 1357. Huân tước Tibôtô 1372. Huân tước Zusơ Côno 1615. Huân tước Bla Aqua, không có niên hiệu. Huân tước Haren và Xơrê, bá tước Bloa, không có niên hiệu.

Trời đã về đêm, trong hành lang từng quãng từng quãng lại có đèn. Những ngọn đèn chùm bằng đồng cắm nến sáp ong đều thắp sáng trong các phòng, nom tương tự như các gian bên của nhà thờ.

Ở đấy chỉ có mặt những người cần thiết.

Trong một phòng khác có ngài Philip Xaiđenham quang vinh, lãnh chúa Etmun Bêcân Xuyphôn, người thừa kế của ngài Nicôla, và được phong primus harone- torum Anglioe[134]. Sau lưng ngài Etmun có cung thủ riêng mang bộ súng hỏa mai và tuỳ tùng mang huy hiệu Uynxtơ, vì các tòng nam tước sinh ra đã là người bảo vệ lãnh địa Uynxtơ ở Iêclăng.

Trong một phòng khác có vị quốc khố đại thần, kèm thêm bốn vị chủ nhiệm tài khoản và hai đại diện của huân tước thị vệ đại thần, có nhiệm vụ phân bổ thuế thân. Lại thêm trưởng ban tiền tệ, trên bàn tay xoè có một đồng livrơ xteclinh dập máy như các đồng pao. Cả tám nhân vật này đều kính cẩn chào vị huân tước.

Tại chỗ bước vào du lang có trải một chiếc chiếu, dẫn từ hạ nghị viện sang thượng nghị viện, Guynplên được ngài Tômax Manxen Macgam chào, ông này là kiểm soát viên tại cung nữ hoàng, và đại biểu nghị viện của Glamorgan; và tại chỗ ra lại được một đoàn đại biểu chào, đoàn "một trên hai" này thay mặt cho các nam tước Năm Hải-cảng[135] sắp hàng bốn, bên phải  bên trái, vì Năm Hải-cảng thành tám. Uynliam Asbơham chào thay cho Haxtinh, Mathiu Aimo thay cho Đuvrơ, Giôdiax Bơcsét thay cho Xanđuysơ, ngài Philip Botơlơ thay cho Haith, Gion Briuvơ thay cho Niu Râmnê, Eđua Xaothuen thay cho thành phố Rai, Giêm Hay thay cho thành phố Vinsenxi, và Giorgiơ Nêlo thay cho thành phố Xipho.

Guynplên sắp chào lại thì vụ trưởng vụ lễ nghi khẽ nhắc nghi thức.

- Bẩm huân tước, chỉ vành mũ thôi.

Guynplên vội làm đúng lời hướng dẫn.

Nó vào đến phòng họa; ở đây không có tranh vẽ, ngoài mấy bức ảnh thánh, trong số đó có thánh Eđua, dưới những vòm cửa sổ dài hình cung nhọn bị mặt sàn cắt đôi phía dưới là Oetminxtơ-Hon[136] phía trên là phòng họa.

Bên này bức rào chắn bằng gỗ ngăn đôi phòng họa, có ba vị quốc vụ khanh, những nhân vật quan trọng. Vị thứ nhất có chức quyền tại miền nam Anh quốc, xứ Iêclăng và các thuộc địa, thêm các nước Pháp, Ý, Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Thổ Nhĩ Kỳ. Vị thứ nhì lãnh đạo miền bắc Anh quốc và giám sát các nước Hà Lan, Đức, Đan Mạch, Thụy Điển, Ba Lan và Moxcôvi. Vị thứ ba người Êcôx, lãnh trách nhiệm xứ Êcôx. Hai vị trên là người Anh. Một trong hai vị là ngài Rôbơc Haclây tôn kính, đại biểu nghị viện của thành phố Niu Ratno. Một đại biểu Êcôx, ngài Mungô Graham, có họ với công tước Môngtơrô, cũng có mặt. Tất cả đều im lặng chào Guynplên.

Guynplên khẽ chạm mũ.

Người gác rào chắn nhấc thanh gỗ có bản lề mở lối vào phía sau phòng hoạ, ở đấy có chiếc bàn dài trải thảm màu xanh lá cây, dành riêng cho các vị huân tước.

Trên bàn đặt một giá đèn chùm tháp nến sáng trưng.

Guynplên trước mặt có hoàng môn quan đũa đen, Áo Xanh và Giarôchie, bước vào gian phòng riêng này.

Người gác chắn, sau khi Guynplên đi qua, lại đóng lối vào.

Vụ trưởng vụ lễ nghi vừa qua khỏi chắn liền dừng lại.

Phòng hoạ rộng thênh thang.

Cuối phòng, đứng dưới cái vương huy giữ hai cửa sổ, có hai ông già vận nhung phục đỏ với hai giải lông chồn trắng viền vạch vàng ở vai, và đội mũ lông chim trắng trên bộ tóc giả. Qua tà áo thấy rõ chiếc áo lụa và cái đốc kiếm của họ.

Sau lưng hai ông già, một người mặc áo vân đen đứng đực như phỗng, tay giơ cao một cái chuỳ vàng to phía trên có đầu sư tử đội vương miện.

Đấy là viên hộ pháp cầm chuỳ của các nguyên lão Anh quốc.

Sư tử là biểu trưng của các vị. Et les lions ce sont les Barons et li Per, theo biên niên sử viết tay của Bectơrăng Đuy Ghexcơlanh.

Vụ trưởng vụ lễ nghi chỉ cho Guynplên hai nhân vật mặc nhung phục và khẽ rỉ tai;

- Bẩm huân tước, hai vị này ngang hàng với huân tước. Ngài đáp lễ đúng như họ chào ngài. Hai vị huân tước hiện diện này là hai nam tước và là người đỡ đầu cho ngài, do huân tước tư pháp đại thần chỉ định. Hai vị rất già và hầu như mù. Chính họ sẽ tiến dẫn huân tước vào nguyên lão nghị viện. Vị thứ nhất là Saclơx Vinmê, huân tước Phitoantơ, lãnh chúa thứ sáu ở dãy ghế nam tước, vị thứ hai Ôguytơx Arânđen, huân tước Arânđen Tơrerix, lãnh chúa thứ ba mươi sáu trên hàng ghế nam tước.

Vụ trưởng vụ lễ nghi tiến một bước về phía hai ông già và cất cao giọng:

- Fecmên Clăngsacli, nam tước Clăngsacli, nam tước Hâncơvin, kiêm hầu tước Corlêon xứ Xixin, nguyên lão vương quốc, kính chào quí vị lãnh chúa.

Hai vị huân tước nhấc mũ ra, đưa thẳng cánh tay lên trên đầu rồi đội lại.

Guynplên cũng chào lại đúng theo kiểu đó.

Viên hoàng môn quan đũa đen lại tiến lên, rồi đến Áo Xanh, rồi Giarơchie.

Viên hộ pháp đến đứng ngay trước mặt Guynplên, hai vị huân tước đứng hai bên, huân tước Phitoantơ bên phải, huân tước Arânđen Tơrerix bên trái. Huân tước Arânđen gầy còm và nhiều tuổi hơn. Ông ta mất vào năm sau, để lại tước vị nguyên lão nghị viện cho người cháu tên là Gion, vị thành niên Tước đại thần này cũng chấm dứt vào năm 1768.

Đoàn người rồi khỏi phòng hoạ, bước vào một hành lang toàn trụ vuông. Ở đây, từ trụ nọ sang trụ kia, xen kẽ có lính cầm thương của nước Anh và lính cầm kích xứ Êcôx đứng canh.

Lính cầm kích người Êcôx là đoàn quân tuyệt vời chân đất xứng đáng đương đầu sau này với Fôngtơroa, với kỵ binh Pháp và với những giáp binh nhà vua mà đại tá của họ nói: Thưa các tiên sinh, các ngài hãy giữ chặt lấy mũ, chúng tôi sắp hân hạnh được tấn công.

Vị chỉ huy lính cầm thương và vị chỉ huy lính cầm kích cùng vung kiếm chào Guynplên và hai vị huân tước đỡ đầu. Còn cánh lính thì tốp chào bằng thương tốp chào bằng kích.

Cuối hành lang lấp loáng một cái cửa lớn, hai cánh rực rỡ như hai tấm vàng lá.

Hai bên cửa có hai người đứng im như phỗng. Qua chế phục của họ có thể nhận ra đấy là lính canh cửa.

Trước khi đến cái cửa ấy, hành lang rộng ra và cómột giao điểm tròn lồng kính.

Tại giao điểm này, một nhân vật uy nghiêm, nhờ tấm áo rộng và bộ tóc giả, ngồi trên một chiếc ghế bành lưng tựa rất rộng. Đó là Uynliam Caopơ, huân tước tư pháp đại thầncủa Anh quốc.

Tàn tật hơn nhà vua là một ưu điểm. Uynliam Caopơ cận thị. Nữ hoàng Anh cũng thế nhưng có kém hơn. Tật phải nhìn gần này của Unyliham Caopơ rất vừa lòng tật cận thịcủa nữ hoàng, nên ông được nữ hoàng chọn làm tư pháp đại thần và người bảo vệ lương tâm của triều đình.

Uynliam Caopơ có môi trên mỏng môi dưới dầy, dấu hiệu của sự phúc hậu nửa vời.

Giao điểm lồng kính được soi sáng bằng một ngọn đèn treo ở trần.

Huân tước tư pháp đại thần, nghiêm nghị trong chiếc ghế bành cao, bên phải có một cái bàn với viên thư ký hoàng gia, bên trái có một cái bàn với viên thư ký nghị viện.

Trước mặt mỗi viên thư ký đều đặt một quyển sổ mở sẵn và một nghiên mực.

Viên hộ pháp cầm cái chuỳ có vương miện đứng sau chiếc ghế bành của tư pháp đại thần. Thêm viên cầm đuôi áo và viên cầm túi tiền đội tóc giả dài. Tất cả những chức vụ đó hiện nay vẫn còn.

Trên chiếc bàn con cạnh ghế bành có một cây kiếm đốc bằng vàng, bao và dây đeo bằng nhung màu lửa.

Một quan chức đứng sau lưng viên thư ký hoàng gia, hai tay nâng một tấm áo mở sẵn, đấy là tấm áo đăng quang.

Một quan chức khác đứng sau lưng viên thư ký nghị viện cũng nâng một tấm áo mở rộng, đấy là tấm áo nghị viện.

Hai tấm áo ấy, bằng nhung đỏ, lót lụa trắng với hai giải lông chồn trắng có vạch vàng ở vai, đều giống nhau, trừ mỗi một điểm là giải lồng chồn trắng ở chiếc áo đăng quang có to bản hơn.

Một quan chức thứ ba là viên "thủ thư" bưng một mảnh da vuông xứ Flăngđrơ trên để quyển sổ đỏ, một thứ sổ con bọc da dê đỏ, trong có danh sách các đại thần và các công xã, thêm những trang trắng và một cây bút chì theo tục lệ được giao lại cho mỗi đại biểu mới vào nghị viện.

Đoàn người, đi sau cùng là Guynplên bước giữa hai đại thần đỡ đầu, dừng chân trước chiếc ghế bành của huân tước tư pháp đại thần.

Hai vị huân tước đỡ đầu bỏ mũ ra. Guynplên cũng làm theo họ.

Vụ trưởng vụ lễ nghi liền đón từ tay Áo Xanh chiếc gối dạ ngân tuyến rồi sụp quì xuống, dâng chiếc cặp đen để trên gối lên lãnh chúa tư pháp đại thần.

Vị huân tước tư pháp đại thần cầm chiếc cặp, trao cho viên thư ký nghị viện. Viên thư ký bước tới, kính cẩn đón chiếc cặp rồi trở về chỗ, ngồi xuống.

Hắn mở cặp ra, đứng dậy.

Trong cặp có hai chiếu chỉ như thường lệ, chứng thư nhà vua gửi thượng nghị viện và lệnh tham dự gửi cho vị tân nguyên lão.

Viên thư ký đứng kính cẩn, thong thả đọc to hai bản chiếu chỉ.

Lệnh tham dự thông đạt cho huân tước Fecmên Clăngsacli, kết thúc bằng những kinh ngữ quen thuộc:

"Chúng tôi nghiêm lệnh cho ngài, vì lòng tôn kính và trung thuận ngài phải có đối với chúng tôi, đích thân đến nhận ngôi vị bên cạnh các chủ giáo và các vị nguyên lão họp tại nghị viện chúng tôi ở Oexminxtơ, để cho biết ý kiến của ngài về các vấn đề của vương quốc và của nhà thờ, với tất cả danh dự và lương tâm".

Chiếu chỉ đọc xong huân tước tư pháp đại thần liền cao giọng:

- Dấu hiệu quy thuận đối với triều đình. Huân tước Fecmên Clăngsacli, ngài có chịu từ bỏ sự hóa thể[137] sự tôn thờ các thánh và việc dự lưx misa không?

Guynplên nghiêng mình.

- Đã quy thuận - huân tước tư pháp đại thần nói.

Và viên thư ký nghị viện đáp lại:

- Lãnh chúa đã tuyên thệ.

Huân tước tư pháp đại thần thêm:

- Huân tước Fecmên Clăngsacli, ngài có thể an toạ.

- Lễ tất - hai vị đỡ đầu cùng nói.

Vụ trưởng vụ lễ nghi liền đứng dậy, cầm thanh kiếm trên chiếc bàn con, và cài khóa dây đeo kiếm quanh người Guynplên.

"Sau đó - theo lời các hiến chương cũ của Normăngđi - vị nguyên lão cầm thanh kiếm của mình, bước lên hàng ghế cao và tham dự phiên họp".

Guynplên chợt nghe có tiếng người nói phía sau lưng:

- Thần xin khoác áo nghị viện cho lãnh chúa.

Đồng thời viên chức cầm áo vừa nói đó liền khoác áo và thắt sợi dây đen của giải lông chồn trắng vào cổ cho Guynplên.

Lúc này, với tấm áo đỏ trên lưng và thanh kiếm vàng bên cạnh, Guynplên giống hệt hai vị huân tước bên phải và bên trái.  Viên thủ thư liền trình quyển sổ đỏ và bỏ nó vào túi áo trong cho Guynplên.

Vụ trưởng vụ lễ nghi rỉ tai:

- Bẩm huân tước, lúc vào, ngài sẽ chào vương kỷ.

Vương kỷ tức là cái ngai.

Trong khi ấy hai viên thư ký, người nào bàn ấy, bên này viết vào sổ hoàng gia, bên kia viết vào sổ nghị viện.

- Cả hai, kẻ trước người sau, viên thư ký hoàng gia trước, đưa sổ đến trình huân tước tư pháp đại thần.

Ký vào sổ xong, huân tước tư pháp đại thần đứng lên:

- Huân tước Fecmên Clăngsacli, nam tước Clăngsacli, nam tước Hâncơvin, kiêm hầu tước Corlêon nước Ý, rất hoan nghênh việc ngài có mặt bên cạnh các nguyên lão, những huân tước tinh thần và thế tục của Đại Anh quốc.

Hai vị đỡ đầu của Guynplên khẽ chạm vào vai của Guynplên.

Cái cửa vàng to ở cuối hành lang bỗng mở rộng cả hai cánh.

Đấy là cửa bước vào nghị viện nguyên lão của Anh quốc.

Từ lúc Guynplên, đi giữa một đoàn người khác, trông thấy mở ra trước mắt cánh cửa sắt của nhà lao Xaothuak, chưa trôi qua hết ba mươi sáu tiếng đồng hồ.

Những đám mây trên đầu ấy đã trôi nhanh khủng khiếp; những đám mây làm nên sự kiện; nhanh như một đợt tấn công.

2. KHÔNG THIÊN VỊ.

Việc tạo ra một tước vị bình đẳng với vua, gọi là tầng lớp nguyên lão, vào những thời đại man rợ là một hư chế hữu ích. Ở nước Pháp và nước Anh, phương sách chính trị thô sơ này đã đưa lại kết quả khác nhau. Ở Pháp, nguyên lão nghị viện là một ông vua giả; ở Anh, đấy là một ông hoàng thật. Không to bằng ở Pháp nhưng thực chất hơn. Có thể nói: nhỏ hơn nhưng tồi tệ hơn.

Tầng lớp nguyên lão nghị viện bắt nguồn từ nước Pháp, vào thời kỳ nào thì không chắc chắn lắm, theo tục truyền thì dưới thời Saclơma; theo lịch sử thìdưới thời Rôbe-Anh-minh. Lịch sử cũng chẳng chính xác gì hơn tục truyền, Favanh viết: "Vua nước Pháp muốn lôi kéo các bậc quyền quý trong nước bằng tước vị cao sang là nguyên lão, như thể họ bình đẳng với mình".

Tầng lớp nguyên lão nghị viện đã nhanh chóng tách ra làm đôi và từ nước Pháp sang nước Anh.

Tầng lớp nguyên lão nghị viện Anh là một sự kiện lớn và gần như một điều quan trọng. Trước nó đã có tước Wlttenagemot[138] của người Xacxơ[139], tước Thane của người Đan Mạch và Vavasseur[140] của người Normăngđi hoà lẫn vào nhau thành tước nam, Nam tước cũng đồng từ với vir, tiếng Tây Ban Nha dịch là varon và có nghĩa rất hay, là người. Ngay từ năm 1075 các nam tước đã ra ngoài với vua. Mà sao lại khéo chọn vua! Với Ghiôm-Chiến-thắng[141], năm 1086 họ đặt nền tảng cho chế độ phong kiến: nền tảng đó là quyển Doomsday-book, "Sổ phán xét cuối cùng”. Dưới triều Giăng-Vô-thổ, xung đột,giới lãnh chúa Pháp ra vẻ kiêu ngạo với nước Anh và giới nguyên lão Pháp đòi vua nước Anh phải ra trước vành móng ngựa của mình. Các nam tước Anh phẫn nộ.

Ngày lễ đăng quang của Philip Oguyxt, với tư cách công tước xứ Normăngđi, vua nước Anh cầm lá cờ vuông đi đầu và công tước Gllyen lá cờ thứ hai, chống lại vị vua chư hầu đó của nước ngoài, cuộc "chiến tranh lãnh chúa" bùng nổ. Các nam tước buộc vị vua khốn khổ Giăng phải ban hành Đại hiến chương[142] mở đầu cho nguyên lão nghị viện. Giáo hoàng can thiệp hộ nhà vua và rút phép thông công các huân tước, năm ấy là năm 1215, và giáo hoàng là Inôxăng-đệ-tam, người thảo ra bản Veni Sanete Spiritus và gửi cho Giăng-Vô-thổ bốn đức tính cơ bản dưới hình thức bốn vòng xích vàng. Các huân tước vẫn không chịu. Một cuộc chống đối quyết liệt dai đẳng trải suốt nhiều thế hệ. Pembrốc chống lại.

Năm 1248 là năm của các "Tạm ước Ôcxfơc". Hai mươi bốn nam tước hạn chế nhà vua, tranh cãi với vua, và gọi mỗi lãnh địa một hiệp sĩ để tham gia vào cuộc tranh chấp mở rộng. Buổi lê minh của các công xã, Về sau, các huân tước lấy thêm một đô thị hai công dân và mỗi thị trấn hai thị dân. Do đó đến thời Êlizabeth, các nguyên lão là người xét xử vấn đề hiệu lực của các cuộc bầu cử công xã. Từ quyền tài phán của họ sinh ra ngạn ngữ: "Các đại biểu chỉ định phải được 3P: sine Prece, sine Pretio, sine Poculo[143]." Điều đó không ngăn cản có những thị trấn thối nát. Năm 1293 vua nước Anh vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của pháp đình nguyên lão nước Pháp, và Philip Lơ Ben đã đòi Êđua-đệ-Nhất ra trước toà án của mình, Êđua-đệ-Nhất là vị vua đã hạ lệnh cho con trai luộc mình sau khi mình chết và đem xương mình ra trận. Trước những chuyện ngông cuồng như vậy của vua, các huân tước cảm thấy cần phải củng cố nghị viện: họ chia nó ra thành hai viện: Thượng viện và Hạ viện. Các huân tước ngang nhiên chiếm giữ ưu thế.

Nếu có một đại biểu công xã nào dám láo xược phát biểu bất lợi cho nguyên lão nghị viện, người ta sẽ đòi hắn ra trước vành móng ngựa để nhận sự trừng phạt và đôi khi tống hắn vào tù (trong bầu cử cũng có sự phân biệt như thế). Tại nguyên lão nghị viện, bầu từng người một, bắt đầu từ vị nam tước cuối cùng gọi là "em út".

Khi được gọi đến tên, mỗi vị nguyên lão trả lời bằng lòng hay không bằng lòng. Tại các công xã, bầu chung, cả bầy, bằng có hoặc không. Công xã buộc tội, nguyên lão xét xử. Do khinh rẻ con số, các nguyên lão ủy quyền cho các công xã việc giám sát bàn cờ[144], về sau các công xã sẽ lợi dụng cho đó; gọi như thế, theo một số người, tức là giám sát tấm thảm trải bàn tượng trưng một bàn cờ, và theo một số người khác, tức là giám sát những ngăn kéo của một cái tủ cũ, phía sau một rào sắt, kho tàng các vua nước Anh để trong đó. Từ cuối thế kỷ thứ mười ba, bắt đầu có sổ Niên Thư "Year book".Trong cuộc chiến tranh Hai Bông Hồng, người ta cảm thấy trọng lượng của các huân tước, lúc ngả sang phía Gion Đơ Gôn, công tước Lancax, lúc ngả sang phía Etmun, công tước York.

Uot Tôlơ, các Lola, Varvic, người Chế tạo ra vua, toàn bộ nền vô chính phủ mẹ này, đẻ ra phong trào giải phóng, đều thú nhận hoặc bí mật lấy nền phong kiến nước Anh làm điểm tựa. Các huân tước ghen tị với nhà vua, một cách hữu ích; ghen tị tức là giám sát; họ khoanh tròn sáng kiến của nhà vua lại, thu hẹp những trường hợp đại nghịch, xúi giục những Risac giả chống lại Hăngri-đệ-Tứ đứng ra làm trọng tài, xét xử vấn đề ba vương miện giữa công tước York với Macgorit Ăngiu, và khi cần thì cất quân và có những trận chiến.

Sriuxblun, Tlukexbluri, Xanh-Anh-băng, lúc bại lúc thắng. Vào thế kỷ thứ mười ba, họ đã có được chiến thắng Livơ, và đã đuổi ra khỏi đất nước bốn anh em nhà vua, con hoang của Izaben và bá tước La Macsơ, cả bốn đều cho vay lãi, và họ lôi giáo dân qua tay bọn Do Thái; vừa là những hoàng thân, vừa là lũ lừa đảo, việc đó về sau cũng có thấy lại, nhưng vào thời ấy ít được tán thưởng.

Cho đến thế kỷ thứ mười lăm người ta vẫn thấy vai trò công tước Normăngđi trong vua nước Anh, và các văn nghị viện vẫn viết bằng tiếng Pháp. Từ Hăngri VII trở đi, theo ý kiến của các huân tước, mới viết bằng tiếng Anh. Nước Anh thuộc xứ Brơtan dưới thời Ute Penđragơn, thuộc La Mã dưới thời Xêđa, thuộc Xăcxơ dưới thời Thất Quốc[145], thuộc Đan Mạch dưới thời Haron, thuộc Normăngđi sau Ghiôm, trở thành Anh Cát Lợi nhờ vào các huân tước. Sau đó nó trở thành nước theo giáo phái Anh quốc. Có được tôn giáo của mình tại nước mình là một sức mạnh lớn. Một giáo hoàng nước ngoài thường bòn rút cuộc sống quốc gia, La Mêcơ[146] là một con thuồng luồng. Năm 1534, Luân Đôn trục xuất La Mã, giới nguyên lão tán thành cuộc cải cách và các huân tước thừa nhận Lute[147], đòn trả đũa việc rút phép thông công năm 1215.Việc này hợp ý Hăngri VIII, nhưng về nhiều phương diện khác, các huân tước lại gây trở ngại cho ông. Nguyên lão nghị viện trước mắt Hăngri VIII khác nào con chó dữ trước một con gấu. Khi mà Wolsey[148] mạo danh White-Hall của quốc gia, và khi Hăngri VIII mạo danh White-Hall của Wolsey, thì ai rầy la? Bốn huân tước là Đacxi đo Sisexte, Xên-Gion Đơ Blexô và (hai tên người Normăngđi) Mungioi và Muntigon. Nhà vua tiếm đoạt. Giới quý tộc lấn quyền. Quyền thừa kế bao hàm tính chất bất khả lung lạc; do đó mà sinh ra sự bất phục tùng của các huân tước, Ngay cả đối với Êlizabeth[149], các nam tước cũng không chịu ngồi yên. Do đó mà có những cực hình của Đuyaram. Chiếc váy tàn bạo ấy vấy đầy máu. Một chiếc lồng váy [150] trong đó có một cái thớt xử trảm đó là Êlizabet, Êlizabet tìm cách họp nghị viện thật ít, và thu hẹp nghị viện nguyên lão lại chỉ còn sáu mươi lăm vị, trong đó có có một hầu tước là Oexminxtơ, và không có lấy một công tước nào cả. Vả lại các vua nước Pháp cùng ghen tị như thế và cũng dùng kiểu loại trừ ấy. Dưới thời Hăngri đệ Tam chỉ còn có tám lãnh địa công tước, và nhà vua rất khó chịu về việc nam tước Đơ Măngtơ, nam tước Đơ Cuxi, nam tước Đơ Culôngmiê, nam tước Đơ Satônơp, Timơr, nam tước Đơ La Phe Tacdơnoa, nam tước Đơ Mortan và một số khác nữa, vẫn giữ tước vị nguyên lão nước Pháp, ở Anh, nhà vua vui lòng để mặc cho giới nguyên lão tàn tạ dần dần.

Dưới thời nữ hoàng Anh, chỉ đơn cử một ví dụ thôi, những việc tàn lụi từ thế kỷ thứ mười hai rốt cuộc đã đạt đến một tổng số năm trăm sáu mươi nhăm tước thế tộc bị huỷ bỏ. Cuộc chiến tranh Bông Hồng đã mở đầu cuộc tuyệt diệt các công tước mà sau đó Mari Tuyđo đã hoàn thành bằng những nhát rìu. Như vậy là chặt đầu giới quý tộc. Chặt công tước tức là chặt đầu. Cố nhiên đây là một đường lối chính trị hay, nhưng tha hóa vẫn hơn chặt. Điều đó Giăc đệ Nhất cảm thấy. Ông phục hồi công quốc. Ông phong tước công cho vị sủng thần của ông là Vilie, người đã gọi ông là con lợn(1). Đổi công tước phong kiến thành công tước nịnh thần, việc này sẽ phát triển tràn lan. Sáclơ đệ Nhị sẽ phong cho hai ả nhân tình là Bachơ Đơ Xaohămtơn và Luyđơ Đơ Kêrueil làm nữ công tước. Dưới thời nữ hoàng Anh sẽ có hai mươi lăm công tước trong đó có ba người nước ngoài, Cơmbơdan, Kembntgiơ và Sanbec.

Nhưng biện pháp đó của triều đình do Giăc đệ Nhất phát minh có đạt kết quả gì không? Không. Nguyên lão nghị viện cảm thấy mình bị âm mưu đó uy hiếp bèn nổi giận. Nó nổi giận chống lại Sáclơ đệ Nhất người nhân tiện mà nói có lẽ có hơi nhúng tay vào việc giết bố như Mari Đơ Mêđixit có hơi nhúng tay vào việc giết chồng. Đoạn tuyệt giữa Sác lơ đệ Nhất và giới nguyên lão. Các huân tước dưới thời Giắc đệ Nhất đã đòi cá nhân Bêcơn ra trước vành móng ngựa của mình về tội hối lộ, thì dưới thời Sáclơ đệ Nhất lại truy tố cá nhân Xtapho về tội phản nghịch. Trước kia họ kết án Bêcơn, nay họ kết án Stapho. Một người mất danh dự, một người mất mạng. Sáclơ đệ Nhất đã bị chặt đầu lần thứ nhất qua Stapho. Các huân tước tiếp tay cho các công xã. Nhà vua triệu tập nghị viện đến Ôcxfơc, cách mạng triệu tập nghị viện đến Luân Đôn; bốn mươi ba vị nguyên lão đi với nhà vua, hai mươi hai vị đi với nền cộng hoà. Từ việc thừa nhận vai trò dân chúng này của các huân tước nảy ra bản dự án quyền hạn phác thảo những nhân quyền của chúng ta, đó là cái bóng lờ mờ mà cách mạng Pháp từ tương lai sâu thẳm hắt lên cách mạng Anh.

Đấy là những công lao. Vô tình, cứ cho là thế. Và được trả bằng giá đắt, vì giới nguyên lão này là một loại ký sinh trùng khổng lồ, nhưng đáng kể. Sự nghiệp chuyên chế của Luy XI, của Risơliơ và của Luy XIV, việc xây dựng một quốc vương A Rập, việc bóp bẹp được ngộ nhận như sự bình đẳng, trận đòn đánh bằng vương trượng, quần chúng bị san phẳng bằng lối hạ thấp. Cái công trình Thổ Nhĩ Kỳ làm tại nước Pháp ấy, ở nước Anh các huân tước đã ngăn chặn lại. Họ đã dùng chế độ quý tộc là một bức tường, bên này kiềm chế nhà vua, bên kia che chở nhân dân. Họ chuộc lại cái tội ngạo mạn đối với nhân dân bằng thái độ xấc xược đối với nhà vua.

Ximông, bá tước Đơ Lêxetơ nói với Hăngry đệ Tam: "Đức vua, Người đã nói dối." Các huân tước buộc nhà vua phải khuất phục; họ xúc phạm nhà vua ở điểm yếu, ở việc săn bắn bằng chó. Bất cứ huân tước nào, đi qua một vườn ngự uyển, cũng có quyền bắn một con hươu tại đấy. Huân tước xem cung vua như nhà của mình. Vua, được dự chi tại Tháp Luân Đôn[151] với giá biểu của mình, không hơn gì một nguyên lão, mỗi tuần mười hai livrơ xtecling, trả cho nghị viện nguyên lão. Hơn thế nữa nhà vua bị mất ngôi, việc đó người ta nợ nhà vua. Các huân tước đã truất ngôi Giăng Vô Thổ, giáng chức Êđua Đệ Nhị, phế bỏ Risa đệ Nhị, tước quyền Hăng-ri VI và dã làm cho Cromoen trở thành hiện thực. Trong Sác lơ đệ Nhất dã có Luy XIV; nhờ Cromoen ông ta đã mang tính chất tiềm tàng. Vả lại, nhân thể nói luôn, bản thân Cromoen, không một sử gia nào để ý việc này, cũng muốn vươn lên tầng lớp nguyên lão; vì vậy mà y lấy Êlizabet BuôcSiê, dòng dõi và thừa kế của một Crômoen, huân tước BuôcSiê, mà tước thế tập đã tắt năm 1471, và của một Buôcsiê, huân tước Rôbơxa, mà tước thế tập đã tắt năm 1429. Tham dự vào sự phát triển đáng sợ của các sự kiện, Crômoen nhận thấy thống trị bằng con đường phế truất nhà vua nhanh hơncon đường đòi hỏi quyền nguyên lão, Nghi lễ của các huân tước đôi khi độc ác, thường đụng chạm đến nhà vua. Hai tên cầm kiếm ở Tháp Luân Đôn, vai mang rìu, đứng bên phải và bên trái vị nguyên lão bị kết tội phải ra trước vành móng ngựa, cũng dành cho cả nhà vua cũng như cho bất cứ một vị huân tước nào. Suốt năm thế kỷ nghị viện nguyên lão cũ đã có một kế hoạch, và cứ làm như thế không hề thay đổi. Người ta đếm những ngày vui chơi giải trí và những ngày nhu nhược của nó, chẳng hạn như cái lúc kỳ lạ nó bị cám dỗ bởi chiếc thuyền buồm lớn chở đầy phó-mát, giăm-bông và rượu Hy Lạp do Giuyn đệ Nhị gửi cho. Giới quý tộcAnh lo lắng, kiêu ngạo, cứng rắn, chăm chú, đa nghi một cách yêu nước.

Chính nó, vào cuối thế kỷ thứ mười bảy, bằng văn kiện thứ mười, năm 1694, đã tước của thị trấn Xtôcbrit, ở Xaohamtơn, cái quyền cử đại biểu vào nghị viện, và buộc các công xã phải huỷ bỏ cuộc bầu cử củathị trấn này vì có sự gian lận của giáo hoàng. Nó dã buộc Giăc, công tước York phải tuyên thệ, và khi Giăc từ chối, nó đã gạt ông ra khỏi ngai vàng. Tuy nhiên ông ta vẫn trị vì, nhưng cuối cùng các huân tước đã lại tóm được ông ta và đuổi hẳn. Chế độ quý tộc này, trong thời gian dài của nó, đã có một bản năng tiến bộ nào đó. Một đôi chút ánh sáng đáng khen cũng đã thường xuyên phát ra, trừ giai đoạn cuối, tức là hiện nay, Dưới triều đại Giăc đệ Nhị, nó giữ lại ở hạ nghị viện tỉ lệ ba năm bốn mươi sáu tư sản đối lại chín mươi hai hiệp sĩ, mười sáu nam tước lễ phong của Năm Hải Cảng cộng thừa đủ cân bằng với năm mươi công dân của hai mươi lăm thành phố. Bản thân rất hay cám dỗ và rất ích kỷ, chế độ quý tộc này đặc biệt vô tư trong một số trường hợp. Người ta thường xét đoán nó quá khắt khe. Lịch sử thường chỉ đánh giá tốt các công xã; điều đó còn phải tranh luận. Chúng tôi nghĩ vai trò huân tước rất lớn. Chế độ đại tộc là đường lối độc lập ở trạng thái man rợ, nhưng vẫn là độc lập. Cứ xem như Ba Lan; trên danh nghĩa là vương quốc, thực tế là nước cộng hoà. Các nguyên lão nước Anh luôn luôn đặt ngai vàng trong vòng ngờ vực và phải giám thị. Trong nhiều trường hợp, hơn cả các công xã, các huân tước cũng biết làm phật ý. Họ làm cho nhà vua thất bại.

Chẳng hạn như năm 1694, năm đáng lưu ý, các nghị viện ba năm một khóa, bị các công xã bác bỏ vì Ghi-ôm đệ Tam không ưa họ, lại được các nguyên lão bầu. Ghi-ôm đệ Tam phẫn nộ bèn tước bỏ của bá tước Binh toà lâu đài Penđêmx, ' và của hầu tước Morđôn tất cả mọi chức trách. Nghị viện nguyên lão là chế độ cộng hòa Vơni trong lòng vương chế nước Anh. Mục đích của nó là biến nhà vua thành một vị đại thống lãnh, nó làm nhỏ bé nhà vua bao nhiêu thì lại làm cho quốc gia lớn mạnh lên bấy nhiêu.

Nhà vua hiểu như thế và căm thù tầng lớp nguyên lão. Cả hai bên đều tìm cách làm suy yếu lẫn nhau. Những sự giảm sút ấy có lợi cho nhân dân và làm cho nhân dân lớn mạnh thêm. Hai lực lượng mù quáng, chế độ quân chủ và chế độ đại tộc, không nhận thấy mình đang làm lợi cho một lực lượng thứ ba, chế độ dân chủ.

Thế kỷ trước, triều đình mừng rỡ biết bao khi treo cổ được nguyên lão là vị huân tước Ferơ!

Tuy vậy cũng chỉ treo cổ ông ta bằng một sợi dây tơ. Lễ độ.

Nếu là một nguyên lão nước Pháp, người ta đã không treo cổ. Nhận xét kiêu hãnh của quận công Kisơliơ. Đồng ý. Người ta đã chặt đầu. Lễ độ cấp cao hơn.

Môngmôrenxi-Tăngcarvin thường ký: Nguyên lão nghị viện nước Pháp và nước Anh, thế là gạt tầng lớp nguyên lão Anh quốc xuống hàng thứ nhì. Các nguyên lão nghị viện nước Pháp cao quý hơn và kém quyền thế hơn, chú trọng thứ bậc hơnquyền hành, thích ngôi thứ hơn quyền lực. Giữa họ và các huân tước nước Anh có chút khác biệt ngăn cách tính hư vinh với thói kiêu ngạo.

Đối với các nguyên lão nghị viện nước Pháp, đi trước các hoàng thân nước ngoài, dẫn đầu các bậc quyền quý Tây Ban Nha, đứng trên các nhà quý tộc Vơni, lấp ngồi vào các hàng ghế dưới của nghị viện các thống chế nước Pháp, nguyên soái và đô đốc nước Pháp, dù đó là bá tước Tulơzơ hay con trai Luy XIV, phân biệt giữa các nam công quốc và các nữ công quốc, giữ quãng cách giữa một bá tước lãnh địa đơn thuần như Aemanhắe hoặc Anbret và một bá tước lãnh địa của nguyên lão nghị viện như Evrơ, có quyền mang trong một số trường hợp huy chương xanh hoặc huy chương kim dương mao ở tuổi hai mươi lăm, làm công tước Tơlermoi, vị nguyên lão xưa nhất bên cạnh nhà vua, bằng vai với công tước Uze, vị nguyên lão lâu năm nhất trong nghị viện đòi xe mình phải có một số tiểu đồng và ngựa ngang với một cử tri, được Thủ tướng gọi là đức ông, tranh luận xem công tước Menơ có đứng trong hàng nguyên lão như bá tước ở từ năm 1458 không, đi qua gian đại sảnh theo chiều chéo góc hay theo chiều cạnh, đó là vấn đề quan trọng.

Đối với các huân tước Anh, vấn đề quan trọng lại là chứng thư hàng hải, là lời tuyên thệ, là việc châu Âu trưng mộ lính phục vụ cho nước Anh, là việc thống từ các biểu, là chuyện trục xuất dòng họ Xtuyua, là chiến tranh với nước Pháp. Bên này trước hết là triều nghi; bên kia trước hết là quyền lực. Các nguyên lão Anh quốc nắm cái mồi, các nguyên lão Pháp quốc nắm cái bóng.

Nói tóm lại, nghị viện nguyên lão của Anh là một điểm xuất phát; về mặt văn minh thế là rất quan trọng.

Nó có vinh dự mở đầu cho một quốc gia. Nó là hiện thân đầu tiên của sự thống nhất một dân tộc. Sự chống đối kiểu Anh, cái sức mạnh tối tăm quyền năng vô hạn đó đã phát sinh trong nghị viện nguyên lão. Các nam tước, bằng một loại hành động bạo ngược đối với nhà vua, đã sơ phác ra vấn đề phế vị cuối cùng. Nghị viện nguyên lão ngày nay cũng hơi ngạc nhiên và buồn rầu về cái việc mà nó đã làm một cách miễn cưỡng và không hay biết. Hơn nữa điều đó lại không thể bãi bỏ được. Nhượng bộ là gì? Là hoàn trả. Và điều đó không phải các quốc gia không biết. Nhà vua nói : Ta ban. Nhân dân nói: Ta thuhồi. Nghị viện nguyên lão tưởng mình đã sáng tạo ra đặc quyền của nguyên lão, nhưng nó đã sản sinh ra quyền công dân. Chế độ quý tộc, con diều hâu đó, đã ấp cái trứng chim ưng là nền tự do.

Ngày nay cái trứng đã vỡ, con chim ưng bay lượn, con diều hâu dã chết.

Chế độ quý tộc hấp hối. Nước Anh lớn lên.

Nhưng chúng ta nên công bằng đối với chế độ quý tộc. Nó đã giữ thế cân bằng với chế độ quân chủ; nó là đối trọng. Nó là vật chướng ngại trước nền độc tài; nó đã là cái rào chắn. Chúng ta hãy cảm ơn nó, và cứ chôn vùi nó.

3. CĂN PHÒNG CŨ.

Cạnh tu viện Oetminxtơ có một toà lâu đài cổ kiểu Normăngđi bị đốt cháy dưới thờiHăngri VIII. Nay nó chỉ còn hai cánh, Ê-đua VI đặt nghị viện nguyên lão vào một cánh, và nghị viện công xã vào một cánh.

Cả hai cánh, cả hai phòng ngày nay đều không còn; người ta đã xây dựng lại tất cả.

Nhưng chúng tôi đã nói và cần phải nhấn mạnh, nghị viện nguyên lão ngày nay và nghị viện nguyên lão ngày xưa không giống nhau tí nào. Người ta đã phá huỷ lâu đài cũ, như thế là đã phần nào phá bỏ cái tục lệ cũ, những nhát cuốc bổ vào các công trình kiến trúc vĩ đại đều ảnh hưởng trở lại vào các tập quán và các hiến chương. Một hòn đá cũ không bao giờ rơi xuống mà không cuốn theo một điều luật cũ. Cứ đặt thượng nghị viện của một phòng hình vuông vào một phòng hình tròn, nó sẽ khác ngay. Lớp vỏ ngoài thay đổi làm biến dạng con sò bên trong.

Nếu muốn bảo tồn một vật gì cũ, của con người hay của thần thánh, luật pháp hay tín điều, quý tộc hay tăng lữ, thì chớ làm lại mới bất cứ một điều gì, cả cái hề ngoài cũng thế. Cùng lắm chỉ thêm chi tiết. Chẳng hạn, phái Giêduyt là một chi tiết thêm vào đạo Thiên chúa. Đối với các công trình xây dựng, cũng nên xử xự giống như khi sử xự với các thể chế.

Bóng tối phải nằm trong hoang tàn. Cái sức mạnh già cỗi không được thoải mái trong những ngôi nhà mới trang trí. Đối với các thểchế rách rưới, phải có những lâu đài rêu phong.

Giới thiệu nội thất của phòng nghị viện nguyên lão ngày xưa tức là giới thiệu một cái gì đó xa lạ. Lịch sử là đêm tối. Trong lịch sử không có hậu cảnh, ánh sáng giảm dần và bóng tối lập tức xâm chiếm tất cả những gì không còn ở phía trước sân khấu. Trang trí cất di, là xóa sạch, là quên hết. Quá khứ đồng nghĩa với “không biết”.

Khi là pháp đình, các nguyên lão họp trong gian đại sảnh Oetminxtơ, còn khi là thượng nghị viện lập pháp thì họp trong một phòng đặc biệt gọi là "Nhà Nguyên lão", “House of the lords”.

Ngoài toà án nguyên lão Anh quốc, chỉ họp khi nào nhà vua triệu tập, có hai toà án lớn của nước Anh, dưới toà án nguyên lão, nhưng trên mọi cấp tài phán khác họp tại phòng đại sảnh Oetminxtơ. Hai tòa án này đóng trong hai gian kề nhau, ở đầu trên căn phòng này. Tòa án thứ nhất là Cao đẳng pháp viện mà nhà vua buộc phải chủ toạ; tòa án thứ hai là Pháp viện của Bộ tư pháp do tư pháp đại thần chủ toạ. Một bên là tòa án công lý, một bên là tòa án khoan hồng. Chính tư pháp đại thần kiến nghị, nhà vua ân xá; thỉnh thoảng thôi. Hai tòa án này hiện nay vẫn còn, chuyên giải thích pháp chế và phần nào uốn nắn lại nó; nghệ thuật của quan toà là bào gọt bộ luật thành án lệ. Một cái nghề trong đó đức công bình tuỳ nghi xoay xở. Pháp chế được chế tạo và áp dụng giữa chốn tôn nghiêm đó, phòng đại sảnh Oetmilltơ. Phòng này có một mái vòm kiểu giẻ gai mà mạng nhện không sao bám được; trong pháp luật đã có khá nhiều mạng nhện rồi.

Họp tòa án và họp nghị viện là hai việc khác nhau. Tính chất nhị nguyên này hợp thành quyền lực tối cao. Hội nghị kéo dài, bắt đầu ngày 3 tháng 11 năm 1640, cảm thấy nhu cầu cách mạng của thanh gươm hai lưỡi này. Vì vậy nó tự tuyên bố, với tư cách một nghị viện nguyên lão, có cả quyền tư pháp lẫn quyền lập pháp.

Hai quyền này có từ thuở rất xa xưa trong nghị viện nguyên lão. Chúng tôi vừa nói, là quan toà, các nguyên lão chiếm Oetminxtơ-Hôn; là nhà lập pháp, họ có một phòng khác.

Căn phòng khác này, nói cho đúng là viện nguyên lão, dài và hẹp. Nó chỉ được chiếu sáng nhờ bốn cửa sổ khoét sâu vào tầng nóc, và nhận ánh sáng qua mái, thêm ở phía trên long đình, một cửa mắt bò có sáu tấm kính với màn che; ban đêm không có ánh sáng nào khác ngoài mười hai giá đèn chùm nhỏ thắp nến gắn trên tường. Phòng thượng nghị viện của Vơni còn không được thắp sáng bằng thế. Giống cú vọ quyền uy rất mực này ưa thích đôi chút bóng tối.

Trên căn phòng nơi các vị huân tước ngồi họp khum khum một vòm cao đa diện và có những hõm nhỏ mạ vàng. Phòng công xã chỉ có một cái trần bằng; trong các công trình xây dựng thời quân chủ mọi thứ đều mang một ý nghĩa, ở một đầu căn phòng dài của các vị nguyên lão là cửa ra vào: đầu kia, đối diện là cái ngai vua. Cách cửa vài bước là bức rào chắn, một đường cắt ngang, một thứ biên giới, đánh dấu chỗ chấm dứt nhân dân và nơi bắt đầu giới quý tộc. Bên phải ngai là một lò sưởi, trên mặt có huy hiệu, phô bày hai bức trạm trổ bông cẩm thạch, một bức tượng trưng chiến thắng Câtvôn đánh vào quân Brơtan năm 572, một bức tượng trưng bản đồ thị trấn Đânltêbơn, thị trấn này chỉ có bốn đường phố, song song với bốn phần của thế giới. Ba bực cấp tôn cao cho cái ngai. Ngai vua được gọi là “Vương kỷ”. Trên hai bức tường đối diện, chăng dài thành những bức tranh liên hoàn, một tấm thảm rộng do Ehzabet tặng các vị nguyên lão, và mô tả toàn bộ cuộc phiêu lưu của hải quân Tây Ban Nha, từ lúc nó rời khỏi Tây Ban Nha cho đến lúc bị đắm trước nước Anh. Những phần nổi của tàu thuyền đều dệt bằng kim tuyến và ngân tuyến, vì thời gian đã xám xịt. Tựa vào bức thảm này, từng quãng từng quãng lại bị những ngọn đèn chùm gắn vào tường làm gián đoạn, bên phải có ba hàng ghế dài dành cho các giám mục, bên trái có ba hàng ghế dài dành cho các công tước, hầu tước và bá tước sắp theo hình bực thang và cách nhau bằng những bực lên xuống. Các công tước ngồi trên ba ghế ở đoạn thứ nhất, các hầu tước, trên ba ghế ở đoạn thứ hai; các bá tước trên ba ghế ở đoạn thứ ba.

Ghế của tử tước xếp vuông góc, nhìn thẳng vào ngai, và phía sau, giữa các tử tước và cái rào chắn, có hai ghế dành cho các nam tước. Trên chiếc ghế dài cao, bên phải ngai, là hai tổng giám mục, Cantơbiuri và York; trên chiếc ghế giữa, ba giám mục, Luân Đôn, Duyaram và Vinsexte; các giám mục khác ngồi trên ghế phía dưới. Giữa tổng giám mục Cantơbiuri và các giám mục có sự khác biệt rất lớn, ở chỗ ông là giám mục do quyền uy Chúa, còn các vị khác chỉ là do Chúa cho phép. Bên phải ngai, ta thấy một chiếc ghế dựa dành cho hoàng thân xứ Galơ, và bên trái, những chiếc ghế xếp dành cho các vương công tước, và sau số ghế xếp này có mấy bục dành cho các nguyên lão vị thành niên chưa được tham dự nghị viện. Khắp nơi nhan nhản hình hoa huệ; và huy hiệu nước Anh to tướng trên bốn bức tường, trên đầu các vị nguyên lão cũng như trên đầu nhà vua. 

Con trai các vị nguyên lão và những người thừa kế tham dự các cuộc tranh luận, đứng sau ngai vua, giữa long đình và bức tường, Chiếc ngai vua ở cuối phòng và ở ba mặt phòng, ba dãy ghế dài dành cho các vị nguyên lão, để chừa ra một ô vuông rộng. Trong ô vuông này, trên trải tấm quốc thảm mang huy hiệu Anh quốc, có bốn cái đệm len; một cái trước ngai để vị tư pháp đại thần ngồi giữa kim đầu trượng và quốc ấn, một cáitrước mặt các giám mục để các quan toà cố vấn quốc gia ngồi, chỉ dự thính chứ không được phát biểu, một cái trước mặt các công tước, hầu tước và bá tước để các quốc vụ khanh ngồi, một cái trước mặt các tử tước và nam tước để cho hai viên phó thư ký quỳ viết. Ở giữa ô vuông có một chiếc bàn rộng phủ da, đầy những hồ sơ, sổ cái, sổ thu nhập với những lọ mực to bằng vàng bằng bạc và những ngọn đuốc cao ở bốn góc. Các nguyên lão tham dự hội nghị theo thứ tự niên đại người nào theo ngày tháng thụ tước của người nấy. Họ ngồi theo tước vị và, trong tước vị, theo thâm niên. Hoàng môn quan đũa đen đứng ở chỗ rào chắn, tay cầm chiếc đũa. Bên trong cửa, viên tuỳ tùng của hoàng môn quan, và bên ngoài cửa là viên mõ, có nhiệm vụ khai mạc các phiên toà với tiếng: Oyez[152] bằng tiếng Pháp, rao ba lần, trịnh trọng nhấn mạnh vào âm tiết đầu. Bên cạnh viên mõ, là viên đội cầm kim đầu trượng của tư pháp đại thần.

Trong các buổi lễ của triều đình, các vị nguyên lão thế quyền đội mũ miện, còn các vị nguyên lão giáo quyền đội mũ chủ giáo. Các tổng giám mục đội mũ chủ giáo có thêm miện công tước, và các giám mục ngồi sau các tử tước, đội mũ chủ giáo có thêm tortin của nam tước. Điểm nhận xét kỳ quặc và là một bài học, cái ô vuông hình thành bởi ngai vua, các giám mục và các nam tước, và trong đó có các pháp quan quì gối, chính là nghị viện cũ của nước Pháp qua hai chủng tộc đầu tiên. Cùng một vẻ quyền uy ở Pháp và ở Anh. Trong truyện De ordina- tione sacri palatu[153], năm 858, Hinmar đã tả nghị viện nguyên lão hợp ở Oetmmxtơ vào thế kỷ mười tám. Một biên bản kỳ quặc làm trước chín trăm năm. Lịch sử là gì? Một tiếng vang của quá khứ trong tương lai. Một phản ảnh của tương lai dựa trên quá khứ.

Nghị viện bảy năm mới phải họp một lần.

Các huân tước thảo luận bí mật, cửa đóng kín. Các công xã họp công khai. Dường như việc có nhiều người biết là dấu hiệu của hèn kém.

Số lượng huân tước, không hạn chế. Phong thêm huân tước, là sự đe doạ của vương quyền. Biện pháp cai trị. Vào đầu thế kỷ thứ mười tám, nghị viện nguyên lão đã đạt con số rất cao. Từ đó nó còn phình thêm nữa.

Làm loãng giai cấp quí tộc là một đường lối chính trị. Có lẽ Êlizabet đã phạm sai lầm khi cô đúc tầng lớp nguyên lão lại còn sáu mươi lăm huân tước, Tầng lớp huân tước càng vắng ít thì càng hùng mạnh. Trong các hội đồng càng nhiều thành viên thì càng ít đầu óc. Giắc đệ Nhị đã cảm thấy thế nên mới đưa con số thượng nghị viện lên đến một trăm tám mươi tám huân tước; một trăm tám mươi sáu nếu giảm bớt hai nữ công tước củakhuê phòng nhà vua, Porxmot và Clevơlan. Thời nữ hoàng Anh, tổng số huân tước kể cả giám mục lên đến hai trăm linh bảy.

Không kể công tước Câmbơclan, chồng nữ hoàng, có hai mươi lăm công tước; người thứ nhất Norfon, không dự họp vì theo công giáo, và người cuối cùng, Kembrit, hoàng thân khu vực bầu cử Hanôvrơ, được dự họp mặc dù là người ngoại quốc, Uynsextơ được xem như hầu tước Anh quốc đầu tiên và duy nhất, cũng như Axtorga hầu tước duy nhất của Tây Ban Nha, vắng mặt, vì ông thuộc phái Giacôbit[154], nên có năm hầu tước, người thứ nhất là Đecby và người cuối cùng Hecvê, vì là nam tước cuối cùng nên huân tước Hecvê được gọi là "em út" của nghị viện, Đecby, dưới thời Giắc đệ Nhị, đứng sau Ôcxfơc, Sribiury và Kent, chỉ là người thứ ba, đến thời nữ hoàng Anh trở thành bá tước thứ nhất. Tên của hai vị tư pháp đại thần đã biến mất trên danh sách các nam tước, Verulan mà lịch sử tìm ra Bêcơn và Oem mà lịch sử tìm ra, Jepfrê Bêcơn và Jepfrê là những cái tên mù mịt khác nhau. Năm 1715, số hai mươi sáu giám mục chỉ còn hai mươi lăm, ghế của Sextơ khuyết. Trong hàng ngũ giám mục một số là lãnh chúa rất lớn; như Uynliam Tanbô, giám mục Ocxfơc, trưởng chi tân giáo của dòng họ ông. Các người khác đều là những vị tiến sĩ tài ba, như Gion Sarp, tổng giám mục York, nguyên niên trưởng Noruyc, nhà thơ -Tômax Xprat, giám mục Rôsextơ, con người hiền lành có máu động kinh, và vị giám mục Lincon khi chết là tổng giám mục Cantơbiury, Uêcơ, đối thủ của Bôtxuyên.

Trong những dịp quan trọng, và lúc nào đón nhận chiếu chỉ nhà vua gửi cho thượng nghị viện, toàn bộ đám đông uy nghiêm ấy mặc áo dài, đội tóc giả, chụp mũ chủ giáo hoặc mũ lông chim, lại lóp ngóp sắp thành hàng dài, chất thành bực cao, trong căn phòng nguyên lão dọc theo những bức tường, trên đó thấp thoáng cơn bão táp tiêu diệt hạm đội Tây Ban Nha. Xin hiểu ngầm: bão táp theo hiệu lệnh của nước Anh.

4. NGHỊ VIỆN CŨ.

Toàn bộ nghi lễ nhận chức của Guynplên, từ khi bước qua cổng Hoàng cung cho đến lúc tuyên thệtại giao điểm lồng kính, đều diễn ra trong một cảnh tranh tối tranh sáng.

Huân tước Uynliam Caopơ nhất thiết không cho phép cung cấp cho mình, tể tướng Anh quốc, những chi tiết quá rõ ràng về việc biến dạng của vị huân tước trẻ Fecnên Clăngsacli; ông cho rằng cương vị của ông đâu phải để biết việc một nguyên lão không được đẹp mã, và ông cảm thấy mình sút kém uy thế khi một cấp dưới dám cả gan đưa đến cho mình những tin tức loại đó.

Chắc chắn một thường dân rất thích thú khi nói: hoàng thân ấy gù lưng. Vậy thì dị dạng đối với một huân tước là một chuyện xúc phạm. Khi nữ hoàng vừa nói với ông mấy lời, huân tước tể tướng chỉ đáp: Lãnh chúa bao giờ cũng có bộ mặt lãnh chúa. Trên những bản khẩu cung mà chắc ông phải kiểm tra và chứng nhận, ông đã hiểu đại khái. Do đó có những việc phải đề phòng.

Bộ mặt của vị tân huân tước có thể, lúc vị này bước vào nghị viện, gây đôi chút xôn xao. Cần phải ngăn ngừa việc đó. Huân tước tể tướng đã đề ra một số biện pháp. Hết sức ít sự kiện, đó là ý nghĩ bất di bất dịch và phương châm hành động của nhưng nhân vật đúng đắn. Tính chất trang nghiêm rất ghét những chuyện rắc rối. Cần làm sao để việc chấp nhận Guynplên không gặp trở ngại, cũng như việc thừa nhận bất cứ một người thừa kế tước nguyên lão nào khác.

Vì vậy mà huân tước tể tướng đã ấn định việc đón tiếp huân tước Fecmên Clăngsacli vào một phiên họp tối. Tể tướng vốn là người gác cửa, Quodammodo ostiar- ius[155] như các hiến chương Normăngđi nói, Januarum cancellorumque potestasm[156] như Tectuyhêng nói, ông có thể cử hành nghi lễ bên ngoài nghị viện, trên ngưỡng cửa, và huân tước Uulia Caopơ đã sử dụng quyền hạn của mình khi thực hiện tại giao điểm lồng kính những thủ tục gia phong cho huân tước Fecmên Clăngsacli. Hơn nữa, ông còn tiến hành trước giờ, để vị tân nguyên lão bước vào nghị viện trước cả lúc khai mạc phiên họp.

Còn việc gia phong cho một nguyên lão ở ngưỡng cửa, và bên ngoài nghị viện nữa, thì đã có những tiền lệ. Vì nam tước thế tập đầu tiên sáng tạo theo chập chiếu chứng thư, là Gion Đơ Bôsăng, Đơ Honcatxơn, do Risac đệ Nhị phong năm 1387, nam tước Đơ Kitđeminxtơ, đã được đón tiếp theo cách ấy. Vả lại tái diễn tiền lệ này, huân tước tể tướng tự tạo cho chính mình một vấn đề khó xử làm trở ngại cho ông không đầy hai năm sau, lúc tử tước Niuhêvân được vào nghị viện nguyên lão.

Cận thị, như chúng tôi đã nói, huân tước Uyliam Cao pơ chỉ trông thấy lờ mờ vẻ dị dạng của Guynplên; hai vị huân tước đỡ dầu thì chẳng thấy tí gì. Đây là hai ông già gần như mù.

Huân tước tể tướng đã dụng tâm chọn họ.

Hơn thế nữa, huân tước tể tướng vì chỉ nhìn thấy tầm vóc và phong thái đường hoàng của Guynplên, còn nhận xét Guynplên có "bộ mặt rất khả quan".

Chúng tôi xin thêm rằng Backinphêdrô, vốn là một tên gian hùng, am hiểu tường tận và quyết tâm phải thành công trong âm mưu của mình, nên trong các công văn của hắn, trước mặt huân tước tể tướng đã phần nào giảm nhẹ chuyện dị dạng của huân tước Fecmên Clăngsacli, bằng cách nhấn mạnh chi tiết Guynplên có thể tùy tiện bỏ hẳn vẻ cười và làm cho bộ mặt méo mó trở lại nghiêm nghị. Có thể Backinphêđrô còn phóng đại thêm khả năng đó nữa. Vả lại, về phương diện quý tộc, việc ấy có hề gì? Uynliam Caopơ chẳng phải là luật gia tác giả câu châm ngôn này sao: ở nước Anh việc phục hồi một vị nguyên lão còn quan trọng hơn việc phục hồi một nhà vua? Tất nhiên vẻ đẹp và phẩm cách con người không thể tách rời nhau, thật bực mình khi một huân tước bị giả mạo, và đây là một sự lăng nhục của tình cờ; nhưng chúng ta cần nhấn mạnh điểm đó, việc ấy có giảm bớt gì về quyền lợi? Huân tước tể tướng đã có ý đề phòng, như vậy là đúng, nhưng nói chung đụng hay không thì ai có thể ngăn cấm một vị nguyên lão bước vào nghị viện nguyên lão? Giới quý tộc và vương quyền lại không cao hơn cả sự dị dạng và sự tàn tật hay sao?

Trong cái gia đình đã tàn tạ năm 1347, của dòng họ Cunin ngày xưa, các bá tước Đơ Busăng, chẳng phải cũng có một tiếng kêu dã thú di truyền như bản thân tước thế khanh sao, đến nỗi cứ nghe tiếng rống là người ta nhận ra các nguyên lão xứ Êcôx. Những vết máu ghê tởm trên mặt có ngăn cản Xêđa Borgya làm công tước Đơ Valăngtinoa không? Đôi mắt mù có ngăn cản Giăng Đơ Luyxemhua làm vua xứ Bôêm không? Cái lưng gù có ngăn cản Risac đệ Tam làm vua nước Anh không? Xét kỹ thực chất sự việc, tàn tật và vẻ xấu mà được chấp nhận một cách dửng dưng cao đạo, không những không phản đối tính chất cao quý: mà còn khẳng định và chứng minh nó nữa. Giới quí tộc có một ánh sáng uy nghiêm mà dị dạng không thể nào làm lu mờ. Đó là một mặt khác của vấn đề, vàkhông phải là mặt nhỏ hơn.

Như đã thấy, không gì có thể ngăn trở việc chấp nhận Guynplên, và những dè dặt khôn ngoan của huân tước tể tướng, bổ ích về mặt thấp kém của chiến thuật, là chuyện xa hoa về mặt hơn hẳn của nguyên tắc quí tộc.

Lúc mấy tên lính canh đã mở cái cửa to hai cánh trước mặt Guynplên, trong phòng chỉ mới có mấy vị huân tước. Hầu hết các vị này đều già. Trong các cuộc họp, mấy ông già bao giờ cũng đến đúng giờ: cũng như bên cạnh phụ nữ họ đều là những người ưa săn đón. Trên ghế công tước chỉ thấy hai vị, một vị bạc phơ, một vị hoa râm, là Tômax Ôxborn, công tước Đơ Litz, và Sombec, con trai của ngài Sombec người Đức do dòng dõi, người Pháp do cái gậy thống chế, và người Anh do thế tập; vị này bị sắc lệnh Năngtơ đuổi sau khi tham chiến chống nước Anh với tư cách là người Pháp, lại tham chiến chống nước Pháp với tư cách là người Anh.

Trên ghế huân tước giáo quyền, chỉ có tổng giám mục Cantơbiury, chủ giáo trưởng anh quốc, ngồi trên cùng; và ở dưới là vị tiến sĩ Ximon Patric, giám mục Đêli, đang chuyện trò với Evơlin Pieromông, hầu tước Đơ Đorsextơ; ông này đang giải thích cho giám mục biết chỗ khác nhau giữa một bức luỹ đắp bằng đất sọt với một đoạn thành nối liền hai pháo đài, và giữa hàng rào cọc gỗ là một hàng cọc đóng trước lều để che chở cho trại, còn cọc đóng quanh móng cầu là một vòng cọc nhọn phía dưới lan can một pháo đài để ngăn cản quân vây thành trèo lên và những kẻ bị bao vây trốn thoát. Còn vị hầu tước thì hướng dẫn cho giám mục cách đóng cọc để bảo vệ một đồn lẻ, phải đóng lút một nửa xuống đất và để chừa một nửa ra ngoài, Tômax Tinơ, Tử tước Uêmot, đến gần một giá đèn và xem xét một tấm bản đồ của người kiến trúc sư của ôngđể làm cho khu vườn Long Lit của ông tại Uynsai, một bãi cỏ gọi là "bồn cỏ bàn cờ" có những ô cỏ vuông xen với những ô vuông cát vàng, cát đỏ, vỏ hến và than vụn. Ở ghế tử tước thì lẫn lộn có một số huân tước gia, Etxêc, Otxunxten, Piririn, Ôxbor, Uynliam Zuylexten, bá tước Đơ Rôsfor, với một số huân tước trẻ thuộc phe đảng không đội tóc giả, đang vây quanh Praixơ Đêverơ, tử tước Hirifor, và đang tranh luận về vấn đề xem lấy ô-rô gây nôn bỏ vào nước sôi có thành trà uống không. - Gần gần thế, - Ôxborn nói. - Hoàn toàn là trà,- Etxêc nói. Câu chuyện ấy được Paolex Xen Gion nghe rất chăm chú; ông này là anh em họ của Bolinbrôc mà sau này Vonte phần nào là học trò, vì Vonte bắt đầu học với cha Pcrê: cuối cùng lại học với Bolinbrôc.

Ở ghế hầu tước, Tômax Đơ Grê, hầu tước Đơ Kent, huân tước cận thần của nữ hoàng, cam đoan với Rôbơe Bectai, hầu tước Đơ Linxê, huân tước cận thần Anh quốc, rằng chính hai người Pháp tị nạn, ông Locôc trước làm cố vấn tại nghị viện Pari, và ông Ravơnen, một người quý phái xứ Brơtan, đã trúng số độc đắc trong cuộc sổ xố của nước Anh năm 1694. Bá tước Đuymơ đọc một quyển sách nhan đề “Linh nghiệm kỳ lạ về những lời đoán của thầy bói”, Gion Căngben, bá tước Đơ Grinnuych, nổi tiếng về cái cằm dài, và vui tính và tuổi tám mươi bảy, đang viết thư cho nhân tình. Huân tước Săngđô đang gọt giũa móng tay. Vì phiên họp sắp đến là phiên họp của triều đình có đại diện nhà vua, nên hai người phụ canh cửa đặt trước ngai một cái ghế dài nhung mầu lửa. Vị trưởng ban tổ chức, sacrorum scriniorunl magiste, ngồi trên cái bao len thứ nhì, ông này lúc ấy ở cái nhà cũ của những người Do Thái ly khai. Trên cái bao thứ tư, hai viên phó thư ký quỳ gối đang giở xem các quyển sổ cái.

Trong lúc huân tước tể tướng ngồi xuống cái bao len thứ nhất thì các quan chức nghị viện thu xếp chỗ, một số đã ngồi, một số đang đứng, tổng giám mục Cantobiury đứng lên đọc kinh, và phiên họp bắt đầu.

Guynplên đã vào được một lúc mà không ai để ý; chiếc ghế dài thứ nhì của nam tước, chỗ ngồi của Guynplên, sát với rào chắn, nên nó chỉ phải đi có vài bước. Hai vị huân tước đỡ đầu ngồi bên phải và bên trái nó, thành thử gần như che khuất sự có mặt của người mới đến.

Không ai được báo trước cả, viên thư ký nghị viên đã đọc khẽ, và có thể nói là thì thầm mọi thứ giấy tờ liên quan đến vị huân tước mới, còn huân tước tể tướng thì dã tuyên bố việc công nhận Guynplên giữa tình trạng mà trong các báo cáo gọi là "không chú ý chung".Mọi người đều nói chuyện. Trong phòng cứ ầm ầm, giữa lúc ấy các cuộc họp làm tất cả mọi việc mập mờ, mà sau đó đôi khi họ phải ngạc nhiên.

Guynplên ngồi im lặng, đầu trần, giữa hai vị nguyên lão già, huân tước Fltoantơ và huân tước Arânđen.

Theo dặn dò của vụ trưởng vụ lễ nghi, lại được hai huân tước đỡ đầu nhắc lại, lúc vào Guynplên đã chào chiếc "vương kỷ ".

Như vậy là xong.

Nó thành huân tước.

Chốn cao sang đó, mà suốt đời nó đã nhìn thấy thầy Uyêcxuyt của nó hãi hùng cúi rạp dưới ánh sáng chói lọi, cái đỉnh núi thần kỳ đó đang ở dưới chân nó.

Nó đang ngồi giữa nơi vừa rực rỡ vừa tối tăm của nước Anh.

Đỉnh cao ngàn xưa của ngọn núi phong kiến mà suốt sáu thế kỷ châu Âu và lịch sử vẫn nhìn ngắm. Hào quang hãi hùng của một thế giới đầy tăm tối.

Nó đã bước vào giữa vầng hào quang ấy. Một nước bước không thể nào lùi chân được.

Guynplên đang ở đấy như ở trong nhà của nó.

Trong nhà của nó, trên ghế của nó, cũng y hệt nhà vua trên ngai của vua.

Nó đang ở đó, và từ nay không gì có thể làm cho nó không ởđó.

Vành vương miện nó nhìn thấy dưới long đình kia là anh em với vành vương miện của nó. Nó là nguyên lão của chiếc ngai vàng kia.

Trước mặt nhà vua, nó là lãnh chúa. Kém hơn, nhưng tương tự.

Hôm qua nó còn là gì? Phường tuồng, Hôm nay nó là gì? Hoàng thân.

Hôm qua, chẳng là gì hết. Hôm nay, tất cả.

Cuộc chạm trán đột ngột của khốn cùng với quyền uy, cuộc gặp gỡ mặt đối mặt trong một số phận, và thình lình trở thành hai nửa của một lương tâm.

Hai bóng ma, bỉ cực và thái lai, cùng chiếm lĩnh một tâm hồn, bên nào cũng cố lôi kéo phần thắng về mình. Bi đát thay cuộc giành giật một trí tuệ, một ý chí, một khối óc, giữa hai anh em thù địch là con ma bần cùng và con ma giàu có, Aben và Caanh[157] trong một con người.

5. CHUYỆN TRÒ CAO ĐẠO.

Các hàng ghế nghị viện kín dần. Các huân tước lục tục kéo đến. Chương trình nghị sự có việc bỏ phiếu dự án tăng thêm mười vạn livrơ xteclinh vào thuế phí của Giorgiơ Đan Mạch, công tước Đơ Cơmboclan, chồng của nữ hoàng. Ngoài ra, còn được thông báo một số dự án linh tinh mà nữ hoàng đã ưng thuận, sắp được các vị khâm sai có quyền hạn và trách nhiệm phê chuẩn đệ trình nghị viện, thành thử phiên họp trở thành phiên họp triều đình, Các vị nguyên lão đều khoác áo nghị viện ra ngoài triều phục hoặc thường phục, Chiếc áo này tương tự áo Guynplên mặc, đối với tất cả mọi người đều giống nhau, không kể khoản các công tước có năm giải lông chồn trắng viền vàng, các hầu tước bốn, các bá tước và tử tước ba, và các nam tước hai. Các huân tước cứ từng tốp từng tốp bước vào. Họ đã gặp nhau trong hành lang, họ nói tiếp những câu chuyện bỏ dở. Một số đến một mình. Y phục đều trang nghiêm nhưng thái độ thì không; ngôn ngữ cũng không. Tất cả mọi người lúc vào đều cúi chào ngai vua.

Các nguyên lão ùn lại, Đoàn tên tuổi oai vệ này diễu qua hầu như không theo nghi thức, vì vắng mặt công chúng. Lêxextơ đi vào và bắt tay Lisơfin; rồi Saclox Morđon, bá tước Đơ Pitơborup và Đơ Monmao, bạn của Lêkơ theo sáng kiến của Lôckơ ông ta đã đề nghị đúc lại tiền; rồi Saclox Căngben bá tước Đơ Luđun, lắng tai nghe Phunk Grêvin, huân tước Bruk; rồi Đơmơ, bá tước Đơ Caenacvon; rồi Rôbơc Xâttơn, nam tước Levinhtơn, con của Lêxinhtơn, người đã khuyên Saclơ đệ Nhị đuổi Grêgônô Lêti, vị sử quan khá dại dột muốn trở thành sử gia; rồi Tômax Benlaxydơ, tử tước Fanconboc, ông già đẹp lão; và cùng đi với nhau ba anh em họ Haova. Haova, bá tước Xtafo. Haova, bá tước Đơ Xtapfo, rồi Gion Lôvơlêx, nam tước Lôvơlêx, mà tước thế tập tàn lụi năm 1736 giúp cho Risacxơn đưa Lôvơlêx vào sổ của mình và tạo ra một kiểu mẫu dưới cái tên đó.

Tất cả những nhân vật ấy, mỗi người mỗi vẻ đều nổi tiếng trên trường chính trị hoặc trong chiến tranh, và nhiều người còn làm vẻ vang cho nước Anh, đang cười cười nói nói. Cứ y như lịch sử mặc áo thường.

Không đầy nửa giờ, phòng họp đã gần đông đủ. Đơn giản thôi, vì phiên họp của triều đình. Điều kém phần đơn giản hơn là tính chất nhộn nhịp của các câu chuyện trao đổi. Phòng họp, ban nãy vật vờ như thế, lúc này ồn ào như ong vỡ tổ. Chính mấy ngài huân tước đến muộn thức tỉnh nó dậy. Họ mang chuyện mới lạ đến. Điều kỳ quặc là những vị nguyên lão có mặt trong phòng lúc khai mạc phiên họp, đều không hay biết tí gì về những việc đã xảy ra, còn nhưng vị không có mặt lúc ấy lại tỏ tường mọi việc.

Nhiều vị huân tước từ Uynxo tới.

Từ mấy tiếng đồng hồ, câu chuyện ly kỳ về Guynplên đã bị tiết lộ. Bí mật là một tấm lưới, đứt một mặt là toàn bộ rách bung. Ngay từ sáng, do những việc tình cờ xẩy đến trên đây, toàn bộ câu chuyện về việc tìm thấy một tước nguyên lão trên sâu khấu hát rong và về một tên múa rối được công nhận là huân tước, đã vở lỡ tại Uynxo trong các gia đình hoàng tộc. Các hoàng thân nói về chuyện ấy, rồi quân hầu đầy tớ nói. Từ cung đình sự kiện lan ra thành phố. Các sự kiện cũng có trọng lực và ở đây có thể áp dụng định luật bình phương vận tốc.

Chúng rơi vào công chúng và đi sâu vào công chúng nhanh một cách chưa từng thấy. Bảy giờ, ở Luân Đôn không ai hay biết chuyện này. Tám giờ, Guynplên là đầu đề câu chuyện của cả thành phố. Chỉ có mấy vị huân tước đúng giờ là không hay biết sự việc vì không ở thành phố, nơi người ta thường kể lại mọi chuyện, và vì đang ở trong phòng họp nơi họ chẳng nhận thấy gì cả.

Thế là bình tĩnh ngồi trên ghế, họ bị những vị mới đến xúc động quá gọi giật.

- Thế nào? - Franxit Brao, tử tước Maolêcut, hỏi hầu tước Dersextơ.

- Cái gì kia?

- Có lý nào lại thế nhỉ?

- Cái gì kia?

- Thằng Cười.

- Thằng Cười là cái gì?

- Thế ngài không biết Thằng Cười sao?

- Không.

- Nó là một thằng hề. Một thằng nhỏ chợ phiên. Một cái mặt kỳ quái, mà người ta vẫn bỏ ra hai xu để đi xem. Một tên múa rối.

- Rồi sao nữa?

- Ngài vừa đón tiếp hắn như một nguyên lão Anh quốc.

- Thưa ngài huân tước Maotêcut, Thằng Cười chính là ngài.

- Tôi không cười, thưa ngài huân tước Đorsextơ.

Nói xong, tử tước Maotêcut ra hiệu cho viên thư ký nghị viện. Anh này bỏ bao len đứng dậy và xác nhận với các ngài quý tộc sự việc công nhận vị tân nguyên lão.

Với mọi chi tiết.

- Ra thế, ra thế, ra thế. - Huân tước Đorsextơ nói. - Chả là tôi mải tiếp chuyện giám mục Êli.

Bá tước trẻ Anexlê đến gần huân tước già Ơrê, vị này chỉ còn sống được hai năm vì ông ta sẽ chết vào năm 1707.

- Huân tước Ơrê?

- Huân tước Anexlê?

- Ngài có được biết huân tưới Linơx Clăngsacli không?

- Một người ngày xưa. Có.

- Ông ta chết tại Thuỵ Sĩ phải không?

- Đúng. Chúng tôi có họ hàng với ông ta.

- Ông ta thuộc phái cộng hoà dưới triều đại Cromoen, và vẫn theo phái cộng hoà dưới triều đại Saclơ đệ Nhị nữa phải không?

- Cộng hoà à? Đâu phải, ông ta bất mãn. Đó là một chuyện tranh chấp riêng giữa nhà vua với ông ta. Tôi được một nguồn tin chắc chắn cho biết rằng huân tước Clăngsacli có thể đã quy phục nếu cho ông ta cái cương vị tể tướng của huân tước Haiđơ.

- Huân tước Ơrê, ngài làm tôi ngạc nhiên đấy. Người ta bảo huân tước Clăngsacli là một con người quân tử kia mà.

- Một con người quân tử! Có quân tử thật sao? Ông bạn trẻ ơi, làm gì có hiền nhân quân tử.

- Thế Catông?

- Ngài tin vào Catông ư, thưa ngài!

- Thế Arixtiđ[158]?

- Người ta dã lưu đày ông ta là phải!

- Thế còn Tômax Moro[159].

- Người ta đã cắt cổ ông ta là đúng.

- Thế theo ý kiến ngài, huân tước Clăngsacli?

- Cũng thuộc loại ấy thôi. Vả lại một con người ở lại chỗ lưu đày thì lố bịch thật.

- Ông ta chết ở đấy.

- Một con người đầy tham vọng không được như ý- Ôi! Hỏi rằng tôi có biết ông ta không ?! Biết quá đi chứ. Tôi là bạn thân của ông ta mà.

- Huân tước Ơrê, ngài có biết việc ông ta lấy vợ ở Thuỵ Sĩ không?

- Tôi có biết sơ sơ.

- Và qua cuộc tình duyên đó, ông ta được một người con hợp pháp.

- Phải, đứa con đó chết rồi.

- Nó còn sống.

- Sống?

- Sống.

- Vô lý.

- Thật đấy. Đã được xác minh. Đã được chứng nhận. Đã dược phê chuẩn. Đã được đăng ký.

- Thế thì đứa con trai ấy sẽ thừa hưởng tước vị nguyên lão của Clăngsacli.

- Nó sẽ không thừa hưởng đâu.

- Sao thế?

- Vì nó dã thừa hưởng rồi. Đã xong hết rồi.

- Xong hết rồi?

- Huân tước Ơrê: mời ngài ngoảnh đầu lại.Y ngồi sau lưng ngài, trên ghế nam tước kia kìa.

Huân tước Ơrê ngoảnh lại; nhưng khuôn mặt Guynplên đã theo mốt mới rồi. Y không đội tóc giả.

Grantam đến bên Côlơpêppơ.

- Có anh chết đứng rồi!

- Ai thế?

- Đêvit Điry Moa.

- Sao vậy?

- Hắn không còn là nguyên lão nữa.

- Tại sao vậy?

Và Hery Ôverkec, bá tước Đơ Grantam, kể cho Gion nam tước Côlơpeppe, toàn bộ "giai thoại" cái chai nổi đưa đến cho bộ hải quân, tờ giấy da của bọn com- prasicôx, bản "Jussu regis" có Jepfrê áp ký, cuộc đối chất trong hầm hình sự Xaothouak, việc huân tước tể tướng và nữ hoàng chấp thuận tất cả những sự việc ấy, việc tuyên thệ tại giao điểm lồng kính và cuối cùng việc công nhận huân tước Fecmên Clăngsacli lúc mở đầu phiên họp, và cả hai người đều cố gắng để nhận ra, giữa huân tước Fitxoantơ và huân tước Arânđen, khuôn mặt được nói rất nhiều của vị tân huân tước, nhưng cũng chẳng đạt kết quả gì hơn huân tước Ơrê và huân tước Anexlê.

Vả lại Guynplên, hoặc do tình cờ, hoặc do sự sắp xếp của các vị đỡ đầu có huân tước tể tướng báo trước, được xếp ngồi vào chỗ khá tối để tránh khỏi sự tò mò.

- Đâu ? Y đâu ?

Đó là tiếng thốt của tất cả mọi người khi mới đến, nhưng chẳng ai có thể nhìn thấy rõ Guynplên cả. Một số đã trông thấy Guyplên tại Hộp Xanh, tò mò một cách háo hức nhưng cũng hoài công. Cũng như đôi khi người ta khôn ngoan bao vây một cô gái giữa một tốp các bà goá phụ, Guynplên cứ như bị bọc giữa đám huân tước già tàn tật và thờ ơ. Mấy ngài hiền lành bị bệnh thống phong thường ít quan tâm đến chuyện người khác.

Họ truyền tay nhau những bản sao bức thư ngắn ngủi, khẳng định là chính nữ công tước Giôzian cho chị là nữ hoàng, trả lời mệnh lệnh triều đình buộc mình phải lấy vị tân nguyên lão, người thừa kế hợp pháp dòng họ Clăngsacli, huân tước Fecmên, Bức thư ấy như sau:

"Kính tâu hoàng hậu.

Tiện muội cũng muốn như thế. Tiện muội sẽ có thể được huân tước Đêvit Điry Moa làm nhân tình"

đã ký: Giôzian.

Mảnh giấy ấy thật hay giả, được hoan nghênh nhiệt liệt.

Một huân tước trẻ, Saclơx Ôkêhamtơn, nam tước Mêhun trong nhóm không đội tóc giả, khoái trá đọc đi đọc lại mảnh giấy. Lêvix Đơ Đurax, bá tước Đơ Fevơsam, người Anh có đầu óc Pháp, nhìn Môhun và mỉm cười.

- Vậy thì. - Huân tước Môhun nói bô bô. - Đúng là người đàn bà mà tôi khoái được lấy làm vợ rồi.

Các vị ngồi cạnh hai huân tước được nghe những câu đối thoại sau đây giữa Đurax và Môhun:

- Lấy nữ công tước Giôzian làm vợ sao, huân tước Môhun?

- Chứ sao lại không?

- Đồ mắc dịch!

- Hạnh phúc lắm!

- Thế thì đông quá!

- Thế dễ từ xưa đến giờ không đông?

- Huân tước Môhun, ngài nói có lý lắm. Về khoản  phụ nữ, tất cả chúng ta đều hưởng thừa của nhau. Ai là người đã được hưởng đầu tiên?

- Có lẽ là Ađam (Ađam là ông tổ của loài người, theo Kinh Thánh).

- Cũng không đúng.

- Xét cho cùng, là Xa tăng!

- Ông bạn thân mến ơi, - Lêvix Đơ Đurax kết luận. - Ađam chỉ là một kẻ cho mượn tên thôi. Một anh chàng bị lừa đáng thương hại. Y khoác cái vai người. Đàn ông đã được quỷ tạo ra cho đàn bà.

Hugô Sonlê, bá tước Đơ Sonlê, luật gia có tiếng, được Natanaen Criu, ngồi ở ghế các giám mục hỏi, Criu hai lần nguyên lão, nguyên lão thế quyền vì là nam tước Criu và nguyên lão giáo quyền vì là giám mục Đuyram.

- Lẽ nào lại thế. - Criu nói.

- Có hợp pháp không? - Sonlê hỏi.

- Việc gia phong người mới đến này tiến hành ngoài nghị viện. - Giám mục lại nói tiếp, - nhưng người ta khẳng định là đã có nhiều tiền lệ.

- Phải, Huân tước Bôsăng dưới thời Risac đệ Nhị. Huân tước Sơnê dưới thời Elizabet.

- Và huân tước Broghm dưới thời Cromoen.

- Cromoen không hề kể.

- Ngài nghĩ thế nào về toàn bộ vấn đề này.

- Nhiều chuyện tinh tinh lắm.

- Này ngài bá tước Đơ Sonlê, anh chàng Fecmên Clăngsaeli sẽ đứng ở hàng nào trong nghị viện?

- Huân tước giám mục, việc gián đoạn của phái cộng hoà đã xáo trộn các hàng ngũ cũ, Clăngsacli ngày nay thuộc giới nguyên lão giữa Bacna và Xêmơ, như vậy là trường hợp phát biểu ý kiến luân phiên, huân tước Fecmên Clăngsacli sẽ là người nói thứ tám.

- Lạ thật! Một tên hát rong đầu đường xó chợ!

- Thưa huân tước giám mục, bản thân sự kiện không khiến tôi ngạc nhiên tí nào. Những chuyện như thế vẫn thường xảy ra. Có nhiều chuyện còn kinh ngạc hơn nữa. Cuộc chiến tranh Hai Bông Hồng chẳng đã được báo trước bởi hiện tượng khô cạn đột ngột của sông Uzơ ở Betfo ngày mồng một tháng giêng năm 1399 là gì?

Vậy nếu một con sông có thể khô cạn, thì một người quý tộc cũng có thể rơi vào hoàn cảnh thấp hèn lắm chứ. Uyluvx vua xứ Itacơ, ngày xưa làm đủ mọi nghề. Fecmên Clăngsacli vẫn là huân tước dưới cái vỏ phường tuồng bên ngoài. Sự hèn kém của tấm áo đâu có chạm đến tính chất cao quý của giòng máu, nhưng việc tuyên thệ và gia phong ngoài phiên họp, mặc dù, được xem như hợp pháp vẫn có thể gây lên những chuyện dị nghị. Tôi tán thành ý kiến phải thống nhất về vấn đề xem sau này có cuộc trao đổi nhà nước với huân tước tể tướng không. Trong vài tuần nữa ta sẽ thấy những việc phải làm.

Và giám mục nói thêm :

- Cũng thế thôi. Đây là một chuyện lạ kỳ chưa từng thấy từ bá tước Giexbôdux.

Guynplên, Thằng Cười, quán Tacaxtơ, Hộp Xanh.Hồng hoang chiến bại, Thuỵ Sĩ, Sidông, bọn compra- sicôx, cuộc lưu đày, việc cắt xẻo, nền cộng hoà, Jepfrê. Giắc đệ Nhị, chữ Jussu regis, cái chai được mở tại bộ Hải quân, ông bố, huân tước Linơx, đứa con hợp pháp, huân tước Fecmên, người con hoang, huân tước Đêvit, những xung đột có thể nổ ra, nữ công tước Glôzian, huân tước tể tướng, nữ hoàng, tất cả những chuyện ấy chạy hết ghế nọ sang ghế kia. Tiếng thì thầm như một vệt thuốc nổ. Người ta bàn qua tán lại các chi tiết. Tất cả câu chuyện này tạo thành tiếng thì thào râm ran của nghị viện. Guynplên, đang ở dưới cái đáy giếng mơ màng, cũng mang máng nghe thấy tiếng vo ve đó mà không biết rằng nó liên quan đến mình.

Tuy nhiên nó cũng chăm chú một cách khác thường, nhưng chăm chú vào chiều sâu chứ không chăm chú vào bề mặt. Chú ý quá lại hóa ra tự cô lập.

Tiếng rì rầm trong nghị viện vẫn không làm cho cuộc họp bị đình trệ. Cũng như lớp bụi sau lưng đoàn quân không thể ngăn cản bước đi của nó. Các quan toà, trong thượng nghị viện, họ là những người tham dự chỉ nói khi nào được hỏi đến, đã yên vị trên bao len thứ nhì và ba vị quốc vụ khanh đã ngồi trên bao len thứ ba. Các vị nguyên lão thế tập kéo vào ô của mình. Cả ở ngoài và ở trong, phía sau ngai vua, Các nguyên lão vị thành niên đều ngồi trên bục dành riêng cho họ. Năm 1705, số huân tước trẻ tuổi này không kém mười hai người: Huntinđơn, Lincôn, Đorxet, Vacvic, Bat, Bơlintơn, Đecvenoatơ, số kiếp phải gặp một cái chết bi đát, Lôngin, Lênxđên, Đulê, Va, và Cactorc, làm thành một đám lau nhau tám bá tước, hai tử tước và hai nam tước.

Trong phòng, trên ba tầng ghế dài, huân tước nào ngồi vào chỗ nấy. Hầu hết các giám mục đều có mặt. Số công tước rất đông, bắt đầu là Saclơx Xemua, công tước Đơ Xômơxét, và kết thúc là Glorghơ Ôgutuyt, hoàng thân cử tri Hanôvrơ, công tước Đơ Kembritgiơ, người cuối cùng theo niên đại, do đó là người cuối cùng theo hàng ngũ. Tất cả đều ngồi thứ tự, theo ngôi thứ; Cavenđis, công tước Divonsai, có người ông ở Hacđuych đã che chở cho tám mươi hai tuổi già của Hôpbơ: Lenôx, công tước Đơ Rismông; ba anh em Fit Roa: công tước Saohamtơn, công tước Grapton, và công tước Northơmhoclan, Bơtlơ, công tước Ormông; Xômoxet, công tước Bôfo, Bôclec, công tước Xên Anbãng; Paolet, công tước Bentơn; Ôxbơrn, công tước Litz; Vriôtêxlê Rơtxen, công tước Betfo, lấy khẩu hiệu và châm ngôn là Che sara sara, nghĩa là Chấp nhận sự kiện: Sepfin, công tước Bockingam; Manơ,,công tước Rutlan và cácngười khác. Cả Haova, công tước Norfôn, cả Tanbô, công tước Sribiury, đều không tham dự vì theo đạo Thiên Chúa; cả Socsin, công tước Macbôrô - ông Manbruc của chúng ta - đang chiến đấu và lúc ấy đang đánh nhau với nước Pháp. Như vậy là không có các công tước xứ Êcôx.

Quinxbơry, Môngrô và Rôxbuôc mãi năm 1707 mới dược gia nhập.

6. THƯỢNG VIỆN VÀ HẠ VIỆN

Thình lình phòng họp sáng rực. Bốn tên canh cửa đưa vào và đặt hai bên ngai vua bốn chân đèn cao đầy nến. Ngai vua được chiếu sáng như thế hiện ra trong một màu đỏ chói rực. Bỏ trống, nhưng uy nghiêm. Giá có thêm nữ hoàng ngồi vào cũng chẳng tôn thêm mấy tí.

Viên hoàng môn quan đũa đen bước vào, giơ cao chiếc đũa và nói:

- Các ngài khâm sai của nữ hoàng.

Tất cả mọi tiếng ồn ào bỗng lặng hẳn.

Một viên thư ký đội tóc giả và mặc áo thụng quét đất xuất hiện ở cửa lớn, tay bưng một chiếc gối thêu hoa huệ, trên đặt một số giấy tờ. Đấy là các bản dự án, ở mỗi bản dự án lại có một con tơ tết treo lủng lẳng một hòn bi hay một quả bóng con[160] đôi khi bằng vàng, vì vậy ở Anh người ra gọi luật pháp là bill, và ở La Mã là bulle.

Ba người mặc áo nguyên lão, đầu đội mũ lông chim bước theo sau viên thư ký.

Những người này là khâm sai của nữ hoàng, vị thứ nhất, huân tước quốc khố đại thần nước Anh, Gôđêphin; vị thứ hai, huân tước chủ tịch hội đồng, Pembrôc; vị thứ ba, huân tước chưởng ấn, Niucatxon.

Các ngài đi, người trước người sau, theo ngôi thứ, không phải của tước vị mà của chức trách, Gôđêphin đi đầu, Niucatxon cuối cùng mặc dầu là công tước.

Họ đến bên chiếc ghế dài đặt trước ngai, cung kính cúi chào vương kỷ, bỏ mũ ra rồi lại đội vào, đoạn ngồi lên ghế.

Huân tước tể tướng nhìn hoàng môn quan đũa đen và nói :

- Truyền các công xã ra trước pháp đình.

Hoàng môn quan đũa đen bước ra.

Viên thư ký, vốn là một thư ký của nghị viện nguyên lão, đặt lên bàn, trong ô vuông các bao len, chiếc gối trên có các bản dự án.

Gián đoạn kéo dài mấy phút. Hai tên canh cửa đặt trước cửa rào chắn một cái ghế đẩu ba bực. Chiếc ghế đẩu này bọc nhung mầu hồng nhạt trên đóng đinh mạ vàng theo hình hoa huệ.

Cái cửa lớn, đã đóng, lại mở ra, và có tiếng rao to:

- Các công xã trung thành của Anh quốc.

Đấy là tiếng hoàng môn quan đũa đen giới thiệu nửa kia của nghị viện.

Các huân tước liền đội mũ lên.

Các thành viên công xã bước vào, dẫn đầu là vị chủ tịch hạ viện, tất cả đều để đầu trần.

Họ dừng lại trước rào chắn. Họ mặc thường phục, phần đông áo đen, đeo kiếm.

Chủ tịch hạ viện, ngài Gion Xmit rất tôn kính, kỵ sĩ, ủy viên của thị trấn Ăngđôvơ, bước lên chiếc ghế đẩu để giữa rào chắn. Vị diễn giả của công xã mặc một chiếc áo thụng quét đất bằng sa-tanh đen, ống tay rộng và xẻ, thêm vạch ngang kim tuyến ở trước ngực và sau lưng, nhưng kém huân tước tể tướng bộ tóc giả, ông ta cũng đường bệ, nhưng thấp kém hơn.

Tất cả các thành viên công xã, diễn giả và ủy viên, đều phải chờ, đứng thẳng, đầu trần, trước mặt các vị nguyên lão ngồi và dội mũ.

Người ta nhận thấy trong công xã có vị trưởng ban tư pháp của Sextơ là Giôdep Glêkin, thêm ba đình lại luật sư của nhà vua là Hupơ, Pôvix và Packe, và Giêm Môngtagu, chuyên trách về nguyện vọng và viên tổng chưởng lý Ximông Harcua. Ngoài mấy vị tòng nam tước và hiệp sĩ, chín huân tước lễ nghi là Hactlnhtơn, Uynxo, Vutxtôc, Morđôn, Grambai, Xcuđêmo Fit-hacđinh, Haiđơ và Bersơlây, toàn con các nguyên lão và thừa kế nguyên lão, tất cả số còn lại đều thuộc các tầng lớp nhân dân. Một thứ quần chúng tối tăm im lặng.

Khi tiếng chân của cả đoàn người mới vào nàyvừa dứt, vị mõ toà đũa đen, đứng ở cửa nói:

- Xin lắng nghe!

Viên thư ký triều đình đứng dậy, Hắn cầm lên, mở ra và đọc tờ giấy da thứ nhất đặt trên chiếc gối. Đây là một đạo dụ của nữ hoàng cử ba uỷ viên thay mặt cho nữ hoàng tại nghị viện, với quyền hạn phê chuẩn các dự án.

- Đó là, - Đến đây viên thư ký cao giọng- Xitnê, bá tước Đơ Gôđônphin.

Viên thư ký cúi chào Gôđônphin. Huân tước Gôđônphin khẽ nâng mũ. Viên thư ký tiếp:

- …Tômax Ecbe, bá tước Đơ Pemhrôe và Đơ Môngômery.

Viên thư ký cúi chào huân tước Pembrôc. Huân tước Pembrôc khẽ chạm mũ. Viên thư ký lại đọc:

- … Gion Holix, công tước Đơ Niucatxơn.

Viên thư ký cúi chào huân tước Niucatxơn. Huân tước Niucatxơn khẽ gật đầu.

Viên thư ký triều đình lại ngồi xuống. Viên thư ký nghị viện liền đứng lên. Viên phó thư ký, từ nãy giờ vẫn quì, đứng lên phía sau. Cả hai nhìn thẳng vào ngai vua và ngoảnh lưng lại các công xã.

Trên gối có năm bản dự án. Năm bản dự án này đã được các công xã bỏ phiếu và các huân tước tán thành, đang chờ sự phê chuẩn của nhà nước.

Viên thư ký nghị viện đọc dự án thứ nhất.

Đây là một văn kiện của công xã, đưa vào ngân sách nhà nước những khoản trang trí biệt cung Hamtơn Cort của nữ hoàng lên đến một triệu xteclinh.

Đọc xong, viên thư ký kính cẩn chào ngai vua. Viên phó thưký cũng cúi chào theo, kính cẩn hơn nữa, đoạn hơi ngoảnh đầu lại các công xã, nói:

- Nữ hoàng chấp nhận hảo ý của quí vị và muốn như vậy.

Viên thư ký đọc sang dự án thứ nhì.

Đây là một đạo luật phạt tù và phạt vạ kẻ nào trốn tránh binh dịch. Binh dịch (đoàn quân muốn điều đi đâu tuỳ ý) là đoàn binh thành thị phục vụ không lương và dưới triều Êlizabet, lúc sắp có vụ hạm đội Tây Ban Nha, đã cung cấp một trăm tám mươi lăm nghìn tay súng và bốn vạn kỵ binh.

Hai viên thư ký lại cúi chào chiếc vương kỷ một lần nữa; sau đó viên phó thư ký, nghiêng mình, nói với hạ nghị viện:

- Nữ hoàng muốn như vậy.

Dự án thứ ba tăng thuế thập phân và thánh lộc của toà giám mục Lisfin và Côventơry, một trong những giáo phận giàu nhất của nước Anh, cấpmột niên-kim cho nhà thờ lớn, thêm số tu sĩ, mở rộng nhà ở của tu viện trưởng và các khoản lợi tức "để bổ sung, như đoạn mở đầu nói, cho các khoản cần thiết của tôn giáo chúng ta".

Dự án thứ tư thêm vào ngân sách các thứ thuế mới, một vào giấy vân, một vào xe tứ mã cho thuê qui định có tám trăm chiếc ở Luân-đôn và đánh thuế mỗi chiếc năm mươi hai livrơ một năm, một vào các trạng sư, biện lý và khẩn nguyện, mỗi người bốn mươi tám livrơ một năm, một vào da thuộc "mặc dầu, như đoạn mở đầu nói, có đơn kêu của các thợ da", một vào xà phòng, "mặc dầu có yêu cầu của thành phố Exote và Đivonsai là nơi sản xuất nhiều vải chéo và dạ", một vào rượu mỗi thùng bốn senlinh, một vào bột, một vào đại mạch và hốt bố, và tái lập trong bốn năm, các nhu cầu nhà nước, như đoạn mở đầu nói, "phải được đặt trên các gián nghị của thương mại", thuế trọng tải từ sáu livrơ mỗi tấn đối với các tàu thuyền từ phương Tây tới, đến mười tám livrơ đối với các tàu thuyền từ phương Đông tới. Cuối cùng ban dự án, tuyên bố khoản thuế thân thông thường năm nay đã thu xong vẫn không đủ, kết thúc bằng một phụ thu chung trên toàn vương quốc, cứ mỗi đầu người vốn senlinh hoặc bốn mươi tám xu, với ghi chú kẻ nào từ chối những tuyên thệ mới đối với chính quyền sẽ phải trả phạt gấp đôi. Dự án thứ năm cấm nhận vào nhà thương bệnh nhân nào lúc vào không đóng một xteclinh để trường hợp chết, trả tiền chôn cất. Ba dự án cuối cùng, cũng như hai dự án đầu tiên, đều lần lượt được phê chuẩn thành những điều luật, bằng một cái chào ngai vua và bằng mấy tiếng "Nữ hoàng muốn như vậy", nói qua vai với các công xã.

Đoạn viên phó thư ký lại quì gối trước bao len thứtư và vị huân tước tể tướng nói:

- Xin tuân hành như vương ý.

Câu này kết thúc phiên họp triều đình.

Chủ tịch hạ viện, gập đôi người trước tể tướng, vừa bước giật lùi xuống khỏi ghế đẩu vừa sửa lại vạt áo sau; các đại biểu công xã cúi chào sát đất và, trong lúc thượng nghị viện không chú ý đến tất cả những bái chào đó, vẫn tiếp tục chương trình nghị sự bị gián đoạn, hạ nghị viện đi ra

7. BÃO NGƯỜI NGUY HẠI HƠN BÃO BIỂN

Các cửa lại đóng vào, hoàng môn quan đũa đen lại trở vào; các huân tước khâm sai rời chiếc ghế danh dự đến ngồi ở đầu chiếc ghế công tước, vào chỗ dành cho chức vị của họ, và huân tước tể tướng lên tiếng.

- Thưa quí vị huân tước, tử nhiều ngày nay nghị viện thảo luận về dự án tăng thêm mười vạn livrơ xteclinh khoản dự trữ hàng năm của đức điện hạ nữ hoàng phu quân, việc tranh luận đã xong và đã bế mạc, chúng ta sẽ đi vào biểu quyết. Việc biểu quyết theo tục lệ sẽ bắt đầu từ vị em út trên ghế nam tước. Mỗi vị huân tước khi nghe gọi đến tên, sẽ đứng dậy và trả lời đồng ý hay không đồng ý, và sẽ được tự do trình bày lý do biểu quyết của mình nếu thấy cần thiết. Thư ký, xướng danh biểu quyết.

Viên thư ký nghị viện đứng lên, mở một quyển sổ khổ đôi rộng, để cao trên cái yên sách thếp vàng đấy là quyển sổ Nguyên lão.

Vị em út nghị viện thời kỳ ấy là huân tước Gion Hecvê, được phong nam tước và nguyên lão năm 1703, do đó sinh ra các hầu tước Brixton.

Viên thư ký gọi :

- Huân tước Gion, nam tước Hecvê.

Một ông già đội tóc giả màu vàng hoe đứng lên và nói:

- Đồng ý.

Đoạn ngồi xuống.

Viên phó thư ký ghi vào sổ ý kiến biểu quyết.

Viên thư ký tiếp tục :

- Huân tước Franxix Xêmua, nam tước Conuê Kilutac.

- Đồng ý.

Một người trai trẻ lịch sự có bộ mặt kiềm đồng vừa nói lí nhí vừa hơi nhổm dậy, y không ngờ rằng mình là ông của các hầu tước Ecfor.

- Huân tước Gion Livixon, nam tước Gôvơ. - Viên thư ký lại xướng.

Vị nam tước này, sẽ là tiên tổ các công tước Xinthơlan đứng dậy và vừa nói vừa ngồi xuống lại:

- Đồng ý.

Viên thư ký tiếp tục:

- Huân tước Hinigiơ Fina, nam tước Ghecnơxê.

Ông tổ các bá tước Êlơfo, không kém phần trẻ trung và lịch sự hơn ông tổ các hầu tước Ecfor, chứng minh câu châm ngôn Aperto vivere voto[161] của mình bằng lời tán thành thật to:

- Đồng ý. - Ông hét lên.

Trong lúc ông ta ngồi xuống, viên thư ký gọi vị nam tước thứ năm:

- Huân tước Gion, nam tước Granvm.

- Đồng ý.

Huân tước Cranvin Pothơrit đáp, chưa đứng hẳn lên đã lại ngồi thụp ngay xuống. Tước thế khanh không tương lai của ông này sẽ tắt vào năm 1709.

Viên thư ký chuyển sang vị thứ sáu.

- Huân tước Saclơx Maotêghiu, bá tước Halifăc.

- Đồng ý.huân tước Halifăc nói, ông này mang tước hiệu của cái tên Xavin đã tắt, và sau này cái tên Maotêghiu sẽ phải tắt, Maotêghiu khác hẳn Mongtagu và Maotêcut.

Huân tước Halifăe còn nói thêm:

- Hoàng thân Giorgiơ được hưởng một niên bổng với tư cách là nữ hoàng phu quân; ngài còn một niên bổng khác với tư cách hoàng thân xứ Đan Mạch, một niên bổng khác với tư cách công tước Cơmbơclan, và một niên bổng khác với tư cách huân tước thượng tướng hải quân Anh quốc và xứ Iếclăng, nhưng với tư cách đại nguyên soái ngài lại không có. Đấy là một điều bất công. Vì lợi ích nhân dân Anh, cần phải chấm dứt tình trạng bất hợp lý đó.

Đoạn, huân tước Halifăc ca ngợi đạo Thiên Chúa, chê bài giáo hội La Mã, và biểu quyết về khoản tiền ngự dụng.

Sau khi huân tước Halifăc ngồi xuống, viên thư ký tiếp tục:

- Huân tước Crixtôp, nam tước Bacna.

Huân tước Bacna, thuỷ tổ của công tước Clevơlan, đứng lên khi nghe gọi tên mình.

- Đồng ý.

Và ông ta thong thả ngồi xuống, vì chiếc lá sen đăng ten trước ngực của ông ta đáng được chú ý. Vả lại huân tước Bacna là một vị quý tộc chững chạc, một võ quan dũng cảm.

Trong khi huân tước Bacna ngồi xuống, viên thư ký thường chỉ đọc theo thói quen, bỗng hơi ngập ngừng. Y sửa lại mục kỉnh và cúi xuống quyển sổ, chăm chú hơn, rồi ngẩng đầu lên, y nói.

- Huân tước Fecmên Clăngsacli, nam tước Clăngsacli và Hâncơvm.

Guynplên đứng lên.nói:

- Không đồng ý.

Tất cả bao nhiều cái đầu đều quay phắt lại.

Guynplên đang đứng. Những cây nến đặt hai bên ngai vua chiếu sáng rực bộ mặt Guynplên, làm nó nổi bật lên giữa gian phòng tối, như một cái mặt nạ trên nền khói.

Guynplên đã cố gắng, ta còn nhớ là quá lắm nó vẫn cố gắng được, tập trung ý chí như khi cần để dạy hổ. Trong giây lát nó đã lấy được vẻ nghiêm trang cho cái mồm tai hại trên mặt nó. Lúc này, nó không cười.

Nhưng không thể kéo dài mãi. Những việc làm trái ngược với cái gì đã thành quy tắc, hay định mệnh của ta, đều ngắn ngủi. Đôi khi nước biển chống lại quy luật dẫn lực, phồng lên thành cây nước và tạo nên một ngọn núi, nhưng với điều kiện phải đổ xuống lại. Cuộc phấn đấu ấy là cuộc phấn đấu của Guynplên. Trong giây phút mà nó cảm thấy là trang nghiêm, với một nỗ lực phi thường của ý chí, nhưng không lâu hơn thời gian một tia chớp, nó đã tự phủ lên trán tấm mạng đen tối của tâm hồn nó; nó đã chặn đứng nụ cười nan y của nó; nó đã rút mất nét vui khỏi bộ mặt mà người ta đã khắc tạo cho nó,lúc này chỉ thấy là nó khủng khiếp.

- Anh chàng kia là ai? - Mọi người đều thốt lên.

Một rung động không tả chạy qua tất cả các ghế. Mớ tóc rậm rì kia, những cái hốc đen ngòm dưới cặp lông mày kia, vẻ nhìn sâu sắc của đôi mắt không ai thấy kia, cái đầu dữ tợn pha trộn một cách gớm guốc cả bóng tối và ánh sáng kia, thật là kinh dị. Thật vượt quá mọi điều tưởng tượng. Nói đến Guynplên bao nhiêu cũng không đủ, phải nhìn nó mới thấy phi thường. Những ai dè trước cũng không thể ngờ đến. Ta thử tưởng tượng, trên ngọn núi dành riêng cho thần linh, giữa hội hoa đăng của một đêm trăng thanh gió mát, tất cả các đấng quyền uy đang quy tụ, thình lình bộ mặt của Prômêtê, bị diều hâu mổ nát, xuất hiện ở chân trời như một vầng trăng đẫm máu, Ôlempơ[162], còn hình ảnh nào hơn! Già trẻ, đều há hốc nhìn Guynplên.

Một ông già, được toàn thể nghị viện kính nể, đã từng trông thấy nhiều người, nhiều thứ, và được chỉ định làm công tước Tômax, bá tước Uacton, hoảng hốt đứng dậy.

- Thế là nghĩa thế nào? - Ông ta hét lên - Ai đã đưa anh chàng kia vào nghị viện? Tống cổ nó ra ngoài.

Và ngạo mạn nói thẳng vào mặt Guynplên:

- Anh là ai? Anh từ đâu ra?

Guynplên đáp luôn:

- Từ vực thẳm.

Và khoanh hai tay lại, nó nhìn các vị huân tước.

- Tôi là ai à? Tôi là khốn cùng. Thưa quí vị huân tước, tôi đang có điều muốn nói với các ngài.

Một cơn rùng rợn và một phút im lặng, Guynplên lên tiếp tục.

- Thưa quí vị huân tước, quí vị ở trên cao. Tốt lắm! Phải tin tưởng rằng Chúa có lý của Chúa khi an bài như vậy. Các ngài sống trong quyền thế, giàu sang, vui sướng, các ngài có mặt trời bất di bất dịch trên thiên định của mình, các ngài có quyền hành vô tận, các ngài hưởng lạc không cần chia sẻ, các ngài mặc sức quên hết người khác. Được. Nhưng vẫn có một cái gì đó bên dưới các ngài.Có lẽ bên trên cũng nên. Thưa quí vị huân tước, tôi đến đây để báo cho quí vị một điều: còn có loài người nữa đấy.

Các nghị viện cũng giống như trẻ con; đối với họ các sự việc xảy ra là những hộp đồ chơi giật mình mà họ vừa sợ lại vừa thích. Hình như đôi khi có một chiếc lò xo bật, và một con quỉ bỗng bắn ra khỏi lỗ, ở nước Pháp Miraboo[163] là như thế, bản thân ông cũng dị dạng. Lúc này Guynplên cảm thấy trong mình có một sự lớn mạnh lạ thường. Một nhóm người ngồi nghe ta nói là một thứ đế ba chân. Có thể nói ta đang đứng trên đỉnh các tâm hồn. Dưới gót là cảnh rung động của tâm can con người. Guynplên không còn là con người tối hôm trước, trong một giây lát đã hầu như nhỏ mọn. Nhưng lớp khói trong cuộc đi lên đột ngột ấy đã làm cho nó hoang mang, nay đã loãng nhẹ và trở thành trong suốt; và nơi mà Guynplên đã say sưa vì kiêu hãnh thì giờ đây nó thấy có một trọng trách. Cái thoạt đầu đã làm nó thấp kém, lúc này đang nâng cao nó lên. Nó đang được một trong những tia chớp lớn phát ra từ nghĩa vụ chiếu sáng. Từ bốn phía xung quanh Guynplên, người ta la hét:

- Lắng tai mà nghe! Lắng tai mà nghe!

Trong khi ấy, nhăn nhó, siêu phàm, nó vẫn giữ được trên bộ mặt nét co giật nghiêm nghị và bi đát mà dưới đó cái cười cứ lồng lộn như một con ngựa rừng sắp xổng. Nó nói tiếp:

- Tôi là kẻ từ vực sâu đến. Thưa quí vị huân tước, các ngài là những bậc quyền quý, những kẻ giàu sang. Nguy hiểm đấy. Các ngài lợi dụng đêm tối. Nhưng hãy coi chừng, có một sức mạnh lớn là bình minh. Là bình minh không thể nào bị đánh bại. Nó sẽ đến. Nó đang đến. Trong nó có cái tia sáng không thể nào ngăn chặn nổi. Và ai sẽ ngăn chặn không cho cái súng ấy hất tung vầng dương lên giữa bầu trời? Mặt trời là luật pháp. Còn các ngài, các ngài là đặc quyền. Các ngài hãy run sợ. Người chủ nhà chính thức sẽ gõ cửa. Ai đẻ ra đặc quyền? Tình cờ. Và con nó là ai? Lộng hành. Tình cờ cũng như lộng hành đều không vững chắc đâu. Cả hai đều có một ngày mai chẳng ra gì. Tôi đến đây để báo trước cho quí vị. Tôi đến để tố giác hạnh phúc của các ngài. Nó dựa trên tai hoạ của người khác.  Các ngài có tất cả, mà cái tất cả đó lại do cái chẳng-có-gì của những người khác hợp thành.

Thưa quí vị huân tước, tôi là người trạng sư thất vọng, tôi đang biện hộ cho vụ kiện đã thua. Nhưng vụ kiện ấy, rồi Chúa sẽ thắng.

Tôi chẳng là gì cả, tôi chỉ là một tiếng nói. Loài người là một cái miệng, mà tôi là tiếng kêu. Các ngài sẽ nghe tôi nói. Tôi đến mở ra trước mắt các ngài, những nguyên lão Anh quốc, những toà án lớn của nhân dân, vị chúa tể, mà lại là kẻ bị hành hình, người bị xử phạt, mà lại là vị quan toà. Những điều tôi phải nói đang đè nặng trên người tôi. Bắt đầu từ đâu đây? Tôi cũng không biết. Tôi đã thu lượm bài cãi lớn lao tản mạn của tôi trong cái đống đau thương khổng lồ phân tán. Làm gì với nó bây giờ? Nó đè nặng trên người tôi, và tôi cứ hất tung nó ra trước mặt. Điều này tôi có nhìn thấy trước không? Không. Các ngài ngạc nhiên ư?

Tôi cũng thế. Hôm qua tôi là một thằng múa rối, hôm nay tôi là một huân tước. Trò chơi thật sâu sắc. Của ai? Của vô định. Tất cả chúng ta hãy nên run sợ. Thưa quí vị huân tước, tất cả trời xanh đứng về phía các ngài. Từ vũ trụ bao la ấy, các ngài chỉ thấy toàn hội hè. Các ngài nên biết rằng còn có bóng tối. Đứng giữa các ngài, tôi tên là huân tước Fecmên Clăngsaeli, nhưng tên thật của tôi là Guynplên, một cái tên của kẻ nghèo. Tôi là một kẻ khốn cùng do một nhà vua cắt ra trên tấm vải của các bậc quyền quí, theo ý thích của nhà vua.

Đấy, câu chuyện của tôi là như thế. Nhiều người trong quí vị được biết bố tôi, vậy mà tôi vẫn không biết. Bố tôi gần gũi với các ngài về mặt giai cấp phong kiến, còn tôi lại dính líu với bố tôi về mặt bị ngược đãi. Việc Chúa đã làm rất tốt. Tôi đã bị quẳng xuống vực thẳm. Nhằm mục đích gì? Để tôi được nhìn thấy đáy vực. Tôi là một tên thợ lặn, và tôi mò lên được ngọc trai chân lý. Tôi nói, vì tôi biết. Thưa quí vị huân tước các ngài sẽ nghe tôi nói.

Tôi đã được trải qua. Tôi đã từng nhìn thấy. Không, thưa các ngài sung sướng, đau khổ không phải là một danh từ suông đâu. Tôi đã lớn lên trong nghèo nàn; tôi đã run rẩy với mùa đông; đói khát, tôi đã nếm mùi; khinh miệt, tôi đã chịu đựng; dịch hạch, tôi đã từng mắc phải; tủi nhục, tôi đã từng uống cạn. Tôi sẽ mửa nó ra trước mặt các ngài, cái bãi nôn gồm mọi thứ cùng khổ ấy sẽ bắn vào chân các ngài và sẽ bốc cháy. Tôi đã do dự trước khi để người ta lôi kéo đến cái chỗ tôi đang đứng đây vì tôi còn nhiều nhiệm vụ ở nơi khác. Và trái tim của tôi không phải ở chốn này. Những gì diễn biến trong lòng tôi không liên quan đến các ngài; khi con người mà các ngài gọi là hoàng môn quan đũa đen đến tìm tôi theo lệnh người đàn bà mà các ngài gọi là nữ hoàng, có lúc tôi đã định từ chối. Nhưng hình như bàn tay tối tăm của Chúa cứ đẩy tôi đến đây và tôi đã nghe theo. Tôi cảm thấy phải đến với các ngài. Vì đâu? Vì những quần manh áo rách của tôi hôm qua. Chính để cất tiếng nói giữa những kẻ no nê phè phỡn mà Chúa đã đặt tôi lẫn với những người đói khát. Ôi! Các ngài hãy biết xót thương?

Ôi! Cái thế giới bất hạnh này mà các ngài vẫn tưởng là chính mình, các ngài không biết nó đâu; vì quá cao nên các ngài chỉ đứng ở ngoài; tôi, tôi sẽ nói để các ngài rõ nó thế nào, kinh nghiệm tôi có đủ. Tôi từ dưới sức ép đến đây. Tôi có thể nói là các ngài nặng như thế nào.

Hỡi các vị chủ nhân, các ngài là gì, các ngài có biết không? Các ngài làm gì, các ngài có thấy không? Không.

Ôi! Tất cả đều hãi hùng. Một đêm, một đêm bão táp phong ba, còn bé tí, bị bỏ rơi, côi cút, một mình giữa trời đất bao la, tôi đã bước chân vào cái chốn tối tăm mà các ngài gọi là xã hội. Điều thứ nhất tôi thấy là luật pháp, dưới hình thức một cái giá treo cổ, điều thứ nhì là cảnh giàu sang, cảnh giàu sang của các ngài, dưới hình dạng một người đàn bà chết rét và chết đói; điều thứ ba là tương lai, dưới hình dạng một em bé hấp hối; điều thứ tư là cái thiện, cái chân, và cái công bằng, dưới bộ mặt một người lang thang chỉ có mỗi một con sói làm bạn đường và tri kỷ.

Đến đây Guynplên, đau đớn xúc động, cảm thấy thổn thức trào lên cuống họng, nên bỗng dưng, ôi khủng khiếp, nó bật ra tiếng cười. Tức thì tiếng cười lan đi. Một đám mây lướt qua toàn thể hội nghị; nó có thể nổ tung thành hãi hùng, nhưng nó lại nổ ra thành vui nhộn. Tiếng cười, thác loạn bùng nổ đó, chiếm hết cả phòng. Cảnh đế vương không đòi hỏi gì hơn là được pha trò. Đấy là cách họ trả thù cái trang nghiêm của họ.

Tiếng cười của vua chúa cũng giống tiếng cười của thần linh; nó luôn luôn mang chút ít tàn bạo. Các huân tước bắt đầu vui nhộn. Nhạo báng càng mài sắc thêm tiếng cười. Họ vỗ tay xung quanh người nói, họ nhục mạ nó. Một loạt thán từ khoái trá tới tấp tấn công nó, một trận mưa đá vui cười mà làm thương tổn.

- Hoan hô, Guynplên!

- Hoan hô Thằng Cười!

- Hoan hô cái mõm thú của Hộp Xanh!

- Hoan hô cái thủ lợn rừng của cánh đồng Tarinhxô!

- Mày đến làm trò cho chúng tao xem. Hay lắm! Cứ ba hoa liến thoắng nữa đi!

- Đúng là tên pha trò cự phách!

- Nhưng cái tên súc sinh kia, nó có cười không thế!

- Chào anh múa rối!

- Chào huân tước Hề! Cứ hô hào khoẻ vào!

- Một nguyên lão Anh quốc đấy!

- Tiếp tục nữa đi!

- Không, không!

- Cứ! Cứ!

Huân tước tể tướng cảm thấy khá khó chịu.

Một vị huân tước điếc đặc, Giêm Bơtlơ, công tước Ormoong, đưa bàn tay lên tai làm ống nghe, hỏi Saclox Bôcle, công tước Xanh Anbăng:

- Nó biểu quyết thế nào?

Xanh Anbăng đáp :

- Không đồng ý.

- Trời ơi. - Ormông nói - Tôi biết mà. Với cái mặt ấy!

Quần chúng mà sổ lồng, hội nghị là quần chúng - thì phải bắt giữ ngay nó lại. Hùng biện là một cái hàm thiếc! Hàm thiếc mà gãy thì thính giả nổi xung và đá hậu cho đến khi quật ngã được diễn giả. Thính giả vốn ghét diễn giả. Điều ấy ít khi người ta biết rõ. Dường như bám chặt vào dây cương vừa là một phương sách, vừa không phải. Bất cứ diễn giả nào cũng thử nó. Đấy là bản năng, Guynplên cũng thử.

Nó quan sát hồi lâu những người đang cười kia, và hét to:

- Như vậy là các ngài lăng mạ cùng khổ đấy. Quí vị nguyên lão Anh quốc, xin im lặng cho, các ngài thẩm phán, xin hãy nghe lời tôi biện hộ. Ôi! tôi van xin các ngài, các ngài hãy biết xót thương? Thương ai? Thương bản thân các ngài. Ai đang lâm nguy? Chính các ngài.

Các ngài không thấy mình đang ở trên một cái cân, bên này là quyền uy, bên kia là trách nhiệm của các ngài sao? Chúa đang cân các ngài đấy. Ôi! các ngài chớ cười.

Hãy ngẫm nghĩ cho kỹ. Chiếc cân đang dập dình, đấy là sự run sợ của lương tâm. Các ngài không phải độc ác. Các ngài là những con người như mọi người khác, không tốt lành hơn, cũng không xấu xa hơn. Các ngài tưởng mình là thần thánh, các ngài cứ thử ốm xem, rồi hãy nhìn cái tính thần linh của các ngài run rẩy trong cơn sốt. Chúng ta đều như nhau cả thôi. Tôi đang nói với những đầu óc lương thiện, ở đây có những đầu óc như thế, tôi đang nói với những trí tuệ cao cả, có những trí tuệ như thế đấy; tôi đang nói với những tâm hồn cao thượng, có những tâm hồn như thế đấy. Các ngài là bố, là con và là anh em, vậy thì các ngài đã từng cảm động. Trong các ngài, ai sáng nay đã đứng nhìn cháu mình tỉnh dậy, đó là người tốt. Trái tim con người đều giống nhau. Nhân loại chỉ là một trái tim chứ chẳng phải gì khác. Giữa kẻ đè nén và người bị đè nén, chỉ có sự khác biệt về chỗ đứng. Chân các ngài dẫm lên đầu người khác, đấy không phải lỗi của các ngài. Đấy là lỗi ở cái tháp Baben của xã hội. Một công trình xây dựng hỏng, hoàn toàn xiêu vẹo. Tầng nọ chồng chéo tầng kia.

Hãy lắng tai mà nghe, tôi sẽ nói các ngài rõ. Ôi! Các ngài có thế lực thì các ngài nên bác ái; các ngài quyền cao chức trọng thì các ngài nên hiền lành. Giá các ngài biết tôi đã thấy những gì! Than ôi ! Ở dưới, đau khổ biết chừng nào! Loài người đang sống trong ngục tối. Biết bao kiếp doạ đầy, biết bao người vô tội! Ánh sáng thiếu, không khí thiếu, đạo đức thiếu, người ta không hy vọng; và, điều khủng khiếp, người ta vẫn chờ đợi. Các ngài hãy tìm hiểu những nỗi thống khổ đó. Có những người sống trong cái chết. Có những cháu gái bắt đầu bán mình lúc lên tám và kết thúc ở tuổi hai mươi bằng cảnh già. Còn những cảnh khắc nghiệt của tra tấn thì thật khủng khiếp. Tôi nói hơi hỗn độn một tí, và không lựa chọn. Tôi cứ nói những gì chợt đến trong đầu óc tôi. Mới hôm qua thôi, tôi, kẻ hiện đứng đây, tôi được thấy một người bị trói trần truồng, với những tảng đá nặng đè trên bụng, đang thở hắt ra, giữa lúc tra tấn.

Điều ấy các ngài có biết không? Không. Nếu các ngài biết những gì đang xảy ra, không một ai trong các ngài dám sung sướng cả. Ai đã từng đến Niucatxơnon Tainơ? Trong các hầm mỏ có những người nhá than để cho đầy dạ dày và để đánh lừa cái đói. Đây này, trong lãnh địa Lancaxtrơ, vì đói nghèo mà Ripbonsextơ từ một thành phố đã trở thành làng quê. Tôi không thấy hoàng thân Ginrgiơ nước Đan Mạch cần phải có thêm mười vạn ghinê. Tôi thấy tốt hơn nên nhập vào bệnh viện người ốm bần cùng, mà không bắt anh ta phải trả trước tiền mai táng. Ở Cacnavơn, tại Tơretmo cũng như tại Torethisan, cảnh dân nghèo kiệt quệ thật khủng khiếp.

Ở Xtratro vì thiếu tiền người ta không thể làm cạn các đầm lầy. Toàn vùng Lancasai, các xí nghiệp dạ đều đóng cửa. Khắp nơi thất nghiệp. Các ngài có biết rằng dân đánh cá mòi ở Haclêc phải ăn cỏ những khi không đánh được cá không? Các ngài có biết ở Bocton Lêzơ còn có những người hủi bị săn lùng không? Và nếu họ ra khỏi chòi là bị chết không? Ở Emhiury, thành phố mà một trong các ngài làm huân tước, thường xuyên có nạn đói. Tại Penkritglơ ở Côventơry, nơi các ngài vừa cấp cho nhà thờ lớn và làm giàu cho ngài giám mục, trong các lều lán người ta không có giường nằm, phải đào lỗ trong đất để đặt trẻ con, thành thử lẽ ra bắt đầu nằm trong nôi, thì chúng lại bắt đầu nằm trong mộ. Những chuyện ấy tôi đã trông thấy cả. Thưa quí vị huân tước, những khoản thuế các ngài đang biểu quyết, các ngài có biết ai trả không? Những người đang thở hắt ra. Than ôi! các ngài lầm đấy. Các ngài đi sai đường. Các ngài tăng cảnh nghèo đói của người đói nghèo để thêm cảnh sang giàu cho kẻ giầu sang. Lẽ ra phải làm ngược lại.

Sao, lẽ nào lại lấy của người lao động để cho kẻ ăn không ngồi rồi, lấy của người rách rưới để cho kẻ no say thừa mứa, lấy của người bần cùng để cho vua chúa!

Phải, trong huyết quản tôi có dòng máu cộng hoà cũ. Tôi ghê tởm cái đó. Những ông vua ấy, tôi ghét cay ghét đắng họ! Còn đàn bà thì trơ tráo! Người ta có kể cho tôi nghe một câu chuyện thật buồn thảm. Ôi! Tôi căm thù tên Saclơ đệ Nhị! Một người đàn bà từng được bố tôi yêu dấu đã hiến thân cho tên vua ấy, trong khi bố tôi bỏ xác tại chốn lưu đày, ôi con đĩ rạc! Saclơ đệ Nhị, Giắc đệ Nhị; sau một tên vô dụng, lại một thằng gian ác! Có gì trong kẻ làm vua một con người, một kẻ ốm yếu, gầy còm chỉ biết đại tiện, tiểu tiện, và tàn tật. Vua thì làm được trò gì? Cái vương quyền ăn hại đấy, các ngài cứ lo tọng vỗ cho nó béo. Con giun đất ấy, các ngài nuôi dưỡng nó thành trăn to. Con sán ấy, các ngài biến nó thành con rồng. Hãy tha thứ cho người nghèo! Các ngài bày ra sưu cao thuế nặng để lợi cho nhà vua, Hãy để ýđến những luật pháp mà các ngài ban bố. Hãy chú ý đến bầy kiến đau khổ mà các ngài đang giày xéo. Hãy trông xuống. Hãy nhìn xuống chân các ngài. Hỡi các ngài quyền cao chức cả, còn có những người nhỏ bé đấy! Các ngài hãy biết xót thương! Đúng! Thương lấy các ngài vì quần chúng đang hấp hối, và khi chết thì lớp dưới làm chết lớp trên. Chết là một chuyện ngừng tắt không trừ một ai hết. Khi đêm tối ập xuống thì chẳng ai giữ được góc sáng của mình. Các ngài có ích kỷ không? Các ngài hãy cứu vớt người khác. Chiếc tàu đắm không chừa một hành khách nào cả. Không làm gì có chuyện đắm tàu đối với người này mà lại không nhận chìm kẻ khác. Ôi các ngài phải biết rằng vực sâu dành cho tất cả.

Tiếng cười càng to, không sao giữ nổi. Vả lại để làm vui cho một cuộc hội nghị, chỉ cần những lời nói kia có đôi điểm cuồng ngông. Khôi hài trên mặt, bi đát trong tâm, còn đau khổ nào nhục nhã hơn, còn phẫn nộ nào sâu sắc bằng. Trong lòng Guynplên đang như vậy đấy. Lời nói của nó muốn tác động phía này, bộ mặt nó lại tác động phía khác; hoàn cảnh thật ghê rợn. Giọng nói của nó bỗng rít lên the thé:

- Những con người kia, họ vui cười thích thú! Tốt lắm. Châm biếm đối diện với lâm chung. Tiếng cười nhạo báng lăng mạ tiếng kêu rên. Họ quyền uy vô hạn mà! Rất có thể lắm. Được. Rồi xem. Ôi! Ta là một kẻ cùng hàng ngũ với họ. Hỡi những ai nghèo khổ ta cũng cùng tầng lớp với các người. Một tên vua đã bán ta, một dân nghèo đã đón nhận ta. Ai đã cắt xẻo ta. Một tên vua. Ai chữa chạy và nuôi nấng ta. Một người chết đói.

Ta là huân tước Clăngsacli nhưng ta vẫn là Guynplên.

Ta nguồn gốc quyền quý, nhưng ta thuộc tầng lớp hèn mọn. Ta sống giữa những kẻ hưởng thụ và cùng với những người đau khổ. Ôi! Xã hội này giả dối. Rồi một ngày kia xã hội thật sẽ đến. Lúc ấy sẽ không còn quí tộc, mà sẽ có những con người tự do. Sẽ không còn ai là chủ nữa, mà chỉ có những người cha. Đấy là tương lai.

Không còn quì lạy, không còn thấp hèn, không còn dốt nát, không còn người ngựa, không còn nịnh thần, không còn đầy tớ, không còn vua chúa, đấy là ánh sáng! Trong khi chờ đợi, có ta đây. Ta có một quyền hạn, ta phải sử dụng nó. Có phải là quyền hạn không. Không, nếu ta sử dụng nó cho riêng ta. Phải, nếu ta sử dụng nó vì tất cả mọi người. Ta sẽ nói với các huân tước, vì ta là một huân tước. Hỡi các người anh em ở tầng lớp dưới, ta sẽ nói với họ về cảnh trần trụi xơ xác của anh em. Ta sẽ đứng thẳng người với nắm áo quần rách mướp của nhân dân trong tay, ta sẽ vung cái cùng khổ của nô lệ vào mặt những ông chủ; là kẻ được ưu đãi và kiêu căng, họ sẽ không thể trút bỏ được hình ảnh những người bất hạnh, là những ông hoàng bà chúa, họ sẽ không thể thoát được cảnh đau xót nhức nhối của người nghèo và mặc xác nếu có chấy có rận, và càng hay nếu chấy rận rơi xuống đầu sư tử!

Nói đến đây, Guynplên ngoảnh lại phía các viên phó thư ký đang quì gối viết, trên bao len thứ tư.

- Những người đang quì kia là thế nào? Các người làm gì đấy? Đứng lên, các anh là những con người.

Tiếng gọi đột ngột ấy, đối với những kẻ dưới mà một huân tước không được cả phép nhìn, làm mọi người vui nhộn đến tột độ. Chỗ này hoan hô, chỗ kia reo hò! Từ vỗ tay chuyển sang dậm chân. Tưởng như đang ngồi trong nhà hát Hộp Xanh. Chỉ khác là ở Hộp Xanh tiếng cười hoan nghênh Guynplên, còn ở đây tiếng cười lại tiêu diệt nó. Giết chết, đó là cố gắng lố bịch. Tiếng cười của con người đôi khi làm hết sức mình để sát hại.

Tiếng cười đã trở thành một hành vi bạo ngược. Những lời nhạo báng trút xuống như mưa. Trong các cuộc hội nghị, ngu xuẩn thường làm ra vẻ tài trí. Tiếng cười nhạo báng khôn khéo và ngu si của họ gạt bỏ sự việc chứ không nghiên cứu, và đáng lý phải giải quyết thì lại bài xích các vấn đề. Một sự kiện xảy ra là một dấu hỏi. Cười nó là cười điều bí ẩn. Con nhân sư, không cười, đứng sau lưng.

Có nhiều tiếng gào thét mâu thuẫn nhau:

- Thôi! Thôi !

- Nữa đi! Nữa đi!

Uynliam Facmơ, nam tước Lemxte, hắt vào mặt Guynplên lời nhục mạ của Rix-Quinê đối với Sêcxpia:

- Histrio! Mama![164]

Huân tước Vôgan, con người ưa lên giọng kẻ cả, ngồi thứ hai mươi chín trên ghế nam tước, gào to:

- Thế là chúng ta lại trở về cái thời đại súc vật ba hoa lải nhải rồi, Một cái hàm thú cất tiếng giữa bao nhiêu miệng người.

- Chúng ta hãy lắng nghe con lừa Balaam nói - huân tước Yacmao thêm luôn.

Huân tước Yacmao có vẻ sắc sảo linh lợi với cái mũi tròn và cái mồm méo xệch.Tên phản loạn Linơx đã bị trừng trị trong mồ, thằng con là hình phạt của thằng bố. Gion Hóp, giám mục Lisfin và Côvơntơry, mà Guynplên đã đả động đến khoản thánh lộc, lên tiếng. Nó nói dối, huân tước Sonlây, luật gia lập pháp khẳng định. Cái mà nó gọi là tra tấn, chính là hình phạt mạnh và cứng, một hình phạt rất tốt, ở nước Anh không  hề có tra tấn.

Tômax Venvor, nam tước Rêby, gọi ngài tể tướng:

- Huân tước tể tướng, bế mạc phiên họp đi thôi?

Lớp huân tước trẻ hét:

- Không ? Không ! Không ! Cứ để nó nói tiếp ! Nó làm vui cho chúng ta mà ? Hura ! ếp! ếp ! ếp ' 

Vui thích của họ trở thành điên cuồng. Đặc biệt có bốn người, vừa cười ngặt nghẽo vừa tức tối cực độ. Đấy là Lorenx Halđơ, bá tước Rôsextơ, Tômax Tơptơn, bá tước Tanê, tử tước Hattơn và công tước Môđgtagu.

- Vào cũi ngay, Guynplên?- Rôsextơ nói.

- Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo! - Tanê hét.

Tử tước Hattơn móc ở túi ra một penny vút cho Guynplên.

Còn Gion Căngben, bá tước Grinuych, Xavagiơ, bá tước Rivơ, Tomxơn, nam tước Hêvơsam, Oarinhtơn, Excric, Ronlextơn, Rokingam, Cactơrê, Lăngđên, Banextơ Mênh, Hânxđơn, Caeancvơn, Cavendls, Bơchnhtơn, Rôbơc Đacxy, bá tước Honđơnex, Ong Uynxơ, bá tước Plalmao, thì vỗ tay hoan nghênh.

Đây là cảnh huyên náo của thủ đô âm phủ hoặc của đền thờ vĩ nhân, trong đó tiếng nói của Guynplên đã bị át mất. Người ta chỉ nhận được hai tiếng: Coi chừng!

Ranph, công tước Môngtagu, vừa ở Ocxfoc ra và hãy còn lún phún lớp ria măng, từ hàng ghế công tước bước xuống khỏi chỗ y ngồi, chỗ thứ mưới chín, và đến đứng khoanh tay trước mặt Guynplên. Lưỡi dao có chỗ sắc nhất thì trong giọng nói cũng có âm sắc cay độc nhất.

Môngtagu chọn âm sắc đó và, cười khẩy vào mũi Guynplên, hắn hỏi to:

- Mày nói cái gì?

- Ta tiên đoán. - Guynplên đáp.

Tiếng cười lại bùng lên. Và dưới tiếng cười đó là sự tức giận trầm lắng kéo dài. Một trong số các nguyên lão vị thành niên, Lalonen Granxin, bá tước Đorxê và Mitđơnxêc, đứng hẳn lên trên ghế, không cười, trang nghiêm đáng mặt một nhà lập pháp tương lai và, chẳng nói chẳng rằng, nhún vai nhìn Guynplên với bộ mặt non choẹt mười hai tuổi. Thấy vậy giám mục Xên-asap liền cúi sát vào tai giám mục xên Đêvit ngồi cạnh, rồi vừa nói vừa chỉ Guynplên:

- Đấy là thằng điên? - và vừa chỉ thằng bé - Kia là quân tử!

Từ cái mớ hổ lốn cười nói nhạo báng ấy nổi lên những tiếng hét rất hỗn tạp:

- Đồ mật tổ ong bầu!

- Chuyện gì mà lạ kỳ thế. Một sự thoá mạ Nghị viện. Một con người thế kia quả là một biệt lệ kỳ quan. Nhục nhã! Nhục nhã!

- Bế mạc phiên họp thôi.

- Không, cứ để nó nói hết!

- Nói đi, thằng hề!

Huân tước Lêvix đơ Đuyrax, hai tay chống nạnh, hét to :

- Ôi, không còn gì khoái trá bằng cười! Sướng cho cái lá lách của tôi quá! Tôi đề nghị lấy biểu quyết lời cảm tạ sau đây: Nguyên lão nghị viện có lời cảm ơn Hộp Xanh.

Guynplên, ta còn nhớ, đã ước mơ một cảnh đón tiếp khác thế.

Ai đã từng trèo một cái dốc cát dựng đứng dễ sụt, trên một vực sâu thăm thẳm, ai đã từng cảm thấy dưới bàn tay mình, dưới ngón tay mình, dưới khuỷu tay mình, dưới đầu gối mình, dưới bàn chân mình, cứ tuồn tuột biến mất cái điểm tựa, ai là người đáng lý tiến dần trên cái dốc cheo leo ương ngạnh nhưng lại tụt xuống, nơm nớp lo bị trôi tuột, đáng lẽ trèo lên lại lún xuống, đáng lẽ đi lên lại tụt xuống, càng cố hướng tới đỉnh lại càng tăng thêm khả năng chìm ngập, và cứ mỗi bước định thoát khỏi tai hoạ lại càng thấy nguy khốn thêm một ít nữa, ai đã thấy vực sâu khủng khiếp đến gần, và đã có trong xương tủy cảm giác ớn lạnh rùng rợn khi rơi xuống, phía dưới là cái mõm rộng hoác, người ấy đã gặp phải những điều Guynplên đang gặp.

Nó cảm thấy con đường đi lên của nó đang sụt lở dưới chân, và thính giả của nó là một vực thẳm.

Bao giờ cũng có một người nói lên được cái từ bao hàm đủ mọi ý. Huân tước Xcacđơn diễn đạt thành một tiếng thét cảm nghĩ của toàn thể hội nghị.

- Con quái vật kia nó đến đây làm gì?

Guynplên thẳng ngươi lên, luống cuống, giận sôi lên, toàn thân run bần tật, Nó nhìn hằm hằm vào toàn thể mọi người.

- Tôi đến đây làm gì à? Tôi đến để gieo rắc hãi hùng. Các ngài bảo tôi là con quái vật ư? Không, tôi là quần chúng nhân dân. Tôi mà là biệt lệ à? Không, tôi là toàn thể mọi người. Chính các ngài mới là biệt lệ. Các ngài là hão huyền, còn tôi là thực tế. Tôi là Con Người. Tôi là Thằng Cười khủng khiếp. Cười cái gì? Cười các ngài. Cười bản thân. Cười tất cả. Cái cười của nó là gì? Là tội ác của các ngài, là cực hình của nó. Tội ác ấy, nó quẳng vào mặt các ngài; cực hình ấy nó nhổ vào mặt các ngài. Tôi cười, có nghĩa là: Tôi khóc.

Guynplên dừng lại. Mọi người im lặng. Tiếng cười vẫn tiếp tục nhưng khẽ thôi. Guynplên có thể cho đấy là một thái độ chăm chú mới. Nó lấy lại hơi và nói tiếp:

- Cái cười trên trán tôi đây, chính một nhà vua đã đặt nó lên đấy. Cái cười ấy biểu thị nỗi đau khổ của toàn dân. Cái cười ấy có nghĩa là căm thù, là im lặng bắt buộc, là phẫn nộ, là thất vọng. Cái cười ấy là một sản phẩm của tra tấn. Cái cười đó là một cái cười của vũ lực. Nếu Sa-tăng có cái cười ấy thì cái cười ấy sẽ kết tội Chúa. Nhưng vĩnh cửu có bao giờ giống những gì có thể bị diệt vong; vì nó tuyệt đối, nên có công minh; và Chúa trời rất ghét những việc làm của vua chúa. Hừ! Các người bảo tôi là một biệt lệ! Tôi là một biểu tượng. Hỡi những kẻ ngu ngốc quyền uy rất mực là các ngài, hãy mở to mắt ra. Tôi là hiện thân của tất cả. Tôi tượng trưng cho nhân loại đúng như Chúa đã sáng tạo nên. Con người là một kẻ bị tùng xẻo. Điều người ta đã làm đối với tôi, người ta cũng đã làm đối với nhân loại. Người ta đã bóp méo luật pháp, công lý, sự thật, lẽ phải, trí tuệ của nhân loại, cũng như đã làm biến dạng đôi mắt, cánh mũi và hai tai của tôi. Cũng như đối với tôi, họ đã đổ vào lòng nhân loại một đống bùn phẫn nộ, đau thương và đeo lên mặt nhân loại một cái mặt nạ thỏa mãn. Nơi nào ngón tay của Chúa đặt lên, nơi ấy móng vuốt của nhà vua đều cắm xuống. Một sự chồng xếp thật kỳ quặc. Các ngài giám mục, các vị nguyên lão và các bậc hoàng thân, nhân dân là người đau khổ sâu sắc luôn cười vui trên mặt. Các ngài huân tước, tôi nói để các ngài rõ, nhân dân chính là tôi. Hôm nay các ngài áp bức họ, hôm nay các ngài la ó tôi. Nhưng tương lai là cảnh băng tan núi lở buồn thảm. Cái bề ngoài rắn chắc sẽ bị chìm ngập. Một tiếng răng rắc, thế là xong hết. Sẽ đến giờ phút mà một biến động phá tan sự đè nén của các ngài, một tiếng gầm sẽ đáp lại những tiếng hò hét của các ngài. Giờ phút ấy đã đến rồi – cha ơi, cha đã sống trong giờ phút ấy – giờ phút ấy của Chúa đã đến, và mang tên là Chế độ Cộng hòa. Người ta đã trục xuất nó, nhưng rồi nó sẽ trở lại. Trong khi chờ đợi, các ngài hãy nhớ rằng cái xâu vua chúa vũ trang bằng kiếm đã bị Cromoen vũ trang bằng rìu làm cho gián đoạn. Các ngài hãy run sợ đi. Những giải pháp cứng rắn đang đến gần, những móng tay bị cắt cụt đang mọc lại, những cái lưỡi bị cắt đang vút bổng, trở thành những ngọn lửa tung bay đến những vùng u minh tối tăm, và gào thét trong chốn vô biên; những người đói khát đang nhe những hàm răng thất nghiệp, những thiên đường xây dựng trên địa ngục đang ngả nghiêng, người ta đang đau khổ, người ta đang đau khổ, người ta đang đau khổ, và cái ở trên đang nghiêng ngả, cái ở dưới đang hé mở, bóng tối đòi hỏi trở thành ánh sáng, người bị đoạ đầy tranh giành với kẻ được ân phúc, chính nhân dân đang đến. Tôi bảo với các ngài như thế, chính con người đang đi lên, chính giờ phút cuối cùng đang bắt đầu, chính đấy là bình minh đỏ rực của tai hoạ, và đấy là những gì chứa đựng trong cái cười này, cái cười mà các ngài đang chế giễu. Luân Đôn là một nơi hội hè lên miên không dứt. Được. Nước Anh luôn luôn là cảnh tung hô. Phải.

Nhưng các ngài hãy nghe tôi nói đây: Tất cả những gì các ngài trông thấy đều là tôi. Các ngài có hội hè, đấy là tiếng cười của tôi. Các ngài có những cuộc vui công cộng, đấy là tiếng cười của tôi. Các ngài có những đám cưới, những lễ thụ chức, những dịp đăng quang, đấy là tiếng cười của tôi. Các ngài có những ngày sinh hoàng tử, đấy là tiếng cười của tôi. Dưới chân, các ngài có sấm sét, đấy là tiếng cười của tôi.

Làm sao chịu đựng nổi những lời như vậy! Tiếng cười lại bắt đầu, lần này dữ dội hơn. Trong tất cả các loại nham thạch mà mồm con người, cái miệng núi lửa ấy phun ra, thứ nóng rát nhất là vui nhộn, gây đau khổ một cách vui vẻ, không đám đông nào tránh khỏi cái bệnh lây lan ấy. Không phải thứ hành quyết nào cũng đều diễn ra trên đoạn đầu đài, con người khi tụ tập lại, dù là đám đông quần chúng hay hội nghị, đều có một tên đao phủ đứng giữa, luôn luôn trong tư thế sẵn sàng, đấy là lối nói châm chọc. Không cực hình nào có thể so sánh với cực hình của kẻ khốn khổ đáng buồn cười. Cực hình ấy, Guynplên đang chịu đựng. Trò vui nhộn, trên người nó, như đá ném, như đạn xuyên tới tấp. Nó là đồ chơi, là hình nhân, là cái đầu Thổ Nhĩ Kỳ, là bia bắn.

Người ta nhảy cẫng lên, người ta la hét bix, bix[165] người ta xô đẩy nhau. Người ta dậm chân. Người ta túm lấy lá sen của nhau. Tính chất trang nghiêm của địa điểm, màu đỏ áo thụng, vẻ trong trắng của những giải lông chồn, những bộ tóc giả đồ sộ, đều không làm gì nổi.

Huân tước cười, giám mục cười, thẩm phán cười. Hàng ghế ông già hết nhăn nhó, hàng ghế trẻ con ôm bụng.  Tổng giám mục Cantơbiury hích tổng giám mục York, Henry Côngtơn, hai tay ôm chặt mạng mỡ. Huân tước tể tướng nhìn xuống, có lẽ để che dấu nụ cười. Và ở chỗ rào chắn, bức tượng tôn nghiêm, hoàng môn quan đũa đen, cười.

Guynplên, tái mét, đã khoanh tay lại; đứng giữa tất cả những bộ mặt kia, trẻ có, già có, toe toét nét vui nhộn của Hôme, trong cơn lốc vỗ tay dậm chân và reo hò ấy, bên cạnh cuồng điên hài hước mà nó là trung tâm kia, giữa sự bộc lộ hoan hỉ cùng cực ấy, giữa không khí hớn hở rộng khắp ấy, nó cảm thấy lòng nó giá lạnh như mồ ma. Thế là hết. Nó không còn đủ sức để làm chủ bộ mặt đang phản bội nó, cũng như đám thính giả đang sỉ nhục nó. Chưa bao giờ định luật muôn đời không tránh khỏi, tính hài hước gắn chặt với tính bi hùng, tiếng cười vang theo tiếng rống, sự nhại đùa cười trên lưng thất vọng, cái nghịch nghĩa giữa bề ngoài và sự thực, lại nổ ra khủng khiếp hơn thế. Chưa bao giờ một ánh sáng le lói soi rọi vào chỗ tối tăm sâu thẳm của con người lại thê thảm rùng rợn hơn.

Guynplên tham gia vào cảnh tan vỡ hoàn toàn của số phận nó bằng một tràng cười ha hả. Điểm không phương cứu chữa là đấy. Ngã xuống còn đứng dậy nổi, nhưng bị dẫm nát thì không tài nào đứng dậy được. Lối nhạo báng phi lý và tột cùng đang bóp nát nó thành cát bụi. Từ nay không thể làm gì nữa. Mọi việc đều tuỳ thuộc môi trường. Cái làm nên chiến thắng ở Hộp Xanh lại là thất bại và tai ương ở nghị viện nguyên lão. Ở kia là hò reo, ở đây lại là chửi rủa. Nó cảm thấy một cái gì như bề trái chiếc mặt nạ của nó. Bên này, chiếc mặt nạ có cảm tình của dân chúng tiếp nhận Guynplên, bên kia, sự căm hờn của lớp người cao quý gạt bỏ huân tước Fecmên Clăngsacli. Một bên là lực hút, một bên là sức đẩy cả hai đều kéo nó vào bóng tối. Nó tự cảm thấy như bị đánh trộm. Số kiếp thường gặp những miếng đòn phản bội. Sau này tất cả sẽ sáng tỏ, nhưng trong lúc chờ đợi thì vận mệnh là cạm bẫy và con người luôn luôn rơi vào những cái bẫy mới. Nó những tưởng đi hết, tiếng cười kia lại đón tiếp nó; việc hiển thánh thường có những kết quả thật rùng rợn. Có một từ ngữ buồn thảm là giã rượu. Bi đát thay điều khôn ngoan rút ra được sau khi giã rượu. Bị vây bọc giữa cơn bão táp vui nhộn và độc ác ấy. Guynplên ngẫm nghĩ.

Cái cười điên loạn bao giờ cũng được buông lỏng. Một cuộc hội nghị vui nhộn là chiếc la bàn hỏng. Người ta không còn biết đi dâu, cũng không biết đang làm gì nữa. Đành phải bế mạc phiên họp.

Huân tước tể tướng" biết trước sự việc", liền hoãn việc biểu quyết tiếp sang hôm sau. Nghị viện chia tay nhau. Các huân tước cúi chào chiếc vương kỷ rồi đi ra. Tiếng cười vẫn kéo dài rồi tắt dần trong các hàng lang. Các cuộc họp, ngoài những cửa chính thức, qua các thảm thêu, góc tường, ngách cột, vẫn có đủ loại cửa kín đáo để giải tán, ynhư một cái vại rút hết nước qua các kẽ nứt. Trong chốc lát căn phòng đã vắng ngắt. Rất nhanh và gần như không có chuyển tiếp. Nhưng nơi ồn ào nhộn nhịp ấy lập tức trở lại yên tĩnh.

Trạng thái chìm đắm trong mơ màng thường dẫn đi xa, và do nghĩ ngợi quá, cuối cùng người ta như lạc đến một hành tinh khác. Guynplên thình lình như tỉnh giấc.

Nó đứng một mình. Căn phòng trống rỗng. Từ nãy nó không thấy cả việc phiên họp đã bế mạc. Tất cả các nguyên lão đã biến mất, cả hai vị đỡ đầu của nó. Chỉ lác đác đây đó vài ba quan chức thấp kém của nghị viện, chờ "ngài lãnh chúa" ra về, để trải bọc ghế và tắt đèn.

Như một cái máy, nó đội mũ lên đầu, rời khỏi ghế, và đi về phía cái cửa lớn mở ra du lang. Đúng lúc nó bước qua chỗ rào chắn, một tên gác cửa cởi bỏ cho nó chiếc áo nguyên lão. Việc ấy nó hầu như không cảm thấy. Lát sau nó đã ở trong du lang.

Những người phục vụ có mặt ở đấy ngạc nhiên nhận thấy vị huân tước đi ra mà không chào ngai vua.

8. NẾU KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI CON NGOAN THÌ CŨNG LÀ NGƯỜI ANH TỐT.

Trong du lang chẳng có người nào nữa. Guynplên đi ngang qua giao điểm, ở đây người ta đã bỏ hết bàn, hết ghế bành, và chẳng còn tí dấu vết gì về việc gia phong của nó. Những cây đèn nến và các ngọn đèn chùm cách quãng hướng dẫn lối ra. Nhờ dãy ánh sáng ấy, nó có thể dễ dàng tìm ra, trong loạt phòng khách và du lang, con đường nó đã cùng đến với vụ trưởng vụ lễ nghi và viên hoàng môn quan đũa đen. Nó chẳng gặp một ai cả, chỉ đây đó một huân tước già cả chậm chạp, bước đi nặng nhọc và ngoảnh lưng lại. Thình lình, trong cảnh tĩnh mịch, của tất cả những căn phòng vắng vẻ rộng lớn ấy, có tiếng nói oang oang không rõ lắm, vẳng đến tai Guynplên, một thứ ồn ào của đêm khuya, lạc lõng giữa một nơi như vậy. Nó bèn đi về hướng có tiếng, và đột nhiên đứng giữa một tiền sảnh rộng thênh thang, ánh sáng yếu ớt; đấy là một trong các lối ra của nghị viện. Tại đây thấy có một cái cửa kính rộng, mở toang, mấy bực cấp, một số quân hầu và đèn đuốc; bên ngoài, một bãi rộng, mấy chiếc xe tứ mã chờ dưới chân tam cấp. Chính từ đấy vẳng tới những tiếng nó vừa nghe được. Bên trong cửa, dưới ngọn đèn lồng của gian tiền sảnh, có một đám người nói năng ầm ĩ, vung chân múa tay. Trong bóng tối chập chờn, Guynplên tiến đến gần.

Họ đang cãi nhau. Bên này có mười, mười hai huân tước trẻ muốn đi ra, bên kia một người, đầu cũng đội mũ, đứng thẳng, trán ngẩng cao, đang chắn lối họ.

Người ấy là ai? Tom-Jim-Jack.

Một số trong các huân tước kia vẫn còn khoác áo nguyên lão; một số khác đã trút bỏ áo nghị viện và mặc thường phục.

Tom-Jim-Jack đội mũ lông chim, không phải màu trắng như các nguyên lão, nhưng xanh lục và lốm đốm da cam; từ đầu đến chân toàn đường thêu và vạch ngang, với hàng lô ruy-băng, đăng-ten, ở cổ, ở ống tay; tay trái y run run mân mê cái đốc kiếm đeo lủng lẳng, vỏ kiếm và dây đeo đều có gắn mỏ neo đô đốc.

Chính y đang nói, đang quát vào mặt cánh huân tước trẻ tuổi. Đây là những gì Guynplên nghe được:

- Tôi đã nói rằng các người hèn lắm. Các người muốn tôi rút lui câu nói của tôi. Được. Các người không phải là đồ hèn. Các người là đồ ngu vậy. Tất cả các người câu kết với nhau chống lại một kẻ. Như thế không phải hèn nhát: Vâng. Vậy thì là ngu xuẩn, ở đây già thì điếc tai, trai trẻ thì điếc trí tuệ. Tôi ít nhiều cũng thuộc tầng lớp các người, để nói lên sự thật cho các người nghe. Cái thằng mới đến kỳ quặc thật đấy, và nó đã tuôn ra một mớ điên rồ, tôi đồng ý thế; nhưng trong cái mớ điên rồ ấy có những việc đúng. Hỗn độn, khó tiêu, vụng về; đồng ý? Nó lặp di lặp lại quá nhiều mấy tiếng: "các ngài có biết không, các ngài có biết không"; nhưng một kẻ hôm qua còn là thằng hề chợ phiên thì không bắt buộc phải nói năng như Arixtôt và như tiến sĩ Ginbec Bơnet, giám mục Xarom. Chấy rận, sư tử, lời quát tháo viên phó thư ký, tất cả những chuyện ấy đều khiếm nhã. Nhưng có ai phản đối ý kiến các người đâu. Đấy là một lời hô hào rồ dại, không mạch lạc, quàng xiên nhưng đây đó có những sự việc có thật. Nói như thế đã là nhiều rồi, khi không phải nghề của người ta, tôi muốn được thấy các người nói thử xem! Điều nó kể về những người hủi ở Boctơn Lêzơ không thể chối cãi được rồi, vả lại nó không phải là người đầu tiên nói những điều ngu dại. Cuối cùng tôi, thưa quí vị huân tước, tôi không ưa cái kiểu lấy thịt đè người, cái tính của tôi vẫn thế, và tôi xin phép các người được phép phẫn nộ. Các người đã làm tôi không vừa lòng, tôi rất bực về chuyện ấy. Tôi, tôi không tin Chúa lắm, nhưng khi nào Chúa làm điều tốt thì tôi tin vào Chúa, việc này không phải ngày nào Chúa cũng làm. Cho nên tôi cảm ơn Chúa, đấng từ bi bác ái, nếu thật tình có Chúa, đã lôi từ đáy cuộc tồn tại thấp hèn này ra vị nguyên lão Anh quốc kia, đã trả lại gia tài cho người thừa kế kia và, không bận tâm xem điều ấy có ảnh hưởng gì đến công chuyện của tôi hay không. Tôi rất thích được thấy đột nhiên con mọt đất biến thành đại bàng và Guynplên trở thành Clăngsacli. Thưa quí huân tước, tôi cấm các vị phản đối ý kiến của tôi. Tôi rất tiếc là Lêvix Đơ Đuyrat không có ở đây. Tôi sẽ vui lòng sỉ vả y. Thưa quí vị huân tước, Fecmên Clăngsacli đã là huân tước và quí vị đã là những tên hát rong. Còn cái miệng cười của nó, đâu phải lỗi của nó. Các vị đã chế giễu cái cười ấy. Không ai cười một tai họa cả. Các vị là những thằng ngu. Những thằng ngu độc ác. Nếu các vị tưởng người ta không thể cười các vị, thì các vị lầm to; các vị xấu lắm, và các vị ăn mặc nhố nhăng lắm. Này huân tước Hevosam, hôm vừa rồi ta được thấy ả nhân tình của ngươi, thật là gớm ghiếc. Nữ công tước mà cứ như con khỉ cái. Thưa các ông hay cười hay nhạo, tôi xin nhắc lại, tôi rất muốn được nhìn các ông thử nói liền một lúc bốn chữ xem. Chán vạn kẻ liến thoắng, nhưng rất ít người biết nói lên lời. Các vị cứ tưởng mình biết được dăm ba điều vì các vị đã lê đũng quần vô công rỗi nghề của mình tại Ôcxfơc hay tại Kembritgiơ và vì trước khi làm nguyên lão Anh quốc trên ghế của Oetxminxtơ- Hơn, các vị đã là những con lừa trên ghế trường trung học Gônơvin và Cayut? Tôi, tôi đứng đây, và tôi muốn được nhìn thẳng mặt các vị. Các vị vừa tỏ ra vô liêm sỉ đối với vị tân huân tước ấy. Một con quái vật, cứ cho là thế đi. Nhưng lại bị vứt vào giữa một lũ súc sinh. Tôi thích được làm hắn ta hơn là làm các vị. Tôi không có quyền phát biểu, nhưng tôi có quyền là một người quí   tộc. Cái vẻ mặt vui nhộn của các vị làm tôi chán ngấy. Mỗi khi không vừa ý, tôi thường đi lên núi Penđơnhin hái cỏ mây, giống cỏ thường giáng sấm sét xuống đầu người hái. Vì vậy tôi đã đến chỗ các vị ở lối cửa ra. Chuyện trò là bổ ích, và chúng ta có những việc cần thanh toán với nhau. Các vị có biết chính bản thân tôi cũng đang khao khát muốn gặp các vị không? Thưa quí vị huân tước, tôi đang quyết tâm giết một vài người trong số các vị đây, tất cả các vị có mặt đây, Tômax Tơptơn, bá tước Tanê; Xavagiơ, bá tước Rivơ, Salơx Xpenxơ, bá tước Xanđơlan, Lorenx Haiđơ, bá tước Rôsextơ, các vị nam tước, Grê Rolextơn, Kêry Hânxđơn, Excric, Rockingan ; mày, Cáctorê ; mày, Rôbơc Đacxi, bá tước Honđơnex ; mày Uynliam, tử tước Hantơn ; và mày, Ranph, công tước Môngtagu, và tất cả những kẻ nào muốn, ta, Đêvit Đây Mua, một chiến sĩ hải quân, ta thách các người, ta kêu gọi các người, ta ra lệnh cho các người phải tìm gấp người phò tá và nhân chứng đi, ta đang chờ đợi các người, mặt đối mặt, ngực đối ngực. Chiều nay, ngay bây giờ, ngày mai, ban ngày, ban đêm, giữa ánh mặt trời, dưới ánh đuốc, lúc nào, theo cách nào các người cho là thích hợp, tại bất cứ địa điểm nào có đủ cho cho hai ngọn kiếm, và các người lên soát lại súng ngắn, xem lại mũi kiếm của các người, vì ta có ý định làm cho cái ghế nguyên lão của các người bỏ trống đấy. Ogơn Cavendls, hãy lo liệu và hãy nghĩ đến câu châm ngôn của nhà ngươi Cavendo tutus[166]. Macmađluc Lanđên, nhà ngươi nên bắt chước ông tổ Gânđên của nhà ngươi, cho khiêng theo một chiếc quan tài. Glorgio Binh, bá tước Oannhtơn, nhà ngươi sẽ không được thấy lại lãnh địa tướng quốc Sextơ và cái mê hồn cung của nhà ngươi làm theo kiểu Cơret và những tháp cao ở Đunham Matxi đâu. Còn huân tước Vêgam, nó còn trẻ con quá, quen ăn nói lỗ mãng, và quá già để chịu trách nhiệm về lời nói, về những lời nói của nó, ta sẽ hỏi chuyện cháu nó là Risac Vêgam, đại biểu công xã thị trấn Menênet. Còn nhà ngươi, Gion Cangben, bá tước Grinuych, ta sẽ giết chết nhà ngươi như Ason giết Matax, nhưng đường hoàng chứ không phải từ sau lưng, vì ta quen đưa ngực ra chứ không đưa lưng ta cho mũi kiếm. Thưa quí vị lãnh chúa, ta đã nói hết. Bây giờ, nếu các người thấy cần, thì cứ việc dùng bùa, dùng ngải, hãy đi hỏi các mụ bói bài tây, hay xoa lên người các thứbùa quỷ hoặc đeo ảnh Đức Bà Đồng Trinh vào cổ, ta cũng sẽ đánh nhau với các người, bất chấp việc các người có được ban phúc hay bị nguyền rủa, và ta sẽ không cần bảo sờ xem các người có đeo bùa trên người hay không. Đứng dưới đất hay ngồi trên lưng ngựa, Ngay giữa ngã tư, nếu các người muốn, tại Piccadyly hay ở Sêrinh Crôx, và người ta sẽ cạy bỏ nền đường cho chúng ta gặp nhau như trước kia người ta đã cạy bỏ nềnsân cung điện Luvrơ cho Đơ Ghizơ và Đơ Baxompie đấu kiếm. Tất cả các người có nghe rõ không? Ta cần đến tất cả các người. Ngủ đi, bá tước Caenacvon, ta sẽ cho ngươi nuốt lưỡi kiếm của ta đến tận đốc, như Maron đã cho Lilơ Marivô nuốt; sau đó huân tước ạ, chúng ta sẽ xem nhà ngươi có còn cười nữa không. Còn nhà ngươi, Bơclin- htơn, với cái tuổi mười bảy, ngươi có cái vẻ một cô gái, nhà ngươi sẽ được chọn giữa các bãi cỏ toà nhà của ngươi ở Mitđơnxêc và ngôi vườn xinh đẹp của ngươi ở Lonđexbơ tại Yorsai để làm nơi chôn cất. Ta báo cho các người biết là ta không ưa ai hỗn láo trước mặt ta. Và thưa quý vị huân tước, tôi sẽ trừng phạt các vị. Ta thấy việc các người phỉ báng huân tước Fecmên Clăngsacli là không tốt. Y còn giá trị hơn các người nhiều. Là Clăngsacli, y có dòng máu quý tộc mà các người có, là Guynplên, y có trí tuệ mà các người không có. Ta lấy lý tưởng của y làm lý tưởng của ta, ta xem xỉ nhục của y là xỉ nhục của ta, và lấy việc nhạo báng của các người làm điều phẫn nộ của ta. Rồi chúng ta xem ai sẽ sống để thoát khỏi việc này, vì ta thách các người thái quá đấy, các người có nghe rõ không, dùng bất cứ loại vũ khí nào mà các người ưa thích; bởi vì các người vừa là kẻ thô lỗ, vừa là quý tộc, nên ta phải tuỳ theo tước vị các người mà thách thức và ta dành cho các người tất cả mọi lối mà con người vẫn dùng để giết nhau, từ thanh kiếm như các bậc vương giả cho đến quyền Anh như bọn thô lỗ.

Trước những lời phẫn nộ như nước tát vào mặt ấy, toàn thể cánh huân tước trẻ kiêu ngạo chỉ mỉm cười đáp.

- Đồng ý thôi. - Họ nói.

- Ta chọn súng lục. - Bơclinhtơn nói.

- Tôi, - Excrie nói - lối chiến đấu cũ không cho người ngoài xem, bằng trùy và dao găm.

- Ta thì, - Onđonex nói - song đao, một dài một ngắn, ngực trần, và giáp lá cà.

Huân tước Đêvit, bá tước Tanê nói :

- Nhà người là dân Êcôx. Ta dùng trường kiếm.

- Ta thì kiếm thường. - Rôkingam nói.

- Ta, - công tước Railph nói - ta thích chơi quyền Anh. Cao quý hơn.

Guynplên bước ngay ra khỏi bóng tối.

Nó tiến đến bên người mà từ trước đến nay nó vẫn gọi là Tom-Jim-Jack, và lúc này nó bắt đầu thoáng thấy có một cái gì khác.

- Tôi cảm ơn ngài, - nó nói- nhưng việc này xin để mặc tôi.

Tất cả bấy nhiêu cái đầu đều ngoảnh phắt lại.

Guynplên tiến lên. Nó cảm thấy bị đẩy tới phía người mà nó nghe gọi là huân tước Đêvit, lại là người bênh vực nó, và có lẽ còn hơn thế nữa. Huân tước Đêvit lùi ngay lại.

- Kìa! - Huân tước Đêvit nói, - hóa ra là ông! Ông có ở đây! Hay lắm tôi cũng đang có chuyện cần nói với ông. Ban nãy ông có nói đến một người đàn bà, sau khi yêu huân tước Linơx Clăngsacli, đã yêu vua Saclơ đệ Nhị.

- Đúng thế.

- Thưa ông, ông đã lăng mạ mẹ tôi.

- Mẹ ông? - Guynplên thốt lên - Nếu thế thì tôi đoán ra rồi, chúng ta là...

- Anh em. - Huân tước Đêvit đáp - Và y giáng cho Guynplên một cái tát.

- Chúng ta là anh em, - y nói tiếp- như vậy là ta có thể đánh nhau lắm. Người ta chỉ đánh nhau với kẻ ngang hàng. Còn ai ngang hàng với mình hơn là anh em mình. Tôi sẽ gửi nhân chứng tới gặp ông. Ngày mai, chúng ta sẽ cắt cổ nhau.

IX. SỤP ĐỔ

1. QUÁ ĐỈNH CAO SANG ĐẾN CHỖ TẬN CÙNG ĐAU KHỔ

Đồng hồ nhà thờ Thánh Pôn vừa điểm nửa đêm thì một người, vừa bước ra khỏi cầu Luân Đôn, đi vào các ngõ hẻm Xaothuak. Không có ngọn đèn đường nào sáng cả vì theo lệ thời bấy giờ, ở Luân Đôn cũng như ở Pari, phải tắt đèn công cộng vào lúc mười một giờ, nghĩa là bỏ đèn vào lúc cần đến đèn. Đường phố tối om trở lên vắng vẻ. Không có đèn đường thành ra ít người qua lại. Người nói trên bước thật dài. Đi ngoài phố vào giờ ấy mà anh ta ăn mặc rất kỳ quặc. Mình vận một chiếc áo lụa thêu, hông đeo kiếm, đầu đội mũ lông chim trắng, và không khoác áo choàng. Bọn tuần canh thấy anh ta đi qua đều nói : "Một vị quý tộc đang có chuyện thách thức gì đây." Và họ lễ phép tránh ra, đúng như đối với một huân tước và một cuộc thách thức.

Người ấy chính là Guynplên.

Lúc này nó đang ở đâu? Nó cũng không biết. Tâm hồn, như chúng tôi đã nói, có những lúc đảo điên của nó, những cơn lốc xoáy khủng khiếp qua đó mọi vật đều bị xáo trộn, trời, biển, ngày, đêm, sống, chết, trong một trạng thái rùng rợn khó hiểu. Thực tế không sao thở nổi nữa. Người ta bị đè bẹp bởi những thứ người ta không tin. Hư không chuyển thành gió bão. Trời xanh trở màu xám xịt. Vô biên tự dưng trống rỗng. Con người đứng trong chỗ vắng ngắt. Người ta cảm thấy đang chết dần. Người ta ước ao một tinh cầu. Lúc này Guynplên dang cảm thấy gì? Một nỗi khát khao được gặp Đêa.

Nó chỉ còn cảm thấy có vậy thôi. Trở về với Hộp Xanh, với quán Tacaxtơ vang rộn, chói người, đầy tiếng cười vui cởi mở, thân tình củadân chúng, gặp lại Uyêcxuyt gặp lại Ômô, thấy lại Đêa, trở về với cuộc sống!

Những phút vỡ mộng cũng bật như cánh cung, với một sức mạnh rùng rợn, và bắn con người đến chỗ thực tế như một mũi tên. Guynplên đang vội. Nó đã về gần tới cánh đồng Tarinhzô. Nó không đi nữa, nó chạy. Mắt nó chăm chú vào bóng tối trước mặt. Nó nhờ hai mắt dẫn đường, hăm hở tìm kiếm bến bờ ở chân trời. Còn gì hồi hộp bằng giây phút nó sắp nhận ra những cánh cửa sổ sáng ánh đèn của quán Tacaxtơ? Nó đang đi trên bãi cỏ. Nó ngoặc theo một góc tường và trước mặt, đầu kia bãi cỏ, cách đấy một tí là quán rượu; ta còn nhớ đấy là ngôi nhà duy nhất trên bãi chợ phiên.

Nó nhìn. Không có chút ánh sáng nào cả. Một khối đen ngòm.

Nó rùng mình. Rồi nó tự nhủ, đêm đã khuya, quán rượu đóng cửa, chuyện rất đơn giản, người ta đang ngủ, chỉ cần đánh thức Nieơlex hoặc Gôvicâm dậy, phải đến chỗ quán rượu rồi gõ cửa. Nó bèn đi tới quán. Nó không chạy. Nó nhẩy bổ tới. Đến bên quán rượu, nó thở không ra hơi nữa. Sống trong khắc khoải, vùng vẫy trong những quằn quại vô hình của tâm tư, không rõ mình sống hay chết nữa, và dành cho người yêu tất cả mọi trìu mến; chính qua đấy mà hiểu được lòng nhau. Trong khi tất cả mọi thứ đều chìm ngập, tình yêu nổi lên trên. Không đánh thức Đêa dậy đột ngột, đấy là lo nghĩ đầu tiên của Guynplên.

Nó tới gần quán rượu, cố bước hết sức nhẹ. Nó biết rõ cái buồng xép. Cái ổ chó cũ, nơi Gôvicâm ngủ, cái buồng xép ấy, liền với căn phòng thấp, cómột cửa mái nhìn ra bãi. Guynplên khẽ cào vào ô kính. Đánh thức Gôvlcâm dậy là đủ.

Trong buồng ngủ của Gôvicâm không một chút động tĩnh. Guynplên nghĩ bụng, ở tuổi này, ngủ say lắm. Nó liền dùng mu bàn tay khẽ gõ vào cửa mái. Chẳng có gì nhúc nhích cả.

Nó lại gõ mạnh, hai tiếng. Trong buồng xép vẫn không nghe cựa quậy. Lúc này, đã hơi run run, nó đi đến chỗ cửa ra vào và đấm thật mạnh.

Chẳng ai đáp lại cả.

Nó nghĩ, không phải không bắt đầu thấy rờn rợn trong người: - Ông Nicơlex già rồi, trẻ con thường ngủ say mà người già lại mê ngủ. Nào! Mạnh nữa vào!

Nó đã cào. Nó đã gõ. Nó đã đấm. Bây giờ nó hích mạnh. Việc này gợi nó nhớ lại một kỷ niệm xa xưa, ở Uêmơt, ngày còn nhỏ tí, nó ẵm trên tay Đêa bé tẹo.

Nó hích rất mạnh, như một huân tước, vì than ôi! Lúc này nó là huân tước.

Ngôi nhà vẫn lặng lẽ.

Nó đã cảm thấy luống cuống.

Không dè dặt nữa. Nó gọi: - Nicơlex? Gôvicâm!

Đồng thời nó nhìn lên các cửa sổ xem có ngọn nến nào được thắp sáng không.

Chẳng có gì trong quán cả. Không một giọng người. Không một tiếng động. Không chút ánh sáng.

Nó đi ngay đến chỗ cổng xe ra vào, hích thật mạnh rồi đẩy thử vừa lắc lắc như điên vừa hét: Uyêcxuyt! Ômô!

Con sói không sủa.

Một giọt mồ hôi lạnh buốt lấp lánh trên trán nó.

Nó đưa mắt nhìn quanh. Đêm tối dày đặc, nhưng trời khá nhiều sao nên cũng trông rõ bãi chợ phiên. Nó thấy một điều thật rùng rợn, cảnh tan biến của mọi vật. Trên bãi cỏ, không còn lấy một cái lán nào nữa. Rạp xiếc không ở đấy nữa. Không còn lều trại. Không còn sân khấu. Không còn xe lăn. Cái không khí giang hồ ồn ào muôn vẻ từng nhung nhúc kiến ở đây đã nhường chỗ cho một cảnh đen tối hoang vắng dễ sợ. Tất cả đã đi mất hết.

Nó điên cuồng lo lắng. Thế là nghĩa thế nào? Việc gì đã xảy ra? Không còn ai nữa sao? Chẳng lẽ cuộc sống của nó lại sụp đổ hết rồi sao? Người ta đã làm gì đối với họ, với tất cả mọi người? Ôi, Lạy Chúa! Nó lao thốc vào và như một cơn bão, nó đấm vào cánh cửa phụ, vào cổng xe, vào cửa sổ, vào cửa ván, vào tường, bằng nắm tay, bằng chân, giận dữ, vì sợ hãi và lo lắng. Nó gọi Nicơlex, Gôvicâm, Fibi, Vinơx, Uyêcxuyt, Ômô. Nó trút vào bức tường cao tất cả mọi tiếng gào thét, mọi kiểu đập phá. Chốc chốc lại dừng lại, nghe ngóng, ngôi nhà vẫn câm lặng như chết. Thế là, điên tiết, nó lại tiếp tục. Tiếng gõ, tiếp đập, tiếng kêu, tiếng ầm ầm vang động khắp bãi. Tưởng như tiếng sấm rền cố lay tỉnh mộ địa.

Hoảng hốt đến một mức độ nào đấy, con người trở thành khủng khiếp. Kẻ nào sợ tất cả mọi thứ, kẻ đó chẳng biết sợ là gì. Người ta đá cả vào con nhân sư. Người ta ngược đãi cái xa lạ. Guynplên lại làm ồn bằng đủ mọi hình thức có thể làm được, chốc lại dừng, chốc lại tiếp, không ngớt gào thét, kêu gọi, tấn công vào cảnh im lặng bi đát ấy.

Nó gọi đến hàng trăm lần tất cả những người có thể có mặt ở đấy; nó gào hét tất cả các tên, trừ Đêa. Một điểm dè dặt, khó hiểu đối với chính nó, mà nó vẫn còn giữ được bản năng trong cơn thác loạn.

Gào thét chán, kêu gọi chán, chỉ còn một cách trèo tường. Nó nghĩ bụng: Phải vào trong nhà. Nhưng vào bằng cách nào? Nó bèn đập vỡ một ô kính ở chỗ buồng xép Gôvicâm, thọc nắm tay vào làm toạc cả da, kéo cái chốt, mở cửa mái ra. Nhận thấy thanh kiếm sẽ gây trở ngại, nó tức giận giật cả kiếm, cả vỏ, cả dây đeo vứt xuống nền đường. Đoạn nó trèo lên, bấu vào những chỗ lồi lõm trên tường, và mặc dầu cửa mái hẹp, nó cũng chui vào lọt. Nó lần vào quán rượu.

Trong buồng, vẫn lờ mờ chiếc giường của Gôvicâm, nhưng không có Gôvicâm nằm dấy. Gôvicâm mà không nằm trên giường thì Nicơlex chắc chắn cũng không có trên giường của ông. Toàn hộ ngôi nhà đều tối om. Trong căn nhà tối mò ấy,người ta cảm thấy cái im lìm bí hiểm của không khí trống rỗng, và cảnh rùng rợn mơ hồ ấy có nghĩa là: Không có một ai cả. Co giật cả người, Guynplên đi xuyên qua căn phòng thấp, vấp vào bàn, dẫm lên cốc chén, làm đổ và ghế, hất nhào các bình nước, bước qua đồ đạc, tiến thẳng đến cái cửa ra sân, đưa đầu gối thúc bung cả then ra. Cánh cửa xoay trên bản lề. Nó nhìn ra sân. Hộp Xanh không còn đấy nữa.

2. NHỮNG GÌ CÒN LẠI

Guynplên bước ra khỏi nhà và sục sạo khắp cánh đồng Tarinhzô; nó đi khắp các chỗ hôm qua còn thấy có một sân khấu, một lều vải, hoặc một cái chòi. Giờ đây không còn gì nữa. Nó đấm vào các quầy hàng, mặc dầu biết chắc không có người ở. Nó đấm vào tất cả những gì giống hình cửa sổ hay cửa ra vào. Không một tiếng người nào từ trong bóng tối ấy vọng ra. Hệt như thần chết đã đi qua đây.

Tổ kiến đã bị nghiền nát. Rõ ràng đây là một biện pháp cảnh sát. Điều mà ngày nay ta gọi là càn quét. Cánh đồng Tannhzô còn hơn cả vắng vẻ, nó tiêu điều, và trong tất cả các xó xỉnh đều cảm thấy có móng vuốt dữ tợn cào vào. Cứ như thể người ta đã lộn trái cái túi của cái bãi chợ phiên khốn khổ này và vét sạch.

Sau khi sục sạo khắp nơi, Guynplên rời khỏi bãi và đi vào những phố ngoằn nghèo của đoạn cuối bãi gọi là Ixt-piotơ và tiến về hướng sông Tami.

Nó vượt qua vài đoạn chữ chi của cái mạng ngõ ngách chỉ có tường và hàng rào, sau đó nó cảm thấy trong không khí cái cảm giác mát mẻ của sông nước, nó nghe có tiếng chảy róc rách, và đột nhiên nó đứng trước một hàng lan can. Đấy là lan can của Epfrôc-xtôn.

Lan can này rào chắn một đoạn phố rất ngắn và rất hẹp của bờ sông. Dưới lan can, bức tường cao Epfrôc- xtôn cắm thẳng xuống một dòng nước đen ngòm.

Guynplên dừng lại bên lan can, tì khuỷu tay ôm lấy đầu và miên man suy nghĩ, bên dưới, dòng nước chảy lặng lờ.

Nó có nhìn dòng nước không? Không.Vậy nó nhìn gì? Bóng tối. Không phải bóng tối bên ngoài, mà bóng tối bên trong nó.

Trong phong cảnh u buồn của trời đêm mà nó không để ý đến, trong cái sâu thẳm bề ngoài mà mắt nó không buồn sục sạo ấy, ta có thể nhận thấy bóng dáng những trục buồm và cột buồm. Dưới bức tường Epfrôc- xtôn chỉ có sóng nước dập dờn, nhưng bến sông phía dưới thoai thoải xuống dần và cách đấy một quãng gặp một cái bờ có rất nhiều tàu đậu, một số mới đến, một số sắp khởi hành, ra vào đất liền nhờ nhiều mũi bến để cột tàu, xây dựng nhằm mục đích ấy, bằng đá hoặc bằng gỗ, hoặc nhờ vào các cầu tàu bằng ván. Số tàu bè ấy, thứ buộc dây, thứ dùng neo, đều nằm im lìm, không nghe tiếng chân, tiếng nói. Thủy thủ vốn có thói quen quý hoá là ngủ thật nhiều và chỉ thức dậy để làm việc.

Trong số tàu bè ấy nếu có chiếc nào phải ra đi đêm nay vào giờ nước chiều thì cũng vẫn chưa thức dậy. Chỉ lờ mờ trông thấy các vỏ tàu như những cái bóng tròn, thật to, đen xì, và những dụng cụ, thừng chão lộn với than. Xám xịt, hỗn độn. Đây đó, một ngọn đèn lồng đỏ chọc thủng màng sương.

Tất cả những thứ ấy, Guynplên chẳng nhìn thấy gì hết. Điều đang làm nó bận tâm là số phận.

Nó đang suy tư, đúng là một con người ảo tưởng, ngơ ngác trước thực tế khắc nghiệt.

Dường như nó đang nghe thấy sau lưng có cái gì tương tự một cảnh động đất. Đấy là tiếng cười của bọn huân tước.

Tiếng cười ấy nó vừa thoát khỏi. Thoát khỏi với một cái tát.

Ai tát?

Anh nó.

Rồi thoát khỏi trận cười ấy, với cái tát ấy, như một con chim bị thương, ẩn náu trong tổ, trốn chạy thù ghét và tìm kiếm tình yêu, nó đã gặp những gì?

Bóng tối. Không một bóng người.

Tất cả đều biến mất.

Những bóng tối ấy, nó đem so sánh với giấc mộng vừa qua của nó.

Thật là một sụp đổ ghê gớm!

Guynplên vừa đến bên bờ ảm đạm, bên khoảng không. Hộp Xanh đi rồi, là cả vũ trụ tiêu tan.

Tâm hồn nó vừa khép lại.

Nó trầm ngâm suy nghĩ.

Cái gì đã có thể xảy ra? Họ ở đâu rồi? Tất nhiên. Người ta đã bắt mất họ. Số phận đã giáng vào nó, Guynplên, cho nó địa vị cao sang, và đã dội lại vào họ, thành cảnh huỷ diệt. Rõ ràng, nó không bao giờ còn gặp lại họ. Người ta đã có biện pháp ngăn ngừa trong việc ấy. Và đồng thời người ta đã triệt hạ tất cả những gì ở trên khu vực chợ phiên, bắt dầu từ Nicơlex và Gôvicâm, để không một ai có thể chỉ dẫn cho nó. Một lối ly tan khắc nghiệt. Cái sức mạnh xã hội đáng sợ ấy, cùng một lúc nghiền nhỏ nó tại nghị viện nguyên lão, cũng đã bóp nát họ trong túp lều thảm thương của họ. Họ không còn nữa. Đêa không còn nữa. Không còn đối với nó. Mãi mãi. Hỡi cái sức mạnh của trời cao: Đêa đang ở đâu? Vậy mà nó đã không có mặt ở đấy để bênh vực Đêa.

Đoán tới đoán lui về những người vắng mặt mà mình yêu quý là tự làm khổ bản thân. Nó đang tự bắt nó phải chịu sự tra tấn ấy. Mỗi cái nêm nó tự đóng vào người, mỗi giả thuyết nó đặt ra, lòng nó lại âm thầm rên rỉ.

Qua một loạt ý nghĩ xót xa, nó lại nhớ tới con người, rõ ràng tai hại đã tự xưng danh với nó là Backinphêđrô. Con người ấy đã ghi vào trí óc nó một cái gì đen tối hiện giờ lại tái hiện, viết bằng một thứmực khủng khiếp đến nỗi bây giờ thành những chữ lửa, và Guynplên thấy rực đỏ lên ở tận cùng tư tưởng của nó những lời bí hiểm mà hôm nay được giải thích rõ ràng. Số phận không bao giờ mở một cửa mà lại không đóng một cửa khác.

Tất cả đều bị tiêu huỷ. Những bóng tối cuối cùng đang đè nặng lên nó. Trong số kiếp của mình, người nào cũng có thể có một ngày tận số riêng. Đấy gọi là thất vọng. Tâm hồn tràn ngập sao băng, Guynplên đang ở trong tâm trạng ấy!

Một làn khói đã thoảng qua. Nó bị lẫn vào lớp khói ấy. Khói đã dày đặc trước mặt nó, đã xộc vào đầu óc nó. Bên ngoài nó bị mờ quáng; bên trong nó bị ngây ngất. Thời gian chỉ trong khoảng khắc một làn khói thoảng. Thế rồi tất cả lại tan biến, cả làn khói lẫn cuộc đời. Tỉnh khỏi giấc mơ, nó lại thấy chơ vơ một mình.

Tất cả đều tan biến. Tất cả đã ra đi. Tất cả đã mất hết. Đêm tối. Chẳng có gì hết. Đấy là chân trời của nó.

Chơ vơ có một từ đồng nghĩa là: chết.

Nó đang chơ vơ một mình.

Thất vọng là một thứ đồng hồ đo thích tổng kết. Không một thứ gì thoát khỏi nó. Nó cộng tất cả không để sót hàng xu. Nó trách cứ Chúa, từ tiếng sét đánh đến mũi kim châm. Nó muốn biết phải làm thế nào với số phận. Nó lý luận, cân nhắc, và tính toán.

Bề ngoài nguội lạnh âm thầm, nhưng bên trong nham thạch rực hồng vẫn cuộn chảy.

Guynplên tự nhận xét mình và nhận xét số phận.

Nhìn lại phía sau: một bản tóm tắt đáng sợ.

Trèo lên đến đỉnh núi, người ta thường nhìn xuống vực. Ngã xuống đáy sâu, người ta lại ngước mắt nhìn trời.

Và người ta nghĩ bụng: mình vừa ở đấy xong!

Guynplên đang đứng ở chỗ tận cùng của tai hoạ. Và sao mà đến nhanh thế! Một kiểu vội vã ghê tởm của bất hạnh. Nó nặng nề quá nên người ta cứ tưởng là nó chậm. Không đúng. Hình như vì lạnh và tuyết phải tê liệt như mùa đông, và vì trắng nên tuyết phải im lìm như vải liệm. Tất cả những điểm ấy một khi băng lở đều bị phủ nhận hết.

Băng lở, đó là tuyết biến thành lửa đỏ. Nó vẫn giá lạnh nhưng lại ăn tươi nuốt sống. Băng lở đã bao trùm Guynplên. Nó đã lại giật tung như một mảnh giẻ rách, bật rễ như một cái cây, hất nhào như một tảng đá.

Nó tổng kết lại việc sa ngã của nó. Nó tự đặt câu hỏi rồi lại tự trả lời. Đau khổ là một cuộc hỏi cung. Không một thẩm phán nào lại tỉ mỉ cặn kẽ như lương tâm khi thẩm cứu bản án của chính mình.

Có bao nhiêu hối hận trong thất vọng của nó?

Nó muốn biết rõ điều đó và nó tự mổ xẻ lương tâm, một ca giải phẫu sống vô cùng đau đớn.

Việc vắng mặt của nó đã gây nên một tai hoạ. Sự vắng mặt ấy có tuỳ thuộc ở nó không? Trong tất cả những sự việc vừa xảy ra đó, nó có được tự do không? Hoàn toàn không. Nó tự cảm thấy bị trói buộc. Cái gì đã bắt nó và giam giữ nó? Một nhà tù? Không. Một sợi xích ư? Không. Vậy thì cái gì? Một thứ nhựa bẫy chim.

Nó bị sa lầy trong cảnh cao sang.

Ai chẳng có lần, bề ngoài tuy tự do, mà vẫn cảm thấy cánh mình vướng víu?

Có một cái gì như một tấm bảng chăng ngang. Cái thoạt đầu quyến rũ, cuối cùng lại hóa ra xiềng xích.

Tuy nhiên, và ở điểm này, lương tâm lại hỏi dồn nó, trong sự việc xảy ra đó, nó có đơn thuần bị động không? Không. Nó đã ưng thuận như thế.

Trong một chừng mực nào đó, quả nó có bị cưỡng bức và bất ngờ, nhưng về phía nó, cũng trong một chừng mực nào đó, nó đã để mặc. Để mặc cho bắt, đâu phải lỗi của nó; để mặc cho bị say mê, đấy là sự yếu đuối của nó.

Đã có một lúc, lúc quyết định, câu hỏi được đặt ra; tên Backinphêđrô kia đã đặt nó trước một ngã ba, và đã cho Guynplên cơ hội để giải quyết dứt khoát số phận mình bằng một tiếng nói. Lúc ấy Guynplên có thể nói: Không.

Nó đã nói: Có.

Từ tiếng có ấy, nói lên trong lúc bàng hoàng bối rối, đã dẫn đến tất cả mọi việc. Guynplên cũng hiểu thế. Dư vị cay đắng của sự đồng tình.

Tuy nhiên, lúc này nó đang tự tranh luận, có phải là một khuyết điểm lớn không, khi trở lại với quyền lợi của mình, với di sản của cha ông mình, với gia tài của mình, với nhà cửa của mình và lấy tư cách là quý tộc, trở về hàng ngũ của tổ tiên mình, lấy tư cách là mồ côi, trở về với tên họ cha mình? Nó đã ưng thuận cái gì? Một sự phục hồi. Do ai tiến hành? Do thượng đế.

Thế là nó cảm thấy trong lòng một cuộc nổi loạn. Một chuyện ưng thuận thật ngu ngốc, một sự mua bán quá lạ lùng, một cuộc trao đổi đến phi lý. Nó đã thương lượng dại dột làm sao với đấng thượng đế. Để có hai triệu tiền liên thu, để có bảy tám thái ấp, để có mươi mười hai cung điện, để có dinh cơ tại thành phố và lâu đài ở thôn quê để có một trăm quân hầu, những bầy chó săn, những xe tứ mã, những huy hiệu, để trở thành quan toà và nhà lập pháp, để được đội mũ miện, mặc áo đỏ như một nhà vua, để làm nam tước và hầu tước, để làm nguyên lão nghị viện Anh quốc, nó đã đem đổi cái lều của Uyêcxuyt và nụ cười của Đêa! Để nhận lấy một bãi lầy mênh mông chỉ có chết ngập chết chìm, nó đã đem ngọc báu đi cho, ôi điên cuồng! ôi ngu ngốc! ôi lừa đảo!

Nhưng tuy vậy, và ở đây sự phản đối lại nổi lên trên một mảnh đất vững chắc, trong cơn sốt giàu sang phú quý nó lâmphải đó, không phải tất cả đều xấu xa ô uế. Có lẽ trong từ chối có phần ích kỷ, có lẽ trong chấp thuận có phần bổn phận. Đột nhiên trở thành huân tước, nó phải làm gì? Sự kiện phức tạp khiến cho đầu óc phải do dự. Đó là điều đã xảy đến vớinó. Bổn phận đã ra những mệnh lệnh trái ngược, bổn phận từ mọi phía cùng một lúc, bổn phận nhiều mặt và gần như mâu thuẫn, nó đã ở trong tình trạng hốt hoảng ấy. Chính sự hốt hoảng ấy đã làm nó tê liệt, nhất là trên đường đi từ Corlêon- Lotgiơ đến nguyên lão nghị viện, mà nó đã không phản đối. Trong cuộc đời, cái người ta gọi là đi lên, tức là chuyển từ hành trình đơn giản sang hành trình đáng lo ngại. Từ nay đâu là đường thẳng? Bổn phận thứ nhất dành đối với ai? Có phải đối với những người thân của mình không? Hay đối với nhân loại? Người ta chẳng đi từ tiểu gia đình đến đại gia đình là gì? Người ta đi lên và người ta cảm thấy trong lòng ngay thẳng của mình có một trọng lượng tăng dần. Càng cao, cũng cảm thấy nhiều trách nhiệm. Quyền hạn càng rộng, bổn phận càng lớn. Người ta chịu sự ám ảnh, có lẽ đấy là ảo mộng của nhiều con đường cùng xuất hiện một lúc, và ở lối vào của mỗi con đường người ta đều tưởng như trông thấy ngón tay hướng dẫn của lương tâm. Đi đâu? Quay ra ư? Đứng lại ư? Tiến tới ư? Lùi về ư? Làm gì đây? Bổn phận mà lại có ngã tư, kể cũng lạ lùng. Trách nhiệm có thể là một thứ mê hồn cung.

Và khi một người mang một ý nghĩ, khi người ấy là hiện thân của một sự việc, khi nó vừa là con người tượng trưng vừa là con người bằng xương bằng thịt thì trách nhiệm chẳng càng bối rối hơn sao? Vì vậy mà có sự ưu tư ngoan ngoãn và nỗi lo sợ thầm lặng của Guynplên, vì vậy mà nó vâng lời tham dự hội nghị, con người trầm tư thường là con người bị động, dường như nó còn nghe thấy cả mệnh lệnh của bổn phận. Bước vào những nơi mà người ta có thể tranh luận về sự áp bức và đả phá sự áp bức, chẳng phải là thực hiện một trong những khát vọng sâu sắc nhất của nó sao? Khi được phép phát biểu, nó, một kiểu mẫu xã hội khủng khiếp, nó, một tiêu bản sống của độc đoán, dưới đó từ sáu nghìn năm loài người vẫn hằng rên siết, liệu nó có quyền từ chối việc ấy không? Liệu nó có quyền rút đầu ra khỏi ngọn lửa từ trên rơi xuống và quấn lấy mình nó không?

Trong cuộc tranh cãi tối tăm và chóng mặt của lương tâm, nó đã tự bảo thế nào? Như thế này: Nhân dân vốn là im lặng. Ta sẽ là người thầy cãi vĩ đại của cái im lặng đó. Ta sẽ nói thay cho người câm. Ta sẽ nói cho kẻ tai to mặt lớn nghe về những con người nhỏ bé, và cho kẻ quyền uy nghe về những người hèn yếu. Đấy là mục đích của đời ta, Chúa muốn gì cứ muốn và cứ làm. Tất nhiên, cái bầu rượu của tên Acquanon, qua đó Guynplên thay hình đổi dạng thành huân tước Clăngsacli cũng đáng ngạc nhiên là nó đã bềnh bồng mười lăm năm trên biển cả, bị nước dồn, sóng dập, gió tát và tất cả cơn thịnh nộ ấy không làm gì được nó. Ta thấy tại sao. Có những vận mệnh nằm trong bí mật; ta, ta có chìa khóa của vận mệnh ta, và ta mở bí ẩn của ta. Ta đã do tiền định! Ta có một sứ mệnh. Ta sẽ là huân tước của những người nghèo khổ. Ta sẽ nói thay cho tất cả những người thất vọng ít nói. Ta sẽ giải thích những lời nói ấp úng. Ta sẽ giải thích những tiếng gầm, tiếng thét, tiếng thì thầm, tiếng ồn ào của quần chúng, tiếng rên siết âm thầm, những giọng nói khó hiểu, và tất cả những tiếng thú vật mà vì quá ngu dốt và đau khổ con người phải thét lên. Tiếng người cũng khô rõ ràng như tiếng gió; họ kêu la; nhưng người ta không hiểu họ, kêu la như vậy thì cũng như im lặng, và im lặng là sự giải giáp của họ. Giải giáp miễn cưỡng đòi hỏi phải được cứu giúp. Ta, ta sẽ là người cứu trợ. Ta, ta sẽ là người phát giác. Ta sẽ nói tiếng nói của Nhân dân. Nhờ có ta, người ta sẽ hiểu. Ta sẽ là cái miệng vấy máu mà giẻ bịt đã bị bật tung. Ta sẽ nói tất cả. Điều đó sẽ rất vĩ đại.

Phải, nói thay cho người câm là một cử chỉ đẹp đẽ; nhưng nói với kẻ điếc thì thật buồn. Đấy là phần hai trong câu chuyện ly kỳ của nó.

Than ôi! Nó đã thất bại.

Nó đã thất bại một cách không phương cứu gỡ.

Bước đường nó đã tưởng là đi lên ấy, vận may lớn lao ấy, vẻ ngoài ấy, đã sụp đổ dưới chân nó.

Bước sang ngã mới đau đớn làm sao! Ngã trong giãi dớt của tiếng cười.

Là một linh hồn cần cù chăm chỉ, suốt bao năm trôi nổi trong cảnh phân tán mênh mông của đau khổ, là người đã mang từ bóng tối ấy về một tiếng kêu ai oán, nó những tưởng mình mạnh. Nó đã mắc cạn trước tảng đá ngầm khổng lồ ấy, trước vẻ phù phiếm của những kẻ giàu sang, sung sướng. Nó tưởng nó là người phục thù, hóa ra nó là một thằng hề. Nó tưởng giáng được sấm sét, nhưng lại chỉ cù chơi. Thay cho xúc động, nó đã nhận được chế giễu. Nó khóc nức nở mà người ta lại cười vui, nó đã bị dìm ngập dưới sự vui nhộn ấy. Một kiểu chôn vùi bi đát.

Và người ta đã cười cái gì? Cười cái cười của nó.

Như vậy là hành vi bạo ngược đáng ghê tởm ấy mà mãi mãi nó phải mang giữ dấu vết, cái việc xẻo da cắt thịt trở thành nét hoan hỉ suốt đời, cái vẻ cười in dấu sỉ nhục ấy, hình ảnh sự bằng lòng giả trá của những quốc gia dưới tay bọn áp bức, cái mặt nạ cười vui do tra tấn tạo thành, cái vực sâu ấy của tiếng cười ngạo mạn mà nó mang trên mặt, cái sẹo ấy có nghĩa là Jussu regis[167] chứng thư tội ác ấy của nhà vua trên mặt nó, biểu tượng tội ác của vương quyền đối với toàn thể nhân dân, chính cái ấy đang chiến thắng nó, chính cái ấy đang trĩu nặng trên người nó, đấy chính là bản cáo trạng buộc tội đao phủ, nay đổi thành phán quyết chống lại nhân dân. Một trường hợp không chịu xét xử kỳ lạ. Vương quyền sau khi thắng được bố nó, nay lại thắng nó. Tội ác đã phạm nay lại dùng làm cớ và lý do cho tội ác còn phải làm. Các ngài huân tước tức giận ai. Tức giận kẻ tra tấn ư? Không. Tức giận người bị hành hạ. Đấy là nhà vua, kia là dân chúng; đây là Giăc đệ Nhị, kia là Guynplên.

Đúng, việc đối chất này đưa ra ánh sáng một âm mưu và một tội ác. Âm mưu thế nào? Kêu van. Tội ác thế nào? Đau khổ. Cùng khổ phải lẩn trốn và câm họng, nếu không, nó phạm tội phạm thượng. Và những con người đã gièm pha nhạo báng Guynplên ấy, họ có độc ác không? Không, nhưng họ cũng có định mệnh của họ, họ được sung sướng. Họ là đao phủ mà không biết. Họ đang vui. Họ nhận thấy Guynplên không làm được gì. Nó đã tự phanh bụng, tự rút tim gan ra, đã moi ruột cho mọi người thấy và người ta đã hét vào mặt nó: Mày cứ làm trò nữa đi! Điều đau xót là chính nó cũng cười. Sợi xích rùng rợn trói buộc tâm hồn nó và ngăn cản không cho tư tưởng nó hiện lên nét mặt. Sự biến dạng ăn sâu vào trí óc nó, và trong khi lương tâm nó phẫn uất, bộ mặt nó lại cải chính và cười nhạo. Thế là hết. Nó là Thằng Cười, cái cột trụ đầu người[168] khóc lóc của trần gian. Nó là sự đau khổ hóa thạch, thành vẻ cười vui, mang trọng lượng của cả một vũ trụ đầy tai ương, và mãi mãi bị bưng bít trong vui nhộn, trong mỉa mai, trong thích thú của kẻ khác; cùng với tất cả những người bị áp bức, nó là hiện thân, nó chia sẻ cái định mệnh ghê tởm là một khổ não không được xem trọng; người ta đùa cợt với buồn phiền của nó; không rõ nó là một thằng hề khổng lồ nào, sinh ra từ một sự kết tụ khủng khiếp của bất hạnh, thoát khỏi nhà tù, trở thành thần linh, từ tận cùng hạ lưu leo lên đến tận chân ngai, trà trộn vào tinh tú và sau khi đã mua vui cho những người bị đoạ đày, nó lại làm vui cho những kẻ được ưu đãi! Tất cả những gì là đại lượng, bồng bột, là hùng biện, là tình cảm, là tâm hồn, là thịnh nộ, là giận dữ, là tình yêu, là đau xót không nói lên tới trong nó, đều dẫn đến điều này, một trận cười như sấm nổ! Và nó nhận thấy, như nó đã nói với đám công tước, đây không phải là một biệt lệ, mà là sự bình thường, hàng ngày, phổ biến, sự việc lớn lao rộng khắp, kết hợp chặt chẽ với thói quen sống khiến người ta không nhận thấy nữa. Người chết đói cười, người ăn mày cười, người khổ sai cười, gái giang hồ cười, đứa trẻ mồ côi, để kiếm sống, cũng cười, người nô lệ cười, anh chiến sĩ cười, nhân dân cười, xã hội loài người được kiến tạo thế nào mà tất cả những trầm luân, tất cả những nghèo đói, tất cả những tai họa, tất cả những hấp hối, đều tiêu tan trên vực thẳm thành một nét cười hăm hở khủng khiếp.

Chính Guynplên là cái vẻ nhăn nhở tổng hợp ấy. Nét nhăn nhở ấy là nó. Luật pháp của trời cao, cái sức mạnh xa lạ vẫn thống trị muốn rằng một bóng ma thấy được và sờ nắn được, một bóng ma bằng xương bằng thịt, phải thu tóm được cái trò bắt chước chơi kỳ quái mà ta gọi là thế gian; Guynplên là bóng ma đấy.

Vận mệnh nan y.

Nó đã hét to: Hãy thương lấy những người đau khổ! Vô ích.

Nó muốn lay tỉnh lòng trắc ẩn. Nó đã đánh thức sự hãi hùng. Đấy là quy luật hiển hiện của các bóng ma. Đồng thời là bóng ma, Guynplên lại là người. Đây là điểm phức tạp đau xót của nó. Ma bên ngoài, người bên trong. Có lẽ người hơn bất cứ ai cả, vì số kiếp hai mặt của nó thu tóm toàn thể nhân loại. Và đồng thời mang nhân loại trong người, nó vẫn cảm thấy nhân loại ở ngoài nó.

Trong kiếp sống của nó có điều không vượt qua nổi.

Nó là ai? Một kẻ có quyền thế ư? Không. Vì nó là một huân tước. Nó là ai? Một huân tước ư? Không. Vì nó là một kẻ nổi loạn. Nó là Người-Mang-lại-ánh-sáng, là kẻ phá đám đáng sợ. Nó không phải quỷ Sa-tăng, đúng, nhưng nó là Luxife. Nó đến với một hình ảnh ghê rợn, tay cầm bó đuốc.

Ghê rợn đối với ai? Với những người ghê rợn. Đúng. Hãi hùng cho ai? Cho những kẻ gieo rắc hãi hùng. Vì vậy mà họ gạt bỏ nó. Nhảy vào hàng ngũ họ ư? Được chấp nhận ư? Không bao giờ. Chướng ngại vật trên mặt nó thật khủng khiếp, những chướng ngại vật trong tư tưởng của nó còn khó vượt qua hơn nữa. Lời nói của nó còn quái dị hơn khuôn mặt của nó. Nó nghĩ rằng không thể nào có một tư tưởng ở cái thế giới của những kẻ cao sang và quyền thế này, cái thế giới mà một định mệnh đã khiến nó phải sinh ra, và một định mệnh khác lại buộc nó phải lìa khỏi. Giữa mọi người và bộ mặt của nó, có một cái mặt nạ, còn giữa xã hội và đầu óc nó, có một bức tường thành. Lăn lộn từ tuổi thơ ấu, làm nghề xiếc rong, giữa môi trường rộng lớn, vững chắc và đầy sức sống gọi là quần chúng, luôn luôn no nê trong sức hút của đám đông, tắm mình trong tâm hồn nhân loại bao la, nó đã mất, nhờ có lương tri của mọi người, cái ý niệm riêng biệt của những tầng lớp trên cùng. Ở trên, nó không thể. Nó từ dưới giếng Chân-lý lên, ướt sũng. Toàn thân sực mùi hôi thối của vực sâu. Nó làm cho những bậc vương hầu kia, xức toàn giả dối, phải ghê tởm. Kẻ nào sống bằng giả dối, đều cho chân lý là thối tha. Kẻ nào khát khao nịnh bợ thì lại nôn mửa ra cái thực tế đã vô tình uống phải. Điều mà nó, Guynplên, mang đến không được lịch sự lắm. Đấy là cái gì? Lý trí, hiền đức, công lý. Người ta ghê tởm gạt bỏ nó.

Ở đấy đã có những vị giám mục. Nó mang Chúa trời đến cho họ. "Tên lạ mặt ấy là đứa nào?"

Những cực tận cùng bao giờ cũng đẩy nhau, không thể nào dung hoà nhau. Thiếu hẳn sự chuyển tiếp. Ta đã thấy, không có kết quả nào khác một tiếng thét giận dữ. Sự đối diện khủng khiếp, toàn bộ khốn khổ tập trung vào một con người, mặt đối mặt với toàn bộ kiêu ngạo tập trung trong một đẳng cấp.

Buộc tội cũng vô ích. Nhận xét là đủ rồi. Trong cuộc trầm tư mặc tưởng bên bờ số phận của mình, Guynplên nhận thấy cố gắng của mình thật quá ư vô ích. Nó nhận thấy cái bệnh điếc của tầng lớp cao sang, những kẻ được ưu tiên ưu đãi làm gì có tai bên phía những người thiệt thòi xấu số. Than ôi! Đấy là quy luật của họ. Hãy tha thứ cho họ. Xúc động sẽ là quy hàng. Không nên trông chờ gì hết ở những nơi công hầu khanh tướng. Người thoả mãn là người khắc nghiệt. Đối với kẻ no say làm gì có ai đói khát. Những kẻ sung sướng đều không từng biết, và đừng tách ra, ở ngưỡng cửa thiên đường của họ cũng như ở ngưỡng cửa địa ngục, phải viết: "Bỏ lại đây mọi điều ước vọng".

Guynplên vừa thấy trước cảnh đón tiếp một bóng ma bước vào nơi thần thánh ngự trị.

Đến đây, tất cả những gì trong nó đều trỗi dậy.

Không, nó không phải là bóng ma, nó là một con người.

Nó đã nói, với họ điều ấy, nó đã hét to với họ điều ấy, nó là Con Người.

Nó không phải là ma. Nó là xương, là thịt biết rung động. Nó có khối óc, và nó đang suy nghĩ; nó có một trái tim, và nó đang yêu thương; nó có một tâm hồn và nó đang hy vọng. Hy vọng quá nhiều, có thể nói tất cả tội lỗi của nó là ở đấy nữa.

Than ôi! Nó đã quá hy vọng đến nỗi tin vào cái vật sáng ngời và tối tăm là xã hội. Trước kia nó chỉ đứng ngoài, nay nó đã trở về giữa lòng xã hội. Xã hội đã cấp tốc, tức thì, cùng một lúc, có ba món quà và cho nó ba tặng phẩm, hôn nhân, gia đình, đẳng cấp. Hôn nhân ư? Nó đã thấy dâm loạn trên ngưỡng cửa. Gia đình ư? Anh nó đã tát nó và đang lăm lăm thanh kiếm chờ nó ngày mai. Đẳng cấp ư? Đẳng cấp vừa cười hô hố vào mặt nó, một quý tộc, một người cùng khổ. Nó hầu như bị hắt hủi trước cả khi được thừa nhận. Và ba bước chân đầu tiên nó vừa đặt vào bóng tối sâu thẳm của xã hội đã mở ra dưới chân nó ba vực thẳm. Và tai họa của nó đã bắt đầu bằng một sự thay hình đổi dạng phản bội. Thảm họa ấy đã đến với nó bằng bộ mặt tôn sùng! Bước lên! Lại có nghĩa là: Đi xuống!

Nó là một thứ phản diện của Jôb[169]. Bất hạnh đã đến với nó bằng cảnh hưng vượng.

Ôi, bí ẩn bi đát của con người! Ra đó là những cạm bẫy! Lúc còn trẻ thơ, nó đã chống chọi với đêm tối, và nó đã mạnh hơn đêm tối. Lúc trưởng thành, nó đã chống chọi với số kiếp và nó đã quật ngã số kiếp. Từ xấu xí, nó đã làm cho nó thành sáng chói, và từ bất hạnh thành sung sướng. Từ cảnh lưu đày, nó đã làm thành chỗ nương thân. Lang thang, nó đã chiến đấu chống lại không gian, và, cũng như chim trời, nó đã tìm được miếng bánh để no lòng. Man rợ và cô độc, nó đã tranh đấu với quần chúng, và đã biến đám đông thành bạn hữu. Là lực sĩ, nó đã chiến đấu chống lại con sư tử nhân dân và đã thuần hóa được nó. Nghèo khổ, nó đã chiến đấu chống lại sự khốn cùng, nó đã nhìn thẳng vào sự cần thiết buồn thảm phải sống, và do luôn luôn hoà hợp khốn cùng với mọi niềm vui trong lòng, nó đã biến mình thành kẻ chiến thắng trên đời. Thình lình những sức mạnh mới, từ tận cùng vô định, đã đến chống lại nó, không phải bằng hăm dọa nữa, mà bằng những vuốt ve và những nụ cười. Là người chỉ biết tình yêu trong sáng thần tiên, thì tình yêu ác nghiệt vật chất đã đến với nó. Vốn sống bằng lý tưởng thì xác thịt lại tóm chặt lấy nó.

Nó đã được nghe những lời nói khát khao nhục dục yhệt những tiếng gào điên loạn, nó đã được biết những cánh tay đàn bà ghì chặt như rắn quấn; sau cảnh chói loà rực rỡ của cái thật tiếp đến cảnh cám dỗ của cái giả dối, vì chính tâm hồn mới là thực tế chứ đâu phải xác thịt. Xác thịt là tro tàn, tâm hồn là ngọn lửa. Thay thế cho nhóm người nó quan hệ họ hàng với nó bằng nghèo khổ và lao động, vốn là thứ gia đình xã hội, thứgia đình của dòng máu, những thứ máu pha trộn, và ngay cả trước lúc bước vào đấy, nó đã phải mãi đối mặt với viễn cảnh một vụ anh em giết nhau. Than ôi! Nó để mặc cho người ta sắp xếp lại vào trong cái xã hội mà Brăngtôm- nó không được đọc ông này- đã nói: Con trai có thể chính đáng gọi bố ra đấu kiếm. Số kiếp tiền đình đã quát vào mặt nó: mày không phải là quần chúng, mày thuộc tầng lớp tinh hoa ưu tú và đã mở ra trên đầu nó, như một cái bẫy sập trên trời, lớp trần xã hội, và đã hất nó qua cái cửa đó, đã bắt nó xuất hiện, bất ngờ, dữ tợn, giữa đám công hầu vương giả.

Bỗng dưng, xung quanh nó, đáng lẽ là cảnh nhân dân vỗ tay hoan hô, nó lại thấy cảnh quý tộc nguyền rủa nó. Một biến đổi bi đát. Một kiểu lớn lên nhục nhã. Một cảnh chiếm đoạt đột ngột tất cả những gì là diễm phúc của nó! Một chuyện cướp đoạt cuộc đời của nó bằng lối la ó!

Một kiểu xâu xé Guynplên, Clăngsacli, vị huân tước, tên hát rong, số kiếp trước đây, số kiếp mới được, bằng mỏ của tất cả những con diều hâu ấy!

Cần gì phải bắt đầu ngay cuộc đời bằng việc chiến thắng chướng ngại vật? Cần gì phải thắng trước? Than ôi! Phải bị xô ngã, nếu không số kiếp chưa gọi là trọn vẹn đầy đủ.

Cho nên, nửa miễn cưỡng, nửa ưng thuận, vì sau viên thiết trượng, nó đã gặp phải Backinphêdrô, và trong vụ bắt có nó có sự thoả thuận; nó đã bỏ mồi để bắt bóng, buông cái thật để chụp cái giả, bỏ Đêa để bắt Giôzian, bỏ tình yêu để bắt cái kiêu ngạo, bỏ tự do để bắt quyền lực, bỏ lao động tự hào và nghèo khổ để bắt cái giàu sang đầy trách nhiệm đen tối, bỏ bóng tối có Chúa để bắt cảnh lửa rực đầy ma quỷ, bỏ thiên đường để lấy Thần Sơn.

Nó đã cắn vào quả vàng. Nó khạc ra tro than.

Kết quả thật thảm thương. Thất bại, phá sản, sa ngã và đổ nát, gạt bỏ một cách láo xược tất cả những hy vọng bị thoá mạ bằng tiếng cười và chế giễu, một cảnh vỡ mộng khác thường. Và ta nay làm gì đây? Nếu nhìn vào ngày mai, nó trông thấy gì? Một lưỡi kiếm tuốt trần, mũi ngay trước ngực, đốc trong tay anh nó. Nó chỉ nhìn thấy ánh chớp ghê tởm của thanh kiếm. Còn lại, Giôzian, nghị viện nguyên lão, đều ở phía sau, trong một ánh sáng mờ ảo kỳ quái đầy những hình dáng bi đát.

Và thằng anh ấy, lại có vẻ hiệp sĩ và dũng cảm!

Than ôi! Tên Tom-Jim-Jack đã bênh vực Guynplên kia, tên huân tước Đêvit đã bênh vực huân tước Clăngsacli kia, nó chỉ một thoáng thấy mặt, nó chỉ vừa kịp bị hắn tát và yêu quý hắn.

Biết bao điều trĩu nặng!

Giờ đây, không thể nào đi xa hơn nữa. Sụp đổ từ mọi phía. Và lại để làm gì? Thật ra, tất cả các công khó chung quy đều là thất vọng.

Thử thách đã xong, không phải để bắt đầu lại nữa.

Guynplên như một tay cờ bạc đã lần lượt đánh hết chủ bài. Nó đã bị lôi cuốn vào cái sòng đổ bác tai hại.

Không biết đích xác việc mình làm, vì sự đầu độc tinh vi của ác mộng thường như vậy, nó đã đem Đêa ra đặt để mong ăn Giôzian; nó đã được một con quái vật. Nó đã đem Uyêcxuyt ra đặt để mong lấy một gia đình, nó đã nhận được sỉ nhục. Nó đã đem cái sân khấu hát rong ra đặt để lấy một cái ghế huân tước; trước nó vẫn được hoan hô, bây giờ nó đã nhận được chửi rủa. Lá bài cuối cùng của nó vừa rơi xuống tấm thảm xanh tiền định của bãi chợ vắng lặng. Guynplên đã thua rồi. Nó chỉ còn mỗi việc chi tiền. Chi đi, đồ khốn khiếp!

Người bị sét đánh thường ít cử động, Guynplên đang đứng im. Giá có ai đứng từ xa, trông thấy nó cứng đờ không cử động, trong bóng tối đó, bên mép lan can, thì đã tưởng mình nhìn thấy một tảng đá đứng.

Địa ngục, con rắn và mơ màng thường cuốn tròn mình lại. Guynplên đang lần bước theo những đường xoắn ốc ma quái của trầm tư.

Cái xã hội nó vừa thoáng thấy đấy, nó đang đem ra cân nhắc với con mắt lạnh lùng quyết định. Hôn nhân nhưng không có tình yêu; gia đình nhưng thiếu tình huynh đệ; giàu sang nhưng không có lương tâm; sắc đẹp nhưng không biết thẹn thùng; công lý nhưng không có công tâm; trật tự nhưng không có công bằng; quyền lực nhưng không có trí tuệ; ưu thế nhưng không có quyền hành; huy hoàng nhưng không có ánh sáng. Bảng cân đối khắc nghiệt thật. Nó xem xét hết mọi mặt của cái hình ảnh tối hậu ấy, nơi mà tư tưởng nó đang bị chìm đắm. Nó lần lượt xem xét vận mệnh, hoàn cảnh, xã hội và bản thân. Vận mệnh là gì? Một cái bẫy. Hoàn cảnh, một nỗi thất vọng. Xã hội, một mối hận thù. Còn bản thân, một kẻ bại trận. Và trong thâm tâm nó thốt lên: Xã hội là dì ghẻ. Thiên nhiên là mẹ hiền. Xã hội là thế giới của thể xác, thiên nhiên là thế giới của tâm hồn.

Một bên dẫn tới quan tài, tới cái hòm gỗ thông dưới huyệt, tới những con giun, và kết thúc ở đấy. Một bên dẫn đến những đôi cánh mở rộng, đến sự biến đổi trong ánh bình minh, đến cảnh bay bổng giữa trời xanh, và lại bất đầu từ đó.

Dần dần nó đạt đến điểm tột cùng. Một cơn lốc nguy hại. Những vật sắp tàn thường loé sáng lần cuối cùng, nhờ đó người ta nhìn thấy lại tất cả.

Kẻ nào phán xét, kẻ ấy đối chiếu. Guynplên đem so sánh những gì xã hội làm cho nó và những gì thiên nhiên làm cho nó. Thiên nhiên đã tốt với nó biết chừng nào! Thiên nhiên là tâm hồn, thiên nhiên đã cứu giúp nó rất nhiều lần. Nó đã mất tất cả, tất cả, cho đến bộ mặt, tâm hồn đã trả lại cho nó tất cả. Tất cả, kể cả bộ mặt; vì dưới trần này có một nàng tiên mù, được sinh ra dành riêng cho nó, đã không nhìn thấy cái xấu của nó, và lại thấy cái đẹp của nó.

Vậy mà nó đã để phải xa lìa điều đó! Vậy mà con người đáng yêu ấy, trái tim ấy, tình nghĩa phụ ấy, tình âu yếm ấy, đôi mắt mù thiên thần ấy, đôi mắt duy nhất trên đời nhìn thấy nó! Nó đã nỡ rời bỏ! Đêa là em gái của nó; vì nó cảm thấy giữa nàng và nó có mối tình huynh đệ của trời xanh, điều bí mật này chứa đựng cả bầu trời lộng. Khi nó còn nhỏ, Đêa là cô em trinh bạch; vì đứa bé nào cũng có một cô em gái trong trắng cả, và cuộc đời bao giờ cũng bắt nguồn bằng một tình hoàn mỹ của những tâm hồn hoàn toàn ngây thơ, giữa hai trẻ nhỏ trong trắng chẳng biết gì. Đêa là vợ của nó, vì cả hai vẫn sống chung một tổ trên cành cao nhất của cây Tơ hồng kín đáo. Hơn thế nữa, Đêa là ánh sáng của nó, thiếu Đêa tất cả đều là hư ảo, trống rỗng, và nó thấy mái tóc Đêa là cả một trời ánh sáng. Thiếu Đêa thì sẽ ra sao? làm gì với tất cả những gì là nó? Thiếu Đêa, không một thứ gì của nó sống nổi. Vậy làm sao nó lại có thể trong một lúc nào đó để mất Đêa. Ôi! Bất hạnh! Giữa vì sao sáng của nó và nó, nó đã để có một quãng cách, và trong những bước xoay vần đáng sợ không hay biết đó, quãng cách đã tức thì trở thành vực thẳm.Vì sao ấy đâu rồi? Đêa! Đêa! Đêa! Than ôi! Nó đã mất ánh sáng của nó rồi. Cất mất tinh cầu, thì bầu trời là gì? Một khối đem ngòm.

Nhưng tại sao tất cả những thứ đó lại ra đi? Ôi! Trước đây nó hạnh phúc biết bao! Chúa đã tái tạo địa đàng cho nó; một cách quá mức nữa. Hỡi ôi, quá mức đến nỗi để cả con rắn trở về! Nhưng lần này kẻ bị cám dỗ là người đàn ông. Nó bị lôi cuốn ra ngoài, và ở đấy, cái bẫy thật dễ sợ, nó đã ngã vào trong đống hỗn loạn của những tiếng cười đen tối là địa ngục. Tai họa! Tai họa! Tất cả những gì đã cám dỗ nó sao mà khủng khiếp thế. Con vật, nửa tiên nga! Lúc này Guynplên đang ở bên cái điểm cao của nó và đang nhìn thấy phía bên kia cảnh chói lòa của nó. Thật là buồn thảm. Cái lãnh địa ấy thật rùng rợn, mũ miện ấy thật gớm giếc, tấm áo đỏ ấy thật rùng rợn, những cung điện ấy thật nguy hiểm, những chiến tích ấy, những bức tượng ấy, những huy hiệu ấy, thật mờ ám, không khí độc hại và giả dối mà người ta hít thở đấy khiến ta phát điên. Ôi! Những manh áo rách của tên hát rong Guynplên lại là những thứ sáng chói. Ôi! Còn đâu là Hộp Xanh, còn đâu cảnh chia ngọt xẻ bùi, còn đâu cuộc đời nayđây mai đó với Đêa như những cánh én? Không một phút rời nhau, lúc nào cũng nhìn thấy nhau, sáng chiều cùng ngồi ăn, ẩy khuỷu tay, chạm đầu gối, cùng uống chung cốc, mặt trời xuyên qua cửa mái, nhưng nó chỉ là mặt trời và Đêa là tình yêu.

Đêa đêm nằm ngủ mà vẫn cảm thấy không xa cách nhau, giấc mơ của Đêa hạ cánh trên người Guynplên và giấc mơ của Guynplên bí mật đến nở hoa trên đầu Đêa. Tỉnh dậy vẫn không chắc là đã không trao đổi những chiếc hôn trong mây xanh của giấc mộng. Tất cả ngây thơ trong trắng Đêa đều có, tất cả đức độ khôn ngoan Uyêcxuyt đều có. Lần mò hết trấn nọ đến thành kia, lấy niềm vui thành thật đầy thương mến của nhân dân làm lộ phí ăn đường và thuốc bổ. Họ là những thiên thần lang thang, có đủ lòng nhân ái để đi dưới trần gian, nhưng không đủ cánh để bay bổng. Thế mà bây giờ, biến mất! Tất cả những thứ ấy bây giờ đâu rồi? Lẽ nào tất cả đều bị xóa sạch! Ngọn gió tha ma nào đã thổi qua? Thế là bị che khuất! Thế là mất hết! Than ôi, cái quyền uy mù điếc đè nặng lên những người nhỏ bé, sử dụng toàn bộ bóng tối, và có khả năng làm tất cả! Người ta đã làm gì họ? Thế mà nó, nó lại không có mặt ở đấy để che chở họ, để ngăn chặn, để bênh vực, lấy tư cách là huân tước, với danh vị của nó, quyền lãnh chúa của nó và thanh kiếm của nó, lấy tư cách là người hát rong, với nắm tay và móng tay của nó! Đến đây chợt nảy ra một ý nghĩ chua chát hơn hết, ấy thế mà không, nó lại không thể bênh vực họ! Chính nó đã làm cho họ lâm vào cảnh đau khổ. Chính để tránh cho nó, cho huân tước Clăngsacli khỏi gặp họ, chính để cô lập cái cương vị của nó cho họ khỏi đến gần mà cái quyền vạn năng đê tiện của xã hội đã đày đọa họ. Đối với nó, cách tốt nhất để bảo vệ họ là biến nốt, người ta sẽ để họ ở yên. Đấy là cái cửa lạnh lẽo để tư tưởng nó bước vào. Ôi! Tại sao nó lại để cho phải chia cách với Đêa? Nhiệm vụ đầu tiên của nó há không phải là đối với Đêa sao? Phục vụ và bênh vực nhân dân ư? Thì Đêa chính là nhân dân! Đêa, chính là cô gái mồ côi, là cô gái mù lòa, là nhân loại! Ôi! Người ta đã làm gì Đêa? Đây là nỗi nhức nhối tàn nhẫn của hối tiếc! Việc nó vắng mặt đã để cho tai họa tự do hoành hành. Lẽ ra nó phải chia sẻ số phận của họ. Hoặc phải dẫn họ cùng đi, hoặc phải chịu chìm ngập cùng với họ. Giờ đây không có họ thì sẽ ra sao? Guynplên mà không có Đêa, lẽ nào lại thế? Thiếu Đêa là thiếu tất cả! Ôi! Thế là hết, Nhóm người thân thương ấy đã mãi mãi bị chôn vùi trong cảnh tan biến không phương cứu vãn. Tất cả như vậy là không còn gì nữa. Vả lại, bị xử phạt và bị đày đọa như Guynplên, thì tranh đấu lâu hơn nữa để làm gì? Chẳng còn gì nữa để mà chờ đợi ở con người cũng như ở trời cao.

Đêa! Đêa! Đêa ở đâu? Mất rồi! Sao? Mất rồi? Kẻ nào đã mất linh hồn thì chỉ còn mỗi một chỗ để tìm thấy lại linh hồn, đấy là cái chết.

Guynplên nhớn nhác và thảm hại chống chắc bàn tay lên lan can như lên một giải pháp, và đưa mắt nhìn dòng sông.

Đây là đêm thứ ba nó không ngủ. Người sốt hầm hập, ý nghĩ rối bời, vậy mà nó tưởng là sáng suốt. Nó cảm thấy buồn ngủ quá thể. Nó đứng như thế hồi lâu, nghiêng mình trên dòng nước, bóng tối dành cho nó cả chiếc giường to yên tĩnh, cả cái cảnh mênh mông của tăm tối. Cám dỗ ghê rợn. Nó cởi áo ngoài ra, gập lại, đặt lên lan can. Đoạn nó cởi khuy áo gi-lê. Nó đang định bỏ gi-lê ra thì bàn tay chạm phải một vật gì trong túi. Đấy là quyển sổ đỏ mà viên thủ thư nghị viện nguyên lão đã giao cho nó. Nó rút quyển sổ ra khỏi túi, ngắm nghía qua ánh sáng lờ mờ của trời đêm. Thấy có cây bút chì, nó cầm lấy, viết lên trang trong đầu tiên hai dòng sau đây:

"Tôi ra đi. Mong rằng Đêvli, anh tôi, sẽ thay thế tôi và được hạnh phúc". Và nó ký: Fecmên Clăngsacli, nguyên lão nghị viện Anh quốc.

Đoạn nó cởi gi-lê ra, đặt lên trên chiếc áo ngoài. Nó bỏ mũ xuống, đặt lên trên gi-lê. Nó để vào trong mũ quyển sổ đỏ mở đúng trang vừa viết. Thấy dưới đất có hòn gạch, nó nhặt lên bỏ vào mũ.

Xong đâu đấy, nó ngước nhìn bóng tối mênh mông trên đầu. Rồi đầu nó cứ cúi dần dần như bị sợi dây vô hình của vực thẳm kéo xuống.

Lớp đá móng lan can có một cái lỗ, nó đặt một chân vào đấy, thành thử đầu gối nó cao hơn một lan can, và gần như không khó nhọc gì nếu muốn bước qua.

Nó chắp tay sau lưng, nghiêng mình xuống và nói:

- Thế là hết!

Nó chằm chằm nhìn dòng nước sâu.

Vừa lúc ấy nó cảm thấy một cái lưỡi liếm vào tay.

Nó rùng mình ngoảnh lại.

Chính Ômô đang đứng sau lưng nó.

Phần kết : BIỂN CẢ VÀ TRỜI ĐÊM

1. CHÓ GIỮ NHÀ CÓ THỂ LÀ THIÊN THẦN HỘ MỆNH

Guynplên rú lên:

- Mày đấy à sói!

Ômô vẫy vẫy đuôi. Mắt long lanh trong bóng tối, nó nhìn Guynplên rồi liếm vào tay. Guynplên đứng lặng hồi lâu như người say rượu. Nó đang trải qua giây phút rung động khi hy vọng tràn trề quay lại. Ômô là một xuất hiện hết sức lạ lùng! Từ bốn mươi tám giờ đồng hồ, nó đã nếm hết những gì có thể gọi là một hình thái của tai họa bất ngờ; chỉ trừ mỗi bất ngờ của mừng vui. Chính cái đó vừa giáng xuống đầu nó. Điều chắc chắn nắm bắt lại được, hay ít nhất cái ánh sáng dẫn đến đó, sự can thiệp thình lình của lòng khoan dung bí mật nào đó có lẽ nằm trong vận mệnh, cuộc đời bảo rằng: ta đây! Ở chỗ tối tăm nhất của mộ địa, vào giây phút không còn trông mong gì nữa, đột ngột phác ra viễn cảnh bình phục và giải thoát, một cái gì như điểm tựa vớ lại được lúc nguy ngập nhất của sụp đổ. Ômô là tất cả những cái ấy. Guynplên nhìn thấy con sói trong ánh sáng. Trong khi ấy, Ômô đã ngoảnh đi. Nó bước vài bước rồi nhìn lại phía sau, như muốn xem Guynplên có theo sau không. Guynplên liền cất bước đi theo. Ômô ngoe nguẩy đuôi đi tiếp.

Con sói lần theo dốc bến Epfrôcxtôn. Dốc này dẫn đến bờ sông Tami. Guynplên theo Ômô xuống dốc. Chốc chốc Ômô lại ngoảnh đầu lại để được yên tâm rằng Guynplên vẫn theo sau.

Trong một số trường hợp quyết định, không gì giống một trí khôn hiểu biết mọi sự như bản năng đơn thuần của một con thú biết yêu thương. Thú vật là một kẻ mộng du sáng suốt. Có những trường hợp chó thấy cần phải theo chủ, lại có những trường hợp nó thấy cần đi trước chủ. Thế là con vật nắm quyền chỉ huy trí tuệ. Tài đánh hơi không lầm lẫn nhìn thấy một cách hỗn độn trong cảnh tranh tối tranh sáng của chúng ta. Con vật mơ hồ thấy cần phải làm kẻ dẫn đường. Nó có biết là có một bước khó khăn, và phải giúp đỡ con người vượt qua không? Có thể là không. Có thể là có. Trong mọi trường hợp, có một kẻ nàođó biết hộ nó; chúng tôi đã nói, trong cuộc đời nhiều khi những sự cứu trợ quý hóa tưởng như từ dưới lên lại hóa ra từ trên xuống. Người ta không hiểu hết được Chúa. Con vật kia là gì? Là thượng đế.

Đến bờ sông, con sói cứ đi xuôi trên giải đất dọc sông Tami.

Nó không kêu, không sủa, cứ lẳng lặng bước. Ômô luôn luôn tuân theo bản năng và làm tròn bổn phận, nhưng vẫn có cái nét thận trọng trầm tư của kẻ bị trục xuất.

Đi được quãng năm mươi bước, nó đứng lại. Một chiếc cầu nổi nhô ra bên phải. Cuối cầu, một thứ bến kiểu nhà sàn, thấp thoáng một khối đen ngòm, đấy là một chiếc thuyền khá to. Trên boong thuyền, phía đàng mũi, có chút ánh sáng tù mù, giống như một ngọn đèn chong sắp tắt.

Con sói nhìn cho yên bụng lần cuối cùng rằng Guynplên vẫn đấy, rồi nhảy lên chiếc cầu nối, một thứ hành lang lót ván và rải nhựa, được một loại gỗ thưa chống đỡ, bên dưới thấy rõ nước sông chảy. Chỉ lát sau, Ômô và Guynplên đã đến mũi cầu.

Chiếc thuyền neo ở đầu cầu thuộc loại thuyền bầu Hà Lan. Hai sân thượng thấp lè tè, một ở phía trước, một ở phía sau, giữa hai sân có một khoang sâu lộ thiên theo kiểu Nhật Bản, đi xuống bằng một cái thang hẹp và chất đầy những kiện hàng. Như vậy là thành hai sân, một đàng mũi, một đàng lái, như những tàu thương chính ngày xưa trên sông của chúng ta, với một quãng trũng ở giữa. Hàng chuyên chở chất đầy khoang trũng. Những chiếc thuyền giấy trẻ con chơi cũng gần giống hình dáng đó. Dưới hai sân là những buồng con có cửa thông với khoang giữa, và lấy ánh sáng qua những cửa tròn khoét ở cạp thuyền. Lúc bốc xếp người ta để chừa lối đi giữa các kiện hàng. Hai cột buồm của loại thuyền bầu này đứng trên hai sân thuyền. Cột buồm mũi tên là Pôn, cột buồm lái tên là Pie, con thuyền được hai cột buồm dìu dắt cũng như giáo hội, nhờ hai đấng tông đồ. Một chiếc cầu con làm nhiệm vụ cầu tầu đi từ mũi đến lái, từ sân nọ sang sân kia, như một thứ cầu khỉ bên trên khoang giữa. Gặp thời tiết xấu, hai thành cầu hạ xuống bên phải và bên trái nhờ một cấu tạo máy móc, thế là được một cái mái trên khoang rỗng, thành thử lúc sóng to gió lớn thuyền kín như bưng. Loại thuyền này rất nặng nề, có một sà gỗ, dùng làm đòn lái, sức bánh lái phải tương xứng với trọng tải của thuyền. Ba người, chủ thuyền và hai trai bạn, thêm một thủy thủ nhóc, để dùng điều khiển những cái của vượt biển nặng nề ấy.

Như chúng tôi đã nói, sân trước và sân sau thuyền bầu đều không có lan can. Chiếc thuyền bầu này là một cái vỏ rộng, phình ở giữa, đen ngòm, trên có mấy chữ trắng rất rõ, trong đêm tối: Vôgrat, Rôtecđam.

Thời kỳ ấy, nhiều biến cố linh tinh trên biển và vừa mớiđây, tai nạn tám chiếc tàu của nam tước Poăngti tại mũi Cacnêrô, trong lúc ép toàn bộ hạm đội Pháp phải lui về Gibranta, đã quét sạch biển Măng-sơ và tảo thanh hết một chiến thuyền trên con đườngg từ Luân Đôn đến Rôtecđam, nhờ vậy các thương thuyền đi lại không phải hộ tống.

Chiếc thuyền trên có chữ Vôgrat, mà Guynplên lần được đến nơi, áp sát vào cầu nổi bằng mạn trái của sân lái gần ngang với mặt cầu. Y như một bực lên xuống.

Ômô nhảy một cái, và Guynplên bước một bước là đã ở trên thuyền. Cả hai đứng trên boong sau. Boong tàu vắng vẻ và không thấy động tĩnh gì hết, hành khách nếu có, và rất có thể, đều đã lên thuyền vì thuyền sắp rời bến và hàng hóa đã xếp xong, nhìn khoang trống đầy ắp ngổn ngang thùng, bịch, cũng thấy rõ. Nhưng cho là họ đã đi nằm và hẳn đã ngủ yên trong những buồng của sân giữa, phía dưới các sân thượng, vì thuyền phải đi suốt đêm. Như vậy thì sáng mai ngủ dậy, hành khách mới xuất hiện trên boong. Còn trai bạn, có lẽ đang vừa ăn tối vừa chờ giờ khởi hành sắp đến trong căn buồng xép hồi ấy vẫn gọi là buồng thuỷ thủ. Vì vậy mà boong lái và boong mũi nối liền bằng chiếc cầu khỉ đều vắng ngắt.

Lúc ở trên cầu nổi, con sói gần như chạy; bây giờ trên thuyền nó lại bước thong thả như có ý thận trọng. Nó ve vẩy đuôi không phải vì mừng vui nữa, mà chỉ đung đưa khẽ và buồn bã như tuồng lo lắng. Vẫn luôn luôn dẫn đầu Guynplên, nó đi hết sân thượng phía sau lại và đi qua chiếc cầu khỉ. Bước lên chiếc cầu con, Guynplên thấy trước mặt có chút ánh sáng tù mù. Đấy là chút ánh sáng nó đã trông thấy từ trên bờ. Một chiếc đèn kính đặt ở mặt sàn, chỗ chân cột buồm trước; trên nền tối của trời đêm ánh đèn cắt thành khối đen một hình dáng có bốn bánh.

Guynplên nhận ra ngay chiếc xe cổ lỗ của Uêcxuyt.

Chiếc nhà gỗ tồi tàn vừa là xe vừa là lều ấy, nơi tuổi thơ của nó đã trải qua, được buộc vào chân cột buồm bằng những sợi thừng to, nhìn qua bánh xe cũng thấy rõ các đầu nút buộc. Sau khi trở thành vô dụng một thời gian lâu, nó hoàn toàn ọp ẹp; không gì huỷ hoại con người và đồ vật bằng cảnh ăn không ngồi rồi; nó xiên vẹo đến thảm hại. Do không còn thích hợp, nó đâm ra quặt quẹo và hơn nữa nó mắc cái chứng nan y là bệnh già. Bóng dáng dị hình và mọt ruỗng của nó khuỵu xuống nom thật điêu tàn. Tất cả những vật liệu làm nên nó có vẻ hỏng hết, sắt thì gỉ, da thì nứt rạn, gỗ thì mục nát. Những vết rạn rạch ngang lớp kính phía trước để lọt một tia sáng của ngọn đèn. Bánh xe xiêu vẹo. Thành xe, sàn xe, trụ xe dường như quá mệt mỏi, toàn bộ có một vẻ gì như đau khổ, van xin. Hai đầu càng nhọn vểnh cao giống hai cánh tay giơ lên trời. Toàn bộ cái xe đều long lở. Bên dưới thấy lòng thòng sợi xích của Ômô.

Tìm thấy lại cuộc đời của mình, hạnh phúc của mình, tình yêu của mình, cuống quít chạy đến, nhảy bổ vào, hình như đấy là quy luật và thiên nhiên cũng muốn như vậy. Phải, trừ những trường hợp rung động sâu sắc.

Kẻ nào vừa thoát khỏi, đầy xúc cảm và hoàn toàn mất phương hướng, một loạt tai họa như những việc phản bội, thường thận trọng, ngay cả trong niềm vui; họ sợ đêm định mệnh của họ đến gieo cho những người họ yêu thương, họ tự cảm thấy là con người buồn thảm có bệnh truyền nhiễm. Thiên đường mở lại; trước lúc bước vào đấy người ta phải quan sát đã.

Lảo đảo vì xúc động, Guynplên đứng nhìn hồi lâu.

Con sói đã lẳng lặng đến nằm bên sợi xích.

2. BACKINPHÊDRÔ NHẮM CHIM ƯNG NHƯNG LẠI BẮN TRÚNG BỒ CÂU.

Bực lên xuống của chiếc xe lưu động đã hạ xuống; cánh cửa mở hé; bên trong chẳng có ai; chút ít ánh sáng lọt qua tấm kính phía trước chập chờn lượn theo phía trong lều tạo thành một cảnh tranh tối tranh sáng ảm đạm. Những dòng chữ ghi của Uyêcxuyt ca ngợi sự vĩ đại của các lãnh chúa còn rành rành trên những tấm ván tróc sơn vừa là tường bên ngoài vừa là ván lát bên trong, Guynplên còn thấy móc ở cái đinh cạnh cửa, tấm lá sen và chiếc áo len thuỷ thủ của nó, như những quần áo người chết trong nhà xác. Lúc này, nó không có cả gi-lê, cả áo ngoài. Chiếc xe che khuất một vật gì đó trải dài trên boong ở chân cột buồm và được ngọn đèn kính soi sáng. Đấy là góc một tấm đệm. Trên đệm chắc có người nằm, vì thấy bóng đen cử động.

Có tiếng người nói, Guynplên, bị chiếc xe chắn giữa che khuất, cố lắng tai nghe.

Chính giọng nói của Uyêcxuyt.

Giọng nói ấy, bề ngoài cứng cỏi là thế, bề trong trìu mến là thế, xưa kia đã từng quát mắng và thương yêu dìu dắt Guynplên từ buổi còn thơ giờ đây không còn cái âm thanh trong sáng và sinh động của nó nữa. Trầm trầm, không rõ, và sau một câu, nó lại tan thành tiếng thở dài, nó chỉ mơ hồ giống giọng nói ngày xưa bình dị và quả quyết của Uyêcxuyt. Nó giống giọng nói của một người không còn hạnh phúc. Giọng nói có thể trở thành bóng tối.

Hình như Uyêcxuyt đang nói một mình chứ không phải nói chuyện với một người khác. Vả lại, như ta đã biết, độc thoại là thói quen của ông. Vì vậy mà ông vẫn mang tiếng là người kỳ quặc.

Guynplên nín thở, không để mất một lời nào của Uyêcxuyt và sau đây là nhưng điều nó nghe được:

- Loại tàu này nguy hiểm lắm. Nó không có thành. Gặp lúc biển động mà tròng trành thì chẳng có gì ngăn giữ cả. Nếu có gió to là phải đưa con bé xuống dưới, thế thì dễ sợ lắm. Một động tác vụng về, một cơn sợ hãi, thế là đứt động mạch. Ta đã từng gặp những trường hợp như vậy rồi. Ôi! Lạy Chúa, rồi chúng con sẽ ra sao đây? Con bé có ngủ không? Có. Nó đang ngủ. Ta tin chắc là nó đang ngủ. Nó có mê man không? Không. Mạch nó vẫn đập khá mạnh. Chắc chắn nó ngủ rồi. Ngủ là một thứ án treo. Đó là kiểu mù lòa quý hoá. Làm thế nào để người ta khỏi đến đây dẫm thình lình bây giờ? Các ông ơi, nếu có ông nào trên boong thì tôi van các ông, các ông dừng làm ầm. Nếu không ích gì thì xin các ông đừng đến gần đây. Các ông biết đấy, một sức khoẻ mỏng manh cần được nương nhẹ. Nó đang sốt, các ông có thấy không? Nó còn trẻ măng. Nó là một con bé đang lên cơn sốt. Tôi đã trải tấm đệm này ra ngoài cho nó, để nó hưởng chút ít khí trời. Mình giải thích như thể để người ta lưu ý. Nó nằm vật ra trên đệm vì mệt mỏi, y như người bất tỉnh. Nhưng nó đang ngủ đấy. Ta mong sao người ta đừng làm nó tỉnh giấc. Tôi nói với các bà, nếu có các phu nhân ở đấy. Một đứa con gái, là một cái gì đáng thương. Chúng tôi chỉ là dân hát rong đáng thương, tôi van xin một chút lòng nhân đức, và nếu cần phải trả tiền chút ít để người ta khỏi làm ồn, thì tôi xin trả ngay. Tôi cảm tạ quý bà và quý ông. Có ai đấy không thế? Không. Ta chắc là chẳng có ai. Ta nói hoàn toàn uổng công. Càng hay. Thưa các ông, tôi xin cảm ơn các ông nếu có, và tôi cũng rất cảm ơn nếu các ông không có ở đây. Trán nó ướt đẫm mồ hôi. Thôi, chúng ta hãy quay về với tù ngục, chúng ta lại quàng cái vòng cổ. Khốn cùng đã lại trở về. Chúng ta lại bềnh bồng trôi nổi. Một bàn tay, cái bàn tay khủng khiếp, ta không nhìn thấy nhưng ta luôn luôn cảm thấy nó trên người, đã thình lình xoay chúng ta về phía đen tối của vận mệnh. Được, rồi ta sẽ có đủ can đảm. Có điều không được để nó ốm. Nói to một mình như thế, ta có vẻ như ngớ ngẩn, nhưng phải để cho nó cảm thấy là có người bên cạnh mỗi khi nó tỉnh dậy. Cốt sao người ta đừng làm nó tỉnh giấc một cách đột ngột. Trời ơi; đừng có làm ồn mà. Một chấn động làm nó giật mình là chẳng ra gì. Sẽ rất tai hại nếu họ đi về phía này. Chắc mọi người đang ngủ trong tàu. Ta đội ơn thượng đế về điểm nhân nhượng đó. À, còn Ômô, nó đâu rồi nhỉ? Trong lúc bối rối ta đã quên xích nó, ta làm những gì không biết nữa, đã hơn một tiếng đồng hồ ta không trông thấy nó, hẳn là nó đã tìm ăn tối ở ngoài rồi. Miễn sao nó đừng gặp tai họa! Ômô! Ômô!

Ômô khẽ đập đuôi xuống sàn.

- Mày đấy à! A! Có mày đấy rồi. Đội ơn Chúa! Ômô mà mất thì quá lắm. Con bé đang cử động cánh tay. Có lẽ nó sắp tỉnh dậy. Im đi. Ômô! Nước triều đang xuống. Lát nữa sẽ ra đi. Ta chắc đêm nay bởi sẽ đẹp. Không có gió bắc. Lá cờ đuôi nheo thõng dọc cột buồm, chúng ta sẽ thượng lộ bình an. Không biết hôm nay trăng thế nào. Nhưng mây gần như không chuyển động. Biển không động. Trời đẹp lắm. Con bé xanh quá. Do sức yếu. Nhưng không. Nó đỏ đấy chứ. Do sốt. Không. Nó hồng hào. Nó khỏe đấy. Ta nhìn không rõ nữa. Ômô đáng thương ơi, ta nhìn không rõ nữa. Như vậy là phải bắt đầu lại cuộc đời. Chúng ta sẽ lại bắt tay làm việc. Chỉ còn có hai chúng ta thôi, mày thấy không? Mày với tao, hai ta sẽ làm việc vì nó. Nó là con của chúng ta. A! Tàu đang chuyển động. Ra đi. Vĩnh biệt Luân Đôn! Chúc một tối vui tươi, chúc một đêm ngon giấc.Cút đi?! A! Luân Đôn khủng khiếp!

Đúng là thuyền đang dập dình chuyển động. Đuôi thuyền và cầu nổi đang tách khỏi nhau. Đầu thuyền đàng kia, phía lái một người đứng, chắc hẳn là chủ thuyền, vừa từ trong thuyền đi ra, tháo bỏ dây buộc và đang điều khiển tay lái. Người ấy, chỉ chú ý đến lạch nước, đúng như một kẻ có hai vẻ thờ ơ của người Hà Lan và của thuỷ thủ, chẳng nghe thấy gì và chẳng nhìn thấy gì ngoài gió và nước, gò lăng nên đầu tay lái, lẩn vào bóng tối, thong thả bước trên sàn sau, đi đi lại lại từ mạn phải qua mạn trái, một thứbóng ma với cái xà gỗ trên vai. Chỉ có một mình ông ta trên boong. Còn đi trong sông thì chẳng cần thêm thuỷ thủ nào khác. Chỉ mấy phút thuyền đã trôi theo dòng sông. Nó lặng lẽ trôi xuôi không tròng trành ngang dọc. Sông Tami không có sóng hồi xáo động nên rất lặng lờ. Được nước triều cuốn đi chiếc thuyền lướt rất nhanh. Sau lưng nó, cảnh vật đen ngòm của Luân Đôn cứ nhỏ dần trong màn sương.

Uyêcxuyt vẫn nói một mình:

- Không sao, ta sẽ cho nó uống địa hoàng. Chỉ sợ nó mê sảng thôi. Nó đổ mồ hôi tay. Nhưng chúng ta có lỗi lầm gì đối với Chúa? Tất cả tai họa này sao mà đến nhanh thế. Cái ác vẫn nhanh một cách ghê tởm thế đấy. Một hòn đá rơi xuống, có móng có vuốt, đấy là con diều hâu sà xuống con sơn ca. Đấy là số mệnh. Và thế là con nằm liệt vị, con yêu chiều của bố. Đến Luân Đôn, người ta thường nói đây là một thành phố lớn có những công trình đẹp đẽ. Xaothuak là một ngoại ô có những công trình tuyệt mỹ. Người ta đến sinh cơ lập nghiệp ở đấy. Bây giờ đấy là những nơi khả ố. Các người tính, tôi ở đấy làm gì cơ chứ? Tôi rất sung sướng được ra đi. Hôm nay là ba mươi tháng tư, tôi vẫn luôn luôn nghi ngại cái tháng tư: tháng hai chỉ có hai ngày tốt, ngày 5 và ngày 30. Nhờ những tính toán của Cacđăng, điều ấy không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi chỉ muốn cho ngày hôm nay chóng qua. Đi được là nhẹ người. Tờ mờ sáng chúng tôi sẽ đến Grevơxen và chiều mai đến Rôtecđam. Được rồi, ta sẽ lại bắt đầu cuộc đời ngày trước trong lều, chúng ta sẽ kéo nó nhé Ômô?

Một tiếng đập khẽ biểu thị sự đồng tình của con sói.

Uyêcxuyt nói tiếp:

- Ôi, giá con người có thểthoát khỏi đau khổ như khi rời khỏi một thành phố thì chúng ta còn có thể sung sướng Ômô ạ. Than ôi! Vẫn mãi mãi còn con người đã khuất. Một bóng đen, nó luôn luôn lưu lại trên những người sống sót. Ômô, mày hiểu tao định nói gì chứ. Trước đây chúng ta có bốn người, giờ đây chúng ta chỉ còn ba. Cuộc đời chỉ là một cảnh mất mát trường kỳ những gì ta yêu ta quí. Con người bao giờ cũng để lại sau lưng cả một chuỗi dài đau khổ. Số kiếp khiến chúng ta hoảng hốt vì quá nhiều đau thương không chịu nổi. Thêm vào đó người ta ngạc nhiên thấy người già hay lải nhải. Chính thất vọng sinh ra ngu đần. Ômô trung hậu của ta, gió vẫn thổi xuôi đấy. Hoàn toàn không thấy vòm nhà thờ Thánh Pôn nữa rồi. Chốc nữa ta sẽ di ngang Grinuych. Thế là sẽ được đúng sáu dặm. A! ta mãi mãi ngoảnh lưng lại với những đô thành ghê tởm, đầy dẫy giám mục, quan toà, dân đen ấy.Ta thích nhìn lá rừng xao động hơn. Trán lúc nào cũng đổ mồ hôi! Cánh tay nó có những đường gân xanh mà ta không thích. Do trong người nóng đây mà! A. Tất cả những điều ấy làm ta nát ruột. Ngủ đi con, ờ phải, nó ngủ.

Đến đây, một tiếng nói bỗng nổi lên, một tiếng nói rất khó tả như xa xăm, nửa như từ trời cao, nửa như từ vực thẳm văng tới, não nùng hết sức, đó là giọng nói của Đêa.

Tất cả những gì Guynplên cảm thấy đến giây phút ấy đều không còn nghĩa lý gì nữa. Thiên thần của nó đang cất tiếng. Nó thấy như đang nghe những lời thốt lên ở ngoài cuộc đời và tan biến giữa trời xanh.

Tiếng nói như sau:

- Anh ấy ra đi là đúng. Cõi trần nàyđâu phải là cõi trần của anh ấy. Có điều, con phải đi cùng với anh ấy. Bố ơi, con không ốm đâu, ban nãy con nghe bố nói, con khỏe lắm, con vẫn bình yên, ban nãy con ngủ đấy. Bố ơi, con sắp hạnh phúc rồi.

- Con ơi, - Uyêcxuyt hỏi, giọng đầy lo âu - ý con nói thế là thếnào?

Đêa đáp:

- Bố ơi, bố đừng lo.

Dừng một lúc, như để lấy lại hơi, rồi mấy lời sau đây thốt lên thong thả, vẳng đến tai Guynplên.

- Guynplên không còn nữa. Chính bây giờ mới là lúc con mù. Trước con không biết thế nào là đêm tối. Đêm tối là vắng mặt.

Giọng nói lại dừng, rồi tiếp tục:

- Trước đây con vẫn lo anh ấy bay mất; con vẫn cảm thấy anh ấy là người của tiên giới. Anh ấy đã thình lình vỗ cánh bay đi. Sự việc phải kết thúc như vậy thôi. Tâm hồn phải bay bổng như một cánh chim. Nhưng tổ ấm của tâm hồn lại ở trong một vực sâu, nơi đó có tảng nam châm to thu hút tất cả mọi thứ, và con biết rõ chỗ tìm ra Guynplên rồi. Con không bỡ ngỡ về đường đi của con đâu. Bố ơi, chính là ở đấy. Sau này, bố sẽ đến với chúng con. Và cả Ômô nữa.

Nghe nói đến tên mình, Ômô lại khẽ đập đuôi lên sàn thuyền.

- Bố ơi, - giọng nói tiếp tục- bố thừa hiểu rằng khi Guynplên không còn đấy nữa, là hết chuyện. Con cũng muốn ở lại nhưng con đành chịu, vì con người cần phải thở. Không nên đòi hỏi điều không thể được. Trước đây con có Guynplên thì đơn giản thôi, con vẫn sống. Giờ đây Guynplên không còn đấy nữa, thì con chết. Cũng vẫn thế thôi. Hoặc anh ấy phải trở về, hoặc con phải ra đi. Vì anh ấy không thể trở về, nên con đành ra đi vậy. Chết là rất tốt. Chẳng khó khăn gì hết. Bố ạ, cái gì tắt ở đây thì lại đỏ ở chỗ khác. Sống trên mảnh đất ta đang ở đây, là điều đau khổ. Lẽ nào ta cứ đau khổ mãi. Cho nên cần đi vào chỗ mà bố gọi là muôn sao, ở đấy người ta lấy nhau, người ta không bao giờ rời xa nhau nữa, người ta yêu nhau, yêu nhau mãi mãi, và thế mới gọi là Chúa nhân từ.

- Kìa, con đừng nổi giận chứ! - Uyêcxuyt nói.

Giọng nói lại tiếp tục:

- Chẳng hạn như năm ngoái, dạo mùa xuân năm ngoái, ta cùng sống với nhau, thật là hạnh phúc, so với giờ đây khác biết bao nhiêu. Con không nhớ nữa, hồi ấy chúng ta sống ở một thành phố nhỏ nào đó có nhiều cây cối, con vẫn được nghe tiếng chim bông lau hót. Rồi chúng ta đến Luân Đôn. Thế là thay đổi. Không phải con có ý trách móc đâu. Người ta đến một đất nước, người ta không thể nào biết được. Bố ơi, bố có nhớ không một tối nọ, trong khoang danh dự có một người đàn bà, bố bảo: đó là một nữ công tước! Con rất buồn. Con nghĩ cứ ở những thành phố nhỏ còn hơn. Sau đó Guynplên đã xử sự rất tốt. Bây giờ đến lượt con. Vì chính bố đã kể cho con nghe rằng hồi con còn bé tí, mẹ con đã chết, rằng giữa đêm khuya, con nằm dưới đất mà tuyết vẫn rơi trên mình, rằng anh ấy hồi đó cũng bé tí, cũng chỉ có một thân một mình, anh ấy đã nhặt được con, và chính nhờ vậy mà con được cứu sống, cho nên bố không thể ngạc nhiên về việc hôm nay nhất thiết con phải ra đi và con muốn nhìn xuống mộ xem Guynplên có nằm trong đó không. Bởi vì duy nhất có thật trong cuộc sống là trái tim, và sau cuộc sống là linh hồn. Bố hiểu rõ điều con muốn nói, phải không bố? Cái gì rung chuyển thế bố? Hình như chúng ta đang ở trong một cái nhà rung chuyển thì phải? Nhưng con lại không nghe tiếng bánh xe.

Ngắt quãng một lúc, tiếng nói lại thêm:

- Con không phân biệt được rõ giữa hôm qua và hôm nay. Con không phàn nàn đâu. Con không biết những việc đã xảy ra, nhưng phải có chuyện gì đó.

Tất cả những gì trên đây đều lọt vào tai Guynplên.

Chúng được nói lên một cách hết sức dịu dàng sâu sắc, với một tiếng thở dài, kết thúc như sau:

- Con đành phải đi thôi, trừ phi anh ấy trở về.

Uyêcxuyt ủ ê, khẽ lẩm bẩm:

- Ta không tin chuyện ma quỷ. - Ông lại nói to:

- Đây là một chiếc thuyền. Con hỏi tại sao nhà lại rung rinh, đó là vì chúng ta đang nằm trên một chiếc thuyền. Con cứ nằm yên. Không nên nói nhiều quá. Con ơi, con có thương bố thì con đừng cựa quậy, đừng làm cho nó phát sốt. Già như bố mà cũng không chịu nổi được cái bệnh của con đâu. Con thương bố, con đừng ốm.

Tiếng nói lại bắt đầu:

- Tìm kiếm trên trần có ích gì? Vì chỉ trên trời mới tìm thấy.

Uyêcxuyt đáp, gần như cố lên giọng bề trên:

- Im đi. Nhiều lúc con chẳng thông minh chút nào cả. Bố khuyên con cứ nằm yên. Sau đó, con không cần phải biết gì nữa. Cứ nằm yên là bố yên tâm. Con ạ, con cũng nên làm một việc gì cho bố chứ. Anh nó nhặt được con, nhưng bố cưu mang con. Con cứ làm cho con sinh ốm sinh đau. Như thế là không tốt. Con phải nằm yên và ngủ đi. Rồi mọi việc sẽ tốt lành cả thôi. Bố lấy danh dự mà cam đoan với con là mọi việc sẽ tốt lành. Vả lại hôm nay trời rất đẹp. Cứ y như một đêm dành riêng cho chúng ta. Ngày mai ta sẽ đến Rôtecđam, một thành phố của Hà Lan, trên cửa sông Mơz.

- Bố ơi, - giọng nói lại cất lên, bố thấy không, khi chúng con đã luôn luôn ở bên nhau từ tấm bé, thì không nên đảo lộn, vì như thế thì phải chết, và không có cách nào khác. Con cũng rất yêu bố, nhưng con cảm thấy rõ là con không sống hoàn toàn với bố nữa, mặc dầu con chưa được sống cùng anh ấy.

- Thôi, - Uyêcxuyt cố nài nỉ - con cố ngủ đi.

Tiếng nói đáp:

- Đó không phải là điều con cần phải có đâu.

Uyêcxuyt lại nói, giọng run run:

- Bố bảo với con là chúng ta sang Hà Lan, đến Rôtecđam, một thành phố lớn.

- Bố ạ, - tiếng nói tiếp tục - con không ốm đâu. Nếu điều ấy làm bố ngại thì bố có thể yên tâm, con có sốt đâu, con chỉ hơi ấm đầu tí chút thôi.

Uyêcxuyt ấp úng:

- Trên cửa sông Mơz...

- Con khỏe lắm bố ạ, nhưng bố thấy không, con cảm thấy con đang chết dần dần đây.

- Đừng có nói dại như thế. - Uyêcxuyt bảo. Và ông tiếp thêm:

- Nhất là mong sao nó không bị xúc động mạnh, lạy Chúa tôi!

Một phút yên lặng. Thình lình, Uyêcxuyt hét lên:

- Con làm gì thế. Sao con lại đây? Bố van con, con nằm xuống!

Guynplên giật mình, nhô ngay đầu ra.

3. THIÊN ĐƯỜNG GẶP LẠI DƯỚI TRẦN GIAN

Nó nhìn thấy Đêa. Cô vừa ngồi thẳng người lên trên đệm. Cô mặc một chiếc áo dài khép kín, trắng tinh, chỉ để hở chân cổ và cái giải nhỏ. Tay áo che kín cánh tay, các nếp nhăn phủ lên đôi chân. Hai bàn tay gân xanh nổi chằng chịt, đó là mạng tĩnh mạch nóng vì cơn sốt. Cô run rẩy và đung đưa, chứ không phải lảo đảo, như một cành lau. Chiếc đèn kính từ phía dưới hắt ánh sáng lên người. Khuôn mặt đẹp của cô thật khó tả. Mái tóc lòa xòa. Trên má không có một giọt nước mắt nào. Đôi con ngươi chứa đựng cả ánh lửa và tăm tối. Cô xanh xao, thứ xanh trong suốt của thiên thần trên một khuôn mặt trần thế. Tấm thân kiều diễm lả lướt như lẫn lộn, như hòa tan trong nếp áo. Cả người cô dập dờn như một ngọn lửa leo lét. Nhưng đồng thời người ta cảm thấy cô đang bắt đầu chỉ còn là cái bóng. Đôi mắt cô mở to, sáng rực. Tưởng như đây là một bóng ma vừa thoát khỏi mộ địa và một linh hồn đứng giữa bình minh,  Uyêcxuyt mà Guynplên chỉ trông thấy lưng, đưa hai cánh tay lên trời, hoảng hốt:

- Con ơi? Ôi! Lạy Chúa tôi lại mê sảng rồi! Mê sảng! Ta sợ nhất chuyện ấy! Lẽ ra không được để xúc động mạnh vì như vậy có thể giết chết nó, nhưng lại cần phải có một cơn để nó khỏi điên. Chết, hoặc điên! Hoàn cảnh sao mà ác độc! Làm gì bây giờ, lạy Chúa tôi! Con ơi! Con lại nằm xuống đi!

Trong khi ấy, Đêa cứ nói. Tiếng cô gần như không rõ, y như có một lớp trời dày đặc ngăn chặn giữa cô và mặt đất.

- Bố ạ, bố nhầm rồi. Con có mê sảng tí nào đâu. Con nghe rõ tất cả những điều bố nói với con mà. Bố bảo có rất nhiều người đang chờ đợi, và tối nay con phải biểu diễn, con muốn thếlắm, bố thấy là con vẫn tỉnh đấy chứ, nhưng con không biết làm thế nào vì con đã chết. Vì Guynplên đã chết. Con thì dù sao con cũng ra. Con đồng ý biểu diễn. Con ra đây; nhưng Guynplên không còn nữa.

- Con ơi, - Uyêcxuyt nhắc lại - Nào, con nghe bố. Con hãy nằm lên giường đi.

- Anh ấy không còn nữa, anh ấy không còn nữa! Ôi! Sao mà đen tối thế này!

- Đen tối! - Uyêcxuyt lắp bắp - đây là lần đầu tiên nó nói đến chữ này!

Guynplên, như một cái bóng khẽ trườn không gây tiếng động, trèo lên bực lều gỗ, bước vào, với tay lấy tấm áo thủy thủ và chiếc lá sen, mặc vào, quàng lá sen, và từ trên lều bước xuống, nó vẫn bị che khuất bởi các thứ lủng củng, cái lều, cột buồm, và các thuyền cụ.

Đêa tiếp tục nói rất khẽ, cô mấp máy môi, và dần dần tiếng thì thầm ấy trở thành một điệu hát du dương. Với những chỗ gián đoạn và những sai sót do mê sảng, cô bắt đầu tiếng gọi bí mật đã bao lần cô nói với Guynplên trong vở Hồng hoang chiến bại. Cô cất tiếng hát, nghe mơ hồ, yếu ớt như tiếng ong bay.

Noche, quita te de alli La alba canta... [170].

Cô dừng lại:

- Không, không, con không chết. Con đang nói gì nhỉ? Than ôi! Con vẫn sống. Con vẫn sống, vậy mà anh ấy đã chết rồi. Con ở dưới trần, còn anh ấy ở trên kia. Anh ấy đi rồi, mà con vẫn ở lại. Con sẽ không còn nghe anh ấy nói, anh ấy bước. Chúa đã ban cho chúng con một ít thiên đường trên mặt đất. Người đã thu hồi nó lại, Guynplên ơi! Thế là hết. Con sẽ không còn cảm thấy anh ấy bên con nữa. Không bao giờ. Tiếng nói của anh ấy! Con sẽ không được nghe tiếng nói của anh ấy nữa.

Rồi cô hát:

Es menester a cielos sir... Dexa, quieto. A tu negro Caparafon[171]

Và cô chìa bàn tay ra như muốn tìm chỗ tựa trong cảnh vô biên.

Guynplên, xuất hiện bên cạnh Uyêcxuyt, làm ông sững sờ đột ngột, quỳ ngay xuống trước mặt Đêa.

- Không bao giờ! - Đêa nói- không bao giờ! Con sẽ không còn nghe tiếng anh ấy nữa!

Rồi cô hát, ngơ ngác:

Đê xa, quiero.

A to negro Caparazon!

Bỗng lúc ấy, cô nghe một giọng nói, giọng nói thân thương, đáp lại:

Aven! Ama!

Eres alma.

Sao corazon[172]

Cùng lúc ấy, Đêa cảm thấy dưới bàn tay mình mái đầu của Guynplên. Cô hét lên một tiếng không bút nào tả nổi:

- Guynplên!

Một ánh sáng tinh cầu thoáng hiện trên gương mặt xanh xao của cô, và cô lảo đảo.

Guynplên vội đỡ ngay lấy Đêa vào lòng.

- Sống rồi! - Uyêcxuyt hét to. Đêa nhắc lại: Guynplên!

Rồi gục đầu vào má Guynplên, cô nói rất khẽ:

- Anh lại xuống! Cám ơn.

Rồi ngửa cao vầng trán, ngồi trên đầu gối Guynplên, trong vòng tay siết chặt của anh: cô ngoảnh bộ mặt dịu hiền về phía anh, hướng thẳng vào mắt Guynplên đôi mắt tràn đầy bóng tối và tia sáng, như cô nhìn anh thật.

- Đúng là anh! - cô nói.

Guynplên hôn tới tấp lên tấm áo Đêa. Có những câu nói vừa là lời, vừa là tiếng thét, vừa là tiếng nức nở. Tất cả ngây ngất và tất cả đau khổ đều tan chảy và bùng nổ lẫn lộn trong đó. Nó không có một ý nghĩa gì cả nhưng nó lại chứa đựng đủ hết mọi điều.

- Phải, anh! Đúng anh! Anh, Guynplên đây! Người mà em là linh hồn, em hiểu không? Đúng anh, người mà em là con, là vợ, là sao sáng, là hơi thở! Đúng anh, người mà em là cuộc sống, đúng anh, người mà em là vĩnh cửu! Chính anh! Anh đây, anh đang ôm em trong đôi tay. Anh vẫn sống. Anh là của em. Ôi! Nghĩ đến lúc anh định kết liễu cuộc đời! Chỉ một phút nữa thôi! Giá không có Ômô! Rồi anh sẽ nói chuyện ấy em nghe. Thất vọng! Sao mà gần với niềm vui thế! Đêa ơi, chúng ta hãy sống! Đêa ơi, tha thứ cho anh nhé! Phải! Anh mãi mãi là của em! Em nói đúng, em hãy sờ vào trán anh, hãy tin chắc là anh. Giá mà em biết! Nhưng không gì có thể chia cách hai chúng ta nữa. Anh từ địa ngục bước ra và anh lại trở lên trời. Em bảo rằng anh xuống lại, không đúng đâu, anh lại lên chứ. Anh lại trở về với em. Mãi mãi, anh nói với em như thế! Cùng nhau! Chúng ta cùng sống bên nhau! Có ai ngờ lại thế! Chúng ta lại tìm thấy nhau. Toàn bộ tai họa đã hết rồi. Trước mắt chúng ta chỉ còn có mê say. Chúng ta sẽ lại bắt đầu cuộc sống hạnh phúc của chúng ta, và sẽ đóng chặt cửa để vận hạn không vào được nữa.

Anh sẽ kể em nghe tất cả. Em sẽ ngạc nhiên. Thuyền đã rời bến. Không một kẻ nào có thể làm cho con thuyền không ra đi. Chúng ta đang lên dường, và đang hưởng tự do. Chúng ta sang Hà Lan, chúng ta sẽ lấy nhau, anh không phải lúng túng trong việc kiếm sống, còn ai có thể ngăn cản điều đó nữa? Chẳng còn gì phải sợ hãi nữa. Anh tôn thờ em.

- Đừng có vội thế. - Uyêcxuyt ấp úng.

Đêa, lẩy bẩy và lướt bàn tay run run của thiên thần lên nét mặt nhìn nghiêng của Guynplên. Nó nghe Đêa nói một mình:

- Chúa cũng thế này đây- Đoạn cô sờ đến quần áo Guynplên.

- Tấm lá sen, - cô nói - chiếc áo thủy thủ. Không có gì thay đổi cả. Mọi thứ đều như trước.

Uyêcxuyt sững sờ, hớn hở, tươi cười, đầm đìa nước mắt, nhìn đôi trẻ và nói một mình:

- Ta chẳng hiểu gì hết. Ta là một thằng ngu ngốc u mê, Guynplên còn sống! Ta đã thấy nó bị vùi xuống đất!

Ta khóc, ta cười. Đấy là tất cả những gì ta biết. Ta cũng ngu si như trước khi ta đã yêu say đắm. Nhưng ta vẫn như vậy. Ta yêu ta quý cả hai đứa chúng nó. Thằng già cục súc! Tình cảm quá nhiều. Đó là điều ta lo sợ. Không, đó chính là điều ta muốn. Guynplên, con phải gượng nhẹ em con. Xét cho cùng, cứ mặc cho chúng hôn nhau. Việc ấy chẳng quan hệ gì đến ta. Ta chỉ tình cờ tham dự. Điều ta cảm thấy thật là buồn cười. Ta ăn bám vào hạnh phúc của chúng mà cũng đòi tranh phần. Ta chẳng đóng góp gì vào đấy cả, nhưng ta thấy hình như ta cũng có đôi chút công lao trong đó. Các con ơi, bố cầu mong các con hạnh phúc.

Trong lúc Uyêcxuyt độc thoại thì Guynplên thốt lên:

- Đêa ơi, em đẹp quá. Anh không biết mấy hôm nay đầu óc anh để đâu. Tuyệt đối chỉ có mình em trên cõi trần. Anh định thấy lại em và em vẫn chưa tin là thật. Trên chiếc thuyền này! Nhưng em nói anh nghe, chuyện gì đã xảy ra vậy? Và họ đã đẩy chúng ta vào tình cảnh thếnày đây! Hộp Xanh đâu rồi? Họ đã cướp đoạt chúng ta, rồi còn xua đuổi chúng ta nữa. Thật là đốn mạt. Hừ!

Anh sẽ trả thù cho bố, cho em! Đêa ơi, chúng nó sẽ biết tay anh. Anh là nguyên lão nghị viện Anh quốc.

Uyêcxuyt như bị một hành tinh thúc vào giữa ngực, lùi lại và chăm chú nhận xét Guynplên.

- Rõ ràng là nó không chết, nhưng nó có điên không?

Và ông ngờ vực lắng tai:

- Đêa ơi, em cứ yên tâm. Anh sẽ kiện lên nguyên lão nghị viện.

Uyêcxuyt lại ngắm nhìn nó và khẽ gõ gõ đầu ngón tay vào giữa trán.

Đoạn quyết định, ông nói khẽ:

- Không cần, rồi cũng sẽ qua hết. Mày cứ diễn nếu mày muốn, Guynplên ạ. Đó là quyền của con người, còn tao, tao rất sung sướng. Nhưng tất cả chuyện ấy là thế nào?

Thuyền vẫn lặng lờ trôi nhanh, trời đêm mỗi lúc một tối thêm, sương mù từ đại dương kéo đến tràn ngập cả đỉnh trời. Không một ngọn gió nào quét cả, dăm ngôi sao lớn mờ mờ tắt dần theo nhau, và sau một lúc, chẳng còn gì nữa, toàn bộ bầu trời tối đen, bao la và mát dịu. Lòng sông rộng ra, hai bờ trái phải, chỉ còn như hai vạch nhỏ màu nâu gần như hòa lẫn vào đêm tối. Từ toàn bộ bóng đen ấy toát lên một không khí êm ả sâu sắc. Guynplên ngồi nghiêng nghiêng, hai tay ôm chặt Đêa. Hai bên trò chuyện to nhỏ, khi ríu rít, lúc lại thì thầm. Một cuộc đối thoại tíu tít. Ôi niềm vui, làm sao tả được hết?

- Lẽ sống của em!

- Trời xanh của anh!

- Tình yêu của em!

- Tất cả hạnh phúc của anh!

- Guynplên!

- Đêa ơi, anh đang say đây. Cho anh hôn đôi chân của em.

- Đúng anh đây rồi

- Lúc này anh có quá nhiều điều muốn nói cùng một lúc. Anh không biết nên bắt đầu từ đâu.

- Anh hôn em đi!

- Ôi, vợ hiền của anh!

- Guynplên, anh đừng nói là em đẹp. Chính anh mới đẹp.

- Anh lại được gặp em, được bế em vào lòng. Đúng thế. Em là của anh. Không phải anh nằm mê. Đúng em đây mà. Có thể nào như thế không? Có. Anh lại làm chủ cuộc sống rồi. Đêa, giá mà em biết, có bao nhiêu chuyện đã xảy ra!

- Guynplên!

- Anh yêu em!

Và Uyêcxuyt lại lẩm bẩm:

- Ta đang sung sướng như một người ông.

Ômô đã chui ra khỏi gầm lều, và đi từ người nọ sang người kia, ý tứ, không đòi hỏi ai phải chú ý tới mình; nó đưa lưỡi liếm lung tung, lúc đôi giày Uyêcxuyt, lúc chiếc áo thuỷ thủ của Guynplên, lúc tấm áo dài của Đêa, lúc lại tấm đệm. Đấy là lối chúc mừng riêng của nó.

Thuyền đã đi quá Satam và cửa sông Metđuê. Sắp ra đến biển cả. Không gian tối mịt, thanh bình đến nỗi thuyền xuôi sông Tami không gặp một trở ngại gì hết. Không cần phải chèo lái gì lắm, cũng không phải gọi một thủy thủ nào lên boong. Đầu thuyền đằng kia, người chủ vẫn một mình bên cần lái điều khiển. Phía sau, chỉ mỗi mình ông ta; phía trước, chiếc đèn kính soi sáng nhóm người hạnh phúc, những con người từ đáy sâu hoạn nạn đột ngột trở thành diễm phúc, vừa làm nên việc nối ghép không ngờ đó. 

4. KHÔNG, TRÊN TRỜI CAO.

Thình lình, Đêa, vùng khỏi vòng tay Guynplên, thẳng người dậy. Cô áp hai bàn tay lên tim như để ngăn không cho nó đập.

- Em làm sao thế này?- cô nói - Em đang có một cái gì. Vui sướng làm em nghẹn ngào khó thở quá. Không sao. Tốt lắm. Ôi Guynplên của em, anh về, anh làm em xúc động quá. Xúc động vì hạnh phúc. Tất cả trời xanh ùa vào tim, đó là cả một niềm say sưa ngây ngất. Vắng anh, em cảm thấy như tắt thở.Đang lúc cuộc sống thật sắp ra đi, thì anh đem trả nó lại cho em. Lòng em như đau xé, cái đau xé của tăm tối, và em đã cảm thấy cuộc sống đã trào lên, một cuộc sống rực cháy, một cuộc sống nóng bỏng đầy hạnh phúc. Thật là kỳ diệu cuộc sống anh vừa ban cho em. Nó thần tiên đến mức hơi nhức nhối. Tưởng như linh hồn lớn lên và không sao nằm gọn được trong thể xác của ta. Cuộc sống thiên thần đó, niềm vui tràn ngập đó, dồn lên đến đầu em và thâm nhập vào người em.Em cảm thấy như có cánh đập trong lồng ngực. Em cảm thấy mình kỳ lạ nhưng vô cùng sung sướng. Guynplên ơi, anh đã làm em sống lại.

Mặt cô đỏ bừng, rồi tái mét, rồi lại đỏ bừng, và cô ngã vật xuống.

- Thôi rồi? - Uyêcxuyt hét lên - con đã giết nó.

Guynplên vội giang hai tay về phía Đêa. Còn cảm xúc nào mãnh liệt hơn nỗi cay đắng tột cùng xảy đến vào lúc say sưa cực độ! Bản thân Guynplên lẽ ra cũng ngã nhào nếunó không phải đỡ Đêa.

- Đêa, - nó run run hét thật to - em làm sao thế?

- Không sao cả. Em yêu anh. - cô nói.

Cô nằm gọn trong tay Guynplên như một mảnh áo nhặt được. Hai bàn tay cô buông thõng. Guynplên và Uyêcxuyt đặt Đêa nằm xuống đệm. Cô thều thào:

- Nằm thì em không thở được.

Hai người vội đỡ Đêa ngồi thẳng lên. Uyêcxuyt nói:

- Lấy cái gối!

Cô đáp:

- Gối làm gì? Con đã có Guynplên rồi.

Và cô ngả đầu lên vai Guynplên, anh ngồi phía sau đỡ cô, mắt đầy vẻ ngơ ngác bất hạnh.

- Ôi! Dễ chịu quá! - cô nói.

Uyêcxuyt nắm cổ tay cô và đếm mạch đập, ông không lắc đầu, cũng không nói không rằng, người ta chỉ có thể đoán được ý nghĩ của ông qua hàng mi chớp nhanh, giật giật, lúc mở lúc nhắm như để giữ cho nước mắt khỏi tuôn trào.

- Em con làm sao thế? - Guynplên hỏi.

Uyêcxuyt áp tai vào mạn sườn bên trái của Đêa.

Guynplên vừa sôi nổi nhắc lại câu hỏi vừa sợ Uyêcxuyt trả lời. Uyêcxuyt nhìn Guynplên rồi lại nhìn Đêa. Mặt ông tái nhợt. Ông nói:

- Lúc này chúng ta phải ngang với Cantơbiury rồi. Từ đây đến Grevơxen không xa lắm. Trời sẽ đẹp suốt đêm nay. Không sợ bị tấn công trên biển đâu, vì các tàu chiến đều ở trên bờ biển Tây Ban Nha. Chuyến đi của chúng ta sẽ tốt thôi.

Đêa, co dúm người và mỗi lúc một tái nhợt hơn, cứ vò nát tấm áo trong mấy ngón tay co quắp. Cô thở dài với vẻ trầm tư, rất khó tả và nói rất khẽ:

- Em hiểu là thế nào rồi.Em đang chết đây.

Guynplên đứng lên, nom thật khủng khiếp.

Uyêcxuyt đỡ Đêa.

- Chết! Em mà chết? Không, không có chuyện đó. Em không thể chết được. Chết bây giờ, chết tức khắc! Không thể được. Chúa không độc ác mà. Trả em về rồi bắt lại em cùng một phút! Không. Không có những chuyện đó. Như vậy là Chúa muốn người ta ngờ vực Chúa. Nếu vậy, tất cả sẽ là cạm bẫy, đất, trời, nôi trẻ, sữa mẹ,lòng người, tình yêu, sao sáng! Nếu vậy Chúa sẽ là một tên phản bội và con người là kẻ bị lừa dối! Nếu vậy cần phải sỉ vả tạo hóa! Nếu vậy tất cả sẽ là vực sâu! Em không hiểu điều em nói? Đêa ơi! Em phải sống. Anh đòi hỏi em phải sống. Em phải nghe lời anh, anh là chồng của em, anh là chủ của em. Anh cấm em rời bỏ anh, ôi trời cao đất dày! ôi loài người khốn khổ! Không, điều đó không thể có được. Và anh sẽ phải ở lại trên trái đất này sau khi em ra đi. Điều đó quái gở quá đến nỗi sẽ không còn mặt trời nữa. Đêa, Đêa, em hãy tỉnh dậy. Đây chỉ là một giây lát lo sợ, rồi nó sẽ trôi qua. Đôi khi người ta cũng rùng mình, rồi người ta có nghĩ đến nữa đâu. Anh muốn em phải khoẻ mạnh và không đau đớn nữa. Em mà chết sao! Anh đã làm gì em? Cứ nghĩ đến đó là anh mất hết cả lý trí. Chúng ta sống vì nhau. Chúng ta yêu nhau. Em không có lý do gì để ra đi cả. Điều đó sẽ rất bất công. Anh có phạm tội ác gì không. Vả lại em đã tha thứ cho anh rồi kia mà. Ôi! Khi không muốn anh thành một đứa thất vọng, một tên khốn kiếp, một kẻ điên khùng, một người bị đày đọa! Đêa ơi! Anh xin em, anh cầu van em, anh chắp tay lạy em, em đừng chết.

Vò hai nắm tay co quắp trong nắm tóc, hấp hối vì kinh hoàng, ngại thở vì thổn thức, Guynplên sụp xuống chân Đêa.

- Anh Guynplên của em ơi, - Đêa nói - đâu phải lỗi của em.

Một ít bọt mép hồng tươi xùi ra trên môi cô.

Uyêcxuyt vội lấy vạt áo dài lau đi, không để cho Guynplên đang quỳ trông thấy. Guynplên vẫn ôm hai bàn chân Đêa và van xin cô với một lời lẽ hỗn độn.

- Anh bảo với em là anh không muốn thế. Em mà chết? Anh không đủ sức chịu đựng điều đó đâu. Chết, đồng ý, nhưng phải cùng chết. Không có cách nào khác. Em mà chết sao, Đêa! Anh không thể nào đồng ý đâu. Thiên thần của anh! Em yêu quý của anh, em nên hiểu là anh còn đây. Anh cam đoan với em là em sẽ sống. Chết? Nhưng như thếem không thể hình dung anh sẽ ra sao sau khi em chết. Nếu em hiểu được rằng, anh không thể nào để mất em, thì em sẽ thấy nhất thiết không thể chết được, Đêa ơi! Anh chỉ có một mình em, em thấy không. Những gì đã xảy đến với anh thật là kỳ lạ. Em không tưởng tượng nổi là anh vừa đi suốt cả đường đời trong có mấy tiếng đồng hồ. Anh đã nhận thấy một điều là chẳng có gì cả. Em, chỉ mỗi mình em, là tồn tại. Không có em, vũ trụ trở thành vô nghĩa. Em hãy ở lại. Em hãy thương anh. Em đã yêu anh thì em phải sống. Anh vừa tìm thấy lại em là để gìn giữ em. Em hãy chờ một chút. Người ta không thể nào ra đi như vậy, khi chỉ mới sống bên nhau trong chốc lát. Em đừng nôn nóng. Ôi lạy Chúa, con đau khổ quá đỗi. Em không giận anh phải không? Em thừa hiểu là anh không thể nào làm khác vì lão thiết trượng đã đến tìm anh. Rồi em xem, chốc nữa em sẽ dễ thở hơn. Đêa ơi, mọi việc vừa được ổn định. Chúng mình sắp hạnh phúc rồi. Em đừng bắt anh phải thất vọng. Đêa, anh có làm gì em đâu!

Những lời trên đây không phải được nói lên, mà nghẹn ngào, nức nở. Trong đó cảm thấy có cả chán nản lẫn với nổi loạn. Từ lồng ngực Guynplên thoát ra một tiếng rên rỉ quyến rũ của chim câu và một tiếng gầm thét có thể khiến cho sư tử phải lùi bước.

Đền đáp lời Guynplên bằng một giọng nói mỗi lúc một thều thào, hầu như tiếng nào cũng phải dừng lại:

- Than ôi! Vô ích. Anh thân thương của em, em thấy rõ là anh đã làm hết sức mình. Cách đây một giờ, em chỉ muốn chết, giờ đây em không muốn nữa. Anh Guynplên ơi, anh Guynplên yêu quý của em ơi, trước đây chúng mình hạnh phúc biết chừng nào! Chúa đã đặt anh vào cuộc đời của em, bây giờ Chúa lại rút em ra khỏi cuộc đời của anh. Vì vậy mà em phải ra đi. Anh sẽ mãi mãi nhớ đến Hộp Xanh, phải không anh? và đến em Đêa đáng thương, bé bỏng, mù lòa của anh chứ? Anh sẽ nhớ đến bài hát của em. Anh đừng quên giọng hát của em nhé, đừng quên cái cách em nói với anh: Em yêu anh! Đêm đêm, khi anh ngủ, em sẽ trở về nói lại với anh câu đó. Chúng ta đã gặp lại nhau, niềm vui như vậy là đã quá lớn lao rồi. Nó phải chấm dứt ngay lập tức. Dứt khoát chính em phải ra đi trước. Em rất yêu bố Uyêcxuyt và anh Ômô của chúng ta. Tất cả mọi người đều tốt, ở đây thiếu không khí quá. Mở cửa sổ ra đi. Anh Guynplên ạ, em không nói với anh là em ghen, nhưng vì một hôm có một người đàn bà đã đến. Anh cũng không biết em định nói ai, phải thế không? Đắp kín cánh tay lại cho em. Em thấy hơi lạnh. Còn Fibi? Và Vinơx? Đâu cả? Tóm lại ta yêu quý tất cả mọi người. Ta xem là bạn những người ta thấy hạnh phúc. Ta biết ơn họ đã có một lúc ta thỏa mãn. Tại sao tất cả những chuyện ấy lại xảy ra? Em không hiểu rõ những gì đã xảy ra hai hôm nay. Giờ đây em chết. Cứ để em trong tấm áo dài của em. Trước đây, khi mặc nó, em vẫn nghĩ nó sẽ là tấm vải liệm của em. Em muốn gìn giữ nó. Trên đó có những nụ hôn của Guynplên. Mặc dầu vậy em vẫn rất muốn sống thêm. Cuộc đời của chúng ta trong chiếc lều nghèo nàn ngày ngày lăn bánh sao mà êm đẹp thế. Suốt ngày ca hát chẳng bao giờ phải xa cách nhau! Em thấy hình như em cùng ở trong một đám mây với cả nhà, em hiểu thế tất cả, em phân biệt được ngày này với ngày khác, mặc dầu em mù, em vẫn nhận ra buổi sáng vì em nghe có tiếng Guynplên, em nhận ra ban đêm vì em mơ thấy Guynplên. Khi cảm thấy quanh em có một lớp vỏ ngoài bao bọc, đó là linh hồn của Guynplên. Chúng ta tôn thờ nhau một cách dịu dàng êm ái. Tất cả những thứ đó bỗng tan bay và sẽ không còn lời ca giọng hát nữa. Than ôi! Thế là không thể nào sống được nữa? Anh muôn vàn yêu quý của em, anh sẽ tưởng nhớ đến em mãi mãi nhé!

Giọng Đêa yếu dần. Cảnh hấp hối từ từ một cách bi thảm đang lấy mất hơi thở của cô. Cô gập ngón tay cái lại dưới các ngón khác, dấu hiệu sắp trút giây phút cuối cùng. Tiếng ấp úng của thiên thần chớm hiện dường như được phát qua tiếng thở dốc nhẹ nhàng của người trinh nữ.

Đêa thì thầm:

- Cả nhà sẽ nhớ phải không, vì sẽ buồn tủi biết chừng nào nếu em chết mà chẳng ai thương nhớ đến em. Cũng có đôi lần em độc ác. Em xin lỗi cả nhà. Em tin chắc rằng nếu Chúa muốn, vì chúng ta không chiếm nhiều chỗ lắm, chúng ta còn có thể hạnh phúc, anh Guynplên của em ạ, vì ta sẽ kiếm đủ sống và ở bên nhau tại một đất nước khác, nhưng Chúa lòng lành đã không muốn thế! Em hoàn toàn không biết tại sao em lại chết. Vì em có bao giờ phàn nàn về việc em mù, em không hề xúc phạm đến ai cả. Em không đòi hỏi gì hơn là được mãi mãi mù lòa bên anh. Ôi! Buồn tủi biết bao khi phải rời bỏ ra đi!

Giọng nói của Đêa hổn hển và tắt dần, tắt dần từng tiếng một như có người thổi tắt. Hầu như không còn nghe được cô nói gì nữa.

- Guynplên! - Đêa lại tiếp - phải không anh? Anh sẽ tưởng nhớ đến em nhé! Khi em chết rồi, em cần được như thế lắm.

Và cô thêm:

- Ôi! Giữ tôi lại!

Và sau một lúc im lặng, cô nói:

- Anh đến với em nhé, càng sớm càng tốt. Thiếu anh, em sẽ vô vàn đau khổ, dù cho có Chúa kề bên. Anh Guynplên hiền dịu của em, anh đừng để em phải cô đơn lâu quá nhé. Chính đây mới là thiên đường. Trên kia chỉ là trời xanh, ôi! Em nghẹn thở! Anh yêu quí của em, anh yêu quí của em, anh yêu quí của em.

- Tha thứ cho anh! - Guynplên hét lên.

- Vĩnh biệt! - Đêa nói.

- Tha thứ cho anh! - Guynplên nhắc lại và áp chặt mồm vào đôi bàn tay giá lạnh của Đêa.

Trong một lúc, dường như cô không thở nữa. Rồi cô chống khuỷu tay, cô gượng dậy, một tia chớp sâu thẳm lướt qua mắt cô, trên môi cô thoáng một nụ cười rất khó tả. Cô bật lên, sinh động.

- Ánh sáng! - cô hét to - Em nhìn thấy rồi!

Đoạn cô tắt thở.

Cô đổ xuống, nằm dài, thẳng đờ trên đệm.

- Chết rồi. - Uyêcxuyt nói.

Ông già phúc hậu đáng thương, như rã rời trước thất vọng, gục mái đầu hói xuống và vùi gương mặt nức nở vào những nếp áo ở chân Đêa, ông ngồi đó, ngất lịm. Lúc này, nom Guynplên thật khủng khiếp.

Nó đứng ngay lên, ngẩng cao vầng trán, và nhìn thẳng vào bầu trời đêm bao la trên đầu. Đoạn, không ai trông thấy, nhưng trong cảnh tối tăm đó có lẽ cũng vẫn được một kẻ vô hình nào đó nhìn thấy, Guynplên giơ hai bàn tay về phía trời cao và nói:

- Anh đến với em đây!

Rồi lững thững trên boong, Guynplên đi thẳng về phía mạn thuyền, như có một hình ảnh nào đó cuốn hút.

Cách mấy bước là vực sâu, Guynplên đi thong thả, không nhìn xuống chân. Trên môi nó là nụ cười ban nãy của Đêa. Guynplên bước thẳng tới trước mặt. Dường như nó đang nhìn thấy một cái gì đấy. Trong con người của Guynplên, có chút ánh sáng mờ mờ như phản quang của một linh hồn thấp thoáng xa. Nó bỗng hét to:

- Có anh!

Mỗi bước, Guynplên mỗi gần mạn thuyền. Nó bước đều đều, tay giơ cao, đầu ngửa ra sau, mắt nhìn chằm chằm với một động tác ma quái.

Không vội vã, không do dự, Guynplên bước tới một cách vững vàng, rùng rợn tưởng như trước mặt không có cái vực sâu thẳm và nấm mồ mở rộng.

Nó thì thào:

- Em cứ yên tâm. Anh đang đến với em đây. Anh thấy rõ dấu hiệu em vẫy anh.

Guynplên không rời mắt khỏi một điểm trên trời, chỗ cao nhất của bóng tối. Nó mỉm cười.

Bầu trời đen kịt, không còn ánh sao, nhưng tất nhiên Guynplên vẫn nhận thấy một tinh cầu.

Nó vượt qua boong thuyền. Sau mấy bước rắn rỏi và rùng rợn, nó đến sát mép thuyền.

- Anh đang đến đây. Đêa, có anh đây.

Guynplên vừa nói vừa bước tiếp. Không có lan can. Trước mắt là khoảng không, Guynplên đặt chân vào đó.

Nó ngã nhào xuống.

Đêm tối dày đặc, vô tình, nước sâu thăm thẳm, Guynplên chìm ngỉm. Một cảnh mất tăm âm thầm bình thản. Chẳng ai trông  thấy gì. Chẳng ai nghe thấy gì. Thuyền tiếp tục trôi. Dòng sông tiếp tục cuộn chảy. Lát sau con thuyền ra đến đại dương.

Khi Uyêcxuyt tỉnh lại thì Guynplên đã không còn, chỉ thấy, cạnh mép thuyền, Ômô đứng sủa trong bóng tối mắt nhìn ra biển khơi[173].

Hết

[1] Giotem (Je t’s Aime): Anh yêu em hoặc Em yêu anh.

[2] Nguyên văn: Vauxhali: Cầu bê (ý nói cầu quán bán bê) vì focxhon (fox-hall) tiếng Anh là cầu chồn.

[3] Balling green. Bãi cỏ, bãi sân.

[4] Chúng ta hãy bắt đầu từ con sói.

[5] Vexta(vesta): táo thần cổ La mã.

[6] Tức là quen lý luận và chuyên bán thuốc. Hai từ trên do chúng tôi đặt ra, vì nguyên văn: Jeratiocine et je médicamente. Hai động từ này do Vichto Hugo bịa ra, dựa vào hai từ raion (lý trí) và médicament (thuốc).

[7] Nguyên văn: Je pense et je panse. Hai động từ này hay ở chỗ đồng âm, chỉ dịch theo nghĩa.

[8] Chirurgus sum: tiếng La tinh: Tôi là nhà phẫu thuật.

[9] Tức là hạng có vách ngăn có độ bốn, năm chỗ ngồi.

[10] Xixêrông (Cicéron 106-43 trước công nguyên- nhà hùng bên cổ La mã.

[11] Blekgac (Blackguard) - tiếng Anh nghĩa tà thị vệ đen, bia gơ (blagueur) - tiếng Pháp nghĩa là cánh ba hoa.

[12] Nguyên văn trailler - tiếng Anh.

[13] Baal: thần của khu vực.

[14] Nguyên văn Tiếng Anh: Wapentahe.

[15] Oetminxtơ (Westminster ): Hạ nghị viện Anh.

[16] Một hình phạt thời xưa, tội nhân bị trói chất trên bàn quay, tứ chi buộc nào bốn con ngựa...

[17] Bách trưởng, trong đoàn Một trăm người.

[18] Tiếng La tinh: về tất cả khoa mục có khả năng nhận thức được.

[19] Tên ba hoa, mày hãy tự bào chữa lấy cho mày.

[20] Ba tiến sĩ làm thành một.

[21] Một loại rắn hoang đường. Tục truyền chỉ nhìn nó cũng đủ chết người.

[22] Giuđa kẻ đã vì tiền phản bội Chúa Giê-su.

[23] Họa mi ỉa ra tai họa của nó.

[24] Con chó ba đầu giữ cửa âm phủ.

[25] Tức Thái lan ngày nay.

[26] Ann D’ Autriche, sức cơ vua Luy XIII, làm phụ chính cho con là vua Luy XIV.

[27] Tiếng Tây Ban Nha: người hầu.

[28] Nguyên bản: tưởng trèo lên núi Olympe (thần sơn) mà lại tới Bedlam (bệnhviện tâm thần làm phúc nổi tiếng ở Luân Đôn).

[29] Abyssus abyssum vocat: Tiếng La tinh: thành ngữ mượn trong Thánh thi Đavit (XLI.8) có nghĩa là vực sâu lại gọi vực sâu, tội lỗi này kéo theo tội lỗi khác.

[30] Philêmông và Bôxi tượng trưng cho tình vợ chồng. Còn Đapni và Clôe là hai em bé bị bỏ rơi, cùng những người chăn cừu nuôi từ bé, dần dần chúng yêu nhau rồi lấy nhau (truyện của Longgus).

[31] Ipôcrat (Hippocrate)- nhà đại danh y Cổ Hy Lạp.

[32] Pimaliông (Pygmalion) là nhà điêu khắc nổi tiếng của đảo Sip. Ông say mê bức tượng Galatê của ông. Bức tượng được nữ thần Vệ nữ hoá phép thành người và lấy Pimaliông làm chồng.

[33] Ađônix (Adonis): Một vị thần trong thần thoại Hi Lạp nối tiếng đẹp trai.

[34] Nhafrông (Grafron) một anh thợ khâu giày trong các kịch rối.

[35] Antinôux (Antinolis): một thanh niên xứ Bitini, nổi tiếng đẹp trai.

[36] Giuypite (Jupite): thần 1ớn nhất trong thần thoại Hi Lạp.

[37] Apôlông (Apollon): thần Mặt trời.

[38] (Mèduse): theo thần thoại Hy Lạp, là một nữ quái có mái tóc rất đẹp, nhưng vì xúc phạm thần Minecvơ nên bị Minecvơ hoá phép phạt. Mặt Mêduydơ thành xấu xí, mỗi sợi tóc thành một con rắn, mắt nhìn ai thì người đó hoá đá.

[39] Tiếng La tinh - công lý thầm lặng.

[40] Tiếng La tinh - khi người ta ra lệnh cho mày đi ra thì hãy đứng dậy.

[41] Định túc số (Quorum): số hội viên được tối thiểu qui định để hội nghị họp, thảo luận và quuyết nghị được hợp lệ.

[42] Tiếng La linh: pháp luật, nhà vua.

[43] Habeas corpus: Tên một đao luật ra xưa ở nước Anh. Buộc phải đưa người bị bắt ra pháp đình để xét xử xem người ấy quả có tội hay không.

[44] Giuyxtiniêng (Justinien) hoàng đế phương Đông từ năm 527 đến năm 565.

[45] Chó sủa, đội trưởng im lặng - xử sự như đội trưởng cũng là im lặng.

[46] Hoàng đế làm thinh.

[47] Chúng ta có nhiều đội trưởng, họ cứ im lặng là sẽ thành đội trưởng.

[48] Phong tục cũ Normăngđi,. MS. Phần I, mục I, chương II.

[49] Trong hiến chương của Luy Hutin cho người Normăng (Luy VII).

[50] Đội trưởng cầrn đũa sắt (nay là thừa phát lại)

[51] Mixtêkơ (Mistake) tiếng Anh.

[52] Dogs and boys (tiếng Anh): chó và trẻ con.

[53] Giăng Vô thổ (Jean San Terre), sinh năm 1167, làm vua nước Anh từ năm 1199 đến 1216. Vì bố đã chia hết đất đai cho các con đầu lúc ông còn bé, nên ông được mệnh danh như thế.)

[54] Ghêt(Gate, tiếng Anh): cửa có song sắt.

[55] Tiếng la tinh: Người ma ám, giãy giụa trong địa ngục đầy ma. Người quỉ ám, chỉ có một quỉ quấy rầy.

[56] Tháp Luân Đôn (Tuor de Londres): nhà tù chính của nước Anh thời ấy.

[57] Danh tiếng và rất tôn kính.

[58] Dự án nói đúng.

[59] Chúng tôi không biết.

[60] Tiếng Latinh: Họ bị các quan chức giữ trật tự dẫn đến cửa

[61] Ám chỉ Bruke, đảng viên một đảng cách mạng thành lập năm 1861, chủ trương tách xé lêclăng khỏi sự đô hộ của nước Anh. Hiện nay là đảng Sin Fêin đã dành được độc lập cho lêclăng năm 1937.

[62] Cripanhơ (Cripagne): cái khố.

[63] Viên đình lại nhắc lại bằng tiếng La- tinh lời quận trưởng đã nói ở trên.

[64] Hoang phí, phàm ăn, vô độ, dâm đãng, ma cô, nghiện rượu, hoang dâm, nói dối, phá gia chi tử, hư ăn. nếm rượu và tham ăn.

[65] Hiến chương nước Anh.

[66] Xiềng xích. hố huyệt và đinh ba, cùng các quyền khác.

[67] Khắc nghiệt và cứng rắn.

[68] Các loại xiềng xích hợp pháp.

[69] Đây là những hình phạt nhịn ăn cao nhất

[70] Thêm việc tăng nhịn vào việc giảm thức ăn. Phong tục nước Anh.

[71] Cái chết của bị cáo là một sự tôn kính đối với pháp luật công bình. đối với pháp luật tốt.

[72] Một loại cầy, mình dài mồm nhọn.

[73] Mồm rạch đến tận tai.

[74] Theo lệnh nhà vua

[75] Tiếng la tinh : Mày bán trẻ con, tên mày là ăn trộm.

[76] Tức nhiệm vụ mở các chai lọ trôi giạt trên mặt biển

[77] Et se cupit ante videri (tiếng la tinh): và nó chỉ muốn

[78] Laxone (Lacenaire).

[79] Ximăngca (simanca): Thành phố nhỏ ở Tây Ban Nha có nhiều nhà bảo tàng quan trọng

[80] Chúng tôi rút nó ra khỏi hàng nngũ nguyên lão. Nó rơi vào giai cấp bình dân.

[81] Corpora sunt(tiếng La tinh)sinh mệnh và chân tay của thần dân tùy thuộc vào nhà vua (Semboclen. phần hai. Chương IV trang 76)

[82] In abeyance (tiếng Anh): trong trường hợp không tường tin tức.

[83] Nil mirari (tiếng la-tinh): không có gì đáng ngạc nhiên.

[84] Masca ridens(tiếng tinh) Mặt nạ cười.

[85] Xibiri là vùng xa xôi, nổi tiếng rét mướt ở miền đông Liên Xô.

[86] Xênêgan là một nước rất nóng ở miền Tây châu Phi.

[87] Lãnh chúa lớn nhất

[88] Sarip và Xila là tên ngọn gió lốc và hòn đá ngầm nguy hiểm ở eo biến Messine. mà các thủy thủ ngày xưa rất sợ

[89] Turpe senilis amor (tiếng la tinh): tình yêu của người già đáng xấu hổ.

[90] Tiếng la tinh: quần chúng,  cặn bã của thành phố.

[91] Tiếng la tinh: Mong rằng rừng rú xứng đáng với tòa lãnh  sự.

[92] Mối nguy ba hoa

[93] Plaudite, cives (tiếng la tinh): xin các ngài hãy hỗ tay.

[94] Bos in linglua (tiếng la tinh): Bò trên lưỡi (ý bảo: không

nói được).

[95] Ơđip (Oedipe) một nhân vật trong thần thoạt Hy Lạp có tài đoán lời nói hiểm hóc.

[96]  Tường điếc có chuông câm

[97] Nguyên văn: Một giờ mất tự do là cả một thời gian vô tận

[98] Tiếng la tinh: Sau cái đó, chứ không phải vì cái đó (cách ngôn triết lý có nghĩa là hai sự việc liên tiếp không nhất thiết có liên quan với nhau).

[99] Pôngxơ Pilat (Ponoe - Pilate): Kẻ đã xử đóng đinh Giêsu trên cây thánh giá, mặc dầu biết Giêsu vô tội. Y sai đem nước đến và vừa rửa tay vừa nói: "Tôi không chịu trách nhiệm về máu của con người chính trực này"

[100] Bêcon (Bacon 1314-1294): Giáo sĩ Anh chuyên khảo cứu khoa học thực nghiệm và quang học từ thời Trung cổ.

[101] Tităng là nữ thần khổng lồ, muốn chất núi để lên đánh

trời, đánh lại các thiên thần, và đã bị Giuypite đánh chết.

[102] Fiat lux (tiếng la tinh): ánh sáng hãy bừng lên. Đây là lời Chúa phán khi Người sáng tạo ra ánh sáng (Sáng thế kỷ 1,3)

[103] Nhân vật trong chuyện thần tiên nước Anh.

[104] Tên người đàn bà đầu tiên, được chúa tạo nên, cùng với Ađam là người đàn ông đầu tiên.

[105] Canapé (tiếng Pháp): tràng kỷ.

[106] Tiếng la tinh: Trần truồng dưới ánh sáng rực rỡ.

[107] Kinh Corăng của Mahômê.

[108] Metxalin (Messaline) mẹ của Britaniquyx và Ôctavơ, nổi tiếng dâm đãng.

[109] Đian (Diane): nữ thần săn bắn, con của Giuypite. Được phép bố cho ở vậy suốt đời, nhưng sau cùng  yêu một người chăn cừu.

[110] Yungfrau (Jungfrau): đỉnh núi Anpơ cao 4.167 mét ở Beenơ (Thụy sĩ) quanh năm tuyết phủ.

[111] Xexhe (Cerbère): Con chó ba đầu canh gác đại ngục.

[112] Êbe(Hébé): trong thần thoại Hy lạp., Êbe, con gái của Giuypite và Giuynông, vợ của thần Ecquyn, là nữ thần của tuổi trẻ.

[113] Đamiêng(Đamiens): Người đã đâm Luy XV, và bị cực hình xé xác.

[114] Nguyên văn: mắt của Anđêbarăng (Aldébaran). Anđêbarăng là ngôi sao mầu da cam trong chòm sao Ngưu tinh (Taureau), có đường kính gấp 60 lần đường kính mặt trời.

[115] Nguyên văn: của Erèbe, tức là vùng tối tăm dưới đất, bên trên địa ngục, nơi các linh hồn tạm thời bị giữ để ăn năn chuộc tội.

[116] Hoàng Tuyền (Styx) con sông nhỏ chảy bảy vòng quanh địa ngục. Theo thần thoại Hy lạp, nước sông này làm cho da thịt không bao giờ bị đâm thủng. Têtix, mẹ Asi(Achille) đã cầm gót chân Asi nhúng xuống sông này.

[117] Bình minh (aurore): nữ thần đa tình của ban mai, có nhiệm vụ mở cửa phương Đông cho mặt trời.

[118] Vênuyx (Vénus) là nữ thần sắc đẹp và tình yêu, sinh ra từ bọt biển. Clêôpat (Cléopâtte) là nữ hoàng Ai cập nổi tiếng về tài trí và sắc đẹp. Bà Đơ Sơvrơ (Madarne de Chevreuse), 1600-1679, là một phụ nữ Pháp tài ba, dũng cảm, chống đối Risơliơ và Mazaranh. Bà Đơ Lôngơvin (Madame de Longueville) là một phụ nữ Pháp xinh đẹp, tài hoa, kẻ thù của Mazaranh.

[119] Xtuya (Stuart): một dòng họ xứ Êcôx, đã sản sinh cho cứ Êcôc mười bốn vị vua (mà người nổi tiếng nhất là Mari, nữ hoàng nước Pháp) và cho nước Anh sáu vị vua.

[120] Mêđê (Médéc): nữ  phù thuỷ trong truyền thuyết.

[121] Ngọn núi lửa ở đảo Xixin (Ý)

[122] Tại Đenph, một thành phô cố của Hy lạp, có một ngôi đền thờ thần Apôlông, Apôlông ban nhũng lời sấm qua mồm một nữ tăng tên là Piti.

[123] Pitông: con rắn kỳ quái, có  một trăm đầu phun ra lửa.

[124] Xiriuyx (Sirus) : ngôi sao to và rất sáng.

[125] Amphitơrit (Amphitrite): nữ thần biển cả, con gái củaĐại dương.

[126] Xiclôp (Cyclope)- Khổng lồ một mắt.

[127] Uyêcgien (urgefle); nàng tiên từ thiện, già và xấu. Khi được Rôbe hứa cưới là vợ liền hoá thành một cô gái diễm lệ.

[128] Riziô (Rizzio): nhạc sĩ Y được Mari Xtuya sủng ái, năm 1566 bị đâm ngay trước mặt Mari Xtuya, theo lệnh của Darnley, chồng thứ hai của nữ hoàng Êcôx.

[129] Êsin (eschyle): đại thi hào cổ Hy Lạp, thuộc thế kỷ thứ V trước công nguyên, sáng tạo thể văn bi kịch.

[130] Capitôn (Capitole): đền thờ thần Giuypite ở thành Capitôn, dựng trên đồi Capitolin ở Cổ La Mã.

[131] Tức nhà tù quốc gia của nước Anh thời ấy.

[132] Viện nguyên lão vốn yên tĩnh

[133] Lâu đài Oetminxtơ cũ, bị cháy năm 1834, và mới được xây dựng lại năm 1840 theo phong cách gôtic, nằm trên bờ sông Tami, dài 275 mét, là tru sở của nghị viện nguyên lão và hạ nghị viện.

[134] Phong primus haronetorum Anglioe (tiếng la tinh): vị tòng nam tước Anh quốc đầu tiên

[135] Liên bang hàng hải của năm hải cảng miền tây nam nước Anh. (Haxtinh, Đuvrơ, Xanđuysơ, Haiyh, Râmmê) trước cuộc xâm lược Normăngđi.

[136] Một phòng rộng liền với Cung nghị viện, và là tiền đình của Cung này.

[137] Tức là việc bánh và rượu hóa thành thịt và máu của Chúa

[138] Quốc dân hội nghị

[139] Một miền ở Bắc Đức

[140] Hạ đẳng quí tộc.

[141] Tức Guillaume le Conquérarư công tước Normăngđi. năm 1064 đã chính phục được nước Anh và làm vua nước Anh

[142] Đại hiến chương của nước Anh do vua Giăng Vô thổ ban hành năm 1215.

[143] Không van xin, không tiền bạc, không hối lộ, nghĩa là họ không được để bị mua chuộc. 

[144] "Quốc khố" tiếng Pháp là échiquler, vừa có nghĩa quốc khố, vừa có nghĩa bàn cờ. Vì vậy có câu tiếp sau.

[145] " Thất quốc (heptarchie): bảy nước do người Xăxơ (dân tộc Nhật Nhĩ Man xưa của Bắc Đức) và người Angơlơ tổ chức ở nước Anh vào thế kỷ thứ sáu, sau cuộc nhập khẩu của dân tộc Giecmanh.

[146] La Mêcơ (La Mecque): thủ đô Hồi giáo, ám chỉ nước Thổ Nhĩ Kỳ, nước đi chinh phục.

[147] Lute (Luther 1483 - 1546): Giáo sĩ Đức, sáng lập Tân Giáo (tức đạo Tin Lành)

[148] Wolsey: Hồng y giáo chủ người Anh, người đã tập trung cao độ mọi quyền hành chính trị và tôn giáo vào tay vua.

[149] Êlizabet (1533 - 1603):Nữ hoànganh (1533 -1603), con vua Hăngri V/II.

[150]  Ngày xưa phụ nữ châu âu mặc kiểu váy trong có một cái lồng làm cho váy to ra, từ hông trở xuống.

[151] Tức là khi bị giam tại nhà tù của nhà nước

[152] Hãy lắng nghe

[153] Về vấn đề tổ chức của Triều đình thiêng liêng.

[154] Thuộc đảng của phái Giăc đệ Nhị và dòng Xtuya

[155] kiểu như người gác cửa

[156] Có quyền hành về các cửa và rào chắn

[157] Aben và Caanh (Abe/, Cain): theo Thánh kinh, là hai anh em. con của Ađa và Êvơ. Về sau Caanh đã giết em là Aben

[158] Aristide (54O - 468 tước công nguyên): tướng và chính khácch cổ Hy Lạp, nổi tiếng về liêm khiết.

[159] Thomas Morus (1478-1535) Tư pháp đại thần Anh quốc năm I535 bi chặt đầu vì trung thành với đạo Thiên Chúa và không chịu công nhận giáo quyền của nhà vua. Ông tuyên bố "Không làm gì trái với lương tâm và cười cả lúc lên đoạn đầu đài".

[160] Nguyên văn tiếng Pháp là Bille (hòn bi) Bulle (bọt tấm xủi trên mặt nước. Hai từ ngữ Pháp này đọc tương tự hai từ bill và bulle ở dưới.

[161] Một loại áo dài mặc ngoài của người Ukrain

[162] Ngọn Thần Sơn ở Hy Lạp nhìn thấy đỉnh Côcaz

[163] Mirabô (Mirabeau 1749-1791): nhà đại hùng biện thời cách mạng Pháp. có tài hùng biện đặc biệt và trí sáng suốt về chính trị, nhưng không thành công trong sự điều giải quân quyền và cách mạng.

[164] Tên hát rong! Thằng hề!

[165] Bix (bis): tiếng hò reo thường dùng yêu cầu diễn viên diễn lại một tiết mục

[166] Cẩn thận. anh đang gặp nguy hiểm

[167] Lệnh vua

[168] Kiến trúc cổ xưa thường có những cái cột mà trên cùng là một đầu người.

[169] Job: Một nhân vật nghèo xơ xác trong kinh thánh.

[170] "Đêm tối hãy đi đi Bình minh đang ca hát"

[171] "Phải bay lên trời

Hãy trút bỏ em, em muốn thế

Cái vỏ đen bên ngoài

Của anh”

[172] " Ôi! Đến đây em!! Yêu đi em!

Em là linh hồn

Anh là trái tim"

[173] Phía dưới trang cuốn bản thảo Thằng Cười có ghi chú: "Viết xong ngày 23 tháng 8 năm 1868, hồi mười giờ ruỡi. Bruyxen, 4, Quảng trường Baricat. "Tác phẩm này, phần lớn viết tại Ghecnơxê, đã được khởi thảo tại Bruyxen, ngày 21 tháng Bảy năm 1866, và hoàn thành ngày 23  tháng Tám năm 1868"

Không có nhận xét nào: